Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
05:59 23/01/2014
Chúa Nhật III THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 4, 12-23
HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
Sau khi Chúa Giêsu chịu thanh tẩy bởi tay Gioan Baotixita ở sông Giorđăng và chịu ma quỷ cám dỗ ở trong sa mạc, Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả, để bước vào cuộc đời rao giảng công khai, loan báo Nước trời và đem ơn cứu độ đến cho con người. Chúa Giêsu tiếp tục sứ mạng rao giảng của Gioan Tẩy Giả và rồi Ngài sai các môn đệ, các tông đồ đi loan báo Nước Thiên Chúa. Đây là sứ mạng liên tục khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu đến thời các tông đồ liên tục cho đến hôm nay…
Chúa Giêsu đã chọn một vùng nhỏ sát biển hồ xứ Galilêa, nằm về phía tây bắc gọi là Capharnaum để bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài, biển này được gọi là biển của mọi dân tộc. Bởi vì từ đây, Chúa Giêsu đã loan báo một Giáo lý hoàn toàn mới mẻ, gây đảo lộn tất cả đặc biệt đối với các Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu. Gioan Tẩy Giả bị bắt vào tù và rồi Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng, quyền bính của Ngài. Lời đầu tiên Chúa Giêsu loan báo, công bố, rao giảng là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Hãy ăn năn, trở lại là lệnh truyền của Chúa Giêsu. Nét độc đáo trong việc rao giảng của Chúa là đến với mọi người chứ không đợi người ta đến với Chúa, Ngài đã vừa nói, vừa hành động vì lời nói phải đi đôi với việc làm, ngôn hành song hành. Rồi trong tương lai, khi biến cố chết và phục sinh của Chúa, Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ lại tiếp tục sứ mạng rao giảng của Chúa Giêsu. Đề tài của các ngôn sứ “ trở lại “ có nghĩa là quay về với Thiên Chúa cách vô điều kiện. Còn đối với Chúa Giêsu và Hội Thánh tiên khởi trở về hay quay về là hoán cải nội tâm, thay đổi tận căn khiến lòng mình luôn luôn luôn mở rộng để đón nhận Thiên Chúa. Thực ra, muốn vào Nước Trời không phải là kể công với Chúa, không phải xem mình đã tạo được bao nhiêu công trạng mà cho Chúa một trái tim mới, một tinh thần mới. Sự dữ, ma quỷ, tội lỗi làm cho nhân loại, làm cho con người xa Chúa, nhưng Chúa Giêsu đến để đưa chúng ta, đưa con người trở về với Ngài.
Công cuộc loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục được nhiều người nối tiếp sứ mạng của các tông đồ với biết bao phương cách để đem các linh hồn về với Chúa.Muốn rao giảng, muốn loan báo Tin Mừng, các sứ giả của Chúa luôn phải có lòng nhiệt thành, cảm nghiệm sâu xa ơn nhưng không của Thiên Chúa. Chỉ có ánh sáng mới xua tan bóng tối. Tuy nhiên, để xua tan tội lỗi, chỉ có ánh sáng của Đức Kitô. Ngài là ánh sáng được Chúa Cha sai tới để đẩy xa tội lỗi, để cứu vớt con người. Chúa Giêsu đã tuyên bố :” Ta là ánh sáng thế gian “. Ngài mời gọi nhân loại đi trong ánh sáng của Ngài. Ánh sáng của cây nến phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô được chia sẻ cho mọi người để dạy cho người Kitô hữu biết đức tin cũng phải được cháy sáng. Nhờ đức tin cháy sáng, nhiều người sẽ nhận ra tình yêu của Đức Kitô, và nhận ra chính Đức Kitô là Đấng cứu độ. Những hành động tốt lành, những cử chỉ yêu thương của con người sẽ là lời nói hùng hồn làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Các tông đồ, những sứ giả Tin Mừng, hay chính những cử chỉ nhỏ nhất như nở một nụ cười, nói một lời nhẹ nhàng thiện cảm cũng làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu. Ánh sáng cứu độ của Chúa luôn tỏa chiếu, soi sáng cho mọi người. Chúa chính là ánh sáng. Do đó, người Kitô hữu thuộc về Chúa, nên cũng phải tỏa ánh sáng bằng chính đời sống chứng tá yêu thương của mình. Một cuộc đời đầy ắp yêu thương, một cuộc đời thắm đượm tình bác ái luôn là ánh sáng tỏa lan, luôn là vết dầu loang lan tỏa làm cho nhiều người nhận ra Chúa. Mọi Kitô hữu sống được như thế, họ sẽ trở nên ánh sáng xua tan màn đêm, xua tan bóng tối. Thắp sáng tin yêu, thắp sáng hy vọng là bổn phận của người môn đệ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết thắp sáng đời sống bằng những cử chỉ yêu thương.Xin làm cho chúng con trở thành men muối cho đời để chúng con biết cho đi mà không cần đáp trả. Xin cho chúng con biết noi gương các tông đồ mau mắn đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa.Xin biến chúng con trở thành những ngư phủ lành nghề để chúng con đem nhiều người trở về với Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Sám hối là gì ?
2.Tại sao Chúa Giêsu lại kêu gọi con người hoán cải ?
3.Nước Trời đã gần đến nghĩa là gì ?
4.Tại sao Chúa nói “Ta là ánh sáng “?
5.Cây nến phục sinh tượng trưng gì ?
Mt 4, 12-23
HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
Sau khi Chúa Giêsu chịu thanh tẩy bởi tay Gioan Baotixita ở sông Giorđăng và chịu ma quỷ cám dỗ ở trong sa mạc, Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả, để bước vào cuộc đời rao giảng công khai, loan báo Nước trời và đem ơn cứu độ đến cho con người. Chúa Giêsu tiếp tục sứ mạng rao giảng của Gioan Tẩy Giả và rồi Ngài sai các môn đệ, các tông đồ đi loan báo Nước Thiên Chúa. Đây là sứ mạng liên tục khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu đến thời các tông đồ liên tục cho đến hôm nay…
Chúa Giêsu đã chọn một vùng nhỏ sát biển hồ xứ Galilêa, nằm về phía tây bắc gọi là Capharnaum để bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài, biển này được gọi là biển của mọi dân tộc. Bởi vì từ đây, Chúa Giêsu đã loan báo một Giáo lý hoàn toàn mới mẻ, gây đảo lộn tất cả đặc biệt đối với các Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu. Gioan Tẩy Giả bị bắt vào tù và rồi Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng, quyền bính của Ngài. Lời đầu tiên Chúa Giêsu loan báo, công bố, rao giảng là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Hãy ăn năn, trở lại là lệnh truyền của Chúa Giêsu. Nét độc đáo trong việc rao giảng của Chúa là đến với mọi người chứ không đợi người ta đến với Chúa, Ngài đã vừa nói, vừa hành động vì lời nói phải đi đôi với việc làm, ngôn hành song hành. Rồi trong tương lai, khi biến cố chết và phục sinh của Chúa, Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ lại tiếp tục sứ mạng rao giảng của Chúa Giêsu. Đề tài của các ngôn sứ “ trở lại “ có nghĩa là quay về với Thiên Chúa cách vô điều kiện. Còn đối với Chúa Giêsu và Hội Thánh tiên khởi trở về hay quay về là hoán cải nội tâm, thay đổi tận căn khiến lòng mình luôn luôn luôn mở rộng để đón nhận Thiên Chúa. Thực ra, muốn vào Nước Trời không phải là kể công với Chúa, không phải xem mình đã tạo được bao nhiêu công trạng mà cho Chúa một trái tim mới, một tinh thần mới. Sự dữ, ma quỷ, tội lỗi làm cho nhân loại, làm cho con người xa Chúa, nhưng Chúa Giêsu đến để đưa chúng ta, đưa con người trở về với Ngài.
Công cuộc loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục được nhiều người nối tiếp sứ mạng của các tông đồ với biết bao phương cách để đem các linh hồn về với Chúa.Muốn rao giảng, muốn loan báo Tin Mừng, các sứ giả của Chúa luôn phải có lòng nhiệt thành, cảm nghiệm sâu xa ơn nhưng không của Thiên Chúa. Chỉ có ánh sáng mới xua tan bóng tối. Tuy nhiên, để xua tan tội lỗi, chỉ có ánh sáng của Đức Kitô. Ngài là ánh sáng được Chúa Cha sai tới để đẩy xa tội lỗi, để cứu vớt con người. Chúa Giêsu đã tuyên bố :” Ta là ánh sáng thế gian “. Ngài mời gọi nhân loại đi trong ánh sáng của Ngài. Ánh sáng của cây nến phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô được chia sẻ cho mọi người để dạy cho người Kitô hữu biết đức tin cũng phải được cháy sáng. Nhờ đức tin cháy sáng, nhiều người sẽ nhận ra tình yêu của Đức Kitô, và nhận ra chính Đức Kitô là Đấng cứu độ. Những hành động tốt lành, những cử chỉ yêu thương của con người sẽ là lời nói hùng hồn làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Các tông đồ, những sứ giả Tin Mừng, hay chính những cử chỉ nhỏ nhất như nở một nụ cười, nói một lời nhẹ nhàng thiện cảm cũng làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu. Ánh sáng cứu độ của Chúa luôn tỏa chiếu, soi sáng cho mọi người. Chúa chính là ánh sáng. Do đó, người Kitô hữu thuộc về Chúa, nên cũng phải tỏa ánh sáng bằng chính đời sống chứng tá yêu thương của mình. Một cuộc đời đầy ắp yêu thương, một cuộc đời thắm đượm tình bác ái luôn là ánh sáng tỏa lan, luôn là vết dầu loang lan tỏa làm cho nhiều người nhận ra Chúa. Mọi Kitô hữu sống được như thế, họ sẽ trở nên ánh sáng xua tan màn đêm, xua tan bóng tối. Thắp sáng tin yêu, thắp sáng hy vọng là bổn phận của người môn đệ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết thắp sáng đời sống bằng những cử chỉ yêu thương.Xin làm cho chúng con trở thành men muối cho đời để chúng con biết cho đi mà không cần đáp trả. Xin cho chúng con biết noi gương các tông đồ mau mắn đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa.Xin biến chúng con trở thành những ngư phủ lành nghề để chúng con đem nhiều người trở về với Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Sám hối là gì ?
2.Tại sao Chúa Giêsu lại kêu gọi con người hoán cải ?
3.Nước Trời đã gần đến nghĩa là gì ?
4.Tại sao Chúa nói “Ta là ánh sáng “?
5.Cây nến phục sinh tượng trưng gì ?
Powerpoint Chúa Nhật Thứ 3 Quanh Năm Năm A - The 3rd Ordinary Sunday Year A
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
06:15 23/01/2014
Tích cực giãi ánh sáng tin yêu cho tha nhân
Lm. Đan Vinh
08:54 23/01/2014
Is 8,23b-9,3; 1 Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23
TÍCH CỰC GIÃI ÁNH SÁNG TIN YÊU CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 4,12-23
(12) Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. (13) Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li. (14) Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: (15) “Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan. Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại ! (15) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi !” (17) Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (18) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. (19) Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (20) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (21) Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. (22) Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. (23) Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
2. Ý CHÍNH:
Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giê-su từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Ngươi chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đức Giê-su cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Vừa nghe Đức Giê-su kêu gọi, các ông đã lập tức bỏ nghề lưới cá và từ giã người thân để cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt” khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giê-su (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giê-su. Dùng từ “bị nộp” ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giê-su bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mạng tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mạng mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giê-su đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mạng rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).
- C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh “tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giê-su đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giê-su biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).
- C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giê-su bắt đầu thi hành sứ mạng cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Đây cũng là nội dung mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + “Anh em hãy sám hối”: Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người như điều răn thứ hai dạy: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giê-su. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của ông Phê-rô trước khi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng Đá” (x. Mt 16,18).
- C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giê-su sẽ trao sứ mạng đánh lưới các linh hồn của người ta, giống như việc chài lưới bắt cá trên biển. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.
- C 21-23: + Gia-cô-bê: Có hai Tông đò tên Gia-cô-bê. Đây là Gia-cô-bê theo Chúa trước nên được người ta gọi là Gia-cô-bê Tiền, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê và em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giê-su. Nhóm này được luôn theo sát Đức Giê-su và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được đi theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt đang khi các ông khác phải ở ngoài vườn (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha…: Cũng như Si-mon và An-rê đã bỏ ngay nghề cũ, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giê-su và các môn đệ phải đi khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh kèm theo việc rao giảng Tin Mừng vì là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an bị nộp” thay vì “bị bắt” ? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giê-su khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào ? 3) Đức Giê-su đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết ? 4) Lời giảng của Đức Giê-su được tóm lại trong câu nào ? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ “Nước Trời đã đến gần” thay vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” như Lu-ca ? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê ? 7) Phê-rô là ai ? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giê-su đổi tên khi nào ? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê ? Hai ông Gia-cô-bê được phân biệt theo Chúa trước và sau thế nào ? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa ? 10) Đức Giê-su nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng ra sao ? Người thi hành sứ mạng bằng những công việc gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2. CÂU CHUYỆN: Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ ''NHÂN VẬT CỦA NĂM'' 2013
Gần đây vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, tạp chí Time, một tờ tuần báo Mỹ có uy tín hàng đầu thế giới, đã bình chọn Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô là nhân vật của năm 2013 với lời ca ngợi rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, ngài đã đem đến một tiếng nói và một nhận thức mới. Nhờ lối sống khiêm tốn giản dị và tầm ảnh hưởng tinh thần lớn lao ngài đã làm bừng lên một mùa xuân mới trong Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu, đặc biệt tại các nước Âu Mỹ. Giới truyền thông thế giới đã đặt cho ngài những danh hiệu cao quý như: “Giáo Hoàng Của Người Nghèo”; "Giáo Hoàng Của Quần Chúng"...
Theo Telegraph, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã đánh bại các nhà lãnh đạo thế giới và người làm rò rỉ các bí mật động trời là Edward Snowden, để giành giải “Nhân vật của Năm” do tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn. Dù mới chỉ đảm nhiệm vai trò năm đầu tiên, cựu Hồng Y người Ác-hen-ti-na đã được ban biên tập của tạp chí Time chọn là người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2013.
Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn của tờ Time giải thích: "Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên thế giới đã lập tức thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Phan-xi-cô", Giáo hoàng năm nay 76 tuổi, tên thật là Jorge Mario Bergoglio, sinh tại Bunenos Aires nước Ác-hen-ti-na. Ngài được tấn phong làm Tổng giám mục vào năm 1998, rồi trở thành Hồng Y năm 2001 và đắc cử chức vụ Giáo hoàng trong cuộc mật nghị tại Vatican vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, thay cho Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 xin về hưu. Giáo hoàng Phan-xi-cô nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo.
Đầu tháng này, tạp chí Time đã thu hẹp danh sách chung kết gồm 5 người, trong đó có Tổng thống Syria Bashar Assad, Thượng nghị sĩ bang Texas Hoa Kỳ Ted Cruz và Nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính Edith Windsor. Người thứ hai trong danh sách Nhân vật của Năm là Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), người tiết lộ chương trình theo dõi bí mật của chính phủ Mỹ, hiện đang xin tị nạn chính trị tại Nga. Tạp chí Time bắt đầu bình chọn "Nhân vật của Năm" lần đầu vào năm 1927. Các biên tập viên tạp chí đã chọn ra người mà họ cho là có ảnh hưởng nhiều nhất đến tin tức trong một năm, bất kể xấu hay tốt. Năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã được Time bình chọn là nhân vật của năm 2012.
Những tin tức hình ảnh về Đức Giáo Hoàng đã thể hiện tình thương đối với người nghèo, người khuyết tật và tỏ ra gần gũi với người lớn trẻ em đều được báo chí và các hãng thông tấn quốc tế loan truyền rộng rãi. Đây cũng là niềm vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo trong bối cảnh Giáo Hội gần đây đang là tâm điểm cho những lời phê phán chỉ trích của giới truyền thông trên thế giới liên quan đến các vụ tai tiếng về các vấn đề ấu dâm, vấn đề tài chánh của ngân hàng Vatican hay sự rò rỉ thông tin mật của Tòa thánh...
Sự quyết tâm canh tân bằng lối sống đơn sơ nghèo khó và đổi mới nhân sự của Đức Phan-xi-cô bước đầu đã đem lại những thành quả nhất định cho Hội thánh Công Giáo. Sự thành công này trở thành động lực thúc đẩy các tín hữu chúng ta cũng phải biết thanh luyện bản thân, đổi mới đời sống và cung cách phục vụ tha nhân, hầu loan báo tin mừng hữu hiệu hơn cho đồng bào Việt Nam thân yêu hôm nay.
3. SUY NIỆM:
1. Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê:
Đạo Do Thái thời Đức Giê-su đã xuống cấp trầm trọng: Các đầu mục Do thái là các kinh sư và người pha-ri-sêu quá câu nệ hình thức đạo đức, coi trọng kinh kệ lễ nghi bề ngoài mà coi thường tâm tình mến Chúa bên trong nên đã bị Đức Giê-su nặng lời khiển trách là bọn đạo đức giả như sau: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình”. Vì họ đã tỏ ra cố chấp không những không gia nhập vào Nước Trời do Người rao giảng, mà còn ngăn cản người khác không cho họ vào (x. Mt 23,13); Vì họ tìm cách thu gom tiền bạc bẵng các lễ nghi kinh kệ dài dòng (x. Mt 23,14); Vì đã không lo dạy dỗ dân chúng (x. Mt 23,15), coi trọng những điều tùy phụ như nộp thuế thập phân hoa màu mà coi nhẹ điều cốt yếu là sự công bình, lòng nhân và thành tín (Mt 23,23-24)…
Đức Giê-su đến không hủy bỏ Lề Luật Mô-sê nhưng để kiện toàn, để canh tân bằng việc đưa vào Luật một tinh thần mới, tóm lại trong hai giới răn quan trọng là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình” (x. Mt 22,35-40); Người cũng bãi bỏ hy lễ và hiến lễ toàn thiêu bằng chiên cừu của đạo cũ bằng việc thiết lập một lễ tế mới là Người dâng mình là Con Chiên Thiên Chúa chịu sát tế trên bàn thờ thập giá để đền tội cho nhân loại (x. Dt 10,8-10).
2. Đức Giê-su tuyển chọn các cộng tác viên:
Ðức Giê-su không thi hành sứ mạng cứu thế cách đơn độc, nhưng đã kêu gọi nhiều người theo làm môn đệ để cộng tác với Người loan báo Tin Mừng Nước Trời. Người không chọn những người có học vị cao, có tài ăn nói lưu loát, có kiến thức sâu rộng… như các kinh sư và biệt phái làm môn đệ của Người, nhưng đã chọn những người thuyền chài ít học (x. Cv 4,13). Ngay chính Người cũng không xuất thân từ một trường danh tiếng như người Do-thái đã phải ngạc nhiên nói rằng: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế !" (Ga 7,15). Các môn đệ của Đức Giê-su cũng không mấy trổi vượt về đức độ biểu hiện qua thái độ ganh tị nhỏ nhen, ham mê địa vị quyền hành đòi ngồi hai bên tả hữu của Thầy (x. Mt 20,23-24), tính tình nóng nẩy đòi tiêu diệt làng Sa-ma-ri không đón nhận Thầy trò (x. Lc 9,53-56) và hèn nhát chối Thầy ba lần (x. Ga 18,25-27) hoắc bỏ Thầy thoát thân khi Thầy gặp nạn (x. Mt 26,56). Nhưng ưu điểm của các ông là mau mắn dứt khoát đi theo Thầy, sẵn sàng bỏ nghề chài lưới bắt cá để học nghề chài lưới đánh bắt các linh hồn (x. Mt 4,19-20), lập tức bỏ thuyền bỏ cha mà đi theo Người (x. Mt 4,21-22), sẵn sàng đi con đường hẹp leo dốc là từ bỏ bản thân và vác thập giá mình mà theo chân Chúa (x. Mt 16,24), sẵn sàng từ bỏ vợ con, ruộng nương, nhà cửa... Sự mau mắn dứt khoát này đòi các ông phải liều lĩnh, tin cậy phó thác tương lai cuộc đời trong tay Ðức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được ơn Thánh Thần tác động, các ông đã được biến đổi nên tốt với đủ các đức tính, tài năng ăn nói (x. Cv 2,4) và trở nên khôn ngoan mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (x. Cv 4,31).
3. Mau mắn đáp lại tiêng Chúa mời gọi:
Ngày nay Đức Giê-su tiếp tục mời gọi mọi tín hữu cộng tác với Người loan báo Tin Mừng. Vậy chúng ta đã đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào ? Chúng ta có lập tức và dứt khoát đi theo Người hay nại đủ lý do đê trì hoãn như sợ không có đủ khả năng, không có thời giờ, thiếu tài đức… Nên nhớ rằng: Nếu chúng ta mà có đủ mọi điều kiện như các kinh sư Do Thái khi xưa, thì chắc Đức Giê-su cũng không gọi chúng ta đi theo Người, vì khi ấy chúng ta sẽ cậy dựa vào sức riêng của mình hơn cậy nhờ vào sức mạnh và ơn Chúa trợ giúp. Chính vì biết rõ chúng ta thiếu khôn ngoan thông thái nên Đức Giê-su mới kêu gọi chúng ta như Người đã cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Vì không có Chúa, chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15,5b), như Tông đồ Phao-lô đã nói: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết !” (Pl 4,13). “Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10), và như sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a khi truyền tin: “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy, nếu nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, mỗi người chúng ta cần phải lmau mắn đáp lại như ngôn sứ Sa-mu-en xưa: “Lay Chúa, xin cứ phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1 Sm 3,9). Chính nhờ sự mau mắn này, mà cũng như các tông đồ xưa, chúng ta sẽ được ơn biến đổi để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
4. Tích cực góp phần loan Tin Mừng ngay trong môi trường mình đang sống:
Mặc dù Chúa Giê-su đã về trời, nhưng Người muốn chúng ta tiếp tục sứ vụ của Người giữa trần gian hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì ? Trước hết chúng ta ý thức Chúa gọi chúng ta như Người đã gọi những môn đệ đầu tiên. Chúa bảo chúng ta hãy tiếp tay với Người để “lưới người” như lưới cá. Chúa không đòi chúng ta phải đi đâu xa, nhưng thả lưới ngay nơi mình đang sống và làm việc. Tấm lưới chúng ta thả có thể là lời nói, việc làm phản ánh lối sống của Đức Giê-su và nói lên tình thương của Thiên Chúa. Nếu tấm lưới ấy lỡ bị rách, chúng ta cần phải vá lại. Cũng vậy, nếu đời sống chúng ta trở nên xấu xa tội lỗi, làm sao chúng ta có thể loan báo Tin Mừng và giúp chữa lành các thói hư cho tha nhân được. Vậy mỗi ngày trước khi ngủ đêm, chúng ta phải hồi tâm “vá lưới” bằng cách xét mình để nhận ra những lỗi lầm và sai sót để xin Chúa giúp canh tân noi gương Chúa làm và lời Người dạy.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi, chấp nhận cuộc sống nghèo khó nay đây mai đó, không nhà cửa, là phải lên đường đến với mọi nhà và gặp gỡ hết mọi người. Theo Chúa là sẵn sàng đón nhận những sự thù ghét bách hại vì danh Chúa, chấp nhận đi con đường hẹp và ít người muốn đi, nhưng lại là con đường chắc chắn dẫn đến hạnh phúc đời đời. Hôm nay các tín hữu chúng ta cũng đang sống giữa những bà con đại đa số là người lương, chúng ta sẽ làm gì để rao giảng Tin Mừng, để biến đổi vùng đất này bừng lên ánh sáng tin yêu của Đức Giê-su ? (x. Mt 10,7-8). Hãy noi gương Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sống đơn giản gần gũi người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để chiếu ánh sáng tin yêu của Chúa như Người đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN:
1) Kèm theo lời giảng, Đức Giê-su đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để được người nghe dễ dàng đón nhận ? 2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được ai đó mời bạn tham gia vào các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác theo linh đạo của các hội đoan tông đồ giáo dân ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con luôn biết chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và buông xuôi giữa chừng. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn !”. Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp hay trường học của con được tràn đầy niềm vui ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Nước trời đang đến
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:49 23/01/2014
Không thể phủ nhận một trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường lối Thiên Chúa chỉ dạy.
Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).
Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).
Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).
Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).
Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).
Như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mạnh dạn cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).
Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).
Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).
Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).
Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).
Như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mạnh dạn cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Một cuộc hoán cải kỳ diệu
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
09:53 23/01/2014
Lễ Thánh Phaolô Trở Lại 25/01
Nhìn lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi của Vị Tông Đồ Dân Ngoại quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Sách Công Vụ Tông Đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và rong ruổi trên mọi đường Đamát để truy lùng các Kitô hữu.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, biến cố ngã ngựa trên đường Đamát là chìa khóa để chúng ta hiểu về con người, ơn gọi và sứ mạng của Phaolô. Saolô đã bị Thiên Chúa quật ngã và chinh phục. Saolô được ơn gặp Đấng Phục Sinh, được ơn trở lại. Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngoại.
Vì thế, có thể nói rằng nửa đời về trước Phaolô là một người Biệt phái chính cống, kiêu căng, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau Phaolô là một vị Tông Đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như chính Ngài thú nhận: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” và xác tín: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-39). Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ngài hăng say loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, các vùng bắc Á, vượt biển sang Châu Âu 4 lần để truyền giáo và chịu tử đạo tại Roma.
Phaolô không ngần ngại kể “tôi đã bị lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2Cor 11, 23-27). Tất cả vì Tin Mừng và vì phần rỗi của anh chị em mình.
Nhân dịp mừng lễ quan thầy của Đức Cha già Phaolô Cao Đình Thuyên, ngài chia sẻ: “Tôi nhận lễ Thánh Phaolô trở lại, tôi cảm ơn Ngài đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong sứ vụ của mình. Đặc biệt, là để xin ngài giúp cho tôi biết trở lại mỗi ngày”.
Câu nói đó tóm tắt tất cả linh đạo của Tin Mừng. Trở lại hay hoán cải là thay đổi mỗi ngày, trở lại là trở về với Chúa mỗi ngày. Xin cho chúng ta cũng biết tâm niệm tấm gương đó mà sống tinh thần trở lại mỗi ngày.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi của Vị Tông Đồ Dân Ngoại quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Sách Công Vụ Tông Đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và rong ruổi trên mọi đường Đamát để truy lùng các Kitô hữu.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, biến cố ngã ngựa trên đường Đamát là chìa khóa để chúng ta hiểu về con người, ơn gọi và sứ mạng của Phaolô. Saolô đã bị Thiên Chúa quật ngã và chinh phục. Saolô được ơn gặp Đấng Phục Sinh, được ơn trở lại. Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngoại.
Vì thế, có thể nói rằng nửa đời về trước Phaolô là một người Biệt phái chính cống, kiêu căng, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau Phaolô là một vị Tông Đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như chính Ngài thú nhận: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” và xác tín: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-39). Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ngài hăng say loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, các vùng bắc Á, vượt biển sang Châu Âu 4 lần để truyền giáo và chịu tử đạo tại Roma.
Phaolô không ngần ngại kể “tôi đã bị lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2Cor 11, 23-27). Tất cả vì Tin Mừng và vì phần rỗi của anh chị em mình.
Nhân dịp mừng lễ quan thầy của Đức Cha già Phaolô Cao Đình Thuyên, ngài chia sẻ: “Tôi nhận lễ Thánh Phaolô trở lại, tôi cảm ơn Ngài đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong sứ vụ của mình. Đặc biệt, là để xin ngài giúp cho tôi biết trở lại mỗi ngày”.
Câu nói đó tóm tắt tất cả linh đạo của Tin Mừng. Trở lại hay hoán cải là thay đổi mỗi ngày, trở lại là trở về với Chúa mỗi ngày. Xin cho chúng ta cũng biết tâm niệm tấm gương đó mà sống tinh thần trở lại mỗi ngày.
Trả giá
Lm. Vũ Xuân Hạnh
23:24 23/01/2014
Chúa nhật thứ III thường niên năm A
Có lần nói chuyện với các bạn trẻ dự tu vào Đại chủng viện, nhất là với những người chờ đợi khá lâu mà vẫn chỉ ở “trình độ” dự tu, tôi đã thật lòng chia sẻ vừa để an ủi, vừa để mời gọi các bạn vững lòng tin:
“Bất cứ cái gì anh em có được đều đòi anh em phải trả cho nó bằng một cái giá tương xứng. Từ cái kẹp tóc nhỏ xíu trên đầu đến đôi dép lót dưới bàn chân, nếu anh em muốn có nó, không phải tự dưng mà có.
Tất cả đều có giá. Chỉ là cái kẹp, đôi dép mà đã đòi phải trả giá thì huống hồ là lý tưởng tu trì. Dù so sánh của tôi có hơi tầm thường, nhưng chắc chắn đó là thực tế. Cái kẹp và đôi dép. Ai cũng thấy. Ai cũng biết.
Lý tưởng tu trì của anh em, còn hơn cả một đời sống tu trì nói chung, nó chính là lý tưởng linh mục.
Bởi lý tưởng linh mục mà anh em đang cất giữ trong tim, và mong mỏi đạt tới không phải chỉ là quan trọng mà thôi, không phải chỉ là lớn lao mà thôi, đó là thánh chức linh mục, là tham dự vào chính đời sống của Chúa Kitô, là chia sẻ chính Chúa Kitô, là nên một với Chúa Kitô trong nghĩa vụ tư tế của Người, Đấng mà tất cả chúng ta phải tôn thờ. To lắm! Cao cả lắm! Đẹp lắm! Tôi nhắc lại, đó là thánh chức chứ không đơn giản là chức vị, là chỗ đứng, là sự hào nhoáng (càng không bao giờ như cái kẹp, đôi dép).
Vì thế, đòi anh em phải trả giá, một cái giá không nhỏ chút nào. Đó là cái giá phải trả bằng cả một đời trung thành tận tụy, đặt hết niềm vui, nỗi buồn, đặt trọn cả cuộc sống để mua lấy và sở hữu.
Anh em phải hiểu rằng, cái giá phải trả không nhỏ, bởi thánh chức linh mục mà anh em sẽ mang lấy, không phải mang trong một sớm một chiều, nhưng là mang trọn một đời dâng hiến.
Mà vật gì phải trả giá, trả giá càng cao, thí càng quý. Như một số đàn anh chúng tôi, những người còn đang sống giữa chúng ta, chẳng hạn cha E., cha G., cha U… Cách đây nhiều năm, khi Chủng viện bị cấm hoạt động, họ đã trở thành những kẻ lang thang.
Người ta cuốc đất, họ không có đất, họ cuốc đất mướn. Người ta nuôi heo, họ không có tiền nuôi heo, họ làm nghề… thiếng heo. Người ta đạp xe ba bánh, họ không có xe, họ đạp xe ba bánh mướn…
Họ sống như một người tu. Nhưng họ làm tất cả để hóa thân thành người ở giữa đời. Và còn hơn một người ở giữa đời, họ chỉ nhắm một trọng tâm duy nhất: bảo vệ lý tưởng linh mục đến cùng, dù phải bảo vệ ngay trong hoàn cảnh chẳng còn gì để phải nhọc lòng bảo vệ, chẳng còn gì nhọc lòng chờ đợi.
Có người thất vọng giùm họ, nhiều anh em cán bộ quen biết cũng “tỏ tình thương”, khuyên họ về nhà… kiếm “bà xả” cho xong. Họ chỉ cười, một nụ cười đôn hậu. Một nụ cười mà chỉ có niềm tin tưởng vào Chúa, họ mới đủ hy vọng giữa hoàn cảnh không còn một chút hy vọng nào.
Trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như thế, họ thân ái trao tặng những người “thương” họ cả một vành trăng mới trên đôi môi cười của mình.
Dù khó nhọc đến đâu họ vẫn cười. Dù phải lướt qua bao nhiêu gập ghềng, chông chênh, họ vẫn cười. Dù chỉ còn thất vọng giữa lúc hy vọng về lý tưởng linh mục đến lúc tàn, họ vẫn cười. Một nụ cười hình vầng trăng khuyết trên vành môi. Đẹp kiêu sa!
Anh em thân mến, những đàn anh của chúng ta được Chúa Kitô mời gọi hãy từ bỏ để theo Chúa. Và họ đã từ bỏ.
Họ được Chúa Kitô mời gọi phó thác cho tình yêu của Chúa. Và họ đã phó thác.
Họ được Chúa Kitô mời gọi vác thập giá với Chúa. Và họ đã vác.
Họ được Chúa Kitô mời gọi bước vào cuộc tử nạn và chịu đóng đinh với Chúa. Và họ bước.
Họ đã đơn sơ, chân thành theo Chúa, vì Chúa mới chính là lý tưởng linh mục của đời họ.
Tất cả những hang hùm, sói dữ chỉ là những thử thách, những cái giá mà họ phải chấp nhận trả cho chính lý tưởng linh mục của họ.
Có Chúa, họ không sợ gì. Có Chúa, họ vượt trên miệng hùm, miệng sói.
Lý tưởng linh mục của họ thật quý giá. Bởi lý tưởng linh mục ấy, họ đã phải trả giá đắc…”.
Không chỉ hôm nay, mà từ ngàn xưa, để theo Chúa, con người cũng đã phải trả giá.
Tổ Phụ Abraham chấp nhận bỏ quê hương, bỏ mọi thứ yên ổn, giàu sang, gia đình, họ hàng… nơi quê hương để theo Chúa.
Hoàng hậu Ette chấp nhận liều mình đến trước vua để cứu dân của bà khỏi cái giá treo cổ.
Ông Samson đã chấp nhận liều thân, và đã hy sinh thân mình cùng chết với kẻ thù để giải thoát dân tộc.
Anh em nhà Macabê, đặc biệt Giuđa Macabê chấp nhận liều thân để bảo vệ đến cùng cho lề luật của Thiên Chúa, cũng chính là lề luật ngàn đời của cha ông để lại.
Đến thời các tiên tri, không một tiên tri nào không trả giá, có lúc trả giá đớn đau, thậm chí trả giá bằng chính mạng sống để theo Chúa, để hoàn thành sứ mạng Chúa trao…
Các tông đồ, một khi theo Chúa, cũng đã trả giá.
Lời Chúa hôm nay ngỏ với các tông đồ, cũng là lời ngỏ dành cho chúng ta. Lời ngỏ ấy xem ra là một lời hứa vinh quang, danh dự, một lời hứa ban sự thành công: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”. Nhưng tôi lại đọc thấy bên trong của lời ngỏ ấy là cả một chiều dài của sự trả giá.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết khởi đầu của sự trả giá ấy. Bằng lời ngỏ “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”, Chúa Giêsu tuyển chọn bốn tông đồ đầu tiên đi theo Chúa là: Simon Phêrô; Anrê; Giacôbê; Gioan.
Bốn tông đồ này là hai cặp anh em ruột: thánh Anrê là anh thánh Phêrô; thánh Giacôbê là anh thánh Gioan. Đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện đường lối cứu độ của Chúa và thiết lập Hội Thánh.
Thái độ của các môn đệ đầu tiên là thái độ đáng để chúng ta học tập: Sau khi nghe Chúa mời gọi, ngay lập tức, họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Thánh Mathêô ghi nhận: Lập tức các ông bỏ mọi sự mà ra đi theo tiếng gọi của Chúa. Thánh Mathêô thật tinh tế khi dùng hai từ “lập tức”: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người… Lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người”.
“Lập tức”, tự bản thân, từ ngữ này đã diễn tả đầy đủ sự mau lẹ, sự dứt khoát, sự từ bỏ không một chút luyến tiếc, và cả sự đam mê bước theo tiếng Chúa gọi nữa.
Cái giá ban đầu của sự theo Chúa, của ơn được tuyển chọn dứt khoát và mạnh mẽ là thế: “Bỏ!”:
- Bỏ chài lưới, bỏ thuyền: Không chỉ đơn thuần là bỏ một việc làm, mà còn là bỏ tất cả phương tiện để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình mình.
Không chỉ là bỏ một nghề nghiệp, mà còn là bỏ cả sự ổn định, bỏ cả một trật tự của đời sống đã quá quen thuộc của cá nhân mình, bỏ cả một sự nghiệp mà bản thân gắn bó với nó từ thời cha ông đến thời con cháu.
Bỏ như thế để đi theo Đấng đã gọi mình cũng có nghĩa là tín thác hoàn toàn trong tay Đấng đã mời gọi mình, gọi chính đời mình, gia đình mình, tương lai của mọi người mà mình có trách nhiệm.
- Bỏ cha: Không chỉ là từ giả người thân mà ra đi theo tiếng Chúa gọi, nhưng đó chính là từ bỏ cả tình ruột thịt, máu mủ.
Để cha lại trên thuyền mà theo Chúa là quyết tâm đặt Chúa lên trên cả lòng thảo hiếu, trên cả tình cảm cha con theo cách của trần thế, để từ nay nhìn nhận Chúa thực là Thầy, là Cha của mình.
Cất dấu tình cảm trần thế để bước theo tiếng gọi của trời cao, các môn đệ đầu tiên đã chọn cho mình lý tưởng thuộc về trời cao, thuộc về Thiên Chúa mà ấp ủ, mà yêu mến và sống chết cho lý tưởng ấy.
Bỏ người thân để đi theo Đấng đã gọi mình, cũng có nghĩa là hoàn toàn hiến dâng người thân của mình trong tay Đấng đã gọi mình.
Để nhấn mạnh trách nhiệm của người được tuyển chọn, Chúa Giêsu xác định ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên với các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”.
Như vậy, trong lời mời gọi, điều mà Chúa nhắm đến trước tiên không phải là vinh quang danh dự của bản thân các tông đồ, mà là trách nhiệm, là nghĩa vụ: Phải chài lưới người.
Các ngươi là những người cần thiết cho sự nghiệp của Ta, cho vương quốc của Ta. Bởi khi kiên trì trong việc thả lưới, giúp các ngươi kiên nhẫn đợi chờ trong việc chài lưới người về cùng Ta.
Sự hòa đồng vốn có của những người ngư phủ giúp các ngươi dễ chấp nhận nhau, dễ làm việc chung phục vụ cho công cuộc của Ta.
Sự can đảm trước sóng gió giúp các ngươi bình tỉnh trong những nghịch cảnh mà vì danh Ta, các ngươi có thể sẽ phải đối đầu.
Khả năng nhận biết khi nào và chỗ nào nên thả lưới, giúp các ngươi khám phá những vùng đất cần sự truyền giáo để sáng danh Ta.
Đàng khác, “Hãy theo Ta”, có nghĩa là hãy lên đường với Ta, hãy gắn bó cùng Ta, hãy chia sẻ thao thức của Ta, hãy mang lấy gánh mà Ta phải gánh, hãy sống như Ta, hãy yêu như Ta, hãy chết cho người mình yêu như Ta đã chấp nhận chết…
Để theo Ta, đúng hơn là, để giống như Ta, để nên một cùng Ta, đòi các ngươi phải chấp nhận trả giá.
Cái giá phải trả thật lớn lao, thật quang trọng đối với các ngươi. Bởi đó là những gì thân thuộc nhất, cần thiết nhất, ổn định nhất, cao quý nhất, căn bản nhất cho cuộc đời trần thế của các ngươi.
Từ nội dung bài Tin Mừng cho ta bài học quý giá, đó là: Muốn theo Chúa, muốn làm tông đồ, làm nhà truyền giáo của Chúa, phải chấp nhận trả giá, có khi đó là giá đắt.
Sự trả giá ấy, đòi hỏi người tông đồ phải từ bỏ, phải trở nên một con người không vướng bận một chút lo toan vật chất, của cải nào.
Đúng hơn, đi theo Chúa, chỉ cần người môn đệ mang theo trong tâm hồn một thứ hành trang duy nhất cần thiết, đó là lòng yêu mến và tin tưởng phó thác mà thôi, mọi của cải vật chất, mọi tiện nghi, mọi sự thuộc về trần thế… đều trở thành chướng ngại cho việc truyền giáo. Bởi công tác truyền giáo là công tác khó khăn. Chỉ có lòng yêu mền và tín thác vào Chúa, ta mới có thể vượt qua.
Các Tổ phụ đã chấp nhận trả giá. Các Thủ lãnh và các tiên tri thời Cựu Ước đã chấp nhận trả giá. Các tông đồ đã chấp nhận trả giá. Các bạn trẻ dự tu, họ là những thanh niên có học, có địa vị giữa đời, nhưng họ đã chấp nhận trả giá.
Hay trong bài nói chuyện với các bạn, tôi nói đến hàng hàng lớp lớp các linh mục trẻ tuổi có, lớn tuổi có, trên khắp đất nước này, vì danh Chúa Kitô, cũng đã chấp nhận trả giá.
Nhưng tôi còn nhìn thấy, không chỉ các linh mục, mà còn vô số anh chị em tín hữu, vô số các tu sĩ đã chấp nhận trả giá.
Chúng ta kính phục họ vì họ quyết một lòng tôn thờ Thiên Chúa. Chúng ta yêu mến họ vì họ không bao giờ nhường bước trước sóng gió vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta noi gương họ vì họ đã sống như Chúa Kitô đã sống.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một tâm hồn tông đồ, để chúng con biết hiến dâng cho Chúa tất cả nhiệt huyết, tất cả tình yêu, tất cả sự sống của chúng con để danh Chúa được cả sáng.
Chúng con tin rằng, như các môn đệ của Chúa khi xưa, và như biết bao nhiêu anh chị em của chúng con trên khắp đất nước này, nếu chúng con biết từ bỏ mọi sự theo Chúa, chấp nhận trả giá để Chúa được tôn vinh, Chúa cũng sẽ biến đổi chúng con thành “những kẻ chài lưới người ta”. Amen.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Có lần nói chuyện với các bạn trẻ dự tu vào Đại chủng viện, nhất là với những người chờ đợi khá lâu mà vẫn chỉ ở “trình độ” dự tu, tôi đã thật lòng chia sẻ vừa để an ủi, vừa để mời gọi các bạn vững lòng tin:
“Bất cứ cái gì anh em có được đều đòi anh em phải trả cho nó bằng một cái giá tương xứng. Từ cái kẹp tóc nhỏ xíu trên đầu đến đôi dép lót dưới bàn chân, nếu anh em muốn có nó, không phải tự dưng mà có.
Tất cả đều có giá. Chỉ là cái kẹp, đôi dép mà đã đòi phải trả giá thì huống hồ là lý tưởng tu trì. Dù so sánh của tôi có hơi tầm thường, nhưng chắc chắn đó là thực tế. Cái kẹp và đôi dép. Ai cũng thấy. Ai cũng biết.
Lý tưởng tu trì của anh em, còn hơn cả một đời sống tu trì nói chung, nó chính là lý tưởng linh mục.
Bởi lý tưởng linh mục mà anh em đang cất giữ trong tim, và mong mỏi đạt tới không phải chỉ là quan trọng mà thôi, không phải chỉ là lớn lao mà thôi, đó là thánh chức linh mục, là tham dự vào chính đời sống của Chúa Kitô, là chia sẻ chính Chúa Kitô, là nên một với Chúa Kitô trong nghĩa vụ tư tế của Người, Đấng mà tất cả chúng ta phải tôn thờ. To lắm! Cao cả lắm! Đẹp lắm! Tôi nhắc lại, đó là thánh chức chứ không đơn giản là chức vị, là chỗ đứng, là sự hào nhoáng (càng không bao giờ như cái kẹp, đôi dép).
Vì thế, đòi anh em phải trả giá, một cái giá không nhỏ chút nào. Đó là cái giá phải trả bằng cả một đời trung thành tận tụy, đặt hết niềm vui, nỗi buồn, đặt trọn cả cuộc sống để mua lấy và sở hữu.
Anh em phải hiểu rằng, cái giá phải trả không nhỏ, bởi thánh chức linh mục mà anh em sẽ mang lấy, không phải mang trong một sớm một chiều, nhưng là mang trọn một đời dâng hiến.
Mà vật gì phải trả giá, trả giá càng cao, thí càng quý. Như một số đàn anh chúng tôi, những người còn đang sống giữa chúng ta, chẳng hạn cha E., cha G., cha U… Cách đây nhiều năm, khi Chủng viện bị cấm hoạt động, họ đã trở thành những kẻ lang thang.
Người ta cuốc đất, họ không có đất, họ cuốc đất mướn. Người ta nuôi heo, họ không có tiền nuôi heo, họ làm nghề… thiếng heo. Người ta đạp xe ba bánh, họ không có xe, họ đạp xe ba bánh mướn…
Họ sống như một người tu. Nhưng họ làm tất cả để hóa thân thành người ở giữa đời. Và còn hơn một người ở giữa đời, họ chỉ nhắm một trọng tâm duy nhất: bảo vệ lý tưởng linh mục đến cùng, dù phải bảo vệ ngay trong hoàn cảnh chẳng còn gì để phải nhọc lòng bảo vệ, chẳng còn gì nhọc lòng chờ đợi.
Có người thất vọng giùm họ, nhiều anh em cán bộ quen biết cũng “tỏ tình thương”, khuyên họ về nhà… kiếm “bà xả” cho xong. Họ chỉ cười, một nụ cười đôn hậu. Một nụ cười mà chỉ có niềm tin tưởng vào Chúa, họ mới đủ hy vọng giữa hoàn cảnh không còn một chút hy vọng nào.
Trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như thế, họ thân ái trao tặng những người “thương” họ cả một vành trăng mới trên đôi môi cười của mình.
Dù khó nhọc đến đâu họ vẫn cười. Dù phải lướt qua bao nhiêu gập ghềng, chông chênh, họ vẫn cười. Dù chỉ còn thất vọng giữa lúc hy vọng về lý tưởng linh mục đến lúc tàn, họ vẫn cười. Một nụ cười hình vầng trăng khuyết trên vành môi. Đẹp kiêu sa!
Anh em thân mến, những đàn anh của chúng ta được Chúa Kitô mời gọi hãy từ bỏ để theo Chúa. Và họ đã từ bỏ.
Họ được Chúa Kitô mời gọi phó thác cho tình yêu của Chúa. Và họ đã phó thác.
Họ được Chúa Kitô mời gọi vác thập giá với Chúa. Và họ đã vác.
Họ được Chúa Kitô mời gọi bước vào cuộc tử nạn và chịu đóng đinh với Chúa. Và họ bước.
Họ đã đơn sơ, chân thành theo Chúa, vì Chúa mới chính là lý tưởng linh mục của đời họ.
Tất cả những hang hùm, sói dữ chỉ là những thử thách, những cái giá mà họ phải chấp nhận trả cho chính lý tưởng linh mục của họ.
Có Chúa, họ không sợ gì. Có Chúa, họ vượt trên miệng hùm, miệng sói.
Lý tưởng linh mục của họ thật quý giá. Bởi lý tưởng linh mục ấy, họ đã phải trả giá đắc…”.
Không chỉ hôm nay, mà từ ngàn xưa, để theo Chúa, con người cũng đã phải trả giá.
Tổ Phụ Abraham chấp nhận bỏ quê hương, bỏ mọi thứ yên ổn, giàu sang, gia đình, họ hàng… nơi quê hương để theo Chúa.
Hoàng hậu Ette chấp nhận liều mình đến trước vua để cứu dân của bà khỏi cái giá treo cổ.
Ông Samson đã chấp nhận liều thân, và đã hy sinh thân mình cùng chết với kẻ thù để giải thoát dân tộc.
Anh em nhà Macabê, đặc biệt Giuđa Macabê chấp nhận liều thân để bảo vệ đến cùng cho lề luật của Thiên Chúa, cũng chính là lề luật ngàn đời của cha ông để lại.
Đến thời các tiên tri, không một tiên tri nào không trả giá, có lúc trả giá đớn đau, thậm chí trả giá bằng chính mạng sống để theo Chúa, để hoàn thành sứ mạng Chúa trao…
Các tông đồ, một khi theo Chúa, cũng đã trả giá.
Lời Chúa hôm nay ngỏ với các tông đồ, cũng là lời ngỏ dành cho chúng ta. Lời ngỏ ấy xem ra là một lời hứa vinh quang, danh dự, một lời hứa ban sự thành công: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”. Nhưng tôi lại đọc thấy bên trong của lời ngỏ ấy là cả một chiều dài của sự trả giá.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết khởi đầu của sự trả giá ấy. Bằng lời ngỏ “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”, Chúa Giêsu tuyển chọn bốn tông đồ đầu tiên đi theo Chúa là: Simon Phêrô; Anrê; Giacôbê; Gioan.
Bốn tông đồ này là hai cặp anh em ruột: thánh Anrê là anh thánh Phêrô; thánh Giacôbê là anh thánh Gioan. Đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện đường lối cứu độ của Chúa và thiết lập Hội Thánh.
Thái độ của các môn đệ đầu tiên là thái độ đáng để chúng ta học tập: Sau khi nghe Chúa mời gọi, ngay lập tức, họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Thánh Mathêô ghi nhận: Lập tức các ông bỏ mọi sự mà ra đi theo tiếng gọi của Chúa. Thánh Mathêô thật tinh tế khi dùng hai từ “lập tức”: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người… Lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người”.
“Lập tức”, tự bản thân, từ ngữ này đã diễn tả đầy đủ sự mau lẹ, sự dứt khoát, sự từ bỏ không một chút luyến tiếc, và cả sự đam mê bước theo tiếng Chúa gọi nữa.
Cái giá ban đầu của sự theo Chúa, của ơn được tuyển chọn dứt khoát và mạnh mẽ là thế: “Bỏ!”:
- Bỏ chài lưới, bỏ thuyền: Không chỉ đơn thuần là bỏ một việc làm, mà còn là bỏ tất cả phương tiện để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình mình.
Không chỉ là bỏ một nghề nghiệp, mà còn là bỏ cả sự ổn định, bỏ cả một trật tự của đời sống đã quá quen thuộc của cá nhân mình, bỏ cả một sự nghiệp mà bản thân gắn bó với nó từ thời cha ông đến thời con cháu.
Bỏ như thế để đi theo Đấng đã gọi mình cũng có nghĩa là tín thác hoàn toàn trong tay Đấng đã mời gọi mình, gọi chính đời mình, gia đình mình, tương lai của mọi người mà mình có trách nhiệm.
- Bỏ cha: Không chỉ là từ giả người thân mà ra đi theo tiếng Chúa gọi, nhưng đó chính là từ bỏ cả tình ruột thịt, máu mủ.
Để cha lại trên thuyền mà theo Chúa là quyết tâm đặt Chúa lên trên cả lòng thảo hiếu, trên cả tình cảm cha con theo cách của trần thế, để từ nay nhìn nhận Chúa thực là Thầy, là Cha của mình.
Cất dấu tình cảm trần thế để bước theo tiếng gọi của trời cao, các môn đệ đầu tiên đã chọn cho mình lý tưởng thuộc về trời cao, thuộc về Thiên Chúa mà ấp ủ, mà yêu mến và sống chết cho lý tưởng ấy.
Bỏ người thân để đi theo Đấng đã gọi mình, cũng có nghĩa là hoàn toàn hiến dâng người thân của mình trong tay Đấng đã gọi mình.
Để nhấn mạnh trách nhiệm của người được tuyển chọn, Chúa Giêsu xác định ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên với các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người ta”.
Như vậy, trong lời mời gọi, điều mà Chúa nhắm đến trước tiên không phải là vinh quang danh dự của bản thân các tông đồ, mà là trách nhiệm, là nghĩa vụ: Phải chài lưới người.
Các ngươi là những người cần thiết cho sự nghiệp của Ta, cho vương quốc của Ta. Bởi khi kiên trì trong việc thả lưới, giúp các ngươi kiên nhẫn đợi chờ trong việc chài lưới người về cùng Ta.
Sự hòa đồng vốn có của những người ngư phủ giúp các ngươi dễ chấp nhận nhau, dễ làm việc chung phục vụ cho công cuộc của Ta.
Sự can đảm trước sóng gió giúp các ngươi bình tỉnh trong những nghịch cảnh mà vì danh Ta, các ngươi có thể sẽ phải đối đầu.
Khả năng nhận biết khi nào và chỗ nào nên thả lưới, giúp các ngươi khám phá những vùng đất cần sự truyền giáo để sáng danh Ta.
Đàng khác, “Hãy theo Ta”, có nghĩa là hãy lên đường với Ta, hãy gắn bó cùng Ta, hãy chia sẻ thao thức của Ta, hãy mang lấy gánh mà Ta phải gánh, hãy sống như Ta, hãy yêu như Ta, hãy chết cho người mình yêu như Ta đã chấp nhận chết…
Để theo Ta, đúng hơn là, để giống như Ta, để nên một cùng Ta, đòi các ngươi phải chấp nhận trả giá.
Cái giá phải trả thật lớn lao, thật quang trọng đối với các ngươi. Bởi đó là những gì thân thuộc nhất, cần thiết nhất, ổn định nhất, cao quý nhất, căn bản nhất cho cuộc đời trần thế của các ngươi.
Từ nội dung bài Tin Mừng cho ta bài học quý giá, đó là: Muốn theo Chúa, muốn làm tông đồ, làm nhà truyền giáo của Chúa, phải chấp nhận trả giá, có khi đó là giá đắt.
Sự trả giá ấy, đòi hỏi người tông đồ phải từ bỏ, phải trở nên một con người không vướng bận một chút lo toan vật chất, của cải nào.
Đúng hơn, đi theo Chúa, chỉ cần người môn đệ mang theo trong tâm hồn một thứ hành trang duy nhất cần thiết, đó là lòng yêu mến và tin tưởng phó thác mà thôi, mọi của cải vật chất, mọi tiện nghi, mọi sự thuộc về trần thế… đều trở thành chướng ngại cho việc truyền giáo. Bởi công tác truyền giáo là công tác khó khăn. Chỉ có lòng yêu mền và tín thác vào Chúa, ta mới có thể vượt qua.
Các Tổ phụ đã chấp nhận trả giá. Các Thủ lãnh và các tiên tri thời Cựu Ước đã chấp nhận trả giá. Các tông đồ đã chấp nhận trả giá. Các bạn trẻ dự tu, họ là những thanh niên có học, có địa vị giữa đời, nhưng họ đã chấp nhận trả giá.
Hay trong bài nói chuyện với các bạn, tôi nói đến hàng hàng lớp lớp các linh mục trẻ tuổi có, lớn tuổi có, trên khắp đất nước này, vì danh Chúa Kitô, cũng đã chấp nhận trả giá.
Nhưng tôi còn nhìn thấy, không chỉ các linh mục, mà còn vô số anh chị em tín hữu, vô số các tu sĩ đã chấp nhận trả giá.
Chúng ta kính phục họ vì họ quyết một lòng tôn thờ Thiên Chúa. Chúng ta yêu mến họ vì họ không bao giờ nhường bước trước sóng gió vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta noi gương họ vì họ đã sống như Chúa Kitô đã sống.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một tâm hồn tông đồ, để chúng con biết hiến dâng cho Chúa tất cả nhiệt huyết, tất cả tình yêu, tất cả sự sống của chúng con để danh Chúa được cả sáng.
Chúng con tin rằng, như các môn đệ của Chúa khi xưa, và như biết bao nhiêu anh chị em của chúng con trên khắp đất nước này, nếu chúng con biết từ bỏ mọi sự theo Chúa, chấp nhận trả giá để Chúa được tôn vinh, Chúa cũng sẽ biến đổi chúng con thành “những kẻ chài lưới người ta”. Amen.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thăm Hán Thành (Seoul)
Đặng Tự Do
03:27 23/01/2014
Sáng thứ Tư 22 tháng Giêng, báo chí tại Hán Thành đã đồng loạt chạy những tít lớn “Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ thăm Hán Thành”.
Sáng cùng ngày tại Rôma (chiều tối ngày thứ Tư tại Hán Thành), cha Federico Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã xác nhận tin này. Đức Thánh Cha Phanxicô theo dự trù sơ khởi sẽ đến Hàn Quốc trong khoảng từ ngày 10 đến 17 tháng Tám năm 2014 để tham dự Ngày Giới Trẻ Á Châu tại Daejeon.
Ngài sẽ là vị Giáo Hoàng thứ hai đến thăm đất nước này 20 năm sau khi Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt chân đến bán đảo Triều Tiên. Tháng Năm năm 1994, Đức Gioan Phaolô II đã đến Hán Thành để phong thánh cho 103 vị tử đạo người Hàn Quốc, sau đó đã đi thăm Papua New Guinea, Solomon Islands, và Thái Lan.
Cha Lombardi cũng cho biết thêm là Tòa Thánh cũng đã xem xét một chuyến đi của Đức Thánh Cha đến châu Á, cụ thể là đến Philippines và Sri Lanka, nhưng không phải trong năm nay.
Chính Đức Thánh Cha trong chuyến bay từ Rio De Janeiro trở về Rôma sau ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm ngoái đã bày tỏ ước muốn của ngài đến thăm các quốc gia Á Châu.
Cha Lombardi nói thêm là Đức Thánh Cha đã được mời thăm Sarajevo vào tháng Sáu để kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất bắt đầu và cũng được mời đến thăm Uganda nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy xuất hiện trên chương trình nghị sự của Đức Thánh Cha trong giai đoạn này.
Theo thống kê năm 2013, Nam Hàn có 48,955,000 dân trong đó người Công Giáo chiếm 7.6% dân số và liên tục gia tăng trong suốt hơn một thập niên qua.
Sáng cùng ngày tại Rôma (chiều tối ngày thứ Tư tại Hán Thành), cha Federico Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã xác nhận tin này. Đức Thánh Cha Phanxicô theo dự trù sơ khởi sẽ đến Hàn Quốc trong khoảng từ ngày 10 đến 17 tháng Tám năm 2014 để tham dự Ngày Giới Trẻ Á Châu tại Daejeon.
Ngài sẽ là vị Giáo Hoàng thứ hai đến thăm đất nước này 20 năm sau khi Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt chân đến bán đảo Triều Tiên. Tháng Năm năm 1994, Đức Gioan Phaolô II đã đến Hán Thành để phong thánh cho 103 vị tử đạo người Hàn Quốc, sau đó đã đi thăm Papua New Guinea, Solomon Islands, và Thái Lan.
Cha Lombardi cũng cho biết thêm là Tòa Thánh cũng đã xem xét một chuyến đi của Đức Thánh Cha đến châu Á, cụ thể là đến Philippines và Sri Lanka, nhưng không phải trong năm nay.
Chính Đức Thánh Cha trong chuyến bay từ Rio De Janeiro trở về Rôma sau ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm ngoái đã bày tỏ ước muốn của ngài đến thăm các quốc gia Á Châu.
Cha Lombardi nói thêm là Đức Thánh Cha đã được mời thăm Sarajevo vào tháng Sáu để kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất bắt đầu và cũng được mời đến thăm Uganda nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy xuất hiện trên chương trình nghị sự của Đức Thánh Cha trong giai đoạn này.
Theo thống kê năm 2013, Nam Hàn có 48,955,000 dân trong đó người Công Giáo chiếm 7.6% dân số và liên tục gia tăng trong suốt hơn một thập niên qua.
Tệ nạn nô lệ mới trên thế giới
Linh Tiến Khải
08:38 23/01/2014
Phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh
Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 11 năm 2013 hội nghị về tệ nạn nộ lệ mới đã diễn ra trong nội thành Vaticăng. Hội nghị do Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức với Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội bác sĩ Công Giáo.
Theo ước tính của Tổ chức Lao Động Quốc Tế trong các năm 2002-2010 trên thế giới đã có khoảng 21 triệu nạn nhân của nạn cưỡng bách lao động, trong đó cũng bao gồm cả nạn khai thác tình dục. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người là nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán tình dục, trong đó 60% là các thiếu nữ, trong khi nạn buôn cơ phận người chiếm 11%.
Buôn bán người là một sinh hoạt tội phạm bao gồm việc bắt, bắt cóc và tuyển lựa cũng như chuyên chở, chuyển rời, tiếp đón một hay nhiều người với các phương tiện bất hợp pháp, nhằm mục đích khai thác các nạn nhân.
Tệ nạn buôn bán nô lệ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Hàng bao ngàn năm trước công nguyên các Kim tự tháp bên Ai Cập đã do xương máu của các nô lệ xây lên. Trong mọi đế quốc thời xa xưa khắp nơi trên thế giới đều đã có hoạt động buôn bán nô lệ, nổi tiếng như dưới thời đế quốc Hy Lạp và Roma. Tại Roma hồi thế kỷ thứ I đã có 1 triệu nô lệ sinh sống, và rất nhiều đền đài dinh thự là do xương máu và mồ hội nước mắt của các nô lệ xây dựng, điển hình như Hý trường Colosseo do hoàng đế Tito khánh thành năm 80 sau công nguyên.
Vào thế kỷ XVI sau khi ông Cristoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, người dân các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp và Anh bắt đầu di cư sang Mỹ châu lập nghiệp. Nhu cầu trồng cây trong các đồn điền bông ngày càng cần nhiều nhân công. Số nhân công thuộc các chủng tộc địa phương không đủ nữa nên bắt đầu nảy sinh ra phong trào nhập cảng nhân công từ các nước khác, đặc biệt là người nô lệ thuộc các nước mạn tây phi châu. Hàng chục triệu người Mỹ da đen ngày nay là con cháu những người nô lệ Phi châu bị bán sang Mỹ trong các thế kỷ XVI-XVIII. Người ta ước đoán có đến hàng chục triệu người bị bắt và bán làm nô lệ như thế. Không thể tả hết được các ngược đãi và khổ đau mà người nô lệ phải gánh chịu trong cuộc sống, từ khi bị bắt, bị xiềng xích mang xuống tầu, rồi bán cho các đại điền chủ da trắng khi đến Mỹ châu.
Năm 1770 sau một loạt các canh tân trên thế giới tại Pháp, Đan Mạch và Anh quốc người ta thấy nảy sinh ra các phong trào bài trừ nô lệ, đòi thay đổi các luật hình sự, bỏ luật treo cổ và thay đổi cách đối xử với các người bị bệnh tâm thần. Các nhà trí thức như Voltaire, Wesley và Rousseau đã góp phần đáng kể vào kiểu suy tư mới này. Vào thế kỷ XIX nhiều nước đã thành công trong việc giành độc lập bên Mỹ quyết định bỏ chế độ nô lệ. Chẳng hạn như Brasil năm 1822, Bolivia năm 1825, Anh quốc năm 1833, Pháp năm 1848 và sau cùng Hoa Kỳ năm 1865. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ luật năm 1910 vẫn cấm hôn nhân giữa những người khác chủng tộc, và có các biện pháp trục xuất các phụ nữ có các hành động vô luân. Vì thế 70% các phụ nữ bị bắt khi vượt biên giới bị rơi vào bẫy của hoạt động mại dâm.
Bắt đầu từ thập niên 1920 trở đi tại Hoa Kỳ việc buôn người không được coi như lá một vấn đề xã hội, ít ra cho tới năm 1990.
Chỉ với việc công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 nạn nô lệ cũng như việc buôn người mới bị bãi bỏ trên toàn thế giới. Nhưng đó đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế nạn nô lệ và buôn người vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều khi rất tinh vi và cũng không nhất thiết bắt buộc các nạn nhân phải vượt biên ra nước ngoài. Đó là trường hợp nộ lệ của nạn cho vay nặng lãi; nạn lao động đen hằng năm đem lại số tiền lời khổng lồ 31 tỷ mỹ kim. Bên cạnh đó có hàng triệu nạn nhân nô lệ của kỹ nghệ tình dục, nạn trẻ em lao động liên lụy tới 245 triệu trẻ em vị thành niên phải làm việc lam lũ mỗi ngày. Ngoài ra, còn có nạn buôn bán trẻ em vị thành niên. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2003 có tới 1,3 triệu trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục. Thêm vào đó nạn buôn người còn ẩn nấp cả đàng sau phong trào quốc tế nhận con nuôi nữa. Số tiền buôn bán người năm 2004 lên tới 9 tỷ mỹ kim, và đạt kỷ lục năm 2005 với 31,6 tỷ mỹ kim.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội về hội nghị này.
Hỏi: Thưa Đức Cha, lý do nào đã khiến cho Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức hội nghị này với Liên đoàn quốc tế các Hiệp Hội bác sĩ Công Giáo?
Đáp: Nguồn gốc của hội nghị này là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã biết đến các vấn đề này. Ngay khi vừa mới được bầu làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha đã tiếp kiến các nhân viên của Hàn Làm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh. Trong thư gửi cám ơn ngài các cố vấn của Hàn Lâm Viện đã hỏi Đức Thánh Cha xem ngài có muốn chúng tôi làm một điều gì đặc biệt không. Đức Thánh Cha đã trả lời ngay lập tức với cùng bì thư ấy như sau: ”Marcelo, tôi muốn người ta nghiên cứu vấn đề các hình thức nô lệ mới và nạn buôn bán người, bao gồm cả việc buôn bán cơ phận người nữa”. Và như thế Hàn Lâm Viện đã bắt đầu làm việc. Nhưng chúng tôi đã thấy cần phải lôi cuốn cả các bác sĩ vào việc nghiên cứu này, và chúng tôi đã mời các bác sĩ Công Giáo, bởi vì bác sĩ José María Simón de Castelví, chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội bác sĩ Công Giáo đã muốn cộng tác, thế rồi cả Hàn Lâm viện Khoa học nữa, vì các giải pháp có thể có tính cách khoa học. Và thế là đã nảy sinh ra sáng kiến tổ chức hội nghị nói trên.
Hỏi: Thế hiện tượng buôn bán người hay nạn nô lệ tân thời đã được phân tích đưới các khía cạnh nào, thưa Đức Cha?
Đáp: Nó đã được phân tích đưới mọi khía cạnh. Điều mà chúng tôi muốn đó là tìm hiểu tầm rộng lớn của hiện tượng này, mà người ta đã từng biết tới một chút, nhưng chúng tôi muốn có các dữ kiện chính xác hơn. Chúng tôi cũng muốn đạt được môt ý tưởng chung cho Giáo Hội và cho các các Hội Đồng Giám Mục. Có các Hội Đồng Giám Mục, chẳng hạn như Hội Đồng Giám Muc Anh quốc và Hội Đồng Giám Mục Guatemala đã soạn thảo vài tài liệu liên quan tới vấn đề này, nhưng tôi tin rằng Giáo Hội, trong tổng thể của mình, vẫn chưa ý thức đủ về vấn đề này. Thế rồi chúng tôi cũng muốn tìm ra các hướng đi cụ thể. Chúng tôi đã hỏi tất cả các tham dự viên, các quan sát viên cũng như các tường trình viên gửi cho chúng tôi các đề nghị cụ thể và giờ đây chúng tôi đang lượng định các đề nghị đó. Có một đề nghị rất hay của một bác sĩ gợi ý là giữ lại yếu tố di truyền DNA của các trẻ em bị mất tích, và của cha mẹ các em đã tố cáo rằng các em mất tích rồi đối chiếu chúng với nhau. Thật ra điều đầu tiên mà những người bắt cóc các em làm là xóa các dấu tay của các em.
Hỏi: Chúng ta biết là trong nguồn gốc của tệ nạn buôn bán người có nạn nghèo túng cùng cực, chiến tranh, các cuộc xung khắc trong nước vv... Và có một phần của thế giới khai thác các tình trạng này, có đúng thế không thưa Đức Cha?
Đáp: Vâng đúng thế, và chúng tôi sẽ nói lên điều này. Bắt đầu từ các nước có luật lệ chơi hai chiều: một đàng thì tổ chức họp nói tới sự sống con người, đàng khác thì cũng chính các cơ cấu và tổ chức của họ không muốn nhìn vấn đề này, hay tệ hơn họ còn tạo thuận tiện cho nạn buôn bán người nữa. Chẳng hạn chúng ta lấy thí dụ như những gì đã xảy ra tại Bosnia liên lụy tới một vài người Mỹ, và không phải chỉ có người Mỹ, trong nạn buôn bán nữ nô lệ. Việc này đã bị một phụ nữ Mỹ tố cáo và sau đó bà này bị mất việc làm. Chính vì thế, chúng tôi thấy thật là thích hợp lôi cuốn các bác sĩ nhập cuộc nghiên cứu, bởi vì cả họ cũng bị liên lụy, các cơ cấu đáng lý ra phải bênh vực con người lại bị liên lụy nhiều nhất trong các tệ nạn này.
Như vậy một đàng chúng ta đang đứng trước một tình hình thê thảm, và người ta không muốn nói đến vấn đề này, không muốn xem xét chuyện gì xảy ra; đàng khác người ta lại chơi trò nước đôi. Thế rồi, còn có các nước thừa nhận mại dâm như là một công việc: các nước này cũng tạo ra thị trường buôn người.
Thí dụ bên Cộng hòa liên bang Đức vấn đề này thật là kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có Đức, mà tại nhiều nước Bắc âu cũng thế. Như vậy, một đàng Nhà nước nói rằng cần phải can thiệp, trong khi đàng khác thì Nhà nước lại kiếm lợi nhuận từ tệ nạn buôn người này. Ngay từ khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực giác được vấn đề xã hội nghiêm trọng đụng tới linh hồn của thế giới xã hội, đụng tới các Khoa học xã hội. Chúng tôi đã ngạc nhiên vì đã không hiểu nó trước.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội sẽ làm gì với các tài liệu và kết qủa của hội nghị về nạn nô lệ mới này?
Đáp: Chúng tôi muốn triệu tập hội nghị lần thứ nhất và sẽ triệu tập nhiều hội nghị khác nữa để nghiên cứu vấn đề này. Nhưng đây đã là bước đầu tiên đáp ứng các nguyện vọng của Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ làm công việc này tốt chừng nào có thể. Chúng tôi không yêu sách là đã tìm ra giải pháp cho vấn đề, nhưng ít nhất nó là một bước tiến tới. Chúng tôi đã hỏi Tòa Thánh, là tại sao lại chưa ủng hộ biên bản của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, hủy bỏ và truy nã nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và các trẻ em, nhưng chúng tôi chưa nhận được câu trả lời. Điều này có nghĩa là chưa có một chính sách chung trong việc phòng chống và bài trừ tệ nạn buôn người. Chắc chắn là Đức Thánh Cha muốn cho tất cả các điều này được rõ ràng. Cần phải ca ngợi Đức Thánh Cha, vì với sự nhạy cảm của người Đức Thánh Cha đã đưa chúng tôi, là các nhân viên của Hàn Lâm Viện thường thảo luận các vấn đề trừu tượng, vào con đường cụ thể của thực tại toàn cầu có các khía cạnh kinh khủng, trong đó có sự thờ ơ như Đức Thánh Cha đã nói, khi viếng thăm các người tị nạn tại đảo Lampedusa nam Italia.
Con người bị bán đi nhưng không ai thèm ngó ngàng gì đến bản vị con người. Điều duy nhất mà người ta chú ý là tiền. Còn tệ hơn nữa, người ta dùng con người để làm tiền, như người ta đã làm đối với các người nô lệ xưa kia, bị bắt và bị bán như đồ vật. Và trong một nghĩa nào đó tệ nạn này ngày nay còn tệ hại hơn xưa kia rất nhiều! Xét vì mức độ văn minh mà xã hội loài người đã đạt được hiện nay. Nhất là nếu chúng ta duyệt xét vấn đề nô lệ tình dục, trong đó các bé trai bé gái là nạn nhân. Đây là một trong các điều thê thảm nhất của thế giới toàn cầu, cùng với nạn di cư, mà các hậu qủa chúng ta đã trông thấy tại đảo Lampedusa rồi. (RG 1-11-2013)
Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 11 năm 2013 hội nghị về tệ nạn nộ lệ mới đã diễn ra trong nội thành Vaticăng. Hội nghị do Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức với Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội bác sĩ Công Giáo.
Theo ước tính của Tổ chức Lao Động Quốc Tế trong các năm 2002-2010 trên thế giới đã có khoảng 21 triệu nạn nhân của nạn cưỡng bách lao động, trong đó cũng bao gồm cả nạn khai thác tình dục. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người là nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán tình dục, trong đó 60% là các thiếu nữ, trong khi nạn buôn cơ phận người chiếm 11%.
Buôn bán người là một sinh hoạt tội phạm bao gồm việc bắt, bắt cóc và tuyển lựa cũng như chuyên chở, chuyển rời, tiếp đón một hay nhiều người với các phương tiện bất hợp pháp, nhằm mục đích khai thác các nạn nhân.
Tệ nạn buôn bán nô lệ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Hàng bao ngàn năm trước công nguyên các Kim tự tháp bên Ai Cập đã do xương máu của các nô lệ xây lên. Trong mọi đế quốc thời xa xưa khắp nơi trên thế giới đều đã có hoạt động buôn bán nô lệ, nổi tiếng như dưới thời đế quốc Hy Lạp và Roma. Tại Roma hồi thế kỷ thứ I đã có 1 triệu nô lệ sinh sống, và rất nhiều đền đài dinh thự là do xương máu và mồ hội nước mắt của các nô lệ xây dựng, điển hình như Hý trường Colosseo do hoàng đế Tito khánh thành năm 80 sau công nguyên.
Vào thế kỷ XVI sau khi ông Cristoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, người dân các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp và Anh bắt đầu di cư sang Mỹ châu lập nghiệp. Nhu cầu trồng cây trong các đồn điền bông ngày càng cần nhiều nhân công. Số nhân công thuộc các chủng tộc địa phương không đủ nữa nên bắt đầu nảy sinh ra phong trào nhập cảng nhân công từ các nước khác, đặc biệt là người nô lệ thuộc các nước mạn tây phi châu. Hàng chục triệu người Mỹ da đen ngày nay là con cháu những người nô lệ Phi châu bị bán sang Mỹ trong các thế kỷ XVI-XVIII. Người ta ước đoán có đến hàng chục triệu người bị bắt và bán làm nô lệ như thế. Không thể tả hết được các ngược đãi và khổ đau mà người nô lệ phải gánh chịu trong cuộc sống, từ khi bị bắt, bị xiềng xích mang xuống tầu, rồi bán cho các đại điền chủ da trắng khi đến Mỹ châu.
Năm 1770 sau một loạt các canh tân trên thế giới tại Pháp, Đan Mạch và Anh quốc người ta thấy nảy sinh ra các phong trào bài trừ nô lệ, đòi thay đổi các luật hình sự, bỏ luật treo cổ và thay đổi cách đối xử với các người bị bệnh tâm thần. Các nhà trí thức như Voltaire, Wesley và Rousseau đã góp phần đáng kể vào kiểu suy tư mới này. Vào thế kỷ XIX nhiều nước đã thành công trong việc giành độc lập bên Mỹ quyết định bỏ chế độ nô lệ. Chẳng hạn như Brasil năm 1822, Bolivia năm 1825, Anh quốc năm 1833, Pháp năm 1848 và sau cùng Hoa Kỳ năm 1865. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ luật năm 1910 vẫn cấm hôn nhân giữa những người khác chủng tộc, và có các biện pháp trục xuất các phụ nữ có các hành động vô luân. Vì thế 70% các phụ nữ bị bắt khi vượt biên giới bị rơi vào bẫy của hoạt động mại dâm.
Bắt đầu từ thập niên 1920 trở đi tại Hoa Kỳ việc buôn người không được coi như lá một vấn đề xã hội, ít ra cho tới năm 1990.
Chỉ với việc công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 nạn nô lệ cũng như việc buôn người mới bị bãi bỏ trên toàn thế giới. Nhưng đó đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế nạn nô lệ và buôn người vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều khi rất tinh vi và cũng không nhất thiết bắt buộc các nạn nhân phải vượt biên ra nước ngoài. Đó là trường hợp nộ lệ của nạn cho vay nặng lãi; nạn lao động đen hằng năm đem lại số tiền lời khổng lồ 31 tỷ mỹ kim. Bên cạnh đó có hàng triệu nạn nhân nô lệ của kỹ nghệ tình dục, nạn trẻ em lao động liên lụy tới 245 triệu trẻ em vị thành niên phải làm việc lam lũ mỗi ngày. Ngoài ra, còn có nạn buôn bán trẻ em vị thành niên. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2003 có tới 1,3 triệu trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục. Thêm vào đó nạn buôn người còn ẩn nấp cả đàng sau phong trào quốc tế nhận con nuôi nữa. Số tiền buôn bán người năm 2004 lên tới 9 tỷ mỹ kim, và đạt kỷ lục năm 2005 với 31,6 tỷ mỹ kim.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội về hội nghị này.
Hỏi: Thưa Đức Cha, lý do nào đã khiến cho Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức hội nghị này với Liên đoàn quốc tế các Hiệp Hội bác sĩ Công Giáo?
Đáp: Nguồn gốc của hội nghị này là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã biết đến các vấn đề này. Ngay khi vừa mới được bầu làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha đã tiếp kiến các nhân viên của Hàn Làm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh. Trong thư gửi cám ơn ngài các cố vấn của Hàn Lâm Viện đã hỏi Đức Thánh Cha xem ngài có muốn chúng tôi làm một điều gì đặc biệt không. Đức Thánh Cha đã trả lời ngay lập tức với cùng bì thư ấy như sau: ”Marcelo, tôi muốn người ta nghiên cứu vấn đề các hình thức nô lệ mới và nạn buôn bán người, bao gồm cả việc buôn bán cơ phận người nữa”. Và như thế Hàn Lâm Viện đã bắt đầu làm việc. Nhưng chúng tôi đã thấy cần phải lôi cuốn cả các bác sĩ vào việc nghiên cứu này, và chúng tôi đã mời các bác sĩ Công Giáo, bởi vì bác sĩ José María Simón de Castelví, chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội bác sĩ Công Giáo đã muốn cộng tác, thế rồi cả Hàn Lâm viện Khoa học nữa, vì các giải pháp có thể có tính cách khoa học. Và thế là đã nảy sinh ra sáng kiến tổ chức hội nghị nói trên.
Hỏi: Thế hiện tượng buôn bán người hay nạn nô lệ tân thời đã được phân tích đưới các khía cạnh nào, thưa Đức Cha?
Đáp: Nó đã được phân tích đưới mọi khía cạnh. Điều mà chúng tôi muốn đó là tìm hiểu tầm rộng lớn của hiện tượng này, mà người ta đã từng biết tới một chút, nhưng chúng tôi muốn có các dữ kiện chính xác hơn. Chúng tôi cũng muốn đạt được môt ý tưởng chung cho Giáo Hội và cho các các Hội Đồng Giám Mục. Có các Hội Đồng Giám Mục, chẳng hạn như Hội Đồng Giám Muc Anh quốc và Hội Đồng Giám Mục Guatemala đã soạn thảo vài tài liệu liên quan tới vấn đề này, nhưng tôi tin rằng Giáo Hội, trong tổng thể của mình, vẫn chưa ý thức đủ về vấn đề này. Thế rồi chúng tôi cũng muốn tìm ra các hướng đi cụ thể. Chúng tôi đã hỏi tất cả các tham dự viên, các quan sát viên cũng như các tường trình viên gửi cho chúng tôi các đề nghị cụ thể và giờ đây chúng tôi đang lượng định các đề nghị đó. Có một đề nghị rất hay của một bác sĩ gợi ý là giữ lại yếu tố di truyền DNA của các trẻ em bị mất tích, và của cha mẹ các em đã tố cáo rằng các em mất tích rồi đối chiếu chúng với nhau. Thật ra điều đầu tiên mà những người bắt cóc các em làm là xóa các dấu tay của các em.
Hỏi: Chúng ta biết là trong nguồn gốc của tệ nạn buôn bán người có nạn nghèo túng cùng cực, chiến tranh, các cuộc xung khắc trong nước vv... Và có một phần của thế giới khai thác các tình trạng này, có đúng thế không thưa Đức Cha?
Đáp: Vâng đúng thế, và chúng tôi sẽ nói lên điều này. Bắt đầu từ các nước có luật lệ chơi hai chiều: một đàng thì tổ chức họp nói tới sự sống con người, đàng khác thì cũng chính các cơ cấu và tổ chức của họ không muốn nhìn vấn đề này, hay tệ hơn họ còn tạo thuận tiện cho nạn buôn bán người nữa. Chẳng hạn chúng ta lấy thí dụ như những gì đã xảy ra tại Bosnia liên lụy tới một vài người Mỹ, và không phải chỉ có người Mỹ, trong nạn buôn bán nữ nô lệ. Việc này đã bị một phụ nữ Mỹ tố cáo và sau đó bà này bị mất việc làm. Chính vì thế, chúng tôi thấy thật là thích hợp lôi cuốn các bác sĩ nhập cuộc nghiên cứu, bởi vì cả họ cũng bị liên lụy, các cơ cấu đáng lý ra phải bênh vực con người lại bị liên lụy nhiều nhất trong các tệ nạn này.
Như vậy một đàng chúng ta đang đứng trước một tình hình thê thảm, và người ta không muốn nói đến vấn đề này, không muốn xem xét chuyện gì xảy ra; đàng khác người ta lại chơi trò nước đôi. Thế rồi, còn có các nước thừa nhận mại dâm như là một công việc: các nước này cũng tạo ra thị trường buôn người.
Thí dụ bên Cộng hòa liên bang Đức vấn đề này thật là kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có Đức, mà tại nhiều nước Bắc âu cũng thế. Như vậy, một đàng Nhà nước nói rằng cần phải can thiệp, trong khi đàng khác thì Nhà nước lại kiếm lợi nhuận từ tệ nạn buôn người này. Ngay từ khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực giác được vấn đề xã hội nghiêm trọng đụng tới linh hồn của thế giới xã hội, đụng tới các Khoa học xã hội. Chúng tôi đã ngạc nhiên vì đã không hiểu nó trước.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội sẽ làm gì với các tài liệu và kết qủa của hội nghị về nạn nô lệ mới này?
Đáp: Chúng tôi muốn triệu tập hội nghị lần thứ nhất và sẽ triệu tập nhiều hội nghị khác nữa để nghiên cứu vấn đề này. Nhưng đây đã là bước đầu tiên đáp ứng các nguyện vọng của Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ làm công việc này tốt chừng nào có thể. Chúng tôi không yêu sách là đã tìm ra giải pháp cho vấn đề, nhưng ít nhất nó là một bước tiến tới. Chúng tôi đã hỏi Tòa Thánh, là tại sao lại chưa ủng hộ biên bản của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, hủy bỏ và truy nã nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và các trẻ em, nhưng chúng tôi chưa nhận được câu trả lời. Điều này có nghĩa là chưa có một chính sách chung trong việc phòng chống và bài trừ tệ nạn buôn người. Chắc chắn là Đức Thánh Cha muốn cho tất cả các điều này được rõ ràng. Cần phải ca ngợi Đức Thánh Cha, vì với sự nhạy cảm của người Đức Thánh Cha đã đưa chúng tôi, là các nhân viên của Hàn Lâm Viện thường thảo luận các vấn đề trừu tượng, vào con đường cụ thể của thực tại toàn cầu có các khía cạnh kinh khủng, trong đó có sự thờ ơ như Đức Thánh Cha đã nói, khi viếng thăm các người tị nạn tại đảo Lampedusa nam Italia.
Con người bị bán đi nhưng không ai thèm ngó ngàng gì đến bản vị con người. Điều duy nhất mà người ta chú ý là tiền. Còn tệ hơn nữa, người ta dùng con người để làm tiền, như người ta đã làm đối với các người nô lệ xưa kia, bị bắt và bị bán như đồ vật. Và trong một nghĩa nào đó tệ nạn này ngày nay còn tệ hại hơn xưa kia rất nhiều! Xét vì mức độ văn minh mà xã hội loài người đã đạt được hiện nay. Nhất là nếu chúng ta duyệt xét vấn đề nô lệ tình dục, trong đó các bé trai bé gái là nạn nhân. Đây là một trong các điều thê thảm nhất của thế giới toàn cầu, cùng với nạn di cư, mà các hậu qủa chúng ta đã trông thấy tại đảo Lampedusa rồi. (RG 1-11-2013)
Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội lần thứ 48
+DTC Phanxicô
08:40 23/01/2014
Trong sứ điệp, ĐTC đề cao tiềm năng của các phương tiện truyền thông xã hội ngày nay làm cho con người ngày càng trở nên gần gũi nhau hơn. Tuy cảnh giác về những khía cạnh tiêu cực mà các mạng truyền thông và xã hội có thể gây ra, nhưng ĐTC nhiệt liệt cổ võ các tín hữu dấn thân trong lãnh vực truyền thông, để làm chứng cho Chúa Kitô và ơn cứu độ của Chúa. Trong lãnh vực truyền thông ngày nay, các tín hữu Kitô cũng được mời gọi có những tâm tình và hành động như người Samaritano trong dụ ngôn Phúc Âm.
Sau đây là toàn văn Sứ điệp của ĐTC:
Anh chị em thân mến,
Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.
Trong thế giới này, các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần gũi nhau hơn; làm cho chúng ta cảm thấy rõ ràng hơn mình thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất, thúc đẩy chúng ta liên đới và nghiêm túc dấn thân cho một cuộc sống xứng đáng hơn. Việc truyền thông tốt đẹp giúp chúng ta gần nhau hơn và biết nhau rõ hơn, liên kết với nhau hơn. Những bức tường chia cách chúng ta chỉ có thể bị vượt qua nếu chúng ta sẵn sàng lắng nghe nhau và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta cần giải quyết những dị biệt qua những hình thức đối thoại, giúp chúng ta tăng trưởng trong sự cảm thông và tôn trọng nhau. Nền văn hóa gặp gỡ đòi chúng ta phải sẵn sàng không những cho đi, nhưng còn tiếp nhận từ tha nhân. Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta trong lãnh vực này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng truyền thông giữa con người có những tiến bộ chưa từng thấy. Đặc biệt là Internet có thể cống hiến nhiều cơ hội gặp gỡ hơn và liên đới giữa tất cả mọi người, và đây là điều tốt lành, là một hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng cũng có những khía cạnh gây vấn đề: vận tốc thông tin mau lẹ vượt quá khả năng suy tư và phán đoán của chúng ta, và không giúp thực hiện một sự diễn tả chính mình một cách có suy xét và đúng đắn. Những ý kiến khác nhau được bày tỏ có thể được cảm nhận như một sự phong phú, nhưng cũng có thể làm ta khép kín mình trong một lãnh vực thông tin chỉ đáp ứng những mong đợi và ý tưởng của chúng ta, hoặc đáp ứng những lợi lộc chính trị và kinh tế nào đó của chúng ta mà thôi. Môi trường truyền thông có thể giúp chúng ta tăng trưởng, hoặc trái lại, nó làm cho chúng ta hoang mang mất định hương. Ước muốn nối kết qua kỹ thuật số (digitale) có thể rốt cuộc làm cho chúng ta bị cô lập với người thân cận, những người ở gần chúng ta nhất. Không quên nói đến những người, vì những lý do khác nhau, không vào các mạng xã hội, và họ có nguy cơ bị gạt ra ngoài.
Những giới hạn ấy là những điều có thực, nhưng chúng không biện minh cho sự phủ nhận các mạng xã hội; đúng hơn, chúng nhắc nhở chúng ta rằng truyền thông, xét cho cùng, là một sự chinh phục về mặt nhân sự hơn là kỹ năng. Vậy, đâu là điều giúp chúng ta, trong lãnh vực kỹ thuật số, được tăng trưởng về tình người và cảm thông lẫn nhau? Ví dụ, chúng ta phải phục hồi ý nghĩa sự chậm rãi và bình tĩnh. Điều này đòi thời gian và khả năng giữ im lặng để lắng nghe. Chúng ta cũng cần phải kiên nhẫn nếu chúng ta muốn hiểu người khác biệt với chúng ta: con người bộc lộ hoàn toàn không phải khi họ chỉ được dung thứ, nhưng khi họ biết mình được thực sự được đón nhận. Nếu chúng ta thực sự muốn lắng nghe người khác, thì chúng ta sẽ học cách nhìn thế giới với đôi mắt khác và quí chuộng kinh nghiệm của con người như nó được biểu lộ trong các nền văn hóa và truyền thống khác nhau. Nhưng chúng ta cũng biết quí chuộng hơn những giá trị lớn, lấy hứng từ Kitô giáo, ví dụ nhân sinh quan coi con người như nhân vị, hôn nhân và gia đình, sự phân biệt giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực chính trị, các nguyên tắc liên đới và phụ đới (sussidiarietà), và nhiều điều khác.
Như vậy làm thế nào để truyền thông có thể phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích thực? Và đối với chúng ta là môn đệ của Chúa, gặp gỡ một người theo tinh thần Tin Mừng có nghĩa là gì? Làm thế nào để chúng ta có thể thực sự là những người láng giềng của nhau mặc dù chúng ta có những giới hạn và tội lỗi? Những câu hỏi này có thể tóm gọn trong câu hỏi mà một hôm, một thầy thông luật, tức là một người truyền thông, hỏi Chúa Giêsu: ”Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi này giúp chúng ta hiểu truyền thông theo nghĩa sự gần gũi, thân cận. Chúng ta có thể dịch câu hỏi đó như thế này: làm thế nào biểu lộ ”sự thân cận” khi dùng các phương tiện truyền thông xã hội và trong môi trường mới do các kỹ thuật số tạo nên? Tôi thấy có một câu trả lời trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành, và đó cũng là một dụ ngôn về người truyền thông. Thực vậy, ai truyền thông thì trở nên người thân cận. Và người Samaritano nhân lành không những trở thành người thân cận, nhưng còn vác người mà ông thấy nằm giở sống giở chết bên vệ đường. Chúa Giêsu đã đảo lộn viễn tượng: vấn đề ở đây không phải là nhìn nhận người khác như một người đồng loại của tôi, nhưng là khả của tôi trở nên giống người khác. Vì thế, truyền thông có nghĩa là ý thức là con người, là con cái Thiên Chúa. Tôi thích định nghĩa khả năng truyền thông như ”sự thân cận”.
Khi truyền thông có mục đích chủ yếu là khuyến dụ người ta tiêu thụ hoặc lèo lái con người, thì chúng ta đứng trước một sự gây hấn mạnh mẽ, như sự tấn công người bị cướp đánh và bỏ mặc bên đường, như chúng ta đọc thấy trong dụ ngôn. Thầy Lêvi và vị Tư tế không coi người bị thương ấy là tha nhân của mình, nhưng như một người xa lạ, tốt hơn nên tránh xa. Thời ấy, họ chịu ảnh hưởng của những qui luật về sự thanh tịnh tế tự. Ngày nay chúng ta cũng gặp nguy cơ một số phương tiện truyền thông ảnh hưởng trên chúng ta đến độ làm cho chúng ta cố tình không biệt người thân cận thực sự của chúng ta.
Không phải chỉ cần đi dọc những con đường kỹ thuật số, nghĩa là không phải chỉ nối vào mạng là đủ: còn cần làm sao để sự nối nạng ấy có kèm theo một cuộc gặp gỡ đích thực. Chúng ta không thể sống một mình, khép kín, co cụm vào mình. Chúng ta cần yêu và được yêu. Chúng ta cần sự dịu dàng, sự tốt lành và sự thật trong truyền thông. Cả thế giới của các phương tiện truyền thông cũng không thể trở nên xa lạ với sự chăm sóc nhân loại và nó được mời gọi biểu lộ sự dịu dàng. Mạng kỹ thuật số có thể là nơi đầy tình người, không phải là một hệ thống các đường giây điện, nhưng là hệ thống con người. Sự trung lập của các phương tiện truyền thông chỉ có vẻ bề ngoài thôi: chỉ ai truyền thông với tất cả con người của mình thì mới có thể thành một điểm tham chiếu. Sự can dự bằng chính con ngừơi của mình trong việc truyền thông chính là cội rễ làm cho người truyền thông đáng tín nhiệm. Chính vì thế, chứng tá Kitô có thể đạt tới các vùng ngoại biên của cuộc sống nhờ các mạng.
Tôi thường lập lại điều này: chắc hắn là tôi thà muốn một Giáo Hội đi ra đường mà gặp tai nạn, hơn là một Giáo Hội bị thứ bệnh tự tham chiếu chính mình. Và những con đường ở đây chính là những nẻo đường của thế giới nơi người dân sống, nơi chúng ta thực sự có thể tìm tới họ, qua hành động và qua lòng quí mến. Trong số những con đường ấy, cũng có cả những con đường kỹ thuật số, những con đường đầy chật người bị thương: những người nam nữ đang tìm ơn cứu độ hoặc một niềm hy vọng. Sứ điệp Kitô cũng có thể nhờ mạng mà đi tới ”tận bờ cõi cái đất” (Cv 1,8). Mở rộng những cánh cửa nhà thờ cũng có nghĩa là mở những cửa ấy trong môi trường kỹ thuật số, hoặc để cho dân chúng đi vào, dù họ ở trong hoàn cảnh sống thế nào đi nữa, hoặc để cho Tin Mừng có thể vượt qua những ngưỡng cửa đền thờ và ra đi gặp gỡ mọi người. Chúng ta được mời gọi làm chứng về một Giáo Hội là nhà của tất cả mọi người. Chúng ta có khả năng thông truyền khuôn mặt của một Giáo Hội như thế hay không? Truyền thông góp phần mang lại một hình thái cho ơn gọi thừa sai của toàn thể Giáo Hội và những mạng xã hội ngày nay là một trong những nơi để sống ơn gọi tái khám phá vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Cả trong bối cảnh truyền thông, cũng cần có một Giáo Hội biết mang lại hơi ấm, và làm cho con tim được nồng cháy.
Chúng ta không làm chứng tá Kitô bằng cách phổ biến ồ ạt các sứ điệp tôn giáo, nhưng bằng ý chí hiến thân cho tha nhân, ”qua thái độ sẵn sàng kiên nhẫn dấn thân và tôn trọng vào trong những vấn nạn và nghi ngờ của con người, trong hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống con người” (Biển Đức 16, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47, 2013). Chúng ta hãy nghĩ đến giai thoại hai môn đệ trên đường làng Emmaus. Cần biết tham gia vào cuộc đối thoại với những người nam nữ ngày nay, để hiểu những mong đợi, nghi ngờ, hy vọng của họ và trao tặng họ Tin Mừng, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm người, chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Thách đố này đòi phải có chiều sâu, chú ý đến cuộc sống, có sự nhạy cảm tinh thần. Đối thoại có nghĩa là xác tín rằng tha nhân có một điều gì tốt lành để nói, dành khoảng trống cho quan điểm của họ, cho những đề nghị của họ. Đối thoại không có nghĩa là từ bỏ những ý tưởng và truyền thống của mình, nhưng từ bỏ thái độ cho rằng ý tưởng và truyền thống của mình là có một không hai và là tuyệt đối.
Ước gì hình ảnh người Samaritano nhân lành, băng bó các vết thương của người bị đánh, đổ dầu và rượu trên vết thương, làm hướng đạo cho chúng ta. Ước gì sự truyền thông của chúng ta là dầu thơm thoa dịu đau khổ và là rượu ngon mang lại hoan lạc. Sự rạng ngời của chúng ta khống đến từ sự trang điểm hoặc xếp dàn cảnh đặc biệt, nhưng từ sự kiện chúng ta, với lòng yêu thương và dịu dàng, trở nên người thân cận của người mà chúng ta thấy bị thương trên đường. Anh chị em đừng sợ trở thành những công dân trong môi trường kỹ thuật số. Sự quan tâm và hiện diện của Giáo Hội trong thế giới truyền thông thực là điều quan trọng, để đối thoại với con người ngày nay và dẫn họ đến gặp Chúa Kitô: một Giáo Hội đồng hành biết cùng đi với mọi người. Trong bối cảnh này, cuộc cách mạng các phương tiện truyền thông xã hội và thông tin là một thách đố lớn lao và đầy thú vị, đòi phải có những nghị lực mới mẻ và óc sáng tạo mới để thông truyền cho tha nhân vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Vatican ngày 24 tháng 1 năm 2014, lễ thánh Phanxicô đệ Salê
+ Phanxicô
LM. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ
ĐTGM Dieudonné Nzapalainga: Nhà nước Cộng Hòa Trung Phi đã sụp đổ
Đặng Tự Do
18:05 23/01/2014
Tân tổng thống Catherine Samba – Panza |
Imam Oumar Kobine Layama đã phải xin tị nạn trong Toà Giám Mục Bangui sau khi bị những người đồng đạo của ông dọa giết vì những lập trường hòa bình trong tuyên bố chung hôm 31/12/2013 với Đức Tổng Giám Mục Dieudonné Nzapalainga.
Hai nhà lãnh đạo Công Giáo và Hồi Giáo này đang đi một vòng quanh các nước Âu Châu để kêu gọi sự can thiệp quốc tế nhằm chấm dứt đổ máu tại Cộng Hòa Trung Phi. Đặc biệt, hai vị đã thỉnh cầu tổng thống Pháp François Hollande tăng viện cho 1600 quân Pháp đang vất vả trong công tác bảo vệ những người tị nạn tại phi trường quốc tế Bangui và một số khu vực của thủ đô.
Hôm thứ Sáu 23/01, bà Catherine Samba – Panza, đô trưởng của thủ đô Bangui, đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống mới sau khi tổng thống Michel Djotodia, người đã được quân Hồi Giáo Séléka đưa lên sau cuộc đảo chính hồi tháng Ba năm ngoái đã bất ngờ tuyên bố từ chức và đào vong ở nước ngoài hôm 10/1.
Bình luận về diễn biến này, Đức Tổng Giám Mục Dieudonné Nzapalainga nói bà Catherine Samba – Panza đã bị buộc phải nhậm chức. Ngài nói: “Nhà nước đã sụp đổ. Hiện chỉ còn 2 trong số 36 bộ của chính phủ đang hoạt động, và cấu trúc của lãnh đạo chính trị sẽ phải được xây dựng lại hoàn toàn”.
Trong diễn từ nhậm chức, bà tân tổng thống đã kêu gọi các bên trong cuộc xung đột hiện nay phải bỏ súng xuống. Tuy nhiên, giao tranh vẫn diễn ra ác liệt giữa quân Hồi Giáo Seleka và lực lượng Anti-Balaka trung thành với tổng thống François Bozizé, người đã bị lật đổ vào tháng Ba năm ngoái.
Đại diện Tòa Thánh tại Genève II: đối thoại là đường tiến duy nhất
Vũ Văn An
18:11 23/01/2014
Theo tin Zenit ngày 23 tháng Giêng, lên tiếng tại Hội Nghị Hòa Bình Genève II tại Montreux, Thụy Sĩ, Đức TGM Silvano M. Tomasi nói rằng hòa bình tại Syria chỉ có thể đạt được bằng đối thoại. Vị đại diện thường trực của Tòa Thánh bên cạnh LHQ cho hay: “Đứng trước các đau khổ không thể nào tả xiết của nhân dân Syria, một cảm thức liên đới và trách nhiệm chung thúc giục ta phải dấn thân vào một cuộc đối thoại dựa trên trung thực, tin tưởng lẫn nhau và gồm những bước cụ thể”.
Ngài nhấn mạnh rằng “không hề có giải pháp quân sự cho cuộc khủng hoảng Syria. Tòa Thánh xác tín rằng bạo lực không dẫn tới đâu ngoài chết chóc, hủy diệt và vô tương lai… Tòa Thánh xin nhắc lại lời kêu gọi khẩn thiết của mình với tất cả các bên liên hệ xin họ tôn trọng đầy đủ và tuyệt đối luật nhân đạo”.
Trong khi đưa ra một số đề nghị, ngài tiếp tục cho hay: “một cuộc ngừng bắn ngay tức khắc không có điều kiện tiên quyết và việc chấm dứt bạo lực phải trở thành ưu tiên và là mục tiêu khẩn thiết của các cuộc thương thuyết lần này”. Ngài nói thêm: “phải hạ mọi vũ khí xuống và đưa ra các biện pháp chuyên biệt để chặn đứng việc chuyển vận vũ khí và việc tài trợ vũ khí vốn nuôi sống việc leo thang bạo lực và hủy diệt, để dành chỗ cho các phương tiện hòa bình”.
Ngài cũng nhận định rằng cùng với việc ngưng mọi thù địch, phải có việc “gia tăng trợ giúp nhân đạo và lập tức khởi sự việc tái thiết”, là những việc phải “khởi sự song song với các cuộc thương thuyết và phải được duy trì bằng tình liên đới đại lượng của cộng đồng quốc tế. Trong diễn trình này, người trẻ phải được ưu tiên xem sét để qua việc được sử dụng và việc làm của mình, họ có thể trở thành những người chủ đạo đối với tương lai hoà bình và sáng tạo của xứ sở họ”.
Nhà ngoại giao Vatican nói thêm rằng việc xây dựng lại cộng đồng “đòi việc đối thoại và hoà giải được duy trì bằng chiều kích tâm linh. Tòa Thánh mạnh mẽ khuyến khích mọi tín ngưỡng và cộng đồng tôn giáo tại Syria đạt tới việc biết nhau sâu sắc hơn, hiểu nhau tốt hơn và phục hồi niềm tin tưởng lẫn nhau”.
Ngài nói tiếp “Điều quan trọng là các thế lực trong vùng và quốc tế nên ủng hộ cuộc đối thoại liên tục và các vấn đề trong vùng cần được giải quyết. Hòa bình tại Syria có thể trở thành chất xúc tác cho hòa bình tại các nơi khác trong vùng, và là mô thức cho nền hòa bình hết sức cần thiết này.
“Bên kia các thảm kịch của cuộc khủng hoảng hiện nay, nhiều cơ hội mới và giải pháp độc đáo cho Syria và các lân bang có thể xẩy ra… [đến nỗi] không ai bị buộc phải rời bỏ quê hương chỉ vì sự bất khoan dung và việc không thể chấp nhận các dị biệt. Thực vậy, sự bình đẳng do tư cách công dân chung bảo đảm có thể giúp cá nhân phát biểu cho chính mình và trong hợp đoàn với người khác các giá trị nền tảng mà mọi người cho là không thể thiếu đối với việc duy trì bản sắc bên trong của họ”.
Đức TGM Tomasi nhận định rằng Đức Giáo Hoàng thường lớn tiếng nói tới cuộc tranh chấp “để nhắc người ta nhớ tới tính vô dụng của bạo lực, mời gọi một phương thức giải quyết vấn đề bằng thương thuyết, kêu gọi việc tham dự công chính và hợp tình hợp lý của mọi người vào đời sống xã hội”.
Ngài nhắc tới Ngày Cầu Nguyện Và Ăn Chay cho hòa bình tại Syria và Trung Đông, do Đức Giáo Hoàng đưa ra, và được khắp thế giới tiếp nhận nồng nhiệt. Và kết luận rằng nền văn hóa gặp gỡ và nền văn hóa đối thoại là “con đường duy nhất đạt hòa bình”.
Thận trọng lạc quan
Đức TGM Tomasi đã dành cho Zenit, qua ký giả H. Sergio Mora, một cuộc phỏng vấn, nhân ngày kết thúc giai đoạn chuẩn bị của Genève II trước khi hội nghị chính thức đi vào cuộc thương thuyết mặt đối mặt bắt đầu ngày mai, thứ Sáu, 24 tháng Giêng. Trong cuộc phỏng vấn bằng điện thoại này, Đức TGM Tomasi nói tới các thách đố và hy vọng của Genève II. Ngài cũng cho biết Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon rất cảm kích đối với sự can thiệp của Đức Thánh Cha.
Nói về diễn tiến của hội nghị, Đức TGM Tomasi cho hay tình huống cực kỳ phức tạp, nhưng vẫn có một số dấu chỉ tích cực, dù rất nhỏ. Đầu tiên là sự hiện diện của chính phủ Syria cũng như phe đối lập, với một sứ điệp khá mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế và sự hiện diện của khoảng 40 chính phủ và phái đoàn, hầu hết đều do các ngoại trưởng hướng dẫn, ngoại trừ Tòa Thánh và Úc.
Do đó, ý muốn của Cộng Đồng Quốc Tế đã được biểu lộ, dẫn đầu là Kerry của Hoa Kỳ, Lavrov của Nga và Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon. Cộng Đồng này cho mọi người thấy rõ bạo lực đủ rồi và đang tạo áp lực đối với người Syria để họ tự giải quyết vấn đề của họ, mà bước đầu là một cuộc ngưng bắn.
Ngày mai, tại Genève, các cuộc thương thuyết cụ thể sẽ bắt đầu giữa phái đoàn chính phủ và phái đoàn của phe đối lập để tìm một thoả hiệp cho tương lai. Đây là tình huống rất khó khăn và phức tạp, nhưng phải làm một điều gì đó.
Nói về phe đối lập tại Syria, Đức TGM Tomasi cho hay: họ không được đại diện đầy đủ tại Genève. Trên hết, hiện đang có chung một tiếng nói muốn các lực lượng ngoại quốc phải về nước. Thực vậy, hiện có tới 60 quốc gia do những nhóm đánh thuê và những người bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa quá khích đại diện. Họ tới từ Tây Phương và các nước Hồi Giáo và chính họ là nhân tố tạo bất ổn làm cho các cuộc thương thuyết trở thành phức tạp. Tuy nhiên, những ai nghiêm chỉnh trong phe đối lập và trong chính phủ xem ra nhất định muốn nói chuyện với nhau.
Đức TGM Tomasi nhấn mạnh rằng một trong các khuyến cáo của Tòa Thánh là ngưng việc nhập khẩu vũ khí và tiền bạc cho mọi bên có liên hệ tới vụ xung đột ngõ hầu chú mục vào các vấn đề nhân đạo. Nói cách khác, cắt đứt nguồn tài trợ cho các nhóm cực đoan nói trên.
Đức TGM Tomasi cho hay điểm xuất phát phải là các kết luận của Hội Nghị Genève I [tháng Sáu, 2012]. Các kết luận này chủ yếu yêu cầu một chính phủ chuyển tiếp, chuẩn bị một tân hiến pháp và tổ chức tổng tuyển cử tự do. Từ đó, sẽ tiến từng bước cụ thể để thực thi thoả hiệp ấy với sự bảo đảm của Hội Đồng Bảo An.
Hoả tiễn gây thiệt hại cho trụ sở Caritas tại Aleppo
Trong khi ấy, theo tin Zenit, trung tâm Caritas tại Aleppo vừa bị một hỏa tiễn đánh trúng vào hôm thứ Tư. Không ai bị thương nhưng một văn phòng bị hư hại nặng.
Các gia đình nghèo bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp kéo dài 3 năm qua thường xuyên tới trung tâm này để được trợ giúp về thực phẩm, tiền thuê nhà và quần áo. Trung tâm này đặt trong cơ sở của giáo phận.
Rất may, khi văn phòng trợ giúp tiền thuê nhà bị đánh trúng, thì các nhân viên chưa tới làm việc. Chứ nếu không, không biết bao nhiêu nhân mạng bị hy sinh vì thường là văn phòng đầy ắp những người đến xin được giúp đỡ.
Tổng Thư Ký Caritas Quốc Tế Michel Roy cho hay biến cố này cho thấy các nguy hiểm đang đe dọa mọi người tại Syria “Cám ơn Chúa không ai bị thương trong cuộc tấn công vào Caritas ở Aleppo… Việc này cho thấy rõ tính khẩn thiết của một cuộc ngưng bắn tức khắc như là bước đầu tìm ra giải pháp hoà bình”.
Ngài nhấn mạnh rằng “không hề có giải pháp quân sự cho cuộc khủng hoảng Syria. Tòa Thánh xác tín rằng bạo lực không dẫn tới đâu ngoài chết chóc, hủy diệt và vô tương lai… Tòa Thánh xin nhắc lại lời kêu gọi khẩn thiết của mình với tất cả các bên liên hệ xin họ tôn trọng đầy đủ và tuyệt đối luật nhân đạo”.
Trong khi đưa ra một số đề nghị, ngài tiếp tục cho hay: “một cuộc ngừng bắn ngay tức khắc không có điều kiện tiên quyết và việc chấm dứt bạo lực phải trở thành ưu tiên và là mục tiêu khẩn thiết của các cuộc thương thuyết lần này”. Ngài nói thêm: “phải hạ mọi vũ khí xuống và đưa ra các biện pháp chuyên biệt để chặn đứng việc chuyển vận vũ khí và việc tài trợ vũ khí vốn nuôi sống việc leo thang bạo lực và hủy diệt, để dành chỗ cho các phương tiện hòa bình”.
Ngài cũng nhận định rằng cùng với việc ngưng mọi thù địch, phải có việc “gia tăng trợ giúp nhân đạo và lập tức khởi sự việc tái thiết”, là những việc phải “khởi sự song song với các cuộc thương thuyết và phải được duy trì bằng tình liên đới đại lượng của cộng đồng quốc tế. Trong diễn trình này, người trẻ phải được ưu tiên xem sét để qua việc được sử dụng và việc làm của mình, họ có thể trở thành những người chủ đạo đối với tương lai hoà bình và sáng tạo của xứ sở họ”.
Nhà ngoại giao Vatican nói thêm rằng việc xây dựng lại cộng đồng “đòi việc đối thoại và hoà giải được duy trì bằng chiều kích tâm linh. Tòa Thánh mạnh mẽ khuyến khích mọi tín ngưỡng và cộng đồng tôn giáo tại Syria đạt tới việc biết nhau sâu sắc hơn, hiểu nhau tốt hơn và phục hồi niềm tin tưởng lẫn nhau”.
Ngài nói tiếp “Điều quan trọng là các thế lực trong vùng và quốc tế nên ủng hộ cuộc đối thoại liên tục và các vấn đề trong vùng cần được giải quyết. Hòa bình tại Syria có thể trở thành chất xúc tác cho hòa bình tại các nơi khác trong vùng, và là mô thức cho nền hòa bình hết sức cần thiết này.
“Bên kia các thảm kịch của cuộc khủng hoảng hiện nay, nhiều cơ hội mới và giải pháp độc đáo cho Syria và các lân bang có thể xẩy ra… [đến nỗi] không ai bị buộc phải rời bỏ quê hương chỉ vì sự bất khoan dung và việc không thể chấp nhận các dị biệt. Thực vậy, sự bình đẳng do tư cách công dân chung bảo đảm có thể giúp cá nhân phát biểu cho chính mình và trong hợp đoàn với người khác các giá trị nền tảng mà mọi người cho là không thể thiếu đối với việc duy trì bản sắc bên trong của họ”.
Đức TGM Tomasi nhận định rằng Đức Giáo Hoàng thường lớn tiếng nói tới cuộc tranh chấp “để nhắc người ta nhớ tới tính vô dụng của bạo lực, mời gọi một phương thức giải quyết vấn đề bằng thương thuyết, kêu gọi việc tham dự công chính và hợp tình hợp lý của mọi người vào đời sống xã hội”.
Ngài nhắc tới Ngày Cầu Nguyện Và Ăn Chay cho hòa bình tại Syria và Trung Đông, do Đức Giáo Hoàng đưa ra, và được khắp thế giới tiếp nhận nồng nhiệt. Và kết luận rằng nền văn hóa gặp gỡ và nền văn hóa đối thoại là “con đường duy nhất đạt hòa bình”.
Thận trọng lạc quan
Đức TGM Tomasi đã dành cho Zenit, qua ký giả H. Sergio Mora, một cuộc phỏng vấn, nhân ngày kết thúc giai đoạn chuẩn bị của Genève II trước khi hội nghị chính thức đi vào cuộc thương thuyết mặt đối mặt bắt đầu ngày mai, thứ Sáu, 24 tháng Giêng. Trong cuộc phỏng vấn bằng điện thoại này, Đức TGM Tomasi nói tới các thách đố và hy vọng của Genève II. Ngài cũng cho biết Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon rất cảm kích đối với sự can thiệp của Đức Thánh Cha.
Nói về diễn tiến của hội nghị, Đức TGM Tomasi cho hay tình huống cực kỳ phức tạp, nhưng vẫn có một số dấu chỉ tích cực, dù rất nhỏ. Đầu tiên là sự hiện diện của chính phủ Syria cũng như phe đối lập, với một sứ điệp khá mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế và sự hiện diện của khoảng 40 chính phủ và phái đoàn, hầu hết đều do các ngoại trưởng hướng dẫn, ngoại trừ Tòa Thánh và Úc.
Do đó, ý muốn của Cộng Đồng Quốc Tế đã được biểu lộ, dẫn đầu là Kerry của Hoa Kỳ, Lavrov của Nga và Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon. Cộng Đồng này cho mọi người thấy rõ bạo lực đủ rồi và đang tạo áp lực đối với người Syria để họ tự giải quyết vấn đề của họ, mà bước đầu là một cuộc ngưng bắn.
Ngày mai, tại Genève, các cuộc thương thuyết cụ thể sẽ bắt đầu giữa phái đoàn chính phủ và phái đoàn của phe đối lập để tìm một thoả hiệp cho tương lai. Đây là tình huống rất khó khăn và phức tạp, nhưng phải làm một điều gì đó.
Nói về phe đối lập tại Syria, Đức TGM Tomasi cho hay: họ không được đại diện đầy đủ tại Genève. Trên hết, hiện đang có chung một tiếng nói muốn các lực lượng ngoại quốc phải về nước. Thực vậy, hiện có tới 60 quốc gia do những nhóm đánh thuê và những người bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa quá khích đại diện. Họ tới từ Tây Phương và các nước Hồi Giáo và chính họ là nhân tố tạo bất ổn làm cho các cuộc thương thuyết trở thành phức tạp. Tuy nhiên, những ai nghiêm chỉnh trong phe đối lập và trong chính phủ xem ra nhất định muốn nói chuyện với nhau.
Đức TGM Tomasi nhấn mạnh rằng một trong các khuyến cáo của Tòa Thánh là ngưng việc nhập khẩu vũ khí và tiền bạc cho mọi bên có liên hệ tới vụ xung đột ngõ hầu chú mục vào các vấn đề nhân đạo. Nói cách khác, cắt đứt nguồn tài trợ cho các nhóm cực đoan nói trên.
Đức TGM Tomasi cho hay điểm xuất phát phải là các kết luận của Hội Nghị Genève I [tháng Sáu, 2012]. Các kết luận này chủ yếu yêu cầu một chính phủ chuyển tiếp, chuẩn bị một tân hiến pháp và tổ chức tổng tuyển cử tự do. Từ đó, sẽ tiến từng bước cụ thể để thực thi thoả hiệp ấy với sự bảo đảm của Hội Đồng Bảo An.
Hoả tiễn gây thiệt hại cho trụ sở Caritas tại Aleppo
Trong khi ấy, theo tin Zenit, trung tâm Caritas tại Aleppo vừa bị một hỏa tiễn đánh trúng vào hôm thứ Tư. Không ai bị thương nhưng một văn phòng bị hư hại nặng.
Các gia đình nghèo bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp kéo dài 3 năm qua thường xuyên tới trung tâm này để được trợ giúp về thực phẩm, tiền thuê nhà và quần áo. Trung tâm này đặt trong cơ sở của giáo phận.
Rất may, khi văn phòng trợ giúp tiền thuê nhà bị đánh trúng, thì các nhân viên chưa tới làm việc. Chứ nếu không, không biết bao nhiêu nhân mạng bị hy sinh vì thường là văn phòng đầy ắp những người đến xin được giúp đỡ.
Tổng Thư Ký Caritas Quốc Tế Michel Roy cho hay biến cố này cho thấy các nguy hiểm đang đe dọa mọi người tại Syria “Cám ơn Chúa không ai bị thương trong cuộc tấn công vào Caritas ở Aleppo… Việc này cho thấy rõ tính khẩn thiết của một cuộc ngưng bắn tức khắc như là bước đầu tìm ra giải pháp hoà bình”.
Hơn 4.000 trường hợp bạo lực chống Kitô giáo đã xảy ra ở Ấn Độ trong năm ngoái
Đặng Tự Do
18:24 23/01/2014
Hôm thứ Năm 23 tháng Giêng, thông tấn Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết đã có hơn 4.000 trường hợp bạo lực chống Kitô giáo xảy ra ở Ấn Độ trong năm 2013.
"Báo cáo về những vụ bách hại các tín hữu Kitô trong năm 2013," được soạn thảo với sự hợp tác của của nhiều nhóm Kitô giáo ở Ấn Độ, đã ghi nhận 7 vụ giết người cùng với hàng trăm vụ đánh đập, tấn công vào nhà thờ, và các hình thức lạm dụng khác. Hơn 200 trường hợp được phân loại là thuộc về các hình thức khủng bố nghiêm trọng.
Bạo lực chống Kitô giáo đã được gây ra chủ yếu bởi những nhóm cuồng tín Ấn Độ giáo. Hầu hết các biến cố đã xảy ra tại những bang của Ấn Độ, nơi những phong trào Ấn Giáo cực đoan hoạt động mạnh. Trong số này, bang Karnataka được ghi nhận là nơi xảy ra nhiều các vụ bách hại nhất.
Bạo lực không chỉ dừng lại nơi các tín hữu nhưng đã có đông đảo những người sống đời thánh hiến cũng là những nạn nhân.
Hôm 15/7 năm ngoái, Đức Hồng Y Oswald Gracias của tổng giáo phận Mumbai hay còn gọi là Bombay, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Ấn Độ, đã lên án vụ một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã hãm hiếp một nữ tu ở bang Orissa phía đông Ấn Độ.
Một nữ tu 28 tuổi thuộc dòng Thừa Sai Phanxicô của Thánh Giuse đang theo học tại Chennai thuộc bang Orissa đã bị bắt cóc tại Kandhamal (một quận trong tỉnh Orissa) và bị hãm hiếp trong vòng một tuần lễ từ ngày 5 đến ngày 11 tháng 7. Ngày 13 tháng 7 sau khi được thả, chị đã báo cáo với cảnh sát. Hai tên đã bị bắt.
Đây không phải là lần đầu tiên một nữ tu Công Giáo bị bắt cóc và bị hãm hiếp. Tháng 8 năm 2008, nữ tu Meena Barwa, 30 tuổi đã bị 22 người Ấn Giáo cực đoan hãm hiếp. Cảnh sát bắt được cả 22 tên nhưng 17 tên được tại ngoại hầu tra ngay tức khắc và đến nay, sau gần 5 năm, theo Đức Hồng Y Oswald Gracias, phiên tòa xử 22 tên này vẫn chưa xảy ra.
"Báo cáo về những vụ bách hại các tín hữu Kitô trong năm 2013," được soạn thảo với sự hợp tác của của nhiều nhóm Kitô giáo ở Ấn Độ, đã ghi nhận 7 vụ giết người cùng với hàng trăm vụ đánh đập, tấn công vào nhà thờ, và các hình thức lạm dụng khác. Hơn 200 trường hợp được phân loại là thuộc về các hình thức khủng bố nghiêm trọng.
Bạo lực chống Kitô giáo đã được gây ra chủ yếu bởi những nhóm cuồng tín Ấn Độ giáo. Hầu hết các biến cố đã xảy ra tại những bang của Ấn Độ, nơi những phong trào Ấn Giáo cực đoan hoạt động mạnh. Trong số này, bang Karnataka được ghi nhận là nơi xảy ra nhiều các vụ bách hại nhất.
Bạo lực không chỉ dừng lại nơi các tín hữu nhưng đã có đông đảo những người sống đời thánh hiến cũng là những nạn nhân.
Hôm 15/7 năm ngoái, Đức Hồng Y Oswald Gracias của tổng giáo phận Mumbai hay còn gọi là Bombay, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Ấn Độ, đã lên án vụ một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã hãm hiếp một nữ tu ở bang Orissa phía đông Ấn Độ.
Một nữ tu 28 tuổi thuộc dòng Thừa Sai Phanxicô của Thánh Giuse đang theo học tại Chennai thuộc bang Orissa đã bị bắt cóc tại Kandhamal (một quận trong tỉnh Orissa) và bị hãm hiếp trong vòng một tuần lễ từ ngày 5 đến ngày 11 tháng 7. Ngày 13 tháng 7 sau khi được thả, chị đã báo cáo với cảnh sát. Hai tên đã bị bắt.
Đây không phải là lần đầu tiên một nữ tu Công Giáo bị bắt cóc và bị hãm hiếp. Tháng 8 năm 2008, nữ tu Meena Barwa, 30 tuổi đã bị 22 người Ấn Giáo cực đoan hãm hiếp. Cảnh sát bắt được cả 22 tên nhưng 17 tên được tại ngoại hầu tra ngay tức khắc và đến nay, sau gần 5 năm, theo Đức Hồng Y Oswald Gracias, phiên tòa xử 22 tên này vẫn chưa xảy ra.
Đức Cha Alvaro del Portillo, nhà lãnh đạo thứ hai của Opus Dei, sẽ được phong chân phước ngày 27/9/2014
Đặng Tự Do
20:48 23/01/2014
Đức Cha Alvaro del Portillo |
Tu hội Opus Dei, dịch ra tiếng Việt nghĩa là “Kỳ Công của Chúa”, được thành lập bởi Thánh Josemaría Escrivá vào năm 1928 tại Tây Ban Nha nhằm qui tụ những người Công Giáo muốn hiến thân làm việc tông đồ và theo đuổi con đường trọn lành trong khi vẫn tiếp tục các công việc và nghề nghiệp của mình giữa đời. Opus Dei hiện đã có mặt tại 66 quốc gia trên thế giới với 90,000 thành viên trong đó khoảng 2% là các linh mục.
Đức Cha Alvalro del Portillo đã cống hiến cuộc đời mình để dạy người ta cách thế tìm Chúa trong cuộc sống hàng ngày của họ. Ngài cũng đã làm việc trong một số phòng ban của Giáo triều Rôma, và tham gia Công Đồng Chung Vatican II. Thêm vào đó, trong suốt cuộc đời, ngài đã giúp thăng tiến các sáng kiến xã hội trên toàn cầu.
Lễ phong chân phước cho ngài dự kiến sẽ diễn ra vào Thứ Bẩy 27/9/2014. Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh sẽ chủ sự buổi lễ thay mặt cho Đức Giáo Hoàng.
Buổi lễ này đánh dấu sự kết thúc của tiến trình phong chân phước cho ngài bắt đầu tại Rôma vào tháng 3 năm 2004, mười năm sau khi ngài qua đời.
Đức Cha Alvaro del Portillo là kỹ sư dân sự. Ngài là một trong những người đầu tiên theo Thánh Josemaría Escrivá, và nhanh chóng trở thành một trong những cộng tác viên thân cận nhất của thánh nhân. Năm 1944, ngài được thụ phong linh mục, và hai năm sau đó đến Rôma .
Sau cái chết của Thánh Josemaría, năm 1975, cha del Portillo được bầu làm người kế vị của thánh nhân. Ngày 28/11/1982, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban cấp quy chế Giáo Hạt Tòng Nhân cho Opus Dei và ngài trở thành Giám Chức đầu tiên.
Ngày 6 tháng Giêng năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tấn phong Giám Mục cho cha del Portillo.
Những người biết đến Đức Cha del Portillo luôn nhớ đến ngài như một người cổ vũ nhiệt tình cho hòa bình và là người rất có khiếu hài hước, cũng như một người nỗ lực đem con người đến gần với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, ít người biết rằng del Portillo là người ủng hộ hàng đầu trong việc thiết kế các hình ảnh về Đức Trinh Nữ Maria tại quảng trường Thánh Phêrô. Ý tưởng của ngài đã được Đức Gioan Phaolô II nồng nhiệt ủng hộ và đã giao cho ngài giám sát công việc này.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chữa bệnh và phát thuốc miễn phí tại giáo họ Bổng Điền
Thanh Quang CSsR
10:46 23/01/2014
THÁI BÌNH - Quan tâm, lo lắng cho bà con bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo, bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn là mối ưu tư lớn của chúng tôi. Vì thế để thể hiện tình thương yêu đùm bọc, chăm sóc cách cụ thể cho họ, chúng tôi đã mời đoàn bác sĩ đến khám chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho bà con thuộc vùng xung quanh Nhà Thờ Bổng Điền, Xã Tân Lập và vùng lân cận. Với tinh thần xả kỷ và tự nguyện, hy sinh, các bác sĩ đã sẵn sàng dành cả một ngày Chúa Nhật 19.1.2014 đến giúp đỡ chúng tôi và các bệnh nhân. Đoàn bác sĩ gồm có 6 bác sĩ và 2 dược sĩ. Ngoài ra còn có các em đang học tại các trường Cao Đẳng Y cũng đến để cộng tác phụ giúp các bác sĩ. Các bác sĩ đến từ bệnh viện Ung Bướu Hà Nội, bệnh viện Việt Nam – Cu Ba,…
Hình ảnh
Khoảng 7 giờ 45, các bác sĩ bắt đầu làm việc. Bà con cứ ùn ùn kéo đến đông đảo, khiến các bác sĩ khám bệnh không ngơi. Mệt nhoài, nhưng vẫn thấy vui vì họ được phục vụ anh chị em bệnh nhân nghèo. Họ có cơ hội tốt để làm việc bác ái. Họ có dịp tốt để gieo rắc tình thương. Từ trẻ em đến cụ già. Các bác sĩ cứ thế chẩn đoán, có những chỉ dẫn hợp tình hợp lý cách tận tình khiến bà con cảm thấy yên tâm và mát lòng mát dạ. Lòng cảm thấy hân hoan, phấn khởi. Mỗi người khi ra về cầm theo bịch thuốc đặc trị đã được các bác sĩ chỉ định. Vui biết mấy! Hạnh phúc biết bao!
Có một người lương dân đã nói lên cảm nhận cách chân tình: “Tôi cảm thấy vui sướng quá! Tôi đã nhận được tình thương như thế này, tôi sẽ cố gắng chia sẻ tình thương này cho người khác!” Thật tuyệt vời!
Dùng cơm trưa xong, nghỉ ngơi chút đỉnh, 1 giờ trưa, các bác sĩ lại tiếp tục việc khám chữa bệnh. Lúc này, ngôi nhà 100m2 trở nên chật chội do lượng người mỗi lúc thêm đông. Chiều nay, số anh chị em lương dân đông hơn thì phải! Đúng thế! Cứ người này khám xong về, thì lại kháo cho người khác, khiến giờ đây các bác sĩ khám dường như quá tải! Lại mệt nhưng hạnh phúc vì bệnh nhân nghèo đã tìm đúng địa chỉ! Đã tìm đúng người thương mình, muốn giúp mình, muốn chưa bệnh cho mình! Đúng là “bệnh nhân mới cần thầy thuốc”. Mà thầy thuốc lại có lòng thương người nữa thì còn lời nào để khen thêm!
Buổi khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí kết thúc vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày. Việc làm từ thiện, bác ái này chắc hẳn đã để lại dấu ấn rất sâu đậm nơi bà con cả giáo lẫn lương, nhất là bà con bệnh nhân. Đây như là một lời mời gọi mọi người hãy sống xả kỷ, biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho người khác, nhất là những bệnh nhân nghèo cần sự giúp đỡ, ủi an. Hẳn rằng, từ đây tình thương sẽ được nhân rộng, lòng nhân ái sẽ được lan tỏa để bù đắp cho những cuộc đời đau khổ, cô đơn, trống vắng, tang thương vì bệnh tật.
Hình ảnh
Khoảng 7 giờ 45, các bác sĩ bắt đầu làm việc. Bà con cứ ùn ùn kéo đến đông đảo, khiến các bác sĩ khám bệnh không ngơi. Mệt nhoài, nhưng vẫn thấy vui vì họ được phục vụ anh chị em bệnh nhân nghèo. Họ có cơ hội tốt để làm việc bác ái. Họ có dịp tốt để gieo rắc tình thương. Từ trẻ em đến cụ già. Các bác sĩ cứ thế chẩn đoán, có những chỉ dẫn hợp tình hợp lý cách tận tình khiến bà con cảm thấy yên tâm và mát lòng mát dạ. Lòng cảm thấy hân hoan, phấn khởi. Mỗi người khi ra về cầm theo bịch thuốc đặc trị đã được các bác sĩ chỉ định. Vui biết mấy! Hạnh phúc biết bao!
Có một người lương dân đã nói lên cảm nhận cách chân tình: “Tôi cảm thấy vui sướng quá! Tôi đã nhận được tình thương như thế này, tôi sẽ cố gắng chia sẻ tình thương này cho người khác!” Thật tuyệt vời!
Dùng cơm trưa xong, nghỉ ngơi chút đỉnh, 1 giờ trưa, các bác sĩ lại tiếp tục việc khám chữa bệnh. Lúc này, ngôi nhà 100m2 trở nên chật chội do lượng người mỗi lúc thêm đông. Chiều nay, số anh chị em lương dân đông hơn thì phải! Đúng thế! Cứ người này khám xong về, thì lại kháo cho người khác, khiến giờ đây các bác sĩ khám dường như quá tải! Lại mệt nhưng hạnh phúc vì bệnh nhân nghèo đã tìm đúng địa chỉ! Đã tìm đúng người thương mình, muốn giúp mình, muốn chưa bệnh cho mình! Đúng là “bệnh nhân mới cần thầy thuốc”. Mà thầy thuốc lại có lòng thương người nữa thì còn lời nào để khen thêm!
Buổi khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí kết thúc vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày. Việc làm từ thiện, bác ái này chắc hẳn đã để lại dấu ấn rất sâu đậm nơi bà con cả giáo lẫn lương, nhất là bà con bệnh nhân. Đây như là một lời mời gọi mọi người hãy sống xả kỷ, biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho người khác, nhất là những bệnh nhân nghèo cần sự giúp đỡ, ủi an. Hẳn rằng, từ đây tình thương sẽ được nhân rộng, lòng nhân ái sẽ được lan tỏa để bù đắp cho những cuộc đời đau khổ, cô đơn, trống vắng, tang thương vì bệnh tật.
Ngày tạ ơn và tất niên giáo phận Thanh hóa
BBT
00:56 23/01/2014
Trong bản đánh giá tổng kết năm 2013, Đức Cha giáo phận Giuse Nguyễn Chí Linh đã nêu lên những thành quả tích cực giáo phận đạt được trong năm qua:
Tổ chức thành công năm thánh 80 năm thành lập giáo phận; kỳ họp thường niên lần II của HĐGM tại TGM Thanh Hóa để lại ấn tượng tốt đẹp về giáo phận trong lòng khách; giáo phận cũng nhận được sự thông cảm, chia sẻ và đem niềm vui đến với mọi thành phần trong xã hội tỉnh Thanh hóa; các đoàn thể trong giáo phận đang có những bước phát triển đáng khích lệ đặc biệt Hội Lòng Thương Xót Chúa, Legio Mariae…
Những hoạt động như: Chầu lượt với sự tham gia của các xứ bạn; dâng hoa liên xứ, thể thao liên xứ dù còn ở mức độ ban đầu nhưng đã phần nào nói lên tính hiệp thông trong giáo phận; nhiều nhà thờ cấp giáo họ được cung hiến và còn nhiều nhà thờ đang trong tiến trình thi công. Đây là một điểm tích cực cho thấy các mục tử quan tâm đến đời sống của bà con giáo xứ, giáo họ.
Đức Cha giáo phận liệt kê bất cập còn tồn đọng:
Hiện tượng chảy máu nhân sự trong các giáo xứ đặc biệt giới trẻ rời xứ đi làm ăn xa đã làm cho nhiều hoạt động của các giáo xứ bị suy yếu thậm chí bị tê liệt. Tệ nạn phát sinh nhiều và rất nhiều cạm bẫy đe dọa các bạn trẻ; nhân sự thiếu; giáo phận cũng chưa có điều kiện để dấn thân vào các hoạt động xã hội.
Nhân dịp năm mới, Đức Cha cũng bày tỏ mong muốn tương lai của giáo phận được phát triển toàn diện:
Chuẩn bị một đội ngũ nhân sự cho giáo phận với một nếp nghĩ vượt ra khỏi cộng đoàn nhỏ hẹp vươn tới ý thức xây dựng giáo họ, giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội đồng thời cũng nỗ lực để xây dựng một đội ngữ nhân sự chuyên môn cho những công việc mục vụ mang tính đặc thù; về cơ sở vật chất, hiện trong giáo phận cũng chưa có những nhà thờ, những công trình nổi bật vừa mang tính tâm linh vừa giàu giá trị nghệ thuật; giáo phận cũng chưa có những trung tâm hành hương để nâng cao lòng đạo đức của người giáo dân, giáo phận cũng chưa có những trung tâm hoạt động từ thiện bác ái như: trại mồ côi, trại tâm thần, trại phong…
Nhân dịp này, vị Cha chung của giáo phận kêu gọi mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận tích cực tham gia các hoạt động bác ái vì đây là nhiệm vụ hàng đầu của Tin Mừng. Đồng thời đẩy mạnh công tác mục vụ di dân. Vị Cha chung giáo phận dừng lại ở câu tự vấn cho mỗi người trong giáo phận: “Chúng ta đã làm gì cho các bạn trẻ xa quê?” và ngài kêu gọi: “Hãy thương lấy con em của chúng ta!”.
Ngày tạ ơn và tất niên giáo phận được tiếp tục với thánh lễ và kết thúc bằng bữa cơm vui bên nhau của các đại diện trong đại gia đình giáo phận.
Giám mục GP Vinh chúc Tết và tặng quà cho các gia đình nghèo thuộc giáo xứ Xã Đoài
Lê Hùng
10:44 23/01/2014
"Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi" (2Cr 5,14), điều mà thánh Phaolô thốt lên cũng chính là tâm tình mà người môn đệ Chúa Kitô được mời gọi mặc lấy. Lời mời gọi đó, như càng da diết hơn mỗi độ tết đến, xuân về. Ai cũng mong gia đình mình có được niềm vui Tết ấm áp và thiêng liêng. Đối với những người nghèo, neo đơn, bất hạnh thì mong ước đó thực sự xa vời nếu không có những bàn tay sẻ chia, liên đới.
Hình ảnh
Sáng ngày 20.01.2014, tại Toà Giám mục Xã Đoài, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã gặp gỡ và trao tặng hơn 60 phần quà Tết cho các gia đình nghèo, người già neo đơn, bệnh tất thuộc giáo xứ Xã Đoài, với sự cộng tác của ban Caritas Giáo phận. Mỗi phần quà trị giá hơn 400.000đ, gồm 10 kg nếp, 1 cái chăn và 4 lít sữa tươi.
Chung bàn tay liên đới và sẻ chia là truyền thống tốt đẹp của Giáo phận Vinh. Truyền thống đó liên tục được nối dài qua những nghĩa cử yêu thương đến từ vị chủ chăn trong những năm qua. Càng ý nghĩa hơn, khi sự liên đới đó được thể hiện trong dịp tết đến xuân về. Đó không chỉ là sự tương trợ trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng hơn thế, còn là hơi ấm của Chúa Xuân được lan toả, cho niềm vui và hương tết đến được với mọi nhà.
Hơn 60 phần quà với tổng giá trị đến hơn 24 triệu đồng đã được trao tặng trong buổi chiều 20.10.2014. Ngoài ra, Đức Cha Phaolô còn ân cần thăm hỏi và tặng thêm một số phần quà cho các cụ cao niên. Trên khuôn mặt các cụ, niềm vui, sự ấm áp bừng lên khi tiếp nhận những cử chỉ ân cần, quan tâm và đầy yêu thương của người cha chung Giáo phận.
Ngoài 60 cá nhân và gia đình thuộc giáo xứ Chính toà, 1710 người nghèo, neo đơn, bệnh tật ở 48 giáo xứ khác cũng nhận được phần quà của Đức Cha chủ chăn nhân dịp Tết Nguyên đán này. Tổng kinh phí ước tính lên đến hơn 766 triệu đồng.
Được biết, song hành với các hoạt động của Đức Cha Phaolô và giáo phận, các giáo xứ cũng đã có nhiều chương biểu thị tình liên đới với người nghèo trong dịp đón tết vui xuân. Tất cả như mong muốn hơi ấm của Chúa Xuân được lan toả đến hết mọi người, mọi nhà.
Dẫu rằng, những món quà được trao không đặt nặng ở giá trị vật chất nhưng chất chứa nơi đó là tình cảm dạt dào, tình yêu thương liên đới muốn nhắn gửi đầy thẳm sâu…
Chính đây là niềm an ủi sưởi ấm những người nghèo, neo đơn, bất hạnh, những người khốn khổ, thiếu may mắn, trong những ngày vui tết đón xuân, giữa lúc hố sâu phân cách giàu nghèo và bệnh vô cảm ngày càng trầm trọng và trở thành căn bệnh trầm kha của xã hội.
Hình ảnh
Sáng ngày 20.01.2014, tại Toà Giám mục Xã Đoài, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã gặp gỡ và trao tặng hơn 60 phần quà Tết cho các gia đình nghèo, người già neo đơn, bệnh tất thuộc giáo xứ Xã Đoài, với sự cộng tác của ban Caritas Giáo phận. Mỗi phần quà trị giá hơn 400.000đ, gồm 10 kg nếp, 1 cái chăn và 4 lít sữa tươi.
Chung bàn tay liên đới và sẻ chia là truyền thống tốt đẹp của Giáo phận Vinh. Truyền thống đó liên tục được nối dài qua những nghĩa cử yêu thương đến từ vị chủ chăn trong những năm qua. Càng ý nghĩa hơn, khi sự liên đới đó được thể hiện trong dịp tết đến xuân về. Đó không chỉ là sự tương trợ trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng hơn thế, còn là hơi ấm của Chúa Xuân được lan toả, cho niềm vui và hương tết đến được với mọi nhà.
Hơn 60 phần quà với tổng giá trị đến hơn 24 triệu đồng đã được trao tặng trong buổi chiều 20.10.2014. Ngoài ra, Đức Cha Phaolô còn ân cần thăm hỏi và tặng thêm một số phần quà cho các cụ cao niên. Trên khuôn mặt các cụ, niềm vui, sự ấm áp bừng lên khi tiếp nhận những cử chỉ ân cần, quan tâm và đầy yêu thương của người cha chung Giáo phận.
Ngoài 60 cá nhân và gia đình thuộc giáo xứ Chính toà, 1710 người nghèo, neo đơn, bệnh tật ở 48 giáo xứ khác cũng nhận được phần quà của Đức Cha chủ chăn nhân dịp Tết Nguyên đán này. Tổng kinh phí ước tính lên đến hơn 766 triệu đồng.
Được biết, song hành với các hoạt động của Đức Cha Phaolô và giáo phận, các giáo xứ cũng đã có nhiều chương biểu thị tình liên đới với người nghèo trong dịp đón tết vui xuân. Tất cả như mong muốn hơi ấm của Chúa Xuân được lan toả đến hết mọi người, mọi nhà.
Dẫu rằng, những món quà được trao không đặt nặng ở giá trị vật chất nhưng chất chứa nơi đó là tình cảm dạt dào, tình yêu thương liên đới muốn nhắn gửi đầy thẳm sâu…
Chính đây là niềm an ủi sưởi ấm những người nghèo, neo đơn, bất hạnh, những người khốn khổ, thiếu may mắn, trong những ngày vui tết đón xuân, giữa lúc hố sâu phân cách giàu nghèo và bệnh vô cảm ngày càng trầm trọng và trở thành căn bệnh trầm kha của xã hội.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Lãnh đạo CSVN là người Việt nam hay người Tầu ?
Phạm Trần
09:14 23/01/2014
Lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã hành động ngược với quyền lợi của Tổ quốc về Quần đảo Hòang Sa nên có nghi vấn trong nhân dân muốn biết họ là người Việt hay người Tầu ?
Sau đây là những lý do đã gây ra thắc mắc:
Thứ nhất: Nếu họ là người Việt thì tại sao họ lại cấm Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa tổ chức “Chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa”, dự trù diễn ra vào lúc 19h00 ngày 18/01/2014 tại Công viên Biển Đông, thành phố Đà Nẵng ?
Xem Hình
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hòang Sa, ông Đặng Công Ngữ, đã phải hủy bỏ vào giờ chót vì chính quyền Trung ương ở Hà Nội sợ đụng chạm đến Trung Cộng.
Theo một số tài liệu thì Hà Nội không muốn truy điệu và tri ân 74 chiến sỹ của Việt nam Cộng Hòa đã hy sinh khi chống lại cuộc cưỡng chiếm Hòang Sa của quân Trung Cộng ngày 19/01/1974 vì sợ bị Bắc Kinh lên án “lật lọng”. Lý do: Trung Cộng đã nắm được bằng chứng từ năm 1956 chính quyền Cộng sản Việt Nam lúc ấy là Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đã “lỡ mồm” thừa nhận Hòang Sa và Trường Sa (Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa) là của Trung Cộng !
Bách Khoa tòan thư viết: “Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 15 tháng 6 năm 1956, tức khi đang là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của lãnh sự quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, rằng: "Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thì quần đảo Tây Sa và Nam Sa nên là một phần lãnh thổ của Trung Quốc".
Ai cũng biết vào thời điểm năm 1956 hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Vậy Ung Văn Khiêm có quyền gì và đã căn cứ vào đâu mà ăn nói qùang xiên như thế để gây họa cho Việt Nam bây giờ ?
Thứ hai : Tại sao nhà nước CSVN không biện giải nổi mỗi khi Trung Cộng trưng ra các Tài liệu:
-Công hàm ngày 14/09/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
-Bản đồ của Cục Đo đạc & Bản đồ VN (của miền Bắc, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,VNDCCH) từ 1964 đã ghi Tây Sa và Nam Sa là tên của Trung Cộng gọi hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa
- Tuyên bố ngày 09/05/1965 của chính phủ VNDCCH nhìn nhận “một phần của lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa của Trung Quốc nằm trong “vùng chiến sự” của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ.
Phía CSVN lúng túng vì họ biết đã lỡ “há miệng mắc quai” và không dám minh bạch với nhân dân mỗi khi cò ai muốn tìm hiểu cho ra nhẽ. Một số báo của đảng, tiêu biểu như báo Đại Đòan Kết của Mặt trận Tổ Quốc, ít viên chức ngọai giao và một vài Đại biểu Quốc hội có kiến thức về lịch sử như Đại biểu, sử gia Dương Trung Quốc thì cũng chỉ đưa ra những lập luận “bảo hòang hơn vua”, không soi sáng được tận nguồn gốc của những hành động và lời nói đã “tác hại nghiêm trọng” cho chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam.
Thứ ba : Tại sao trước 24 giờ kỷ niệm 40 năm trận chiến chống Trung Cộng ở Hòang Sa ngày 19/01/2014 của Hải quân VNCH thì Ban Tuyến giáo Trung ương của đảng CSVN đã ra lệnh cho tất cả các báo phải “ngưng” không được đăng thêm bài nói về về Hòang Sa nữa. Lệnh ngưng này là chỉ thị của Bộ Chính trị đảng CSVN hay áp lực từ Trung Cộng ?
Trước lệnh này, một số báo “không thuộc dòng chính thống của đảng” như Thanh Niên, Giáo dục Việt Nam, ViệtNamNet, Tuổi Trẻ v.v…đã đăng nhiều bài nói về lịch sử trận chiến Hòang Sa và ca tụng sự hy sinh bảo vệ Tổ Quốc của các chiến sỹ Việt Nam Cộng Hòa.
Hàng ngàn độc giả, trí thức và dân thường kể cả nguyên Giám đốc Học viện Hải quân – Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 và nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Tiến sỹ Trần Công Trục đã lên tiếng yêu cầu Nhà nước phải “trân trọng và phải tôn vinh tinh thần yêu nước và hy sinh của những người lính VNCH chống ngoại xâm.” Nhà nước lặng thinh.
Các báo “chính ngạch” gồm Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tuyên giáo, Tạp chí Dân Vận, Quốc phòng Tòan Dân v.v…đều không đả động gì đến biến cố Hòang Sa !
Như vậy là đảng CSVN đã “không cùng đồng hành vì chính nghĩa với dân tộc”. Họ đã chống lại nguyện vọng muốn bảo vệ Tổ quốc của dân và làm nhụt chí đấu tranh, yêu nước của thế hệ trẻ Việt Nam.
Thứ bốn: Vậy thì có lẽ không cần phải thắc mắc tại sao Công an Hà Nội đã có những hành động “thiếu văn hoá” và “không có giáo dục của Thánh hiền Việt Nam” khi họ bầy trò “cắt đá thi công gỉa vờ” và mở loa phóng thanh cực mạnh để phá buổi lễ tưởng niệm 40 năm Hòang Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm và ngăn cản người dân tri ân 74 Chiến sỹ VNCH tại Tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội ngày 19/01/2014.
Trong số trên 400 Công an có anh Nguyễn Tuấn Khiên, phó đồn Công an phường Tràng Tiền đã gỉa làm công nhân cầm máy cắt đá xiên xẹo cốt làm bụt mù để đuổi người dân ra khỏi khu vực Tượng đài Lý Thái Tổ. Nhưng liệu anh có biết cấp chỉ huy của anh đã chủ mưu làm cho anh xấu mặt hay anh đã cố ý hành động để giúp cho Trung Cộng bảo vệ lập luận chủ quyền Hòang-Trường Sa là của họ ?
Bằng chứng về anh “công nhân đội nón cối” tên Khiên này đã được Blogger Nguyễn Lân Thắng cho biết: "Lại thêm một phát hiện: Đồng chí cầm máy cắt đội mũ cối không phải là công nhân... đồng chí ấy tên là Nguyễn Tuấn Khiên, phó đồn công an phường Tràng Tiền... điện thoại của đồng chí ấy là: +849120998888.”
Trường hợp anh Công an Khiên và những Công an vác loa đi quanh la hét vào mặt người dân, kể cả vào mặt một nữ Nhà báo nước ngòai khi bà muốn phỏng vấn Tiến sỹ Nguyễn Quang A có phải bị lên án là họ đã “bôi nhọ” văn hóa Việt Nam để làm lợi cho Trung Cộng hay phải lôi các cấp chỉ huy của họ ra trước “tòa án lương tâm” để trả lời cho hành động của mình ?
Hãy nghe một số trí thức của Thủ đô Hà Nội ghi lại “trò phá đám rẻ tiền” cuộc truy điệu yêu nước như sau:
Tiến sỹ Đào Tiến Thi:“ Ngó vào “công trình đang thi công” thì chỉ thấy mấy anh thợ đang xẻ đá. Những hòn đá nhỏ, có hòn chỉ lớn hơn nắm tay một chút và chẳng rõ xẻ như thế để làm gì. (Cho đến cuối buổi, khi người đi mít tinh đã về thì cuộc “thi công” cũng ngừng luôn và mấy cục đá xẻ lung tung đó càng tố cáo cái trò lố không che đậy được ai)…..
…Tôi nói nỗi buồn đau lớn nhất của tôi là nghĩ về dân tộc Việt Nam, từ một dân tộc anh hùng, hôm nay đã trở thành một dân tộc hèn nhát…”
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi: “Một tốp thợ đá đang chia nhau ngồi lầm lỳ cưa xẻ những phiến đá lớn nhỏ xung quanh tượng đài (mà chốc sau, khi đã vãn cuộc tôi đi quanh nhìn ngó mới biết các phiến đá họ cưa chỉ là cưa để lấy bụi nên ném vương vãi khắp nơi, hằn sâu lằn ngang lằn dọc như những chú chó đá há miệng cười trong truyện cổ tích, đến là khôi hài). Thì ra đám bụi bốc lên rất cao che mờ cả bức tượng mà vừa đến đầu đường tôi cứ tưởng là khói hương nghi ngút, chính là đám bụi đá do những người thợ đá “hành nghề không đúng lúc” này đây. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau: một mưu kế đáng gọi là “kịp thời” nhưng cũng đáng gọi là “cùng kế” của đám bộ máy chức năng, cốt để cản trở buổi lễ mà họ cầm chắc là sẽ rất xúc động – mà sự xúc động của lòng dân thì chính là điều bất lợi với nhà cầm quyền nếu nó được tổ chức trọng thể.”
Tiến Sỹ Nguyễn Quang A: “Chứng kiến cảnh chướng tai gai mắt do công an (tôi tin những người mặc thường phục hôm đó cũng là công an mặc thường phục để che mắt thiên hạ) gây ra trong buổi tưởng niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, nhưng tôi đã không nhắc đến sự kiện đau lòng và ô nhục vào buổi sáng đó trong bữa cơm tối với phó thủ tướng Vương quốc Bỉ, một giáo sư về luật hiến pháp và nhân quyền…”
Nhà giáo Phạm Tòan của nhóm Cánh Buồm:”Thấy cái anh gọi loa đó cứ quanh quẩn gần bên, tôi nói đùa, “anh là người Tàu phải không? Quảng Đông hay Quảng Tây?” Mọi người cười ồ lên. Anh ta đi sang nhóm bên cạnh tôi. Nghe có tiếng người hỏi anh ta, “hôm nay anh được trả mấy trăm?” Có anh còn rút ra tờ năm trăm ngàn giơ trước mặt anh ta nữa. Không nghe thấy lời nói đùa, chỉ thấy tiếng cười rộ.”
Song song với sự tức giận và khinh bỉ việc làm của Chính quyền, người dân Hà Nội đã nói thay cho hàng triệu người khác vào sáng ngày 19/01/2014 trước Tượng đài Lý Thái Tổ bằng những khẩu hiệu và lời hô yêu nước, tri ân các chiến sỹ của cả 2 bên chiến tuyến đã bỏ mình vì Tổ quốc.
Hãy đọc:
“Không được bán Hòang Sa”
“Đả đảo Trung quốc xâm lược-Hòang Sa-Việt Nam-Trường Sa-Việt Nam –Đả đảo tay sai bán nước. Đả đảo tay sai Tầu.”
“Đả đảo bọn bán nước !”.
Tẩy chay 16 chữ vàng & bốn tốt.
Hàng chục bó hoa trắng có hàng chữ “Hòang Sa-Việt Nam” đã được dựng dưới chân Tượng Vua Lý Thá Tổ trong khi hàng trăm người dân và dân oan từ các nởi đổ về đã hô to với những cánh tay vung lên trời cao “ Hoàng Sa-Việt Nam—Trường Sa-Việt Nam !”
Các biểu ngữ lớn nhỏ bầy tỏ lòng biết ơn các chiến sỹ đã hy sinh cho Tổ quốc và chống “tay sai Trung Cộng” cũng đã được dương cao, mặc cho những tiếng loa hò hét phá phách của Công an:
“Tưởng nhớ những người con yêu của Tổ Quốc đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc-Biên giới Tây Nam, tại Hoàng Sa & Trường Sa”
“Phong trào dân oan tri ân các anh Trường Sa-Hòang Sa”
“Tổ Quốc Ghi Công-Đời đời nhớ ơn các Anh hung bảo vệ Hòang Sa 19/1/1975-Hình Trung tá Ngụy Văn Thà, Hạm trường HQ-10 Nhật Tảo”.
“Sang Năm Tới Hòang Sa”
Như vậy khi người dân đã đứng về phía đối lập với Chính quyền để nói lên những điều biết ơn những con dân nước Việt đã nắm xuống cho mình được sống và Tổ quốc được trường tồn thì tại sao Lãnh đạo của đảng CSVN lại ngăn cấm dân chống ngọai xâm để làm lợi cho ngọai bang ?
Đó là lý do tại sao Việt Nam không dám kiện Trung Cộng ra trước Tòa án Quốc tế đã xâm chiếm biển đảo của mình như Chính phủ Phi Luật Tân đã làm, phải không ?
Cả cái Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nước có 500 Đại biểu mà không thấy ai dám “đứng về phía dân” xuống đường đòi lại biển đảo và truy ơn những liệt sỹ đã bỏ mình trong các cuộc chiến chống Tầu xâm lược thì họ đại diện cho dân ta hay dân Trung Cộng ?
Như thế thì liệu đã qúa muộn chưa để nghi vấn về Quốc tịch của Lãnh đạo, hay ta cần phải làm cuộc giải phẫu để xem máu họ thuộc dòng giống nào ?
Phạm Trần
(01/014)
Sau đây là những lý do đã gây ra thắc mắc:
Thứ nhất: Nếu họ là người Việt thì tại sao họ lại cấm Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa tổ chức “Chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa”, dự trù diễn ra vào lúc 19h00 ngày 18/01/2014 tại Công viên Biển Đông, thành phố Đà Nẵng ?
Xem Hình
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hòang Sa, ông Đặng Công Ngữ, đã phải hủy bỏ vào giờ chót vì chính quyền Trung ương ở Hà Nội sợ đụng chạm đến Trung Cộng.
Theo một số tài liệu thì Hà Nội không muốn truy điệu và tri ân 74 chiến sỹ của Việt nam Cộng Hòa đã hy sinh khi chống lại cuộc cưỡng chiếm Hòang Sa của quân Trung Cộng ngày 19/01/1974 vì sợ bị Bắc Kinh lên án “lật lọng”. Lý do: Trung Cộng đã nắm được bằng chứng từ năm 1956 chính quyền Cộng sản Việt Nam lúc ấy là Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đã “lỡ mồm” thừa nhận Hòang Sa và Trường Sa (Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa) là của Trung Cộng !
Bách Khoa tòan thư viết: “Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 15 tháng 6 năm 1956, tức khi đang là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của lãnh sự quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, rằng: "Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thì quần đảo Tây Sa và Nam Sa nên là một phần lãnh thổ của Trung Quốc".
Ai cũng biết vào thời điểm năm 1956 hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Vậy Ung Văn Khiêm có quyền gì và đã căn cứ vào đâu mà ăn nói qùang xiên như thế để gây họa cho Việt Nam bây giờ ?
Thứ hai : Tại sao nhà nước CSVN không biện giải nổi mỗi khi Trung Cộng trưng ra các Tài liệu:
-Công hàm ngày 14/09/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
-Bản đồ của Cục Đo đạc & Bản đồ VN (của miền Bắc, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,VNDCCH) từ 1964 đã ghi Tây Sa và Nam Sa là tên của Trung Cộng gọi hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa
- Tuyên bố ngày 09/05/1965 của chính phủ VNDCCH nhìn nhận “một phần của lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa của Trung Quốc nằm trong “vùng chiến sự” của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ.
Phía CSVN lúng túng vì họ biết đã lỡ “há miệng mắc quai” và không dám minh bạch với nhân dân mỗi khi cò ai muốn tìm hiểu cho ra nhẽ. Một số báo của đảng, tiêu biểu như báo Đại Đòan Kết của Mặt trận Tổ Quốc, ít viên chức ngọai giao và một vài Đại biểu Quốc hội có kiến thức về lịch sử như Đại biểu, sử gia Dương Trung Quốc thì cũng chỉ đưa ra những lập luận “bảo hòang hơn vua”, không soi sáng được tận nguồn gốc của những hành động và lời nói đã “tác hại nghiêm trọng” cho chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam.
Thứ ba : Tại sao trước 24 giờ kỷ niệm 40 năm trận chiến chống Trung Cộng ở Hòang Sa ngày 19/01/2014 của Hải quân VNCH thì Ban Tuyến giáo Trung ương của đảng CSVN đã ra lệnh cho tất cả các báo phải “ngưng” không được đăng thêm bài nói về về Hòang Sa nữa. Lệnh ngưng này là chỉ thị của Bộ Chính trị đảng CSVN hay áp lực từ Trung Cộng ?
Trước lệnh này, một số báo “không thuộc dòng chính thống của đảng” như Thanh Niên, Giáo dục Việt Nam, ViệtNamNet, Tuổi Trẻ v.v…đã đăng nhiều bài nói về lịch sử trận chiến Hòang Sa và ca tụng sự hy sinh bảo vệ Tổ Quốc của các chiến sỹ Việt Nam Cộng Hòa.
Hàng ngàn độc giả, trí thức và dân thường kể cả nguyên Giám đốc Học viện Hải quân – Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 và nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Tiến sỹ Trần Công Trục đã lên tiếng yêu cầu Nhà nước phải “trân trọng và phải tôn vinh tinh thần yêu nước và hy sinh của những người lính VNCH chống ngoại xâm.” Nhà nước lặng thinh.
Các báo “chính ngạch” gồm Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tuyên giáo, Tạp chí Dân Vận, Quốc phòng Tòan Dân v.v…đều không đả động gì đến biến cố Hòang Sa !
Như vậy là đảng CSVN đã “không cùng đồng hành vì chính nghĩa với dân tộc”. Họ đã chống lại nguyện vọng muốn bảo vệ Tổ quốc của dân và làm nhụt chí đấu tranh, yêu nước của thế hệ trẻ Việt Nam.
Thứ bốn: Vậy thì có lẽ không cần phải thắc mắc tại sao Công an Hà Nội đã có những hành động “thiếu văn hoá” và “không có giáo dục của Thánh hiền Việt Nam” khi họ bầy trò “cắt đá thi công gỉa vờ” và mở loa phóng thanh cực mạnh để phá buổi lễ tưởng niệm 40 năm Hòang Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm và ngăn cản người dân tri ân 74 Chiến sỹ VNCH tại Tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội ngày 19/01/2014.
Trong số trên 400 Công an có anh Nguyễn Tuấn Khiên, phó đồn Công an phường Tràng Tiền đã gỉa làm công nhân cầm máy cắt đá xiên xẹo cốt làm bụt mù để đuổi người dân ra khỏi khu vực Tượng đài Lý Thái Tổ. Nhưng liệu anh có biết cấp chỉ huy của anh đã chủ mưu làm cho anh xấu mặt hay anh đã cố ý hành động để giúp cho Trung Cộng bảo vệ lập luận chủ quyền Hòang-Trường Sa là của họ ?
Bằng chứng về anh “công nhân đội nón cối” tên Khiên này đã được Blogger Nguyễn Lân Thắng cho biết: "Lại thêm một phát hiện: Đồng chí cầm máy cắt đội mũ cối không phải là công nhân... đồng chí ấy tên là Nguyễn Tuấn Khiên, phó đồn công an phường Tràng Tiền... điện thoại của đồng chí ấy là: +849120998888.”
Trường hợp anh Công an Khiên và những Công an vác loa đi quanh la hét vào mặt người dân, kể cả vào mặt một nữ Nhà báo nước ngòai khi bà muốn phỏng vấn Tiến sỹ Nguyễn Quang A có phải bị lên án là họ đã “bôi nhọ” văn hóa Việt Nam để làm lợi cho Trung Cộng hay phải lôi các cấp chỉ huy của họ ra trước “tòa án lương tâm” để trả lời cho hành động của mình ?
Hãy nghe một số trí thức của Thủ đô Hà Nội ghi lại “trò phá đám rẻ tiền” cuộc truy điệu yêu nước như sau:
Tiến sỹ Đào Tiến Thi:“ Ngó vào “công trình đang thi công” thì chỉ thấy mấy anh thợ đang xẻ đá. Những hòn đá nhỏ, có hòn chỉ lớn hơn nắm tay một chút và chẳng rõ xẻ như thế để làm gì. (Cho đến cuối buổi, khi người đi mít tinh đã về thì cuộc “thi công” cũng ngừng luôn và mấy cục đá xẻ lung tung đó càng tố cáo cái trò lố không che đậy được ai)…..
…Tôi nói nỗi buồn đau lớn nhất của tôi là nghĩ về dân tộc Việt Nam, từ một dân tộc anh hùng, hôm nay đã trở thành một dân tộc hèn nhát…”
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi: “Một tốp thợ đá đang chia nhau ngồi lầm lỳ cưa xẻ những phiến đá lớn nhỏ xung quanh tượng đài (mà chốc sau, khi đã vãn cuộc tôi đi quanh nhìn ngó mới biết các phiến đá họ cưa chỉ là cưa để lấy bụi nên ném vương vãi khắp nơi, hằn sâu lằn ngang lằn dọc như những chú chó đá há miệng cười trong truyện cổ tích, đến là khôi hài). Thì ra đám bụi bốc lên rất cao che mờ cả bức tượng mà vừa đến đầu đường tôi cứ tưởng là khói hương nghi ngút, chính là đám bụi đá do những người thợ đá “hành nghề không đúng lúc” này đây. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau: một mưu kế đáng gọi là “kịp thời” nhưng cũng đáng gọi là “cùng kế” của đám bộ máy chức năng, cốt để cản trở buổi lễ mà họ cầm chắc là sẽ rất xúc động – mà sự xúc động của lòng dân thì chính là điều bất lợi với nhà cầm quyền nếu nó được tổ chức trọng thể.”
Tiến Sỹ Nguyễn Quang A: “Chứng kiến cảnh chướng tai gai mắt do công an (tôi tin những người mặc thường phục hôm đó cũng là công an mặc thường phục để che mắt thiên hạ) gây ra trong buổi tưởng niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, nhưng tôi đã không nhắc đến sự kiện đau lòng và ô nhục vào buổi sáng đó trong bữa cơm tối với phó thủ tướng Vương quốc Bỉ, một giáo sư về luật hiến pháp và nhân quyền…”
Nhà giáo Phạm Tòan của nhóm Cánh Buồm:”Thấy cái anh gọi loa đó cứ quanh quẩn gần bên, tôi nói đùa, “anh là người Tàu phải không? Quảng Đông hay Quảng Tây?” Mọi người cười ồ lên. Anh ta đi sang nhóm bên cạnh tôi. Nghe có tiếng người hỏi anh ta, “hôm nay anh được trả mấy trăm?” Có anh còn rút ra tờ năm trăm ngàn giơ trước mặt anh ta nữa. Không nghe thấy lời nói đùa, chỉ thấy tiếng cười rộ.”
Song song với sự tức giận và khinh bỉ việc làm của Chính quyền, người dân Hà Nội đã nói thay cho hàng triệu người khác vào sáng ngày 19/01/2014 trước Tượng đài Lý Thái Tổ bằng những khẩu hiệu và lời hô yêu nước, tri ân các chiến sỹ của cả 2 bên chiến tuyến đã bỏ mình vì Tổ quốc.
Hãy đọc:
“Không được bán Hòang Sa”
“Đả đảo Trung quốc xâm lược-Hòang Sa-Việt Nam-Trường Sa-Việt Nam –Đả đảo tay sai bán nước. Đả đảo tay sai Tầu.”
“Đả đảo bọn bán nước !”.
Tẩy chay 16 chữ vàng & bốn tốt.
Hàng chục bó hoa trắng có hàng chữ “Hòang Sa-Việt Nam” đã được dựng dưới chân Tượng Vua Lý Thá Tổ trong khi hàng trăm người dân và dân oan từ các nởi đổ về đã hô to với những cánh tay vung lên trời cao “ Hoàng Sa-Việt Nam—Trường Sa-Việt Nam !”
Các biểu ngữ lớn nhỏ bầy tỏ lòng biết ơn các chiến sỹ đã hy sinh cho Tổ quốc và chống “tay sai Trung Cộng” cũng đã được dương cao, mặc cho những tiếng loa hò hét phá phách của Công an:
“Tưởng nhớ những người con yêu của Tổ Quốc đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc-Biên giới Tây Nam, tại Hoàng Sa & Trường Sa”
“Phong trào dân oan tri ân các anh Trường Sa-Hòang Sa”
“Tổ Quốc Ghi Công-Đời đời nhớ ơn các Anh hung bảo vệ Hòang Sa 19/1/1975-Hình Trung tá Ngụy Văn Thà, Hạm trường HQ-10 Nhật Tảo”.
“Sang Năm Tới Hòang Sa”
Như vậy khi người dân đã đứng về phía đối lập với Chính quyền để nói lên những điều biết ơn những con dân nước Việt đã nắm xuống cho mình được sống và Tổ quốc được trường tồn thì tại sao Lãnh đạo của đảng CSVN lại ngăn cấm dân chống ngọai xâm để làm lợi cho ngọai bang ?
Đó là lý do tại sao Việt Nam không dám kiện Trung Cộng ra trước Tòa án Quốc tế đã xâm chiếm biển đảo của mình như Chính phủ Phi Luật Tân đã làm, phải không ?
Cả cái Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nước có 500 Đại biểu mà không thấy ai dám “đứng về phía dân” xuống đường đòi lại biển đảo và truy ơn những liệt sỹ đã bỏ mình trong các cuộc chiến chống Tầu xâm lược thì họ đại diện cho dân ta hay dân Trung Cộng ?
Như thế thì liệu đã qúa muộn chưa để nghi vấn về Quốc tịch của Lãnh đạo, hay ta cần phải làm cuộc giải phẫu để xem máu họ thuộc dòng giống nào ?
Phạm Trần
(01/014)
Tin Đáng Chú Ý
Cơ may và thách đố tại Genève II
Vũ Văn An
05:07 23/01/2014
Hội nghị hòa bình Syria từng bị trì hoãn nhiều lần. Nay, các cuộc thương thuyết chờ đợi từ lâu đã bắt đầu ở Montreux. Nhưng đâu là cơ may cho một thoả hiệp và việc chấm dứt nội chiến tại Syria? Đài DW (Deutsche Welle) của Đức đưa ra các nhận định sau đây.
Mục tiêu của hội nghị
Mục đích hội nghị là tìm một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến Syria. Để đạt mục tiêu này, Mỹ, Nga và LHQ tìm cách đưa các đại diện của chính phủ Syria và phe đối lập tới bàn hội nghị. Hội nghị này dựa trên nghị quyết của Hội Nghị Hoà Bình Syria năm 2012, gọi là Genève I, vì diễn ra tại Genève. Nghị quyết này bao gồm việc lập ra một chính phủ chuyển tiếp, nhưng minh nhiên loại bỏ việc truất phế TT Bashar al-Assad.
Các bên của cuộc thương thuyết
Điều hiển nhiên là TT Assad sẽ không qua Thụy Sĩ phó hội, mà gửi một phái đoàn do ngoại trưởng Walid al-Muallim dẫn đầu qua hội nghị. Phe đối lập cũng sẽ tham dự các cuộc thương thuyết, dù việc họ tham dự gần đây bị tranh cãi do việc Iran có thể được mời tham dự. Phe đối lập của Syria đòi rằng muốn tham dự, Iran phải rút binh sĩ của mình ra khỏi Syria và chính thức nhìn nhận nghị quyết của Genève I. Nhóm đối lập lớn nhất, tức Hội Đồng Quốc Gia Syria (SNC), ngày 18 tháng Giêng, đã bỏ phiếu ủng hộ việc tham gia hội nghị. Pháp và Mỹ muốn Iran chấp nhận một chính phủ Syria chuyển tiếp với đầy đủ quyền hành pháp. Khi Iran minh nhiên quyết định không chấp nhận điều kiện tiên quyết này, TTK/LHQ Ban Ki-moon đã rút lại lời mời họ tham dự.
Quân Đội Tự Do Syria (FSA), cánh quân sự của phe đối lập, đã công bố ý định tẩy chay hội nghị. Tư lệnh của FSA là Salim Idriss sẽ không xem sét một cuộc ngừng bắn. Quân sĩ của ông ta sẽ không ngừng chiến đấu trong thời gian hội nghị hay sau thời gian đó. FSA và SNC đều được Tây Phương và các nước vùng Vịnh ủng hộ.
Các nhóm đối lập duy Hồi Giáo sẽ không tham dự các cuộc thương thuyết tại Montreux: họ vốn không được mời, nhưng dù sao cũng từ khước không chịu thương thuyết với chế độ Syria. Nhóm duy Hồi Giáo vốn tố cáo các nhóm ôn hòa đã nhìn nhận nền độc tài của Assad bằng cách tham dự các cuộc thương thuyết. Họ tuyên bố rằng bất cứ nhóm nào tham dự hội nghị đều bị coi là phản bội.
Nhiều nhóm đối lập không thân thiện với nhau, thậm chí còn đánh đấm nhau nữa. SNC đã tách mình ra khỏi phong trào duy Hồi Giáo quá khích.
Các tay chơi quốc tế
Bốn định chế quốc tế là LHQ, Liên Hiệp Âu Châu, Liên Đoàn Ả Rập và Tổ Chức Hợp Tác Hồi Giáo đại diện cho 30 quốc gia khắp thế giới sẽ tham dự hội nghị.
Mục tiêu của chế độ Assad
TT Assad tự xem mình là nhà cai trị hợp pháp của Syria và coi phe đối lập là bất hợp pháp. Ông liên tục gọi các chiến binh đối lập là “quân khủng bố”. Ông cũng có ý định sẽ tranh chức tổng thống trong cuộc tổng tuyển cử năm 2014, thành thử chế độ của ông luôn tìm cách tự cho thấy không chịu nhượng bộ tại hội nghị. Một đại diện của bộ ngoại giao Syria cho hay: Phái đoàn chính thức của Syria không tới Genève để trao quyền. Đòi hỏi Assad phải từ chức của Tây Phương và phe đối lập là “điều không được bàn cãi”. Chế độ cũng tuyên bố rằng họ sẽ không ký bất cứ thoả hiệp nào với “quân khủng bố”, mà theo cái nhìn của chế độ có nghĩa là quân nổi loạn và mọi người ủng hộ chúng.
Tuy nhiên, tại hội nghị, phái đoàn sẽ ngồi cùng bàn với các thành viên của các nhóm đối lập. Trước khi có hội nghị, chế độ Assad đã đưa ra một số nhượng bộ, trong đó, có việc ngừng bắn tại thành phố Aleppo.
Phe đối lập muốn gì?
Mục tiêu chính của phe đối lập là Assad từ chức. Nhiều người còn muốn ông ta chết nữa. Đa phố phe đối lập muốn một chính phủ chuyển tiếp không có Assad, hay các viên chức của Assad từng ra sức dẹp cuộc nổi dậy. Chính phủ chuyển tiếp sẽ bảo đảm các cuộc bầu cử tự do và công bằng, và khởi diễn các cải cách chính trị. Thêm vào đó, theo Sadiq al-Mousllie của SNA, ngành mật vụ và quân đội phải được cải cách: “chúng phải phục vụ nhân dân chứ không phục vụ chế độ”.
Các chủ trương sẽ ra sao?
Chế độ Assad có hai lợi điểm: phe đối lập chia rẽ và ly gián nhau: giữa các nhóm thế tục và duy Hồi Giáo có nhiều chia rẽ sâu xa, trong đó có những bất đồng ngay trong các nhóm. Thành thử tại Genève, phe đối lập sẽ không hành động một cách thống nhất, điều này làm chủ trương của họ ra yếu. Sự hiện diện lớn lao của những người duy Hồi Giáo có lợi cho Assad. Điều này đem lại cho ông cơ hội tự trình bày mình như người bảo vệ quốc gia, có khả năng bảo vệ chống lại những người duy Hồi Giáo. Chiến lược này xem ra thành công: đối với một số chính phủ Tây Phương, chế độ Assad hình như đỡ ác hơn cái ác kia.
Có cơ may cho một thỏa hiệp chăng?
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khá thận trọng trước khi hội nghị khai mạc. Không ai đánh giá thấp các thách đố. Kerry từng nói “chúng tôi biết rõ rằng các trở ngại trên đường tìm một giải pháp chính trị thì khá nhiều, và chúng tôi bước vào hội nghị Genève về Syria với đôi mắt mở rộng”. Ông gọi hội nghị là “dịp may tốt nhất” để tìm đường thoát khỏi cuộc tranh chấp đẫm máu.
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon cũng rất thận trọng: “các cuộc thương thuyết sẽ khó khăn, nhưng không có chúng, sẽ chỉ còn đổ máu và thất vọng ở chân trời”.
Mục tiêu của hội nghị
Mục đích hội nghị là tìm một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến Syria. Để đạt mục tiêu này, Mỹ, Nga và LHQ tìm cách đưa các đại diện của chính phủ Syria và phe đối lập tới bàn hội nghị. Hội nghị này dựa trên nghị quyết của Hội Nghị Hoà Bình Syria năm 2012, gọi là Genève I, vì diễn ra tại Genève. Nghị quyết này bao gồm việc lập ra một chính phủ chuyển tiếp, nhưng minh nhiên loại bỏ việc truất phế TT Bashar al-Assad.
Các bên của cuộc thương thuyết
Điều hiển nhiên là TT Assad sẽ không qua Thụy Sĩ phó hội, mà gửi một phái đoàn do ngoại trưởng Walid al-Muallim dẫn đầu qua hội nghị. Phe đối lập cũng sẽ tham dự các cuộc thương thuyết, dù việc họ tham dự gần đây bị tranh cãi do việc Iran có thể được mời tham dự. Phe đối lập của Syria đòi rằng muốn tham dự, Iran phải rút binh sĩ của mình ra khỏi Syria và chính thức nhìn nhận nghị quyết của Genève I. Nhóm đối lập lớn nhất, tức Hội Đồng Quốc Gia Syria (SNC), ngày 18 tháng Giêng, đã bỏ phiếu ủng hộ việc tham gia hội nghị. Pháp và Mỹ muốn Iran chấp nhận một chính phủ Syria chuyển tiếp với đầy đủ quyền hành pháp. Khi Iran minh nhiên quyết định không chấp nhận điều kiện tiên quyết này, TTK/LHQ Ban Ki-moon đã rút lại lời mời họ tham dự.
Quân Đội Tự Do Syria (FSA), cánh quân sự của phe đối lập, đã công bố ý định tẩy chay hội nghị. Tư lệnh của FSA là Salim Idriss sẽ không xem sét một cuộc ngừng bắn. Quân sĩ của ông ta sẽ không ngừng chiến đấu trong thời gian hội nghị hay sau thời gian đó. FSA và SNC đều được Tây Phương và các nước vùng Vịnh ủng hộ.
Các nhóm đối lập duy Hồi Giáo sẽ không tham dự các cuộc thương thuyết tại Montreux: họ vốn không được mời, nhưng dù sao cũng từ khước không chịu thương thuyết với chế độ Syria. Nhóm duy Hồi Giáo vốn tố cáo các nhóm ôn hòa đã nhìn nhận nền độc tài của Assad bằng cách tham dự các cuộc thương thuyết. Họ tuyên bố rằng bất cứ nhóm nào tham dự hội nghị đều bị coi là phản bội.
Nhiều nhóm đối lập không thân thiện với nhau, thậm chí còn đánh đấm nhau nữa. SNC đã tách mình ra khỏi phong trào duy Hồi Giáo quá khích.
Các tay chơi quốc tế
Bốn định chế quốc tế là LHQ, Liên Hiệp Âu Châu, Liên Đoàn Ả Rập và Tổ Chức Hợp Tác Hồi Giáo đại diện cho 30 quốc gia khắp thế giới sẽ tham dự hội nghị.
Mục tiêu của chế độ Assad
TT Assad tự xem mình là nhà cai trị hợp pháp của Syria và coi phe đối lập là bất hợp pháp. Ông liên tục gọi các chiến binh đối lập là “quân khủng bố”. Ông cũng có ý định sẽ tranh chức tổng thống trong cuộc tổng tuyển cử năm 2014, thành thử chế độ của ông luôn tìm cách tự cho thấy không chịu nhượng bộ tại hội nghị. Một đại diện của bộ ngoại giao Syria cho hay: Phái đoàn chính thức của Syria không tới Genève để trao quyền. Đòi hỏi Assad phải từ chức của Tây Phương và phe đối lập là “điều không được bàn cãi”. Chế độ cũng tuyên bố rằng họ sẽ không ký bất cứ thoả hiệp nào với “quân khủng bố”, mà theo cái nhìn của chế độ có nghĩa là quân nổi loạn và mọi người ủng hộ chúng.
Tuy nhiên, tại hội nghị, phái đoàn sẽ ngồi cùng bàn với các thành viên của các nhóm đối lập. Trước khi có hội nghị, chế độ Assad đã đưa ra một số nhượng bộ, trong đó, có việc ngừng bắn tại thành phố Aleppo.
Phe đối lập muốn gì?
Mục tiêu chính của phe đối lập là Assad từ chức. Nhiều người còn muốn ông ta chết nữa. Đa phố phe đối lập muốn một chính phủ chuyển tiếp không có Assad, hay các viên chức của Assad từng ra sức dẹp cuộc nổi dậy. Chính phủ chuyển tiếp sẽ bảo đảm các cuộc bầu cử tự do và công bằng, và khởi diễn các cải cách chính trị. Thêm vào đó, theo Sadiq al-Mousllie của SNA, ngành mật vụ và quân đội phải được cải cách: “chúng phải phục vụ nhân dân chứ không phục vụ chế độ”.
Các chủ trương sẽ ra sao?
Chế độ Assad có hai lợi điểm: phe đối lập chia rẽ và ly gián nhau: giữa các nhóm thế tục và duy Hồi Giáo có nhiều chia rẽ sâu xa, trong đó có những bất đồng ngay trong các nhóm. Thành thử tại Genève, phe đối lập sẽ không hành động một cách thống nhất, điều này làm chủ trương của họ ra yếu. Sự hiện diện lớn lao của những người duy Hồi Giáo có lợi cho Assad. Điều này đem lại cho ông cơ hội tự trình bày mình như người bảo vệ quốc gia, có khả năng bảo vệ chống lại những người duy Hồi Giáo. Chiến lược này xem ra thành công: đối với một số chính phủ Tây Phương, chế độ Assad hình như đỡ ác hơn cái ác kia.
Có cơ may cho một thỏa hiệp chăng?
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khá thận trọng trước khi hội nghị khai mạc. Không ai đánh giá thấp các thách đố. Kerry từng nói “chúng tôi biết rõ rằng các trở ngại trên đường tìm một giải pháp chính trị thì khá nhiều, và chúng tôi bước vào hội nghị Genève về Syria với đôi mắt mở rộng”. Ông gọi hội nghị là “dịp may tốt nhất” để tìm đường thoát khỏi cuộc tranh chấp đẫm máu.
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon cũng rất thận trọng: “các cuộc thương thuyết sẽ khó khăn, nhưng không có chúng, sẽ chỉ còn đổ máu và thất vọng ở chân trời”.
Văn Hóa
Năm Ngọ nói chuyện Ngựa
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
12:57 23/01/2014
NĂM NGỌ NÓI CHUYỆN NGỰA
NGỰA TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
Trong nhiều cuốn phim, đặc biệt những phim thời xưa, chúng ta thấy ngựa là một con vật được xử dụng để di chuyển. Đặc biệt trong chiến tranh ngựa được dùng để giao chiến và trong lịch sử mỗi quốc gia chắc hẳn có những chuyện huyền thoại về những con chiến mã đã cứu vua, cứu tướng, hoặc giúp vua, giúp tướng hiện thực được những chiến công hiển hách! Kho tàng văn chương Việt Nam, câu chuyện Thánh Gióng đã đề cập tới một con ngựa sắt như sau:
Vào thời vua Hùng Vương thứ VI, ở một làng thuộc bộ Vũ Ninh, một người đàn bà đã thụ thai một cách kỳ lạ và sinh ra một bé trai bụ bẫm, chỉ khác một điều là cậu bé không khóc, không cười, không nói! Dù đã 3 tuổi rồi mà vẫn chưa nói! Lúc bấy giờ có giặc kéo đến đánh nước Văn Lang, vua lo âu truyền chiếu chỉ tìm nhân tài ra dẹp loạn cứu nước. Nghe thế bà mẹ vỗ vào con nói giỡn “Thằng cu này bao giờ mới đi dẹp được giặc đây!” Bỗng bà thấy con biết nói, biết cười, biết ngồi v.v... giục bà đi gọi sứ của vua lại... Chú bé nói:
Bay về, bay rổng vua bay
Cơm thì bay thổi đầy bảy nong
Cà thì muối lấy ba gồng
Ngựa sắt, vọt sắt, ta dùng dẹp cho.
Mắt chú bé sáng, tiếng nói vang như sấm... Dân làng lo đi nấu và cung cấp thức ăn, chú bé ăn và cao lớn... Sứ thần về tâu vua. Vua cho đúc ngựa sắt đặc và Thánh Gióng vươn mình mặc áo giáp sắt phi ngựa, đi tới đâu dân chúng reo hò theo Thánh Gióng ra trận mạt... Nơi trận chiến Thánh Gióng tiêu diệt binh giặc đem lại thái bình cho dân nước... Xong nhiệm vụ Thánh Gióng quất ngựa bay lên đỉnh núi cao và biến mất!
Câu chuyện cổ tích trên nói lên sự khát khao một vị cứu nhân độ thế và sức mạnh của con ngựa sắt... Thành ngữ, tục ngữ dân gian Việt Nam thường ví von: Quất Ngựa truy phong - Thẳng như ruột Ngựa - Ngựa chạy đường dài - Ngựa chạy về ngược - Ngựa háu đá - Ngựa quen đường cũ - Ngựa xe như nước - Ngựa kéo Voi giày - Một con Ngựa đau cả tàu không ăn cỏ - Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn - Đường dài mới biết Ngựa hay.
Về các loại ngựa, có rất nhiều loại khác nhau như con Hà Mã, Ngựa Rằn ở Phi Châu. Dưới biển có con Hải Mã hoặc còn được gọi là con Cá Ngựa. Ở Hy Lạp thời xưa, có một giống Ngựa có cánh để bay được gọi là Phi Mã.
Tại các vùng Châu Mỹ, Úc Châu, Au Châu và Phi Châu các tay cao thủ vẫn hay dùng ngựa trong các môn thể thao... và khắp nơi trên thế giới, tại các thành phố lớn người ta thường tổ chức đua ngựa và cá ngựa. Những giải đua lên tới cả chục triệu và mỗi mùa cá ngựa tiền “cá” có thể lên tới cả tỷ đô. Ở Úc, giải Melbourne Cup vẫn là một giải đua ngựa lớn, đã trở thành ngày nghỉ lễ của cả tiểu bang...
Đấy là ngựa trong dân gian và văn học. Còn ngựa trong tôn giáo thì sao? Đặc biệt trong Thánh Kinh đã có những đoạn nào đề cập tới ngựa? Tò mò tôi đã đi tìm trong Cuốn Bách Khoa Kinh Thánh và cuốn Kinh Thánh Cựu và tân Ước xem sao?
NGỰA TRONG CỰU ƯỚC
Tôi ngạc nhiên trong Cưu Ước có tới 33 câu đề cập tới ngựa. Hầu hết các lần nói tới là ngựa là phương tiện chuyên chở cho quân binh tướng và để hạ được quân binh tướng đó, thì phải tìm cách hạ thủ con ngựa cả trong lãnh vực tâm linh như trong sách Khởi Nguyên 49: 16-17 đề cập tới Đan như một tướng lãnh của thế lực ma qủy như sau:
Đan đứng ra trọng phán dân nó đàng hoàng như một chi họ Israel,
Đan hãy là con rắn trên đường, tầm hạp nằm ngang lối,
Nó nhắm gót ngựa nó cắn mà làm kị mã lộn nhào!
Còn sách Xuất Hành chương 15 tường thuật việc Giavê Thiên Chúa can thiệp giải phóng dân Do Thái thoát khỏi ách thống trị của vua Pharaô qua cuộc vượt Biển đỏ dưới quyền thủ lãnh của Maisen. Dân Do Thái không võ trang binh kỵ chỉ tin vào Giavê Thiên Chúa, Đấng dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập sau nhiều sự lạ, ấy vậy mà vua Ai Cập sai kỹ mã và binh lính phóng ngựa đưổi theo bắt lại... Biển đỏ rẽ ra cho dân Chúa đi qua ráo chân, còn khi ngựa xe chiến mã Ai cập đuổi sau thì bị nước ập lại làm ngựa xe và họ bị nhậm chìm và trôi dạt vào bờ (Ex 15: 1, 19,21)... Những can thiệp của Giavê cho dân Người cũng được sách tiên tri Isaia chương 43 câu 17 diễn tả:
Đấng đã xuất trận với xe với ngựa,
Bá quân binh lực cùng nhau,
Chúng đã nằm rạt, không còn trỗi dậy,
Chúng đã rịu, tắt nghỉm như tim đèn.
Cũng như Giavê Thiên Chúa có thể dùng những người khiêm hạ, không tài cán để đối kháng lại những kẻ tự kiêu như tiên tri Giêrêmia đã viết trong chương 51 từ câu 20 - 23 như sau:
Ta đã dùng ngươi để đập tan các dân tộc
Ta đã dùng ngươi để hủy diệt các nước.
Ta đã dùng ngươi để dập tan ngựa với kỵ sĩ
Ta đã dùng ngươi để dập tan xe với người đánh xe v.v...
Tiên tri Amos cũng nói về sức mạnh của Giavê trước những thế lực người đời như 2:13 -15
Này đây, Ta sẽ cho các ngươi sa lầy tại chỗ,
như xe thổ mộ sa lầy khi đầy những lúa.
Kẻ lanh chai hết đường chạy trốn.
Người khoẻ mạnh vô phương trổ tài sức lực.
Anh hùng cũng vô phương thoát mạng.
Người cầm nỏ không tài đứng vững.
Người cưỡi ngựa cũng vô phương thoát mạng.
Những tâm tình tín thác vào Chúa chứ không vào sức mạnh con người hay chiến mã binh đội được diễn lột tả qua các ThánhVịnh 33: 16 -17
Vua oai không thắng nhờ lắm quân binh,
Anh hùng không thoát do nhiều sức mạnh.
Chiến mã hão huyền cho chiến thắng,
Sức nó nhiều, cũng không làm cho thoát nạn!
Và Thánh Vịnh 76: 4 – 7
Ở đó, Người bẻ gãy chớp lòe cung nỏ,
Khiên mộc, gươm giáo với chiến tranh.
Người thật sáng lạn, oai phong:
Trên từng núi chiến phẩm cướp được.
Can trường đã lăn ngủ giấc triền miên,
Hùng binh hết thảy, tay không còn cất nổi!
Tiếng Người quát ra, lạy Thiên Chúa Gia-cóp,
Xe với ngựa đã tê mê chết điếng.
Cuối cùng Thánh Vịnh 147:10-11
Nơi sức vóc ngựa, Người không vui khoái,
Bắp chân vạm vỡ, Ngươì không yêu chuộng.
Giavê yêu chuộng những ai kính sợ Người,
Những ai cậy trông ân nghĩa của Người!
Sách Cách Ngôn còn nói rõ hơn trong chương 21 câu 31 viết:
Người ta trang bị ngựa cho ngày lâm chiến,
Nhưng chiến thắng thuộc về Giavê!
Cũng như sách tiên tri Giacaria 12:4-5 nói lên cái xác quyết của dân Do Thái cũng như của quân thù rằng sức mạnh ở nơi Giavê Thiên Chúa chứ chẳng phải ở quân binh lãnh tướng:
Ta sẽ giáng đòn, làm tất cả ngựa đâm cuồng, làm kỵ mã hóa điên...
Các lạc tướng Giuđa sẽ nói trong lòng:
‘Sức mạnh của Giêrusalem nơi Giavê các đạo binh, Thiên Chúa của chúng!’
Và cũng tiên tri Giacaria trong chương đầu của ngôn sứ của Ngài nói tới một thị kiến Giavê Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài cưỡi ngựa hung hung đỏ giữa những con ngựa hồng trắng khác đi thăm sát trần gian và loan tin Giavê Thiên Chúa sẽ giải thoát đất nước Giuđa và thành thánh Giêrusalem...
NGỰA TRONG TÂN ƯỚC
Ngựa được đề cập tới 14 lần trong Tân Ước, sách Tông Đồ Công Vụ đề cập tới ngựa như phương tiện chuyên chở như trong trường hợp của Thánh Phaolô: “Các ông cũng cho dọn ngựa lừa cho Phaolô cỡi, cho ông ấy được bình an vô sự đến cùng trấn thủ Fêlix" (TĐCV 23:24).
Còn thánh Giacôbê dùng hình ảnh hàm thiết ngựa để đưa ra một bài học làm cho quảng đại quần chúng suy nghĩ “Nếu ta tra hàm thiết vào mõm ngựa được để bắt chúng theo ý ta, thì ta cũng hướng dẫn một trật cả thân mình chúng” (Giacôbê 3:3).
Đăc biệt nhất là thánh Gioan trong sách Khải Huyền chương 6 đề cập tới thị kiến của Ngài về Con Người, tức Chúa Kitô khi Ngài trở lại trong ngày cánh chung mà những vị kỵ mã của vương quốc nước trời đã dùng những con ngựa màu sắc khác nhau được diễn tả như sau:
Tôi vẫn mãi nhìn: Khi Chiên Con đã mở ấn thứ nhất, thì tôi nghe Sinh vật thứ nhất hô như tiếng sấm: "Hãy đến!"
Tôi nhìn, thì này: một con ngựa bạch, và người cỡi nó mang chiếc cung; và người ấy được ban tặng triều thiên, và đã xuất chinh đắt thắng để chiến thắng.
Và khi Ngài mở ấn thứ hai, thì tôi nghe Sinh vật thứ hai hô: "Hãy đến!" Và một con khác, con ngựa xích thố xuất hiện, còn người cỡi nó được lịnh đánh bạt bình ra khỏi cõi đất, để cho thiên hạ sát hại lẫn nhau, và người ấy được ban tặng một thanh kiếm lớn.
Và khi Ngài mở ấn thứ ba, thì tôi nghe Sinh vật thứ ba hô: "Hãy đến!" Tôi nhìn, thì này một con ngựa màu huyền, và người cỡi nó tay cầm cân; và tôi nghe từ giữa các sinh vật như có tiếng nói: "Một thưng lúa miến, một đồng quan! Ba thưng lúa mạch, một đồng quan! Còn dầu và rượu, thì ngươi đừng hại đến!" Và khi Ngài mở ấn thứ tư, thì tôi nghe thấy tiếng Sinh vật thứ tư hô: "Hãy đến!"
Tôi nhìn, thì này: một con ngựa màu lục; và người cỡi nó manh danh: Ôn dịch!- có âm phủ theo sau. Đã ban quyền cho người ấy trên phần tư cõi đất, để giết bằng gươm giáo, đói kém, ôn dịch, và thú dữ trên đất. Và khi Ngài thứ năm mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới tế đàn hồn những kẻ đã bị sát hại vì Lời Thiên Chúa, và vì lời chứng tá họ có nơi mình; họ kêu lớn tiếng rằng: "Cho đến bao giờ, lạy Chúa tể chí thánh và chân thật, Người không phân xử và báo phục cho máu chúng tôi trên dân cư trên đất".
Và đã ban tặng cho họ mỗi người một áo trắng; và có lời phán bảo họ: Hãy an nghỉ, còn một ít nữa! Chờ cho đầy số những tôi tớ cùng một Chúa với họ, các anh em họ, những người sắp phải giết như họ. Tôi vẫn mãi nhìn: Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn; và mặt trời hóa đen sẫm như bốn dệt tóc huyền; và mặt trăng hoàn toàn ra như máu.
Tinh tú trên trời sa xuống đất, như cây vả trút hết quả non, khi bị cuồng phong quày cho lăn lóc. Và trời cuốn đi mất như quyển sách cuộn lại; và núi non cùng hải đảo hết thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ. Và vua Chúa trên đất cùng Vương hầu và khanh tướng, giàu sang hay quyền thế, và nô lệ hay tự do hết thảy chui rúc ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá núi non, và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Chiên Con. Vì chứng Ngày lớn lao thịnh nộ của Người đã đến! Và ai nào có thể đứng vững được.
Trái lại trong chương 9 thánh Gioan đề cập tới Vị Thiên Thần thổi loa thứ năm với những hình phạt tàn sát địa cầu của thế giới đen tượng trương cho ma qủi: Hình thù châu chấu: chúng giống như ngựa sẵn sàng lâm chiến. Trên đầu chúng, có như thể triều thiên óng ánh vàng; và mặt chúng như mặt người ta.
Chúng có bờm như tóc đàn bà; và nanh chúng như nanh sư tử. Chúng có ngực tựa hồ áo giáp sắc; tiếng phát tự cánh chúng như tiếng xe trận rậm rộ, như vạn mã cùng xông vào trận. Chúng có đuôi như bò cạp và có nọc; chính nơi đuôi mà chúng có thế hiểm để làm thiên hạ điêu đứng trong vòng năm tháng. Chúng có Thiên thần Vực thẳm làm vua cai chúng; tên Hipri của nó là Abađđôn, còn theo tiếng Hy Lạp nó mang tên là Apollyôn.
Thánh Gioan tiếp tục thị kiến về loa thứ sáu như sau:
Và như vậy tôi đã thấy ngựa trong thị kiến, và những người cỡi chúng: Họ mặc áo giáp màu lửa đỏ, màu cánh trả, màu diêm sinh; và đầu ngựa, tựa hồ đầu sư tử; mõm chúng thét ra lửa, khói và diêm sinh. Do ba tai ương ấy, một phần ba nhân loại bị giết, bởi lửa, bởi khói, bởi diêm sinh phun ra tự mõm ngựa. Và sức hiểm của ngựa ở nơi mõm chúng, và nơi đuôi chúng: vì đuôi chúng giống như rắn có đầu; và nhờ đó mà chúng làm hại. Những người khác, những kẻ không bị giết trong các tai họa ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc thay họ đã làm; vẫn không thôi thờ ma lạy quỉ và thần tượng vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương thấy, nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ.
Cuối cùng của Sách Khải Huyền thánh Gioan nhìn thấy thị kiến chiến thắng của Vương Quốc của Đức Kitô được diễn tả trong chương 19 như sau:
Và tôi đã thấy trời mở ra, và này: một con ngựa bạch, và Đấng cỡi nó manh danh: Tin thành và Chân thật. Một cách công minh, Ngài xét xử, và giao chinh. Mắt Ngài là ngọn lửa hỏa hào; trên đầu Ngài, có nhiều vương miện; Ngài mang Danh đã viết, mà không ai biết được, chỉ trừ một mình Ngài.
Ngài mặc chiến bào nhúng máu, và danh hiệu gọi Ngài là Lời Thiên Chúa. Và theo Ngài, có những cơ binh thiên quốc cỡi ngựa bạch, mình vận trúc bâu trắng ngời tinh sạch. Tự miệng Ngài phóng ra thanh kiếm sắc bén, để nhờ đó Ngài chinh phạt các dân; chính Ngài dùng trượng sắc chăn dắt chúng. Chính Ngài đạp bồn rượu lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa toàn năng. Ngài mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Ngài: Vua trên các vua và Chúa trên các Chúa. Và tôi đã thấy một Thiên Thần đứng trên mặt trời kêu lớn tiếng bảo chim muông hết thảy bay nơi thượng đỉnh vòm trời: "Đến mau! Hội lại dự tiệc linh đình của Thiên Chúa!
Để ăn thịt vua Chúa, thịt tướng lãnh, thịt binh hùng, thịt ngựa chiến, làm một với ky mã, thịt mọi người, tự do và nô lệ, kẻ bé và người lớn!" Và tôi đã thấy Mãnh thú và vua Chúa trên đất, với các cơ binh của họ, tụ họp lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và cơ binh của Ngài. Và Mãnh thú đã bị bắt và với nó cả tiên tri giả, kẻ làm dấu lạ phò tá nó, khiến nó đã mê hoặc được những kẻ đã chịu thích tự Mãnh thú và những kẻ thờ lạy ảnh tượng nó. Cả hai bị quăng sống vào vũng lửa đốt bằng diêm sinh. Và mọi kẻ khác bị sát phạt do thanh kiếm của Đấng cỡi ngựa phóng ra tự miệng Ngài. Và hết mọi loài chim muông được no nê thịt chúng.
LỜI KẾT
Khi bước vào năm Giáp Ngọ, năm con ngựa, chắc hẳn tâm lòng của mỗi người chúng ta có những ý nghĩ khác nhau, có những mơ ước và âu lo riêng tư... Nhưng một trong những đặc điểm của ngựa là phi nhanh phóng mạnh cũng điểm tô cho mơ ước của chúng ta nhuốm màu cá biệt của loài ngựa. Chúng ta khát vọng cho lý tưởng được mau thành đạt. Chúng ta ước mơ cho thành công lớn mạnh. Chúng ta nhóm lửa tin yêu hy vọng cho cháy bừng và ghìm theo vó ngựa phi nhanh tới hang cùng ngõ hẻm để thắp sáng tin yêu cho người người và dựng xây hy vọng cho trần thế!
Như trong thị kiến của thánh Gioan chúng ta ước mơ những con ngựa của chúng ta sẽ là những con ngựa thuần, ngựa tốt phi theo con Bạch Mã của Lãnh Tướng Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai, Vua vũ trụ muôn loài...
NGỰA TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
Trong nhiều cuốn phim, đặc biệt những phim thời xưa, chúng ta thấy ngựa là một con vật được xử dụng để di chuyển. Đặc biệt trong chiến tranh ngựa được dùng để giao chiến và trong lịch sử mỗi quốc gia chắc hẳn có những chuyện huyền thoại về những con chiến mã đã cứu vua, cứu tướng, hoặc giúp vua, giúp tướng hiện thực được những chiến công hiển hách! Kho tàng văn chương Việt Nam, câu chuyện Thánh Gióng đã đề cập tới một con ngựa sắt như sau:
Vào thời vua Hùng Vương thứ VI, ở một làng thuộc bộ Vũ Ninh, một người đàn bà đã thụ thai một cách kỳ lạ và sinh ra một bé trai bụ bẫm, chỉ khác một điều là cậu bé không khóc, không cười, không nói! Dù đã 3 tuổi rồi mà vẫn chưa nói! Lúc bấy giờ có giặc kéo đến đánh nước Văn Lang, vua lo âu truyền chiếu chỉ tìm nhân tài ra dẹp loạn cứu nước. Nghe thế bà mẹ vỗ vào con nói giỡn “Thằng cu này bao giờ mới đi dẹp được giặc đây!” Bỗng bà thấy con biết nói, biết cười, biết ngồi v.v... giục bà đi gọi sứ của vua lại... Chú bé nói:
Bay về, bay rổng vua bay
Cơm thì bay thổi đầy bảy nong
Cà thì muối lấy ba gồng
Ngựa sắt, vọt sắt, ta dùng dẹp cho.
Mắt chú bé sáng, tiếng nói vang như sấm... Dân làng lo đi nấu và cung cấp thức ăn, chú bé ăn và cao lớn... Sứ thần về tâu vua. Vua cho đúc ngựa sắt đặc và Thánh Gióng vươn mình mặc áo giáp sắt phi ngựa, đi tới đâu dân chúng reo hò theo Thánh Gióng ra trận mạt... Nơi trận chiến Thánh Gióng tiêu diệt binh giặc đem lại thái bình cho dân nước... Xong nhiệm vụ Thánh Gióng quất ngựa bay lên đỉnh núi cao và biến mất!
Câu chuyện cổ tích trên nói lên sự khát khao một vị cứu nhân độ thế và sức mạnh của con ngựa sắt... Thành ngữ, tục ngữ dân gian Việt Nam thường ví von: Quất Ngựa truy phong - Thẳng như ruột Ngựa - Ngựa chạy đường dài - Ngựa chạy về ngược - Ngựa háu đá - Ngựa quen đường cũ - Ngựa xe như nước - Ngựa kéo Voi giày - Một con Ngựa đau cả tàu không ăn cỏ - Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn - Đường dài mới biết Ngựa hay.
Về các loại ngựa, có rất nhiều loại khác nhau như con Hà Mã, Ngựa Rằn ở Phi Châu. Dưới biển có con Hải Mã hoặc còn được gọi là con Cá Ngựa. Ở Hy Lạp thời xưa, có một giống Ngựa có cánh để bay được gọi là Phi Mã.
Tại các vùng Châu Mỹ, Úc Châu, Au Châu và Phi Châu các tay cao thủ vẫn hay dùng ngựa trong các môn thể thao... và khắp nơi trên thế giới, tại các thành phố lớn người ta thường tổ chức đua ngựa và cá ngựa. Những giải đua lên tới cả chục triệu và mỗi mùa cá ngựa tiền “cá” có thể lên tới cả tỷ đô. Ở Úc, giải Melbourne Cup vẫn là một giải đua ngựa lớn, đã trở thành ngày nghỉ lễ của cả tiểu bang...
Đấy là ngựa trong dân gian và văn học. Còn ngựa trong tôn giáo thì sao? Đặc biệt trong Thánh Kinh đã có những đoạn nào đề cập tới ngựa? Tò mò tôi đã đi tìm trong Cuốn Bách Khoa Kinh Thánh và cuốn Kinh Thánh Cựu và tân Ước xem sao?
NGỰA TRONG CỰU ƯỚC
Tôi ngạc nhiên trong Cưu Ước có tới 33 câu đề cập tới ngựa. Hầu hết các lần nói tới là ngựa là phương tiện chuyên chở cho quân binh tướng và để hạ được quân binh tướng đó, thì phải tìm cách hạ thủ con ngựa cả trong lãnh vực tâm linh như trong sách Khởi Nguyên 49: 16-17 đề cập tới Đan như một tướng lãnh của thế lực ma qủy như sau:
Đan đứng ra trọng phán dân nó đàng hoàng như một chi họ Israel,
Đan hãy là con rắn trên đường, tầm hạp nằm ngang lối,
Nó nhắm gót ngựa nó cắn mà làm kị mã lộn nhào!
Còn sách Xuất Hành chương 15 tường thuật việc Giavê Thiên Chúa can thiệp giải phóng dân Do Thái thoát khỏi ách thống trị của vua Pharaô qua cuộc vượt Biển đỏ dưới quyền thủ lãnh của Maisen. Dân Do Thái không võ trang binh kỵ chỉ tin vào Giavê Thiên Chúa, Đấng dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập sau nhiều sự lạ, ấy vậy mà vua Ai Cập sai kỹ mã và binh lính phóng ngựa đưổi theo bắt lại... Biển đỏ rẽ ra cho dân Chúa đi qua ráo chân, còn khi ngựa xe chiến mã Ai cập đuổi sau thì bị nước ập lại làm ngựa xe và họ bị nhậm chìm và trôi dạt vào bờ (Ex 15: 1, 19,21)... Những can thiệp của Giavê cho dân Người cũng được sách tiên tri Isaia chương 43 câu 17 diễn tả:
Đấng đã xuất trận với xe với ngựa,
Bá quân binh lực cùng nhau,
Chúng đã nằm rạt, không còn trỗi dậy,
Chúng đã rịu, tắt nghỉm như tim đèn.
Cũng như Giavê Thiên Chúa có thể dùng những người khiêm hạ, không tài cán để đối kháng lại những kẻ tự kiêu như tiên tri Giêrêmia đã viết trong chương 51 từ câu 20 - 23 như sau:
Ta đã dùng ngươi để đập tan các dân tộc
Ta đã dùng ngươi để hủy diệt các nước.
Ta đã dùng ngươi để dập tan ngựa với kỵ sĩ
Ta đã dùng ngươi để dập tan xe với người đánh xe v.v...
Tiên tri Amos cũng nói về sức mạnh của Giavê trước những thế lực người đời như 2:13 -15
Này đây, Ta sẽ cho các ngươi sa lầy tại chỗ,
như xe thổ mộ sa lầy khi đầy những lúa.
Kẻ lanh chai hết đường chạy trốn.
Người khoẻ mạnh vô phương trổ tài sức lực.
Anh hùng cũng vô phương thoát mạng.
Người cầm nỏ không tài đứng vững.
Người cưỡi ngựa cũng vô phương thoát mạng.
Những tâm tình tín thác vào Chúa chứ không vào sức mạnh con người hay chiến mã binh đội được diễn lột tả qua các ThánhVịnh 33: 16 -17
Vua oai không thắng nhờ lắm quân binh,
Anh hùng không thoát do nhiều sức mạnh.
Chiến mã hão huyền cho chiến thắng,
Sức nó nhiều, cũng không làm cho thoát nạn!
Và Thánh Vịnh 76: 4 – 7
Ở đó, Người bẻ gãy chớp lòe cung nỏ,
Khiên mộc, gươm giáo với chiến tranh.
Người thật sáng lạn, oai phong:
Trên từng núi chiến phẩm cướp được.
Can trường đã lăn ngủ giấc triền miên,
Hùng binh hết thảy, tay không còn cất nổi!
Tiếng Người quát ra, lạy Thiên Chúa Gia-cóp,
Xe với ngựa đã tê mê chết điếng.
Cuối cùng Thánh Vịnh 147:10-11
Nơi sức vóc ngựa, Người không vui khoái,
Bắp chân vạm vỡ, Ngươì không yêu chuộng.
Giavê yêu chuộng những ai kính sợ Người,
Những ai cậy trông ân nghĩa của Người!
Sách Cách Ngôn còn nói rõ hơn trong chương 21 câu 31 viết:
Người ta trang bị ngựa cho ngày lâm chiến,
Nhưng chiến thắng thuộc về Giavê!
Cũng như sách tiên tri Giacaria 12:4-5 nói lên cái xác quyết của dân Do Thái cũng như của quân thù rằng sức mạnh ở nơi Giavê Thiên Chúa chứ chẳng phải ở quân binh lãnh tướng:
Ta sẽ giáng đòn, làm tất cả ngựa đâm cuồng, làm kỵ mã hóa điên...
Các lạc tướng Giuđa sẽ nói trong lòng:
‘Sức mạnh của Giêrusalem nơi Giavê các đạo binh, Thiên Chúa của chúng!’
Và cũng tiên tri Giacaria trong chương đầu của ngôn sứ của Ngài nói tới một thị kiến Giavê Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài cưỡi ngựa hung hung đỏ giữa những con ngựa hồng trắng khác đi thăm sát trần gian và loan tin Giavê Thiên Chúa sẽ giải thoát đất nước Giuđa và thành thánh Giêrusalem...
NGỰA TRONG TÂN ƯỚC
Ngựa được đề cập tới 14 lần trong Tân Ước, sách Tông Đồ Công Vụ đề cập tới ngựa như phương tiện chuyên chở như trong trường hợp của Thánh Phaolô: “Các ông cũng cho dọn ngựa lừa cho Phaolô cỡi, cho ông ấy được bình an vô sự đến cùng trấn thủ Fêlix" (TĐCV 23:24).
Còn thánh Giacôbê dùng hình ảnh hàm thiết ngựa để đưa ra một bài học làm cho quảng đại quần chúng suy nghĩ “Nếu ta tra hàm thiết vào mõm ngựa được để bắt chúng theo ý ta, thì ta cũng hướng dẫn một trật cả thân mình chúng” (Giacôbê 3:3).
Đăc biệt nhất là thánh Gioan trong sách Khải Huyền chương 6 đề cập tới thị kiến của Ngài về Con Người, tức Chúa Kitô khi Ngài trở lại trong ngày cánh chung mà những vị kỵ mã của vương quốc nước trời đã dùng những con ngựa màu sắc khác nhau được diễn tả như sau:
Tôi vẫn mãi nhìn: Khi Chiên Con đã mở ấn thứ nhất, thì tôi nghe Sinh vật thứ nhất hô như tiếng sấm: "Hãy đến!"
Tôi nhìn, thì này: một con ngựa bạch, và người cỡi nó mang chiếc cung; và người ấy được ban tặng triều thiên, và đã xuất chinh đắt thắng để chiến thắng.
Và khi Ngài mở ấn thứ hai, thì tôi nghe Sinh vật thứ hai hô: "Hãy đến!" Và một con khác, con ngựa xích thố xuất hiện, còn người cỡi nó được lịnh đánh bạt bình ra khỏi cõi đất, để cho thiên hạ sát hại lẫn nhau, và người ấy được ban tặng một thanh kiếm lớn.
Và khi Ngài mở ấn thứ ba, thì tôi nghe Sinh vật thứ ba hô: "Hãy đến!" Tôi nhìn, thì này một con ngựa màu huyền, và người cỡi nó tay cầm cân; và tôi nghe từ giữa các sinh vật như có tiếng nói: "Một thưng lúa miến, một đồng quan! Ba thưng lúa mạch, một đồng quan! Còn dầu và rượu, thì ngươi đừng hại đến!" Và khi Ngài mở ấn thứ tư, thì tôi nghe thấy tiếng Sinh vật thứ tư hô: "Hãy đến!"
Tôi nhìn, thì này: một con ngựa màu lục; và người cỡi nó manh danh: Ôn dịch!- có âm phủ theo sau. Đã ban quyền cho người ấy trên phần tư cõi đất, để giết bằng gươm giáo, đói kém, ôn dịch, và thú dữ trên đất. Và khi Ngài thứ năm mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới tế đàn hồn những kẻ đã bị sát hại vì Lời Thiên Chúa, và vì lời chứng tá họ có nơi mình; họ kêu lớn tiếng rằng: "Cho đến bao giờ, lạy Chúa tể chí thánh và chân thật, Người không phân xử và báo phục cho máu chúng tôi trên dân cư trên đất".
Và đã ban tặng cho họ mỗi người một áo trắng; và có lời phán bảo họ: Hãy an nghỉ, còn một ít nữa! Chờ cho đầy số những tôi tớ cùng một Chúa với họ, các anh em họ, những người sắp phải giết như họ. Tôi vẫn mãi nhìn: Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn; và mặt trời hóa đen sẫm như bốn dệt tóc huyền; và mặt trăng hoàn toàn ra như máu.
Tinh tú trên trời sa xuống đất, như cây vả trút hết quả non, khi bị cuồng phong quày cho lăn lóc. Và trời cuốn đi mất như quyển sách cuộn lại; và núi non cùng hải đảo hết thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ. Và vua Chúa trên đất cùng Vương hầu và khanh tướng, giàu sang hay quyền thế, và nô lệ hay tự do hết thảy chui rúc ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá núi non, và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Chiên Con. Vì chứng Ngày lớn lao thịnh nộ của Người đã đến! Và ai nào có thể đứng vững được.
Trái lại trong chương 9 thánh Gioan đề cập tới Vị Thiên Thần thổi loa thứ năm với những hình phạt tàn sát địa cầu của thế giới đen tượng trương cho ma qủi: Hình thù châu chấu: chúng giống như ngựa sẵn sàng lâm chiến. Trên đầu chúng, có như thể triều thiên óng ánh vàng; và mặt chúng như mặt người ta.
Chúng có bờm như tóc đàn bà; và nanh chúng như nanh sư tử. Chúng có ngực tựa hồ áo giáp sắc; tiếng phát tự cánh chúng như tiếng xe trận rậm rộ, như vạn mã cùng xông vào trận. Chúng có đuôi như bò cạp và có nọc; chính nơi đuôi mà chúng có thế hiểm để làm thiên hạ điêu đứng trong vòng năm tháng. Chúng có Thiên thần Vực thẳm làm vua cai chúng; tên Hipri của nó là Abađđôn, còn theo tiếng Hy Lạp nó mang tên là Apollyôn.
Thánh Gioan tiếp tục thị kiến về loa thứ sáu như sau:
Và như vậy tôi đã thấy ngựa trong thị kiến, và những người cỡi chúng: Họ mặc áo giáp màu lửa đỏ, màu cánh trả, màu diêm sinh; và đầu ngựa, tựa hồ đầu sư tử; mõm chúng thét ra lửa, khói và diêm sinh. Do ba tai ương ấy, một phần ba nhân loại bị giết, bởi lửa, bởi khói, bởi diêm sinh phun ra tự mõm ngựa. Và sức hiểm của ngựa ở nơi mõm chúng, và nơi đuôi chúng: vì đuôi chúng giống như rắn có đầu; và nhờ đó mà chúng làm hại. Những người khác, những kẻ không bị giết trong các tai họa ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc thay họ đã làm; vẫn không thôi thờ ma lạy quỉ và thần tượng vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương thấy, nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ.
Cuối cùng của Sách Khải Huyền thánh Gioan nhìn thấy thị kiến chiến thắng của Vương Quốc của Đức Kitô được diễn tả trong chương 19 như sau:
Và tôi đã thấy trời mở ra, và này: một con ngựa bạch, và Đấng cỡi nó manh danh: Tin thành và Chân thật. Một cách công minh, Ngài xét xử, và giao chinh. Mắt Ngài là ngọn lửa hỏa hào; trên đầu Ngài, có nhiều vương miện; Ngài mang Danh đã viết, mà không ai biết được, chỉ trừ một mình Ngài.
Ngài mặc chiến bào nhúng máu, và danh hiệu gọi Ngài là Lời Thiên Chúa. Và theo Ngài, có những cơ binh thiên quốc cỡi ngựa bạch, mình vận trúc bâu trắng ngời tinh sạch. Tự miệng Ngài phóng ra thanh kiếm sắc bén, để nhờ đó Ngài chinh phạt các dân; chính Ngài dùng trượng sắc chăn dắt chúng. Chính Ngài đạp bồn rượu lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa toàn năng. Ngài mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Ngài: Vua trên các vua và Chúa trên các Chúa. Và tôi đã thấy một Thiên Thần đứng trên mặt trời kêu lớn tiếng bảo chim muông hết thảy bay nơi thượng đỉnh vòm trời: "Đến mau! Hội lại dự tiệc linh đình của Thiên Chúa!
Để ăn thịt vua Chúa, thịt tướng lãnh, thịt binh hùng, thịt ngựa chiến, làm một với ky mã, thịt mọi người, tự do và nô lệ, kẻ bé và người lớn!" Và tôi đã thấy Mãnh thú và vua Chúa trên đất, với các cơ binh của họ, tụ họp lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và cơ binh của Ngài. Và Mãnh thú đã bị bắt và với nó cả tiên tri giả, kẻ làm dấu lạ phò tá nó, khiến nó đã mê hoặc được những kẻ đã chịu thích tự Mãnh thú và những kẻ thờ lạy ảnh tượng nó. Cả hai bị quăng sống vào vũng lửa đốt bằng diêm sinh. Và mọi kẻ khác bị sát phạt do thanh kiếm của Đấng cỡi ngựa phóng ra tự miệng Ngài. Và hết mọi loài chim muông được no nê thịt chúng.
LỜI KẾT
Khi bước vào năm Giáp Ngọ, năm con ngựa, chắc hẳn tâm lòng của mỗi người chúng ta có những ý nghĩ khác nhau, có những mơ ước và âu lo riêng tư... Nhưng một trong những đặc điểm của ngựa là phi nhanh phóng mạnh cũng điểm tô cho mơ ước của chúng ta nhuốm màu cá biệt của loài ngựa. Chúng ta khát vọng cho lý tưởng được mau thành đạt. Chúng ta ước mơ cho thành công lớn mạnh. Chúng ta nhóm lửa tin yêu hy vọng cho cháy bừng và ghìm theo vó ngựa phi nhanh tới hang cùng ngõ hẻm để thắp sáng tin yêu cho người người và dựng xây hy vọng cho trần thế!
Như trong thị kiến của thánh Gioan chúng ta ước mơ những con ngựa của chúng ta sẽ là những con ngựa thuần, ngựa tốt phi theo con Bạch Mã của Lãnh Tướng Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai, Vua vũ trụ muôn loài...
Năm Giáp Ngọ - Nghĩ về cú ngã ngựa lịch sử
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
09:59 23/01/2014
NĂM GIÁP NGỌ - NGHĨ VỀ CÚ NGÃ NGỰA LỊCH SỬ
Năm Quý Tỵ đã qua, Năm Giáp Ngọ đang đến. Con Rắn bò chậm chạp. Con Ngựa phi nước kiệu.
Thánh Vịnh 147 viết: “Vó ngựa phi Chúa không ưa chuộng, chẳng thích gì chân kẻ chạy nhanh. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật” (câu 10-11).
Lời Kinh Thánh muốn dạy rằng: con ngựa dùng trong giao tranh thì Chúa không thích, người cậy vào sức mình thì Chúa không ưa. Chúa yêu thích những ai biết khiêm nhường trông cậy nơi Ngài.
Thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại là một chứng nhân sống động của Lời Thánh Vịnh 147.
Saolô kiêu căng đã “ngã ngựa” trên đường Đamat rồi trở thành Phaolô khiêm tốn tín thác vào Thiên Chúa trong hành trình truyền giáo và trở nên cột trụ Giáo Hội.
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Ngã ngựa là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời thánh nhân ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi".
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa Nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô...” ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng:" anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì Đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39).
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
4. Năm Giáp Ngọ với nhiều hy vọng
Con Rắn nham hiểm đã từng cám dỗ Evà bất tuân lệnh Thiên Chúa (x.St 3,4) và còn rình cắn gót chân người đàn bà (x.St 3,15). Nhưng chính dòng giống người nữ đã đạp nát đầu con rắn.Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “Tôi lại thấy Con Thú và vua chúa trên mặt đất, cùng với các đạo quân của chúng, tụ tập lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và đạo quân của Người” (Kh 19, 19). Sự can thiệp của Đức Kitô (x. Kh 19,11-21; 20, 1-10), với lối văn đặc biệt trang trọng, tác giả giới thiệu nhân vật chính, đó là Đức Kitô – Con Chiên, bằng nhiều cách: lời của Người, bằng hoạt động mục tử như cách diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa; Người chế ngự các lực lượng thù nghịch là các vua chúa trần gian rồi con quái vật, tên ngôn sứ của nó; còn lại con mãng xà, nó sẽ bị đánh bại trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến vĩ đại (x. Tìm hiểu sách Khải Huyền, trang 245-284, Lm FX Vũ Phan Long, ofm).
Năm 2014 cầm tinh Con Ngựa đang chạy đến gần.
Ngựa là loài vật có thân hình to lớn, dũng mãnh, bốn chân mạnh mẽ với móng cứng bằng sừng, trên đầu có bờm và cuối thân là đuôi dài gần chấm đất. Ngựa nổi tiếng chạy nhanh, dẻo dai nên được loài người nuôi như thú vật nhà để cỡi, kéo xe, kéo cày. Ngựa có lỗ tai rất thính và đôi vành tai có thể cử động được để dựng đứng lên và xoay về hướng phát ra tiếng động như giàn rađa.Đặc tính nổi bật của ngựa là dẻo dai và chạy nhanh nhất trong các loài vật. Ngựa là con vật tinh khôn và rất trung thành với chủ.
Hy vọng năm Giáp Ngọ, rộng rãi hào phóng nhanh nhẹn, sẽ mang đến nhiều điều may mắn, phúc lành cho mọi người.
Năm Quý Tỵ đã qua, Năm Giáp Ngọ đang đến. Con Rắn bò chậm chạp. Con Ngựa phi nước kiệu.
Lời Kinh Thánh muốn dạy rằng: con ngựa dùng trong giao tranh thì Chúa không thích, người cậy vào sức mình thì Chúa không ưa. Chúa yêu thích những ai biết khiêm nhường trông cậy nơi Ngài.
Thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại là một chứng nhân sống động của Lời Thánh Vịnh 147.
Saolô kiêu căng đã “ngã ngựa” trên đường Đamat rồi trở thành Phaolô khiêm tốn tín thác vào Thiên Chúa trong hành trình truyền giáo và trở nên cột trụ Giáo Hội.
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Ngã ngựa là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời thánh nhân ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi".
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa Nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô...” ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng:" anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì Đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39).
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
4. Năm Giáp Ngọ với nhiều hy vọng
Con Rắn nham hiểm đã từng cám dỗ Evà bất tuân lệnh Thiên Chúa (x.St 3,4) và còn rình cắn gót chân người đàn bà (x.St 3,15). Nhưng chính dòng giống người nữ đã đạp nát đầu con rắn.Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “Tôi lại thấy Con Thú và vua chúa trên mặt đất, cùng với các đạo quân của chúng, tụ tập lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và đạo quân của Người” (Kh 19, 19). Sự can thiệp của Đức Kitô (x. Kh 19,11-21; 20, 1-10), với lối văn đặc biệt trang trọng, tác giả giới thiệu nhân vật chính, đó là Đức Kitô – Con Chiên, bằng nhiều cách: lời của Người, bằng hoạt động mục tử như cách diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa; Người chế ngự các lực lượng thù nghịch là các vua chúa trần gian rồi con quái vật, tên ngôn sứ của nó; còn lại con mãng xà, nó sẽ bị đánh bại trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến vĩ đại (x. Tìm hiểu sách Khải Huyền, trang 245-284, Lm FX Vũ Phan Long, ofm).
Năm 2014 cầm tinh Con Ngựa đang chạy đến gần.
Ngựa là loài vật có thân hình to lớn, dũng mãnh, bốn chân mạnh mẽ với móng cứng bằng sừng, trên đầu có bờm và cuối thân là đuôi dài gần chấm đất. Ngựa nổi tiếng chạy nhanh, dẻo dai nên được loài người nuôi như thú vật nhà để cỡi, kéo xe, kéo cày. Ngựa có lỗ tai rất thính và đôi vành tai có thể cử động được để dựng đứng lên và xoay về hướng phát ra tiếng động như giàn rađa.Đặc tính nổi bật của ngựa là dẻo dai và chạy nhanh nhất trong các loài vật. Ngựa là con vật tinh khôn và rất trung thành với chủ.
Hy vọng năm Giáp Ngọ, rộng rãi hào phóng nhanh nhẹn, sẽ mang đến nhiều điều may mắn, phúc lành cho mọi người.
Giáp Ngọ : Ngựa Chiến - Ngựa Thồ
Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
19:21 23/01/2014
Gặp ngựa thồ chuyên chở dọc đường.
Chiến nhìn thồ, vẻ khinh thường
Cũng cùng kiếp ngựa dặm trường kém xa!
Chiến lên tiếng:"Nghe Ta hỏi chú:
Đi kiểu này, cộng đủ một năm
Quãng đường cây số vài trăm
Bằng ta nước đại chỉ dăm ba ngày!"
Thồ khiêm tốn, dướn mày bình thản:
"Chỉ vài trăm, tài sản con người.
Đi trong tiếng hát, nụ cười
Thì hơn la thét, oán trời, khóc than!"
"Ta gìn giữ thôn làng, thành phố
Chiến tranh thì máu đổ, khóc than.
Nhưng là giữ nước vẹn toàn
Chiến tranh chính nghĩa vinh quang đất trời”.
“Nhưng đó là mỗi người nhận định
Lịch sử dần hiệu chỉnh đúng sai.
Hòa bình không của riêng ai
Khắp toàn thế giới mọi ngày, mọi nơi”.
“Và chiến tranh là giết sinh linh.
Tấn chiến thắng dẫu quang vinh
Không bằng một ký (kg) hòa bình trong tay.
“Rèn gươm đao nên cày, nên cuốc
Giáo mác nên hái tốt, liềm trơn”(Ge 4,10).
Chiến như không thể đợi hơn
Cắt ngang, dồn ép đối phương theo mình:
Nhưng cổ ngữ La-tinh đã chỉ:
"Muốn hoà bình, chuẩn bị chiến tranh"
Chú mày chẳng chịu học hành
Tự ti, nhược quốc nên đành mà thôi".
Thồ chậm rãi:"Nghe tôi đề nghị
Hãy tuân theo gợi ý Phaolô:
“Chỉ nên tham dự cuộc đua
Để chiếm phần thưởng của vua muôn đời”( x.1Cr 9,24-25)
“Chú mày nói những lời nghe được,
Nên cùng nhìn phía trước hành trình.
Nhưng ta ngựa chiến viễn chinh,
Làm gì trong cảnh hòa bình được đây?”
Thồ hạ giọng: “Càng đầy thuận tiện,
Các hãng phim nổi tiếng gọi mời.
Đỉnh cao nghệ thuật tuyệt vời,
Nhân văn, giáo dục, mọi thời nhớ ghi.
Hoặc có thể chuyển đi du lịch
Khám phá bao kỳ tích, kỳ quan.
Thân tôi chỉ ngựa thồ hàng
Vẫn luôn mở rộng nhãn quan mỗi ngày”
Chiến ngạc nhiên: “Chú mày thật tuyệt
Ta chỉ đi đến hết trận này
Mai về ta sẽ đổi thay,
Càng thêm đẹp mã, chú mày nghĩ sao?
Thồ phấn khởi nâng cao sĩ diện
Nhìn anh chàng ngựa chiến nói ngay:
“Anh nên thay đổi hôm nay,
Mùa xuân Giáp Ngọ, xuân này đẹp hơn!”.
Chiến gật đầu lên đường đổi mới
Thồ nhìn theo, gọi với bên đường:
“Chúc anh mạnh mẽ thao trường,
Chúc anh “Mã đáo cát tường thành công!”
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thập Tự Thiêng
Nguyễn Hùng
22:13 23/01/2014
Ảnh của Nguyễn Hùng
Khi Người trút hơi thở trong thế gian tăm tối
Cả môt biển ánh sáng thương xót
khởi sinh cứu rỗi nhân gian.
(Pleiksor nth)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 17/01 - 23/01/2014: Ngày Thế Giới Di Dân lần thứ 100, các sự kiện tại Medjugorje
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:32 23/01/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Chúa đã là một người dân viễn xứ, Chúa cũng đã là một người dân di cư, Chúa đã lang thang không một nơi trú ngụ. Chúa đã một thời rày đây mai đó. Chính vì thế Giáo Hội rất cảm thông và chú ý đến thân phận của những người di dân và tị nạn, là những người phải bỏ nhà cửa, làng mạc sau lưng để đối diện với một tương lai bất định trước mắt.
Ngày Chúa Nhật 19 tháng Giêng vừa qua, Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Di Dân lần thứ 100; nghĩa là trong 100 năm qua, trong nhiều dịp và dưới nhiều hình thức khác nhau Giáo Hội không ngừng gióng lên lời mời gọi con người hãy chú ý đến những thảm trạng của chiến tranh, bạo lực và áp ức đã khiến cho đến cuối năm 2013 vừa qua trên thế giới đã có 200 triệu người phải di dân trong đó có 44 triệu là người tị nạn.
Trong Ngày Thế Giới Di Dân vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có những hoạt động đánh dấu ngày này.
Trước hết, trong buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến việc chăm sóc những người nhập cư, và kết án nạn buôn bán người.
Đức Thánh Cha nói:
“Tôi muốn cảm ơn tất cả những ai làm việc với người di cư, những người chào đón họ và đồng hành với họ trong những thời điểm khó khăn ban đầu, để bảo vệ họ chống lại những người mà Thánh Giovanni Battista Scalabrini gọi là ‘những thương gia trên xác thịt con người’, những kẻ muốn nô dịch những người di cư.”
Mặc dù thời tiết xấu, hàng ngàn khách hành hương đã tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô để lắng nghe lời Đức Thánh Cha.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha cũng đã giải thích ý nghĩa của việc là một môn đệ Chúa Giêsu ngày hôm nay. Ngài nói:
"Là một môn đệ Chúa có nghĩa là trong sạch giữa chốn bùn nhơ, yêu thương giữa nơi oán thù, khiêm nhu giữa phường kiêu căng, phục vụ giữa phường ngạo mạn."
Ở cuối bài phát biểu của mình, Đức Thánh Cha đã xin các tín hữu cầu nguyện xin ơn chữa lành cho những đau khổ và gian truân của những người buộc phải rời bỏ nhà cửa do tình huống nghiêm trọng.
2. Đức Thánh Cha đến thăm giáo xứ đông người vô gia cư tại Rôma
Sáng Chúa Nhật 19 tháng Giêng, Đức Thánh Cha đã đến thăm giáo xứ Thánh Tâm ở Rôma. Giáo xứ này nằm kế bên nhà ga Termini, là nhà ga xe lửa chính của thành phố, nơi tập trung đông đảo những người vô gia cư.
Cha Valerio Baresi, linh mục giáo xứ cho biết:
"Khi Đức Thánh Cha biết chúng tôi đang làm việc với các bạn trẻ, những người nghèo và những người tị nạn, ngài nói rằng ngài chắc chắn sẽ đến thăm."
Những cảnh quý vị và anh chị em đang thấy đây là những cảnh thường thấy về đêm tại khu vực này với những người ngủ trên đường phố, trong các hộp các tông. Nhưng dù thế, tại giáo xứ Thánh Tâm, họ tìm được sự chào đón ân cần, và sự hỗ trợ để hội nhập vào xã hội. Luigi là một người trong số đó. Ông may mắn tìm thấy một nơi cư trú vào ban đêm.
Trong ngày, Luigi dành phần lớn thời gian của mình trên đường phố, và trong khi cố nuôi hy vọng là một ngày kia sẽ tìm được một công ăn việc làm, ông cũng biết điều đó sẽ không dễ dàng gì. Ông đã 59 tuổi lại bị một chứng bệnh làm hạn chế tầm nhìn của ông.
Phát biểu về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, ông Luigi Grigoldo nói:
"Tôi muốn nói với Đức Thánh Cha rất nhiều điều. Nhưng không cần nói nữa, bởi vì ngài đã biết những cảm nhận của chúng tôi như thể ngài nhìn thấy tận mắt những điều ấy. Nhưng thực sự là một may mắn để được gặp ngài. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thật tuyệt vời và tôi thực sự ao ước cuối cùng gặp được ngài."
Giáo xứ Thánh Tâm được dòng Salêdiêng coi sóc, đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ cho người nghèo, bao gồm cả những người tị nạn. Các nữ tu thuộc tu hội Những nhà truyền giáo của Chúa Kitô Phục Sinh phụ giúp các linh mục Salêdiêng trong các hoạt động giáo dục và phúc lợi. Những nữ tu này đã đến với nhà thờ Thánh Tâm cách đây bốn năm, và kể từ đó, mọi sinh hoạt trở nên rất náo nhiệt.
Ngày nay, khoảng 400 người tị nạn sống nhờ vào giáo xứ này. Stephen là một người tị nạn Ghana đang được trợ giúp tại giáo xứ, anh đã phải dừng chân ở hòn đảo khét tiếng Lampedusa, trước khi đến được Rôma.
Anh Stephen Dery nói:
"Tôi rất hạnh phúc với anh chị em trong giáo xứ bởi vì họ có tình yêu dành cho tất cả mọi người ở đây, hầu hết trong số họ là người tị nạn. Thỉnh thoảng, có những bữa ăn tối cho người tị nạn ở đây. Chúng tôi tụ tập để ăn tối với nhau."
Sơ Maria Mercedes Guaita nữ tu thuộc tu hội Những nhà truyền giáo của Chúa Kitô Phục Sinh nói:
"Chúng tôi lắng nghe những câu chuyện về cuộc sống của họ, uống trà với họ. Nhiều lần họ nói, đây là lần đầu tiên tôi được mời dùng trà từ khi tôi bỏ nhà đi tị nạn. Nhiều người đã nhìn thấy bạn bè của họ chết như thế nào trên đường chạy trốn. Và tệ hơn có cả những người trong gia đình đã bị giết. "
Đức Thánh Cha dành ra bốn giờ để gặp gỡ các nhóm trong giáo xứ. Ngoài những người vô gia cư, Đức Thánh Cha cũng gặp những người tị nạn, những tình nguyện viên và các thanh niên thiếu nữ trong giáo xứ. Đức Thánh Cha dành nhiều thời gian để trả lời các câu hỏi của họ.
Đức Thánh Cha cũng đã giải tội cho một nhóm anh chị em giáo dân, cử hành thánh lễ, và gặp gỡ các bệnh nhân. Ngài cũng gặp gỡ cộng đoàn các linh mục, tu sĩ dòng Salêdiêng và các nữ tu thuộc tu hội Những nhà truyền giáo của Chúa Kitô Phục Sinh đang coi sóc giáo xứ.
3. Hoạt động của Đức Thánh Cha tại giáo xứ Thánh Tâm
Mặc dù trời mưa, hàng ngàn tín hữu đã nồng nhiệt đón tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô khi ngài đến viếng giáo xứ Thánh Tâm, do chính thánh Gioan Bosco thành lập cạnh Nhà Ga Trung ương Termini ở Roma vào chiều Chúa Nhật 19 tháng Giêng, là ngày Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Di Dân lần thứ 100.
Cuộc viếng thăm kéo dài gần 4 tiếng đồng hồ. Khi đến nơi vào lúc quá 4 giờ chiều, Đức Thánh Cha đã gặp các giáo dân ở khuôn viên giáo xứ rồi trong một phòng, ngài gặp khoảng 60 người vô gia cư. Tiếp đến, trong một phòng khác, ngài gặp khoảng 100 người tị nạn, trong đó có một số người trẻ tị nạn đến Italia và đã trú ngụ tại đảo Lampedusa, cực nam Italia. Tham dự cuộc gặp gỡ cũng có đại diện của những người thiện nguyện trong xứ đạo. Rồi Đức Thánh Cha gặp các trẻ em được rửa tội trong năm cùng với cha mẹ các em, các đôi vợ chồng mới cưới và các gia đình trẻ.
Ngài đã giải tội cho 5 người, trước khi bắt đầu cử hành thánh lễ vào khoảng 6 giờ chiều.
Không ai trong số những người tham dự muốn bỏ lỡ một giây phút khi Đức Thánh Cha viếng thăm nơi đây.
4. Đức Thánh Cha gặp gỡ những người di dân
Mặc dù trời mưa, hàng ngàn tín hữu đã nồng nhiệt đón tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô khi ngài đến viếng giáo xứ Thánh Tâm, do thánh Gioan Bosco thành lập cạnh Nhà Ga Trung ương Termini ở Roma vào chiều Chúa Nhật 19 tháng Giêng, là ngày Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Di Dân lần thứ 100.
Cuộc viếng thăm kéo dài gần 4 tiếng đồng hồ. Khi đến nơi vào lúc quá 4 giờ chiều, Đức Thánh Cha đã gặp các giáo dân ở khuôn viên giáo xứ rồi trong một phòng, ngài gặp khoảng 60 người vô gia cư. Tiếp đến, trong một phòng khác, ngài gặp khoảng 100 người tị nạn, trong đó có một số người trẻ tị nạn đến Italia và đã trú ngụ tại đảo Lampedusa, cực nam Italia. Tham dự cuộc gặp gỡ cũng có đại diện của những người thiện nguyện trong xứ đạo. Rồi Đức Thánh Cha gặp các trẻ em được rửa tội trong năm cùng với cha mẹ các em, các đôi vợ chồng mới cưới và các gia đình trẻ.
Ngài đã giải tội cho 5 người, trước khi bắt đầu cử hành thánh lễ vào khoảng 6 giờ chiều.
Không ai trong số những người tham dự muốn bỏ lỡ một giây phút khi Đức Thánh Cha viếng thăm nơi đây.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nói về bí quyết để thành công trong cuộc sống.
Ngài nói:
"Nhiều lần, chúng ta tin tưởng một bác sĩ: Rất tốt vì bác sĩ chữa trị cho chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào những anh chị em đang cố gắng giúp chúng ta. Rất tốt khi có sự tin tưởng giữa con người với nhau. Nhưng chúng ta quên đi sự tin tưởng nơi Chúa: Ngài chính là bí quyết để chúng ta thành công trong cuộc sống.”
Thỉnh thoảng, Đức Thánh Cha đã nói bằng tiếng Tây Ban Nha khiến nhà thờ sinh động hẳn lên. Vì có đông đảo người trẻ, nên Đức Thánh Cha đã có vài lời nói với họ:
“Hãy chú ý lắng nghe hỡi các bạn trẻ nam nữ, những người đang ở ngưỡng cửa cuộc đời: Chúa Giêsu không bao giờ thất vọng. Không bao giờ. Hãy lắng nghe những gì thánh Gioan nói: Chúa Giêsu nhân hậu, hiền lành như con chiên bị đem đi giết mà không một lời oán trách thở than. Ngài đến để cứu chúng ta, để lấy đi những tội lỗi của chúng ta. Của anh chị em, của tôi, và toàn bộ thế giới. Tất cả mọi tội lỗi.”
Trích dẫn bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ Hai Mùa Quanh Năm, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng tình yêu của Chúa Giêsu có khả năng loại bỏ tội lỗi và sự dữ. Ngài nói thêm rằng Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, ngay cả khi tội lỗi chúng ta quá nặng đến mức một "xe tải" không thể chở nổi.
Cũng như trong vài dịp trước đây, Đức Thánh Cha đã yêu cầu anh chị em tín hữu nhắm mắt lại và cầu nguyện trong im lặng.
Đức Thánh Cha nói:
"Bây giờ, tôi mời anh chị em hãy làm điều này là hãy nhắm mắt lại. Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh trên bờ sông nơi Thánh Gioan đang làm phép rửa tội cho dân chúng, và Chúa Giêsu đang đến gần. Sau đó, chúng ta nghe giọng nói của thánh Gioan: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian’. Chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu, và trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy thầm thì với Chúa Giêsu một điều gì đó từ thẳm sâu con tim của chúng ta."
Vào cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã chào đón anh chị em tín hữu, bắt đầu với các bệnh nhân và người già. Đây là giáo xứ thứ tư trong giáo phận Rôma mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm cho đến nay.
5. Buổi triều yết chung thứ Tư 22 tháng Giêng
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về tầm quan trọng của sự hiệp nhất Kitô giáo, khi ngài chủ sự buổi triều yết chung hàng tuần hôm thứ Tư 22 tháng Giêng tại quảng trường Thánh Phêrô.
Trong khuôn khổ Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo đang diễn ra, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh chủ đề của Tuần Cầu Nguyện trong năm nay: Chẳng lẽ Chúa Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Đức Thánh Cha giải thích rằng các Kitô hữu phải thừa nhận rằng sự phân hóa nội bộ đã dẫn đến những tai tiếng và làm suy yếu khả năng truyền bá Tin Mừng.
Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày này chúng ta đang cử hành Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo. Chủ đề năm nay được trích từ một câu hỏi trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu thành Côrinthô: “Chẳng lẽ Chúa Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?”
Chúng ta biết rằng Đức Kitô đã không bị chia năm xẻ bảy; nhưng chúng ta phải thành thật thừa nhận rằng các cộng đoàn của chúng ta tiếp tục chịu đựng những chia rẽ là một nguồn gốc của những tai tiếng làm suy yếu chứng tá của chúng ta cho Tin Mừng.
Khi trách móc các tín hữu Côrintô vì những chia rẽ giữa họ với nhau, Thánh Phaolô nhắc nhở họ hãy vui mừng trước những ân sủng siêu nhiên tuyệt vời mà họ đã được nhận lãnh. Lời thánh nhân cũng khích lệ chúng ta hãy vui mừng trước những ân sủng Thiên Chúa đã ban cho các Kitô hữu khác, và những ân sủng mà chúng ta có thể nhận được từ anh chị em mình để phong phú hóa chúng ta.
Để có thể làm được điều này đòi hỏi phải có sự khiêm nhường, óc phán đoán và sự hoán cải liên tục. Khi chúng ta suy nghĩ về những lời giảng dạy của Thánh Phaolô trong Tuần lễ cầu nguyện cho Hiệp nhất Kitô giáo này, xin cho chúng ta được bổ sức, cùng với những môn đệ khác của Chúa Kitô, trong việc theo đuổi sự thánh thiện và lòng trung thành với thánh ý Thiên Chúa.
Trước thềm của Hội Nghị về Syria diễn ra tại Thụy Sĩ, Đức Thánh Cha đã tái lên tiếng kêu gọi hòa bình cho Syria.
6. Sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi
Hôm 16 tháng Giêng, Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã công bố sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi sẽ được cử hành trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11 tháng 5 tới đây.
Sứ điệp đã được Đức Thánh Cha Phanxicô ấn ký một ngày trước đó, tức là ngày 15 tháng Giêng.
Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi đã được Giáo Hội cử hành trong 5 thập kỷ vừa qua. Thật vậy, năm 1964, Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã thiết định việc cử hành Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi vào Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Phục sinh.
Sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ 51 của Đức Thánh Cha Phanxicô có chủ đề “Ơn gọi, chứng tá cho sự thật” trong đó Đức Thánh Cha yêu cầu người Công Giáo hãy "mở lòng chúng ta ra cho những lý tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả" với niềm tín thác rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta.
Đức Thánh Cha nói:
“Chính Đức Giêsu đã cảnh báo chúng ta: hạt giống tốt của lời Chúa thường bị quỷ dữ lấy đi, bị những gian truân ngăn chặn và bị những lo lắng thế gian cũng như những cám dỗ bóp nghẹt. Tất cả những khó khăn này có thể làm nhụt chí chúng ta, khiến chúng ta lui xuống những con đường có vẻ như thoải mái hơn.
Vì thế mỗi ơn gọi, dù trong rất nhiều những nẻo đường đa dạng, luôn đòi hỏi một sự xuất hành khỏi chính mình để đặt trọng tâm cuộc sống chúng ta nơi Đức Kitô và Tin Mừng. Cả trong đời sống hôn nhân lẫn các hình thức của đời thánh hiến, cũng như đời linh mục, chúng ta phải vượt lên trên những lối nghĩ và cách ứng xử không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Đó là một cuộc ‘xuất hành hướng dẫn chúng ta trên cuộc hành trình thờ phượng Thiên Chúa và phụng sự Người nơi anh chị em mình’”
Đức Thánh Cha đã khích lệ dân Chúa đừng sợ. Ngài nói:
“Tất cả chúng ta được mời gọi để thờ phượng Đức Kitô trong lòng ta ngõ hầu chúng ta được rung động bởi tác động của ân sủng chứa đựng trong hạt giống lời Người, là hạt giống phải lớn lên trong chúng ta và phải được chuyển hóa thành việc phục vụ cụ thể anh chị em mình. Chúng ta không cần phải sợ: Thiên Chúa sẽ tiếp tục công trình tay Ngài với niềm đam mê và sự khéo léo trong mỗi chặng đường của cuộc sống. Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta! Người có ước muốn hoàn thành kế hoạch dành cho ta trong lòng Người nhưng Người muốn hoàn tất kế hoạch ấy với sự ưng thuận và hợp tác của chúng ta.”
7. Ủy ban quốc tế của Tòa Thánh hoàn tất cuộc điều tra các sự kiện tại Medjugorje
Hôm thứ Bẩy 18 tháng Giêng, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh là cha Federico Lombardi, cho biết ủy ban quốc tế điều tra các sự kiện tại Medjugorje đã tổ chức cuộc họp cuối cùng vào ngày 17 tháng Giêng. Ủy ban đã được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hình thành vào ngày 17 tháng Ba năm 2010 và do Đức Hồng Y Camillo Ruini lãnh đạo.
Ủy ban đã báo cáo hoàn thành công việc của mình và sẽ trình kết quả nghiên cứu của mình cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Medjugorje nằm trong khu vực Herzegovina ở phía Tây của nước Bosnia và Herzegovina, cách thị trấn Mostar 25km về phiá Tây Nam và gần với biên giới Crotia. Medjugorje theo tiếng điạ phương có nghĩa là “giữa những đồi núi”. Thật vậy, địa điểm này ở cao độ 200m so với mặt biển với khí hậu mát mẻ miền Điạ Trung Hải.
Sáu thanh niên, thiếu nữ nói đã thấy Đức Mẹ hiện ra tại Medjugorje vào ngày 24/06/1981. Từ đó dòng người lũ lượt đến hành hương địa điểm này để cầu nguyện với Đức Mẹ dưới hai tước hiệu là “Đức Mẹ Medjugorje” hay “Đức Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình”.
Trước những biến cố cho rằng đã thấy những thị kiến riêng, Giáo Hội luôn có những cuộc điều tra để có thể kết luận là “constat de supernaturalitate” – tính chất siêu nhiên được chứng thực hay “non constat de supernaturalitate” – tính chất không siêu nhiên được chứng thực – nói dễ hiểu là do người ta bày vẽ ra, không phải là thật.
Ngày 10 tháng Tư năm 1991, Hội Đồng Giám Mục Nam Tư đã đưa ra tại Zadar một tuyên bố nói rằng: “Hội Đồng không thể khẳng định rằng những sự kiện này có liên quan đến các cuộc hiện ra siêu nhiên và những mạc khải hay không”
Tiếp theo đó, ngày 02 Tháng 10 năm 1997, Đức Giám Mục Ratko Peric của giáo phận Mostar-Duvno thông báo rằng: “Trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng về trường hợp này của 30 chuyên gia của chúng tôi, với kinh nghiệm 5 năm coi sóc Giáo Phận này, trước những bất tuân phục đầy tai tiếng xung quanh hiện tượng này, trước những điều dối trá mà đôi lúc được đặt vào miệng của Đức Mẹ, trước sự lặp đi lặp lại bất thường của những ‘thông điệp’ trong hơn 16 năm qua, trước những cách thế kỳ lạ mà các vị linh giám của những người tự xưng là đã thấy thị kiến đi cùng với họ khắp thế giới để tuyên truyền, trước cách thức mô tả ‘Đức Mẹ’ hiện ra với ‘những người đã thấy thị kiến’, xác tín của tôi và quan điểm của tôi về các cuộc hiện ra hay mạc khải tại Medjugorje không chỉ dừng ở điểm non constat de supernaturalitate [tính siêu nhiên không được chứng minh ] mà còn phải nói rõ là constat de non supernaturalitate [tính không siêu nhiên đã được chứng minh] "
Trước tuyên bố phủ nhận của Đức Cha Ratko Peric, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, lúc bấy giờ là Tổng Giám Mục, thư ký của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, nói rằng những nhận xét của Đức Giám Mục Peric "cần được coi là biểu hiện của xác tín cá nhân của giám mục Mostar mà ngài có quyền bày tỏ trong tư cách là đấng bản quyền địa phương, nhưng đó vẫn chỉ là ý kiến cá nhân của ngài"
Trong lá thư ấy, Đức Tổng Giám mục Bertone cũng nhấn mạnh rằng "Tòa Thánh thường không đưa ra, ngay lập tức, quan điểm riêng của mình liên quan đến các hiện tượng được cho là siêu nhiên”.
Thánh Bộ Giáo lý Đức tin ủng hộ sự thận trọng mà các Giám Mục Nam Tư đã tuyên bố vào năm 1991 tại Zadar: đó là "Trên cơ sở các cuộc điều tra được tiến hành đến thời điểm này, không thể khẳng định rằng đó là một trường hợp của một cuộc hiện ra hoặc của một mạc khải siêu nhiên".
Vào tháng Hai năm 2008, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin thông báo với cha Tomislav Vlasic, vị linh giám của sáu thanh niên, thiếu nữ rằng ngài đã bị điều tra vì sự loan truyền các giáo lý không minh bạch, thao túng lương tâm, sự bất tuân phục trước những yêu cầu chính đáng của đấng bản quyền hợp pháp, và ra lệnh cho ngài cư trú tại một tu viện dòng Phanxicô ở Lombardy, tham gia một khóa huấn luyện về thần học và tâm linh, và chấm dứt các liên hệ với nhóm “Nữ Vương Hòa Bình”. Tháng Bảy năm 2009, cha Vlasic, đã tự ý xin được huyền chức.
Ngày 17 tháng Ba năm 2010, Tòa Thánh công bố rằng, theo yêu cầu của các giám mục Bosnia và Herzegovina, Tòa Thánh đã thành lập một ủy ban, đứng đầu là Đức Hồng Y Camillo Ruini, lúc ấy là Giám Quản Rôma, để điều tra hiện tượng Medjugorje.
Ngày 17 tháng Giêng 2014, ủy ban đã chính thức hoàn tất cuộc điều tra. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin sẽ công bố kết luận chung cuộc về vấn đề này. “Constat de supernaturalitate” hay “non constat de supernaturalitate?” Khó có thể nói được. Tuy nhiên, diễn biến mới nhất sau có thể cho phép dự đoán phần nào:
Ngày 21 Tháng 10 năm 2013, Sứ thần Tòa Thánh tại Mỹ, thay mặt cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, cho biết là dưới ánh sáng của tuyên bố do các Đức Giám Mục Nam Tư đưa ra năm 1991 tại Zadar về các sự kiện tại Medjugorje, người Công Giáo, cho dù giáo sĩ hay giáo dân, "không được phép tham gia các cuộc họp, hội nghị, lễ kỷ niệm công cộng có thể bị lợi dụng để tăng sự khả tín cho ‘những cuộc hiện ra’ như thế”
8. Đức Hồng Y Sean O'Malley kêu gọi người Công Giáo tham dự Tuần Cửu Nhật cầu nguyện cho sự sống
Bất chấp tuyết rơi và thời tiết khắc nghiệt, lúc 1 giờ trưa hôm thứ Tư 22 tháng Giêng, tại thủ đô Washington DC, hàng mấy chục ngàn người đã xuống đường tham gia cuộc tuần hành "March for Life" lần thứ 41.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tweet cho những người biểu tình như sau:
"Tôi tham gia vào cuộc Tuần Hành Phò Sự Sống tại Washington trong lời cầu nguyện của tôi. Thiên Chúa có thể giúp chúng ta tôn trọng tất cả cuộc sống, đặc biệt là của những ai dễ bị tổn thương nhất. "
Ngày 22 tháng Giêng năm 1973, Tối Cao Pháp Viện tại Hoa Kỳ đưa ra phán quyết cho phép phá thai trong vụ kiện thường được biết đến dưới tên gọi là Roe chống Wade. Để tưởng niệm ngày đau buồn này, hàng năm Giáo Hội và các tổ chức phò sự sống tại Hoa Kỳ đều tổ chức những buổi tuần hành phò sự sống khổng lồ tại Washington DC và nhiều nơi khác.
Tuần qua, Đức Hồng Y Sean O'Malley của Boston, chủ tịch của Hội nghị Liên Hiệp Các Hoạt Động Phò Sinh của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã đưa ra lời mời gọi người Công Giáo Hoa Kỳ bên cạnh việc tham dự vào những cuộc tuần hành cũng nên tham gia vào một tuần cửu nhật cầu nguyện, sám hối, và hành hương từ ngày 18 tháng Giêng đến ngày 26 Tháng Giêng.
Đức Hồng Y nói: "Bằng cách tham gia vào tuần cửu nhật cho sự sống, chúng ta xin Chúa chữa lành và hoán cải đất nước chúng ta và những người bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa sự chết. Chúng ta cũng nhắc nhở nhau thông qua hành động chuyên tâm cầu nguyện về sự phụ thuộc tuyệt đẹp của chúng ta vào Thiên Chúa và vào tình yêu sâu sắc của Ngài dành cho mỗi người trong chúng ta.”
9. Hội nghị Geneva lần thứ Hai về Syria
Đại diện của Tòa Thánh tham dự Hội nghị Geneva lần thứ Hai về Syria là Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi bày tỏ âu lo là hội nghị này khó lòng đem lại được hòa bình đích thực cho Syria.
Ông Ban Ki-moon, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, đã thu lại lời mời Iran tham dự Hội Nghị diễn ra vào thứ Tư 22 tháng Giêng tại Montreux và sau đó tại Geneva. Thêm vào đó, đã có các rạn nứt được ghi nhận trong phe đối lập Syria. Đó là những tín hiệu bi quan về khả năng hội nghị quốc tế này có thể đem lại hòa bình cho một đất nước đã trải qua gần 3 năm chiến tranh với con số tử vong 126,000 người và 300,000 trẻ mồ côi.
Quyết định của ông Ban Ki-moon đã được đưa ra sau khi chính quyền Teheran nói là họ không chấp nhận tham dự hội nghị nếu các nước kiên trì đòi thực hiện một quyết định đã được đưa ra hồi tháng Sáu năm 2012 theo đó chính quyền của tổng thống Bashar al-Asad bắt buộc phải ra đi như là tiền đề cho một quá trình chuyển đổi chính trị tại Syria.
10. Lịch sử Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo
Năm 1908, Mục Sư Paul Wattson đang coi sóc một nhà thờ Anh giáo ở Graymoor, New York, đưa ra sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo với sự hỗ trợ của các giám mục Anh giáo và Công Giáo, trong đó có Đức Hồng Y William O'Connell của Boston. Tuần Tám Ngày này bắt đầu vào ngày 18 tháng Giêng, lúc bấy giờ là Lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô ở Rôma, và kết thúc vào ngày 25 tháng Giêng, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại.
Năm sau, mục sư Wattson và toàn thể cộng đoàn Anh Giáo của ngài gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và vào năm tiếp theo, tức là năm 1910, cựu mục sư Wattson đã được thụ phong linh mục.
Sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo lan tràn nhanh chóng, và vào năm 1916, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 15, cổ vũ sáng kiến này trong toàn thể Giáo Hội và Tuần Tám ngày này chính thức mang tên Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
Năm 1964, Công Đồng Vatican II ban hành Sắc Lệnh Đại Kết (Unitatis Redintegratio), và ngày 30/5/1995, Chân Phước Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Ut Unum Sint, gồm có ba chương với những tựa đề: Sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo vào công cuộc đại kết; các kết quả của tiến trình đối thoại; và đường còn xa lắm không? Thông điệp đã kiểm điểm những thành quả của tiến trình đối thoại; và phác họa những bước còn phải tiếp tục.
Đây là hai văn kiện làm nền tảng cho Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
11. Căng thẳng giữa Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp tại Ukraine với chính phủ của tổng thống Viktor Yanukovych
Những căng thẳng giữa Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine với chính phủ của tổng thống Viktor Yanukovych đã lên đến mức Bộ Văn Hóa nước này đòi đặt Giáo Hội ra ngoài vòng pháp luật.
Theo thống kê hồi tháng 7 năm ngoái, trong tổng số 44,573,200 dân, Ukraine có 10.2% dân số theo Công Giáo trong đó gồm 2.2% là Công Giáo nghi lễ La Tinh, và 8% là Công Giáo nghi lễ Đông Phương thường được gọi là Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine, là Giáo Hội hiệp thông hoàn toàn với Tòa Thánh và là Giáo Hội lớn nhất trong số các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương trên thế giới.
Trong thời Liên Sô, Nga đã đưa sang Ukraine một số đông dân và đã tạo ra những nạn đói kinh hoàng trong âm mưu diệt chủng hay ít nhất cũng để làm suy yếu Ukraine hầu thực hiện một chính sách thống trị lâu dài quốc gia này. Tiêu biểu là nạn đói 1921-1922 cướp đi hơn một triệu sinh mạng dân Ukraine, và nạn đói 1932-1933 giết chết thêm 7 triệu người nữa.
Cuối năm 1991, Liên Sô sụp đổ và Ukraine trở thành một quốc gia độc lập như ngày nay. Tuy vậy, ngày nay người Nga (chiếm ¼ dân số) vẫn tiếp tục nắm giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy công quyền và trong các hoạt động xã hội. Cả về mặt tôn giáo, Ukraine cũng còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nga.
Từ tháng Mười Một năm ngoái những người dân Ukraine muốn hội nhập vào Liên Hiệp Châu Âu và đoạn tuyệt với Nga đã tổ chức những cuộc biểu tình khổng lồ tại quảng trường Maidan Nezalezhnosti để chống lại Tổng thống Viktor Yanukovych và những hậu duệ Nga, là những người muốn đưa đất nước trở lại quỹ đạo của Mạc Tư Khoa.
Các linh mục thuộc Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine đã cử hành những thánh lễ quy tụ hàng vạn người tại các cuộc biểu tình này.
Những thánh lễ này ngày càng gây những ảnh hưởng rất lớn trong dân chúng, kể cả những người không phải là tín hữu Công Giáo. Vì thế, hôm 13 tháng Giêng, vụ trưởng tôn giáo vụ Ukraine là ông Mykhailo Moshkola nói rằng “Các linh mục không có quyền cử hành các thánh lễ tại các cuộc biểu tình. Thái độ xem thường luật pháp một cách có hệ thống này cần phải bị trừng trị”.
Ông Mykhailo Moshkola đã đe dọa rút giấy phép hoạt động của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine và đặt Giáo Hội ra ngoài vòng pháp luật.
Tuy nhiên, lời đe dọa nghiêm trọng này xem ra chẳng dọa được hàng giáo phẩm Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine.
Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao nhất của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương nói:
“Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn không làm gì cả khi các tín hữu đang tham dự các cuộc biểu tình yêu cầu được chăm sóc tinh thần.
Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật và sẽ vẫn như vậy vì sứ mệnh tương lai đã được Chúa Kitô Đấng Cứu Thế giao phó, bất chấp tất cả các mối đe dọa. Chúng tôi đã nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó"
Quảng trường Maidan Nezalezhnosti là quảng trường trung tâm của thủ đô Kiev nơi đang diễn ra những cuộc biểu tình chống khuynh hướng ngả về phía Nga của Tổng thống Viktor Yanukovych.
Trước thái độ cứng rắn của Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, và sự bất bình của anh chị em giáo dân, hôm 15/1/2014, tổng thống Viktor Yanukovych đã đưa ra một tuyên bố hòa hoãn hơn.
Ông nói: “Chúng ta cần phải du di các yêu cầu pháp luật và bảo đảm rằng các tín hữu được tạo cơ hội để cầu nguyện bất cứ nơi nào họ muốn.”
12. Ủy Ban Thần Học Quốc Tế khẳng định: niềm tin Kitô đối kháng với bạo lực và chiến tranh
Nhằm chống lại cáo buộc cho rằng tôn giáo là một nguyên nhân gây ra bạo lực và chiến tranh, Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã ban hành một tài liệu nhấn mạnh rằng niềm tin Kitô vốn đối kháng với những lời kích động bạo lực.
Tài liệu mới này đã được công bố bằng tiếng Ý vào ngày 16 tháng Giêng, và sẽ sớm có những bản dịch ra các ngôn ngữ khác nhau.
Tài liệu có tựa đề: "Thiên Chúa, Chúa Ba Ngôi, và sự hiệp nhất của nhân loại: Thuyết độc thần Kitô Giáo và tính đối kháng của thuyết ấy với bạo lực " là kết quả của một dự án kéo dài 5 năm của Ủy ban thần học quốc tế đã được sự chấp thuận của Đức Tổng Giám Mục Gerhard Müller, Hồng Y Tân Cử, là bộ trưởng của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Trong buổi họp báo giới thiệu tài liệu này, Ủy Ban Thần Học Quốc tế cho biết:
"Niềm tin Kitô, trên thực tế, coi các kích động bạo lực nhân danh Thiên Chúa như là một sự băng hoại thê thảm nhất của tôn giáo. Kitô giáo xác tín như thế từ mạc khải của Chúa Kitô và từ sự phục sinh của Ngài, như là chìa khóa để các hòa giải nhân loại."
Thật vậy, trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, Ngài đã không lấy bạo lực để đáp trả bạo lực nhưng lấy tình yêu để bẻ gãy vòng lẩn quẩn của bạo lực, và hòa giải con người với Thiên Chúa.
13. Một Kitô hữu Syria bị chặt đầu chỉ vì đeo thánh giá trên cổ
Năm chiến binh thánh chiến Hồi Giáo đã chặt đầu một Kitô hữu Syria sau khi họ quan sát thấy anh đang đeo một cây thánh giá trên cổ của mình. Bản tin phát đi hôm 16 tháng Giêng của thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc đã cho biết như trên.
Sự việc đã xảy ra ngày 8 tháng Giêng nhưng đến ngày 16 một linh mục ở Marmarita mới có thể liên lạc được với thông tấn xã Fides.
Hai thanh niên Công Giáo là Firas Nader, 29 tuổi, và Fadi Matanius Mattah, 34 tuổi, đang di chuyển bằng xe hơi từ Homs về làng Marmarita, là một làng Công Giáo thì bị một nhóm 5 chiến binh thánh chiến Hồi Giáo chặn xe. Họ đã nổ súng vào chiếc xe để chặn lại.
Khi đến gần xe, đám dân quân này thấy anh Fadi đang đeo một thánh giá nơi cổ đã lôi anh xuống xe và chặt đầu anh. Sau đó họ lấy tiền và các giấy tờ trên xe và bắn anh Firas nhiều phát súng.
Đám dân quân này bỏ đi, để mặc anh trên mặt đất tưởng rằng anh đã chết.
Firas đã tìm cách trốn thoát, đi bộ đến thị trấn Almshtaeih và sau đó được chuyển đến bệnh viện Tartou. Một số các tín hữu đã tìm được thi thể của anh Fadi và đưa anh về Marmarita mai táng.
14. Đức Tổng Giám Mục của thủ đô Kuala Lumpur kêu gọi người Công Giáo hãy can đảm đối mặt với sự đàn áp ngày càng tăng tại quốc gia này.
Tuần trước chúng tôi đã trình bày với quý vị và anh chị em câu chuyện đàn áp các tín hữu Kitô đang diễn ra tại Malaysia.
Trong thư Mục Vụ đưa ra hôm 18 tháng Giêng, Đức Tổng Giám Mục Murphy Pakiam, Giám Quản Tông Tòa thủ đô Kuala Lumpur kêu gọi người Công Giáo hãy can đảm đối mặt với sự đàn áp ngày càng tăng tại quốc gia này.
Đức Tổng Giám Mục viết:
"Thật là tồi tệ khi một số nhóm đang mưu toan tổ chức các cuộc biểu tình khổng lồ và những cuộc tuần hành trên đường phố. Những hành động vô nghĩa của những nhóm người này đã gây ra rất nhiều khó chịu, lo lắng và thậm chí giận dữ giữa những công dân Malaysia. Hơn nữa, sự ủng hộ cho những hành động như thế của một số các nhà lãnh đạo chính trị và sự im lặng không thể giải thích được của những chính trị gia khác đã trút thêm dầu vào lửa đến mức dường như cuộc khủng hoảng đang lan rộng không kiểm soát được.”
“Tôi kêu gọi các tín hữu Công Giáo phải mạnh mẽ để đương đầu với những nghịch cảnh và tiếp tục tuyên xưng đức tin của chúng ta với lòng can đảm và quyết tâm." ngài nói thêm.
15. Đức Thánh Cha ban phép lành cho hai con chiên được nuôi để lấy lông làm dây palliums
Sáng thứ Ba, 21 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban phép lành cho hai con chiên sẽ cung cấp các len để làm dây palliums cho các vị tổng giám mục được tuyển chọn trong năm nay. Truyền thống này đã có từ nhiều năm nhân Lễ Thánh Agnes.
Nghi thức đã được diễn ra tại Đền Thờ Thánh Agnes. Một con chiên đã được bao quanh bởi hoa trắng, và con chiên còn lại với hoa màu đỏ. Màu trắng tiêu biểu cho sự khiết trinh và màu đỏ cho sự tử đạo của các thánh.
Dây Pallium hay Dây Quàng Cổ có hai dải phía trước và phía sau, quàng bên ngoài áo lễ, được dệt bằng lông chiên màu trắng có thêu 5 thánh giá mầu đen, hai dải cũng kết thúc bằng len mầu đen. Nó biểu hiệu cho sự hiệp nhất của các Tổng Giám Mục Trưởng các Giáo Tỉnh trên toàn thế giới với Đức Giáo Hoàng, Chủ Chăn của Giáo Hội hoàn vũ, cũng như biểu hiệu cho quyền bính trên các Giám Mục khác thuộc giáo tỉnh.
Nghi lễ trao dây Palllium được tổ chức tại Roma ngày 29 tháng 6 hàng năm nhân dịp lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
16. Án Phong Thánh cho cha Joseph Muzquiz đang được xúc tiến
Cha Joseph Muzquiz sinh năm 1912 và qua đời năm 1983 là một linh mục Tây Ban Nha, và là một trong những thành viên đầu tiên của Opus Dei. Ngài đã hoạt động không mệt mỏi để phong trào lan tràn trên toàn thế giới, đặc biệt tại Mỹ Châu.
Kết thúc cuộc nội chiến đẫm máu tại Tây Ban Nha, anh thanh niên Joseph Muzquiz tuổi đã từ giã quê hương Badajoz để lên kinh thành Madrid theo học kỹ sư. Tại đó, anh đã gặp cha Josemaría Escrivá, vị sáng lập tương lai của phong trào Opus Dei. Tháng Giêng năm 1940, anh được nhận vào Opus Dei trong khi vẫn tiếp tục theo học kỹ sư để tích cực giúp tái thiết các cơ sở hạ tầng của đất nước tan nát vì chiến tranh.
Là một kỹ sư thông minh, Joseph Muzquiz đã lần lượt giật được 3 bằng tiến sĩ trong các lãnh vực rất khác nhau: Tiến sĩ về xây dựng các công trình dân dụng, tiến sĩ lịch sử và tiến sĩ luật.
Ngày 25 tháng sáu năm 1944, kỹ sư Joseph Muzquiz là một trong ba thành viên đầu tiên của Opus Dei được thụ phong linh mục. Cha được gửi sang Hoa Kỳ vào năm 1949, nơi ngài đã thành lập trung tâm Opus Dei ở Chicago và Washington, DC. Ngài cũng đã đặt nền móng cho các hoạt động của Opus Dei ở Canada, Nhật Bản và Venezuela. Trong những năm 1960 và 1970, ngài làm việc ở châu Âu và châu Á và thúc đẩy việc phong thánh cho người sáng lập của tổ chức.
Trở lại Hoa Kỳ vào năm 1976, cha cư ngụ tại trụ sở Opus Dei tại Pembroke, Massachusetts. Ngày 20 Tháng Sáu năm 1983, ngài bị một cơn đau tim trong khi đang giảng dạy tại một lớp học ở đó, và qua đời vào ngày hôm sau tại Bệnh viện Jordan ở Plymouth.
Án phong thánh cho cha đã được bắt đầu vào ngày 02 tháng 6 năm 2011 tại Tổng Giám Phận Boston, Hoa Kỳ. Vị tôi tớ Chúa Joseph Muzquiz có lẽ sẽ được phong Chân Phước trong năm nay.
17. Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ đoàn đại biểu của EXPO Milan 2015
Sáng thứ Sáu 17 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp một phái đoàn của EXPO Milan 2015. Cùng đi với nhóm có Đức Tổng Giám Mục của thành phố này, là Đức Hồng Y Angelo Scola và Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, người tình cờ cũng vừa từ Milan trở về Rôma.
Chủ đề của EXPO Milan 2015 là “Nuôi dưỡng hành tinh, năng lượng cho cuộc sống”. Trong cuộc gặp gỡ, một trong những nhà tổ chức, là ông Giuseppe Sala, đã trình bày với Đức Thánh Cha những diễn tiến mới nhất của dự án.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha với những nhà tổ chức EXPO Milan 2015 ban đầu được dự trù vào tháng 12 năm ngoái, nhưng Đức Thánh Cha bị cảm mất vài ngày nên đã được dời lại.
EXPO Milan sẽ được tổ chức từ ngày 01 tháng Năm, 2015 đến ngày 31 tháng 10, 2015.
18. Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Melkite tại Syria kêu gọi thế giới cầu nguyện cho đất nước này
Trước thềm hội nghị quốc tế về Syria diễn ra tại Geneva vào ngày 22 tháng Giêng, Đức Thượng Phụ Gregory Laham Đệ Tam đã lên tiếng kêu gọi một chiến dịch toàn thế giới “cầu nguyện cho hòa bình ở Syria, Thánh Địa, thế giới Ả Rập và cả thế giới."
Trong tư cách chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Syria, ngài đã kêu gọi tất cả người Công Giáo Syria cầu nguyện cho hòa bình, và kêu gọi các Kitô hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới tham gia trong chiến dịch. Đức Thượng Phụ cũng mong mỏi các nhà lãnh đạo thế giới hãy gạt bỏ những thành kiến và những lợi ích cục bộ để hành động có hiệu quả cho "một nền hòa bình công chính tại Syria."
Tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ cho biết sau 3 năm nội chiến cay đắng ở Syria, gần 9 triệu người – tức là gần 40% dân số của cả nước trước chiến tranh đã phải bỏ nhà bỏ cửa chạy trốn cuộc xung đột. 2.3 triệu người đã phải tị nạn ở nước ngoài và 6.5 triệu người phải tản cư bên trong đất nước của họ.
Sau 36 tháng chiến tranh, 126,000 người chết và 300,000 trẻ mồ côi. Các tín hữu Kitô tại đất nước này đang lo ngại những thỏa hiệp của các cường quốc sẽ dẫn đến việc hình thành một thứ nhà nước Hồi Giáo dựa trên luật Sharia.
19. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thăm Hán Thành thủ đô Nam Hàn
Sáng thứ Tư 22 tháng Giêng, cha Federico Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã thông báo là theo dự trù sơ khởi, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến Hàn Quốc trong khoảng từ ngày 10 đến 17 tháng Tám năm 2014 để tham dự Ngày Giới Trẻ Á Châu tại Daejeon.
Ngài sẽ là vị Giáo Hoàng thứ hai đến thăm đất nước này 20 năm sau khi Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đặt chân đến bán đảo Triều Tiên. Tháng Năm năm 1994, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị đã đến Hán Thành để phong thánh cho 103 vị tử đạo người Hàn Quốc, sau đó đã đi thăm Papua New Guinea, Solomon Islands, và Thái Lan.