Phụng Vụ - Mục Vụ
Thần tượng của tôi
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs
01:11 13/01/2011
Trong Đại Hội giới trẻ giáo xứ Phú Trung mới đây, khi các bạn được hỏi “Ai là thần tượng của bạn?” thì câu trả lời là “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”, là “Mẹ em”, là “Bill Gates” hay một vĩ nhân nào đó. Thật vui vì các bạn trẻ Công giáo không ai chọn những ca sĩ diễn viên mau lên chóng xuống. Nhưng đồng thời cũng không vui trọn vẹn vì chưa thấy bạn nghĩ nhiều đến một Con Người đã làm thay đổi diện mạo thế giới này.
Vào ngày 01-10-1977, trên một sân vận động tại NewYork, trước 80 ngàn khán giả hâm mộ bóng đá, cầu thủ lừng danh Pélé đã ghi cho mình bàn thắng thứ 1,278. Sau đó anh đã tuyên bố giã từ đời cầu thủ chuyên nghiệp. Sau khi cởi áo cầu thủ gởi tặng giao lưu với khán giả, một phóng viên đã hỏi anh: “Pélé, anh đang là thần tượng của hàng triệu bạn trẻ, vậy trong cuộc đời của anh, anh có thần tượng nào không ?” Pélé chỉ vào cây Thánh Giá đang đeo trước ngực và trả lời: “Có chứ, thần tượng của tôi là chính Đức Chúa Giêsu Kitô”. (theo R.Veritas)
Con Người Giêsu Kytô chính là Đấng Cứu Chuộc nhân loại này. Người đã làm thay đổi vô số người trẻ, để họ sống và hành động theo cung cách của những người được tuyển chọn và được cứu độ. Có một thời người ta tưởng rằng Đức Giêsu Kytô chỉ cứu linh hồn con người, chú trọng đến đời sau, chẳng quan tâm gì đến “đời tạm” này. Nhưng không phải như thế.
Khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Người gánh tội trần gian và gánh cả những hệ luỵ từ tội lỗi, để giải thoát con người khỏi những cảnh đời lầm than cơ cực nhất ngay ở đời này.
Đó chính là điều Isaia đã loan báo trước về Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc.4,18-19)
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ chính vì Người là Đấng giải thoát họ. Giới trẻ vốn không thích bị ràng buộc, bị giam cầm hay bị tước đoạt tự do. Giới trẻ đầy những khát vọng, và trong vô số khát vọng ấy, khát vọng được tự do ca ngợi Đấng Tạo Thành là điều căn bản. Đức Giêsu nói với họ về Thiên Chúa Cha và mở miệng cho họ hát vang lên. Đó là điều vĩ đại nhất của lịch sử.
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ vì Người quá đẹp. Ngoại hình của Người không còn được lưu giữ chính thức, nhưng điều đó không quan trọng. Người đẹp vì nghĩa cử cứu nhân độ thế. Người đẹp vì ánh nhìn bao dung độ lượng, luôn “chạnh lòng thương” dân nghèo. Và Người đẹp khi chỉ vào đám giả hình, đàn áp dân mà bảo “Các ngươi là mồ mả tô vôi”, hoặc “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ”, "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ vì Người vẽ ra cho họ một con đường và con đường ấy dẫn đến Sự Sống vĩnh cửu. Giới trẻ quá nhàm những lời dụ dỗ, quá chán những lời hứa hão, quá mệt vì những lừa lọc của thế gian. Đức Giêsu nói là làm, và lời Người nói được chứng minh bằng ánh sang từ trời, bằng bảo chứng của Thánh Thần Thiên Chúa và bằng chính cuộc Khổ Nạn Phục Sinh của Người. Ai trên thế gian này dám làm và có thể làm những điều ấy cho giới trẻ?
Đức Giêsu không áp đặt, không ép buộc và không nhồi nhét vào đầu óc giới trẻ những điều vô bổ, những học thuyết lỗi thời hay những mầm bạo lực. Người nói: “Thầy gọi các con là bạn hữu”. Và với tư cách người bạn của giới trẻ, Người nói chân tình đầy yêu thương: “Các con hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy”.
Bạn và tôi, chúng ta hạnh phúc vì có thần tượng Giêsu. Bạn hãy reo lên: “Tôi yêu Giêsu, tôi chọn Giêsu và tôi sống Giêsu”. Vâng lạy Chúa Giêsu, xin cho con được có Chúa muôn đời.
Vào ngày 01-10-1977, trên một sân vận động tại NewYork, trước 80 ngàn khán giả hâm mộ bóng đá, cầu thủ lừng danh Pélé đã ghi cho mình bàn thắng thứ 1,278. Sau đó anh đã tuyên bố giã từ đời cầu thủ chuyên nghiệp. Sau khi cởi áo cầu thủ gởi tặng giao lưu với khán giả, một phóng viên đã hỏi anh: “Pélé, anh đang là thần tượng của hàng triệu bạn trẻ, vậy trong cuộc đời của anh, anh có thần tượng nào không ?” Pélé chỉ vào cây Thánh Giá đang đeo trước ngực và trả lời: “Có chứ, thần tượng của tôi là chính Đức Chúa Giêsu Kitô”. (theo R.Veritas)
Con Người Giêsu Kytô chính là Đấng Cứu Chuộc nhân loại này. Người đã làm thay đổi vô số người trẻ, để họ sống và hành động theo cung cách của những người được tuyển chọn và được cứu độ. Có một thời người ta tưởng rằng Đức Giêsu Kytô chỉ cứu linh hồn con người, chú trọng đến đời sau, chẳng quan tâm gì đến “đời tạm” này. Nhưng không phải như thế.
Khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Người gánh tội trần gian và gánh cả những hệ luỵ từ tội lỗi, để giải thoát con người khỏi những cảnh đời lầm than cơ cực nhất ngay ở đời này.
Đó chính là điều Isaia đã loan báo trước về Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc.4,18-19)
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ chính vì Người là Đấng giải thoát họ. Giới trẻ vốn không thích bị ràng buộc, bị giam cầm hay bị tước đoạt tự do. Giới trẻ đầy những khát vọng, và trong vô số khát vọng ấy, khát vọng được tự do ca ngợi Đấng Tạo Thành là điều căn bản. Đức Giêsu nói với họ về Thiên Chúa Cha và mở miệng cho họ hát vang lên. Đó là điều vĩ đại nhất của lịch sử.
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ vì Người quá đẹp. Ngoại hình của Người không còn được lưu giữ chính thức, nhưng điều đó không quan trọng. Người đẹp vì nghĩa cử cứu nhân độ thế. Người đẹp vì ánh nhìn bao dung độ lượng, luôn “chạnh lòng thương” dân nghèo. Và Người đẹp khi chỉ vào đám giả hình, đàn áp dân mà bảo “Các ngươi là mồ mả tô vôi”, hoặc “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ”, "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Đức Giêsu là thần tượng của giới trẻ vì Người vẽ ra cho họ một con đường và con đường ấy dẫn đến Sự Sống vĩnh cửu. Giới trẻ quá nhàm những lời dụ dỗ, quá chán những lời hứa hão, quá mệt vì những lừa lọc của thế gian. Đức Giêsu nói là làm, và lời Người nói được chứng minh bằng ánh sang từ trời, bằng bảo chứng của Thánh Thần Thiên Chúa và bằng chính cuộc Khổ Nạn Phục Sinh của Người. Ai trên thế gian này dám làm và có thể làm những điều ấy cho giới trẻ?
Đức Giêsu không áp đặt, không ép buộc và không nhồi nhét vào đầu óc giới trẻ những điều vô bổ, những học thuyết lỗi thời hay những mầm bạo lực. Người nói: “Thầy gọi các con là bạn hữu”. Và với tư cách người bạn của giới trẻ, Người nói chân tình đầy yêu thương: “Các con hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy”.
Bạn và tôi, chúng ta hạnh phúc vì có thần tượng Giêsu. Bạn hãy reo lên: “Tôi yêu Giêsu, tôi chọn Giêsu và tôi sống Giêsu”. Vâng lạy Chúa Giêsu, xin cho con được có Chúa muôn đời.
Bên Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá
+ Giám Mục Gioan B. Bùi Tuần
01:21 13/01/2011
… tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
***
Năm Thánh Việt Nam đã kết thúc ở La Vang. Lễ Bế mạc được tổ chức rất trọng thể hoành tráng. Toàn thể Hội Thánh Việt Nam hướng về Đức Mẹ ở La Vang
Trong thời gian linh thiêng ấy, tôi ở Long Xuyên, cũng bên Đức Mẹ. Ảnh Đức Mẹ mà tôi ưa nhìn ngắm nhất khi tôi đau yếu, là Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Những giờ phút bế mạc Năm Thánh được tôi cảm nhận như một chuẩn bị đi vào một tương lai có nhiều thử thách. Vì đang mang sẵn trong mình nhiều đau đớn và nhiều lo âu, tôi nhìn những thử thách đó là tất cả những gì gây nên đổ vỡ, làm nên hoang tàn, với mưu đồ kéo tôi và những người khác xa rời Phúc Âm.
Trong giây lát, tất cả những thử thách đó hiện lên như một cơn lũ lụt gồm đủ thứ thảm khốc. Bị vùi dập, tôi thấy mình cô đơn tăm tối. Tôi nhìn vào Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Đức Mẹ như đắm chìm trong đau khổ, nhưng trung tín vững vàng trong đức tin.
Tôi nhận được từ Mẹ sầu bi những chỉ dẫn ủi an. Đại khái như sau:
1. Thánh giá mang giá trị cứu chuộc
Đức Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô sau đây: "Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát, như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi đời sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô" (1 Pr 1,18-19).
Với lời dạy trên đây của thánh Phêrô, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Tôi và bao người đã phạm tội hoặc trong nguy cơ phạm tội. Tội lỗi trói con người vào ách sự ác, lôi con người vào chốn diệt vong. Để cứu con người khỏi vực thẳm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã dâng mình chịu khổ nạn và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Máu châu báu Người đã đổ ra, để cứu chuộc. Đau khổ của Người có giá thiêng liêng cao quý, đó là cứu khỏi nguy cơ phạm tội, xoá tội, tha tội, đền tội thay cho nhân loại.
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá phải đau đớn vô vàn. Mẹ kết hợp những đau đớn của Mẹ với những đau đớn của Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những đau đớn của Mẹ có giá trị góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Mẹ sầu bi khuyên tôi cũng hãy kết hợp những khổ đau của tôi với thánh giá Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những khổ đau của tôi sẽ được chia sẻ giá trị cứu chuộc. Tôi và nhiều người sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Khi nhìn công cuộc cứu chuộc là như thế, tôi không dám nghĩ rằng con người tội lỗi sẽ được cứu chuộc nhờ những việc đạo đức tưng bừng, những khẩu hiệu đạo đức hô vang. Đức Mẹ khuyên hãy theo gương Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nếu thử thách tới.
2. Cái chết sinh ra sự sống
Khi nói tới thử thách, tôi đặc biệt nghĩ tới những sa sút đạo đức cá nhân và tập thể, những rạn nứt trong các gia đình, những khuynh hướng ham danh lợi, những chủ nghĩa cực đoan. Một phần không nhỏ các thử thách đến từ nội bộ những người trong Hội Thánh. Là người môn đệ Chúa, tôi nhìn những sự kiện đó như những loại thuốc độc đưa con người và xã hội đến sự huỷ diệt về phần linh hồn. Người môn đệ Chúa có bổn phận bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Trước cảnh đó, Đức Mẹ đưa lòng trí tôi nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, đồng thời giúp tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Khi nhớ lại lời trên đây của Chúa Giêsu, tôi nhìn cái chết khổ đau của Người trên thánh giá chính là nguồn mang lại sự sống thiêng liêng cho biết bao người. Phải nói ngay là cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là một dấn thân cao cả vì yêu thương. Người vui lòng chịu chết để nhiều người được sống.
Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá cũng như chết đi cùng với Chúa Giêsu. Cái chết như thế của Mẹ được kết hợp với cái chết của Chúa Giêsu đã là một sự sản sinh. Thực sự, Đức Mẹ đã sinh ra nhiều tín hữu cho Chúa, từ cái chết đau đớn dưới chân thánh giá. Đó chính là truyền giáo.
Như vậy, đời người môn đệ Chúa cũng sẽ theo gương Đức Mẹ. Phải chấp nhận dấn thân vì yêu thương, cho dù phải chết. Cái chết đó sẽ được thực hiện hằng ngày, bằng sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Cái chết đó sẽ góp phần rất lớn cho việc mở rộng Nước Trời.
Được Đức Mẹ nhắc nhở về giá trị của cái chết trong đời mình, tôi thấy người môn đệ Chúa phải rất tỉnh thức. Nếu đức tin chỉ được nuôi sống và phát triển bằng những sùng kính ngọt ngào và những tổ chức ồn ào, thì rất dễ sụp đổ trước những bất ngờ tàn phá. Phải đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá một cách can đảm, rồi đón nhận thánh giá như một chọn lựa, và sống dấn thân cho chọn lựa đó, thì không những đức tin sẽ sống mạnh, mà còn giúp cho sự sống đức tin sinh sản.
Khi thực sự sống mầu nhiệm thánh giá, người môn đệ Chúa sẽ biết an ủi những người sẵn sàng chết đi cho người khác.
3. Niềm tin ủi an trong mọi thử thách
Chìa khoá mở nguồn an ủi cho Đức Mẹ sầu bi là sự trung tín trong đức tin.
Đức Mẹ tin vào chương trình cứu độ của Chúa: "Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Đức Mẹ tin lời thiên thần nói: "Đấng mà bà sắp sinh ra, sẽ gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35).
Niềm tin của Đức Mẹ cũng giống như niềm tin của tổ phụ Abraham. "Ông đã chẳng bao giờ mất niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Vì ông hoàn toàn xác tín rằng: Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người cũng đủ quyền năng thực hiện" (Rm 4,20).
Đức Mẹ tin một cách khiêm nhường, với lòng vâng phục triệt để thánh ý Chúa và tuyệt đối phó thác ở Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chính niềm tin trung tín đã an ủi Đức Mẹ trong mọi thử thách. Niềm tin đó cũng đã an ủi các con cái Mẹ, để rồi họ cũng sẽ biết an ủi những người khác. Họ có thể nói với những người bị thử thách như thánh Phaolô xưa: "Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, vì Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng sẽ biết an ủi những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó" (2 Cr 1,4).
***
Với chia sẻ trên đây, tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
Xin Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá luôn ở bên chúng con trong mọi thử thách. Chúng con là những đứa con yếu đuối hèn mọn. Xin Mẹ thương chỉ dạy, an ủi nâng đỡ chúng con trong suốt cuộc đời gian truân khổ ải này.
***
Năm Thánh Việt Nam đã kết thúc ở La Vang. Lễ Bế mạc được tổ chức rất trọng thể hoành tráng. Toàn thể Hội Thánh Việt Nam hướng về Đức Mẹ ở La Vang
Trong thời gian linh thiêng ấy, tôi ở Long Xuyên, cũng bên Đức Mẹ. Ảnh Đức Mẹ mà tôi ưa nhìn ngắm nhất khi tôi đau yếu, là Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Những giờ phút bế mạc Năm Thánh được tôi cảm nhận như một chuẩn bị đi vào một tương lai có nhiều thử thách. Vì đang mang sẵn trong mình nhiều đau đớn và nhiều lo âu, tôi nhìn những thử thách đó là tất cả những gì gây nên đổ vỡ, làm nên hoang tàn, với mưu đồ kéo tôi và những người khác xa rời Phúc Âm.
Trong giây lát, tất cả những thử thách đó hiện lên như một cơn lũ lụt gồm đủ thứ thảm khốc. Bị vùi dập, tôi thấy mình cô đơn tăm tối. Tôi nhìn vào Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Đức Mẹ như đắm chìm trong đau khổ, nhưng trung tín vững vàng trong đức tin.
Tôi nhận được từ Mẹ sầu bi những chỉ dẫn ủi an. Đại khái như sau:
1. Thánh giá mang giá trị cứu chuộc
Đức Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô sau đây: "Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát, như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi đời sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô" (1 Pr 1,18-19).
Với lời dạy trên đây của thánh Phêrô, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Tôi và bao người đã phạm tội hoặc trong nguy cơ phạm tội. Tội lỗi trói con người vào ách sự ác, lôi con người vào chốn diệt vong. Để cứu con người khỏi vực thẳm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã dâng mình chịu khổ nạn và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Máu châu báu Người đã đổ ra, để cứu chuộc. Đau khổ của Người có giá thiêng liêng cao quý, đó là cứu khỏi nguy cơ phạm tội, xoá tội, tha tội, đền tội thay cho nhân loại.
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá phải đau đớn vô vàn. Mẹ kết hợp những đau đớn của Mẹ với những đau đớn của Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những đau đớn của Mẹ có giá trị góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Mẹ sầu bi khuyên tôi cũng hãy kết hợp những khổ đau của tôi với thánh giá Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những khổ đau của tôi sẽ được chia sẻ giá trị cứu chuộc. Tôi và nhiều người sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Khi nhìn công cuộc cứu chuộc là như thế, tôi không dám nghĩ rằng con người tội lỗi sẽ được cứu chuộc nhờ những việc đạo đức tưng bừng, những khẩu hiệu đạo đức hô vang. Đức Mẹ khuyên hãy theo gương Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nếu thử thách tới.
2. Cái chết sinh ra sự sống
Khi nói tới thử thách, tôi đặc biệt nghĩ tới những sa sút đạo đức cá nhân và tập thể, những rạn nứt trong các gia đình, những khuynh hướng ham danh lợi, những chủ nghĩa cực đoan. Một phần không nhỏ các thử thách đến từ nội bộ những người trong Hội Thánh. Là người môn đệ Chúa, tôi nhìn những sự kiện đó như những loại thuốc độc đưa con người và xã hội đến sự huỷ diệt về phần linh hồn. Người môn đệ Chúa có bổn phận bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Trước cảnh đó, Đức Mẹ đưa lòng trí tôi nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, đồng thời giúp tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Khi nhớ lại lời trên đây của Chúa Giêsu, tôi nhìn cái chết khổ đau của Người trên thánh giá chính là nguồn mang lại sự sống thiêng liêng cho biết bao người. Phải nói ngay là cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là một dấn thân cao cả vì yêu thương. Người vui lòng chịu chết để nhiều người được sống.
Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá cũng như chết đi cùng với Chúa Giêsu. Cái chết như thế của Mẹ được kết hợp với cái chết của Chúa Giêsu đã là một sự sản sinh. Thực sự, Đức Mẹ đã sinh ra nhiều tín hữu cho Chúa, từ cái chết đau đớn dưới chân thánh giá. Đó chính là truyền giáo.
Như vậy, đời người môn đệ Chúa cũng sẽ theo gương Đức Mẹ. Phải chấp nhận dấn thân vì yêu thương, cho dù phải chết. Cái chết đó sẽ được thực hiện hằng ngày, bằng sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Cái chết đó sẽ góp phần rất lớn cho việc mở rộng Nước Trời.
Được Đức Mẹ nhắc nhở về giá trị của cái chết trong đời mình, tôi thấy người môn đệ Chúa phải rất tỉnh thức. Nếu đức tin chỉ được nuôi sống và phát triển bằng những sùng kính ngọt ngào và những tổ chức ồn ào, thì rất dễ sụp đổ trước những bất ngờ tàn phá. Phải đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá một cách can đảm, rồi đón nhận thánh giá như một chọn lựa, và sống dấn thân cho chọn lựa đó, thì không những đức tin sẽ sống mạnh, mà còn giúp cho sự sống đức tin sinh sản.
Khi thực sự sống mầu nhiệm thánh giá, người môn đệ Chúa sẽ biết an ủi những người sẵn sàng chết đi cho người khác.
3. Niềm tin ủi an trong mọi thử thách
Chìa khoá mở nguồn an ủi cho Đức Mẹ sầu bi là sự trung tín trong đức tin.
Đức Mẹ tin vào chương trình cứu độ của Chúa: "Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Đức Mẹ tin lời thiên thần nói: "Đấng mà bà sắp sinh ra, sẽ gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35).
Niềm tin của Đức Mẹ cũng giống như niềm tin của tổ phụ Abraham. "Ông đã chẳng bao giờ mất niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Vì ông hoàn toàn xác tín rằng: Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người cũng đủ quyền năng thực hiện" (Rm 4,20).
Đức Mẹ tin một cách khiêm nhường, với lòng vâng phục triệt để thánh ý Chúa và tuyệt đối phó thác ở Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chính niềm tin trung tín đã an ủi Đức Mẹ trong mọi thử thách. Niềm tin đó cũng đã an ủi các con cái Mẹ, để rồi họ cũng sẽ biết an ủi những người khác. Họ có thể nói với những người bị thử thách như thánh Phaolô xưa: "Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, vì Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng sẽ biết an ủi những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó" (2 Cr 1,4).
***
Với chia sẻ trên đây, tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
Xin Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá luôn ở bên chúng con trong mọi thử thách. Chúng con là những đứa con yếu đuối hèn mọn. Xin Mẹ thương chỉ dạy, an ủi nâng đỡ chúng con trong suốt cuộc đời gian truân khổ ải này.
Con Chiên Thiên Chúa
PM. Cao Huy Hoàng
01:31 13/01/2011
Chúa Nhật Thứ 2 Mùa Thường Niên, Năm A
Sứ vụ của Chúa Giêsu là cứu thế, là giải thoát con người khỏi quyền lực của sự chết do tội lỗi, đã được tiên tri Isaia loan báo: “Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta, để ngươi mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm”. (Isaia 49,6-7)
Sứ vụ ấy được Chúa Cha long trọng giới thiệu cho nhân loại khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trên sông Giodan, rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mt 3,17).
Còn Ông Gioan, hôm nay giới thiệu: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29).
Chúa Giêsu Kitô, Ngài là Con Thiên Chúa thật, làm con người thật mà! Sao lại là Con Chiên? Câu nói của ông Gioan hàm chứa cả một kho tàng mạc khải về Con Thiên Chúa trong suốt dọc dài lịch sử cứu độ.
Chú chiên non của Abel trên lò than hồng là của lễ thay cho lòng tin kính Thiên Chúa, được Thiên Chúa chấp nhận. “Abel dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” (St 4,4). Những chú chiên non, béo, tốt trong cuộc vượt qua, chịu sát tế lấy máu bôi trên cửa, như dấu chỉ cuộc vượt qua để được cứu sống (x. Xh 12,2-7)
Vì thế, Ông Gioan được linh hứng giới thiệu sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian mang thân phận của một con chiên – Con Chiên tinh tuyền, con chiên hiền lành và khiêm nhượng, con chiên chịu sát tế để làm của lễ đền thay tội lỗi nhân loại như các tiên báo trong cựu ước đã nói về Ngài.
Con chiên tinh tuyền
Nếu con chiên của thời sáng thế và xuất hành được chọn để tiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa phải là con chiên tinh tuyền không tỳ vết, thì con chiên của Tân Ước chính là đứa “con đẹp lòng Cha mọi đàng”, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng tinh tuyền, không vướng tội phàm, vô tì tích. Thánh Phaolô dạy: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” ( 1 Pr 1,19).
“Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” ( Dt 9,14).
Con chiên hiền lành khiêm nhượng
Hiền lành là bản chất của con chiên. Hiền lành và khiêm nhượng là sự thánh thiện của Con Thiên Chúa. Nơi Ngài không có sự dữ, chỉ có đức hiền hòa. Nơi Ngài không có gian tà, chỉ có sự ngay lành chính trực. Nơi Ngài không có lòng kiêu căng, chỉ có đức khiêm nhường tuyệt đối. Trong những lời dạy của Chúa Giêsu, có những điều Chúa dạy chúng ta làm “hãy yêu thương nhau”, ‘hãy từ bỏ…”, chỉ có một điều duy nhất bảo chúng ta hãy học nơi Ngài: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29)
Con Chiên chịu sát tế, chịu Tử Vì Đạo
“Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7)
“Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: "Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!” (Gr 11,19)
Không sai tí nào! Như thân phận con chiên hiền lành bị đem đi giết, Chúa Giêsu đã chịu sát tế trên thập giá để đền thay tội lỗi chúng ta. Máu Chúa Giêsu đổ ra, là máu Con Chiên Tế Lễ trong cuộc sáng tạo mới, máu của Con Chiên Vượt qua mới, máu của Con Chiên của Thiên Chúa và máu có giá trị cứu rỗi “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” ( Mt 26,28).
Qua trang Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan lại giới thiệu Chúa Giêsu cho mỗi chúng ta một lần nữa rằng “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Chúng ta vẫn thường được giới thiệu trong mỗi thánh lễ “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” ” và vẫn kêu lên “Agnus Dei…” “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con… Xin ban bình an cho chúng con”. Nhưng, hôm nay, là cơ hội tái thiết định nơi mỗi tâm hồn một niềm tin tưởng, một niềm vui hạnh phúc, và bình an đích thực nơi Đức Giêsu, con Chiên Thiên Chúa, và cụ thể nhất là rước lấy Thịt Máu Con Chiên Thiên Chúa vào trong tâm hồn mình cách xứng đáng. Vì ân sủng và bình an của chúng ta hôm nay là được hưởng ơn cứu chuộc nhờ máu Con Chiên như thánh Phaolô nguyện xin: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (1 Cr 1,3).
Nhờ sống bằng sức sống của Con Chiên Thiên Chúa, nơi Tiệc Thánh Thể, mà chúng ta có hy vọng: nên tinh tuyền, trong sạch, không vương tỳ ố trong Chúa Giêsu, nên hiền lành khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu, và bằng lòng chịu sát tế đời mình nên của lễ đền tội cho mình và cho nhiều người.
Thân phận con chiên tinh tuyền, hiền lành bị đem đi giết, bị sát tế trong thời đại hôm nay đang sống động trong toàn Giáo Hội. Có thể nói hình ảnh ấy rất cụ thể tại Việt Nam nơi những giám mục dám mục nát vì đoàn chiên, nơi những linh mục hết mình vì sự sống còn của đoàn chiên, và cả nơi những con chiên ngoan đạo đang hiền lành khiêm nhượng một lòng một dạ tuân theo chỉ thị của các đấng bản quyền.
Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số ít con chiên không tinh tuyền vì nhiễm đủ loại bệnh xã hội trần tục: danh vọng, quyền bính, lạc thú, dẫn đến cách sống không Kitô, mất hiền hòa, thiếu đạo đức, chẳng ngay lành, gây gương mù gương xấu và cuối cùng là không chịu sát tế mình đi cho phần rỗi các linh hồn. Một số giáo dân thời nay buông xuôi, nguội lạnh, giữ đạo cho qua ngày, không siêng năng đi lễ, xưng tội, rước lễ một phần là vì họ không muốn nghe, không muốn thấy những con chiên đầy tội lỗi, không chấp nhận tử vì đạo mà lại rao giảng về Con Chiên Vô Tội, về Con Chiên Thiên Chúa, về Đấng Xóa Tội trần gian.
Mỗi tín hữu chúng ta trong vai trò làm cha mẹ, con cái, làm tông đồ trong các hội đoàn, làm tông đồ trong cuộc sống đời thường… có lẽ phải tĩnh lặng tâm hồn giây lát để hỏi lại lòng mình rằng: “Có thể nào ta tiếp tục rao giảng về Đấng vô tội trong khi ta mãi ở lì trong tình trạng tội lỗi được sao?” “Có thể nào chúng ta long trọng tôn vinh các thánh Tử Đạo, mà không từ bỏ mình và chấp nhận hy sinh tử vì đạo từng giây phút được sao?”
Vì thế, cần nghiêm túc đặt lại vấn đề: Sứ mệnh của Giáo Hội, của mỗi tín hữu là tiếp tục giới thiệu “Con Chiên Thiên Chúa-Đấng xóa tội trần gian” cho mọi người. Nhưng để lời chứng ấy là chứng thật, chắc hẳn mỗi chứng nhân, không kể là thành phần nào trong giáo hội, cũng phải mặc lấy tinh thần của Con Chiên Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô, trong đời sống của mình: “Tinh tuyền, hiền lành khiêm nhượng, chịu sát tế, chịu tử đạo”.
Thánh Gioan Tiền Hô phải là gương mẫu đời sống chứng nhân cho chúng ta. Ngài có cuộc sống tinh tuyền. Ngài hiền lành khiêm nhượng để Chúa Giêsu lớn lên. Ngài rất ngay thẳng lên án sự gian tà. Và cuối cùng Ngài bằng lòng chịu tử đạo vì bênh vực cho công lý của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn vinh và tri ân Chúa là Con Chiên Tinh Tuyền, Hiền Lành, Khiêm Nhượng và là Con Chiên Thiên Chúa Chịu Sát Tế để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con quí trọng và mặc lấy sự tinh tuyền, lòng hiền lành khiêm nhượng của Chúa, để mỗi ngày chúng con bằng lòng tế lễ toàn thân chúng con cho Thiên Chúa vì phần rỗi của chúng con và của mọi người. A men.
13-01-2011
Sứ vụ của Chúa Giêsu là cứu thế, là giải thoát con người khỏi quyền lực của sự chết do tội lỗi, đã được tiên tri Isaia loan báo: “Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta, để ngươi mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm”. (Isaia 49,6-7)
Sứ vụ ấy được Chúa Cha long trọng giới thiệu cho nhân loại khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trên sông Giodan, rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mt 3,17).
Còn Ông Gioan, hôm nay giới thiệu: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29).
Chúa Giêsu Kitô, Ngài là Con Thiên Chúa thật, làm con người thật mà! Sao lại là Con Chiên? Câu nói của ông Gioan hàm chứa cả một kho tàng mạc khải về Con Thiên Chúa trong suốt dọc dài lịch sử cứu độ.
Chú chiên non của Abel trên lò than hồng là của lễ thay cho lòng tin kính Thiên Chúa, được Thiên Chúa chấp nhận. “Abel dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” (St 4,4). Những chú chiên non, béo, tốt trong cuộc vượt qua, chịu sát tế lấy máu bôi trên cửa, như dấu chỉ cuộc vượt qua để được cứu sống (x. Xh 12,2-7)
Vì thế, Ông Gioan được linh hứng giới thiệu sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian mang thân phận của một con chiên – Con Chiên tinh tuyền, con chiên hiền lành và khiêm nhượng, con chiên chịu sát tế để làm của lễ đền thay tội lỗi nhân loại như các tiên báo trong cựu ước đã nói về Ngài.
Con chiên tinh tuyền
Nếu con chiên của thời sáng thế và xuất hành được chọn để tiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa phải là con chiên tinh tuyền không tỳ vết, thì con chiên của Tân Ước chính là đứa “con đẹp lòng Cha mọi đàng”, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng tinh tuyền, không vướng tội phàm, vô tì tích. Thánh Phaolô dạy: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” ( 1 Pr 1,19).
“Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” ( Dt 9,14).
Con chiên hiền lành khiêm nhượng
Hiền lành là bản chất của con chiên. Hiền lành và khiêm nhượng là sự thánh thiện của Con Thiên Chúa. Nơi Ngài không có sự dữ, chỉ có đức hiền hòa. Nơi Ngài không có gian tà, chỉ có sự ngay lành chính trực. Nơi Ngài không có lòng kiêu căng, chỉ có đức khiêm nhường tuyệt đối. Trong những lời dạy của Chúa Giêsu, có những điều Chúa dạy chúng ta làm “hãy yêu thương nhau”, ‘hãy từ bỏ…”, chỉ có một điều duy nhất bảo chúng ta hãy học nơi Ngài: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29)
Con Chiên chịu sát tế, chịu Tử Vì Đạo
“Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7)
“Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: "Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!” (Gr 11,19)
Không sai tí nào! Như thân phận con chiên hiền lành bị đem đi giết, Chúa Giêsu đã chịu sát tế trên thập giá để đền thay tội lỗi chúng ta. Máu Chúa Giêsu đổ ra, là máu Con Chiên Tế Lễ trong cuộc sáng tạo mới, máu của Con Chiên Vượt qua mới, máu của Con Chiên của Thiên Chúa và máu có giá trị cứu rỗi “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” ( Mt 26,28).
Qua trang Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan lại giới thiệu Chúa Giêsu cho mỗi chúng ta một lần nữa rằng “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Chúng ta vẫn thường được giới thiệu trong mỗi thánh lễ “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” ” và vẫn kêu lên “Agnus Dei…” “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con… Xin ban bình an cho chúng con”. Nhưng, hôm nay, là cơ hội tái thiết định nơi mỗi tâm hồn một niềm tin tưởng, một niềm vui hạnh phúc, và bình an đích thực nơi Đức Giêsu, con Chiên Thiên Chúa, và cụ thể nhất là rước lấy Thịt Máu Con Chiên Thiên Chúa vào trong tâm hồn mình cách xứng đáng. Vì ân sủng và bình an của chúng ta hôm nay là được hưởng ơn cứu chuộc nhờ máu Con Chiên như thánh Phaolô nguyện xin: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (1 Cr 1,3).
Nhờ sống bằng sức sống của Con Chiên Thiên Chúa, nơi Tiệc Thánh Thể, mà chúng ta có hy vọng: nên tinh tuyền, trong sạch, không vương tỳ ố trong Chúa Giêsu, nên hiền lành khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu, và bằng lòng chịu sát tế đời mình nên của lễ đền tội cho mình và cho nhiều người.
Thân phận con chiên tinh tuyền, hiền lành bị đem đi giết, bị sát tế trong thời đại hôm nay đang sống động trong toàn Giáo Hội. Có thể nói hình ảnh ấy rất cụ thể tại Việt Nam nơi những giám mục dám mục nát vì đoàn chiên, nơi những linh mục hết mình vì sự sống còn của đoàn chiên, và cả nơi những con chiên ngoan đạo đang hiền lành khiêm nhượng một lòng một dạ tuân theo chỉ thị của các đấng bản quyền.
Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số ít con chiên không tinh tuyền vì nhiễm đủ loại bệnh xã hội trần tục: danh vọng, quyền bính, lạc thú, dẫn đến cách sống không Kitô, mất hiền hòa, thiếu đạo đức, chẳng ngay lành, gây gương mù gương xấu và cuối cùng là không chịu sát tế mình đi cho phần rỗi các linh hồn. Một số giáo dân thời nay buông xuôi, nguội lạnh, giữ đạo cho qua ngày, không siêng năng đi lễ, xưng tội, rước lễ một phần là vì họ không muốn nghe, không muốn thấy những con chiên đầy tội lỗi, không chấp nhận tử vì đạo mà lại rao giảng về Con Chiên Vô Tội, về Con Chiên Thiên Chúa, về Đấng Xóa Tội trần gian.
Mỗi tín hữu chúng ta trong vai trò làm cha mẹ, con cái, làm tông đồ trong các hội đoàn, làm tông đồ trong cuộc sống đời thường… có lẽ phải tĩnh lặng tâm hồn giây lát để hỏi lại lòng mình rằng: “Có thể nào ta tiếp tục rao giảng về Đấng vô tội trong khi ta mãi ở lì trong tình trạng tội lỗi được sao?” “Có thể nào chúng ta long trọng tôn vinh các thánh Tử Đạo, mà không từ bỏ mình và chấp nhận hy sinh tử vì đạo từng giây phút được sao?”
Vì thế, cần nghiêm túc đặt lại vấn đề: Sứ mệnh của Giáo Hội, của mỗi tín hữu là tiếp tục giới thiệu “Con Chiên Thiên Chúa-Đấng xóa tội trần gian” cho mọi người. Nhưng để lời chứng ấy là chứng thật, chắc hẳn mỗi chứng nhân, không kể là thành phần nào trong giáo hội, cũng phải mặc lấy tinh thần của Con Chiên Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô, trong đời sống của mình: “Tinh tuyền, hiền lành khiêm nhượng, chịu sát tế, chịu tử đạo”.
Thánh Gioan Tiền Hô phải là gương mẫu đời sống chứng nhân cho chúng ta. Ngài có cuộc sống tinh tuyền. Ngài hiền lành khiêm nhượng để Chúa Giêsu lớn lên. Ngài rất ngay thẳng lên án sự gian tà. Và cuối cùng Ngài bằng lòng chịu tử đạo vì bênh vực cho công lý của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn vinh và tri ân Chúa là Con Chiên Tinh Tuyền, Hiền Lành, Khiêm Nhượng và là Con Chiên Thiên Chúa Chịu Sát Tế để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con quí trọng và mặc lấy sự tinh tuyền, lòng hiền lành khiêm nhượng của Chúa, để mỗi ngày chúng con bằng lòng tế lễ toàn thân chúng con cho Thiên Chúa vì phần rỗi của chúng con và của mọi người. A men.
13-01-2011
Hạnh các Thánh
Trâm Thiên Thu
01:38 13/01/2011
Gioan, người làm vườn, Tôi tớ Chúa (qua đời năm 1501)
Gioan sinh trưởng trong một gia đình ngheo ở Bồ đào nha. Mồ côi sớm, ngài phải đi ăn xin một số năm. Sau khi có việc làm ở ở Tây ban nha là chăn chiên, ngài chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình với những người nghèo khổ hơn mình. Một hôm, hai tu sĩ dòng Phan sinh gặp Gioan trên đường đi. Khi nói chuyện, hai tu sĩ này thấy quý mến một con người đơn giản và mời Gioan đến làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Gioan chấp nhận và được phân công làm vườn. Một thời gian sau, Gioan đã nhập dòng Phan sinh và sống cuộc đời chiêm niệm, ăn chay, dành thời gian ban đêm để cầu nguyện, và giúp đỡ người nghèo. Vì công việc của ngài là làm vườn và chăm sóc hoa để cắm trên bàn thờr, ngài nổi tiếng với danh xưng “người làm vườn”.
Thiên Chúa ban cho Gioan tài nói tiên tri và và biết rõ tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng tử, cũng đến với ngài để xin lời khuyên. Ngài là người khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời. Ngài yêu thương cả những người muốn chống đối ngài. Lời khuyên của ngài là tha thứ vì đó là hành động đẹp lòng Chúa nhất. Ngài đã tiên báo đúng ngày ngài qua đời: 11/1/1501.
Thánh Phaolô, Ẩn tu (khoảng 233-345)
Chúng ta không biết rõ về cuộc đời thánh Phaolô, bao nhiêu phần là truyền thuyết và bao nhiêu phần là thật. Thánh Phaolô được coi là sinh ở Ai cập, mồ côi lúc 15 tuổi. Ngài là một người trẻ thông thái và sốt sáng. Trong thời Decius bách đạo ở Ai cập, năm 250, thánh Phaolô ở ẩn trong nhà một người bạn. Sợ anh (em) rể phản bội, ngài trốn vào hang trong hoang địa. Ngài có ý định trở về khi cuộc bách đạo chấm dứt, nhưng cuộc sống cô tịch và chiêm niệm đã níu kéo ngài ở lại. Ngài đã sống ẩn dật trong hang suốt 90 năm sau. Nguồn suối gần đó cho ngài nước uống, cây cọ cho ngài quần áo và đồ ăn. Sau 21 năm sống ẩn dật, ngài được một con chim hằng ngày đem đến nửa ổ bánh cho ngài dùng. Không biết chuyện gì xảy ra trên thế giới, ngài cầu nguyện cho thế giới trở nên nơi tốt đẹp hơn.
Thánh Anthony làm chứng về cuộc đời thánh thiện và cái chết của thánh Phaolô. Bị cám dỗ bởi tư tưởng là không ai lại phụng sự Thiên Chúa ở nơi hoang địa lâu hơn mình, thánh Anthony được Thiên Chúa dẫn đi tìm thánh Phaolô và nhận thấy Phaolô là người hoàn hảo hơn mình. Hôm đó, con quạ đã đem đến cho ngài cả ổ bánh chứ không chỉ nửa ổ bánh như thường ngày. Như thánh Phaolô tiên báo, thánh Anthony đã trở lại chôn cất người bạn mới của mình. Thánh Phaolô mất lúc khoảng 112 tuổi và được coi là thánh ẩn tu đầu tiên. Lễ kính ngài được cử hành ở Đông phương, ngài cũng được nhớ đến trong nghi lễ Coptic (thuộc Ai cập) và Armenia.
(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org)
Gioan sinh trưởng trong một gia đình ngheo ở Bồ đào nha. Mồ côi sớm, ngài phải đi ăn xin một số năm. Sau khi có việc làm ở ở Tây ban nha là chăn chiên, ngài chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình với những người nghèo khổ hơn mình. Một hôm, hai tu sĩ dòng Phan sinh gặp Gioan trên đường đi. Khi nói chuyện, hai tu sĩ này thấy quý mến một con người đơn giản và mời Gioan đến làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Gioan chấp nhận và được phân công làm vườn. Một thời gian sau, Gioan đã nhập dòng Phan sinh và sống cuộc đời chiêm niệm, ăn chay, dành thời gian ban đêm để cầu nguyện, và giúp đỡ người nghèo. Vì công việc của ngài là làm vườn và chăm sóc hoa để cắm trên bàn thờr, ngài nổi tiếng với danh xưng “người làm vườn”.
Thiên Chúa ban cho Gioan tài nói tiên tri và và biết rõ tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng tử, cũng đến với ngài để xin lời khuyên. Ngài là người khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời. Ngài yêu thương cả những người muốn chống đối ngài. Lời khuyên của ngài là tha thứ vì đó là hành động đẹp lòng Chúa nhất. Ngài đã tiên báo đúng ngày ngài qua đời: 11/1/1501.
Thánh Phaolô, Ẩn tu (khoảng 233-345)
Thánh Anthony làm chứng về cuộc đời thánh thiện và cái chết của thánh Phaolô. Bị cám dỗ bởi tư tưởng là không ai lại phụng sự Thiên Chúa ở nơi hoang địa lâu hơn mình, thánh Anthony được Thiên Chúa dẫn đi tìm thánh Phaolô và nhận thấy Phaolô là người hoàn hảo hơn mình. Hôm đó, con quạ đã đem đến cho ngài cả ổ bánh chứ không chỉ nửa ổ bánh như thường ngày. Như thánh Phaolô tiên báo, thánh Anthony đã trở lại chôn cất người bạn mới của mình. Thánh Phaolô mất lúc khoảng 112 tuổi và được coi là thánh ẩn tu đầu tiên. Lễ kính ngài được cử hành ở Đông phương, ngài cũng được nhớ đến trong nghi lễ Coptic (thuộc Ai cập) và Armenia.
(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org)
Khám phá ơn gọi và kiên trì trong sứ vụ
Lm. Jude Siciliano, OP
04:37 13/01/2011
CHÚA NHẬT 2 MÙA THƯỜNG NIÊN A
Isaia 49: 3, 5-6; Thánh Vịnh: 40; 1 Côrintô 1: 1-3; Gioan: 1:29-34
Đoạn sách trích từ Isaia hôm nay là bài thứ hai trong số bốn bài ca về Người Tôi Trung nằm trong các chương 40-55. Bài ca này viết cho Israen trong thời gian bị lưu đày ở Babylon. Từ “ngươi” được sử dụng rất hàm hồ - có lẽ là cố ý. Vì thế, có lẽ một cách để lắng nghe thông điệp là như thể nhắm đến từng người chúng ta. Nhưng từ ‘ngươi” cũng nhằm nói đến nước Israen. Như gia bộc được Chúa chọn, nó đã không trung tín với giao ước của Chúa và đã chịu hậu quả. Quân Babylon đã tràn vào tàn phá đất nước và bắt dân trí thức và nhân tài đem đi đày. Chúng bỏ lại những người yếu nhược, thành bị phá hủy và đất ra ô uế.
Nhưng khi con người từ bỏ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn không bỏ họ. Ngay cả khi dân tỏ ra bất xứng, Thiên Chúa vẫn đến với họ. Dường như không có gì có thể ngăn cản tình yêu mà Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta. Thiên Chúa đồng hành với chính cuộc lưu đày do chúng ta tạo nên, phục hồi lại lời hứa trung thành, đưa chúng ta ra khỏi nơi đất khách và chỉ cho đường về nhà – đồng hành với chúng ta trên suốt hành trình.
Israen sẽ được đưa về từ cuộc lưu đày, nhưng niềm trăn trở của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người tôi bộc còn được giao một sứ mệnh, vì Chúa còn có một kế hoạch lớn hơn cho dân, họ sẽ là “ánh sáng cho muôn dân.” Thiên Chúa muốn cứu tất cả mọi người, toàn thể thế giới khỏi cảnh lưu dày và tù tội. Tất cả mọi người chứ không chỉ Israen trong kế hoạch của Thiên Chúa. (Trong thư Thánh Phaolô sẽ công bố, với sự kinh ngạc, về kế hoạch cứu độ Chúa dành cho dân ngoại ).
Trong “Lời thề trung thành”, chúng ta mô tả mình như “một đất nước của Thiên Chúa”. Nếu nhìn vận mệnh của thề giới theo lối của Isaia, chúng ta sẽ có trách nhiệm không chỉ với dân tộc mình nhưng còn với toàn thế giới. Mối ưu tư của chúng ta vượt xa những gì tốt đẹp cho riêng chúng ta. Như những người tôi bộc được chọn và nhìn bằng ánh mắt của Chúa, chúng ta phải đến với những người bị giam hãm trong sự tối tăm của nghèo đói, bệnh tật, chán nản, chiến tranh, …dù họ là ai và ở đâu.
Như một quốc gia, chúng ta còn lâu mới có thể được xem như người tôi bộc của lòng thương xót và bình an của Chúa trong thế giới. Trong Thánh lễ này chúng ta cầu nguyện cùng Chúa cho đất nước của chúng ta được lắng nghe Lời Chúa và được biến đổi nhờ những gì chúng ta nghe, hầu chúng ta có thể trở nên ánh sáng cho những người đang sống trong bóng tối, trong đất nước của chúng ta cũng như trên toàn thế giới và hành tinh này.
Những Kitô hữu tiên khởi chú ý đến Bài Ca Người Tôi Trung của Isaia và họ thấy mình là dân được gọi ra khỏi cảnh nô lệ nhờ Đức Giêsu, người tôi trung của Chúa. Đức Giêsu là dấu chỉ của lòng trắc ẩn và công bình của Thiên Chúa cho tất cả mọi dân tộc – “để ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Chính những Kitô hữu cũng thấy mình trong vai trò ngôn sứ là tôi trung của Thiên Chúa, được kêu gọi và đòi hỏi phải trở nên ánh sáng; là dấu chỉ của Thiên Chúa tới với tất cả những ai đang ngồi trong bất kỳ hình thức tăm tối nào.
Chẳng phải chúng ta, những Kitô hữu hiện đại cũng có cùng sứ mệnh đó sao? Trong Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên “ánh sáng cho muôn dân” để ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta được nhận biết “tới cùng cõi đất”. Được kêu gọi trở nên “ánh sáng cho muôn dân” không chỉ nhấn mạnh hành động truyền giáo của chúng ta như một giáo hội. Nếu chúng ta là ánh sáng thì chúng ta chiếu tỏa bất kỳ khi nào. Như một cộng đoàn đức tin, chúng ta là ai và chúng ta giao tiếp với nhau như thế nào, sẽ là sứ điệp cho dân ngoại, kêu gọi họ ra khỏi bóng tối để bước vào một cộng đoàn tín hữu yêu thương. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi của mình, sống như thánh Phaolô mô tả chúng ta trong bài đọc hôm nay, là những người “được hiến thánh trong Đức Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh…,” và chúng ta sẽ trở thành tôi trung như Isaia đã hình dung, một “ánh sáng cho muôn dân”.
Bài Tin mừng hôm nay làm một cú đảo lộn. Mãi cho đến bây giờ, chúng ta vẫn xem Gioan như vị tiền hô của Đức Giêsu.Giờ đây, qua sự chứng thực của Gioan Tẩy Giả, bài Tin mừng đã đưa chúng ta từ Gioan đến với Đức Giêsu. Nhưng trước khi chuyển qua Đức Giêsu, chúng ta hãy nán lại với Gioan thêm chút nữa.
Hãy tưởng tượng xem Gioan Tẩy Giả đã trải qua những gì trong sứ vụ của ngài. Khởi đầu là việc ông nhận được lời mời gọi đi loan báo một Đấng đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Đấng mà hôm nay Gioan tuyên bố là “Chiên Thiên Chúa”. Đây chính là Đấng xóa tội trần gian. Trước hết, Gioan không hề biết đấng sắp đến là ai. Ông phải chờ mạc khải thêm, như ông chứng thực hôm nay, “Trước đây, tôi đã không biết người…”
Thực ra, hai lần Gioan chân nhận, “tôi đã không biết ngài”. Gioan phải chờ xem Thánh Thần hiện xuống “như chim bồ câu” và ngự lại nơi Đức Giêsu. Khi những sự ấy xảy ra, thì Gioan cuối cùng đã nhận ra đấng ông hằng mong đợi và chuẩn bị cho dân đón nhận – đấng sẽ “làm phép rửa bằng Thánh Thần”.
Gioan đã phải dò dẫm làm việc trong một thời gian. Ông nhận được tiếng gọi đầu tiên của mình, và phải chờ đợi. Nhưng không phải là ông ngồi im chờ đợi và không thèm làm gì. Ông đã bận rộn và luôn hành động trong ơn gọi của mình, tin tưởng rằng khi thời gian hoàn tất sứ vụ của mình đến, Thiên Chúa sẽ cho ông biết mình phải làm gì tiếp theo. Gioan nhắc chúng ta nhớ về Ba Vua. Họ nhận được thông điệp khi họ vừa nhìn thấy ánh sao trên trời. Họ đáp lại, ra đi, theo thông điệp của ánh sao. Nhưng cũng giống như Gioan, họ phải dò dẫm đi một hồi trước khi đạt đến đích và nhận ra Đức Giêsu.
Khi được rửa tội, tất cả chúng ta đều liên đới trong sứ vụ. Một số trong chúng ta lãnh tác vụ chính thức trong giáo hội, những người khác đáp ứng những nhu cầu xung quanh. Mỗi chúng ta đều nghe thấy lời mời gọi cho sứ vụ. Cuộc đời của chúng ta được ghi dấu bởi sứ vụ này và bởi những người cần đến chúng ta. Nhưng theo nhiều cách khác nhau, giống như Gioan và Ba Vua, chúng ta cũng làm việc trong tăm tố, không chỉ trong cảnh tăm tối của thế giới chúng ta, nhưng cả trong sự tăm tối của ơn gọi của chúng ta. Chúng ta dồn tất cả sức lực vào những gì chúng ta biết mình phải thực hiện, nhưng chúng ta vẫn không ngừng thắc mắc: Tôi còn phải tiếp tục sứ vụ này bao lâu nữa? Sứ vụ này có thích hợp với khả năng của tôi hay không? Tại sao những gì tôi thực hiện trong sứ vụ của mình lại không được biết đến cách chính thức hơn? Tôi nghĩ về điều này sau bao năm thi hành sứ vụ tôi có lẽ đã va chạm hơn. Nhìn lại phía sau, liệu tôi có nhận được ơn gọi hay không, hay đó chỉ là sự tưởng tượng của tôi, một sự hão huyền?
Tôi cho rằng những câu hỏi này chẳng xa lạ gì với Tẩy Giả. Ông thực sự rất nhạy bén về việc được kêu gọi. Nhưng rồi, ông phải làm việc cho mãi đến khi nhận được dấu chỉ tiếp theo; dấu chỉ chỉ ra thân phận Đức Giêsu. Như Ba Vua và như một số trong chúng ta, ông lên đường mà không hề biết kết quả chung cuộc của công việc mình làm. Nhưng ông chắc rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ rời bỏ ông, nhưng luôn ở đó chờ ông, vào lúc thích hợp, để mặc khải bước tiếp theo cho ông.
Có một kết cục đang chờ đợi chúng ta, khi mà chúng ta thấy Thiên Chúa diện đối diện và sẽ không còn tối tăm nào nữa. Với điều này, chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng. Cho đến lúc đó, chúng ta tiếp tục sứ vụ của mình nhân danh Chúa. Chúng ta vẫn trung thành với cộng đoàn đức tin của mình, đặc biệt là khi chúng ta cùng quy tụ nhau để cử hành Thánh Thể. Chúng ta cũng tìm kiếm Đức Chúa trong những lần cầu nguyện thường xuyên của mình.
Nếu như chúng ta thực hiện những thay đổi đáng kể, như việc Ba Vua khăn gói lên đường bắt đầu tìm kiếm, hoặc như sự hoàn thành sứ vụ của Gioan, chúng ta sẻ cần đến sự hướng dẫn trong sứ vụ của mình. Rồi, chúng ta sẽ để mình chăm chú lắng nghe hơn nữa trong thinh lặng cầu nguyện; đọc có suy gẫm và thậm chí tìm kiếm sự tư vấn của những người khôn ngoan để giúp chúng ta nhận ra lời mời gọi của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Tôi biết ơn những ai giúp tôi biết nhận ra giây phút quan trọng và biến đổi trong cuộc đời tôi. Tri ân những ai đã ở đó và giúp tôi nói lên rằng: “Tôi thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống…” Ai là những người như thế đối với quý vị? Hãy cùng nhau tạ ơn.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
Isaia 49: 3, 5-6; Thánh Vịnh: 40; 1 Côrintô 1: 1-3; Gioan: 1:29-34
Đoạn sách trích từ Isaia hôm nay là bài thứ hai trong số bốn bài ca về Người Tôi Trung nằm trong các chương 40-55. Bài ca này viết cho Israen trong thời gian bị lưu đày ở Babylon. Từ “ngươi” được sử dụng rất hàm hồ - có lẽ là cố ý. Vì thế, có lẽ một cách để lắng nghe thông điệp là như thể nhắm đến từng người chúng ta. Nhưng từ ‘ngươi” cũng nhằm nói đến nước Israen. Như gia bộc được Chúa chọn, nó đã không trung tín với giao ước của Chúa và đã chịu hậu quả. Quân Babylon đã tràn vào tàn phá đất nước và bắt dân trí thức và nhân tài đem đi đày. Chúng bỏ lại những người yếu nhược, thành bị phá hủy và đất ra ô uế.
Nhưng khi con người từ bỏ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn không bỏ họ. Ngay cả khi dân tỏ ra bất xứng, Thiên Chúa vẫn đến với họ. Dường như không có gì có thể ngăn cản tình yêu mà Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta. Thiên Chúa đồng hành với chính cuộc lưu đày do chúng ta tạo nên, phục hồi lại lời hứa trung thành, đưa chúng ta ra khỏi nơi đất khách và chỉ cho đường về nhà – đồng hành với chúng ta trên suốt hành trình.
Israen sẽ được đưa về từ cuộc lưu đày, nhưng niềm trăn trở của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người tôi bộc còn được giao một sứ mệnh, vì Chúa còn có một kế hoạch lớn hơn cho dân, họ sẽ là “ánh sáng cho muôn dân.” Thiên Chúa muốn cứu tất cả mọi người, toàn thể thế giới khỏi cảnh lưu dày và tù tội. Tất cả mọi người chứ không chỉ Israen trong kế hoạch của Thiên Chúa. (Trong thư Thánh Phaolô sẽ công bố, với sự kinh ngạc, về kế hoạch cứu độ Chúa dành cho dân ngoại ).
Trong “Lời thề trung thành”, chúng ta mô tả mình như “một đất nước của Thiên Chúa”. Nếu nhìn vận mệnh của thề giới theo lối của Isaia, chúng ta sẽ có trách nhiệm không chỉ với dân tộc mình nhưng còn với toàn thế giới. Mối ưu tư của chúng ta vượt xa những gì tốt đẹp cho riêng chúng ta. Như những người tôi bộc được chọn và nhìn bằng ánh mắt của Chúa, chúng ta phải đến với những người bị giam hãm trong sự tối tăm của nghèo đói, bệnh tật, chán nản, chiến tranh, …dù họ là ai và ở đâu.
Như một quốc gia, chúng ta còn lâu mới có thể được xem như người tôi bộc của lòng thương xót và bình an của Chúa trong thế giới. Trong Thánh lễ này chúng ta cầu nguyện cùng Chúa cho đất nước của chúng ta được lắng nghe Lời Chúa và được biến đổi nhờ những gì chúng ta nghe, hầu chúng ta có thể trở nên ánh sáng cho những người đang sống trong bóng tối, trong đất nước của chúng ta cũng như trên toàn thế giới và hành tinh này.
Những Kitô hữu tiên khởi chú ý đến Bài Ca Người Tôi Trung của Isaia và họ thấy mình là dân được gọi ra khỏi cảnh nô lệ nhờ Đức Giêsu, người tôi trung của Chúa. Đức Giêsu là dấu chỉ của lòng trắc ẩn và công bình của Thiên Chúa cho tất cả mọi dân tộc – “để ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Chính những Kitô hữu cũng thấy mình trong vai trò ngôn sứ là tôi trung của Thiên Chúa, được kêu gọi và đòi hỏi phải trở nên ánh sáng; là dấu chỉ của Thiên Chúa tới với tất cả những ai đang ngồi trong bất kỳ hình thức tăm tối nào.
Chẳng phải chúng ta, những Kitô hữu hiện đại cũng có cùng sứ mệnh đó sao? Trong Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên “ánh sáng cho muôn dân” để ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta được nhận biết “tới cùng cõi đất”. Được kêu gọi trở nên “ánh sáng cho muôn dân” không chỉ nhấn mạnh hành động truyền giáo của chúng ta như một giáo hội. Nếu chúng ta là ánh sáng thì chúng ta chiếu tỏa bất kỳ khi nào. Như một cộng đoàn đức tin, chúng ta là ai và chúng ta giao tiếp với nhau như thế nào, sẽ là sứ điệp cho dân ngoại, kêu gọi họ ra khỏi bóng tối để bước vào một cộng đoàn tín hữu yêu thương. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi của mình, sống như thánh Phaolô mô tả chúng ta trong bài đọc hôm nay, là những người “được hiến thánh trong Đức Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh…,” và chúng ta sẽ trở thành tôi trung như Isaia đã hình dung, một “ánh sáng cho muôn dân”.
Bài Tin mừng hôm nay làm một cú đảo lộn. Mãi cho đến bây giờ, chúng ta vẫn xem Gioan như vị tiền hô của Đức Giêsu.Giờ đây, qua sự chứng thực của Gioan Tẩy Giả, bài Tin mừng đã đưa chúng ta từ Gioan đến với Đức Giêsu. Nhưng trước khi chuyển qua Đức Giêsu, chúng ta hãy nán lại với Gioan thêm chút nữa.
Hãy tưởng tượng xem Gioan Tẩy Giả đã trải qua những gì trong sứ vụ của ngài. Khởi đầu là việc ông nhận được lời mời gọi đi loan báo một Đấng đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Đấng mà hôm nay Gioan tuyên bố là “Chiên Thiên Chúa”. Đây chính là Đấng xóa tội trần gian. Trước hết, Gioan không hề biết đấng sắp đến là ai. Ông phải chờ mạc khải thêm, như ông chứng thực hôm nay, “Trước đây, tôi đã không biết người…”
Thực ra, hai lần Gioan chân nhận, “tôi đã không biết ngài”. Gioan phải chờ xem Thánh Thần hiện xuống “như chim bồ câu” và ngự lại nơi Đức Giêsu. Khi những sự ấy xảy ra, thì Gioan cuối cùng đã nhận ra đấng ông hằng mong đợi và chuẩn bị cho dân đón nhận – đấng sẽ “làm phép rửa bằng Thánh Thần”.
Gioan đã phải dò dẫm làm việc trong một thời gian. Ông nhận được tiếng gọi đầu tiên của mình, và phải chờ đợi. Nhưng không phải là ông ngồi im chờ đợi và không thèm làm gì. Ông đã bận rộn và luôn hành động trong ơn gọi của mình, tin tưởng rằng khi thời gian hoàn tất sứ vụ của mình đến, Thiên Chúa sẽ cho ông biết mình phải làm gì tiếp theo. Gioan nhắc chúng ta nhớ về Ba Vua. Họ nhận được thông điệp khi họ vừa nhìn thấy ánh sao trên trời. Họ đáp lại, ra đi, theo thông điệp của ánh sao. Nhưng cũng giống như Gioan, họ phải dò dẫm đi một hồi trước khi đạt đến đích và nhận ra Đức Giêsu.
Khi được rửa tội, tất cả chúng ta đều liên đới trong sứ vụ. Một số trong chúng ta lãnh tác vụ chính thức trong giáo hội, những người khác đáp ứng những nhu cầu xung quanh. Mỗi chúng ta đều nghe thấy lời mời gọi cho sứ vụ. Cuộc đời của chúng ta được ghi dấu bởi sứ vụ này và bởi những người cần đến chúng ta. Nhưng theo nhiều cách khác nhau, giống như Gioan và Ba Vua, chúng ta cũng làm việc trong tăm tố, không chỉ trong cảnh tăm tối của thế giới chúng ta, nhưng cả trong sự tăm tối của ơn gọi của chúng ta. Chúng ta dồn tất cả sức lực vào những gì chúng ta biết mình phải thực hiện, nhưng chúng ta vẫn không ngừng thắc mắc: Tôi còn phải tiếp tục sứ vụ này bao lâu nữa? Sứ vụ này có thích hợp với khả năng của tôi hay không? Tại sao những gì tôi thực hiện trong sứ vụ của mình lại không được biết đến cách chính thức hơn? Tôi nghĩ về điều này sau bao năm thi hành sứ vụ tôi có lẽ đã va chạm hơn. Nhìn lại phía sau, liệu tôi có nhận được ơn gọi hay không, hay đó chỉ là sự tưởng tượng của tôi, một sự hão huyền?
Tôi cho rằng những câu hỏi này chẳng xa lạ gì với Tẩy Giả. Ông thực sự rất nhạy bén về việc được kêu gọi. Nhưng rồi, ông phải làm việc cho mãi đến khi nhận được dấu chỉ tiếp theo; dấu chỉ chỉ ra thân phận Đức Giêsu. Như Ba Vua và như một số trong chúng ta, ông lên đường mà không hề biết kết quả chung cuộc của công việc mình làm. Nhưng ông chắc rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ rời bỏ ông, nhưng luôn ở đó chờ ông, vào lúc thích hợp, để mặc khải bước tiếp theo cho ông.
Có một kết cục đang chờ đợi chúng ta, khi mà chúng ta thấy Thiên Chúa diện đối diện và sẽ không còn tối tăm nào nữa. Với điều này, chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng. Cho đến lúc đó, chúng ta tiếp tục sứ vụ của mình nhân danh Chúa. Chúng ta vẫn trung thành với cộng đoàn đức tin của mình, đặc biệt là khi chúng ta cùng quy tụ nhau để cử hành Thánh Thể. Chúng ta cũng tìm kiếm Đức Chúa trong những lần cầu nguyện thường xuyên của mình.
Nếu như chúng ta thực hiện những thay đổi đáng kể, như việc Ba Vua khăn gói lên đường bắt đầu tìm kiếm, hoặc như sự hoàn thành sứ vụ của Gioan, chúng ta sẻ cần đến sự hướng dẫn trong sứ vụ của mình. Rồi, chúng ta sẽ để mình chăm chú lắng nghe hơn nữa trong thinh lặng cầu nguyện; đọc có suy gẫm và thậm chí tìm kiếm sự tư vấn của những người khôn ngoan để giúp chúng ta nhận ra lời mời gọi của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Tôi biết ơn những ai giúp tôi biết nhận ra giây phút quan trọng và biến đổi trong cuộc đời tôi. Tri ân những ai đã ở đó và giúp tôi nói lên rằng: “Tôi thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống…” Ai là những người như thế đối với quý vị? Hãy cùng nhau tạ ơn.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
Đức Giêsu, Chiên của Thiên Chúa
Giuse Đinh Lập Liễm
07:57 13/01/2011
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN A
+++
A. DẪN NHẬP
Ngay từ lâu tiên tri Isaia đã nói về Người Tôi Tớ kỳ diệu của Giavê. Ông mô tả người tôi tớ này là người hiền lành khiêm nhường nhịn nhục như con chiên bị đem đi làm thịt mà không một lời kêu ca phản kháng. Người Tôi Tớ đó là ai ? Sau đó, tiên tri Giêrêmia cũng nói về mình giống như người tôi tớ Giavê khi ông viết: ”Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều ác chống lại tôi”. Sau này, chính Gioan Tẩy giả đã giới thiệu cho dân chúng biết Người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã mô tả khi ông chỉ vào Đức Giêsu mà nói:”Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1,29).
Gioan tự thú trước đây ông chưa từng biết Đấng Cứu Thế mặc dầu ông là bà con với Đức Giêsu. Nói như vậy chỉ có nghĩa là ông không biết hoặc biết không chắc chắn Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông chỉ biết được điều đó từ trên mạc khải cho khi Đức Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho, và chính Thiên Chúa đã báo cho ông biết qua tiếng nói từ trời: ”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, ông bắt đầu làm chứng và khẳng định rằng “Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Sau khi đã biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta cũng có trách nhiệm phải giới thiệu Ngài cho những người khác bằng chính cuộc sống cụ thể của chúng ta. Chúng ta phải trở nên ánh sáng cho thế gian để soi cho người ta biết Chúa như lời Ngài dạy:”Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ trông thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16). Ngòai ra, theo lời khuyên nhủ của thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay, chúng ta cũng phải cố gắng nên thánh để xứng đáng là môn đệ của Chúa, xứng đáng là con của Đấng đã phán: ”Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh”(Lv 11,44).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 49,3,5-6
Tiên tri Isaia được soi sáng để nhìn thấy trước Người Tôi Tớ Giavê và được mô tả trong bốn bài thơ. Trong lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Người Tôi Tớ cũng được đề cập và được rút ra từ bài thơ thứ nhất. Hôm nay Người Tôi Tớ được rút ra từ bài thơ thứ hai.
Theo tiên tri Isaia, người tôi trung có những đặc điểm sau đây:
- Biểu lộ vinh quang của Chúa.
- Dẫn đưa nhà Giacóp về qui tụ dân Israel chung quanh Ngài.
- Trở thành ánh sáng muôn dân để đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Đấy chỉ là người tôi trung nào đó được mô tả, còn người tôi trung này chỉ được thực hiện hòan hảo nơi Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,1-3
Bài đọc 2 là lời chào thăm của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô, giáo đòan mà ngài đã thành lập trong chuyến hành trình truyền giáo thứ hai vào những năm 50-52.
Trong phần mở đầu vắn tắt được đọc lại hôm nay, thánh Phaolô dùng hai lần từ ngữ “kêu gọi”: Ngài được Chúa kêu gọi và họ cũng là những người được Chúa kêu gọi. Ngài được Chúa kêu gọi để làm tông đồ đi rao giảng Tin mừng của Đức Kitô, còn họ là những người được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa trong Đức Giêsu Kitô.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,29-34
Đức Giêsu lần đầu tiên xuất hiện nơi công chúng. Khi thấy Ngài tiến về phía mình, thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng: Người là Chiên Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa.
. Chiên Thiên Chúa: Khi nói Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa, có thể Gioan đang nghĩ đến Con Chiên của lễ Vượt Qua vì bấy giờ là lễ Vượt Qua cũng sắp đến (Xh 2,13). Gioan là con trai của thầy tư tế, chắc ông biết rõ mọi chi tiết liên hệ đến việc dâng của lễ: hằng ngày buổi sáng và buổi chiều, luôn luôn có một con chiên được dâng làm của lễ trong đền thờ để chuộc tội cho dân chúng (Xh 29,38-42). Trong lễ nghi đền tội của Do thái giáo, tội nhân đem một con chiên lên đền thờ, úp tay mình xuống trên con chiên tỏ ý trút hết mọi tội mình trên nó; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên hoặc thả nó vào rừng. Nó chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa.
. Con Thiên Chúa: Chúng ta thắc mắc đặt dấu hỏi: Tại sao trong bài Tin mừng hôm nay Gioan Tẩy giả lại nói ông chưa từng biết Đức Giêsu vì ông đã biết Ngài lúc chịu phép rửa và là bà con của Người nữa ? Đúng thế, Gioan đã biết Ngài là Con Thiên Chúa (trong lúc rửa tội) và có họ hàng với nhau, chắc chắn đã quen biết nhau. Không phải Gioan nói ông không biết Đức Giêsu là ai, nhưng ông muốn nói là mình chưa từng nhận biết Ngài là Đấng Messia (Chúa Cứu Thế), ông mới được mạc khải rằng Giêsu này chính là Con Thiên Chúa, là Con ruột của Thiên Chúa, chứ không phải là con nuôi, là nghĩa tử.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Con chiên xóa tội trần gian
I. GIOAN GIỚI THIỆU ĐỨC GIÊSU
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân lọai qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân lọai qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: ”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”! Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của những lời giới thiệu ấy.
1. Đây Chiên Thiên Chúa
Thói thường, muốn giới thiệu khuôn mặt của một người thì người ta phải giới thiệu một khuôn mặt hấp dẫn, đàng này thánh Gioan lại không theo khuôn thức đó. Người ta kể rằng: một tu sĩ kia muốn họa lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề trên, ông đi rảo khắp nơi để tìm cho kỳ được người mẫu thích hợp. Thế nhưng, càng tìm kiếm, ông càng khám phá ra rằng, không thể có người nào trên trần gian này hòan tòan giống Đức Giêsu. Từ đó, ông đi đến kết luận: Gương mặt Đức Giêsu phải là tổng hợp của tất cả vẻ đẹp của con người trên trần gian này. Do đó, thay vì chỉ chọn một người mẫu, ông đi thu nhặt tất cả những nét đẹp trên mọi gương mặt mà ông đã gặp.
Thầy dòng kia đã quá băn khoăn về khuôn mặt Chúa Cứu thế, còn thánh Gioan tẩy giả, qua bài Tin mừng hôm nay, thì lại quá đơn giản. Ngài giới thiệu Chúa, bằng một hình ảnh và một tên rất thường: ”Đây Chiên của Thiên Chúa”.
Biểu tượng “Con Chiên” mang một dòng lịch sử súc tích. Nó có liên hệ chặt chẽ với những biến cố của ơn cứu độ. Theo truyền thống Do thái trong sách Xuất hành, Thiên Chúa đã phán với Maisen: ”Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng, con kia vào buổi chiều”(Xh 29,38-39)
Theo đó, qua suốt thời gian dài cho đến năm 70, khi Đền thờ bị phá hủy, mỗi ngày vào buổi sáng sớm và buổi chiều, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ tòan thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy, tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: ”Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7).
Trước Gioan Tẩy giả rất lâu, các tiên tri đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên, như Isaia đã mô tả: ”Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8).
Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Đức Giêsu khi ông viết: ”Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).
Thành ngữ “Chiên của Thiên Chúa”là một thành ngữ hết sức kỳ diệu. Tác giả sách Khải huyền đã dùng thành ngữ ấy 29 lần trong sách của mình, và trở thành một trong những danh hiệu quí báu nhất của Chúa Cứu Thế. Chỉ trong một chữ, thành ngữ tóm tắt được tình yêu thương, đức hy sinh chịu khổ và chiến thắng khải hòan của Đức Giêsu.
Gioan Tẩy giả cho rằng mình chưa từng biết Đấng Cứu thế, nhưng ông lại là bà con với Đức Giêsu, chắc chắn Gioan và Đức Giêsu đã quen biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: ”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làn chứng về Ngài.
2. Đấng xóa tội trần gian
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói: ”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa, Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân lọai. Từ nay nhân lọai đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
II. CHÚNG TA CŨNG PHẢI GIỚI THIỆU ĐỨC KITÔ
Mỗi người Kitô hữu là một người mang sứ mạng của Gioan, nghĩa là giới thiệu Đức Kitô cho người khác biết. Cách thức giới thiệu đó có thể khác nhau: người thì dùng lời nói, kẻ khác bằng hành dộng bác ái, xã hội, hoặc đời sống chân chính theo đúng nghĩa Kitô giáo. Chúng ta có thể giới thiệu Chúa Kitô cho người khác bằng một số việc sau đây:
1. Sống xứng đáng người Kitô hữu
Chúng ta đã biết rõ lý lịch của Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta xưng tụng bằng danh hiệu: Con Thiên Chúa, Chiên Thiên Chúa, Người Tôi Tớ Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Tất cả những danh hiệu này đã được Chúa Cha ban tặng cho Ngài qua miệng các tiên tri loan báo trong Thánh Kinh, nhất là chính Ngài đóng trọn những vai trò, đã sống gương mẫu thực tế một cách tuyệt hảo những danh hiệu của mình.
Chúng ta cũng được Chúa ban cho nhiều danh hiệu như dân tư tế, dân thánh, dân được tuyển chọn, dòng tư tế vương giả, môn đệ Chúa, bạn hữu với hàng thần thánh, Kitô hữu… Vậy thử hỏi chúng ta đã sống đúng chức năng của những danh hiệu ấy chưa ? Đối với danh hiệu “Kitô hữu” chúng ta đã sống thế nào ?
Kitô hữu là một danh hiệu mà thánh Phaolô tông đồ lần đầu tiên đã tặng cho các tin hữu ở Antiochia. Thời kỳ đầu các tín hữu đã có một cuộc sống rất gương mẫu làm cho dân ngọai phải ngạc nhiên. Sách Công vụ Tông đồ còn ghi lại: ”Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”(Cv 2,44-47).
Người Kitô hữu là muối, là linh hồn của thế gian. Họ là thành phần của đám đông nhưng lại hành động như men. Họ không thể phân biệt khỏi quần chúng, nhưng họ khác biệt hòan tòan. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ 3 đã viết trong tác phẩm gửi cho Diognetus như sau:
“Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của lòai người như một số người nọ. Họ sống rải rác trong các thánh phố Hy lạp lẫn trong các thành thị của người Mandi, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của dân bản xứ trong cách phục sức, ăn uống, và cách sống nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng, khó tin nữa. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu mọi gánh nặng dường như ngọai kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng…”(Trích Các bài đọc II, Mùa Phục sinh, tr 84).
Muốn chiếu giãi ánh sáng Chúa Kitô cho người khác, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Kitô bằng cách học hỏi Lời Chúa, áp dụng vào đời sống hằng ngày để chúng ta có thể nói được như thánh Phaolô: ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,19). Nếu Đức Kitô sống trong ta, Ngài sẽ hóan đổi dần con người của ta để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ chiếu giãi Chúa Kitô cho người khác được.
Truyện: Nét mặt Chúa Giêsu
Du khách đến Rôma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước thánh giá cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và niềm an ủi thẳm sâu.
Người ta kể rằng: Tác giả tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hòan thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn. Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hòan cảnh thật đáng thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thánh giá không còn là phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào đó (Thiên Phúc, Tất cả là Hồng ân tr 52-53).
2. Phải nên thánh
Trong bài đọc 2 hôm nay, trong phần đầu thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô hai lần nhấn mạnh từ “kêu gọi”. Ngài được Chúa kêu gọi vào sứ mạng tông đồ, còn họ được “kêu gọi” nên thánh. Nên thánh không có nghĩa là phải làm những việc lạ lùng phi thường, nhưng tùy theo khả năng và môi trường, phải hành động để nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian, cứu thóat thế gian khỏi vòng tội lỗi.
Người Á đông thường lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn trong cuộc sống: ”Nội thánh, ngọai vương”: bên trong là một vị thánh, bên ngòai là một ông vua. Có lẽ đây là lời người ta khen vua Thương và vua Thang là những ông vua tốt lành gương mẫu xứng đáng cho người ta gọi là “thánh vuơng”. Khác với hai vị vua này là vua Trụ và vua Kiệt là hai vị vua độc ác đến nỗi người đời phải tặng cho hai chữ “bạo vương”.
Vua Đavít đã thực hiện được câu châm ngôn “Nội thánh ngọai vuơng”, xứng đáng cho người ta gọi là thánh vương Đavít. Còn chúng ta không phải là bậc vua chúa mà chỉ là một Kitô hữu bình thường, chúng ta có thể thực hiện được câu châm ngôn ấy không ? Chắc chắn là được !
Cần nhất phải có cái nội là thánh vì nó là điều căn bản, còn cái ngọai vuơng là gì cũng được, là vua hay dân cũng được và có thể là bất cứ ai, ở vào bất cứ hòan cảnh nào.
. Nếu ta là vua thì cái “ngọai vương” đó làm cho người ta biết rằng Thiên Chúa là vua trời đất, vua tối cao, vua trên hết các vua, chúa trên hết các chúa, mọi người phải phụng thờ Ngài.
. Nếu ta là người giầu có thì cái ngọai vương của ta làm cho người ta biết Thiên Chúa là Đấng giầu sang khôn ví, Ngài đã tạo dựng nên vạn vật và đã ban mọi sự cho con người, hãy biết ơn và cảm tạ Ngài.
. Nếu ta là người nghèo khó, hèn hạ thì cái ngọai vương của ta phải làm cho họ biết rằng Thiên Chúa giầu sang phú quí, vì yêu thương nhân lọai đau khổ đã bỏ mọi vinh quang trên trời, xuống thế làm người ở với con người, đã trở nên nghèo hèn cho giống con người và sau cùng chịu chết trên thập giá để cứu chuộc con người.
Khi chúng ta đã có một đời sống lành thánh bên trong thì tự nhiên bản thân ta sẽ phát ra một cái gì tốt lành khả dĩ khiến người khác phải mến phục. Từ chỗ họ mến phục cuộc sống chúng ta, họ sẽ mến đạo, tin theo đạo và tất nhiên họ sẽ tìm đến Chúa.
Tuy người ta chưa biết Chúa ngay, nhưng qua trung gian chúng ta họ sẽ biết Chúa từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ cái xa đến cái gần, từ cái ngòai đến cái trong, từ con người của ta đến với Chúa. Nên người đời thường nói:
Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng.
hoặc
Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Muốn được thế, chúng ta phải thực hành Lời Chúa: ”Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha của các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16).
3. Sống khiêm nhường nhịn nhục
Trong cách giới thiệu của Gioan về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: ”Ngài phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30). Gioan đã phải từ bỏ “cái tôi” của mình để thể hiện được sự quên mình theo tinh thần tự hủy của Đức Giêsu (Pl 2,6-8).
Lão Tử đã đưa ra chủ trương “Nhu nhược thắng cương cường”, cái mềm yếu lại thắng cái mạnh mẽ. Do đó quan niệm “Nhu thắng cương, nhược thắng cường” (mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh) có thể làm cho chúng ta dễ chấp nhận. Đúng vậy, thánh Phaolô đã nói thẳng: ”Tôi vui thỏa trong các nỗi yếu đuối… vì khi tôi yếu thì chính bấy giờ là tôi mạnh”(2Cr 12,10). Nhà thơ La Fontaine có một câu truyện ngụ ngôn rất thích hợp với đề tài của chúng ta.
Truyện: Cây dẻ và cây sậy.
Cây dẻ tự hào mình là thứ cây cổ thụ cao lớn đồ sộ, hiên ngang đứng giữa trời đất giang tay đón gió. Dẻ đưa mắt nhìn xuống đám cây lau sống lụp xụp trong bùn dưới chân mình. Dẻ tỏ vẻ khinh khi bảo: ”Kìa lòai chi chúng bay mà ta vừa rung lá, bay đã cúi đầu lo sợ”. Khóm lau trả lời: ”Chúng tôi cúi đầu mà không gẫy thân. Còn ông hãy coi chừng”. Và cứ thế, lời qua tiếng lại mỗi ngày. Bỗng một ngày kia, trận bão từ biển Đông thổi vào. Cây dẻ cứ đứng vững như trồng, còn lau đua nhau cúi sát mặt. Nhưng trên gió cứ thổi lên, thổi lên từng hồi. Dẻ ta vẫn đứng sừng sững, còn lau nằm sát nước. Bỗng một tiếng đổ sụp vang trời dội đất. Cây dẻ đã trốc rễ và vật mình nằm sõng sượt không thốt lên lời. Qua cơn bão táp, lau đứng dậy vững vàng.
Vâng, lau cúi mình nhưng lau không bị gẫy. Lời thánh Phaolô “trong lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh” là thế đó !
4. Tinh thần biết ơn Chúa
Chúng ta biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước và hình bóng của luật cũ đã nên trọn vẹn trong Luật mới. Không chỉ trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu được gọi là Con Chiên. Thánh Phêrô cũng nói về Đức Kitô là Con Chiên. Trong sách Khải huyền, thánh Gioan gọi Con Chúa là Con Chiên ít nhất 28 lần. Ông đã chỉ rõ Đức Kitô là Con Chiên bị chết vì tội lỗi lòai người, của các dân tộc. Ông cũng nhấn mạnh sự thật rằng: Con Chiên đây là Con thật của Thiên Chúa, rằng Ngài tăng cường sức mạnh cho những kẻ tin theo Ngài, Ngài chiến thắng Satan. Do đó, chúng phải tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi định mệnh mất ơn nghĩa đời đời. Chúa Giêsu đã tự ý và yêu thương mà hy sinh mạng sống Ngài cho chúng ta được sống.
Truyện: Được sống nhờ con chiên.
Trên mái một nhà thờ ở Werden, nước Đức, người ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ một con chiên. Đây là câu chuyện về tảng đá đó. Một công nhân đang làm trên mái nhà thờ này thì dây thừng an tòan bị đứt, anh công nhân bị rớt xuống sân nhà thờ, mà sân thì xếp đầy những đống đá lớn. Thế nhưng anh công nhân không bị thương nặng. Có một con chiên đang gặm cỏ giũa hai khối đá lớn. Anh công nhân rớt xuống trên con chiên và đè nó chết, làm tiêu tan điều được coi là cú rơi định mệnh.
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt đẹp bày tỏ lòng biết ơn của anh ta đối với một con vật đần độn, đã cứu mạng anh mà nó không biết (Arthur Tonne).
Thánh lễ nào cũng là thánh lễ tạ ơn. Chúng ta sốt sắng dâng Thánh lễ này để cảm tạ Chúa vì công ơn cứu chuộc Đức Kitô đã dành cho chúng ta, và trước khi rước lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con”.
Liền sau lời nguyện đó, Linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng ta bằng những lời Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: ”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trong tình yêu thương.
+++
A. DẪN NHẬP
Ngay từ lâu tiên tri Isaia đã nói về Người Tôi Tớ kỳ diệu của Giavê. Ông mô tả người tôi tớ này là người hiền lành khiêm nhường nhịn nhục như con chiên bị đem đi làm thịt mà không một lời kêu ca phản kháng. Người Tôi Tớ đó là ai ? Sau đó, tiên tri Giêrêmia cũng nói về mình giống như người tôi tớ Giavê khi ông viết: ”Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều ác chống lại tôi”. Sau này, chính Gioan Tẩy giả đã giới thiệu cho dân chúng biết Người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã mô tả khi ông chỉ vào Đức Giêsu mà nói:”Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1,29).
Gioan tự thú trước đây ông chưa từng biết Đấng Cứu Thế mặc dầu ông là bà con với Đức Giêsu. Nói như vậy chỉ có nghĩa là ông không biết hoặc biết không chắc chắn Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông chỉ biết được điều đó từ trên mạc khải cho khi Đức Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho, và chính Thiên Chúa đã báo cho ông biết qua tiếng nói từ trời: ”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, ông bắt đầu làm chứng và khẳng định rằng “Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Sau khi đã biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta cũng có trách nhiệm phải giới thiệu Ngài cho những người khác bằng chính cuộc sống cụ thể của chúng ta. Chúng ta phải trở nên ánh sáng cho thế gian để soi cho người ta biết Chúa như lời Ngài dạy:”Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ trông thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16). Ngòai ra, theo lời khuyên nhủ của thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay, chúng ta cũng phải cố gắng nên thánh để xứng đáng là môn đệ của Chúa, xứng đáng là con của Đấng đã phán: ”Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh”(Lv 11,44).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 49,3,5-6
Tiên tri Isaia được soi sáng để nhìn thấy trước Người Tôi Tớ Giavê và được mô tả trong bốn bài thơ. Trong lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Người Tôi Tớ cũng được đề cập và được rút ra từ bài thơ thứ nhất. Hôm nay Người Tôi Tớ được rút ra từ bài thơ thứ hai.
Theo tiên tri Isaia, người tôi trung có những đặc điểm sau đây:
- Biểu lộ vinh quang của Chúa.
- Dẫn đưa nhà Giacóp về qui tụ dân Israel chung quanh Ngài.
- Trở thành ánh sáng muôn dân để đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Đấy chỉ là người tôi trung nào đó được mô tả, còn người tôi trung này chỉ được thực hiện hòan hảo nơi Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,1-3
Bài đọc 2 là lời chào thăm của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô, giáo đòan mà ngài đã thành lập trong chuyến hành trình truyền giáo thứ hai vào những năm 50-52.
Trong phần mở đầu vắn tắt được đọc lại hôm nay, thánh Phaolô dùng hai lần từ ngữ “kêu gọi”: Ngài được Chúa kêu gọi và họ cũng là những người được Chúa kêu gọi. Ngài được Chúa kêu gọi để làm tông đồ đi rao giảng Tin mừng của Đức Kitô, còn họ là những người được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa trong Đức Giêsu Kitô.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,29-34
Đức Giêsu lần đầu tiên xuất hiện nơi công chúng. Khi thấy Ngài tiến về phía mình, thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng: Người là Chiên Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa.
. Chiên Thiên Chúa: Khi nói Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa, có thể Gioan đang nghĩ đến Con Chiên của lễ Vượt Qua vì bấy giờ là lễ Vượt Qua cũng sắp đến (Xh 2,13). Gioan là con trai của thầy tư tế, chắc ông biết rõ mọi chi tiết liên hệ đến việc dâng của lễ: hằng ngày buổi sáng và buổi chiều, luôn luôn có một con chiên được dâng làm của lễ trong đền thờ để chuộc tội cho dân chúng (Xh 29,38-42). Trong lễ nghi đền tội của Do thái giáo, tội nhân đem một con chiên lên đền thờ, úp tay mình xuống trên con chiên tỏ ý trút hết mọi tội mình trên nó; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên hoặc thả nó vào rừng. Nó chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa.
. Con Thiên Chúa: Chúng ta thắc mắc đặt dấu hỏi: Tại sao trong bài Tin mừng hôm nay Gioan Tẩy giả lại nói ông chưa từng biết Đức Giêsu vì ông đã biết Ngài lúc chịu phép rửa và là bà con của Người nữa ? Đúng thế, Gioan đã biết Ngài là Con Thiên Chúa (trong lúc rửa tội) và có họ hàng với nhau, chắc chắn đã quen biết nhau. Không phải Gioan nói ông không biết Đức Giêsu là ai, nhưng ông muốn nói là mình chưa từng nhận biết Ngài là Đấng Messia (Chúa Cứu Thế), ông mới được mạc khải rằng Giêsu này chính là Con Thiên Chúa, là Con ruột của Thiên Chúa, chứ không phải là con nuôi, là nghĩa tử.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Con chiên xóa tội trần gian
I. GIOAN GIỚI THIỆU ĐỨC GIÊSU
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân lọai qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân lọai qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: ”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”! Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của những lời giới thiệu ấy.
1. Đây Chiên Thiên Chúa
Thói thường, muốn giới thiệu khuôn mặt của một người thì người ta phải giới thiệu một khuôn mặt hấp dẫn, đàng này thánh Gioan lại không theo khuôn thức đó. Người ta kể rằng: một tu sĩ kia muốn họa lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề trên, ông đi rảo khắp nơi để tìm cho kỳ được người mẫu thích hợp. Thế nhưng, càng tìm kiếm, ông càng khám phá ra rằng, không thể có người nào trên trần gian này hòan tòan giống Đức Giêsu. Từ đó, ông đi đến kết luận: Gương mặt Đức Giêsu phải là tổng hợp của tất cả vẻ đẹp của con người trên trần gian này. Do đó, thay vì chỉ chọn một người mẫu, ông đi thu nhặt tất cả những nét đẹp trên mọi gương mặt mà ông đã gặp.
Thầy dòng kia đã quá băn khoăn về khuôn mặt Chúa Cứu thế, còn thánh Gioan tẩy giả, qua bài Tin mừng hôm nay, thì lại quá đơn giản. Ngài giới thiệu Chúa, bằng một hình ảnh và một tên rất thường: ”Đây Chiên của Thiên Chúa”.
Biểu tượng “Con Chiên” mang một dòng lịch sử súc tích. Nó có liên hệ chặt chẽ với những biến cố của ơn cứu độ. Theo truyền thống Do thái trong sách Xuất hành, Thiên Chúa đã phán với Maisen: ”Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng, con kia vào buổi chiều”(Xh 29,38-39)
Theo đó, qua suốt thời gian dài cho đến năm 70, khi Đền thờ bị phá hủy, mỗi ngày vào buổi sáng sớm và buổi chiều, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ tòan thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy, tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: ”Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7).
Trước Gioan Tẩy giả rất lâu, các tiên tri đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên, như Isaia đã mô tả: ”Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8).
Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Đức Giêsu khi ông viết: ”Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).
Thành ngữ “Chiên của Thiên Chúa”là một thành ngữ hết sức kỳ diệu. Tác giả sách Khải huyền đã dùng thành ngữ ấy 29 lần trong sách của mình, và trở thành một trong những danh hiệu quí báu nhất của Chúa Cứu Thế. Chỉ trong một chữ, thành ngữ tóm tắt được tình yêu thương, đức hy sinh chịu khổ và chiến thắng khải hòan của Đức Giêsu.
Gioan Tẩy giả cho rằng mình chưa từng biết Đấng Cứu thế, nhưng ông lại là bà con với Đức Giêsu, chắc chắn Gioan và Đức Giêsu đã quen biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: ”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làn chứng về Ngài.
2. Đấng xóa tội trần gian
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói: ”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa, Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân lọai. Từ nay nhân lọai đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
II. CHÚNG TA CŨNG PHẢI GIỚI THIỆU ĐỨC KITÔ
Mỗi người Kitô hữu là một người mang sứ mạng của Gioan, nghĩa là giới thiệu Đức Kitô cho người khác biết. Cách thức giới thiệu đó có thể khác nhau: người thì dùng lời nói, kẻ khác bằng hành dộng bác ái, xã hội, hoặc đời sống chân chính theo đúng nghĩa Kitô giáo. Chúng ta có thể giới thiệu Chúa Kitô cho người khác bằng một số việc sau đây:
1. Sống xứng đáng người Kitô hữu
Chúng ta đã biết rõ lý lịch của Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta xưng tụng bằng danh hiệu: Con Thiên Chúa, Chiên Thiên Chúa, Người Tôi Tớ Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Tất cả những danh hiệu này đã được Chúa Cha ban tặng cho Ngài qua miệng các tiên tri loan báo trong Thánh Kinh, nhất là chính Ngài đóng trọn những vai trò, đã sống gương mẫu thực tế một cách tuyệt hảo những danh hiệu của mình.
Chúng ta cũng được Chúa ban cho nhiều danh hiệu như dân tư tế, dân thánh, dân được tuyển chọn, dòng tư tế vương giả, môn đệ Chúa, bạn hữu với hàng thần thánh, Kitô hữu… Vậy thử hỏi chúng ta đã sống đúng chức năng của những danh hiệu ấy chưa ? Đối với danh hiệu “Kitô hữu” chúng ta đã sống thế nào ?
Kitô hữu là một danh hiệu mà thánh Phaolô tông đồ lần đầu tiên đã tặng cho các tin hữu ở Antiochia. Thời kỳ đầu các tín hữu đã có một cuộc sống rất gương mẫu làm cho dân ngọai phải ngạc nhiên. Sách Công vụ Tông đồ còn ghi lại: ”Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”(Cv 2,44-47).
Người Kitô hữu là muối, là linh hồn của thế gian. Họ là thành phần của đám đông nhưng lại hành động như men. Họ không thể phân biệt khỏi quần chúng, nhưng họ khác biệt hòan tòan. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ 3 đã viết trong tác phẩm gửi cho Diognetus như sau:
“Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của lòai người như một số người nọ. Họ sống rải rác trong các thánh phố Hy lạp lẫn trong các thành thị của người Mandi, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của dân bản xứ trong cách phục sức, ăn uống, và cách sống nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng, khó tin nữa. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu mọi gánh nặng dường như ngọai kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng…”(Trích Các bài đọc II, Mùa Phục sinh, tr 84).
Muốn chiếu giãi ánh sáng Chúa Kitô cho người khác, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Kitô bằng cách học hỏi Lời Chúa, áp dụng vào đời sống hằng ngày để chúng ta có thể nói được như thánh Phaolô: ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,19). Nếu Đức Kitô sống trong ta, Ngài sẽ hóan đổi dần con người của ta để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ chiếu giãi Chúa Kitô cho người khác được.
Truyện: Nét mặt Chúa Giêsu
Du khách đến Rôma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước thánh giá cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và niềm an ủi thẳm sâu.
Người ta kể rằng: Tác giả tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hòan thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn. Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hòan cảnh thật đáng thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thánh giá không còn là phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào đó (Thiên Phúc, Tất cả là Hồng ân tr 52-53).
2. Phải nên thánh
Trong bài đọc 2 hôm nay, trong phần đầu thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô hai lần nhấn mạnh từ “kêu gọi”. Ngài được Chúa kêu gọi vào sứ mạng tông đồ, còn họ được “kêu gọi” nên thánh. Nên thánh không có nghĩa là phải làm những việc lạ lùng phi thường, nhưng tùy theo khả năng và môi trường, phải hành động để nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian, cứu thóat thế gian khỏi vòng tội lỗi.
Người Á đông thường lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn trong cuộc sống: ”Nội thánh, ngọai vương”: bên trong là một vị thánh, bên ngòai là một ông vua. Có lẽ đây là lời người ta khen vua Thương và vua Thang là những ông vua tốt lành gương mẫu xứng đáng cho người ta gọi là “thánh vuơng”. Khác với hai vị vua này là vua Trụ và vua Kiệt là hai vị vua độc ác đến nỗi người đời phải tặng cho hai chữ “bạo vương”.
Vua Đavít đã thực hiện được câu châm ngôn “Nội thánh ngọai vuơng”, xứng đáng cho người ta gọi là thánh vương Đavít. Còn chúng ta không phải là bậc vua chúa mà chỉ là một Kitô hữu bình thường, chúng ta có thể thực hiện được câu châm ngôn ấy không ? Chắc chắn là được !
Cần nhất phải có cái nội là thánh vì nó là điều căn bản, còn cái ngọai vuơng là gì cũng được, là vua hay dân cũng được và có thể là bất cứ ai, ở vào bất cứ hòan cảnh nào.
. Nếu ta là vua thì cái “ngọai vương” đó làm cho người ta biết rằng Thiên Chúa là vua trời đất, vua tối cao, vua trên hết các vua, chúa trên hết các chúa, mọi người phải phụng thờ Ngài.
. Nếu ta là người giầu có thì cái ngọai vương của ta làm cho người ta biết Thiên Chúa là Đấng giầu sang khôn ví, Ngài đã tạo dựng nên vạn vật và đã ban mọi sự cho con người, hãy biết ơn và cảm tạ Ngài.
. Nếu ta là người nghèo khó, hèn hạ thì cái ngọai vương của ta phải làm cho họ biết rằng Thiên Chúa giầu sang phú quí, vì yêu thương nhân lọai đau khổ đã bỏ mọi vinh quang trên trời, xuống thế làm người ở với con người, đã trở nên nghèo hèn cho giống con người và sau cùng chịu chết trên thập giá để cứu chuộc con người.
Khi chúng ta đã có một đời sống lành thánh bên trong thì tự nhiên bản thân ta sẽ phát ra một cái gì tốt lành khả dĩ khiến người khác phải mến phục. Từ chỗ họ mến phục cuộc sống chúng ta, họ sẽ mến đạo, tin theo đạo và tất nhiên họ sẽ tìm đến Chúa.
Tuy người ta chưa biết Chúa ngay, nhưng qua trung gian chúng ta họ sẽ biết Chúa từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ cái xa đến cái gần, từ cái ngòai đến cái trong, từ con người của ta đến với Chúa. Nên người đời thường nói:
Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng.
hoặc
Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Muốn được thế, chúng ta phải thực hành Lời Chúa: ”Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha của các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16).
3. Sống khiêm nhường nhịn nhục
Trong cách giới thiệu của Gioan về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: ”Ngài phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30). Gioan đã phải từ bỏ “cái tôi” của mình để thể hiện được sự quên mình theo tinh thần tự hủy của Đức Giêsu (Pl 2,6-8).
Lão Tử đã đưa ra chủ trương “Nhu nhược thắng cương cường”, cái mềm yếu lại thắng cái mạnh mẽ. Do đó quan niệm “Nhu thắng cương, nhược thắng cường” (mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh) có thể làm cho chúng ta dễ chấp nhận. Đúng vậy, thánh Phaolô đã nói thẳng: ”Tôi vui thỏa trong các nỗi yếu đuối… vì khi tôi yếu thì chính bấy giờ là tôi mạnh”(2Cr 12,10). Nhà thơ La Fontaine có một câu truyện ngụ ngôn rất thích hợp với đề tài của chúng ta.
Truyện: Cây dẻ và cây sậy.
Cây dẻ tự hào mình là thứ cây cổ thụ cao lớn đồ sộ, hiên ngang đứng giữa trời đất giang tay đón gió. Dẻ đưa mắt nhìn xuống đám cây lau sống lụp xụp trong bùn dưới chân mình. Dẻ tỏ vẻ khinh khi bảo: ”Kìa lòai chi chúng bay mà ta vừa rung lá, bay đã cúi đầu lo sợ”. Khóm lau trả lời: ”Chúng tôi cúi đầu mà không gẫy thân. Còn ông hãy coi chừng”. Và cứ thế, lời qua tiếng lại mỗi ngày. Bỗng một ngày kia, trận bão từ biển Đông thổi vào. Cây dẻ cứ đứng vững như trồng, còn lau đua nhau cúi sát mặt. Nhưng trên gió cứ thổi lên, thổi lên từng hồi. Dẻ ta vẫn đứng sừng sững, còn lau nằm sát nước. Bỗng một tiếng đổ sụp vang trời dội đất. Cây dẻ đã trốc rễ và vật mình nằm sõng sượt không thốt lên lời. Qua cơn bão táp, lau đứng dậy vững vàng.
Vâng, lau cúi mình nhưng lau không bị gẫy. Lời thánh Phaolô “trong lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh” là thế đó !
4. Tinh thần biết ơn Chúa
Chúng ta biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước và hình bóng của luật cũ đã nên trọn vẹn trong Luật mới. Không chỉ trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu được gọi là Con Chiên. Thánh Phêrô cũng nói về Đức Kitô là Con Chiên. Trong sách Khải huyền, thánh Gioan gọi Con Chúa là Con Chiên ít nhất 28 lần. Ông đã chỉ rõ Đức Kitô là Con Chiên bị chết vì tội lỗi lòai người, của các dân tộc. Ông cũng nhấn mạnh sự thật rằng: Con Chiên đây là Con thật của Thiên Chúa, rằng Ngài tăng cường sức mạnh cho những kẻ tin theo Ngài, Ngài chiến thắng Satan. Do đó, chúng phải tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi định mệnh mất ơn nghĩa đời đời. Chúa Giêsu đã tự ý và yêu thương mà hy sinh mạng sống Ngài cho chúng ta được sống.
Truyện: Được sống nhờ con chiên.
Trên mái một nhà thờ ở Werden, nước Đức, người ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ một con chiên. Đây là câu chuyện về tảng đá đó. Một công nhân đang làm trên mái nhà thờ này thì dây thừng an tòan bị đứt, anh công nhân bị rớt xuống sân nhà thờ, mà sân thì xếp đầy những đống đá lớn. Thế nhưng anh công nhân không bị thương nặng. Có một con chiên đang gặm cỏ giũa hai khối đá lớn. Anh công nhân rớt xuống trên con chiên và đè nó chết, làm tiêu tan điều được coi là cú rơi định mệnh.
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt đẹp bày tỏ lòng biết ơn của anh ta đối với một con vật đần độn, đã cứu mạng anh mà nó không biết (Arthur Tonne).
Thánh lễ nào cũng là thánh lễ tạ ơn. Chúng ta sốt sắng dâng Thánh lễ này để cảm tạ Chúa vì công ơn cứu chuộc Đức Kitô đã dành cho chúng ta, và trước khi rước lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con”.
Liền sau lời nguyện đó, Linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng ta bằng những lời Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: ”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trong tình yêu thương.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:46 13/01/2011
MÀI DAO
Lão Tiền là người thích chiếm những món béo bở của người khác, nếu nhìn thấy tài sản của người khác mà không chiếm dụng một ít thì trong lòng không vui, do đó, mà những người trong phố đều không dám mang những thứ gì có chút giá trị đi ngang qua nhà của ông ta.
Một hôm, Vương Tiểu Nhị xách một cục đá mài lòng tự nghĩ không sao đâu, dù cho bị ông ta nhìn thấy thì ông ta cũng không thể gặm được. Thế là không thèm đi trở lại, cứ thản nhiên đi ngang qua cửa nhà ông ta.
Lão Tiền vừa nhìn thấy, bèn kêu Vương Tiểu Nhị đợi chút xíu, vội vàng chạy vào nhà lấy con dao thái rau đến đặt trên cục đá mài, mài lui mài tới, sau đó nói với Vương Tiểu Nhị:
- “Mày có thể đi được rồi !”
Suy tư:
Con người ta không phải lúc nào cũng xấu, dù cho người đó có tiếng là không tốt, bởi vì khi con người ta chưa mất đi lương tâm của mình, thì vẫn còn có cơ hội làm lại cuộc đời, có cơ hội làm việc tốt.
Lương tâm thì khó mà chết được bởi vì nó không phải làm bằng vật chất, nhưng nó có thể chết khi con người ta cố chấp sống trong kiêu ngạo, không muốn cải quá tự tân để chấp nhận ơn lành của Chúa.
Hay nghi ngờ người khác đa phần là những người được coi là đạo đức thánh thiện, tại sao vậy ? Thưa:
- Vì họ thường đi lễ nên nghi ngờ người khác tội lỗi không yêu mến Chúa nên không đi lễ.
- Vì họ thường hay bố thí cho người khác, nên khi thấy người khác không làm việc từ thiện như mình, thì nghi ngờ người ấy sống ích kỷ.
- Vì họ thường hay đến nhà thờ làm việc này việc nọ, nên nghi ngờ ngưởi khác không yêu mến nhà thờ nhà xứ.
- Vì họ thường hay giúp đỡ cha sở tiền bạc vật chất, nên nghi ngờ người khác không yêu mến ơn gọi thiện triệu.v.v...
Đi lễ hằng ngày, bố thí giúp đỡ cho các đấng bậc, làm việc từ thiện nhiều.v.v...nhưng trong lòng hay nghi ngờ người khác thì có ích chi, công đức ấy sẽ bị mai một mất đi, nếu trong lòng vẫn cứ nghi ngờ người khác thế này thế nọ.
Nghi ngờ là đệ tử ruột của quỷ ghen ghét, và từ nghi ngờ đến chia rẻ chỉ cách nhau một sợi tóc mà thôi. Mà sợi tóc thì quá nhỏ, ha ha ha...
----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Lão Tiền là người thích chiếm những món béo bở của người khác, nếu nhìn thấy tài sản của người khác mà không chiếm dụng một ít thì trong lòng không vui, do đó, mà những người trong phố đều không dám mang những thứ gì có chút giá trị đi ngang qua nhà của ông ta.
Một hôm, Vương Tiểu Nhị xách một cục đá mài lòng tự nghĩ không sao đâu, dù cho bị ông ta nhìn thấy thì ông ta cũng không thể gặm được. Thế là không thèm đi trở lại, cứ thản nhiên đi ngang qua cửa nhà ông ta.
Lão Tiền vừa nhìn thấy, bèn kêu Vương Tiểu Nhị đợi chút xíu, vội vàng chạy vào nhà lấy con dao thái rau đến đặt trên cục đá mài, mài lui mài tới, sau đó nói với Vương Tiểu Nhị:
- “Mày có thể đi được rồi !”
Suy tư:
Con người ta không phải lúc nào cũng xấu, dù cho người đó có tiếng là không tốt, bởi vì khi con người ta chưa mất đi lương tâm của mình, thì vẫn còn có cơ hội làm lại cuộc đời, có cơ hội làm việc tốt.
Lương tâm thì khó mà chết được bởi vì nó không phải làm bằng vật chất, nhưng nó có thể chết khi con người ta cố chấp sống trong kiêu ngạo, không muốn cải quá tự tân để chấp nhận ơn lành của Chúa.
Hay nghi ngờ người khác đa phần là những người được coi là đạo đức thánh thiện, tại sao vậy ? Thưa:
- Vì họ thường đi lễ nên nghi ngờ người khác tội lỗi không yêu mến Chúa nên không đi lễ.
- Vì họ thường hay bố thí cho người khác, nên khi thấy người khác không làm việc từ thiện như mình, thì nghi ngờ người ấy sống ích kỷ.
- Vì họ thường hay đến nhà thờ làm việc này việc nọ, nên nghi ngờ ngưởi khác không yêu mến nhà thờ nhà xứ.
- Vì họ thường hay giúp đỡ cha sở tiền bạc vật chất, nên nghi ngờ người khác không yêu mến ơn gọi thiện triệu.v.v...
Đi lễ hằng ngày, bố thí giúp đỡ cho các đấng bậc, làm việc từ thiện nhiều.v.v...nhưng trong lòng hay nghi ngờ người khác thì có ích chi, công đức ấy sẽ bị mai một mất đi, nếu trong lòng vẫn cứ nghi ngờ người khác thế này thế nọ.
Nghi ngờ là đệ tử ruột của quỷ ghen ghét, và từ nghi ngờ đến chia rẻ chỉ cách nhau một sợi tóc mà thôi. Mà sợi tóc thì quá nhỏ, ha ha ha...
----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:49 13/01/2011
N2T |
8. Sự khiêm nhường thống hối của người tội lỗi là lễ phẩm mà Thiên Chúa vui thích, hương thơm của nó so với nhang thơm thì càng thơm ngát ngào ngạt hơn.
(sách Gương Chúa Giê-su)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Học viện Khoa học Nga trao bằng tiến sĩ danh dự cho TGM Capovilla
Paul Bùi
11:32 13/01/2011
ROME, 12-01-2011 (ZENIT,ORG),Học viện Khoa Học Nga đã tôn vinh một vị thư ký của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cho những đóng góp của Ngài về nghiên cứu di sản của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII như là một nhà lãnh đạo của thế kỷ 20, và là người khởi xướng việc đối thoại hòa bình giữa các tôn giáo với nhau.
Viện đã trao bằng Tiến sĩ danh dự cho Đức Tổng Giám mục, 95 tuổi, thư ký riêng của Đức Thánh Cha Gioan XXIII.
Loris Capovilla đã được thụ phong linh mục tại Tổng Giáo Phận Venice vào năm 1940. Khi Đức Hồng Y Roncalli (Đức Giáo Hoàng Gioan 23 tương lai) được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục tại đó, cả hai bắt đầu cộng tác với nhau và Cha Capovilla tiếp tục làm việc với Đức Hồng Y sau khi Hồng Y Roncalli được bầu làm Giáo Hoàng năm 1958.
Bốn năm sau khi ĐTC Gioan XXIII qua đời (năm 1963), Cha Capovilla được bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Chieti và là người đại diện của Đức Giáo Hoàng tại đền thờ Loreto trong suốt 17 năm. Ngài về hưu tại Sotto il Monte (Ý), nơi sinh của ĐTC Gioan XXIII.
Giám đốc Viện khoa học, Smelyev Nikolay Petrovich, một cựu cố vấn của Mikhail Gorbachev, đã được chọn để trao danh dự này.
Học viện Khoa học Nga – Viện Châu Âu (IE RAS) là một trong những học viện hang đầu của Nga. Nó được thành lập vào năm 1987 và chuyên nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, được hinh2 thành hoặc đang nổi lên khắp châu Âu.
Loris Capovilla đã được thụ phong linh mục tại Tổng Giáo Phận Venice vào năm 1940. Khi Đức Hồng Y Roncalli (Đức Giáo Hoàng Gioan 23 tương lai) được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục tại đó, cả hai bắt đầu cộng tác với nhau và Cha Capovilla tiếp tục làm việc với Đức Hồng Y sau khi Hồng Y Roncalli được bầu làm Giáo Hoàng năm 1958.
Bốn năm sau khi ĐTC Gioan XXIII qua đời (năm 1963), Cha Capovilla được bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Chieti và là người đại diện của Đức Giáo Hoàng tại đền thờ Loreto trong suốt 17 năm. Ngài về hưu tại Sotto il Monte (Ý), nơi sinh của ĐTC Gioan XXIII.
Giám đốc Viện khoa học, Smelyev Nikolay Petrovich, một cựu cố vấn của Mikhail Gorbachev, đã được chọn để trao danh dự này.
Học viện Khoa học Nga – Viện Châu Âu (IE RAS) là một trong những học viện hang đầu của Nga. Nó được thành lập vào năm 1987 và chuyên nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, được hinh2 thành hoặc đang nổi lên khắp châu Âu.
Bộ Trưởng Ngoại Giao Vatican tiếp xúc với Đại Sứ Ai Cập bị triệu hồi
Bùi Hữu Thư
11:48 13/01/2011
VATICAN CITY (CNS) -- Bộ Trưởng Ngoại Giao Vatican tiếp xúc với Đại Sứ Ai Cập tại Vatican sau khi chính phủ Ai Cập triệu hồi bà về Cairo để tham vấn.
Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, có chức vụ chính là bộ trưởng ngoại giao các quốc gia, đã tiếp xúc với bà Đại Sứ Lamia Aly Hamada Mekhemar ngày 11 tháng 1, 2011, vài giờ ngay sau khi bà được gọi về Cairo vì chính phủ của bà bất mãn đối với lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Benedict XVI, yêu cầu quốc gia này bảo vệ các Kitô hữu.
Tòa Thánh viết trong môt văn thư ngày 11 tháng 1 là “Vatican hoàn toàn ủng hộ chính phủ Ai Cập về ưu tư muốn tránh một sự leo thang về các cuộc đụng độ và căng thẳng vì các lý do tôn giáo, và cảm kích về những nỗ lực chính quyền đang làm theo chiều hướng này.”
Ai Cập đã mô tả các nhận xét mới đây của Đức Thánh Cha về những vụ tấn công các Kitô hữu tại Ai Cập là “không thể chấp nhận”.
Trong một diễn từ với các ngoại giao đoàn ngày 10 tháng 1, Đức Thánh Cha Benedict nhắc đến vụ gài bom tấn công nhà thờ Coptic Chính Thống tại Alexandria ngày 31 tháng 12, 2010, khiến cho 23 người bị thiệt mạng.
Ngài nói vụ nổ bom tại Aleandria và những vụ tấn công các Kitô hữu tại Iraq lại là “một dấu hiệu khác về nhu cầu khẩn thiết đối với các chính phủ trong vùng là, mặc dù có nhiều khó khăn và nguy hiểm, vẫn phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số.”
Ngài nói: “Chúng ta có cần phải lập lại không? Tại Trung Đông, các Kitô hữu là những công dân nguyên thủy và chính thức, và là những người trung thành đối với tổ quốc của họ, và đã và đang hoàn tất các bổn phận của họ đối với quốc gia của họ.”
Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, có chức vụ chính là bộ trưởng ngoại giao các quốc gia, đã tiếp xúc với bà Đại Sứ Lamia Aly Hamada Mekhemar ngày 11 tháng 1, 2011, vài giờ ngay sau khi bà được gọi về Cairo vì chính phủ của bà bất mãn đối với lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Benedict XVI, yêu cầu quốc gia này bảo vệ các Kitô hữu.
Tòa Thánh viết trong môt văn thư ngày 11 tháng 1 là “Vatican hoàn toàn ủng hộ chính phủ Ai Cập về ưu tư muốn tránh một sự leo thang về các cuộc đụng độ và căng thẳng vì các lý do tôn giáo, và cảm kích về những nỗ lực chính quyền đang làm theo chiều hướng này.”
Ai Cập đã mô tả các nhận xét mới đây của Đức Thánh Cha về những vụ tấn công các Kitô hữu tại Ai Cập là “không thể chấp nhận”.
Trong một diễn từ với các ngoại giao đoàn ngày 10 tháng 1, Đức Thánh Cha Benedict nhắc đến vụ gài bom tấn công nhà thờ Coptic Chính Thống tại Alexandria ngày 31 tháng 12, 2010, khiến cho 23 người bị thiệt mạng.
Ngài nói vụ nổ bom tại Aleandria và những vụ tấn công các Kitô hữu tại Iraq lại là “một dấu hiệu khác về nhu cầu khẩn thiết đối với các chính phủ trong vùng là, mặc dù có nhiều khó khăn và nguy hiểm, vẫn phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số.”
Ngài nói: “Chúng ta có cần phải lập lại không? Tại Trung Đông, các Kitô hữu là những công dân nguyên thủy và chính thức, và là những người trung thành đối với tổ quốc của họ, và đã và đang hoàn tất các bổn phận của họ đối với quốc gia của họ.”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức Thánh Cha bổ nhiệm Đại diện không thường trú đầu tiên tại Việt Nam
LM. G. Trần Đức Anh OP
09:17 13/01/2011
Đức Thánh Cha bổ nhiệm Đại diện không thường trú đầu tiên tại Việt Nam
VATICAN. Hôm 13-1-2011, ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm Đức TGM Leopoldo Girelli làm Đại diện Tòa Thánh không thường trú đầu tiên tại Việt Nam.
Nguyên văn thông báo của Phòng Báo chí Tòa Thánh viết:
”ĐTC bổ nhiệm Đức Cha Leopoldo Girelli, TGM hiệu tòa Capri, làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei, và làm Đại Diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam. Cho đến nay Đức TGM Girelli là Sứ thần Tòa Thánh tại Indonesia”.
Đức TGM Girelli năm nay 58 tuổi, sinh ngày 13-3-1953 tại làng Predore, thuộc giáo phận Bergamo, bắc Italia, thụ phong linh mục năm 1978, theo học tại trường ngoại giao Tòa Thánh từ 1984 đến 1987. Sau khi ra trường, cha Girelli lần lượt phục vụ tại các Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Camerun (1987-1991), New Zealand (1991-1993), rồi được gọi về Bộ ngoại giao Tòa Thánh để phục vụ trong 8 năm, từ 1993 đến 2001, trước khi được gửi sang Tòa Sứ Thần tại Hoa Kỳ (2001-2006). Sau 5 năm tại đây, ngài được bổ nhiệm làm TGM Sứ Thần Tòa Thánh tại Indonesia và Đông Timor, và thụ phong GM ngày 17-6 cùng năm 2006 do ĐHY Angelo Sodano, Quốc vụ khanh Tòa Thánh chủ phong.
Cho đến nay, vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Thái Lan kiêm nhiệm chức vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei. Nay Tòa Thánh tách rời 2 nhiệm vụ này để ủy cho vị Sứ Thần riêng, kiêm nhiệm chức vụ Đại diện không thường trú tại Việt Nam.
Tuyên bố hôm 10-1 vừa qua trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC nói: ”Tôi muốn hài lòng ghi nhận rằng chính quyền Việt Nam đã chấp nhận để tôi chỉ định một Đại diện, qua các cuộc viếng thăm cộng đồng Công giáo quý mến tại nước này, vị ấy sẽ bày tỏ sự quan tâm ân cần của Người Kế Vị Thánh Phêrô”. (SD 13-1-2011)
VATICAN. Hôm 13-1-2011, ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm Đức TGM Leopoldo Girelli làm Đại diện Tòa Thánh không thường trú đầu tiên tại Việt Nam.
Nguyên văn thông báo của Phòng Báo chí Tòa Thánh viết:
Đức TGM Girelli năm nay 58 tuổi, sinh ngày 13-3-1953 tại làng Predore, thuộc giáo phận Bergamo, bắc Italia, thụ phong linh mục năm 1978, theo học tại trường ngoại giao Tòa Thánh từ 1984 đến 1987. Sau khi ra trường, cha Girelli lần lượt phục vụ tại các Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Camerun (1987-1991), New Zealand (1991-1993), rồi được gọi về Bộ ngoại giao Tòa Thánh để phục vụ trong 8 năm, từ 1993 đến 2001, trước khi được gửi sang Tòa Sứ Thần tại Hoa Kỳ (2001-2006). Sau 5 năm tại đây, ngài được bổ nhiệm làm TGM Sứ Thần Tòa Thánh tại Indonesia và Đông Timor, và thụ phong GM ngày 17-6 cùng năm 2006 do ĐHY Angelo Sodano, Quốc vụ khanh Tòa Thánh chủ phong.
Cho đến nay, vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Thái Lan kiêm nhiệm chức vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei. Nay Tòa Thánh tách rời 2 nhiệm vụ này để ủy cho vị Sứ Thần riêng, kiêm nhiệm chức vụ Đại diện không thường trú tại Việt Nam.
Tuyên bố hôm 10-1 vừa qua trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC nói: ”Tôi muốn hài lòng ghi nhận rằng chính quyền Việt Nam đã chấp nhận để tôi chỉ định một Đại diện, qua các cuộc viếng thăm cộng đồng Công giáo quý mến tại nước này, vị ấy sẽ bày tỏ sự quan tâm ân cần của Người Kế Vị Thánh Phêrô”. (SD 13-1-2011)
Giáo xứ Trung Quán với thánh lễ ban Bí tích Rửa tội cho 115 tân tòng
Antôn Trần Đức Hà
11:05 13/01/2011
Trung Quán, Quảng Bình -- Dưới trời mưa rả rích, 115 tân tòng đã được lãnh nhận Phép Rửa từ tay Đức Giám mục Giáo phận Vinh Phaolô Nguyễn Thái Hợp. Thánh lễ trên diễn ra vào đúng ngày Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa 9.11.2011 tại giáo xứ Trung Quán, đây là bước khởi đầu tốt đẹp cho công cuộc loan báo Tin mừng nơi miền tái truyền giáo Nam Quảng Bình.
Xem hình ảnh
Trung Quán, một thoáng lịch sử *
Trung Quán là giáo xứ nằm ở ngã ba sông Nhật Lệ, nơi hai nhánh sông Long Đại và Kiến Giang gặp nhau cách Tòa Giám mục Xã Đoài 240km về phía Nam. Nơi đây là thuộc địa bàn xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh và là một vùng sơn thủy hữu tình, đất trời hội tụ với những cảnh đẹp lưu luyến lòng người. Đặc biệt là bề dày lịch sử và truyền thống Đức tin lâu đời. Trải qua bao thăng trầm chiến cuộc, bao cấm cách, gian lao, quê hương thánh Tôma Trần Văn Thiện (1820-1838) vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Giáo điểm Trung Quán xuất hiện rất sớm trong lịch sử truyền giáo Đàng Trong. Trước năm 1676, nhiều thừa sai đã đến đây truyền giáo và lập nên họ đạo. Vùng dinh Mười cạnh Trung Quán là một trong những trung tâm chính trị quan trọng của Đàng Trong nên đã lần lượt xuất hiện các giáo họ Đại Phong, Dinh Mười, Tam Tòa và Trung Quán.
Hơn 25 năm sau, đến năm 1690, linh mục Lorensô Lâu được đặt coi sóc tín hữu Công giáo Quảng Trị và Quảng Bình. Trong thời gian đó, Đức Giám mục Giáo phận Đàng Trong Phanxicô Pérez đi kinh lược đã ban phép Thêm sức và rửa tội nhiều tân tòng tại Trung Quán.
Dựa trên báo cáo của linh mục Lorensô Lâu gửi Hội Thừa sai Paris, Quảng Bình vào cuối thế kỷ XVII có 24 họ đạo và Trung Quán đã có 140 giáo dân. Như vậy, Trung Quán đã có tuổi đạo xấp xỉ 335 năm, một quãng thời gian không nhỏ nhưng lắm phen xứ đạo cổ kính này tưởng chừng như không còn tên trên bản đồ Giáo phận Huế.
Mặc dù có tên từ lâu nhưng trong sổ bạ chính thức thì mãi đến năm 1923, giáo xứ Trung Quán mới được thành lập với linh mục Phaolô Nguyễn Văn Hiển là vị quản xứ đầu tiên. Công trình nhà thờ được khánh thành vào ngày 10.9.1938. Đây là ngôi nhà thờ lợp ngói đầu tiên của Trung Quán gồm 7 vai, 8 gian và một cung thánh. Ngoài ra, linh mục quản xứ lúc đó là cha Phaolô Trần Bá Úy còn lập nhà cho các chị dòng Mến Thánh Giá, xây dựng nhà xứ, trường học, cô nhi viện, nhà thờ các họ đạo và lăng mộ kính thánh Tôma Thiện.
Từ năm 1951 đến năm 1954, cuộc chiến Việt Pháp ngày càng ác liệt, giáo xứ không người coi sóc. Sau hiệp định Giơnevơ, linh mục GB Lương Văn Thể được sai về quản xứ Trung Quán. Ngài đã dùng sức lực và tài trí khôi phục phát triển giáo xứ nhưng đến 25.6.1962, ngài qua đời trong cảnh già yếu. Trung Quán một lần nữa mồ côi, một nỗi buồn vô hạn bao trùm xứ đạo. Cha Trần Quang Nghiêm, linh mục miền Nam tập kết thỉnh thoảng có đến dâng lễ năm vài lần nhưng sau vì chiến tranh ác liệt nên đã không thể đến nữa.
Mức độ khốc liệt của cuộc chiến còn ghi dấu tại Trung Quán là ngôi nhà thờ tan nát. Giáo dân không còn nơi đọc kinh, cầu nguyện, việc thờ phượng gián đoạn. Mãi đến ngày 25.12.1990, giáo xứ cử 3 người vào Ban đại diện. Tư gia của các ông Phêrô Lê Văn Bổn, Giuse Đặng Văn Sung, Micae Trần Văn Hưng lần lượt trở thành nhà đọc kinh, cầu nguyện. Hằng năm giáo dân vẫn tìm đến các linh mục ở Phủ Cam, Đại Lộc nhận lãnh bí tích. Đơn cử như năm 1984, cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Cao dạy dỗ và ban phép rửa tội, thêm sức cho 82 em; 22 cặp vợ chồng học và chịu phép hôn phối tại xứ Đại Lộc, Quảng Trị.
Vì khó khăn về hành chính khi các linh mục Huế không thể vượt ra khỏi ranh giới vĩ tuyến 17 để làm việc mục vụ nên đến ngày 15.8.1996, Đức Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể đã nhờ Đức Giám mục Phêrô Trần Xuân Hạp giúp đỡ, điều hành các giáo xứ nam sông Gianh. Cha Phêrô Nguyễn Bình Yên lúc đó đang quản xứ Văn Phú cách đó chừng 40km được Tòa Giám mục Xã Đoài ủy thác thêm trách nhiệm coi sóc Trung Quán. Mặc dù vậy, ngài vẫn chưa có thể đến đây dâng lễ và làm các phép vì chính quyền không cho phép.
Khó khăn đó dần được giải quyết với sự kiện chính quyền đồng ý sát nhập các giáo xứ còn lại phía nam sông Gianh thuộc Giáo phận Huế vào Giáo phận Vinh vào thời điểm 2005 gồm Hà Lời, Sen Bàng, Tam Tòa, Trung Quán, Hoành Phổ, Bình Thôn, Phúc Tín.
Tháng 12.2006, linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng được Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đặt coi sóc Sen Bàng và các giáo xứ lân cận đã mở ra một trang sử mới với Trung Quán. Từ đây, đều đặn diễn ra thánh lễ mỗi tháng một lần. Các ban ngành ngày càng hoạt động có tổ chức.
Ngày 23.3.2009, dưới sự chứng kiến của các Đức Giám mục hai Giáo phận, đại diện chính quyền tỉnh Quảng Bình; Đức Cha Cao Đình Thuyên đã trao Quyết định khôi phục hai giáo xứ Phúc Tín và Trung Quán và trao bằng sai cho cha Phêrô Lê Thanh Hồng quản nhiệm các giáo xứ phía nam Sông Gianh, Quảng Bình.
Một thánh lễ rửa tội quy mô nơi miền tái truyền giáo
Sau khi được Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp bổ nhiệm coi sóc Sen Bàng và các xứ đạo lân cận vào ngày 27.7.2010, tân linh mục Phaolô Nguyễn Chí Thiện đã có những cuộc gặp gỡ với các giáo dân tại đây. Với nhiệt huyết hăng say, vị mục tử trẻ tuổi đã ngỏ ý xin Đức Cha về tại giáo xứ Trung Quán để xây dựng cơ sở giáo xứ vì nếu ở Sen Bàng thì sẽ không sát cánh được với giáo dân. Đến ngày 5.9.2010, Đức Cha Phaolô đã đến và trực tiếp trao sứ vụ linh mục quản xứ Trung Quán.
Khi tiếp nhận giáo xứ, toàn bộ cơ sở vật chất ở giáo xứ này hoàn toàn thuộc dạng “vườn không nhà trống”. Tân linh mục quản xứ phải bắt tay làm lại tất cả từ đầu, từ nơi ở, chỗ thờ phượng và triển khai các sinh hoạt mục vụ. Trung Quán, Hoành Phổ, Phúc Tín, Bình Thôn được cơ cấu lại thành một giáo xứ lấy tên họ trị sở là Trung Quán; giáo xứ xấp xỉ 1000 giáo dân.
Hiện tại, riêng giáo dân họ Trung Quán đã có gần 350 nhân danh. Hội đồng mục vụ Trung Quán đang thương lượng lấy lại phần đất có nền nhà thờ cũ (cao 1,3m x rộng 28m x dài 48m). Trên nền cung thánh cũ hiện còn 2 ngôi mộ của cha Nguyễn Văn Hiền và cha Lương Văn Thể. Toàn bộ khu đất của giáo xứ khoảng 3.600 m2, trước đây là 16.000m2.
Công tác xây dựng để đưa giáo xứ trở lại bình thường đã bắt đầu có được kết quả tốt đẹp nhất là sự trở lại của rất nhiều tân tòng ở nhiều lứa tuổi từ sơ sinh đến trung niên và người già. Không chỉ rửa tội cho những người thuộc các cặp vợ chồng khác đạo mà đông đảo lương dân cũng tìm đến xin học giáo lý và lãnh nhận phép Rửa.
Trên mảnh đất tạm bợ chưa có cơ sở vật chất gì đáng kể, Đức Giám mục Giáo phận Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã rửa tội cho 115 tân tòng để họ được chính thức gia nhập Giáo hội Công giáo và trở thành người con của Chúa.
Thánh lễ bắt đầu cử hành lúc 9h sáng ngày 9.11.2011. Trong bài giảng lễ, Đức Giám mục nhấn mạnh đến những gian nan, thử thách của giáo dân Trung Quán trên con đường gìn giữ Đức Tin. Mặc dù không có thánh đường nguy nga tráng lệ lại diễn ra trong một điều kiện khắc nghiệt, nhưng đó chính là lúc niềm tin ngời sáng nhất.
“Xin cảm ơn anh chị em đã bất chấp mọi khó khăn và gian truân vì sự lựa chọn vì niềm tin”, Đức Cha nói. “Người Công giáo không lấy hận thù làm lẽ sống mà là yêu thương, phục vụ. Gieo gì sẽ gặt nấy: gieo hận thù sẽ gặt hận thù, gieo yêu thương sẽ gặt lấy yêu thương”. Lời Chủ chăn Giáo phận nhắn nhủ người giáo dân Trung Quán.
Với tinh thần tự nguyện, những tín hữu mới của giáo xứ biết mặc dù sẽ phải chịu khó khăn và nhiều thiệt thòi từ lựa chọn của mình nhưng ai cũng đến đây với niềm vui sướng khó tả. Không kìm được xúc động, chị Dương - một người tân tòng ở Bình Thôn bày tỏ: “Con là lương dân, lấy chồng nay đã 25 năm và có 4 đứa con. Nay con muốn đi đạo để có Chúa làm niềm cậy trông”.
Với anh Cái Viết Thành Lân, 20 tuổi, sinh viên năm thứ 3 trường Cao đẳng Công nghiệp Huế cũng vậy. Lân khao khát được gia nhập đạo Chúa và đã đạt được ước nguyện trong thánh lễ hôm nay, em đã cho biết niềm tin giúp em vượt qua những cạm bẫy và cuộc sống hướng thiện…
Biết bao chiến sỹ Đức tin ngày đêm chăm lo công việc loan truyền Tin mừng như các ông Lê Văn Bổn đưa được 20 người trở lại, ông Đặng Sung (10 người), ông Bênêđictô Trần Quang Đảm rồi ông Cai - Bình Thôn, ông Ngợi - Hoành Phổ, ông Lâm - Phúc Tín, chị Bình, chị Oanh và biết bao nhiêu anh chị em khác…
Đây là một trong những lần cử hành phép Rửa cho tân tòng đầy đủ mọi lứa tuổi đông đảo nhất trong Giáo phận Vinh những năm gần đây. Trước đó, vào sáng Chúa nhật 5.12.2010, tại giáo họ Hoành Phổ, giáo xứ Trung Quán, linh mục quản xứ Phaolô Nguyễn Chí Thiện đã cử hành các bí tích khai tâm cho 13 người xin gia nhập đạo Công giáo, trong đó có 10 người lớn và 3 trẻ em.
(* Bài viết có tham khảo tư liệu lịch sử của tác giả Dương Kim Sinh.)
Xem hình ảnh
Trung Quán, một thoáng lịch sử *
Trung Quán là giáo xứ nằm ở ngã ba sông Nhật Lệ, nơi hai nhánh sông Long Đại và Kiến Giang gặp nhau cách Tòa Giám mục Xã Đoài 240km về phía Nam. Nơi đây là thuộc địa bàn xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh và là một vùng sơn thủy hữu tình, đất trời hội tụ với những cảnh đẹp lưu luyến lòng người. Đặc biệt là bề dày lịch sử và truyền thống Đức tin lâu đời. Trải qua bao thăng trầm chiến cuộc, bao cấm cách, gian lao, quê hương thánh Tôma Trần Văn Thiện (1820-1838) vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Giáo điểm Trung Quán xuất hiện rất sớm trong lịch sử truyền giáo Đàng Trong. Trước năm 1676, nhiều thừa sai đã đến đây truyền giáo và lập nên họ đạo. Vùng dinh Mười cạnh Trung Quán là một trong những trung tâm chính trị quan trọng của Đàng Trong nên đã lần lượt xuất hiện các giáo họ Đại Phong, Dinh Mười, Tam Tòa và Trung Quán.
Hơn 25 năm sau, đến năm 1690, linh mục Lorensô Lâu được đặt coi sóc tín hữu Công giáo Quảng Trị và Quảng Bình. Trong thời gian đó, Đức Giám mục Giáo phận Đàng Trong Phanxicô Pérez đi kinh lược đã ban phép Thêm sức và rửa tội nhiều tân tòng tại Trung Quán.
Dựa trên báo cáo của linh mục Lorensô Lâu gửi Hội Thừa sai Paris, Quảng Bình vào cuối thế kỷ XVII có 24 họ đạo và Trung Quán đã có 140 giáo dân. Như vậy, Trung Quán đã có tuổi đạo xấp xỉ 335 năm, một quãng thời gian không nhỏ nhưng lắm phen xứ đạo cổ kính này tưởng chừng như không còn tên trên bản đồ Giáo phận Huế.
Mặc dù có tên từ lâu nhưng trong sổ bạ chính thức thì mãi đến năm 1923, giáo xứ Trung Quán mới được thành lập với linh mục Phaolô Nguyễn Văn Hiển là vị quản xứ đầu tiên. Công trình nhà thờ được khánh thành vào ngày 10.9.1938. Đây là ngôi nhà thờ lợp ngói đầu tiên của Trung Quán gồm 7 vai, 8 gian và một cung thánh. Ngoài ra, linh mục quản xứ lúc đó là cha Phaolô Trần Bá Úy còn lập nhà cho các chị dòng Mến Thánh Giá, xây dựng nhà xứ, trường học, cô nhi viện, nhà thờ các họ đạo và lăng mộ kính thánh Tôma Thiện.
Từ năm 1951 đến năm 1954, cuộc chiến Việt Pháp ngày càng ác liệt, giáo xứ không người coi sóc. Sau hiệp định Giơnevơ, linh mục GB Lương Văn Thể được sai về quản xứ Trung Quán. Ngài đã dùng sức lực và tài trí khôi phục phát triển giáo xứ nhưng đến 25.6.1962, ngài qua đời trong cảnh già yếu. Trung Quán một lần nữa mồ côi, một nỗi buồn vô hạn bao trùm xứ đạo. Cha Trần Quang Nghiêm, linh mục miền Nam tập kết thỉnh thoảng có đến dâng lễ năm vài lần nhưng sau vì chiến tranh ác liệt nên đã không thể đến nữa.
Mức độ khốc liệt của cuộc chiến còn ghi dấu tại Trung Quán là ngôi nhà thờ tan nát. Giáo dân không còn nơi đọc kinh, cầu nguyện, việc thờ phượng gián đoạn. Mãi đến ngày 25.12.1990, giáo xứ cử 3 người vào Ban đại diện. Tư gia của các ông Phêrô Lê Văn Bổn, Giuse Đặng Văn Sung, Micae Trần Văn Hưng lần lượt trở thành nhà đọc kinh, cầu nguyện. Hằng năm giáo dân vẫn tìm đến các linh mục ở Phủ Cam, Đại Lộc nhận lãnh bí tích. Đơn cử như năm 1984, cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Cao dạy dỗ và ban phép rửa tội, thêm sức cho 82 em; 22 cặp vợ chồng học và chịu phép hôn phối tại xứ Đại Lộc, Quảng Trị.
Vì khó khăn về hành chính khi các linh mục Huế không thể vượt ra khỏi ranh giới vĩ tuyến 17 để làm việc mục vụ nên đến ngày 15.8.1996, Đức Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể đã nhờ Đức Giám mục Phêrô Trần Xuân Hạp giúp đỡ, điều hành các giáo xứ nam sông Gianh. Cha Phêrô Nguyễn Bình Yên lúc đó đang quản xứ Văn Phú cách đó chừng 40km được Tòa Giám mục Xã Đoài ủy thác thêm trách nhiệm coi sóc Trung Quán. Mặc dù vậy, ngài vẫn chưa có thể đến đây dâng lễ và làm các phép vì chính quyền không cho phép.
Khó khăn đó dần được giải quyết với sự kiện chính quyền đồng ý sát nhập các giáo xứ còn lại phía nam sông Gianh thuộc Giáo phận Huế vào Giáo phận Vinh vào thời điểm 2005 gồm Hà Lời, Sen Bàng, Tam Tòa, Trung Quán, Hoành Phổ, Bình Thôn, Phúc Tín.
Tháng 12.2006, linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng được Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đặt coi sóc Sen Bàng và các giáo xứ lân cận đã mở ra một trang sử mới với Trung Quán. Từ đây, đều đặn diễn ra thánh lễ mỗi tháng một lần. Các ban ngành ngày càng hoạt động có tổ chức.
Ngày 23.3.2009, dưới sự chứng kiến của các Đức Giám mục hai Giáo phận, đại diện chính quyền tỉnh Quảng Bình; Đức Cha Cao Đình Thuyên đã trao Quyết định khôi phục hai giáo xứ Phúc Tín và Trung Quán và trao bằng sai cho cha Phêrô Lê Thanh Hồng quản nhiệm các giáo xứ phía nam Sông Gianh, Quảng Bình.
Một thánh lễ rửa tội quy mô nơi miền tái truyền giáo
Sau khi được Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp bổ nhiệm coi sóc Sen Bàng và các xứ đạo lân cận vào ngày 27.7.2010, tân linh mục Phaolô Nguyễn Chí Thiện đã có những cuộc gặp gỡ với các giáo dân tại đây. Với nhiệt huyết hăng say, vị mục tử trẻ tuổi đã ngỏ ý xin Đức Cha về tại giáo xứ Trung Quán để xây dựng cơ sở giáo xứ vì nếu ở Sen Bàng thì sẽ không sát cánh được với giáo dân. Đến ngày 5.9.2010, Đức Cha Phaolô đã đến và trực tiếp trao sứ vụ linh mục quản xứ Trung Quán.
Khi tiếp nhận giáo xứ, toàn bộ cơ sở vật chất ở giáo xứ này hoàn toàn thuộc dạng “vườn không nhà trống”. Tân linh mục quản xứ phải bắt tay làm lại tất cả từ đầu, từ nơi ở, chỗ thờ phượng và triển khai các sinh hoạt mục vụ. Trung Quán, Hoành Phổ, Phúc Tín, Bình Thôn được cơ cấu lại thành một giáo xứ lấy tên họ trị sở là Trung Quán; giáo xứ xấp xỉ 1000 giáo dân.
Hiện tại, riêng giáo dân họ Trung Quán đã có gần 350 nhân danh. Hội đồng mục vụ Trung Quán đang thương lượng lấy lại phần đất có nền nhà thờ cũ (cao 1,3m x rộng 28m x dài 48m). Trên nền cung thánh cũ hiện còn 2 ngôi mộ của cha Nguyễn Văn Hiền và cha Lương Văn Thể. Toàn bộ khu đất của giáo xứ khoảng 3.600 m2, trước đây là 16.000m2.
Công tác xây dựng để đưa giáo xứ trở lại bình thường đã bắt đầu có được kết quả tốt đẹp nhất là sự trở lại của rất nhiều tân tòng ở nhiều lứa tuổi từ sơ sinh đến trung niên và người già. Không chỉ rửa tội cho những người thuộc các cặp vợ chồng khác đạo mà đông đảo lương dân cũng tìm đến xin học giáo lý và lãnh nhận phép Rửa.
Trên mảnh đất tạm bợ chưa có cơ sở vật chất gì đáng kể, Đức Giám mục Giáo phận Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã rửa tội cho 115 tân tòng để họ được chính thức gia nhập Giáo hội Công giáo và trở thành người con của Chúa.
Thánh lễ bắt đầu cử hành lúc 9h sáng ngày 9.11.2011. Trong bài giảng lễ, Đức Giám mục nhấn mạnh đến những gian nan, thử thách của giáo dân Trung Quán trên con đường gìn giữ Đức Tin. Mặc dù không có thánh đường nguy nga tráng lệ lại diễn ra trong một điều kiện khắc nghiệt, nhưng đó chính là lúc niềm tin ngời sáng nhất.
“Xin cảm ơn anh chị em đã bất chấp mọi khó khăn và gian truân vì sự lựa chọn vì niềm tin”, Đức Cha nói. “Người Công giáo không lấy hận thù làm lẽ sống mà là yêu thương, phục vụ. Gieo gì sẽ gặt nấy: gieo hận thù sẽ gặt hận thù, gieo yêu thương sẽ gặt lấy yêu thương”. Lời Chủ chăn Giáo phận nhắn nhủ người giáo dân Trung Quán.
Với tinh thần tự nguyện, những tín hữu mới của giáo xứ biết mặc dù sẽ phải chịu khó khăn và nhiều thiệt thòi từ lựa chọn của mình nhưng ai cũng đến đây với niềm vui sướng khó tả. Không kìm được xúc động, chị Dương - một người tân tòng ở Bình Thôn bày tỏ: “Con là lương dân, lấy chồng nay đã 25 năm và có 4 đứa con. Nay con muốn đi đạo để có Chúa làm niềm cậy trông”.
Với anh Cái Viết Thành Lân, 20 tuổi, sinh viên năm thứ 3 trường Cao đẳng Công nghiệp Huế cũng vậy. Lân khao khát được gia nhập đạo Chúa và đã đạt được ước nguyện trong thánh lễ hôm nay, em đã cho biết niềm tin giúp em vượt qua những cạm bẫy và cuộc sống hướng thiện…
Biết bao chiến sỹ Đức tin ngày đêm chăm lo công việc loan truyền Tin mừng như các ông Lê Văn Bổn đưa được 20 người trở lại, ông Đặng Sung (10 người), ông Bênêđictô Trần Quang Đảm rồi ông Cai - Bình Thôn, ông Ngợi - Hoành Phổ, ông Lâm - Phúc Tín, chị Bình, chị Oanh và biết bao nhiêu anh chị em khác…
Đây là một trong những lần cử hành phép Rửa cho tân tòng đầy đủ mọi lứa tuổi đông đảo nhất trong Giáo phận Vinh những năm gần đây. Trước đó, vào sáng Chúa nhật 5.12.2010, tại giáo họ Hoành Phổ, giáo xứ Trung Quán, linh mục quản xứ Phaolô Nguyễn Chí Thiện đã cử hành các bí tích khai tâm cho 13 người xin gia nhập đạo Công giáo, trong đó có 10 người lớn và 3 trẻ em.
(* Bài viết có tham khảo tư liệu lịch sử của tác giả Dương Kim Sinh.)
Hành Hương Kính Đức Mẹ Ngày 13 Đầu Năm Mới 2011 tại Sydney
Diệp Hải Dung
11:08 13/01/2011
SYDNEY - Sáng thứ Năm 13/01/2011 Giáo Dân trong Cộng Đồng và từ các phương xa đã đến Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly hành hương kính Đức Mẹ nhân dịp đầu năm mới Dương Lịch 2011.
Xem hình ảnh
Đúng 9 giờ 30 mọi người bắt đầu tham dự Chặng Đàng Thánh Giá tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã hy sinh cứu chuộc nhân loại. Cuộc Chặng Đàng Thánh Giá rất sốt sắng và trang nghiêm. Đến chặng thứ 14 Cha Nguyễn Thái Hoạch dâng lời cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và tất cả mọi người cùng dâng lên Chúa Lời Kinh Lòng Thương Xót Chúa nguyện xin Chúa ban ơn và chúc lành cho bản thân, cho Gia Đình và Cộng Đồng sau đó Cha ban phép lành chấm dứt 14 Chặng Đàng Thánh Giá đồng thời mọi người cùng tập trung trước tượng đài Đức Mẹ làm giờ đền ta do Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn. Nguyện cầu xin Mẹ ban ơn và chúc lành cho tất cả mọi người. Sau khi chấm dứt giờ đền tạ, mọi người về hội trường Trung Tâm tham dự Thánh lễ do quý Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Paul Văn Chi, Nguyễn Văn Tuyết, Cha Mai Đào Hiền, Cha Đặng Đình Nên và Cha Nguyễn Thái Hoạch cùng hiệp dâng Thánh lễ.
Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người và chào mừng Sơ Tổng Quyền Dòng Mến Thánh Giá ở Quy Nhơn và quý Sơ. Cha nói Thánh lễ hôm nay xin mọi người hiệp ý cầu nguyện cho các nạn nhân bão lụt tại tiểu bang Queenland và cầu nguyện cho Giáo Hội.
Trong bài giảng Cha Toàn đã nói về những Lễ mừng kính Đức Mẹ trong năm như Đầu tháng 1 Lễ kính Mẹ Thiên Chúa, 8/12 Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, 15/8 Lễ kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời v..v.. Chúng ta chỉ biết Đức Mẹ qua sự siêu nhiên mà quên đi sự tự nhiên của Đức Mẹ. Mẹ cũng là thụ tạo của Thiên Chúa nên Mẹ vẫn có sự tự nhiên, nhưng tự nhiên trong sự Vâng Phục và Đức Tin. Cha khuyên nhủ mọi người hãy noi gương Mẹ, cầu nguyện với Mẹ là con đường nhanh nhất nhờ Mẹ dìu dắt chúng ta đến với Chúa.
Sau đó là nghi thức Xức Dầu Thánh cho những vị cao niên già yếu bệnh tật, nguyện xin ơn Chúa chữa lành phần hồn cũng như phần xác. Trườc khi kết thúc Thánh lễ Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn cám ơn tất cả mọi người đã đến Trung Tâm hành hương ngày 13 đầu năm mới 2011, Cha thông báo mỗi Thứ Sáu Đầu Tháng đều có Chặng Đàng Thánh Giá, Thánh Lễ và Chầu Mình Thánh Chúa tại Trung Tâm và Cha cũng thông báo thêm; Cộng Đồng sẽ quyên tiền vào những Thánh lễ trong cuối tuần này tại các Giáo Đoàn để giúp cứu trợ những nạn nhân lũ lụt tại tiểu bang Queenland đặc biệt các nạn nhân trong Cộng Đồng Người Việt của chúng ta. Thánh lễ kết thúc vào lúc 12pm.
Xem hình ảnh
Đúng 9 giờ 30 mọi người bắt đầu tham dự Chặng Đàng Thánh Giá tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã hy sinh cứu chuộc nhân loại. Cuộc Chặng Đàng Thánh Giá rất sốt sắng và trang nghiêm. Đến chặng thứ 14 Cha Nguyễn Thái Hoạch dâng lời cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và tất cả mọi người cùng dâng lên Chúa Lời Kinh Lòng Thương Xót Chúa nguyện xin Chúa ban ơn và chúc lành cho bản thân, cho Gia Đình và Cộng Đồng sau đó Cha ban phép lành chấm dứt 14 Chặng Đàng Thánh Giá đồng thời mọi người cùng tập trung trước tượng đài Đức Mẹ làm giờ đền ta do Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn. Nguyện cầu xin Mẹ ban ơn và chúc lành cho tất cả mọi người. Sau khi chấm dứt giờ đền tạ, mọi người về hội trường Trung Tâm tham dự Thánh lễ do quý Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Paul Văn Chi, Nguyễn Văn Tuyết, Cha Mai Đào Hiền, Cha Đặng Đình Nên và Cha Nguyễn Thái Hoạch cùng hiệp dâng Thánh lễ.
Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người và chào mừng Sơ Tổng Quyền Dòng Mến Thánh Giá ở Quy Nhơn và quý Sơ. Cha nói Thánh lễ hôm nay xin mọi người hiệp ý cầu nguyện cho các nạn nhân bão lụt tại tiểu bang Queenland và cầu nguyện cho Giáo Hội.
Trong bài giảng Cha Toàn đã nói về những Lễ mừng kính Đức Mẹ trong năm như Đầu tháng 1 Lễ kính Mẹ Thiên Chúa, 8/12 Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, 15/8 Lễ kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời v..v.. Chúng ta chỉ biết Đức Mẹ qua sự siêu nhiên mà quên đi sự tự nhiên của Đức Mẹ. Mẹ cũng là thụ tạo của Thiên Chúa nên Mẹ vẫn có sự tự nhiên, nhưng tự nhiên trong sự Vâng Phục và Đức Tin. Cha khuyên nhủ mọi người hãy noi gương Mẹ, cầu nguyện với Mẹ là con đường nhanh nhất nhờ Mẹ dìu dắt chúng ta đến với Chúa.
Sau đó là nghi thức Xức Dầu Thánh cho những vị cao niên già yếu bệnh tật, nguyện xin ơn Chúa chữa lành phần hồn cũng như phần xác. Trườc khi kết thúc Thánh lễ Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn cám ơn tất cả mọi người đã đến Trung Tâm hành hương ngày 13 đầu năm mới 2011, Cha thông báo mỗi Thứ Sáu Đầu Tháng đều có Chặng Đàng Thánh Giá, Thánh Lễ và Chầu Mình Thánh Chúa tại Trung Tâm và Cha cũng thông báo thêm; Cộng Đồng sẽ quyên tiền vào những Thánh lễ trong cuối tuần này tại các Giáo Đoàn để giúp cứu trợ những nạn nhân lũ lụt tại tiểu bang Queenland đặc biệt các nạn nhân trong Cộng Đồng Người Việt của chúng ta. Thánh lễ kết thúc vào lúc 12pm.
Hành hương Tàpao ngày đầu Năm Mới
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
11:19 13/01/2011
PHAN THIẾT - Hôm nay ngày 13.1.2011, ngày hành hương đầu năm mới. Hàng ngàn người về bên Mẹ TàPao. Trời thật đẹp, một màu ngát xanh đại ngàn. Gió nhẹ dịu mát trong lành. Nắng lên, bầu trời ngập nắng vàng giữa không gian mênh mông của núi rừng.
Xem hình ảnh
Giữa tuần tĩnh tâm năm, linh mục đoàn Giáo phận Phan thiết từ sáng sớm cùng hành hương đến với Mẹ TàPao hiệp dâng thánh lễ.
Đoàn đồng tế hơn trăm linh mục và hai giám mục tiến lên lễ đài. Đội kèn Giáo xứ Vũ Hoà tấu vang khúc ca tán tụng Mẹ. Ca đoàn tổng hợp các Giáo xứ Hạt Đức Tánh hoà vang ca nhập lễ.
Mở đầu thánh lễ, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống ngỏ lời với cộng đoàn hành hương.
Trong niềm bình an của Chúa Kitô xin được hân hạnh cùng với Đức Cha Nicolas tiền bối, cùng với Đức Cha Giuse giám mục GP Phát Diệm, linh mục đoàn Phan thiết và các linh mục hành hương gởi đến quý tu sĩ và cộng đoàn lời chào mừng rất đặc biệt của thánh lễ sáng nay.
Đặc biệt vì thánh lễ diễn ra giữa lòng tuần tĩnh tâm của các Linh mục Phan thiết. Rất đông đảo các linh mục, hầu hết thuộc linh mục đoàn giáo phận Phan Thiết, cộng với một số linh mục trong những giáo phận liên hệ, giáo phận bạn vẫn có thói quen đến với Đức Trinh Nữ Maria tại vùng núi rừng Tàpao mỗi ngày 13 hàng tháng. Nét đặc biệt thứ hai, là hôm nay có sự hiện diện của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM giáo phận Phát Diệm, ngài đang giảng phòng cho các linh mục Giáo phận Phan Thiết và chia sẽ Lời Chúa cho anh chị em, hôm nay cùng về đây để chia sẻ niềm tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria với cộng đoàn chúng ta. Đây là một niềm vinh hạnh rất lớn cho Trung tâm hành hương Tàpao. Quê hương của ngài ở Xuân lộc. Vì thế, xin anh chị em Giáo phận Xuân lộc cùng cộng đoàn dành cho ngài một tín hiệu reo vui! (vỗ tay).
Và đặc biệt nữa, đây là ngày hành hương đầu năm gắn liền với sự hiện diện của linh mục đoàn, cũng có thể coi như ngày hành hương của các linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết. Xin hòa chung những tâm tình tạ ơn cũng như những thao thức của nổi lòng kêu khấn. Tất cả đều là tâm tình của những người con dành cho Đức Mẹ Tại Tàpao. Xin Đức Mẹ chúc lành và xuống ơn đầy tràn để mỗi người biết sử dụng ơn của Đức Mẹ mà vươn lên trong đời sống thánh đức.
Thánh lễ này, với sự hiện diện của linh mục đoàn, với sự hiện diện của các giám mục cũng như sự hiện diện của đông đảo quý ông bà anh chị em sẽ làm nên tinh thần sốt sắng, gắn bó với Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ cũng chuyển cầu cho mỗi người muôn phúc lành. Giờ đây, chúng ta bước vào Thánh lễ với tất cả tâm tình, với trái tim yêu mến của mình, xin Đức Mẹ cũng chuyển cầu để mỗi người cũng có được một bước sống nhẹ nhàng trong hướng đi tương lai.
Đức Cha Giuse Nguyễn Năng giảng lễ.
Kính thưa quý Cha, quý Tu sĩ và toàn thể quý Ông bà anh chị em!
Hàng tháng, anh chị em hành hương về bên Đức Mẹ Tàpao. Hôm nay là một ngày hành hương đặc biệt, nhân dịp đầu năm mới chúng ta đến đây để cầu nguyện cho sự bình an, cầu nguyện để xin Chúa chúc lành cho chúng ta sống một cuộc đời an lành hạnh phúc. Trong ngày đầu năm chúng ta cầu chúc cho nhau được hạnh phúc. Năm mới 2011 đã bắt đầu, và chỉ còn 3 tuần nữa, chúng ta mừng tết của dân tộc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới bình an và hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc và hy vọng cuộc sống của mỗi người được bình an và hạnh phúc. Chúng ta cứ việc cầu chúc, chúc càng nhiều càng tốt, nhưng lời cầu chúc của chúng ta không có gì là bảo đảm. Chúng ta cũng nỗ lực với hoạt động của mình để xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc, nhưng hoạt động của con người cũng không có gì là bền vững, bao nhiêu những bấp bênh, những rủi ro, những bất ổn xảy đến rình rập chúng ta từng ngày. Chúng ta nỗ lực kiến tạo xây dựng hòa bình, nhưng rồi chính con người ra tay phá hủy hòa bình mà mình đã kiến tạo. Chính vì vậy mà hôm nay, chúng ta về bên Mẹ để cầu nguyện với Đức Mẹ và trao phó cho Đức Mẹ cuộc đời của mỗi người chúng ta, cuộc đời của gia đình chúng ta, cuộc sống của Giáo hội, của giáo phận Phan Thiết và của quê hương Việt Nam cũng như tất cả của mọi người trên thế giới. Chúng ta cầu nguyện là bởi vì chúng ta biết rằng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban phúc lành bình an cho chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất, Môsê mời gọi chúng ta cầu nguyện cùng với ông: “Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ cho chúng ta. Nguyện xin Chúa ghé mắt và ban bình an cho chúng ta”. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban bình an. Và trong mùa Giáng sinh mới đây, chúng ta chúc tụng Chúa Giêsu là sự bình an, Ngài chính là hòa bình của nhân loại. Bởi vì chính Chúa Giêsu là Đấng giao hòa đất với trời, giao hòa con người với nhau. Chính Chúa Giêsu là nguồn ân sủng và chân lý, và nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Nhưng Thiên Chúa ban ân sủng, bình an và hạnh phúc qua bàn tay của Đức Mẹ.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nói: “Khi tới thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của mình tới sinh làm con của một người phụ nữ”. Và trong bài Tin mừng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu sinh ra nằm trong máng cỏ, chính là con Đức Maria. Và chúng ta ca ngợi Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa bởi vì Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Chúng ta ca ngợi, tuyên xưng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đó là một cách chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Khi cử hành Thánh lễ dâng kính Mẹ Thiên Chúa, ta ý thức về địa vị và vai trò của Đức Mẹ trong lịch sử cứu độ. Chúng ta ca ngợi và tạ ơn Mẹ bởi vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là nguồn mạch của mọi ân sủng. Chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì đồng thời chúng ta cũng yêu mến Đức Mẹ. Chúng ta tôn thờ Chúa Giêsu thì chúng ta cũng tôn kính Đức Mẹ. Ai tin tưởng, trao phó cuộc đời cho Chúa Giêsu thì đồng thời cũng phó thác cuộc đời của mình cho Mẹ. Chính vì vậy, hôm nay anh chị em đến đây, chạy đến với Đức Mẹ, chúng ta hãy cầu nguyện, xin Đức Mẹ ban hòa bình cho thế giới, xin Đức Mẹ ban cho mọi người chúng ta được sống trong bình an hạnh phúc, được sống cuộc đời yêu thương hiệp nhất, xin Đức Mẹ ban cho mọi người biết đón nhận Tin mừng cứu độ mà Chúa Giêsu qua Mẹ đã mang đến trong trần gian này. Anh chị em cầu nguyện để xin Đức Mẹ ban bình an và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc này không phải là thứ dễ dãi, giống như người ngồi chờ sung rụng, và hạnh phúc này cũng không phải là thứ mau qua, vắn vỏi và hời hợt. Hôm nay lời Chúa mời gọi anh chị em hãy nhìn lên Đức Mẹ, chúng ta cầu nguyện với Mẹ nhưng đồng thời chúng ta cũng chiêm ngắm Đức Mẹ. Đức Mẹ được ca ngợi là người hạnh phúc bởi vì chính Mẹ là người đã lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Tin mừng nói rằng: Đức Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu và suy đi nghĩ lại trong lòng. Có một lần, một người phụ nữ đã khen Chúa Giêsu: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho thầy bú mớm”, Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì hạnh phúc hơn”. Không phải Chúa Giêsu chối từ hạnh phúc cao cả của Đức Mẹ, đấng đã sinh ra mình, nhưng Chúa Giêsu muốn ca ngợi Đức Mẹ có phúc không phải chỉ vì đã sinh ra Người về mặt thể lý, về mặt nhân loại, nhưng Đức Mẹ còn có phúc hơn nữa vì Đức Mẹ hơn ai hết là người đã lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Chính bà Elisabet đã ca ngợi Đức Mẹ: Em là người phúc, bởi vì em đã tin.
Chúng ta đừng tưởng lầm rằng cuộc đời của Đức Mẹ không có sóng gió khổ đau. Cuộc đời của Mẹ đầy những biến cố thương đau: Đức Mẹ cùng với thánh Giuse phải đối diện với những cảnh nghèo, với những cuộc đời lao động vất vả. Và như chúng ta thấy, sinh con ra trong hang đá Bêlem, không biết mấy ai trong chúng ta đã sinh con của mình ra trong một hang đá như Đức Mẹ chưa? Rồi cuộc đời của Đức Mẹ cũng phải di tản sang bên đất Aicập, cuộc đời chạy loạn, bởi vì Chúa Giêsu đã trở thành đối tượng của sự truy lùng. Đức Mẹ cũng đã trải qua sự đau đớn đứt ruột khi lạc mất con trong đền thờ. Và nhất là trên con đường Thánh giá, lòng Đức Mẹ tan nát bởi vì chứng kiến cuộc khổ nạn thương đau của con mình. Cuộc đời của Đức Mẹ là như vậy: sóng gió, khổ đau, thánh giá. Nhưng cho dẫu sóng gió và khổ đau, cuộc đời của Đức Mẹ vẫn bình an, vẫn vững vàng và hạnh phúc, là bởi vì Đức Mẹ tin vào lời Chúa. Đức Mẹ cảm nhận được niềm hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn bởi vì Đức Mẹ bám vào Chúa. Chúng ta từng kinh nghiệm về cuộc đời đổi thay, không có gì vững vàng. Cuộc sống càng văn minh hiện đại thì xem ra lại càng có nhiều bất ổn. Và chỉ có người nào thực hành lời Chúa, người ấy mới là kẻ vững vàng, giống như người xây nhà trên đá tảng. Cuộc đời dĩ nhiên có những vất vả, khổ đau và thánh giá. Nếu ta không có một điểm tựa vững chắc thì dòng thác lũ của cuộc đời sẽ cuốn trôi chúng ta đi. Và quả thực là bao nhiêu người đã bị thác lũ cuốn trôi, bởi vì không có điểm tựa vững chắc. Người ta cậy dựa vào tiền bạc, vào địa vị và quyền cao chức trọng, nhưng tất cả đều qua đi với cuộc đời, và cuộc đời của họ đã bị cuốn trôi. Chỉ có những ai tin và bám vào lời Chúa, tựa như người khôn xây nhà trên đá tảng, cuộc đời người ấy vẫn bình an và hạnh phúc, cuộc đời của họ vẫn tồn tại giữa muôn ngàn sóng gió.
Anh chị em thân mến, có nhiều người tin vào Đức Kitô, nhưng không phải mọi Kitô hữu đều cảm nhận được niềm hạnh phúc khi đi theo Đức Kitô. Chúng ta sống trong Giáo hội nhưng không phải ai cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sống trong Giáo hội, được sống bằng lời Chúa. Nhiều người cảm thấy sống theo lời Chúa như một gánh nặng, họ cảm thấy đi theo Đức Kitô là điều mất tự do, là điều gò bó, không được sống theo ý riêng của mình. Không, thưa anh chị em, Đức Kitô đến không lấy mất của chúng ta một điều gì hết. Chúa Kitô không làm hạn chế tự do của chúng ta, trái lại, Ngài làm cho chúng ta sống tự do hơn, sống xứng đáng với phẩm giá của con người nhiều hơn. Theo Đức Kitô, cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa hơn, và sống theo lời Chúa, cuộc đời của ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Anh chị em hãy hãnh diện bởi vì mình là người Kitô hữu, hãy hãnh diện và vui mừng bởi vì mình được biết Chúa và được theo Chúa, hãy hạnh phúc bởi vì được sống trong lòng Giáo hội, và anh chị em hãy tín nhiệm vào Chúa và nhờ sự tín nhiệm đó, anh chị em can đảm sống theo lời Chúa.
Thưa anh chị em, ngày hành hương hôm nay, đặc biệt bởi vì có sự hiện diện của Linh mục đoàn trong giáo phận, các Linh mục đang tham dự Tuần Tĩnh Tâm Năm, cũng hành hương về đây bên Đức Mẹ, để cầu nguyện cho giáo phận, và cùng chiêm ngắm cuộc đời hạnh phúc của Đức Mẹ. Anh chị em hãy cầu nguyện với Đức Mẹ là Nữ Vương các Thánh Tông Đồ để các Linh mục cũng sống cuộc đời hạnh phúc như Đức Mẹ. Các Linh mục hạnh phúc không phải bởi vì quyền cao chức trọng, không phải bởi vì mình có địa vị ở trên những người khác, cũng không phải vì cuộc đời Linh mục có nhiều bổng lộc vật chất, nhưng Linh mục hạnh phúc bởi vì cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho riêng mình. Chỉ có những người nào cảm nhận được tình yêu và sống cho tình yêu, dấn thân cho tình yêu, người ấy mới là kẻ hạnh phúc. Các Linh mục được Chúa yêu thương và tuyển chọn để trở thành bạn hữu của Chúa, sống thân mật với Chúa, và để tham dự và sứ mạng của Chúa. Các Linh mục hạnh phúc bởi vì đã chọn Chúa làm gia nghiệp của mình, và có Chúa là có tất cả. Linh mục hạnh phúc là bởi vì đã dâng hiến trái tim của mình cho tình yêu Chúa, và bởi vì chỉ có tình yêu Chúa mới thực sự làm đầy mọi khao khát của con người. Chắc chắn đã hơn một lần, các Linh mục của anh chị em đây đã có những cảm xúc cao độ trào dâng, bởi vì đã cảm nhận được niềm hạnh phúc của người tông đồ. Cảm xúc cao độ đôi khi đã biến thành những giọt nước mắt tuôn trào. Nhưng cũng không ít lần hạnh phúc ấy bị phai nhạt theo dòng thời gian, tuổi tác lớn dần theo năm tháng, hoặc là sức nặng của công việc mục vụ, hay là những khó khăn trong các mối tương giao với cộng đoàn Dân Chúa, hoặc những thất bại hay hiểu lầm, cả những yếu đuối và sức ỳ của thế xác nữa. Tất cả đều có thể làm giảm bớt niềm vui tận hiến và ngọn lửa nhiệt tình dấn thân trong cuộc đời của các Linh mục. Chính vì vậy, những ngày tĩnh tâm và cuộc hành hương hôm nay về bên Mẹ, chính là để hâm nóng lại niềm hạnh phúc của người tông đồ dấn thân đi theo Chúa. Bởi lẽ chỉ có người tông đồ nào hạnh phúc mới có thể dấn thân trọn vẹn cho sứ mạng tông đồ của mình, chỉ có người nào thực sự hạnh phúc trong đời sống Linh mục mới có sức làm tỏa lan niềm vui theo Chúa cho anh chị em mình, và chỉ có người nào hạnh phúc trong tình yêu Chúa và vì yêu Chúa mà dám hy sinh tất cả cho tha nhân thì sứ vụ của người ấy mới có sức thuyết phục. Bởi vì rốt cuộc chỉ có tình yêu mới đáng tin. Thưa anh chị em, trong ngày hành hương đầu năm mới, chúng ta phó dâng giáo phận, Giáo hội, cũng như đất nước Việt Nam này cho Đức Mẹ. Xin Mẹ chúc lành cho tất cả, cách riêng cho các mục tử, cho mọi giáo xứ, mọi gia đình và mọi tín hữu, anh chị em hiện diện cũng như vắng mặt. Trong niềm vui của ngày hành hương đầu năm, xin cầu chúc cho tất cả mọi người được dồi dào hạnh phúc trong ân sủng và tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Amen.
Cuối thánh lễ, Đức cha Giuse làm phép nước và ảnh tượng cho cộng đoàn.
Cha trưởng ban Trung tâm Thánh mẫu Tàpao thông báo ngày hành hương đầu năm mới Âm Lịch vào ngày 11 Tết (Chúa nhật,13/2/2011), cám ơn và chúc Tết quý Đức Cha quý Cha quý Tu sĩ nam nữ và cộng đoàn hành hương luôn chan hòa ân sủng Thiên Chúa, một năm mới được mọi sự tốt lành.
Sau phép lành của ĐGM, nhiều đoàn hành hương tiếp tục lên núi viếng thánh tượng Đức Mẹ TàPao.
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như dòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu lớn. Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
Xem hình ảnh
Giữa tuần tĩnh tâm năm, linh mục đoàn Giáo phận Phan thiết từ sáng sớm cùng hành hương đến với Mẹ TàPao hiệp dâng thánh lễ.
Đoàn đồng tế hơn trăm linh mục và hai giám mục tiến lên lễ đài. Đội kèn Giáo xứ Vũ Hoà tấu vang khúc ca tán tụng Mẹ. Ca đoàn tổng hợp các Giáo xứ Hạt Đức Tánh hoà vang ca nhập lễ.
Mở đầu thánh lễ, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống ngỏ lời với cộng đoàn hành hương.
Trong niềm bình an của Chúa Kitô xin được hân hạnh cùng với Đức Cha Nicolas tiền bối, cùng với Đức Cha Giuse giám mục GP Phát Diệm, linh mục đoàn Phan thiết và các linh mục hành hương gởi đến quý tu sĩ và cộng đoàn lời chào mừng rất đặc biệt của thánh lễ sáng nay.
Đặc biệt vì thánh lễ diễn ra giữa lòng tuần tĩnh tâm của các Linh mục Phan thiết. Rất đông đảo các linh mục, hầu hết thuộc linh mục đoàn giáo phận Phan Thiết, cộng với một số linh mục trong những giáo phận liên hệ, giáo phận bạn vẫn có thói quen đến với Đức Trinh Nữ Maria tại vùng núi rừng Tàpao mỗi ngày 13 hàng tháng. Nét đặc biệt thứ hai, là hôm nay có sự hiện diện của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM giáo phận Phát Diệm, ngài đang giảng phòng cho các linh mục Giáo phận Phan Thiết và chia sẽ Lời Chúa cho anh chị em, hôm nay cùng về đây để chia sẻ niềm tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria với cộng đoàn chúng ta. Đây là một niềm vinh hạnh rất lớn cho Trung tâm hành hương Tàpao. Quê hương của ngài ở Xuân lộc. Vì thế, xin anh chị em Giáo phận Xuân lộc cùng cộng đoàn dành cho ngài một tín hiệu reo vui! (vỗ tay).
Và đặc biệt nữa, đây là ngày hành hương đầu năm gắn liền với sự hiện diện của linh mục đoàn, cũng có thể coi như ngày hành hương của các linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết. Xin hòa chung những tâm tình tạ ơn cũng như những thao thức của nổi lòng kêu khấn. Tất cả đều là tâm tình của những người con dành cho Đức Mẹ Tại Tàpao. Xin Đức Mẹ chúc lành và xuống ơn đầy tràn để mỗi người biết sử dụng ơn của Đức Mẹ mà vươn lên trong đời sống thánh đức.
Thánh lễ này, với sự hiện diện của linh mục đoàn, với sự hiện diện của các giám mục cũng như sự hiện diện của đông đảo quý ông bà anh chị em sẽ làm nên tinh thần sốt sắng, gắn bó với Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ cũng chuyển cầu cho mỗi người muôn phúc lành. Giờ đây, chúng ta bước vào Thánh lễ với tất cả tâm tình, với trái tim yêu mến của mình, xin Đức Mẹ cũng chuyển cầu để mỗi người cũng có được một bước sống nhẹ nhàng trong hướng đi tương lai.
Đức Cha Giuse Nguyễn Năng giảng lễ.
Kính thưa quý Cha, quý Tu sĩ và toàn thể quý Ông bà anh chị em!
Hàng tháng, anh chị em hành hương về bên Đức Mẹ Tàpao. Hôm nay là một ngày hành hương đặc biệt, nhân dịp đầu năm mới chúng ta đến đây để cầu nguyện cho sự bình an, cầu nguyện để xin Chúa chúc lành cho chúng ta sống một cuộc đời an lành hạnh phúc. Trong ngày đầu năm chúng ta cầu chúc cho nhau được hạnh phúc. Năm mới 2011 đã bắt đầu, và chỉ còn 3 tuần nữa, chúng ta mừng tết của dân tộc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới bình an và hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc và hy vọng cuộc sống của mỗi người được bình an và hạnh phúc. Chúng ta cứ việc cầu chúc, chúc càng nhiều càng tốt, nhưng lời cầu chúc của chúng ta không có gì là bảo đảm. Chúng ta cũng nỗ lực với hoạt động của mình để xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc, nhưng hoạt động của con người cũng không có gì là bền vững, bao nhiêu những bấp bênh, những rủi ro, những bất ổn xảy đến rình rập chúng ta từng ngày. Chúng ta nỗ lực kiến tạo xây dựng hòa bình, nhưng rồi chính con người ra tay phá hủy hòa bình mà mình đã kiến tạo. Chính vì vậy mà hôm nay, chúng ta về bên Mẹ để cầu nguyện với Đức Mẹ và trao phó cho Đức Mẹ cuộc đời của mỗi người chúng ta, cuộc đời của gia đình chúng ta, cuộc sống của Giáo hội, của giáo phận Phan Thiết và của quê hương Việt Nam cũng như tất cả của mọi người trên thế giới. Chúng ta cầu nguyện là bởi vì chúng ta biết rằng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban phúc lành bình an cho chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất, Môsê mời gọi chúng ta cầu nguyện cùng với ông: “Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ cho chúng ta. Nguyện xin Chúa ghé mắt và ban bình an cho chúng ta”. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban bình an. Và trong mùa Giáng sinh mới đây, chúng ta chúc tụng Chúa Giêsu là sự bình an, Ngài chính là hòa bình của nhân loại. Bởi vì chính Chúa Giêsu là Đấng giao hòa đất với trời, giao hòa con người với nhau. Chính Chúa Giêsu là nguồn ân sủng và chân lý, và nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Nhưng Thiên Chúa ban ân sủng, bình an và hạnh phúc qua bàn tay của Đức Mẹ.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nói: “Khi tới thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của mình tới sinh làm con của một người phụ nữ”. Và trong bài Tin mừng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu sinh ra nằm trong máng cỏ, chính là con Đức Maria. Và chúng ta ca ngợi Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa bởi vì Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Chúng ta ca ngợi, tuyên xưng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đó là một cách chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Khi cử hành Thánh lễ dâng kính Mẹ Thiên Chúa, ta ý thức về địa vị và vai trò của Đức Mẹ trong lịch sử cứu độ. Chúng ta ca ngợi và tạ ơn Mẹ bởi vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là nguồn mạch của mọi ân sủng. Chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì đồng thời chúng ta cũng yêu mến Đức Mẹ. Chúng ta tôn thờ Chúa Giêsu thì chúng ta cũng tôn kính Đức Mẹ. Ai tin tưởng, trao phó cuộc đời cho Chúa Giêsu thì đồng thời cũng phó thác cuộc đời của mình cho Mẹ. Chính vì vậy, hôm nay anh chị em đến đây, chạy đến với Đức Mẹ, chúng ta hãy cầu nguyện, xin Đức Mẹ ban hòa bình cho thế giới, xin Đức Mẹ ban cho mọi người chúng ta được sống trong bình an hạnh phúc, được sống cuộc đời yêu thương hiệp nhất, xin Đức Mẹ ban cho mọi người biết đón nhận Tin mừng cứu độ mà Chúa Giêsu qua Mẹ đã mang đến trong trần gian này. Anh chị em cầu nguyện để xin Đức Mẹ ban bình an và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc này không phải là thứ dễ dãi, giống như người ngồi chờ sung rụng, và hạnh phúc này cũng không phải là thứ mau qua, vắn vỏi và hời hợt. Hôm nay lời Chúa mời gọi anh chị em hãy nhìn lên Đức Mẹ, chúng ta cầu nguyện với Mẹ nhưng đồng thời chúng ta cũng chiêm ngắm Đức Mẹ. Đức Mẹ được ca ngợi là người hạnh phúc bởi vì chính Mẹ là người đã lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Tin mừng nói rằng: Đức Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu và suy đi nghĩ lại trong lòng. Có một lần, một người phụ nữ đã khen Chúa Giêsu: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho thầy bú mớm”, Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì hạnh phúc hơn”. Không phải Chúa Giêsu chối từ hạnh phúc cao cả của Đức Mẹ, đấng đã sinh ra mình, nhưng Chúa Giêsu muốn ca ngợi Đức Mẹ có phúc không phải chỉ vì đã sinh ra Người về mặt thể lý, về mặt nhân loại, nhưng Đức Mẹ còn có phúc hơn nữa vì Đức Mẹ hơn ai hết là người đã lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Chính bà Elisabet đã ca ngợi Đức Mẹ: Em là người phúc, bởi vì em đã tin.
Chúng ta đừng tưởng lầm rằng cuộc đời của Đức Mẹ không có sóng gió khổ đau. Cuộc đời của Mẹ đầy những biến cố thương đau: Đức Mẹ cùng với thánh Giuse phải đối diện với những cảnh nghèo, với những cuộc đời lao động vất vả. Và như chúng ta thấy, sinh con ra trong hang đá Bêlem, không biết mấy ai trong chúng ta đã sinh con của mình ra trong một hang đá như Đức Mẹ chưa? Rồi cuộc đời của Đức Mẹ cũng phải di tản sang bên đất Aicập, cuộc đời chạy loạn, bởi vì Chúa Giêsu đã trở thành đối tượng của sự truy lùng. Đức Mẹ cũng đã trải qua sự đau đớn đứt ruột khi lạc mất con trong đền thờ. Và nhất là trên con đường Thánh giá, lòng Đức Mẹ tan nát bởi vì chứng kiến cuộc khổ nạn thương đau của con mình. Cuộc đời của Đức Mẹ là như vậy: sóng gió, khổ đau, thánh giá. Nhưng cho dẫu sóng gió và khổ đau, cuộc đời của Đức Mẹ vẫn bình an, vẫn vững vàng và hạnh phúc, là bởi vì Đức Mẹ tin vào lời Chúa. Đức Mẹ cảm nhận được niềm hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn bởi vì Đức Mẹ bám vào Chúa. Chúng ta từng kinh nghiệm về cuộc đời đổi thay, không có gì vững vàng. Cuộc sống càng văn minh hiện đại thì xem ra lại càng có nhiều bất ổn. Và chỉ có người nào thực hành lời Chúa, người ấy mới là kẻ vững vàng, giống như người xây nhà trên đá tảng. Cuộc đời dĩ nhiên có những vất vả, khổ đau và thánh giá. Nếu ta không có một điểm tựa vững chắc thì dòng thác lũ của cuộc đời sẽ cuốn trôi chúng ta đi. Và quả thực là bao nhiêu người đã bị thác lũ cuốn trôi, bởi vì không có điểm tựa vững chắc. Người ta cậy dựa vào tiền bạc, vào địa vị và quyền cao chức trọng, nhưng tất cả đều qua đi với cuộc đời, và cuộc đời của họ đã bị cuốn trôi. Chỉ có những ai tin và bám vào lời Chúa, tựa như người khôn xây nhà trên đá tảng, cuộc đời người ấy vẫn bình an và hạnh phúc, cuộc đời của họ vẫn tồn tại giữa muôn ngàn sóng gió.
Anh chị em thân mến, có nhiều người tin vào Đức Kitô, nhưng không phải mọi Kitô hữu đều cảm nhận được niềm hạnh phúc khi đi theo Đức Kitô. Chúng ta sống trong Giáo hội nhưng không phải ai cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sống trong Giáo hội, được sống bằng lời Chúa. Nhiều người cảm thấy sống theo lời Chúa như một gánh nặng, họ cảm thấy đi theo Đức Kitô là điều mất tự do, là điều gò bó, không được sống theo ý riêng của mình. Không, thưa anh chị em, Đức Kitô đến không lấy mất của chúng ta một điều gì hết. Chúa Kitô không làm hạn chế tự do của chúng ta, trái lại, Ngài làm cho chúng ta sống tự do hơn, sống xứng đáng với phẩm giá của con người nhiều hơn. Theo Đức Kitô, cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa hơn, và sống theo lời Chúa, cuộc đời của ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Anh chị em hãy hãnh diện bởi vì mình là người Kitô hữu, hãy hãnh diện và vui mừng bởi vì mình được biết Chúa và được theo Chúa, hãy hạnh phúc bởi vì được sống trong lòng Giáo hội, và anh chị em hãy tín nhiệm vào Chúa và nhờ sự tín nhiệm đó, anh chị em can đảm sống theo lời Chúa.
Thưa anh chị em, ngày hành hương hôm nay, đặc biệt bởi vì có sự hiện diện của Linh mục đoàn trong giáo phận, các Linh mục đang tham dự Tuần Tĩnh Tâm Năm, cũng hành hương về đây bên Đức Mẹ, để cầu nguyện cho giáo phận, và cùng chiêm ngắm cuộc đời hạnh phúc của Đức Mẹ. Anh chị em hãy cầu nguyện với Đức Mẹ là Nữ Vương các Thánh Tông Đồ để các Linh mục cũng sống cuộc đời hạnh phúc như Đức Mẹ. Các Linh mục hạnh phúc không phải bởi vì quyền cao chức trọng, không phải bởi vì mình có địa vị ở trên những người khác, cũng không phải vì cuộc đời Linh mục có nhiều bổng lộc vật chất, nhưng Linh mục hạnh phúc bởi vì cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho riêng mình. Chỉ có những người nào cảm nhận được tình yêu và sống cho tình yêu, dấn thân cho tình yêu, người ấy mới là kẻ hạnh phúc. Các Linh mục được Chúa yêu thương và tuyển chọn để trở thành bạn hữu của Chúa, sống thân mật với Chúa, và để tham dự và sứ mạng của Chúa. Các Linh mục hạnh phúc bởi vì đã chọn Chúa làm gia nghiệp của mình, và có Chúa là có tất cả. Linh mục hạnh phúc là bởi vì đã dâng hiến trái tim của mình cho tình yêu Chúa, và bởi vì chỉ có tình yêu Chúa mới thực sự làm đầy mọi khao khát của con người. Chắc chắn đã hơn một lần, các Linh mục của anh chị em đây đã có những cảm xúc cao độ trào dâng, bởi vì đã cảm nhận được niềm hạnh phúc của người tông đồ. Cảm xúc cao độ đôi khi đã biến thành những giọt nước mắt tuôn trào. Nhưng cũng không ít lần hạnh phúc ấy bị phai nhạt theo dòng thời gian, tuổi tác lớn dần theo năm tháng, hoặc là sức nặng của công việc mục vụ, hay là những khó khăn trong các mối tương giao với cộng đoàn Dân Chúa, hoặc những thất bại hay hiểu lầm, cả những yếu đuối và sức ỳ của thế xác nữa. Tất cả đều có thể làm giảm bớt niềm vui tận hiến và ngọn lửa nhiệt tình dấn thân trong cuộc đời của các Linh mục. Chính vì vậy, những ngày tĩnh tâm và cuộc hành hương hôm nay về bên Mẹ, chính là để hâm nóng lại niềm hạnh phúc của người tông đồ dấn thân đi theo Chúa. Bởi lẽ chỉ có người tông đồ nào hạnh phúc mới có thể dấn thân trọn vẹn cho sứ mạng tông đồ của mình, chỉ có người nào thực sự hạnh phúc trong đời sống Linh mục mới có sức làm tỏa lan niềm vui theo Chúa cho anh chị em mình, và chỉ có người nào hạnh phúc trong tình yêu Chúa và vì yêu Chúa mà dám hy sinh tất cả cho tha nhân thì sứ vụ của người ấy mới có sức thuyết phục. Bởi vì rốt cuộc chỉ có tình yêu mới đáng tin. Thưa anh chị em, trong ngày hành hương đầu năm mới, chúng ta phó dâng giáo phận, Giáo hội, cũng như đất nước Việt Nam này cho Đức Mẹ. Xin Mẹ chúc lành cho tất cả, cách riêng cho các mục tử, cho mọi giáo xứ, mọi gia đình và mọi tín hữu, anh chị em hiện diện cũng như vắng mặt. Trong niềm vui của ngày hành hương đầu năm, xin cầu chúc cho tất cả mọi người được dồi dào hạnh phúc trong ân sủng và tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Amen.
Cuối thánh lễ, Đức cha Giuse làm phép nước và ảnh tượng cho cộng đoàn.
Cha trưởng ban Trung tâm Thánh mẫu Tàpao thông báo ngày hành hương đầu năm mới Âm Lịch vào ngày 11 Tết (Chúa nhật,13/2/2011), cám ơn và chúc Tết quý Đức Cha quý Cha quý Tu sĩ nam nữ và cộng đoàn hành hương luôn chan hòa ân sủng Thiên Chúa, một năm mới được mọi sự tốt lành.
Sau phép lành của ĐGM, nhiều đoàn hành hương tiếp tục lên núi viếng thánh tượng Đức Mẹ TàPao.
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như dòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu lớn. Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
Phái đoàn Giám mục và Linh mục Công giáo Thái Lan thăm Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội
ĐCV Hà Nội
11:24 13/01/2011
Hà Nội – Sáng ngày 13 tháng 01 năm 2011, phái đoàn Giám mục và Linh mục Công giáo Thái Lan đã đến thăm và giao lưu với Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội. Phái đoàn do Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot, Giám mục Giáo phận Korat dẫn đầu, cùng đi với ngài còn có 102 linh mục, đến từ 4 Giáo phận miền Đông Bắc Thái Lan. Buổi giao lưu được tổ chức tại hội trường Đại Chủng Viện thánh Giuse Hà Nội với sự hiện diện của Đức Tổng Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giám đốc, quý Cha giáo và 166 chủng sinh khoa Thần học.
Xem hình ảnh
Mở đầu buổi gặp gỡ, Đức Tổng giám mục Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn đã đọc diễn văn bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn về tình cảm mà Phái đoàn đã dành cho Giáo hội Việt Nam nói chung và Tổng giáo phận Hà Nội nói riêng. Ngài hy vọng rằng cuộc viếng thăm của Phái đoàn sẽ thắt chặt hơn nữa tình huynh đệ giữa hai Giáo hội láng giềng.
Kế đến, Đức Cha Giám đốc Lô-ren-sô Chu Văn Minh đã đọc diễn văn chào mừng Phái đoàn. Ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn về tình cảm mà Phái đoàn đã dành cho Đại chủng viện cách riêng, được thể hiện trong buổi gặp gỡ này.
Trong bài phát biểu của mình, trước tiên, Đức cha Joseph Choosak Sirisoot bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn về sự tiếp đón nồng hậu mà Đức Tổng Giám mục, Đức Cha Giám đốc và Đại Chủng Viện đã dành cho Phái đoàn. Tiếp theo, ngài giới thiệu về Quý cha cùng đi trong đoàn. Theo đó, trong số 102 linh mục hiện diện, đa phần là linh mục người Thái, ngoài ra cũng có các linh mục đến từ Tây Ban Nha, Philippin, Indonesia và đặc biệt có 20 linh mục người Thái gốc Việt Nam.
Sau phần giới thiệu, Đức Cha đã trình bày sơ lựơc về hiện tình của Giáo Hội Công giáo tại Thái Lan. Theo đó, người Công giáo Thái Lan chỉ là một thiểu số trong đất nước đa sắc tộc và Phật giáo thì chiếm đa số. Hiện tại, Thái Lan chỉ có khoảng 500.000 tín hữu trong tổng số 65 triệu dân. Cả nước chỉ có 10 Giáo phận và 1 Đại chủng viện. Trong Chủng viện này hiện chỉ có 107 chủng sinh đang theo học.
Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot tỏ ra vui mừng về sự phát triển và trưởng thành của Giáo hội Việt Nam. Đặc biệt, ngài lấy làm ngạc nhiên về tinh thần sống đạo và lòng hăng say truyền giáo của người Công giáo Việt Nam ngày một thăng tiến trong khi những hạn chế về tự do tôn giáo thì vẫn còn đó. Ngài cho biết đó chính là một trong những lý do mà phái đoàn muốn tìm hiểu trong chuyến thăm này.
Cuối bài phát biểu, Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot đã trao quà lưu niệm cho Đức Tổng Giám mục và Đức Cha giám đốc. Món quà gồm một hào quang có lưu giữ xương của các thánh tử đạo và một cuốn sách nói về gương chứng nhân của các thánh Tử đạo Thái Lan.
Sau buổi gặp gỡ, Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot và phái đoàn đã cùng chung vui trong bữa tiệc thân mật với Đức Tổng giám mục, Đức Cha Phụ tá, quý Cha giáo và anh em chủng sinh.
Được biết, trong chuyến viếng thăm Hà Nội lần này, phái đoàn do Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot dẫn đầu đã dâng Thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ Chính toà Hà Nội (chiều hôm qua). Đoàn cũng đã dâng Thánh lễ tại Nhà Mẹ Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội (sáng nay) và trước khi trở về Thái Lan, đoàn đã ghé thăm Đại chủng viện vào trưa hôm nay.
Xem hình ảnh
Mở đầu buổi gặp gỡ, Đức Tổng giám mục Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn đã đọc diễn văn bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn về tình cảm mà Phái đoàn đã dành cho Giáo hội Việt Nam nói chung và Tổng giáo phận Hà Nội nói riêng. Ngài hy vọng rằng cuộc viếng thăm của Phái đoàn sẽ thắt chặt hơn nữa tình huynh đệ giữa hai Giáo hội láng giềng.
Kế đến, Đức Cha Giám đốc Lô-ren-sô Chu Văn Minh đã đọc diễn văn chào mừng Phái đoàn. Ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn về tình cảm mà Phái đoàn đã dành cho Đại chủng viện cách riêng, được thể hiện trong buổi gặp gỡ này.
Trong bài phát biểu của mình, trước tiên, Đức cha Joseph Choosak Sirisoot bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn về sự tiếp đón nồng hậu mà Đức Tổng Giám mục, Đức Cha Giám đốc và Đại Chủng Viện đã dành cho Phái đoàn. Tiếp theo, ngài giới thiệu về Quý cha cùng đi trong đoàn. Theo đó, trong số 102 linh mục hiện diện, đa phần là linh mục người Thái, ngoài ra cũng có các linh mục đến từ Tây Ban Nha, Philippin, Indonesia và đặc biệt có 20 linh mục người Thái gốc Việt Nam.
Sau phần giới thiệu, Đức Cha đã trình bày sơ lựơc về hiện tình của Giáo Hội Công giáo tại Thái Lan. Theo đó, người Công giáo Thái Lan chỉ là một thiểu số trong đất nước đa sắc tộc và Phật giáo thì chiếm đa số. Hiện tại, Thái Lan chỉ có khoảng 500.000 tín hữu trong tổng số 65 triệu dân. Cả nước chỉ có 10 Giáo phận và 1 Đại chủng viện. Trong Chủng viện này hiện chỉ có 107 chủng sinh đang theo học.
Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot tỏ ra vui mừng về sự phát triển và trưởng thành của Giáo hội Việt Nam. Đặc biệt, ngài lấy làm ngạc nhiên về tinh thần sống đạo và lòng hăng say truyền giáo của người Công giáo Việt Nam ngày một thăng tiến trong khi những hạn chế về tự do tôn giáo thì vẫn còn đó. Ngài cho biết đó chính là một trong những lý do mà phái đoàn muốn tìm hiểu trong chuyến thăm này.
Cuối bài phát biểu, Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot đã trao quà lưu niệm cho Đức Tổng Giám mục và Đức Cha giám đốc. Món quà gồm một hào quang có lưu giữ xương của các thánh tử đạo và một cuốn sách nói về gương chứng nhân của các thánh Tử đạo Thái Lan.
Sau buổi gặp gỡ, Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot và phái đoàn đã cùng chung vui trong bữa tiệc thân mật với Đức Tổng giám mục, Đức Cha Phụ tá, quý Cha giáo và anh em chủng sinh.
Được biết, trong chuyến viếng thăm Hà Nội lần này, phái đoàn do Đức Cha Joseph Choosak Sirisoot dẫn đầu đã dâng Thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ Chính toà Hà Nội (chiều hôm qua). Đoàn cũng đã dâng Thánh lễ tại Nhà Mẹ Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội (sáng nay) và trước khi trở về Thái Lan, đoàn đã ghé thăm Đại chủng viện vào trưa hôm nay.
Mục vụ tại giáo xứ Bảo Yên thuộc tỉnh Lào Cai
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành
21:06 13/01/2011
LÀO CAI - Sau khi cùng đoàn giáo xứ Lào Cai đi tham dự Đại lễ Bế mạc Năm Thánh 2010 tại Linh địa Đức Mẹ La Vang (từ ngày 04-07/01/2011), tôi trở về nhiệm sở của mình và tiếp tục công việc của một linh mục xứ. Nghỉ đêm thứ 6, sáng thứ 7 tôi bắt đầu công việc chuẩn bị bài vở cho ngày chủ nhật Chúa Giêsu chịu phép Rửa.
Xem hình ảnh
Đúng 12g30, tôi bắt đầu lên đường đi dâng lễ tại giáo xứ Bảo Yên (địa danh của một huyện thuộc tỉnh Lào Cai). Trung tâm huyện Bảo Yên cách Tp. Lào Cai 80 km về hướng Đông Nam. Tôi dâng 05 Thánh lễ cho 05 giáo họ trong giáo xứ: 02 lễ chiều thứ 7 (Bảo Hà và Hàm Rồng) và 03 lễ ngày Chúa nhật (Việt Hải, Long Khánh và Phố Ràng).
Trong số những giáo họ này, chỉ có 02 giáo họ có nhà nguyện: Hàm Rồng và Việt Hải. Còn 03 giáo họ chưa có nhà nguyện là Bảo Hà, Long Khánh và Phố Ràng. Điều đó đồng nghĩa với việc 03 Thánh lễ ở những họ chưa có nhà nguyện được dâng tại nhà tư. Thật là đáng thương!!!
Khi về tới nhà xứ Lào Cai lúc 22g00 ngày Chúa nhật 10/01/2011, tôi nhìn thấy “công tơ mét” chỉ đến 235 km (trước khi xuất phát đã bấm số). Vậy là với hai ngày làm việc và dâng lễ, tôi đã đi 235 km. Ái chà, một đoạn đường quả là không ngắn!!! Nhưng không phải tất cả đều là đường dải nhựa mà còn cả đường rừng và suối nữa. Vả lại, trong những ngày giá lạnh và mưa phùn của mùa đông miền Tây Bắc này, đường sá lại càng trở nên khó đi hơn bao giờ hết. Nhiều đoạn đường không thể đi bằng xe hơi hay xe gắn máy được mà phải đi bộ với chiếc gậy trên tay. Đi tiếp hay bỏ cuộc!!! Chắc chắn là đi tiếp. Và cuối cùng cả 05 Thánh lễ đã được dâng và dâng rất sốt sáng.
Nhiều lúc tôi suy nghĩ miên man. Tôi cũng không hiểu động lực nào đã khiến tôi (và các linh mục vùng truyền giáo) làm được điều đó? Và câu trả lời lại hiện đến trong tôi: đó chỉ là ơn Chúa. Bởi chính Chúa đã nói: “Không có Ta các con không làm được gì”.
Vâng đúng vậy, với ơn Chúa, tôi đã vượt qua và làm tốt công việc của mình.
Lạy Chúa, xin nhìn đến cánh đồng truyền giáo tại vùng Tây Bắc thuộc giáo phận Hưng Hóa này! Xin ban thêm nhiều thợ gặt và thợ gặt nhiệt thành đến để thu lượm lúa trong cánh đồng lúa của Ngài!
Xem hình ảnh
Đúng 12g30, tôi bắt đầu lên đường đi dâng lễ tại giáo xứ Bảo Yên (địa danh của một huyện thuộc tỉnh Lào Cai). Trung tâm huyện Bảo Yên cách Tp. Lào Cai 80 km về hướng Đông Nam. Tôi dâng 05 Thánh lễ cho 05 giáo họ trong giáo xứ: 02 lễ chiều thứ 7 (Bảo Hà và Hàm Rồng) và 03 lễ ngày Chúa nhật (Việt Hải, Long Khánh và Phố Ràng).
Trong số những giáo họ này, chỉ có 02 giáo họ có nhà nguyện: Hàm Rồng và Việt Hải. Còn 03 giáo họ chưa có nhà nguyện là Bảo Hà, Long Khánh và Phố Ràng. Điều đó đồng nghĩa với việc 03 Thánh lễ ở những họ chưa có nhà nguyện được dâng tại nhà tư. Thật là đáng thương!!!
Khi về tới nhà xứ Lào Cai lúc 22g00 ngày Chúa nhật 10/01/2011, tôi nhìn thấy “công tơ mét” chỉ đến 235 km (trước khi xuất phát đã bấm số). Vậy là với hai ngày làm việc và dâng lễ, tôi đã đi 235 km. Ái chà, một đoạn đường quả là không ngắn!!! Nhưng không phải tất cả đều là đường dải nhựa mà còn cả đường rừng và suối nữa. Vả lại, trong những ngày giá lạnh và mưa phùn của mùa đông miền Tây Bắc này, đường sá lại càng trở nên khó đi hơn bao giờ hết. Nhiều đoạn đường không thể đi bằng xe hơi hay xe gắn máy được mà phải đi bộ với chiếc gậy trên tay. Đi tiếp hay bỏ cuộc!!! Chắc chắn là đi tiếp. Và cuối cùng cả 05 Thánh lễ đã được dâng và dâng rất sốt sáng.
Nhiều lúc tôi suy nghĩ miên man. Tôi cũng không hiểu động lực nào đã khiến tôi (và các linh mục vùng truyền giáo) làm được điều đó? Và câu trả lời lại hiện đến trong tôi: đó chỉ là ơn Chúa. Bởi chính Chúa đã nói: “Không có Ta các con không làm được gì”.
Vâng đúng vậy, với ơn Chúa, tôi đã vượt qua và làm tốt công việc của mình.
Lạy Chúa, xin nhìn đến cánh đồng truyền giáo tại vùng Tây Bắc thuộc giáo phận Hưng Hóa này! Xin ban thêm nhiều thợ gặt và thợ gặt nhiệt thành đến để thu lượm lúa trong cánh đồng lúa của Ngài!
Bế mạc Năm Thánh - Bên Mẹ dưới chân Thánh giá
+GM Gioan B. Bùi Tuần
23:14 13/01/2011
Năm Thánh Việt Nam đã kết thúc ở La Vang. Lễ Bế mạc được tổ chức rất trọng thể hoành tráng. Toàn thể Hội Thánh Việt Nam hướng về Đức Mẹ ở La Vang.
Trong thời gian linh thiêng ấy, tôi ở Long Xuyên, cũng bên Đức Mẹ. Ảnh Đức Mẹ mà tôi ưa nhìn ngắm nhất khi tôi đau yếu, là Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Những giờ phút bế mạc Năm Thánh được tôi cảm nhận như một chuẩn bị đi vào một tương lai có nhiều thử thách. Vì đang mang sẵn trong mình nhiều đau đớn và nhiều lo âu, tôi nhìn những thử thách đó là tất cả những gì gây nên đổ vỡ, làm nên hoang tàn, với mưu đồ kéo tôi và những người khác xa rời Phúc Âm.
Trong giây lát, tất cả những thử thách đó hiện lên như một cơn lũ lụt gồm đủ thứ thảm khốc. Bị vùi dập, tôi thấy mình cô đơn tăm tối. Tôi nhìn vào Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Đức Mẹ như đắm chìm trong đau khổ, nhưng trung tín vững vàng trong đức tin.
Tôi nhận được từ Mẹ sầu bi những chỉ dẫn ủi an. Đại khái như sau:
1. Thánh giá mang giá trị cứu chuộc
Đức Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô sau đây: "Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát, như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi đời sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô" (1 Pr 1,18-19).
Với lời dạy trên đây của thánh Phêrô, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Tôi và bao người đã phạm tội hoặc trong nguy cơ phạm tội. Tội lỗi trói con người vào ách sự ác, lôi con người vào chốn diệt vong. Để cứu con người khỏi vực thẳm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã dâng mình chịu khổ nạn và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Máu châu báu Người đã đổ ra, để cứu chuộc. Đau khổ của Người có giá thiêng liêng cao quý, đó là cứu khỏi nguy cơ phạm tội, xoá tội, tha tội, đền tội thay cho nhân loại.
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá phải đau đớn vô vàn. Mẹ kết hợp những đau đớn của Mẹ với những đau đớn của Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những đau đớn của Mẹ có giá trị góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Mẹ sầu bi khuyên tôi cũng hãy kết hợp những khổ đau của tôi với thánh giá Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những khổ đau của tôi sẽ được chia sẻ giá trị cứu chuộc. Tôi và nhiều người sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Khi nhìn công cuộc cứu chuộc là như thế, tôi không dám nghĩ rằng con người tội lỗi sẽ được cứu chuộc nhờ những việc đạo đức tưng bừng, những khẩu hiệu đạo đức hô vang. Đức Mẹ khuyên hãy theo gương Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nếu thử thách tới.
2. Cái chết sinh ra sự sống
Khi nói tới thử thách, tôi đặc biệt nghĩ tới những sa sút đạo đức cá nhân và tập thể, những rạn nứt trong các gia đình, những khuynh hướng ham danh lợi, những chủ nghĩa cực đoan. Một phần không nhỏ các thử thách đến từ nội bộ những người trong Hội Thánh. Là người môn đệ Chúa, tôi nhìn những sự kiện đó như những loại thuốc độc đưa con người và xã hội đến sự huỷ diệt về phần linh hồn. Người môn đệ Chúa có bổn phận bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Trước cảnh đó, Đức Mẹ đưa lòng trí tôi nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, đồng thời giúp tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Khi nhớ lại lời trên đây của Chúa Giêsu, tôi nhìn cái chết khổ đau của Người trên thánh giá chính là nguồn mang lại sự sống thiêng liêng cho biết bao người. Phải nói ngay là cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là một dấn thân cao cả vì yêu thương. Người vui lòng chịu chết để nhiều người được sống.
Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá cũng như chết đi cùng với Chúa Giêsu. Cái chết như thế của Mẹ được kết hợp với cái chết của Chúa Giêsu đã là một sự sản sinh. Thực sự, Đức Mẹ đã sinh ra nhiều tín hữu cho Chúa, từ cái chết đau đớn dưới chân thánh giá. Đó chính là truyền giáo.
Như vậy, đời người môn đệ Chúa cũng sẽ theo gương Đức Mẹ. Phải chấp nhận dấn thân vì yêu thương, cho dù phải chết. Cái chết đó sẽ được thực hiện hằng ngày, bằng sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Cái chết đó sẽ góp phần rất lớn cho việc mở rộng Nước Trời.
Được Đức Mẹ nhắc nhở về giá trị của cái chết trong đời mình, tôi thấy người môn đệ Chúa phải rất tỉnh thức. Nếu đức tin chỉ được nuôi sống và phát triển bằng những sùng kính ngọt ngào và những tổ chức ồn ào, thì rất dễ sụp đổ trước những bất ngờ tàn phá. Phải đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá một cách can đảm, rồi đón nhận thánh giá như một chọn lựa, và sống dấn thân cho chọn lựa đó, thì không những đức tin sẽ sống mạnh, mà còn giúp cho sự sống đức tin sinh sản.
Khi thực sự sống mầu nhiệm thánh giá, người môn đệ Chúa sẽ biết an ủi những người sẵn sàng chết đi cho người khác.
3. Niềm tin ủi an trong mọi thử thách
Chìa khoá mở nguồn an ủi cho Đức Mẹ sầu bi là sự trung tín trong đức tin.
Đức Mẹ tin vào chương trình cứu độ của Chúa: "Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Đức Mẹ tin lời thiên thần nói: "Đấng mà bà sắp sinh ra, sẽ gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35).
Niềm tin của Đức Mẹ cũng giống như niềm tin của tổ phụ Abraham. "Ông đã chẳng bao giờ mất niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Vì ông hoàn toàn xác tín rằng: Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người cũng đủ quyền năng thực hiện" (Rm 4,20).
Đức Mẹ tin một cách khiêm nhường, với lòng vâng phục triệt để thánh ý Chúa và tuyệt đối phó thác ở Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chính niềm tin trung tín đã an ủi Đức Mẹ trong mọi thử thách. Niềm tin đó cũng đã an ủi các con cái Mẹ, để rồi họ cũng sẽ biết an ủi những người khác. Họ có thể nói với những người bị thử thách như thánh Phaolô xưa: "Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, vì Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng sẽ biết an ủi những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó" (2 Cr 1,4).
***
Với chia sẻ trên đây, tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
Xin Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá luôn ở bên chúng con trong mọi thử thách. Chúng con là những đứa con yếu đuối hèn mọn. Xin Mẹ thương chỉ dạy, an ủi nâng đỡ chúng con trong suốt cuộc đời gian truân khổ ải này.
Trong thời gian linh thiêng ấy, tôi ở Long Xuyên, cũng bên Đức Mẹ. Ảnh Đức Mẹ mà tôi ưa nhìn ngắm nhất khi tôi đau yếu, là Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Những giờ phút bế mạc Năm Thánh được tôi cảm nhận như một chuẩn bị đi vào một tương lai có nhiều thử thách. Vì đang mang sẵn trong mình nhiều đau đớn và nhiều lo âu, tôi nhìn những thử thách đó là tất cả những gì gây nên đổ vỡ, làm nên hoang tàn, với mưu đồ kéo tôi và những người khác xa rời Phúc Âm.
Trong giây lát, tất cả những thử thách đó hiện lên như một cơn lũ lụt gồm đủ thứ thảm khốc. Bị vùi dập, tôi thấy mình cô đơn tăm tối. Tôi nhìn vào Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Đức Mẹ như đắm chìm trong đau khổ, nhưng trung tín vững vàng trong đức tin.
Tôi nhận được từ Mẹ sầu bi những chỉ dẫn ủi an. Đại khái như sau:
1. Thánh giá mang giá trị cứu chuộc
Đức Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô sau đây: "Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát, như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi đời sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô" (1 Pr 1,18-19).
Với lời dạy trên đây của thánh Phêrô, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Tôi và bao người đã phạm tội hoặc trong nguy cơ phạm tội. Tội lỗi trói con người vào ách sự ác, lôi con người vào chốn diệt vong. Để cứu con người khỏi vực thẳm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã dâng mình chịu khổ nạn và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Máu châu báu Người đã đổ ra, để cứu chuộc. Đau khổ của Người có giá thiêng liêng cao quý, đó là cứu khỏi nguy cơ phạm tội, xoá tội, tha tội, đền tội thay cho nhân loại.
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá phải đau đớn vô vàn. Mẹ kết hợp những đau đớn của Mẹ với những đau đớn của Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những đau đớn của Mẹ có giá trị góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Mẹ sầu bi khuyên tôi cũng hãy kết hợp những khổ đau của tôi với thánh giá Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những khổ đau của tôi sẽ được chia sẻ giá trị cứu chuộc. Tôi và nhiều người sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Khi nhìn công cuộc cứu chuộc là như thế, tôi không dám nghĩ rằng con người tội lỗi sẽ được cứu chuộc nhờ những việc đạo đức tưng bừng, những khẩu hiệu đạo đức hô vang. Đức Mẹ khuyên hãy theo gương Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nếu thử thách tới.
2. Cái chết sinh ra sự sống
Khi nói tới thử thách, tôi đặc biệt nghĩ tới những sa sút đạo đức cá nhân và tập thể, những rạn nứt trong các gia đình, những khuynh hướng ham danh lợi, những chủ nghĩa cực đoan. Một phần không nhỏ các thử thách đến từ nội bộ những người trong Hội Thánh. Là người môn đệ Chúa, tôi nhìn những sự kiện đó như những loại thuốc độc đưa con người và xã hội đến sự huỷ diệt về phần linh hồn. Người môn đệ Chúa có bổn phận bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Trước cảnh đó, Đức Mẹ đưa lòng trí tôi nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, đồng thời giúp tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Khi nhớ lại lời trên đây của Chúa Giêsu, tôi nhìn cái chết khổ đau của Người trên thánh giá chính là nguồn mang lại sự sống thiêng liêng cho biết bao người. Phải nói ngay là cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là một dấn thân cao cả vì yêu thương. Người vui lòng chịu chết để nhiều người được sống.
Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá cũng như chết đi cùng với Chúa Giêsu. Cái chết như thế của Mẹ được kết hợp với cái chết của Chúa Giêsu đã là một sự sản sinh. Thực sự, Đức Mẹ đã sinh ra nhiều tín hữu cho Chúa, từ cái chết đau đớn dưới chân thánh giá. Đó chính là truyền giáo.
Như vậy, đời người môn đệ Chúa cũng sẽ theo gương Đức Mẹ. Phải chấp nhận dấn thân vì yêu thương, cho dù phải chết. Cái chết đó sẽ được thực hiện hằng ngày, bằng sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Cái chết đó sẽ góp phần rất lớn cho việc mở rộng Nước Trời.
Được Đức Mẹ nhắc nhở về giá trị của cái chết trong đời mình, tôi thấy người môn đệ Chúa phải rất tỉnh thức. Nếu đức tin chỉ được nuôi sống và phát triển bằng những sùng kính ngọt ngào và những tổ chức ồn ào, thì rất dễ sụp đổ trước những bất ngờ tàn phá. Phải đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá một cách can đảm, rồi đón nhận thánh giá như một chọn lựa, và sống dấn thân cho chọn lựa đó, thì không những đức tin sẽ sống mạnh, mà còn giúp cho sự sống đức tin sinh sản.
Khi thực sự sống mầu nhiệm thánh giá, người môn đệ Chúa sẽ biết an ủi những người sẵn sàng chết đi cho người khác.
3. Niềm tin ủi an trong mọi thử thách
Chìa khoá mở nguồn an ủi cho Đức Mẹ sầu bi là sự trung tín trong đức tin.
Đức Mẹ tin vào chương trình cứu độ của Chúa: "Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Đức Mẹ tin lời thiên thần nói: "Đấng mà bà sắp sinh ra, sẽ gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35).
Niềm tin của Đức Mẹ cũng giống như niềm tin của tổ phụ Abraham. "Ông đã chẳng bao giờ mất niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Vì ông hoàn toàn xác tín rằng: Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người cũng đủ quyền năng thực hiện" (Rm 4,20).
Đức Mẹ tin một cách khiêm nhường, với lòng vâng phục triệt để thánh ý Chúa và tuyệt đối phó thác ở Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chính niềm tin trung tín đã an ủi Đức Mẹ trong mọi thử thách. Niềm tin đó cũng đã an ủi các con cái Mẹ, để rồi họ cũng sẽ biết an ủi những người khác. Họ có thể nói với những người bị thử thách như thánh Phaolô xưa: "Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, vì Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng sẽ biết an ủi những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó" (2 Cr 1,4).
***
Với chia sẻ trên đây, tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
Xin Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá luôn ở bên chúng con trong mọi thử thách. Chúng con là những đứa con yếu đuối hèn mọn. Xin Mẹ thương chỉ dạy, an ủi nâng đỡ chúng con trong suốt cuộc đời gian truân khổ ải này.
Văn Hóa
Ước mơ Tân Xuân
Giuse Nguyễn Hữu Đạt
10:31 13/01/2011
(Chúc Mừng Năm Mới Tân Mão 2011)
Có muốn hay không Xuân cũng về
Liền sau ngày tháng lạnh đê mê
Rạo rực, duyên dáng yêu thời tiết
Chan chứa, tràn trề sắc xuân quê.
*** ***
Búp đợi thời gian nở kịp Xuân
Lá đợi không gian xẫm cành xanh
Cây đợi hoa đơm buồng trái ngọt
Người đợi một năm khổ lui dần.
Con cũng ước mơ cho quê hương
Mùa xuân thực sự thơm muôn phương
Có hồn xác mai đào, đằm thắm
Tắm gội ơn lành mưa giáng thương.
Để không co ro trẻ ngoài đường
Còn cha, còn mẹ cứ buồn vương
Thiếu ăn, thiếu mặc, lam lũ sớm
Ngày xuân em ấy như ngày thường !
Để không phận nghèo đi lang thang
Nhăn nheo hy vọng, số mạng hèn
Mảnh tình còm cõi lết dương gian
Hơi thở mùa xuân, tới muộn màng
Để tuổi đời luôn căng nhựa sống
Khoe mãi Tân xuân đẹp nắng hồng
Ước mơ thế kỷ xa gần đợi:
Hòa bình, phúc lộc thọ vàng tươi.
Để nụ cười xinh chúm chím môi
Để nụ cười vang vui rạng ngời
Để nụ hàm tiếu khẽ khúc khích
Long lanh đôi mắt chớp sao trời.
*** ***
Con cầu xin Mẹ, Xuân Thánh ân
Cao xanh thắm nhuộm cõi trần nhân
Nước non ai nấy đều cũng được
Niềm vui vuông tròn khi sang Xuân.
(7/1/2011)
Hành trình
Ngô xuân Tịnh
18:21 13/01/2011
Hành trình
Gánh thơ qua một truông đời
Đôi môi nở những nụ cười du ca
Vần đau trong cõi người ta
Ôm vần hạnh phúc mượt mà lên cao
Đôi vai dù chảy máu đào
Đôi chân thiên lý đèo cao bước dài
Thiên thai vẫy gọi trần ai
Một đời du mục miệt mài đường đi
Hót trên những bờ lau
Phất phơ trên những bờ lau
Ta con chim nhỏ ngẩng đầu hót chơi
Mây chép hạnh phúc bầu trời
Gió buốt kể lể một đời khổ đau
Bổng trầm nốt nhạc khác nhau
Nhân sinh muôn vẻ ngẩng đầu hót vang
Yêu đời
Làm thơ
Ta hít thở
Dưỡng khí cuộc đời
Nhàn du khắp bốn phương trời
Cho yêu thương nữa cuộc đời phù du
Mai sau dù có mịt mù
Trong lòng đất mẹ thiên thu yêu đời
Như là một mảnh trăng trôi
Nhận nguồn ánh sáng mặt trời trao ban
Rồi đem trút xuống đầy tràn
Hành tinh yêu dấu chứa chan ân tình.
Gánh thơ qua một truông đời
Đôi môi nở những nụ cười du ca
Vần đau trong cõi người ta
Ôm vần hạnh phúc mượt mà lên cao
Đôi vai dù chảy máu đào
Đôi chân thiên lý đèo cao bước dài
Thiên thai vẫy gọi trần ai
Một đời du mục miệt mài đường đi
Hót trên những bờ lau
Phất phơ trên những bờ lau
Ta con chim nhỏ ngẩng đầu hót chơi
Mây chép hạnh phúc bầu trời
Gió buốt kể lể một đời khổ đau
Bổng trầm nốt nhạc khác nhau
Nhân sinh muôn vẻ ngẩng đầu hót vang
Yêu đời
Làm thơ
Ta hít thở
Dưỡng khí cuộc đời
Nhàn du khắp bốn phương trời
Cho yêu thương nữa cuộc đời phù du
Mai sau dù có mịt mù
Trong lòng đất mẹ thiên thu yêu đời
Như là một mảnh trăng trôi
Nhận nguồn ánh sáng mặt trời trao ban
Rồi đem trút xuống đầy tràn
Hành tinh yêu dấu chứa chan ân tình.
Nỗi niềm Xuân
Trầm Thiên Thu
21:00 13/01/2011
Rộng ràng Tết đến, Xuân về
Mà nhiều người vẫn ưu tư bao điều!
Én chao nghiêng mỏi cánh chiều
Bướm, ong như cũng xuyến xao cuối trời
Cành e ấp những nụ mai
Sao chưa muốn nở cho ngày vàng hoe?
Bên đường dừng chổi đứng nghe
Người phu quét rác giao thừa chưa xong
Bước chân từng nhịp long đong
Trên tay xấp vé số buồn ai kia
Tết này lại phải xa quê
Vì tiền không có về nhà đón Xuân
Đời ai cũng khoảng trăm năm
Cớ sao người sướng, kẻ buồn lắt lay?
Bao mùa Xuân đã qua tay
Vẫn không được chút vui ngày Xuân sang
Nghe thơm mùi vị bánh chưng
Bao nhiêu ký ức vô thường càn khôn
Nén nhang thắp, khói bồn chồn
Bàn không kẹo, mứt, Tết buồn, Xuân ơi!
Tân Mão – 2011
Mà nhiều người vẫn ưu tư bao điều!
Én chao nghiêng mỏi cánh chiều
Bướm, ong như cũng xuyến xao cuối trời
Cành e ấp những nụ mai
Sao chưa muốn nở cho ngày vàng hoe?
Bên đường dừng chổi đứng nghe
Người phu quét rác giao thừa chưa xong
Bước chân từng nhịp long đong
Trên tay xấp vé số buồn ai kia
Tết này lại phải xa quê
Vì tiền không có về nhà đón Xuân
Đời ai cũng khoảng trăm năm
Cớ sao người sướng, kẻ buồn lắt lay?
Bao mùa Xuân đã qua tay
Vẫn không được chút vui ngày Xuân sang
Nghe thơm mùi vị bánh chưng
Bao nhiêu ký ức vô thường càn khôn
Nén nhang thắp, khói bồn chồn
Bàn không kẹo, mứt, Tết buồn, Xuân ơi!
Tân Mão – 2011
Mừng Xuân
Antôn Nguyễn thanh Trúc
21:01 13/01/2011
Mừng xuân mới đến, chan hòa yêu mến
Ánh trời tươi nghìn sắc biếc say mê
Lời thân ái trao gởi về, mau đến
Thắp ngàn hương đời, ưu ái mê say
Xin kính tiến nét nhạc hồng đan kết
Những lời thơ chan chứa những hương xưa
Thành bài ca, ca tụng đấng sinh thành
Trao cho gió đem về, lòng đoan hứa
Nắng xuân chiếu, này cỏ cây sung sướng
Cánh đồng quê hòa, ríu rít tiếng chim
Chim gởi khúc yêu thương về muôn hướng
Khắp muôn phương, vui như nẻo thiên đường
Tay chắp lại tri ân tình Thiên Chúa
Đã phát ban ngàn ân phúc mênh mang
Lúc khang an hay đau yếu gian nan
Ngài nâng đỡ, giữ nâng niu êm ái
Mừng xuân đến, thắp lên nhiều hương nến
Nguyện xin Trời cho thế giới thương yêu
An bình vẫy gọi, mọi người bước đến
Tình Chúa chiếu soi, hồn tin mến thêm nhiều
Con tha thiết xin xuân này tươi mãi
Sóng ân thiêng phủ ngập với vinh quang
Điểm tô thêm lời đoan hứa hôm nào
Con vui sống chan hòa theo năm tháng.
Ánh trời tươi nghìn sắc biếc say mê
Lời thân ái trao gởi về, mau đến
Thắp ngàn hương đời, ưu ái mê say
Xin kính tiến nét nhạc hồng đan kết
Những lời thơ chan chứa những hương xưa
Thành bài ca, ca tụng đấng sinh thành
Trao cho gió đem về, lòng đoan hứa
Nắng xuân chiếu, này cỏ cây sung sướng
Cánh đồng quê hòa, ríu rít tiếng chim
Chim gởi khúc yêu thương về muôn hướng
Khắp muôn phương, vui như nẻo thiên đường
Tay chắp lại tri ân tình Thiên Chúa
Đã phát ban ngàn ân phúc mênh mang
Lúc khang an hay đau yếu gian nan
Ngài nâng đỡ, giữ nâng niu êm ái
Mừng xuân đến, thắp lên nhiều hương nến
Nguyện xin Trời cho thế giới thương yêu
An bình vẫy gọi, mọi người bước đến
Tình Chúa chiếu soi, hồn tin mến thêm nhiều
Con tha thiết xin xuân này tươi mãi
Sóng ân thiêng phủ ngập với vinh quang
Điểm tô thêm lời đoan hứa hôm nào
Con vui sống chan hòa theo năm tháng.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Nhện
Joseph Nguyễn Tro Bụi
22:41 13/01/2011
NHỆN
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Nhện đen thì sang
Nhện vàng phải mắng
Nhện trắng phải đòn.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Nhện đen thì sang
Nhện vàng phải mắng
Nhện trắng phải đòn.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền