Phụng Vụ - Mục Vụ
Thi ca suy niệm: Tuần Lễ Chúa Hiển Linh năm C
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
12:17 01/01/2019
(Mt. 2:1-12)
SAO MAI
Be-lem thuộc xứ Giu-đa,
Đêm thâu lặng lẽ, Chúa Cha quan phòng.
Bao năm mòn mỏi cầu mong,
Ngôi Con xuống thế, từ lòng Mẹ yêu.
Lều tranh vách đá cô liêu,
Đêm đông lạnh giá, thiên triều giáng lâm.
Mùi tanh hôi hám âm thầm,
Hạ sinh Con Chúa, thương tâm nghèo hèn.
Trời quang sao lạ đêm đen,
Ba nhà Đạo Sĩ, mon men bóng mờ.
Phục mình kính lạy tôn thờ,
Hiến dâng của lễ, đơn sơ vàng ròng.
Nhũ hương mộc dược tình trong,
Tỏa hương thơm ngát, trong lòng thánh nhân.
Tràn đầy tỏa sáng hồng ân,
Trở về chốn cũ, canh tân cuộc đời.
Hê-rô-đê ác rối bời,
Âm mưu sát hại, Vua Trời giáng lâm.
Nhỏ nhen ganh ghét tiểu tâm,
Mưu thâm ác độc, âm thầm giết oan.
Ngày Lễ Giáng Sinh, Chúa đã tỏ mình ra cho các mục đồng là những kẻ khó nghèo. Hôm nay Lễ Hiển Linh, Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ khôn ngoan. Họ đã dõi theo sao mai rạng chiếu tìm đến bên Chúa Hài Nhi. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ngôi sao lạ và họ đã đọc được dấu chỉ của trời cao. Họ đã nhất tâm đi tìm. Họ được diễm phúc gặp gỡ, bái kính và thờ lạy Vua Vũ Trụ, dưới hình hài một trẻ hài nhi bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ.
Thái độ của các nhà đạo sĩ là tâm tình của những con người chân thành. Họ tìm và gặp được Chúa. Họ thành kính dâng Chúa những lễ vật để tỏ lòng thành kính. Sau khi gặp được Chúa, các nhà đạo sĩ đã được biến đổi. Họ trở nên con người mới và tâm hồn họ đầy hoan lạc. Các nhà đạo sĩ quyết tâm xa lìa danh vọng trần thế. Họ đã tránh mưu kế thâm độc và nham hiểm của Hêrôđê. Họ đã tìm đường khác âm thầm trở về quê mình.
Trong khi thái độ của Vua Herôđê và dân quân thì khác hẳn thái độ của các đạo sĩ. Họ cũng nhận biết ngôi sao lạ xuất hiện và hiểu được Kinh Thánh loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng họ sợ sệt và ganh tị. Hêrôđê đầy uy quyền, sức mạnh và của cải đầy dư. Ông chỉ lo cho sự an toàn và ngôi báu của mình. Đấng Cứu Thế xuất hiện sẽ khuấy động cuộc sống an toàn của ông. Đôi khi chúng ta cũng giống như Vua Hêrôđê, chúng ta sợ đến gần Chúa. Chúng ta sợ phải từ bỏ những của cải, chức quyền và danh lợi thú. Chúng ta muốn kính nhi viễn chi và giữ khoảng cách với Chúa để khỏi phải phiền hà và bị quấy rầy. Có nghĩa là chỉ giữ đạo trung dung vừa phải để khỏi bị loại. Theo Chúa, chúng ta cần sống đạo trong tình yêu.
Chúa đã yêu thương chúng ta hết mình qua cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại. Hãy bước đến gần Chúa và ngước nhìn lên thánh giá, nơi Chúa chịu đóng đinh. Nay Chúa không dùng sứ thần hay ngôi sao lạ để dẫn đường. Chúa muốn dùng chính chúng ta là những người đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta hãy đem ánh sáng và niềm vui đến cho mọi người. Chúng ta hãy làm nhân chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày.
THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH
(Mt 4, 12-17. 23-25)
HỐI CẢI.
Tiền hô tống ngục nhà giam,
Nói lời chân thật, người phàm ghét ghen.
Gio-an nhân chứng muối men,
Rao truyền chân lý, ngợi khen Ngôi Lời.
Giê-su xuất hiện vào đời,
Bắt đầu rao giảng, Nước Trời ngay bên.
Ăn năn hối cải tội đền,
Cuộc đời thay đổi, xây nền vững tâm.
Quyết tâm xa lánh lỗi lầm,
Tin mừng giải thoát, giam cầm tự do.
Quyền năng Chúa chữa đừng lo,
Thân tâm bệnh hoạn, ban cho ơn lành.
Kinh phong quỉ ám hoành hành,
Xua trừ ám hại, Chúa đành đuổi xa.
Đoàn dân đông đảo ngợi ca,
Tin yêu một Chúa, mưa sa ơn trời.
THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH
(Mc 6, 34-44)
THƯƠNG XÓT
Động lòng thương xót đoàn dân,
Bơ vơ vất vưởng, gian trần khó nguy.
Yêu thương tỉnh thức tư duy,
Tin mừng giảng dạy, phát huy tấm lòng.
Say mê mòn mỏi xoay vòng,
Lắng nghe lời Chúa, trong lòng ấm êm.
Vì thương vất vả ba đêm,
Chữa hồn nuôi xác, ban thêm ơn lành.
Có năm cái bánh để dành,
Thêm hai con cá, biến thành thức ăn.
Năm ngàn tín hữu cùng ăn,
Mười hai thúng vụn, tự căn phúc trời.
Tình thương lai láng tuyệt vời,
Chúa ban ân phúc, mọi người no say.
Tạ ơn Thiên Chúa hằng ngày,
Bánh ăn nước uống, đời này đời sau.
THỨ TƯ SAU LỄ HIỂN LINH
(Mc 6, 45-52)
ĐỪNG SỢ
Thầy đây! đừng sợ hãi chi,
Quyền năng cao cả, từ bi vô ngần.
Thức đêm cầu nguyện ân cần,
Thuyền khơi ra bến, sóng dần nổi lên.
Môn đồ chèo chống hai bên,
Gió to sóng cả, dạt trên mũi tầu.
Chắp tay khấn vái nguyện cầu,
Xa kia bóng dáng, khấu đầu sợ lo.
Tưởng rằng ma quái rình mò,
Đi trên mặt nước, Thầy trò gặp nhau.
Yên tâm vững lái tiến mau,
Chính Thầy, đừng sợ, tới sau xum vầy.
Ngạc nhiên sự lạ tỏ bầy,
Quyền uy siêu việt, ơn Thầy tri ân.
Chúa ban phúc lộc nhân trần,
Tin yêu phó thác, tinh thần sướng vui.
THỨ NĂM SAU LỄ HIỂN LINH
(Lc 4, 14-22a)
ỨNG NGHIỆM
Hội Đường tụ họp lắng nghe,
Tin Mừng cứu độ, trưa hè truyền rao.
Mọi người mong mỏi khát khao,
Lắng nghe Lời Chúa, trên cao tuyệt vời.
Về làng quê cũ gọi mời,
Nơi Người sinh trưởng, rạng ngời biết bao.
Đọc lời Kinh Thánh được trao,
Thánh Thần Chúa ngự, dạt dào hồn tôi.
Loan tin giải thoát đền bồi,
Người mù được thấy, đơn côi vui mừng.
Nhiệt tâm nhà Chúa cháy bừng,
Hồng ân tuôn đổ, như rừng được mưa,
Hôm nay ứng nghiệm lời xưa,
Tiên tri loan báo, thuở xưa thực hành.
Dân làng kinh ngạc phúc lành,
Giê-su Cứu Thế, chính danh cao vời.
THỨ SÁU SAU LỄ HIỂN LINH
(Lc 5, 12-16)
PHONG CÙI
Phong cùi ghê gớm tránh xa,
Xấp mình khấn vái, lê la đến gần.
Xin Thầy cứu chữa vết sần,
Da cùi lở loét, thân trần sạch trong.
Niềm tin phó thác thật lòng,
Chúa thương chữa sạch, cầu mong đáp tình.
Tin rằng sạch sẽ trong mình,
Tìm thầy tư tế, đệ trình chứng thư.
Tạ ơn Thiên Chúa nhân từ,
Đoái thương chúc phúc, an cư sống đời.
Rao truyền ân nghĩa cao vời,
Giê-su Con Chúa, xuống đời độ nhân.
Bệnh nhân tuôn đến cầu thân,
Xin Ngài tẩy xóa, canh tân cuộc đời.
Thành tâm đón nhận ơn trời,
Dục lòng tôn kính, tin Lời Chúa ban.
THỨ BẢY SAU LỄ HIỂN LINH
(Ga 3, 22-30)
THANH TẨY
Giê-su thanh tẩy nước nguồn,
Hồng ân chan chứa, mưa tuôn vào hồn.
Nước trong rửa sạch xác hồn,
Thần Linh thánh hóa, sứ ngôn thi hành.
Từ trên ban xuống ơn lành,
Ki-tô Cứu thế, nổi danh trong vùng.
Tội nhân dõi bước đến cùng,
Xin Ngài thanh tẩy, bao dung phận người.
Môn đồ tranh luận đôi lời,
Gio-an hóa giải, ơn trời phú ban.
Tiền hô dọn chỗ trần gian,
Tân lang chính thức, phá tan tội đời.
Nước nguồn xóa sạch lòng người,
Ban nguồn cứu độ, Ngôi Lời Chúa Con.
Bao năm dân chúng mỏi mòn,
Đợi trông Chúa đến, sắt son một lòng.
Ánh Sao cứu độ
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
18:04 01/01/2019
Chúa Nhật CHÚA LỄ HIỂN LINH, năm C
Mt 2,1-12
Mỗi năm mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta cũng như người Do Thái xưa nhìn lên trời để mong gặp được ngôi sao la, ngôi sao năm nào đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến gặp Hài Đồng Giêsu nơi Hang đá Bêlem.
Ba nhà đạo sĩ nói :” Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông “ ( Mt 2,2 ). Hài Nhi Giêsu la Thiên Chúa đã mặc xác phàm, hóa kiếp làm người, nhập thể trong cung long trinh khiết của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, rồi người đã chấp nhận được sinh ra nơi cảnh nghèo nàn trong Hang đá máng lừa. Theo các nhà chiêm tinh thời xưa, mỗi khi một nhân vật vĩ đại sinh ra thì nó thường được tiên báo bằng sự xuất hiện của ngôi sao lớn trên bầu trời. Nên, các nhà chiêm tinh thường dõi theo, nghiên cứu để hiểu vị nào đã sinh ra ở đời. Khi nhìn thấy ngôi sao lạ, ba nhà đạo sĩ phương Đông đã nhận ra Hài Nhi vừa mới sinh ra thật là Vua cứu thế, mà dân Do Thái hằng trông đợi.
Quả thực, dân Do Thái đã trông đợi Đấng cứu thế từ bao năm qua.Bởi vì, dân tộc của họ bị Đế quốc La Mã đô hộ, đàn áp. Dân chúng tản mác khắp bốn phương trời, họ luôn mong chờ một vị vua đến giải thoát họ khỏi sự thống trị của người La Mã, đồng thời quy tụ dân Israen tản mác khắp nơi về…Tuy nhiên, Đấng cứu thế là Chúa Giêsu khỏi phải như họ mong ước theo trí hiểu biết của họ. Đức Giêsu được ví như một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp :” Một vì sao xuất hiện từ Giacóp…” ( Ds 24,17 ) .Ngôn sứ Mikha cũng đã tiên báo :” Hỡi Bêlem, E1pratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israen “ ( Mk 5,1 ). Vâng, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đản sinh làm người. Dân Do Thái đã bao năm chờ đợi người. Nhưng khi chúa sinh ra, mọi người đều lãnh đạm, thờ ơ, không nhận biết người. Các Kinh sư, Biệt Phái, các Thượng tế càng không ngó ngàng tới Chúa. Đặc biệt Hêrôđê vì ích kỷ, vì địa vị nhỏ nhen đã đang tâm lừa dối các nhà đạo sĩ và ác tâm tiêu diệt Hài Nhi Giêsu. Chỉ có ba nhà đạo sĩ khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã hăng hái lên đường, hăm hở lên đường, quyết đi tìm Đấng Cứu Thế và rồi cuộc phiêu lưu đi tìm vua Giêsu, gặp trăm ngàn khó khăn trắc trở, họ vẫn kiên trì tìm gặp Hài Nhi.Họ đã khôn khéo làm cho Hêrôđê tin họ, và rồi họ đã không trở lại gặp Hêrôđê nữa khi họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Khi gặp được Hài Nhi Giêsu nơi Hang đá Bêlem, họ đã vui mừng, quỳ phủ phục thờ kính vua dân Do Thái, đồng thời dâng kính Hài Nhi những báu vật của phương Đông: vàng, nhũ hương, mộc dược. Ba nhà đạo sĩ đại diện cho lương dân đã triều bái vua Giêsu đến nỗi sau này có lần chúa Giêsu đã nói :” Từ Phương Đông, phương Tây có nhiều người đã được mời dự tiệc với Abraham.Isaac,Giacóp tre6mn nước trời “.
Lễ Chúa Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Lễ này ngày nay trên thế giới có nhiều nước mừng rất lớn. Lễ Giáng Sinh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt cho người Do Thái, thì Lễ Hiển Linh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt đối với dân ngoại. Vì thế, lễ này là lễ của chư dân.
Lễ Hiển Linh cũng là lễ truyền giáo. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi người, mọi nước, mọi dân thì việc rao giảng ấy cũng phải được chúng ta tiếp tục. Đức Giêsu thiết lập Nước Trời tại trần gian để xây dựng nên một vương quốc mới, một thế giới mới:” Thế giới hòa bình, chân lý, công bình.Thế giới mới beo sống chung với dê, với bò, trẻ con chơi với hổ, với rắn độc vv…”.Thế giới mới ấy chúng ta phải rao giảng.Đó là Tin Mừng mà chúng ta phải loan báo cho mọi người, cho thế giới.Đó là sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ mình ra cho nhân loại, cho lương dân.Xin ban thêm đức cho chúng con để chúng con can đảm loan báo Tin Mừng của Chúa cho nhiều người, để chúng con đem Chúa đến với muôn dân và để chúng con làm cho nhiều người nhận biết Chúa . Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lễ Chúa Hiển Linh xưa thường được gọi là lễ gì ?
2.Ba nhà đạo sĩ từ đâu lên đường đi tìm gặp Chúa ?
3.Ba nhà đạo sĩ mang theo những gì để triều bái Hài Đồng Giêsu?
4.Tại sao Hêrôđê lại tìm giết Hài Nhi Giêsu ?
5.Ba nhà đạo sĩ có trở lại gặp Hêrôđê không ?
Mt 2,1-12
Mỗi năm mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta cũng như người Do Thái xưa nhìn lên trời để mong gặp được ngôi sao la, ngôi sao năm nào đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến gặp Hài Đồng Giêsu nơi Hang đá Bêlem.
Ba nhà đạo sĩ nói :” Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông “ ( Mt 2,2 ). Hài Nhi Giêsu la Thiên Chúa đã mặc xác phàm, hóa kiếp làm người, nhập thể trong cung long trinh khiết của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, rồi người đã chấp nhận được sinh ra nơi cảnh nghèo nàn trong Hang đá máng lừa. Theo các nhà chiêm tinh thời xưa, mỗi khi một nhân vật vĩ đại sinh ra thì nó thường được tiên báo bằng sự xuất hiện của ngôi sao lớn trên bầu trời. Nên, các nhà chiêm tinh thường dõi theo, nghiên cứu để hiểu vị nào đã sinh ra ở đời. Khi nhìn thấy ngôi sao lạ, ba nhà đạo sĩ phương Đông đã nhận ra Hài Nhi vừa mới sinh ra thật là Vua cứu thế, mà dân Do Thái hằng trông đợi.
Quả thực, dân Do Thái đã trông đợi Đấng cứu thế từ bao năm qua.Bởi vì, dân tộc của họ bị Đế quốc La Mã đô hộ, đàn áp. Dân chúng tản mác khắp bốn phương trời, họ luôn mong chờ một vị vua đến giải thoát họ khỏi sự thống trị của người La Mã, đồng thời quy tụ dân Israen tản mác khắp nơi về…Tuy nhiên, Đấng cứu thế là Chúa Giêsu khỏi phải như họ mong ước theo trí hiểu biết của họ. Đức Giêsu được ví như một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp :” Một vì sao xuất hiện từ Giacóp…” ( Ds 24,17 ) .Ngôn sứ Mikha cũng đã tiên báo :” Hỡi Bêlem, E1pratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israen “ ( Mk 5,1 ). Vâng, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đản sinh làm người. Dân Do Thái đã bao năm chờ đợi người. Nhưng khi chúa sinh ra, mọi người đều lãnh đạm, thờ ơ, không nhận biết người. Các Kinh sư, Biệt Phái, các Thượng tế càng không ngó ngàng tới Chúa. Đặc biệt Hêrôđê vì ích kỷ, vì địa vị nhỏ nhen đã đang tâm lừa dối các nhà đạo sĩ và ác tâm tiêu diệt Hài Nhi Giêsu. Chỉ có ba nhà đạo sĩ khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã hăng hái lên đường, hăm hở lên đường, quyết đi tìm Đấng Cứu Thế và rồi cuộc phiêu lưu đi tìm vua Giêsu, gặp trăm ngàn khó khăn trắc trở, họ vẫn kiên trì tìm gặp Hài Nhi.Họ đã khôn khéo làm cho Hêrôđê tin họ, và rồi họ đã không trở lại gặp Hêrôđê nữa khi họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Khi gặp được Hài Nhi Giêsu nơi Hang đá Bêlem, họ đã vui mừng, quỳ phủ phục thờ kính vua dân Do Thái, đồng thời dâng kính Hài Nhi những báu vật của phương Đông: vàng, nhũ hương, mộc dược. Ba nhà đạo sĩ đại diện cho lương dân đã triều bái vua Giêsu đến nỗi sau này có lần chúa Giêsu đã nói :” Từ Phương Đông, phương Tây có nhiều người đã được mời dự tiệc với Abraham.Isaac,Giacóp tre6mn nước trời “.
Lễ Chúa Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Lễ này ngày nay trên thế giới có nhiều nước mừng rất lớn. Lễ Giáng Sinh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt cho người Do Thái, thì Lễ Hiển Linh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt đối với dân ngoại. Vì thế, lễ này là lễ của chư dân.
Lễ Hiển Linh cũng là lễ truyền giáo. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi người, mọi nước, mọi dân thì việc rao giảng ấy cũng phải được chúng ta tiếp tục. Đức Giêsu thiết lập Nước Trời tại trần gian để xây dựng nên một vương quốc mới, một thế giới mới:” Thế giới hòa bình, chân lý, công bình.Thế giới mới beo sống chung với dê, với bò, trẻ con chơi với hổ, với rắn độc vv…”.Thế giới mới ấy chúng ta phải rao giảng.Đó là Tin Mừng mà chúng ta phải loan báo cho mọi người, cho thế giới.Đó là sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ mình ra cho nhân loại, cho lương dân.Xin ban thêm đức cho chúng con để chúng con can đảm loan báo Tin Mừng của Chúa cho nhiều người, để chúng con đem Chúa đến với muôn dân và để chúng con làm cho nhiều người nhận biết Chúa . Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lễ Chúa Hiển Linh xưa thường được gọi là lễ gì ?
2.Ba nhà đạo sĩ từ đâu lên đường đi tìm gặp Chúa ?
3.Ba nhà đạo sĩ mang theo những gì để triều bái Hài Đồng Giêsu?
4.Tại sao Hêrôđê lại tìm giết Hài Nhi Giêsu ?
5.Ba nhà đạo sĩ có trở lại gặp Hêrôđê không ?
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phản ứng của Tòa Thánh trước vụ tấn công khủng bố tại Ai Cập giết chết 3 du khách người Việt Nam
Đặng Tự Do
05:24 01/01/2019
Một quả bom bên vệ đường đã phát nổ vào lúc 18g15 ngày 28/12, theo giờ địa phương, khi chiếc xe chở 15 khách du lịch Việt Nam và 3 người Ai Cập đi qua quận Al-Haram, cách quần thể kim tự tháp Giza chưa đến 4 km. Bộ Nội vụ Ai Cập cho biết quả bom được giấu sau một bức tường, cách chiếc xe 5 hay 6 mét. Trong số 4 người thiệt mạng có 3 du khách Việt Nam và một hướng dẫn viên người Ai Cập. Các du khách được tường thuật là đang trên đường đến một nhà hàng để ăn tối.
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt Đức Thánh Cha Phanxicô gởi điện chia buồn cho tổng thống Abdel Fattah Al Sisi của Cộng hòa Ả Rập Ai Cập.
Điện văn viết như sau:
Thưa ngài Abdel Fattah Al Sisi
Tổng thống Cộng hòa Ả Rập Ai Cập
Cairo
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã vô cùng đau buồn khi biết tin về vụ tấn công bằng bom hôm qua ở gần Giza. Đức Thánh Cha lên án hành động vô nghĩa và tàn bạo này, và cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ, cho những người bị thương và cho nhân viên cứu cấp đã quảng đại chạy đến giúp đỡ họ. Trong niềm tín thác rằng tất cả mọi người sẽ hoạt động để vượt qua bạo lực bằng tình liên đới và hòa bình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẩn xin các phước lành của Thiên Chúa trên đất nước và nhân dân Ai Cập.
+ Đức Hồng Y Pietro Parolin
Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Source: Holy See Press Office - The Holy Father’s condolences for the victims of the terrorist attack near Giza, Egypt, 29.12.2018
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt Đức Thánh Cha Phanxicô gởi điện chia buồn cho tổng thống Abdel Fattah Al Sisi của Cộng hòa Ả Rập Ai Cập.
Điện văn viết như sau:
Thưa ngài Abdel Fattah Al Sisi
Tổng thống Cộng hòa Ả Rập Ai Cập
Cairo
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã vô cùng đau buồn khi biết tin về vụ tấn công bằng bom hôm qua ở gần Giza. Đức Thánh Cha lên án hành động vô nghĩa và tàn bạo này, và cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ, cho những người bị thương và cho nhân viên cứu cấp đã quảng đại chạy đến giúp đỡ họ. Trong niềm tín thác rằng tất cả mọi người sẽ hoạt động để vượt qua bạo lực bằng tình liên đới và hòa bình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẩn xin các phước lành của Thiên Chúa trên đất nước và nhân dân Ai Cập.
+ Đức Hồng Y Pietro Parolin
Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Source: Holy See Press Office - The Holy Father’s condolences for the victims of the terrorist attack near Giza, Egypt, 29.12.2018
Quân Ai Cập giết chết 40 chiến binh Hồi Giáo để trả thù vụ đánh bom xe buýt chở du khách Việt Nam
Đặng Tự Do
05:46 01/01/2019
Một ngày sau khi một chiếc xe buýt chở du khách Việt Nam bị tấn công bằng bom gần kim tự tháp Giza, quân đội Ai Cập đã tung ra các cuộc hành quân trả đũa giết chết ít nhất 40 chiến binh Hồi Giáo bị nghi ngờ có dính líu ít nhiều đến vụ đặt bom.
Tuyên bố của Bộ Quốc Phòng Ai Cập nói 30 chiến binh Hồi Giáo bị giết gần Giza, trong khi 10 người khác bị giết gần Bắc Sinai
Lực lượng an ninh tin rằng các nghi phạm đang âm mưu tấn công ngành du lịch Ai Cập.
Bộ Quốc phòng Ai Cập cho biết 30 chiến binh bị nghi ngờ đã thiệt mạng trong các cuộc đột kích vào nơi ẩn náu của họ ở Giza, nơi quân đội tin rằng “các phần tử khủng bố” đang lên kế hoạch tấn công các tổ chức nhà nước và ngành du lịch.
10 cái chết khác xảy ra ở Bắc Sinai, nơi lực lượng an ninh Ai Cập đang phải vất vả chiến đấu với các tổ chức khủng bố chịu ảnh hưởng của bọn khủng bố Hồi Giáo IS.
Hai cuộc hành quân của quân đội tại Giza và Bắc Sinai đã diễn ra đồng thời. Các bức ảnh của Bộ Quốc Phòng Ai Cập cho thấy nhiều vũ khí và đạn dược đã bị tịch thu và được đặt bên cạnh thi thể của những chiến binh Hồi Giáo.
Source: ABC News Egyptian armed forces shoot dead 40 suspected terrorist militants after Giza roadside bomb attack
Tuyên bố của Bộ Quốc Phòng Ai Cập nói 30 chiến binh Hồi Giáo bị giết gần Giza, trong khi 10 người khác bị giết gần Bắc Sinai
Lực lượng an ninh tin rằng các nghi phạm đang âm mưu tấn công ngành du lịch Ai Cập.
Bộ Quốc phòng Ai Cập cho biết 30 chiến binh bị nghi ngờ đã thiệt mạng trong các cuộc đột kích vào nơi ẩn náu của họ ở Giza, nơi quân đội tin rằng “các phần tử khủng bố” đang lên kế hoạch tấn công các tổ chức nhà nước và ngành du lịch.
10 cái chết khác xảy ra ở Bắc Sinai, nơi lực lượng an ninh Ai Cập đang phải vất vả chiến đấu với các tổ chức khủng bố chịu ảnh hưởng của bọn khủng bố Hồi Giáo IS.
Hai cuộc hành quân của quân đội tại Giza và Bắc Sinai đã diễn ra đồng thời. Các bức ảnh của Bộ Quốc Phòng Ai Cập cho thấy nhiều vũ khí và đạn dược đã bị tịch thu và được đặt bên cạnh thi thể của những chiến binh Hồi Giáo.
Source: ABC News Egyptian armed forces shoot dead 40 suspected terrorist militants after Giza roadside bomb attack
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Ngày Hòa Bình Thế Giới
J.B. Đặng Minh An dịch
08:46 01/01/2019
Lúc 10h sáng thứ Ba mùng Một tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chào đón năm mới với thánh lễ trọng thể kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hoà Bình thế giới tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có đông đảo các vị trong giáo triều Rôma. Tham dự thánh lễ có các vị đại sứ trong ngoại giao đoàn và đông đảo các tín hữu ngồi chật bên trong đền thờ.
Giải thích ý nghĩa của ngày lễ này Đức Thánh Cha Phanxicô nói Phụng Vụ hôm nay mời gọi các tín hữu nhìn lên Đức Maria như một người Mẹ cho tất cả chúng ta và như một sứ giả của niềm hy vọng.
Trong năm Phụng Vụ “không có thời điểm nào có ý nghĩa hơn là ngày đầu một năm mới” để lắng nghe phúc lành của Thiên Chúa.
“Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!
Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”
(Dân Số 6:24-26)
Những lời tràn trề sức mạnh, đầy can đảm và hy vọng này sẽ đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trong Năm Mới. Đây không phải là một niềm hy vọng đầy ảo tưởng dựa trên những lời hứa yếu đuối của con người, hay một hy vọng ngây ngô giả định rằng tương lai sẽ tốt hơn hiện tại đơn giản chỉ vì nó là tương lai. Nhưng niềm hy vọng này có lý do của nó bắt nguồn từ phúc lành của Thiên Chúa, một phúc lành chứa đựng lời cầu chúc lớn nhất, lời cầu chúc của Giáo Hội gửi đến từng người trong chúng ta, tràn đầy tất cả sự chở che yêu thương của Chúa và sự trợ giúp quan phòng của Ngài.
Thông điệp của hy vọng trong phúc lành của Thiên Chúa, đã được thực hiện đầy đủ trong một người phụ nữ là Đức Maria, là người được chọn để trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên (Lc 2:18). Ngạc nhiên là điều chúng ta được yêu cầu hôm nay, khi kết thúc Tuần Bát Nhật Lễ Giáng Sinh, khi chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng Hài Nhi được sinh ra cho chúng ta, thiếu thốn tất cả mọi thứ nhưng tràn đầy tình yêu. Kinh ngạc là điều chúng ta nên cảm thấy vào đầu mỗi năm, vì cuộc sống là một ân sủng liên tục trao ban cho chúng ta những cơ hội để thực hiện một khởi đầu mới, ngay cả từ những hoàn cảnh thê thảm nhất.
Hôm nay cũng là một ngày để Mẹ Thiên Chúa ngạc nhiên. Thiên Chúa tỏ hiện trong hình hài một trẻ nhỏ, được giữ trong vòng tay của một người phụ nữ đang nuôi nấng Đấng Tạo Hóa của mình. Bức tượng trước mắt chúng ta mô tả Mẹ và Con rất gần nhau như thể dường như là một. Đây là mầu nhiệm mà chúng ta cử hành ngày hôm nay, là điều làm phát sinh cơ man những kinh ngạc: Thiên Chúa đã nên một với nhân loại mãi mãi. Thiên Chúa và con người luôn luôn bên nhau, đó là tin tốt lành của năm mới này. Thiên Chúa không phải là một vị chúa tể xa xôi, sống trong một sự cô lập lộng lẫy trên thiên đàng, nhưng là tình yêu nhập thể, được sinh ra bởi một người mẹ như chúng ta, để trở thành anh em với mỗi người chúng ta, để gần gũi với chúng ta: Ngài là Thiên Chúa gần gũi. Ngài say ngủ trong lòng mẹ mình, cũng là mẹ của chúng ta, và từ đó Ngài tuôn đổ lên nhân loại một sự dịu dàng mới. Như thế, chúng ta hiểu rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa, cả tình phụ tử và mẫu tử, như tình yêu của người mẹ không bao giờ ngừng tin tưởng vào con cái và không bao giờ bỏ rơi chúng. Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta, Emmanuel, yêu thương chúng ta bất chấp những sai lầm, tội lỗi của chúng ta và cách thức chúng ta đối xử với thế giới. Thiên Chúa tin vào nhân loại, bởi vì thành viên đầu tiên và ưu việt của nhân loại chính là Mẹ Ngài.
Vào ngày đầu năm, chúng ta hãy cầu xin Đức Maria ân sủng để ngạc nhiên trước Thiên Chúa của những bất ngờ. Chúng ta hãy canh tân sự kinh ngạc mà chúng ta cảm thấy khi đức tin được sinh ra lần đầu tiên trong chúng ta. Mẹ của Thiên Chúa giúp chúng ta: Mẹ đã sinh ra Chúa, giờ đây Mẹ trình diện con người đã được tái sinh của chúng ta trước mặt Chúa. Mẹ là một người mẹ tạo ra nơi con cái mình sự kinh ngạc của đức tin, bởi vì đức tin là một cuộc gặp gỡ, chứ không phải là một tôn giáo. Không có sự ngạc nhiên, cuộc sống và cả niềm tin cũng trở nên buồn tẻ và nhàm chán. Giáo hội cũng cần phải canh tân sự kinh ngạc của mình khi được là nơi Thiên Chúa hằng sống ngự trị, khi được là Hiền thê của Chúa, và được là một người Mẹ sinh ra những đứa con của mình. Nếu không, Giáo Hội có nguy cơ biến thành một bảo tàng viện đẹp của quá khứ. Một “Giáo Hội bảo tàng”. Trái lại, Đức Mẹ ban cho Giáo hội cảm giác về một ngôi nhà, một ngôi nhà nơi Thiên Chúa của sự mới mẻ ngự trị. Chúng ta hãy đón nhận với sự kinh ngạc mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa, như cư dân thành Êphêsô đã làm vào thời gian xảy ra Công đồng. Giống như họ, chúng ta hãy tung hô “Mẹ Thánh của Thiên Chúa”. Từ Mẹ, chúng ta hãy để cho mình được nhìn trìu mến, được ôm ấp, được nắm lấy bằng tay.
Hãy để chúng ta cho phép mình được nhìn trìu mến. Đặc biệt là trong những lúc cần thiết, khi chúng ta vướng mắc vào những gút mắt của cuộc sống, chúng ta hãy ngước mắt lên nhìn Đức Mẹ, là Mẹ của chúng ta. Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta nên để cho mình được Đức Mẹ nhìn trìu mến. Khi Mẹ dán mắt nhìn chúng ta, Mẹ không nhìn chúng ta như những tội nhân nhưng là con cái Mẹ. Người ta nói rằng đôi mắt là tấm gương của tâm hồn; đôi mắt của Đức Maria, đầy ân sủng, phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, cho chúng ta thấy một phản chiếu của thiên đàng. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng “đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6:22): đôi mắt của Đức Mẹ có thể mang ánh sáng đến mọi góc tối; ở mọi nơi đôi mắt ấy nhen nhóm hy vọng. Khi Mẹ nhìn chúng ta, Mẹ nói: “Yên tâm đi, con cái thân yêu; Mẹ đây, Mẹ của các con đây!”
Ánh mắt từ mẫu này, cấy trong chúng ta sự tự tin và phó thác, giúp chúng ta tăng trưởng trong đức tin. Đức tin là một mối dây ràng buộc với Thiên Chúa liên quan đến toàn thể con người, được dành riêng cho Thiên Chúa, nó cần đến Mẹ Thiên Chúa. Ánh mắt từ mẫu của mẹ giúp chúng ta thấy mình là những đứa con đáng yêu trong dân trung tín của Chúa, và yêu thương nhau bất kể những giới hạn và những đường lối cá nhân của chúng ta. Đức Mẹ giữ cho chúng ta đâm rễ trong Giáo hội, nơi sự hiệp nhất được coi trọng hơn sự đa dạng; Mẹ khích lệ chúng ta quan tâm lẫn nhau. Ánh mắt của Đức Maria nhắc nhở chúng ta rằng đức tin đòi hỏi một sự dịu dàng có thể giải thoát chúng ta khỏi sự lạnh nhạt thờ ơ. Dịu dàng: Giáo hội của sự dịu dàng. Sự dịu dàng là một từ mà ngày nay nhiều người muốn loại bỏ khỏi từ điển. Khi đức tin có chỗ dành cho Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ đánh mất cái nhìn hướng về trung tâm: là Chúa, vì Đức Maria không bao giờ chỉ vào chính mình nhưng Mẹ chỉ chúng ta hướng về Chúa Giêsu; và anh chị em của chúng ta, vì Đức Maria là một người mẹ.
Ánh mắt của Đức Mẹ, và ánh mắt của mọi người mẹ. Một thế giới nhìn về tương lai mà không có ánh mắt của một người mẹ thì thật thiển cận. Nó vẫn có thể làm gia tăng lợi nhuận của nó, nhưng nó sẽ không còn xem những người khác là con cái. Nó sẽ kiếm ra tiền đấy, nhưng không phải cho tất cả mọi người. Tất cả chúng ta sẽ ở trong cùng một nhà, nhưng không phải là anh chị em với nhau. Gia đình nhân loại được xây dựng dựa trên các bà mẹ. Một thế giới, trong đó sự dịu dàng từ mẫu bị giản lược thành một thứ tình cảm đơn thuần, có thể giàu có về mặt vật chất, nhưng nghèo nàn khi bàn đến tương lai. Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin dạy chúng con nhìn cuộc sống như Mẹ nhìn. Xin hãy hướng mắt nhìn đến chúng con, đến sự khốn khổ, nghèo đói của chúng con. Hãy hướng nhìn chúng con với đôi mắt thương xót của Mẹ.
Chúng ta hãy để cho mình được ôm ấp. Từ ánh mắt của Đức Maria, giờ đây chúng ta hướng về tâm hồn của Mẹ, trong đó, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Nói cách khác, Đức Mẹ đã giữ mọi điều trong trái tim; Mẹ đón nhận mọi thứ, mọi biến cố vui buồn. Và Mẹ suy đi nghĩ lại tất cả những điều này; Mẹ đã mang những điều ấy đến trước mặt Chúa. Đây là bí quyết của Mẹ. Cũng thế, giờ đây Mẹ sẽ ghi nhớ trong lòng cuộc sống của mỗi người chúng ta: Mẹ muốn đón nhận mọi tình huống của chúng ta và trình bày điều đó với Chúa.
Trong thế giới phân mảnh ngày hôm nay, nơi chúng ta có nguy cơ mất đi định hướng của mình, một vòng tay ôm của Mẹ là điều cần thiết. Có biết bao những phân tán và cô độc xung quanh chúng ta! Thế giới hoàn toàn kết nối, nhưng dường như ngày càng rời rạc. Chúng ta cần giao phó chính mình cho Mẹ của chúng ta. Trong Kinh thánh, Đức Mẹ chấp nhận bất kỳ tình huống cụ thể nào; Mẹ có mặt bất cứ nơi nào cần đến Mẹ. Mẹ đến thăm người chị họ Elizabeth; Mẹ giúp đỡ cặp vợ chồng mới cưới ở Cana; Mẹ khuyến khích các môn đệ trong Phòng Tiệc Ly, Đức Maria là một phương thuốc cho sự cô độc và phân tán. Mẹ là Mẹ của sự hợp nhất: Mẹ đứng chung với những người đang cô đơn. Mẹ biết rằng lời nói mà thôi thì không đủ để an ủi; sự hiện diện là cần thiết, và Mẹ hiện diện như một người mẹ. Chúng ta hãy để Mẹ ôm lấy cuộc đời của chúng ta. Trong Kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina), chúng ta gọi Mẹ là “cuộc sống” của chúng ta. Điều này có vẻ cường điệu, vì chính Chúa Kitô mới là “sự sống” (x. Ga 14: 6), nhưng Đức Maria hiệp nhất rất gần gũi với Chúa, và rất gần gũi với chúng ta, đến nỗi chúng ta không thể làm gì tốt hơn là đặt tay chúng ta vào trong tay Mẹ và nhìn nhận rằng Mẹ là cuộc sống của chúng ta, vui mừng và hy vọng của chúng ta.
Và trong hành trình của cuộc đời, chúng ta hãy để cho mình được nắm lấy bằng tay. Các bà mẹ bế con bằng tay và trìu mến đưa chúng vào cuộc sống. Nhưng có cơ man những con cái ngày nay đang lang thang và lạc lối. Khi nghĩ rằng họ mạnh mẽ, họ lạc đường; khi nghĩ rằng họ tự do, họ trở thành nô lệ. Có biết bao người, quên đi tình mẫu tử, sống trong giận dữ với chính mình và thờ ơ với mọi thứ! Thật đáng buồn khi nói rằng có biết bao nhiêu người phản ứng với mọi thứ và mọi người với một sự cay đắng và ác ý! Đời là thế. Tỏ ra thâm độc, thậm chí đôi khi dường như là một dấu chỉ của sức mạnh. Tuy nhiên, nó chẳng qua chỉ là yếu đuối. Chúng ta cần học hỏi từ các bà mẹ rằng chủ nghĩa anh hùng được thể hiện nơi sự tự hiến, sức mạnh cảm thông, và sự khôn ngoan trong hiền lành.
Chính Chúa cũng cần đến một người Mẹ thì chúng ta còn cần đến Mẹ biết ngần nào! Chính Chúa Giêsu đã ban Mẹ cho chúng ta, từ thập giá: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Ngài nói điều này với người môn đệ yêu dấu và với mọi môn đệ. Đức Mẹ không phải là một yếu tố phụ tùy chọn: Mẹ phải được chào đón vào cuộc sống của chúng ta. Mẹ là Nữ vương Hòa bình, là Đấng chiến thắng cái ác và dẫn chúng ta đi dọc theo những nẻo đường thiện hảo, là Đấng khôi phục sự hiệp nhất cho con cái Mẹ, là Đấng dạy chúng ta lòng thương xót.
Lạy Đức Maria, xin nắm lấy tay chúng con. Khi bám vào Mẹ, chúng con sẽ vượt qua những eo biển của lịch sử một cách an toàn. Xin dắt chúng con đến chỗ tái khám phá những mối dây hiệp nhất chúng con. Xin tập hợp chúng con bên dưới lớp áo của Mẹ, trong sự dịu dàng của tình yêu đích thực, nơi gia đình nhân loại được tái sinh: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời”. Chúng ta hãy cùng nhau kêu cầu những lời này với Đức Mẹ: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời”.
Source: Libreria Editrice Vaticana - HOLY MASS ON THE SOLEMNITY OF MARY, MOTHER OF GOD 52nd WORLD DAY OF PEACE PAPAL MASS HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Tuesday, 1 January 2019
Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có đông đảo các vị trong giáo triều Rôma. Tham dự thánh lễ có các vị đại sứ trong ngoại giao đoàn và đông đảo các tín hữu ngồi chật bên trong đền thờ.
Giải thích ý nghĩa của ngày lễ này Đức Thánh Cha Phanxicô nói Phụng Vụ hôm nay mời gọi các tín hữu nhìn lên Đức Maria như một người Mẹ cho tất cả chúng ta và như một sứ giả của niềm hy vọng.
Trong năm Phụng Vụ “không có thời điểm nào có ý nghĩa hơn là ngày đầu một năm mới” để lắng nghe phúc lành của Thiên Chúa.
“Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!
Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”
(Dân Số 6:24-26)
Những lời tràn trề sức mạnh, đầy can đảm và hy vọng này sẽ đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trong Năm Mới. Đây không phải là một niềm hy vọng đầy ảo tưởng dựa trên những lời hứa yếu đuối của con người, hay một hy vọng ngây ngô giả định rằng tương lai sẽ tốt hơn hiện tại đơn giản chỉ vì nó là tương lai. Nhưng niềm hy vọng này có lý do của nó bắt nguồn từ phúc lành của Thiên Chúa, một phúc lành chứa đựng lời cầu chúc lớn nhất, lời cầu chúc của Giáo Hội gửi đến từng người trong chúng ta, tràn đầy tất cả sự chở che yêu thương của Chúa và sự trợ giúp quan phòng của Ngài.
Thông điệp của hy vọng trong phúc lành của Thiên Chúa, đã được thực hiện đầy đủ trong một người phụ nữ là Đức Maria, là người được chọn để trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên (Lc 2:18). Ngạc nhiên là điều chúng ta được yêu cầu hôm nay, khi kết thúc Tuần Bát Nhật Lễ Giáng Sinh, khi chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng Hài Nhi được sinh ra cho chúng ta, thiếu thốn tất cả mọi thứ nhưng tràn đầy tình yêu. Kinh ngạc là điều chúng ta nên cảm thấy vào đầu mỗi năm, vì cuộc sống là một ân sủng liên tục trao ban cho chúng ta những cơ hội để thực hiện một khởi đầu mới, ngay cả từ những hoàn cảnh thê thảm nhất.
Hôm nay cũng là một ngày để Mẹ Thiên Chúa ngạc nhiên. Thiên Chúa tỏ hiện trong hình hài một trẻ nhỏ, được giữ trong vòng tay của một người phụ nữ đang nuôi nấng Đấng Tạo Hóa của mình. Bức tượng trước mắt chúng ta mô tả Mẹ và Con rất gần nhau như thể dường như là một. Đây là mầu nhiệm mà chúng ta cử hành ngày hôm nay, là điều làm phát sinh cơ man những kinh ngạc: Thiên Chúa đã nên một với nhân loại mãi mãi. Thiên Chúa và con người luôn luôn bên nhau, đó là tin tốt lành của năm mới này. Thiên Chúa không phải là một vị chúa tể xa xôi, sống trong một sự cô lập lộng lẫy trên thiên đàng, nhưng là tình yêu nhập thể, được sinh ra bởi một người mẹ như chúng ta, để trở thành anh em với mỗi người chúng ta, để gần gũi với chúng ta: Ngài là Thiên Chúa gần gũi. Ngài say ngủ trong lòng mẹ mình, cũng là mẹ của chúng ta, và từ đó Ngài tuôn đổ lên nhân loại một sự dịu dàng mới. Như thế, chúng ta hiểu rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa, cả tình phụ tử và mẫu tử, như tình yêu của người mẹ không bao giờ ngừng tin tưởng vào con cái và không bao giờ bỏ rơi chúng. Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta, Emmanuel, yêu thương chúng ta bất chấp những sai lầm, tội lỗi của chúng ta và cách thức chúng ta đối xử với thế giới. Thiên Chúa tin vào nhân loại, bởi vì thành viên đầu tiên và ưu việt của nhân loại chính là Mẹ Ngài.
Vào ngày đầu năm, chúng ta hãy cầu xin Đức Maria ân sủng để ngạc nhiên trước Thiên Chúa của những bất ngờ. Chúng ta hãy canh tân sự kinh ngạc mà chúng ta cảm thấy khi đức tin được sinh ra lần đầu tiên trong chúng ta. Mẹ của Thiên Chúa giúp chúng ta: Mẹ đã sinh ra Chúa, giờ đây Mẹ trình diện con người đã được tái sinh của chúng ta trước mặt Chúa. Mẹ là một người mẹ tạo ra nơi con cái mình sự kinh ngạc của đức tin, bởi vì đức tin là một cuộc gặp gỡ, chứ không phải là một tôn giáo. Không có sự ngạc nhiên, cuộc sống và cả niềm tin cũng trở nên buồn tẻ và nhàm chán. Giáo hội cũng cần phải canh tân sự kinh ngạc của mình khi được là nơi Thiên Chúa hằng sống ngự trị, khi được là Hiền thê của Chúa, và được là một người Mẹ sinh ra những đứa con của mình. Nếu không, Giáo Hội có nguy cơ biến thành một bảo tàng viện đẹp của quá khứ. Một “Giáo Hội bảo tàng”. Trái lại, Đức Mẹ ban cho Giáo hội cảm giác về một ngôi nhà, một ngôi nhà nơi Thiên Chúa của sự mới mẻ ngự trị. Chúng ta hãy đón nhận với sự kinh ngạc mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa, như cư dân thành Êphêsô đã làm vào thời gian xảy ra Công đồng. Giống như họ, chúng ta hãy tung hô “Mẹ Thánh của Thiên Chúa”. Từ Mẹ, chúng ta hãy để cho mình được nhìn trìu mến, được ôm ấp, được nắm lấy bằng tay.
Hãy để chúng ta cho phép mình được nhìn trìu mến. Đặc biệt là trong những lúc cần thiết, khi chúng ta vướng mắc vào những gút mắt của cuộc sống, chúng ta hãy ngước mắt lên nhìn Đức Mẹ, là Mẹ của chúng ta. Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta nên để cho mình được Đức Mẹ nhìn trìu mến. Khi Mẹ dán mắt nhìn chúng ta, Mẹ không nhìn chúng ta như những tội nhân nhưng là con cái Mẹ. Người ta nói rằng đôi mắt là tấm gương của tâm hồn; đôi mắt của Đức Maria, đầy ân sủng, phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, cho chúng ta thấy một phản chiếu của thiên đàng. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng “đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6:22): đôi mắt của Đức Mẹ có thể mang ánh sáng đến mọi góc tối; ở mọi nơi đôi mắt ấy nhen nhóm hy vọng. Khi Mẹ nhìn chúng ta, Mẹ nói: “Yên tâm đi, con cái thân yêu; Mẹ đây, Mẹ của các con đây!”
Ánh mắt từ mẫu này, cấy trong chúng ta sự tự tin và phó thác, giúp chúng ta tăng trưởng trong đức tin. Đức tin là một mối dây ràng buộc với Thiên Chúa liên quan đến toàn thể con người, được dành riêng cho Thiên Chúa, nó cần đến Mẹ Thiên Chúa. Ánh mắt từ mẫu của mẹ giúp chúng ta thấy mình là những đứa con đáng yêu trong dân trung tín của Chúa, và yêu thương nhau bất kể những giới hạn và những đường lối cá nhân của chúng ta. Đức Mẹ giữ cho chúng ta đâm rễ trong Giáo hội, nơi sự hiệp nhất được coi trọng hơn sự đa dạng; Mẹ khích lệ chúng ta quan tâm lẫn nhau. Ánh mắt của Đức Maria nhắc nhở chúng ta rằng đức tin đòi hỏi một sự dịu dàng có thể giải thoát chúng ta khỏi sự lạnh nhạt thờ ơ. Dịu dàng: Giáo hội của sự dịu dàng. Sự dịu dàng là một từ mà ngày nay nhiều người muốn loại bỏ khỏi từ điển. Khi đức tin có chỗ dành cho Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ đánh mất cái nhìn hướng về trung tâm: là Chúa, vì Đức Maria không bao giờ chỉ vào chính mình nhưng Mẹ chỉ chúng ta hướng về Chúa Giêsu; và anh chị em của chúng ta, vì Đức Maria là một người mẹ.
Ánh mắt của Đức Mẹ, và ánh mắt của mọi người mẹ. Một thế giới nhìn về tương lai mà không có ánh mắt của một người mẹ thì thật thiển cận. Nó vẫn có thể làm gia tăng lợi nhuận của nó, nhưng nó sẽ không còn xem những người khác là con cái. Nó sẽ kiếm ra tiền đấy, nhưng không phải cho tất cả mọi người. Tất cả chúng ta sẽ ở trong cùng một nhà, nhưng không phải là anh chị em với nhau. Gia đình nhân loại được xây dựng dựa trên các bà mẹ. Một thế giới, trong đó sự dịu dàng từ mẫu bị giản lược thành một thứ tình cảm đơn thuần, có thể giàu có về mặt vật chất, nhưng nghèo nàn khi bàn đến tương lai. Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin dạy chúng con nhìn cuộc sống như Mẹ nhìn. Xin hãy hướng mắt nhìn đến chúng con, đến sự khốn khổ, nghèo đói của chúng con. Hãy hướng nhìn chúng con với đôi mắt thương xót của Mẹ.
Chúng ta hãy để cho mình được ôm ấp. Từ ánh mắt của Đức Maria, giờ đây chúng ta hướng về tâm hồn của Mẹ, trong đó, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Nói cách khác, Đức Mẹ đã giữ mọi điều trong trái tim; Mẹ đón nhận mọi thứ, mọi biến cố vui buồn. Và Mẹ suy đi nghĩ lại tất cả những điều này; Mẹ đã mang những điều ấy đến trước mặt Chúa. Đây là bí quyết của Mẹ. Cũng thế, giờ đây Mẹ sẽ ghi nhớ trong lòng cuộc sống của mỗi người chúng ta: Mẹ muốn đón nhận mọi tình huống của chúng ta và trình bày điều đó với Chúa.
Trong thế giới phân mảnh ngày hôm nay, nơi chúng ta có nguy cơ mất đi định hướng của mình, một vòng tay ôm của Mẹ là điều cần thiết. Có biết bao những phân tán và cô độc xung quanh chúng ta! Thế giới hoàn toàn kết nối, nhưng dường như ngày càng rời rạc. Chúng ta cần giao phó chính mình cho Mẹ của chúng ta. Trong Kinh thánh, Đức Mẹ chấp nhận bất kỳ tình huống cụ thể nào; Mẹ có mặt bất cứ nơi nào cần đến Mẹ. Mẹ đến thăm người chị họ Elizabeth; Mẹ giúp đỡ cặp vợ chồng mới cưới ở Cana; Mẹ khuyến khích các môn đệ trong Phòng Tiệc Ly, Đức Maria là một phương thuốc cho sự cô độc và phân tán. Mẹ là Mẹ của sự hợp nhất: Mẹ đứng chung với những người đang cô đơn. Mẹ biết rằng lời nói mà thôi thì không đủ để an ủi; sự hiện diện là cần thiết, và Mẹ hiện diện như một người mẹ. Chúng ta hãy để Mẹ ôm lấy cuộc đời của chúng ta. Trong Kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina), chúng ta gọi Mẹ là “cuộc sống” của chúng ta. Điều này có vẻ cường điệu, vì chính Chúa Kitô mới là “sự sống” (x. Ga 14: 6), nhưng Đức Maria hiệp nhất rất gần gũi với Chúa, và rất gần gũi với chúng ta, đến nỗi chúng ta không thể làm gì tốt hơn là đặt tay chúng ta vào trong tay Mẹ và nhìn nhận rằng Mẹ là cuộc sống của chúng ta, vui mừng và hy vọng của chúng ta.
Và trong hành trình của cuộc đời, chúng ta hãy để cho mình được nắm lấy bằng tay. Các bà mẹ bế con bằng tay và trìu mến đưa chúng vào cuộc sống. Nhưng có cơ man những con cái ngày nay đang lang thang và lạc lối. Khi nghĩ rằng họ mạnh mẽ, họ lạc đường; khi nghĩ rằng họ tự do, họ trở thành nô lệ. Có biết bao người, quên đi tình mẫu tử, sống trong giận dữ với chính mình và thờ ơ với mọi thứ! Thật đáng buồn khi nói rằng có biết bao nhiêu người phản ứng với mọi thứ và mọi người với một sự cay đắng và ác ý! Đời là thế. Tỏ ra thâm độc, thậm chí đôi khi dường như là một dấu chỉ của sức mạnh. Tuy nhiên, nó chẳng qua chỉ là yếu đuối. Chúng ta cần học hỏi từ các bà mẹ rằng chủ nghĩa anh hùng được thể hiện nơi sự tự hiến, sức mạnh cảm thông, và sự khôn ngoan trong hiền lành.
Chính Chúa cũng cần đến một người Mẹ thì chúng ta còn cần đến Mẹ biết ngần nào! Chính Chúa Giêsu đã ban Mẹ cho chúng ta, từ thập giá: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Ngài nói điều này với người môn đệ yêu dấu và với mọi môn đệ. Đức Mẹ không phải là một yếu tố phụ tùy chọn: Mẹ phải được chào đón vào cuộc sống của chúng ta. Mẹ là Nữ vương Hòa bình, là Đấng chiến thắng cái ác và dẫn chúng ta đi dọc theo những nẻo đường thiện hảo, là Đấng khôi phục sự hiệp nhất cho con cái Mẹ, là Đấng dạy chúng ta lòng thương xót.
Lạy Đức Maria, xin nắm lấy tay chúng con. Khi bám vào Mẹ, chúng con sẽ vượt qua những eo biển của lịch sử một cách an toàn. Xin dắt chúng con đến chỗ tái khám phá những mối dây hiệp nhất chúng con. Xin tập hợp chúng con bên dưới lớp áo của Mẹ, trong sự dịu dàng của tình yêu đích thực, nơi gia đình nhân loại được tái sinh: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời”. Chúng ta hãy cùng nhau kêu cầu những lời này với Đức Mẹ: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời”.
Source: Libreria Editrice Vaticana - HOLY MASS ON THE SOLEMNITY OF MARY, MOTHER OF GOD 52nd WORLD DAY OF PEACE PAPAL MASS HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Tuesday, 1 January 2019
Hội đồng các Giáo Hội Kitô: 400 trẻ em tại Hà Lan có nguy cơ bị trục xuất
Đặng Tự Do
16:37 01/01/2019
Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan đã lên tiếng kêu gọi việc hỗ trợ cho 400 trẻ em không có giấy phép cư trú. Những em này đã sống ở Hà Lan trong hơn 5 năm qua và hiện có nguy cơ bị trục xuất về nước.
Trong một thông cáo báo chí đưa ra vào dịp lễ Giáng Sinh, Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan than thở rằng hơn 400 đứa trẻ đang “sống trong bất ổn, sợ bị trục xuất, hay đưa đến một đất nước mà chúng không biết”.
Thảm cảnh này diễn ra bất kể chính sách “Kinderpardon”, nghĩa là “ân xá cho trẻ em”, được đưa ra vào năm 2013, trong đó những em nào đã sống tại Hà Lan trên 5 năm sẽ được cho ở lại.
Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan lưu ý rằng trong thực tế các đơn xin của các trẻ em hội đủ điều kiện nêu trong chính sách “Kinderpardon” đã bị từ chối mà không có lời giải thích hợp lý.
Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan đã có sáng kiến in những tấm thiệp Giáng Sinh trong đó nói lên tình cảnh đáng thương của các em.
Trong khi sáng kiến này đang diễn ra, gia đình Tamrazyan đến từ Armenia – gồm người mẹ, người cha và ba đứa con - đang nghỉ ngơi bên trong nhà thờ Bethel, nơi họ đã lánh nạn từ ngày 26 tháng 10 để tránh bị trục xuất.
Source: SIR The Netherlands: 400 children risk deportation. Churches mobilise for “Kinderpardon”
Trong một thông cáo báo chí đưa ra vào dịp lễ Giáng Sinh, Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan than thở rằng hơn 400 đứa trẻ đang “sống trong bất ổn, sợ bị trục xuất, hay đưa đến một đất nước mà chúng không biết”.
Thảm cảnh này diễn ra bất kể chính sách “Kinderpardon”, nghĩa là “ân xá cho trẻ em”, được đưa ra vào năm 2013, trong đó những em nào đã sống tại Hà Lan trên 5 năm sẽ được cho ở lại.
Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan lưu ý rằng trong thực tế các đơn xin của các trẻ em hội đủ điều kiện nêu trong chính sách “Kinderpardon” đã bị từ chối mà không có lời giải thích hợp lý.
Hội đồng các Giáo Hội Kitô tại Hà Lan đã có sáng kiến in những tấm thiệp Giáng Sinh trong đó nói lên tình cảnh đáng thương của các em.
Trong khi sáng kiến này đang diễn ra, gia đình Tamrazyan đến từ Armenia – gồm người mẹ, người cha và ba đứa con - đang nghỉ ngơi bên trong nhà thờ Bethel, nơi họ đã lánh nạn từ ngày 26 tháng 10 để tránh bị trục xuất.
Source: SIR The Netherlands: 400 children risk deportation. Churches mobilise for “Kinderpardon”
Một linh mục hưu trí tặng 1 triệu mỹ kim để tạo một ghế giáo sư thần học cho Đại Học thế tục của Tiểu Bang Colorado
Vũ Văn An
16:40 01/01/2019
Theo ký giả Monte Whaley, của Denver Post, gần đây, Cha Don Willette, một linh mục hưu trí, đã tặng Đại Học Tiểu Bang Colorado gần 1 triệu mỹ kim để thiết lập một chức giáo sư thần học cho trường này.
Hiện nay, theo ký giả trên, đã có nhiều tiếng nói về toán, khoa học và lịch sử tại khuôn viên Đại Học Tiểu Bang Colorado, và năm nay, một tiếng nói mới sẽ nói về Thiên Chúa.
Việc ấy có được là do một linh mục hưu trí Công Giáo tài trợ cho một chức giáo sư thần học tại Đại Học này với ngân khoản gần 1 triệu mỹ kim bằng tiền túi của ngài. Cha Don Willette, cựu mục tử của Nhà Thờ Thánh Gioan XXIII ở Fort Collins, cho hay ngài thực hiện việc tặng món tiền này là để có nơi thảo luận nghiêm túc về tôn giáo tại một định chế hoàn toàn thế tục.
Vị linh mục 77 tuổi, với chòm râu trắng xóa và một đầu óc tìm tòi, vốn quen thuộc với Đại Học Colorado, nói rằng “Cao đẳng phải là nơi các ý tưởng lớn được thảo luận và các khoa học gia, các sinh viên có thể tìm tòi khôn ngoan và tìm ra chúng ta là ai và điều gì khiến chúng ta thành nhân bản. Tôi luôn tin rằng thần học nên được giảng dậy như một khoa học và tôi hy vọng chức giáo sư này sẽ mang lại cho các sinh viên cơ hội học cách ngạc nhiên và nêu lên các câu hỏi có tính phê phán”
Ngài cho rằng: Các niềm tin và cuộc thảo luận tôn giáo quá thường bị xử sự một cách khinh bỉ bởi các giáo sư đại học và các sinh viên khác. “Tôi muốn tạo ra một nơi an toàn để người ta nói về Thiên Chúa và tôn giáo. Hy vọng rằng tại đây họ sẽ có thể nói về nhiều ý tưởng”.
Cha Willette, người từng phục vụ ở thừa tác vụ Thánh Gioan XXIII từ năm 2001 tới năm 2011, nói rằng ngài luôn thấy Đại Học Tiểu Bang Colorado “thân hữu với người sử dụng” và cởi mở đối với đề nghị của ngài tạo một chức vụ cho một ai đó để họ dạy về bản tính Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo.
Bất cứ vị nào được thuê để phục vụ cũng sẽ làm việc dưới cánh của Trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Tự Do, và các viên chức của khuôn viên đại học hy vọng sẽ thuê được vị ấy và vị ấy sẽ giảng dậy vào năm nay (2019). Đây sẽ là chức vụ được tài trợ thứ tư của phân khoa này.
Món quà của Cha Willette cho Đại Học Tiểu Bang Colorado có được là do các vụ đầu tư của Cha, gồm cả tiền mặt và động sản. Gần đây, cha Willette ngưng cuộc phỏng vấn với một phóng viên để chuyện trò bằng điện thoại di động với một cố vấn về các lợi tức thu được từ các bất động sản của ngài.
“Xin lỗi, nhưng điều đó thực quan trọng”, ngài nói thế trước khi trở lại với cuộc phỏng vấn.
Cha Willette cho hay ngài dành nhiều thì giờ phục vụ các sinh viên và phân khoa của Đại Học Tiểu Bang Colorado trong khi làm cha sở giáo xứ Thánh Gioan XXIII đến nỗi ngài muốn tỏ lòng đánh giá cao của ngài đối với họ. “Đại Học Tiểu Bang Colorado luôn là phần khá lớn trong đời tôi và tôi muốn làm một điều gì đó cho khuôn viên và các sinh viên”.
Hiện nay, theo ký giả trên, đã có nhiều tiếng nói về toán, khoa học và lịch sử tại khuôn viên Đại Học Tiểu Bang Colorado, và năm nay, một tiếng nói mới sẽ nói về Thiên Chúa.
Việc ấy có được là do một linh mục hưu trí Công Giáo tài trợ cho một chức giáo sư thần học tại Đại Học này với ngân khoản gần 1 triệu mỹ kim bằng tiền túi của ngài. Cha Don Willette, cựu mục tử của Nhà Thờ Thánh Gioan XXIII ở Fort Collins, cho hay ngài thực hiện việc tặng món tiền này là để có nơi thảo luận nghiêm túc về tôn giáo tại một định chế hoàn toàn thế tục.
Vị linh mục 77 tuổi, với chòm râu trắng xóa và một đầu óc tìm tòi, vốn quen thuộc với Đại Học Colorado, nói rằng “Cao đẳng phải là nơi các ý tưởng lớn được thảo luận và các khoa học gia, các sinh viên có thể tìm tòi khôn ngoan và tìm ra chúng ta là ai và điều gì khiến chúng ta thành nhân bản. Tôi luôn tin rằng thần học nên được giảng dậy như một khoa học và tôi hy vọng chức giáo sư này sẽ mang lại cho các sinh viên cơ hội học cách ngạc nhiên và nêu lên các câu hỏi có tính phê phán”
Ngài cho rằng: Các niềm tin và cuộc thảo luận tôn giáo quá thường bị xử sự một cách khinh bỉ bởi các giáo sư đại học và các sinh viên khác. “Tôi muốn tạo ra một nơi an toàn để người ta nói về Thiên Chúa và tôn giáo. Hy vọng rằng tại đây họ sẽ có thể nói về nhiều ý tưởng”.
Cha Willette, người từng phục vụ ở thừa tác vụ Thánh Gioan XXIII từ năm 2001 tới năm 2011, nói rằng ngài luôn thấy Đại Học Tiểu Bang Colorado “thân hữu với người sử dụng” và cởi mở đối với đề nghị của ngài tạo một chức vụ cho một ai đó để họ dạy về bản tính Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo.
Bất cứ vị nào được thuê để phục vụ cũng sẽ làm việc dưới cánh của Trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Tự Do, và các viên chức của khuôn viên đại học hy vọng sẽ thuê được vị ấy và vị ấy sẽ giảng dậy vào năm nay (2019). Đây sẽ là chức vụ được tài trợ thứ tư của phân khoa này.
Món quà của Cha Willette cho Đại Học Tiểu Bang Colorado có được là do các vụ đầu tư của Cha, gồm cả tiền mặt và động sản. Gần đây, cha Willette ngưng cuộc phỏng vấn với một phóng viên để chuyện trò bằng điện thoại di động với một cố vấn về các lợi tức thu được từ các bất động sản của ngài.
“Xin lỗi, nhưng điều đó thực quan trọng”, ngài nói thế trước khi trở lại với cuộc phỏng vấn.
Cha Willette cho hay ngài dành nhiều thì giờ phục vụ các sinh viên và phân khoa của Đại Học Tiểu Bang Colorado trong khi làm cha sở giáo xứ Thánh Gioan XXIII đến nỗi ngài muốn tỏ lòng đánh giá cao của ngài đối với họ. “Đại Học Tiểu Bang Colorado luôn là phần khá lớn trong đời tôi và tôi muốn làm một điều gì đó cho khuôn viên và các sinh viên”.
Ba nước vùng Baltic tham gia vào dự án một cuốn sách chung về chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô
Đặng Tự Do
16:52 01/01/2019
Các nước Baltic đang hợp tác với nhau để soạn ra một cuốn sách chung ghi lại chuyến tông du Estonia, Latvia và Lithuania của Đức Thánh Cha Phanxicô vào tháng 9 năm ngoái, cụ thể là từ 22 đến 25 tháng 9, 2018. Cuốn sách sẽ không chỉ ghi lại các bài phát biểu và hình ảnh từ chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến 3 nước cộng hòa Baltic, mà còn ghi lại “những chứng từ của người dân địa phương”.
Ingrīda Lisenkova, nhân viên truyền thông thuộc Hội đồng Giám mục Latvia, là người chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp biên soạn và xuất bản cuốn sách này. Lisenkova cho biết quyết định hình thành cuốn sách này dựa trên nhận thức rằng “chương trình tông du đã được thiết kế để” nhìn vào những hành trình “cùng nhau” của ba quốc gia vùng Baltic. Cho nên, “những lời ngài dành cho giới trẻ và người dân ở Lithuania và Estonia cũng là những lời được gửi tới những người trẻ tuổi và người dân ở Latvia”.
Theo chương trình, các cá nhân và các cơ quan truyền thông được mời đóng góp các cảm nghiệm của họ liên quan đến chuyến tông du của Đức Thánh Cha.
Cuốn sách dự kiến sẽ được phát hành vào giữa năm 2019.
Source: SIRBaltic countries: a joint book to tell the Pope’s trip to Latvia, Estonia and Lithuania
Ingrīda Lisenkova, nhân viên truyền thông thuộc Hội đồng Giám mục Latvia, là người chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp biên soạn và xuất bản cuốn sách này. Lisenkova cho biết quyết định hình thành cuốn sách này dựa trên nhận thức rằng “chương trình tông du đã được thiết kế để” nhìn vào những hành trình “cùng nhau” của ba quốc gia vùng Baltic. Cho nên, “những lời ngài dành cho giới trẻ và người dân ở Lithuania và Estonia cũng là những lời được gửi tới những người trẻ tuổi và người dân ở Latvia”.
Theo chương trình, các cá nhân và các cơ quan truyền thông được mời đóng góp các cảm nghiệm của họ liên quan đến chuyến tông du của Đức Thánh Cha.
Cuốn sách dự kiến sẽ được phát hành vào giữa năm 2019.
Source: SIRBaltic countries: a joint book to tell the Pope’s trip to Latvia, Estonia and Lithuania
Những khủng hoảng tại Bộ Truyền Thông Tòa Thánh trong năm 2018
Đặng Tự Do
17:48 01/01/2019
Hôm thứ Hai 31/12, ngày cuối cùng của năm 2018, Vatican tuyên bố rằng ông Greg Burke và bà Paloma Garcia Ovejero là Giám Đốc và Phó Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã cùng nhau từ chức - một động thái diễn ra chỉ hơn hai năm sau các bổ nhiệm của họ vào năm 2016, và chỉ vài tuần sau hai thay đổi quan trọng khác trong ngành truyền thông của Vatican.
Chức vụ Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh tạm thời được giao cho Alessandro Gisotti, cho đến nay là Điều phối viên Truyền thông xã hội của văn phòng truyền thông Vatican và là một ký giả lâu năm của Đài phát thanh Vatican.
Cả ông Burke và bà Garcia Ovejero đều làm nên lịch sử khi họ được bổ nhiệm Giám đốc và Phó Giám đốc của Phòng Báo Chí Tòa Thánh vào tháng 8 năm 2016, đánh dấu lần đầu tiên cả hai người phát ngôn của Đức Giáo Hoàng đều không phải là giáo sĩ, và bao gồm một phụ nữ.
Ông Burke, cựu phóng viên của tạp chí Time và Fox News, đã được bổ nhiệm làm Phó Phòng Báo Chí Tòa Thánh vào cuối tháng 12 năm 2015 và thay thế cha Federico Lombardi trong chức vụ phát ngôn viên Tòa Thánh vào tháng Hai năm sau đó.
Bà Garcia Ovejero theo học ngành báo chí tại Đại học Complutense của Madrid và năm 2006 đã đạt được cử nhân chuyên ngành Chiến lược Quản lý và Truyền thông tại Đại học New York. Năm 1998, cô bắt đầu làm việc tại Đài phát thanh và truyền hình Tây Ban Nha và sau đó chuyển đến Rôma vào tháng 9 năm 2012.
Trong tuyên bố đưa ra hôm 31 tháng 12 liên quan đến việc từ chức của ông Burke và bà Ovejero, ông Paolo Ruffini, giáo dân người Ý, là người đứng đầu Bộ Truyền thông Vatican, đã bày tỏ sự đánh giá cao “vì tính chuyên nghiệp, nhân bản và đức tin của họ.”
Ruffini, được bổ nhiệm vào tháng 7 năm nay, đã mô tả việc từ chức của ông Burke và bà Garcia Ovejero như một “sự lựa chọn tự quyết và tự do” của họ, và cảm ơn họ “vì sự cống hiến mà họ đã thực hiện trong công việc của mình.”
Trong một tuyên bố khác, ông Gisotti người tạm thời thay thế ông Burke nói rằng ông sẽ tìm cách “hoàn thành chức vụ được trao một cách tốt nhất với tinh thần phục vụ Giáo hội và Đức Giáo Hoàng”, mà ông đã may mắn học hỏi được khi sát cánh làm việc bên cạnh Cha Federico Lombardi trong gần 20 năm.
Việc từ chức của ông Burke và bà Garcia Ovejero đã diễn ra vào những ngày cuối cùng của một năm đầy những rắc rối trong ngành truyền thông Tòa Thánh. Ngày 21 tháng Ba, 2018 vụ trưởng vụ truyền thông Tòa Thánh là Đức ông Dario Vigano đã nộp đơn từ chức sau khi thao túng lá thư của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16.
Vụ truyền thông Tòa Thánh được cải tổ lại thành một cơ quan ngang Bộ và ông Ruffini được bổ nhiệm bộ trưởng vào đầu tháng 7 năm nay.
Ngày 18 tháng 12, Ruffini bổ nhiệm Andrea Tornielli, một phóng viên chuyên về Vatican cho nhật báo La Stampa có trụ sở tại Torino và là một nhà phân tích lâu năm của trang web “Vatican Insider” vào chức vụ giám đốc biên tập mới của bộ Truyền thông Tòa Thánh, một vị trí mới chịu trách nhiệm điều phối các hoạt động biên tập của Vatican.
Cùng với việc bổ nhiệm của Tornielli, Ruffini cũng chỉ định nhà văn và giáo sư người Ý Andrea Monda làm chủ bút của tờ Quan Sát Viên Rôma, thay thế cho Jac Maria Vian, một nhà sử học và là một nhà báo đã đứng đầu nhật báo này kể từ năm 2007.
Source: Crux Vatican spokespersons resign in latest comms shake-up
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gặp mặt tu sinh các giáo phận trong Giáo tỉnh Miền Bắc
BTT Vinh – Hà Tĩnh
12:23 01/01/2019
THÁI BÌNH - “Từ đây, sứ mạng loan báo tin Mừng của Chúa không chỉ bó hẹp trong cộng đoàn Giáo xứ, Giáo phận, nhưng vươn xa hơn đó là đến với muôn dân, đến những vùng sâu, vùng xa, vùng ngoại biên đang có những người nghèo khổ, yếu đau, những người chưa biết Chúa đang cần đến chúng ta và chúng ta hãy mang lấy mùi Chúa và mùi chiên”. Đó chính là lời mời gọi hơn 200 Tu sinh về thăm dự ngày gặp mặt các Tu sinh của Giáo tỉnh Miền Bắc, diễn ra trong 02 ngày (29-30/12/2018) tại Toà Giám Mục Giáo phận Thái Bình.
Hình ảnh
Ngày gặp mặt của các Tu Sinh Giáo tỉnh Miền Bắc có sự tham dự của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Giáo phận Thái Bình, ngài cũng chính là người đưa ra sáng kiến và tổ chức ngày gặp mặt hôm nay. Bên cạnh đó còn có sự tham dự quý cha đồng hành và hơn 200 tu sinh đến từ 07 Giáo phận trong Giáo tỉnh Miền Bắc như: Bắc Ninh; Hải Phòng; Thái Bình; Thanh Hoá; Lạng Sơn; Vinh và Hà Tĩnh.
Chiếc xe lăn bánh đưa đoàn Tu sinh hai Giáo phận Vinh – Hà Tĩnh ra Toà Giám Mục Thái Bình lúc 3h00 sáng (29.12.2018). Dù ra đi trong tiết trời buốt giá, mưa sa, nhưng mỗi ứng sinh vẫn mang trong mình sự háo hức và hoan hỉ của bầu khí Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã đến trong lạnh lẽo giá buốt, nhưng lại mang hơn ấm tình yêu đến cho trần gian.
Đặt chân đến Toà Giám mục Giáo phận Thái Bình vào lúc 8h00 sáng, chúng tôi nhận thấy hầu hết anh em Tu sinh của các giáo phận Miền Bắc đã có mặt. Mọi người hoà mình vào không khí sôi động và nồng nhiệt qua sự đón tiếp của giáo phận chủ nhà. Dù mỗi ứng sinh đến từ mỗi vùng miền với những nét văn hoá, trình độ tri thức cũng như tính cách đặc thù khác nhau, nhưng tất cả đều chung một trái tim và một tình yêu nồng cháy dành cho Đức Kitô, như tâm tình của thánh Phaolô đã diễn tả: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14).
Sau màn khởi động, vào lúc 9h00, quý cha đồng hành và anh em Tu sinh chào đón sự hiện diện của Đức Cha Phêrô. Trong lời huấn từ với chủ đề “Phân định ơn gọi và lựa chọn cách ý thức trách nhiệm ơn gọi của bản thân”, Đức Cha Phêrô đã nhắn nhủ các ứng sinh: “Mỗi người chúng ta lớn lên trong mỗi hoàn cảnh, mỗi trình độ học vấn, nhưng tất cả đang đứng trước ngã ba đường. Chúng ta cần phải lựa chọn cho mình con đường tốt nhất, con đường hạnh phúc nhất và cũng là con đường đẹp ý Chúa nhất. Chúng ta cần phải phân định, cân nhắc để đưa ra một sự chọn lựa đúng đắn cho cuộc đời mình”.
Sau đó, quý cha đồng hành trong vai trò là những nhà đào tạo đã chia sẻ những tâm tình, những thao thức và có cả những câu hỏi gửi đến Đức Cha Phêrô. Đáp lại, Đức cha đã có những giải đáp, và những tâm tình gửi đến quý cha mang sứ vụ đào tạo trong bối cảnh xã hội hôm nay.
Tiếp đến, lúc 10h30, tại nhà nguyện Toà Giám Mục đã diễn ra thánh lễ với sự chủ tế của Đức Cha Phêrô. Đồng tế với ngài có quý cha đồng hành, quý cha trong Toà Giám Mục Thái Bình, quý thầy Phó tế cùng với quý Chủng sinh và quý các Tu sinh về tham dự ngày gặp mặt.
Vào lúc 14h00 cùng ngày, trong khuôn viên Nhà Chung của Giáo phận Thái Bình, các Tu sinh đã tham gia giao lưu với nhau qua các môn thể thao: Bóng đá; cầu lông; bóng bàn; đá cầu; bi lắc. Qua đó, các thành viên của các giáo phận có cơ hội giao lưu học hỏi và thi đua tranh tài. Kết thúc những giây phút thi đấu kịch tính, hấp dẫn và căng thẳng, giải nhất môn bóng đá, đá cầu và cầu lông thuộc về Giáo phận Thái Bình; giải nhất môn bóng bàn thuộc về Giáo phận Hà Tĩnh.
Buổi tối, vào 19h00, tại phòng hội trường của Toà Giám Mục đã diễn ra đêm canh thức mang chủ đề: “Noel và ơn gọi”. Các giáo phận đến từ các vùng miền khác nhau đã mang đến cho đêm canh thức những món ăn tinh thần hấp, thi vị, mang sắc thái và âm hưởng riêng của từng địa phương: Dân ca quan họ Bắc Ninh: “Buôn bấc, buôn dầu” (Gp.Bắc Ninh); Vũ điệu: “Điệu hò ra khơi” (Gp.Hải Phòng); Chèo “Người Cha Nhân Hậu” (Gp.Thái Bình); Ca khúc: “Sâng Mủ Ching” (Gp.Lạng Sơn); Liên khúc về dân ca Nghệ An – Hà Tĩnh (Gp.Vinh – Hà Tĩnh):
“Tình xứ Nghệ không mau
Nhưng bén rồi sâu lắng
Quen xứ Nghệ, quen lâu
Càng tình sâu nghĩa nặng”.
Chương trình của ngày hội ngộ kéo dài sang ngày 30.12. Buổi sáng, trong thời gian từ 7h-8h45’ ứng sinh đến từ các giáo phận dành thời gian giao lưu, gặp mặt theo nhóm. Qua sự giao lưu, gặp gỡ, các ứng sinh có cơ hội biết về nhau hơn, chia sẻ về con đường ơn gọi, hiểu biết những nét văn hoá từng vùng miền. Đặc biệt từ đây, các ứng sinh nhận ra những đặc thù, những khó khăn – thuận lợi trong sứ vụ truyền giáo của từng địa phương. Để rồi từ đây mỗi ứng sinh biết cầu nguyện cho anh em, chia sẻ sứ vụ và nâng đỡ nhau trong tình bác ái huynh đệ.
Tiếp đến, vào lúc 9h00, tại nhà thờ Chính toà Giáo phận Thái Bình đã diễn ra thánh lễ trọng thể Mừng kính Thánh Gia Thất. Đây cũng là thánh lễ cao điểm của ngày gặp mặt Tu sinh đến từ Giáo tỉnh Miền Bắc và cũng là thánh lễ truyền thống của đại hội trống kèn Giáo phận Thái Bình.
Những ngày gặp mặt Tu sinh các giáo phận Miền Bắc khép lại qua bữa tiệc huynh đệ tại nhà ăn Toà Giám Mục Thái Bình. Tạm biệt Giáo phận Thái Bình, tạm biệt những người anh em cùng chí hướng. Mỗi khuôn mặt ra về chất chứa bao niềm vui và hi vọng: Hi vọng cho bản thân, cho giáo phận và cho Giáo hội có thêm những người môn đệ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo ở mọi miền đất nước. Dù chia tay trong cái giá lạnh buốt giá của Miền Bắc nhưng không vì thế mà làm vơi đi niềm tin, niềm hi vọng và tình yêu của người môn đệ dành cho Thầy Chí Thánh. Tin rằng với tình yêu của tất cả các ứng sinh dành cho Đức Kitô hôm nay sẽ là động lực thúc đẩy người ứng sinh dấn thân cho sứ vụ ngày mai.
Hình ảnh
Ngày gặp mặt của các Tu Sinh Giáo tỉnh Miền Bắc có sự tham dự của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Giáo phận Thái Bình, ngài cũng chính là người đưa ra sáng kiến và tổ chức ngày gặp mặt hôm nay. Bên cạnh đó còn có sự tham dự quý cha đồng hành và hơn 200 tu sinh đến từ 07 Giáo phận trong Giáo tỉnh Miền Bắc như: Bắc Ninh; Hải Phòng; Thái Bình; Thanh Hoá; Lạng Sơn; Vinh và Hà Tĩnh.
Chiếc xe lăn bánh đưa đoàn Tu sinh hai Giáo phận Vinh – Hà Tĩnh ra Toà Giám Mục Thái Bình lúc 3h00 sáng (29.12.2018). Dù ra đi trong tiết trời buốt giá, mưa sa, nhưng mỗi ứng sinh vẫn mang trong mình sự háo hức và hoan hỉ của bầu khí Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã đến trong lạnh lẽo giá buốt, nhưng lại mang hơn ấm tình yêu đến cho trần gian.
Đặt chân đến Toà Giám mục Giáo phận Thái Bình vào lúc 8h00 sáng, chúng tôi nhận thấy hầu hết anh em Tu sinh của các giáo phận Miền Bắc đã có mặt. Mọi người hoà mình vào không khí sôi động và nồng nhiệt qua sự đón tiếp của giáo phận chủ nhà. Dù mỗi ứng sinh đến từ mỗi vùng miền với những nét văn hoá, trình độ tri thức cũng như tính cách đặc thù khác nhau, nhưng tất cả đều chung một trái tim và một tình yêu nồng cháy dành cho Đức Kitô, như tâm tình của thánh Phaolô đã diễn tả: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14).
Sau màn khởi động, vào lúc 9h00, quý cha đồng hành và anh em Tu sinh chào đón sự hiện diện của Đức Cha Phêrô. Trong lời huấn từ với chủ đề “Phân định ơn gọi và lựa chọn cách ý thức trách nhiệm ơn gọi của bản thân”, Đức Cha Phêrô đã nhắn nhủ các ứng sinh: “Mỗi người chúng ta lớn lên trong mỗi hoàn cảnh, mỗi trình độ học vấn, nhưng tất cả đang đứng trước ngã ba đường. Chúng ta cần phải lựa chọn cho mình con đường tốt nhất, con đường hạnh phúc nhất và cũng là con đường đẹp ý Chúa nhất. Chúng ta cần phải phân định, cân nhắc để đưa ra một sự chọn lựa đúng đắn cho cuộc đời mình”.
Sau đó, quý cha đồng hành trong vai trò là những nhà đào tạo đã chia sẻ những tâm tình, những thao thức và có cả những câu hỏi gửi đến Đức Cha Phêrô. Đáp lại, Đức cha đã có những giải đáp, và những tâm tình gửi đến quý cha mang sứ vụ đào tạo trong bối cảnh xã hội hôm nay.
Tiếp đến, lúc 10h30, tại nhà nguyện Toà Giám Mục đã diễn ra thánh lễ với sự chủ tế của Đức Cha Phêrô. Đồng tế với ngài có quý cha đồng hành, quý cha trong Toà Giám Mục Thái Bình, quý thầy Phó tế cùng với quý Chủng sinh và quý các Tu sinh về tham dự ngày gặp mặt.
Vào lúc 14h00 cùng ngày, trong khuôn viên Nhà Chung của Giáo phận Thái Bình, các Tu sinh đã tham gia giao lưu với nhau qua các môn thể thao: Bóng đá; cầu lông; bóng bàn; đá cầu; bi lắc. Qua đó, các thành viên của các giáo phận có cơ hội giao lưu học hỏi và thi đua tranh tài. Kết thúc những giây phút thi đấu kịch tính, hấp dẫn và căng thẳng, giải nhất môn bóng đá, đá cầu và cầu lông thuộc về Giáo phận Thái Bình; giải nhất môn bóng bàn thuộc về Giáo phận Hà Tĩnh.
Buổi tối, vào 19h00, tại phòng hội trường của Toà Giám Mục đã diễn ra đêm canh thức mang chủ đề: “Noel và ơn gọi”. Các giáo phận đến từ các vùng miền khác nhau đã mang đến cho đêm canh thức những món ăn tinh thần hấp, thi vị, mang sắc thái và âm hưởng riêng của từng địa phương: Dân ca quan họ Bắc Ninh: “Buôn bấc, buôn dầu” (Gp.Bắc Ninh); Vũ điệu: “Điệu hò ra khơi” (Gp.Hải Phòng); Chèo “Người Cha Nhân Hậu” (Gp.Thái Bình); Ca khúc: “Sâng Mủ Ching” (Gp.Lạng Sơn); Liên khúc về dân ca Nghệ An – Hà Tĩnh (Gp.Vinh – Hà Tĩnh):
“Tình xứ Nghệ không mau
Nhưng bén rồi sâu lắng
Quen xứ Nghệ, quen lâu
Càng tình sâu nghĩa nặng”.
Chương trình của ngày hội ngộ kéo dài sang ngày 30.12. Buổi sáng, trong thời gian từ 7h-8h45’ ứng sinh đến từ các giáo phận dành thời gian giao lưu, gặp mặt theo nhóm. Qua sự giao lưu, gặp gỡ, các ứng sinh có cơ hội biết về nhau hơn, chia sẻ về con đường ơn gọi, hiểu biết những nét văn hoá từng vùng miền. Đặc biệt từ đây, các ứng sinh nhận ra những đặc thù, những khó khăn – thuận lợi trong sứ vụ truyền giáo của từng địa phương. Để rồi từ đây mỗi ứng sinh biết cầu nguyện cho anh em, chia sẻ sứ vụ và nâng đỡ nhau trong tình bác ái huynh đệ.
Tiếp đến, vào lúc 9h00, tại nhà thờ Chính toà Giáo phận Thái Bình đã diễn ra thánh lễ trọng thể Mừng kính Thánh Gia Thất. Đây cũng là thánh lễ cao điểm của ngày gặp mặt Tu sinh đến từ Giáo tỉnh Miền Bắc và cũng là thánh lễ truyền thống của đại hội trống kèn Giáo phận Thái Bình.
Những ngày gặp mặt Tu sinh các giáo phận Miền Bắc khép lại qua bữa tiệc huynh đệ tại nhà ăn Toà Giám Mục Thái Bình. Tạm biệt Giáo phận Thái Bình, tạm biệt những người anh em cùng chí hướng. Mỗi khuôn mặt ra về chất chứa bao niềm vui và hi vọng: Hi vọng cho bản thân, cho giáo phận và cho Giáo hội có thêm những người môn đệ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo ở mọi miền đất nước. Dù chia tay trong cái giá lạnh buốt giá của Miền Bắc nhưng không vì thế mà làm vơi đi niềm tin, niềm hi vọng và tình yêu của người môn đệ dành cho Thầy Chí Thánh. Tin rằng với tình yêu của tất cả các ứng sinh dành cho Đức Kitô hôm nay sẽ là động lực thúc đẩy người ứng sinh dấn thân cho sứ vụ ngày mai.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Tu sĩ tự rước Máu Thánh tại bàn thờ được không?
Nguyễn Trọng Đa
10:23 01/01/2019
Giải đáp phụng vụ: Tu sĩ tự rước Máu Thánh tại bàn thờ được không?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Tôi đã có một cuộc họp ngày hôm nay với một tu hội nữ tu truyền giáo thuộc quyền giáo phận. Một nữ tu hỏi tôi tại sao họ không được phép rước Máu Thánh tại bàn thờ chính trong các dịp đặc biệt, như lễ ngân khánh của tu hội chẳng hạn. Tôi nói với họ rằng một chiếc bàn khác cho cùng một mục đích có thể được đặt ở một mức thấp hơn bàn thờ, để họ có thể đến rước Máu Thánh. Nhưng họ nói rằng trong quá khứ việc này đã được thực hành ở đây, và rằng các tín hữu không quan tâm việc các nữ tu đến bàn thờ để rước Máu Thánh. Xin hãy cho tôi biết khi nào các nữ tu (và nam tu sĩ) hoặc tín hữu có thể được phép rước Máu Thánh tại bàn thờ. - Một Giám mục Philippines.
Đáp: Trong số nhiều tài liệu nói đến vấn đề này, có huấn thị "Redemptionis Sacramentum" (Bí tích Cứu độ), số 94, trong đó nêu rõ:
"Các tín hữu không cho phép “tự tay cầm lấy bánh đã được truyền phép hay chén thánh, lại cũng không được để họ chuyền tay nhau”. Vả lại, về vấn đề này, phải chấm dứt sự lạm dụng sau đây: trong Thánh Lễ hôn phối, đã xảy ra trường hợp đôi tân hôn cho nhau rước lễ" (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Vì vậy, sẽ là không đúng khi các nữ tu cầm chén thánh để rước lễ ở bàn thờ; họ cũng không được cầm chén thánh từ một bàn khác để rước lễ.
Một thừa tác viên cần luôn có mặt để cầm chén thánh, hoặc cái chén (cup).
Thừa tác viên phải là một linh mục, thầy phó tế hoặc thầy giúp lễ có tác vụ. Nếu không ai trong số này có sẵn, thì một nữ tu, mẹ Bể trên chẳng hạn, có thể được chỉ định như là một thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ, và có thể hỗ trợ Giám mục trong việc cầm chén cho các nữ tu rước lễ.
Lý do cho việc này là rằng sự Rước lễ luôn luôn là một món quà nhận được từ Chúa Kitô, qua thừa tác của Hội Thánh, và điều này được nêu rõ bằng cách luôn rước lễ qua một thừa tác viên.
Chỉ có linh mục chủ tế hoặc linh mục đồng tế mới có thể tự mình Rước Lễ.
Ngay cả thầy sáu và các thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ thường phải rước lễ từ một linh mục, trước khi đi cho giáo dân rước lễ.
Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đã tuân giữ quy định này trong những năm gần đây, khi ngài tham dự một số Thánh lễ mà không cử hành các Thánh lễ ấy. Ngài rước Mình Máu Chúa Kitô qua thừa tác của thầy phó tế và chủ tế.
Rõ ràng rằng tâm thức của Hội Thánh không lường trước bất kỳ dịp nào, khi bất cứ ai ngoại trừ linh mục chủ tế hoặc các linh mục đồng tế có thể rước lễ tại chính bàn thờ.
Sau câu trả lời trên đây của chúng tôi về câu hỏi của một Giám mục Philippines về việc cầm chén rước lễ tại bàn thờ, một bạn đọc ở New Jersey, Hoa Kỳ, đã gợi ý: “Dường như cha (tức là tôi McNamara) tôi đã đọc sai câu hỏi. Theo bạn đọc này, điều được hỏi là vào các dịp nào các tu sĩ có thể rước lễ ở bàn thờ, chứ không phải cầm chén thánh. Việc rước lễ ở bàn thờ đã được tiên liệu đặc biệt trong một số nghi thức, chẳng hạn trong thánh lễ khấn Dòng trọng thể”.
Đáp: Tôi không tin rằng tôi đã hiểu sai câu hỏi, vì Giám mục đặc biệt nói rằng ngài đã đề nghị sử dụng một bàn thay thế, để các tu sĩ có thể tham gia rước Máu Thánh ở đó. Và gợi ý này sẽ là vô ích nếu họ rước lễ qua bàn tay của một thừa tác viên.
Tuy nhiên, tôi hoan nghênh gợi ý này, vì nó đã tạo cơ hội đề cập đến khả năng của một tu sĩ rước lễ tại bàn thờ vào một số thời điểm rất quan trọng trong cuộc đời của tu sĩ ấy, đặc biệt là các người muốn diễn tả sự tận hiến dứt khoát cho Thiên Chúa.
Một thành viên của một hiệp hội các sinh viên tốt nghiệp đại học Công Giáo ở một quốc gia châu Phi, có lẽ là Nigeria, đã viết rằng họ thường chia sẻ với nhau các bài trả lời thắc mắc của tôi. Một trong số người đó đã viết một số "câu hóc búa" cho tôi.
Không muốn trở thành một nguồn bất hòa, tôi sẽ cố gắng trả lời các nghi ngờ của bạn này.
- Liệu sự rước lễ trên tay là không giống như việc tự cầm Bánh thánh để rước lễ chăng?
Không chính xác, bởi vì một thừa tác viên vẫn trao Bánh thánh cho người sắp rước lễ và người này cầm lấy bánh. Điều khác biệt là phương thức tiếp nhận (trên lưỡi hoặc trên tay), chứ không phải là sự việc tiếp nhận.
- Sự khác biệt giữa "chén” (cup) và “chén thánh” (chalice) là gì?
Trên thực tế cả hai thuật ngữ là tương đương, vì Máu Thánh luôn được cung cấp trong một chén thánh. Thuật ngữ "chén" được sử dụng trong bản dịch Thánh lễ tiếng Anh hiện tại để chỉ “chén thánh”, mặc dù có thể rằng bản dịch mới hiện đang được chuẩn bị sẽ trở lại với từ ngữ truyền thống hơn.
Bạn đọc này cũng gợi ý rằng tôi nên bàn đến các vấn đề khác như các thừa tác viên ngoại thường, và sự giải thánh (desecration) của Thánh Thể.
Tôi chỉ có thể nhận xét rằng tôi thường cố gắng gắn bó với câu hỏi trước mắt. Giới hạn của không gian không cho phép tôi trải rộng nhiểu vấn đề cùng lúc.
Chúng tôi đã bàn đến vấn đề và tiêu chuẩn liên quan đến các thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ trong nhiều dịp trước đây.
Ngoài ra, câu hỏi độc đáo đề cập đến một lỗi kiến thức liên quan đến một quy định phụng vụ. Không có dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng tối thiểu đối với Thánh Thể về phía các người liên quan, nên không có vấn đề giải thánh ở đó. (Zenit.org 19-10 và 2-11-2004)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Tôi đã có một cuộc họp ngày hôm nay với một tu hội nữ tu truyền giáo thuộc quyền giáo phận. Một nữ tu hỏi tôi tại sao họ không được phép rước Máu Thánh tại bàn thờ chính trong các dịp đặc biệt, như lễ ngân khánh của tu hội chẳng hạn. Tôi nói với họ rằng một chiếc bàn khác cho cùng một mục đích có thể được đặt ở một mức thấp hơn bàn thờ, để họ có thể đến rước Máu Thánh. Nhưng họ nói rằng trong quá khứ việc này đã được thực hành ở đây, và rằng các tín hữu không quan tâm việc các nữ tu đến bàn thờ để rước Máu Thánh. Xin hãy cho tôi biết khi nào các nữ tu (và nam tu sĩ) hoặc tín hữu có thể được phép rước Máu Thánh tại bàn thờ. - Một Giám mục Philippines.
Đáp: Trong số nhiều tài liệu nói đến vấn đề này, có huấn thị "Redemptionis Sacramentum" (Bí tích Cứu độ), số 94, trong đó nêu rõ:
"Các tín hữu không cho phép “tự tay cầm lấy bánh đã được truyền phép hay chén thánh, lại cũng không được để họ chuyền tay nhau”. Vả lại, về vấn đề này, phải chấm dứt sự lạm dụng sau đây: trong Thánh Lễ hôn phối, đã xảy ra trường hợp đôi tân hôn cho nhau rước lễ" (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Vì vậy, sẽ là không đúng khi các nữ tu cầm chén thánh để rước lễ ở bàn thờ; họ cũng không được cầm chén thánh từ một bàn khác để rước lễ.
Một thừa tác viên cần luôn có mặt để cầm chén thánh, hoặc cái chén (cup).
Thừa tác viên phải là một linh mục, thầy phó tế hoặc thầy giúp lễ có tác vụ. Nếu không ai trong số này có sẵn, thì một nữ tu, mẹ Bể trên chẳng hạn, có thể được chỉ định như là một thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ, và có thể hỗ trợ Giám mục trong việc cầm chén cho các nữ tu rước lễ.
Lý do cho việc này là rằng sự Rước lễ luôn luôn là một món quà nhận được từ Chúa Kitô, qua thừa tác của Hội Thánh, và điều này được nêu rõ bằng cách luôn rước lễ qua một thừa tác viên.
Chỉ có linh mục chủ tế hoặc linh mục đồng tế mới có thể tự mình Rước Lễ.
Ngay cả thầy sáu và các thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ thường phải rước lễ từ một linh mục, trước khi đi cho giáo dân rước lễ.
Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đã tuân giữ quy định này trong những năm gần đây, khi ngài tham dự một số Thánh lễ mà không cử hành các Thánh lễ ấy. Ngài rước Mình Máu Chúa Kitô qua thừa tác của thầy phó tế và chủ tế.
Rõ ràng rằng tâm thức của Hội Thánh không lường trước bất kỳ dịp nào, khi bất cứ ai ngoại trừ linh mục chủ tế hoặc các linh mục đồng tế có thể rước lễ tại chính bàn thờ.
Sau câu trả lời trên đây của chúng tôi về câu hỏi của một Giám mục Philippines về việc cầm chén rước lễ tại bàn thờ, một bạn đọc ở New Jersey, Hoa Kỳ, đã gợi ý: “Dường như cha (tức là tôi McNamara) tôi đã đọc sai câu hỏi. Theo bạn đọc này, điều được hỏi là vào các dịp nào các tu sĩ có thể rước lễ ở bàn thờ, chứ không phải cầm chén thánh. Việc rước lễ ở bàn thờ đã được tiên liệu đặc biệt trong một số nghi thức, chẳng hạn trong thánh lễ khấn Dòng trọng thể”.
Đáp: Tôi không tin rằng tôi đã hiểu sai câu hỏi, vì Giám mục đặc biệt nói rằng ngài đã đề nghị sử dụng một bàn thay thế, để các tu sĩ có thể tham gia rước Máu Thánh ở đó. Và gợi ý này sẽ là vô ích nếu họ rước lễ qua bàn tay của một thừa tác viên.
Tuy nhiên, tôi hoan nghênh gợi ý này, vì nó đã tạo cơ hội đề cập đến khả năng của một tu sĩ rước lễ tại bàn thờ vào một số thời điểm rất quan trọng trong cuộc đời của tu sĩ ấy, đặc biệt là các người muốn diễn tả sự tận hiến dứt khoát cho Thiên Chúa.
Một thành viên của một hiệp hội các sinh viên tốt nghiệp đại học Công Giáo ở một quốc gia châu Phi, có lẽ là Nigeria, đã viết rằng họ thường chia sẻ với nhau các bài trả lời thắc mắc của tôi. Một trong số người đó đã viết một số "câu hóc búa" cho tôi.
Không muốn trở thành một nguồn bất hòa, tôi sẽ cố gắng trả lời các nghi ngờ của bạn này.
- Liệu sự rước lễ trên tay là không giống như việc tự cầm Bánh thánh để rước lễ chăng?
Không chính xác, bởi vì một thừa tác viên vẫn trao Bánh thánh cho người sắp rước lễ và người này cầm lấy bánh. Điều khác biệt là phương thức tiếp nhận (trên lưỡi hoặc trên tay), chứ không phải là sự việc tiếp nhận.
- Sự khác biệt giữa "chén” (cup) và “chén thánh” (chalice) là gì?
Trên thực tế cả hai thuật ngữ là tương đương, vì Máu Thánh luôn được cung cấp trong một chén thánh. Thuật ngữ "chén" được sử dụng trong bản dịch Thánh lễ tiếng Anh hiện tại để chỉ “chén thánh”, mặc dù có thể rằng bản dịch mới hiện đang được chuẩn bị sẽ trở lại với từ ngữ truyền thống hơn.
Bạn đọc này cũng gợi ý rằng tôi nên bàn đến các vấn đề khác như các thừa tác viên ngoại thường, và sự giải thánh (desecration) của Thánh Thể.
Tôi chỉ có thể nhận xét rằng tôi thường cố gắng gắn bó với câu hỏi trước mắt. Giới hạn của không gian không cho phép tôi trải rộng nhiểu vấn đề cùng lúc.
Chúng tôi đã bàn đến vấn đề và tiêu chuẩn liên quan đến các thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ trong nhiều dịp trước đây.
Ngoài ra, câu hỏi độc đáo đề cập đến một lỗi kiến thức liên quan đến một quy định phụng vụ. Không có dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng tối thiểu đối với Thánh Thể về phía các người liên quan, nên không có vấn đề giải thánh ở đó. (Zenit.org 19-10 và 2-11-2004)
Nguyễn Trọng Đa
Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 2, 2.1-2.3
Vũ Văn An
22:57 01/01/2019
CHƯƠNG 2: HƯỚNG TỚI MỘT NỀN THẦN HỌC VỀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ
42. Giáo huấn của Thánh Kinh và Thánh Truyền cho thấy tính đồng nghị là một chiều kích yếu tính của Giáo Hội. Qua tính đồng nghị, Giáo Hội biểu lộ và lên hình tượng chính mình như là Dân Lữ Hành của Thiên Chúa và như là hội đồng được Chúa Phục Sinh triệu tập. Chương 1, cách riêng, cho thấy đặc tính gương mẫu và qui phạm của Công đồng Giêrusalem (Cv 15: 4-29). Điều đó cho thấy, khi đương đầu với một thách thức có tính quyết định đối với Giáo Hội tiên khởi, phương pháp biện phân cộng đoàn và tông truyền là biểu thức nói lên chính bản chất của Giáo Hội, mầu nhiệm hiệp thông với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần [43]. Tính đồng nghị không chỉ là một thủ tục làm việc, mà là hình thức đặc thù trong đó, Giáo Hội sống và hoạt động. Với quan điểm này, và dưới ánh sáng giáo hội học của Vatican II, chương này sẽ tập trung vào nền tảng và nội dung thần học của tính đồng nghị.
2.1 Cơ sở thần học của tính đồng nghị
43. Giáo hội là de Trinitate plebs adunata (Dân do Ba Ngôi tụ tập) [44], được gọi và đủ điều kiện làm Dân Thiên Chúa để ra đi thực hiện sứ mệnh của mình "với Thiên Chúa, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần" [45]. Nhờ cách này, trong Chúa Kitô và qua Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tham dự vào đời sống hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, một đời sống muốn ôm lấy toàn thể nhân loại [46]. Trong ơn phúc và cam kết hiệp thông, ta có thể tìm thấy nguồn gốc, hình thức và phạm vi của tính đồng nghị, vì nó nói lên modus vivendi et operandi (cách sống và hoạt động) chuyên biệt của Dân Thiên Chúa trong việc tham gia có trách nhiệm và có trật tự của tất cả các thành viên trong việc biện phân và thực hành các cách hoàn thành sứ vụ của mình. Việc thực hiện tính đồng nghị làm cho ơn gọi sống hiệp thông của con người trở thành hiện thực, thông qua việc thành thực tự hiến, hợp nhất với Thiên Chúa và đoàn kết với các anh chị em của chúng ta trong Chúa Kitô [47].
44. Để thực thi kế hoạch cứu rỗi, Chúa Giêsu phục sinh đã ban ơn Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ (xem Ga 20: 22). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Thiên Chúa đã được đổ xuống trên tất cả những ai, bất kể nguồn gốc của họ, lắng nghe và nghênh đón sứ điệp sơ truyền (kérygma), tiên báo việc tụ tập mọi dân tộc trong một Dân Thiên Chúa duy nhất (xem Cv 2:11). Trong sâu thẳm tâm hồn họ, Chúa Thánh Thần đã đem vào và lên khuôn sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô và Đền Thờ sống động của Chúa Thánh Thần (xem Ga 2: 21; 1 Cr 2:1-11). "Tin rằng Giáo Hội là 'thánh' và 'Công Giáo', và Giáo Hội là 'duy nhất' và 'tông truyền’ (như Kinh Tin Kính Nixêa đã thêm vào) là điều không thể tách biệt với niềm tin vào Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. "[48].
45. Giáo Hội là duy nhất vì Giáo Hội có nguồn gốc, khuôn mẫu và mục tiêu của mình trong sự hợp nhất của Ba Ngôi Chí Thánh (xem Ga 17: 21-22). Giáo Hội là Dân Thiên Chúa đang lữ hành trên trái đất để hòa giải mọi người trong sự thống nhất của Thân Thể Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần (xem 1 Cr 12: 4).
Giáo Hội là thánh thiện vì Giáo Hội là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa (xem 2 Cr 13: 13): được làm cho thánh thiện bởi ơn sủng của Chúa Kitô, Đấng đã ban chính Người cho Giáo Hội như một Phu Quân cho Nàng Dâu của Người (xem Ep 5: 23), và được làm cho sống động nhờ tình yêu của Chúa Cha tràn đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần (xem Rm 5: 5). Sự hiệp thông của các thánh (communio sanctorum) trở nên hiện thực trong Giáo Hội trong cả hai ý nghĩa của nó: hiệp thông với những điều thánh thiện (sancta) và hiệp thông giữa những người đã được làm cho thánh thiện (sancti) [49]. Theo cách này, dân thánh thiện của Thiên Chúa lữ hành hướng tới tình trạng hoàn hảo của sự thánh thiện – vốn là ơn gọi của mọi thành viên của nó – được đồng hành bởi sự cầu bầu của Đức Mẹ Diễm Phúc, của các vị Tử Đạo và của các Thánh, sau khi đã được thiết lập và sai đi như là bí tích phổ quát của hợp nhất và cứu rỗi.
Giáo hội là Công Giáo vì Giáo Hội duy trì tính toàn vẹn và toàn diện của đức tin (xem Mt 16: 16) và Giáo Hội đã được sai đi để tập hợp thành một dân tộc thánh thiện duy nhất mọi dân tộc trên trái đất (xem Mt 28: 19). Giáo Hội là Tông truyền vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ (xem Ep 2: 20), vì Giáo Hội chuyển giao đức tin của các ngài và vì Giáo Hội được giảng dạy, thánh hóa và cai trị bởi những người kế vị các ngài (xem Cv 20: 19).
46. Nguyên tắc của tính đồng nghị là hành động của Chúa Thánh Thần trong sự hiệp thông của Thân Thể Chúa Kitô và trong cuộc hành trình truyền giáo của Dân Thiên Chúa. Thực sự, trong tư cách nexus amoris (nối kết yêu thương) trong đời sống của Thiên Chúa như là Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần ban cùng một tình yêu này cho Giáo Hội, và Giáo Hội được xây dựng thành κοινωνία τοῦ ἁγίου πνεύματος [koinonia tou agiou pneumatos] (xem 2 Cr 13: 13). Ơn Chúa Thánh Thần, vốn là một và như nhau trong tất cả những người đã chịu phép rửa, được thể hiện dưới nhiều hình thức: phẩm giá bình đẳng của những người đã chịu phép rửa; ơn gọi phổ quát nên thánh [50]; mọi tín hữu tham dự vào chức vụ linh mục, tiên tri và vương giả của Chúa Giêsu Kitô; sự phong phú của các ơn phẩm trật và đặc sủng [51]; đời sống và sứ mệnh của mỗi Giáo hội địa phương.
47. Con đường đồng nghị của Giáo Hội được hình thành và nuôi dưỡng bởi Thánh Thể. Đó là "trung tâm của toàn bộ đời sống Kitô Giáo đối với Giáo Hội cả hoàn vũ lẫn địa phương, cũng như đối với mỗi tín hữu cá thể" [52]. Nguồn và đỉnh của tính đồng nghị nằm trong việc cử hành phụng vụ và - một cách độc đáo - trong việc tham gia trọn vẹn, có ý thức và tích cực của chúng ta vào cộng đoàn Thánh Thể (Eucharistic synaxis) [53]. Vì sự hiệp thông của chúng ta với Mình và Máu Chúa Kitô, "chúng ta, mặc dù nhiều người, chỉ là một thân thể duy nhất, vì chúng ta cùng dự phần vào một ổ bánh duy nhất "(1 Cr 10: 17).
Thánh Thể đại biểu cho và làm cho hiển hiện tư cách chi thể Thân Thể Chúa Kitô của chúng ta, một tư cách chúng ta cùng chia sẻ với nhau như những Kitô hữu (1 Cr 12: 12). Các Giáo Hội địa phương được hình thành xung quanh bàn Thánh Thể và tập hợp ở đó trong sự hợp nhất của một Giáo Hội duy nhất. Cộng đoàn Thánh Thể nói lên và làm cho khía cạnh “chúng ta” trong hiệp thông các thánh (communio sanctorum) hiện hữu, trong đó các tín hữu được trở nên những người dự phần vào ơn thánh của Thiên Chúa dưới nhiều hình thức của nó. Ordo ad Synodum [Qui Định Dự Công Nghị] của các Công đồng Toledo vào thế kỷ thứ 7, và Cærimoniale Episcoporum [Sách Nghi Thức Của Các Giám Mục], được ban hành vào năm 1984, cho thấy bản chất phụng vụ của một tụ tập có tính đồng nghị, và quy định rằng nó nên bắt đầu bằng và tập trung vào việc cử hành Thánh Thể và công bố Tin Mừng.
48. Chúa tuôn đổ Thần Khí của Người ở mọi nơi và mọi thời lên Dân Thiên Chúa, giúp họ chia sẻ cuộc sống của Người, nuôi dưỡng họ bằng Thánh Thể và hướng dẫn họ trong sự hiệp thông có tính đồng nghị. Do đó, "có tính đồng nghị thực sự có nghĩa là tiến lên trong hòa hợp, được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần" [54]. Dù thủ tục và các biến cố có tính đồng nghị có một khởi đầu, một diễn trình và một kết luận, tính đồng nghị cho ta một mô tả chuyên biệt về sự phát triển có tính lịch sử đúng nghĩa của Giáo Hội, thổi sự sống vào các cơ cấu của Giáo Hội và chỉ đạo sứ mệnh của Giáo Hội. Các chiều kích Ba Ngôi, nhân học, Kitô học, thần khí học và Thánh Thể trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, một kế hoạch đang hành động trong mầu nhiệm Giáo Hội, là chân trời thần học làm bối cảnh cho sự phát triển tính đồng nghị trong các thế kỷ.
2.2 Con đường đồng nghị của Dân lữ hành và truyền giáo của Thiên Chúa
49. Tính đồng nghị biểu lộ đặc tính 'lữ hành' của Giáo Hội. Hình ảnh Dân Thiên Chúa, được tụ tập từ mọi quốc gia (Cv 2: 1-9; 15: 14), nói lên đặc tính xã hội, lịch sử và truyền giáo của nó, tương ứng với điều kiện và ơn gọi của mỗi người trong tư cách homo viator (người lữ thứ). Con đường là hình ảnh làm sáng tỏ cái hiểu của chúng ta về mầu nhiệm Chúa Kitô như Đường dẫn ta đến Chúa Cha [55]. Chúa Giêsu là đường từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa [56]. Biến cố đầy ân sủng, theo đó Người đã làm cho chính Người trở thành một người lữ hành bằng cách dựng lều của Người giữa chúng ta (Ga 1: 14), tiếp tục diễn tiến trong con đường đồng nghị của Giáo Hội.
50. Giáo Hội lữ hành với Chúa Kitô, qua Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Người, Đấng lữ thứ, là Đường và là quê hương của chúng ta, ban Thần Khí Tình Yêu của Người (Rm 5: 5) để trong Người, chúng ta có thể theo "con đường hoàn hảo nhất" (1 Cr 12: 31). Giáo Hội được mời gọi vạch lại bước chân của Chúa cho đến khi Người trở lại (1 Cr 11: 26). Giáo Hội là Dân của Đường (Cv 9:2; 18:25; 19:9) hướng tới Nước Trời (Pl 3: 20). Tính đồng nghị là hình thức lịch sử của việc Giáo Hội lữ hành trong hiệp thông hướng tới an nghỉ cuối cùng (Dt 3:7- 4:44). Đức tin, đức cậy và đức ái hướng dẫn và thông tri cuộc hành hương của cộng đồng dân Chúa "hướng về thành thánh tương lai" (Dt 11: 10). Kitô hữu là "người hành hương và khách lạ" trên thế gian (1 Pr 2:11), được vinh dự lãnh nhận ơn phúc và trách nhiệm công bố Tin Mừng của Nước Trời cho mọi người.
51. Dân Thiên Chúa đang lữ hành hướng về tận cùng thời gian (Mt 28: 20) và tận cùng trái đất (Cv 1: 8). Giáo Hội sống qua mọi không gian trong nhiều Giáo Hội địa phương khác nhau và trải dài từ thời Lễ Vượt Qua của Chúa Kitô cho đến ngày Người Parousia (trở lại). Giáo Hội là một chủ thể lịch sử đơn nhất; vốn đã hiện diện và hành động trong Giáo Hội là định mệnh cánh chung của sự kết hợp dứt khoát với Thiên Chúa và sự thống nhất của gia đình nhân loại trong Chúa Kitô [57]. Hình thức đồng nghị của cuộc lữ hành của Giáo Hội nói lên và cổ vũ việc thực thi hiệp thông trong mỗi Giáo Hội địa phương và giữa các giáo hội này trong một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.
52. Chiều kích đồng nghị của Giáo Hội hàm nghĩa sự hiệp thông trong đức tin sống động của các Giáo Hội địa phương với nhau và với Giáo Hội Rôma, cả hai theo nghĩa lịch đại (diachronic) – antiquitas (cổ kính) - và trong nghĩa đồng đại (synchronic) – universitas (phổ quát). Việc chuyển giao và tiếp nhận các Biểu Tượng của đức tin và các quyết định của các công nghị địa phương, giáo tỉnh và - theo một nghĩa chuyên biệt và phổ quát – các công nghị chung, đã nói lên và bảo đảm một cách quy phạm rằng sự hiệp thông trong đức tin được Giáo Hội tuyên xưng ở khắp mọi nơi, mọi thời và bởi mọi người (quod ubique, quod semper, quod ab omnibus creditum est) [58].
53. Tính đồng nghị được sống thực trong Giáo Hội để phục vụ công việc truyền giáo. Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est [59]; Giáo Hội hiện hữu là để truyền giáo [60]. Toàn thể dân Thiên Chúa là một tác nhân của việc công bố Tin Mừng [61]. Mỗi người đã chịu phép rửa đều được mời gọi trở thành người chủ đạo của việc sai đi vì tất cả chúng ta đều là những môn đệ truyền giáo. Giáo Hội được kêu gọi, trong sức mạnh tổng hợp đồng nghị, kích hoạt các thừa tác vụ, các đặc sủng hiện diện trong cuộc sống của mình và lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, để biện phân các cách loan báo Tin Mừng.
2.3 Tính đồng nghị như một biểu thức của giáo hội học hiệp thông
54. Hiến chế tín lý Lumen Gentium cung cấp các nguyên tắc cốt yếu để hiểu đúng đắn tính đồng nghị trong viễn tượng giáo hội học hiệp thông. Thứ tự trong các chương đầu tiên của nó cho thấy một bước tiến quan trọng trong cách Giáo hội hiểu chính mình. Trình tự - Mầu Nhiệm Giáo Hội (chương 1), dân Chúa (chương 2), Hiến pháp có tính phẩm trật của Giáo hội (chương 3) - nhấn mạnh rằng phẩm trật giáo hội là nhằm phục vụ dân Chúa ngõ hầu Giáo Hội có thể thực hiện sứ mệnh của mình phù hợp với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, trong luận lý học coi toàn thể ưu tiên hơn các bộ phận của nó và cùng đích ưu tiên hơn các phương tiện.
55. Tính đồng nghị có nghĩa là toàn thể Giáo Hội là chủ thể và mọi người trong Giáo Hội là một chủ thể. Người tín hữu là những σύνοδοι, những người bạn cùng đi trong cuộc hành trình. Họ được kêu gọi đóng một vai trò tích cực vì họ cùng chia sẻ một chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô [62], và nhận lãnh các đặc sủng đa dạng do Chúa Thánh Thần ban cho nhằm lợi ích chung [63]. Đời sống có tính đồng nghị cho thấy một Giáo hội bao gồm các chủ thể tự do và khác nhau, hiệp nhất trong hiệp thông, được biểu lộ một cách năng động như là một chủ thể cộng đoàn đơn nhất được xây dựng trên Chúa Kitô, đá góc, và trên các Tông Đồ, những vị giống như cột trụ, được xây dựng như man vàn viên đá sống động thành "một ngôi nhà thiêng liêng" (xem 1 Pr 2: 5), "một nơi ở của Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần" (Ep 2: 22).
56. Do phép rửa của họ, mọi tín hữu được kêu gọi làm chứng cho và tuyên xưng Lời sự thật và sự sống, vì họ là thành viên của Dân tiên tri, tư tế và vương giả của Thiên Chúa [64]. Các giám mục thực thi thẩm quyền tông truyền chuyên biệt của các ngài trong việc giảng dạy, thánh hóa và cai quản Giáo Hội đặc thù được giao phó cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài để phục vụ sứ mệnh của Dân Thiên Chúa.
Sự xức dầu của Chúa Thánh Thần được thể hiện trong sensus fidei [cảm thức đức tin] của các tín hữu [65]. "Trong mọi người đã chịu phép rửa, từ người đầu đến người cuối, quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần đang làm việc, thúc đẩy chúng ta đi truyền giáo. Dân Thiên Chúa là thánh nhờ sự xức dầu này, sự xức dầu làm cho nó vô ngộ in credendo. Điều này có nghĩa là nó không sai lầm trong đức tin, ngay cả khi nó không thể tìm ra lời để giải thích đức tin này. Chúa Thánh Thần hướng dẫn nó trong sự thật và dẫn nó đến sự cứu rỗi. Như một phần của tình yêu mầu nhiệm của Người đối với nhân loại, Thiên Chúa cung cấp cho toàn bộ các tín hữu một bản năng đức tin - sensus fidei - giúp họ biện phân những gì thực sự thuộc Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mang đến cho các Kitô hữu một tính đồng bản nhiên (connaturality) nào đó với các thực tại thần thiêng, và một sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại này một cách trực quan. Tính đồng bản nhiên này tự biểu lộ trong việc “sentire cum Ecclesia : cảm thấy, cảm thức và nhận thức một cách hòa điệu với Giáo Hội. Điều này được yêu cầu không chỉ nơi các nhà thần học, nhưng nơi mọi tín hữu, nó đoàn kết mọi thành viên của dân Thiên Chúa khi họ thực hiện cuộc hành hương lữ thứ của họ. Đó là điều then chốt cho việc họ "cùng đi với nhau" [67].
57. Tiếp nối quan điểm giáo hội học của Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phanxicô phác thảo hình ảnh về một Giáo Hội có tính đồng nghị như là "một kim tự tháp ngược" bao gồm Dân Thiên Chúa và Giám Mục Đoàn, mà một trong các thành viên của nó, Người kế vị Thánh Phêrô, có thừa tác vụ hợp nhất chuyên biệt. Ở đây đỉnh nằm bên dưới đáy.
"Tính đồng nghị, như là một yếu tố cấu thành ra Giáo Hội, cung cấp cho chúng ta cái khung giải thích thích hợp nhất để hiểu chính thừa tác vụ có phẩm trật ... Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội bằng cách đặt ở đầu Giáo Hội Đoàn Tông Đồ, trong đó Thánh Tông Đồ Phêrô là 'đá' (xem Mt 16: 18), là người phải "củng cố" các anh em của mình trong đức tin (xem Lc 22: 32). Nhưng trong Giáo hội này, như trong một kim tự tháp ngược, đầu nằm dưới chân đế. Thành thử, những người thực thi thẩm quyền được gọi là 'thừa tác viên', vì, theo nghĩa gốc của từ ngữ, họ là người chót nhất trong tất cả"[68].
Kỳ sau: Chương 2, 2.4 - 2.6
42. Giáo huấn của Thánh Kinh và Thánh Truyền cho thấy tính đồng nghị là một chiều kích yếu tính của Giáo Hội. Qua tính đồng nghị, Giáo Hội biểu lộ và lên hình tượng chính mình như là Dân Lữ Hành của Thiên Chúa và như là hội đồng được Chúa Phục Sinh triệu tập. Chương 1, cách riêng, cho thấy đặc tính gương mẫu và qui phạm của Công đồng Giêrusalem (Cv 15: 4-29). Điều đó cho thấy, khi đương đầu với một thách thức có tính quyết định đối với Giáo Hội tiên khởi, phương pháp biện phân cộng đoàn và tông truyền là biểu thức nói lên chính bản chất của Giáo Hội, mầu nhiệm hiệp thông với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần [43]. Tính đồng nghị không chỉ là một thủ tục làm việc, mà là hình thức đặc thù trong đó, Giáo Hội sống và hoạt động. Với quan điểm này, và dưới ánh sáng giáo hội học của Vatican II, chương này sẽ tập trung vào nền tảng và nội dung thần học của tính đồng nghị.
2.1 Cơ sở thần học của tính đồng nghị
43. Giáo hội là de Trinitate plebs adunata (Dân do Ba Ngôi tụ tập) [44], được gọi và đủ điều kiện làm Dân Thiên Chúa để ra đi thực hiện sứ mệnh của mình "với Thiên Chúa, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần" [45]. Nhờ cách này, trong Chúa Kitô và qua Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tham dự vào đời sống hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, một đời sống muốn ôm lấy toàn thể nhân loại [46]. Trong ơn phúc và cam kết hiệp thông, ta có thể tìm thấy nguồn gốc, hình thức và phạm vi của tính đồng nghị, vì nó nói lên modus vivendi et operandi (cách sống và hoạt động) chuyên biệt của Dân Thiên Chúa trong việc tham gia có trách nhiệm và có trật tự của tất cả các thành viên trong việc biện phân và thực hành các cách hoàn thành sứ vụ của mình. Việc thực hiện tính đồng nghị làm cho ơn gọi sống hiệp thông của con người trở thành hiện thực, thông qua việc thành thực tự hiến, hợp nhất với Thiên Chúa và đoàn kết với các anh chị em của chúng ta trong Chúa Kitô [47].
44. Để thực thi kế hoạch cứu rỗi, Chúa Giêsu phục sinh đã ban ơn Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ (xem Ga 20: 22). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Thiên Chúa đã được đổ xuống trên tất cả những ai, bất kể nguồn gốc của họ, lắng nghe và nghênh đón sứ điệp sơ truyền (kérygma), tiên báo việc tụ tập mọi dân tộc trong một Dân Thiên Chúa duy nhất (xem Cv 2:11). Trong sâu thẳm tâm hồn họ, Chúa Thánh Thần đã đem vào và lên khuôn sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô và Đền Thờ sống động của Chúa Thánh Thần (xem Ga 2: 21; 1 Cr 2:1-11). "Tin rằng Giáo Hội là 'thánh' và 'Công Giáo', và Giáo Hội là 'duy nhất' và 'tông truyền’ (như Kinh Tin Kính Nixêa đã thêm vào) là điều không thể tách biệt với niềm tin vào Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. "[48].
45. Giáo Hội là duy nhất vì Giáo Hội có nguồn gốc, khuôn mẫu và mục tiêu của mình trong sự hợp nhất của Ba Ngôi Chí Thánh (xem Ga 17: 21-22). Giáo Hội là Dân Thiên Chúa đang lữ hành trên trái đất để hòa giải mọi người trong sự thống nhất của Thân Thể Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần (xem 1 Cr 12: 4).
Giáo Hội là thánh thiện vì Giáo Hội là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa (xem 2 Cr 13: 13): được làm cho thánh thiện bởi ơn sủng của Chúa Kitô, Đấng đã ban chính Người cho Giáo Hội như một Phu Quân cho Nàng Dâu của Người (xem Ep 5: 23), và được làm cho sống động nhờ tình yêu của Chúa Cha tràn đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần (xem Rm 5: 5). Sự hiệp thông của các thánh (communio sanctorum) trở nên hiện thực trong Giáo Hội trong cả hai ý nghĩa của nó: hiệp thông với những điều thánh thiện (sancta) và hiệp thông giữa những người đã được làm cho thánh thiện (sancti) [49]. Theo cách này, dân thánh thiện của Thiên Chúa lữ hành hướng tới tình trạng hoàn hảo của sự thánh thiện – vốn là ơn gọi của mọi thành viên của nó – được đồng hành bởi sự cầu bầu của Đức Mẹ Diễm Phúc, của các vị Tử Đạo và của các Thánh, sau khi đã được thiết lập và sai đi như là bí tích phổ quát của hợp nhất và cứu rỗi.
Giáo hội là Công Giáo vì Giáo Hội duy trì tính toàn vẹn và toàn diện của đức tin (xem Mt 16: 16) và Giáo Hội đã được sai đi để tập hợp thành một dân tộc thánh thiện duy nhất mọi dân tộc trên trái đất (xem Mt 28: 19). Giáo Hội là Tông truyền vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ (xem Ep 2: 20), vì Giáo Hội chuyển giao đức tin của các ngài và vì Giáo Hội được giảng dạy, thánh hóa và cai trị bởi những người kế vị các ngài (xem Cv 20: 19).
46. Nguyên tắc của tính đồng nghị là hành động của Chúa Thánh Thần trong sự hiệp thông của Thân Thể Chúa Kitô và trong cuộc hành trình truyền giáo của Dân Thiên Chúa. Thực sự, trong tư cách nexus amoris (nối kết yêu thương) trong đời sống của Thiên Chúa như là Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần ban cùng một tình yêu này cho Giáo Hội, và Giáo Hội được xây dựng thành κοινωνία τοῦ ἁγίου πνεύματος [koinonia tou agiou pneumatos] (xem 2 Cr 13: 13). Ơn Chúa Thánh Thần, vốn là một và như nhau trong tất cả những người đã chịu phép rửa, được thể hiện dưới nhiều hình thức: phẩm giá bình đẳng của những người đã chịu phép rửa; ơn gọi phổ quát nên thánh [50]; mọi tín hữu tham dự vào chức vụ linh mục, tiên tri và vương giả của Chúa Giêsu Kitô; sự phong phú của các ơn phẩm trật và đặc sủng [51]; đời sống và sứ mệnh của mỗi Giáo hội địa phương.
47. Con đường đồng nghị của Giáo Hội được hình thành và nuôi dưỡng bởi Thánh Thể. Đó là "trung tâm của toàn bộ đời sống Kitô Giáo đối với Giáo Hội cả hoàn vũ lẫn địa phương, cũng như đối với mỗi tín hữu cá thể" [52]. Nguồn và đỉnh của tính đồng nghị nằm trong việc cử hành phụng vụ và - một cách độc đáo - trong việc tham gia trọn vẹn, có ý thức và tích cực của chúng ta vào cộng đoàn Thánh Thể (Eucharistic synaxis) [53]. Vì sự hiệp thông của chúng ta với Mình và Máu Chúa Kitô, "chúng ta, mặc dù nhiều người, chỉ là một thân thể duy nhất, vì chúng ta cùng dự phần vào một ổ bánh duy nhất "(1 Cr 10: 17).
Thánh Thể đại biểu cho và làm cho hiển hiện tư cách chi thể Thân Thể Chúa Kitô của chúng ta, một tư cách chúng ta cùng chia sẻ với nhau như những Kitô hữu (1 Cr 12: 12). Các Giáo Hội địa phương được hình thành xung quanh bàn Thánh Thể và tập hợp ở đó trong sự hợp nhất của một Giáo Hội duy nhất. Cộng đoàn Thánh Thể nói lên và làm cho khía cạnh “chúng ta” trong hiệp thông các thánh (communio sanctorum) hiện hữu, trong đó các tín hữu được trở nên những người dự phần vào ơn thánh của Thiên Chúa dưới nhiều hình thức của nó. Ordo ad Synodum [Qui Định Dự Công Nghị] của các Công đồng Toledo vào thế kỷ thứ 7, và Cærimoniale Episcoporum [Sách Nghi Thức Của Các Giám Mục], được ban hành vào năm 1984, cho thấy bản chất phụng vụ của một tụ tập có tính đồng nghị, và quy định rằng nó nên bắt đầu bằng và tập trung vào việc cử hành Thánh Thể và công bố Tin Mừng.
48. Chúa tuôn đổ Thần Khí của Người ở mọi nơi và mọi thời lên Dân Thiên Chúa, giúp họ chia sẻ cuộc sống của Người, nuôi dưỡng họ bằng Thánh Thể và hướng dẫn họ trong sự hiệp thông có tính đồng nghị. Do đó, "có tính đồng nghị thực sự có nghĩa là tiến lên trong hòa hợp, được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần" [54]. Dù thủ tục và các biến cố có tính đồng nghị có một khởi đầu, một diễn trình và một kết luận, tính đồng nghị cho ta một mô tả chuyên biệt về sự phát triển có tính lịch sử đúng nghĩa của Giáo Hội, thổi sự sống vào các cơ cấu của Giáo Hội và chỉ đạo sứ mệnh của Giáo Hội. Các chiều kích Ba Ngôi, nhân học, Kitô học, thần khí học và Thánh Thể trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, một kế hoạch đang hành động trong mầu nhiệm Giáo Hội, là chân trời thần học làm bối cảnh cho sự phát triển tính đồng nghị trong các thế kỷ.
2.2 Con đường đồng nghị của Dân lữ hành và truyền giáo của Thiên Chúa
49. Tính đồng nghị biểu lộ đặc tính 'lữ hành' của Giáo Hội. Hình ảnh Dân Thiên Chúa, được tụ tập từ mọi quốc gia (Cv 2: 1-9; 15: 14), nói lên đặc tính xã hội, lịch sử và truyền giáo của nó, tương ứng với điều kiện và ơn gọi của mỗi người trong tư cách homo viator (người lữ thứ). Con đường là hình ảnh làm sáng tỏ cái hiểu của chúng ta về mầu nhiệm Chúa Kitô như Đường dẫn ta đến Chúa Cha [55]. Chúa Giêsu là đường từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa [56]. Biến cố đầy ân sủng, theo đó Người đã làm cho chính Người trở thành một người lữ hành bằng cách dựng lều của Người giữa chúng ta (Ga 1: 14), tiếp tục diễn tiến trong con đường đồng nghị của Giáo Hội.
50. Giáo Hội lữ hành với Chúa Kitô, qua Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Người, Đấng lữ thứ, là Đường và là quê hương của chúng ta, ban Thần Khí Tình Yêu của Người (Rm 5: 5) để trong Người, chúng ta có thể theo "con đường hoàn hảo nhất" (1 Cr 12: 31). Giáo Hội được mời gọi vạch lại bước chân của Chúa cho đến khi Người trở lại (1 Cr 11: 26). Giáo Hội là Dân của Đường (Cv 9:2; 18:25; 19:9) hướng tới Nước Trời (Pl 3: 20). Tính đồng nghị là hình thức lịch sử của việc Giáo Hội lữ hành trong hiệp thông hướng tới an nghỉ cuối cùng (Dt 3:7- 4:44). Đức tin, đức cậy và đức ái hướng dẫn và thông tri cuộc hành hương của cộng đồng dân Chúa "hướng về thành thánh tương lai" (Dt 11: 10). Kitô hữu là "người hành hương và khách lạ" trên thế gian (1 Pr 2:11), được vinh dự lãnh nhận ơn phúc và trách nhiệm công bố Tin Mừng của Nước Trời cho mọi người.
51. Dân Thiên Chúa đang lữ hành hướng về tận cùng thời gian (Mt 28: 20) và tận cùng trái đất (Cv 1: 8). Giáo Hội sống qua mọi không gian trong nhiều Giáo Hội địa phương khác nhau và trải dài từ thời Lễ Vượt Qua của Chúa Kitô cho đến ngày Người Parousia (trở lại). Giáo Hội là một chủ thể lịch sử đơn nhất; vốn đã hiện diện và hành động trong Giáo Hội là định mệnh cánh chung của sự kết hợp dứt khoát với Thiên Chúa và sự thống nhất của gia đình nhân loại trong Chúa Kitô [57]. Hình thức đồng nghị của cuộc lữ hành của Giáo Hội nói lên và cổ vũ việc thực thi hiệp thông trong mỗi Giáo Hội địa phương và giữa các giáo hội này trong một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.
52. Chiều kích đồng nghị của Giáo Hội hàm nghĩa sự hiệp thông trong đức tin sống động của các Giáo Hội địa phương với nhau và với Giáo Hội Rôma, cả hai theo nghĩa lịch đại (diachronic) – antiquitas (cổ kính) - và trong nghĩa đồng đại (synchronic) – universitas (phổ quát). Việc chuyển giao và tiếp nhận các Biểu Tượng của đức tin và các quyết định của các công nghị địa phương, giáo tỉnh và - theo một nghĩa chuyên biệt và phổ quát – các công nghị chung, đã nói lên và bảo đảm một cách quy phạm rằng sự hiệp thông trong đức tin được Giáo Hội tuyên xưng ở khắp mọi nơi, mọi thời và bởi mọi người (quod ubique, quod semper, quod ab omnibus creditum est) [58].
53. Tính đồng nghị được sống thực trong Giáo Hội để phục vụ công việc truyền giáo. Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est [59]; Giáo Hội hiện hữu là để truyền giáo [60]. Toàn thể dân Thiên Chúa là một tác nhân của việc công bố Tin Mừng [61]. Mỗi người đã chịu phép rửa đều được mời gọi trở thành người chủ đạo của việc sai đi vì tất cả chúng ta đều là những môn đệ truyền giáo. Giáo Hội được kêu gọi, trong sức mạnh tổng hợp đồng nghị, kích hoạt các thừa tác vụ, các đặc sủng hiện diện trong cuộc sống của mình và lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, để biện phân các cách loan báo Tin Mừng.
2.3 Tính đồng nghị như một biểu thức của giáo hội học hiệp thông
54. Hiến chế tín lý Lumen Gentium cung cấp các nguyên tắc cốt yếu để hiểu đúng đắn tính đồng nghị trong viễn tượng giáo hội học hiệp thông. Thứ tự trong các chương đầu tiên của nó cho thấy một bước tiến quan trọng trong cách Giáo hội hiểu chính mình. Trình tự - Mầu Nhiệm Giáo Hội (chương 1), dân Chúa (chương 2), Hiến pháp có tính phẩm trật của Giáo hội (chương 3) - nhấn mạnh rằng phẩm trật giáo hội là nhằm phục vụ dân Chúa ngõ hầu Giáo Hội có thể thực hiện sứ mệnh của mình phù hợp với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, trong luận lý học coi toàn thể ưu tiên hơn các bộ phận của nó và cùng đích ưu tiên hơn các phương tiện.
55. Tính đồng nghị có nghĩa là toàn thể Giáo Hội là chủ thể và mọi người trong Giáo Hội là một chủ thể. Người tín hữu là những σύνοδοι, những người bạn cùng đi trong cuộc hành trình. Họ được kêu gọi đóng một vai trò tích cực vì họ cùng chia sẻ một chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô [62], và nhận lãnh các đặc sủng đa dạng do Chúa Thánh Thần ban cho nhằm lợi ích chung [63]. Đời sống có tính đồng nghị cho thấy một Giáo hội bao gồm các chủ thể tự do và khác nhau, hiệp nhất trong hiệp thông, được biểu lộ một cách năng động như là một chủ thể cộng đoàn đơn nhất được xây dựng trên Chúa Kitô, đá góc, và trên các Tông Đồ, những vị giống như cột trụ, được xây dựng như man vàn viên đá sống động thành "một ngôi nhà thiêng liêng" (xem 1 Pr 2: 5), "một nơi ở của Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần" (Ep 2: 22).
56. Do phép rửa của họ, mọi tín hữu được kêu gọi làm chứng cho và tuyên xưng Lời sự thật và sự sống, vì họ là thành viên của Dân tiên tri, tư tế và vương giả của Thiên Chúa [64]. Các giám mục thực thi thẩm quyền tông truyền chuyên biệt của các ngài trong việc giảng dạy, thánh hóa và cai quản Giáo Hội đặc thù được giao phó cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài để phục vụ sứ mệnh của Dân Thiên Chúa.
Sự xức dầu của Chúa Thánh Thần được thể hiện trong sensus fidei [cảm thức đức tin] của các tín hữu [65]. "Trong mọi người đã chịu phép rửa, từ người đầu đến người cuối, quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần đang làm việc, thúc đẩy chúng ta đi truyền giáo. Dân Thiên Chúa là thánh nhờ sự xức dầu này, sự xức dầu làm cho nó vô ngộ in credendo. Điều này có nghĩa là nó không sai lầm trong đức tin, ngay cả khi nó không thể tìm ra lời để giải thích đức tin này. Chúa Thánh Thần hướng dẫn nó trong sự thật và dẫn nó đến sự cứu rỗi. Như một phần của tình yêu mầu nhiệm của Người đối với nhân loại, Thiên Chúa cung cấp cho toàn bộ các tín hữu một bản năng đức tin - sensus fidei - giúp họ biện phân những gì thực sự thuộc Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mang đến cho các Kitô hữu một tính đồng bản nhiên (connaturality) nào đó với các thực tại thần thiêng, và một sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại này một cách trực quan. Tính đồng bản nhiên này tự biểu lộ trong việc “sentire cum Ecclesia : cảm thấy, cảm thức và nhận thức một cách hòa điệu với Giáo Hội. Điều này được yêu cầu không chỉ nơi các nhà thần học, nhưng nơi mọi tín hữu, nó đoàn kết mọi thành viên của dân Thiên Chúa khi họ thực hiện cuộc hành hương lữ thứ của họ. Đó là điều then chốt cho việc họ "cùng đi với nhau" [67].
57. Tiếp nối quan điểm giáo hội học của Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phanxicô phác thảo hình ảnh về một Giáo Hội có tính đồng nghị như là "một kim tự tháp ngược" bao gồm Dân Thiên Chúa và Giám Mục Đoàn, mà một trong các thành viên của nó, Người kế vị Thánh Phêrô, có thừa tác vụ hợp nhất chuyên biệt. Ở đây đỉnh nằm bên dưới đáy.
"Tính đồng nghị, như là một yếu tố cấu thành ra Giáo Hội, cung cấp cho chúng ta cái khung giải thích thích hợp nhất để hiểu chính thừa tác vụ có phẩm trật ... Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội bằng cách đặt ở đầu Giáo Hội Đoàn Tông Đồ, trong đó Thánh Tông Đồ Phêrô là 'đá' (xem Mt 16: 18), là người phải "củng cố" các anh em của mình trong đức tin (xem Lc 22: 32). Nhưng trong Giáo hội này, như trong một kim tự tháp ngược, đầu nằm dưới chân đế. Thành thử, những người thực thi thẩm quyền được gọi là 'thừa tác viên', vì, theo nghĩa gốc của từ ngữ, họ là người chót nhất trong tất cả"[68].
Kỳ sau: Chương 2, 2.4 - 2.6
Văn Hóa
2019 Đầu Năm Khai Bút
Lê Đình Thông
10:26 01/01/2019
Năm nay chín nút hẳn là hên
Nước nhà mau thoát ách ươn hèn
Giặc Tầu đừng quên "lai xâm phạm"
Thiên thư định trước : nước nhà yên.
Bà con khắp chốn luôn no đủ
Cuộc sống an bình mãi ấm êm
Số 9 dương lịch nhiều hứa hẹn
Niềm vui chợt đến phước triền miên.
Lê Đình Thông