4. Đạo lý của Đức Chúa Giê-su vượt qua tất cả các đạo lý của thánh nhân, trong nó ẩn tàng “man-na”, duy nhất chỉ những người có tinh thần của Đức Chúa Giê-su mới có thể tìm được.
(sách Gương Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức)
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một thương nhân người dân tộc thiểu số từ Tây Vực đến Nam Kinh, nhìn thấy trên bàn của người ta bỏ một cục đá, bèn muốn mua nó.
Lui tới liên tiếp mấy lần, chủ nhà tích trử hàng qúy cố ý nâng cao giá cả, nhưng kết quả không thành.
Ngày nọ, chủ nhân đem cục đá chà xát nhiều lần và rửa sạch, nghĩ rằng lần này giá trị của nó sẽ cao hơn, thương nhân ngoại quốc lại đến, vừa nhìn thấy thì thở dài nói:
- “Nó nguyên là một viên đá quý hiếm thấy, chà sạch thì không còn giá trị nữa.”
Nói xong thì đi một nước không thèm ngoái cổ lại.
(Hương Tổ bút ký)
Suy tư 79:
Có những viên đá càng chà xát, càng mài dũa thì càng đẹp và càng có giá trị, đó là ngọc thạch; có những cục đá càng mài càng tốt, đó là đá mài; có những tảng đá chắc chắn dùng để xây lâu đài, đó là đá ong, đá xanh.v.v...
Tảng đá, cục đá nào cũng có ích cho con người, nếu con người biết lợi dụng nó, giống như “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường”(Mt 21, 42).
Nhưng cũng có những tảng đá cản trở con đường tiến thân của chúng ta, đó là tảng đá kiêu ngạo; có những cục đá tuy nhỏ nhưng làm nghẽn hơi thở yêu thương của chúng ta, đó là cục đá ích kỷ giận hờn; có những cục đá làm cho tình cảm bạn bè anh em mất dần, đó là cục đá phê bình chỉ trích; và có những tảng đá làm cho chúng ta dừng lại rồi thối lui, đó là tảng đá thỏa mãn hưỡng thụ.v.v...tất cả những tảng đá, cục đá ấy dồn lại thành một hòn núi đá tội lỗi, cản đường tiến đức và đức ái của chúng ta trong cuộc sống đời tu cũng như đời thường.
Bật những tảng đá ấy ra khỏi tâm hồn, thì chúng ta sẽ thấy đường phía trước rộng thênh thang, thoải mái đi mà không cần ngoái cổ lại nhìn sau với nhiều sợ hãi.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên – C
(Lc 4, 21-30)
Có nhiều loại ơn gọi: có ơn gọi dành cho hết mọi người, có chỉ dành cho một số ít người; có ơn gọi cho cả đời người. Giêrêmia đã được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri cho nhiều dân tộc. Ông kể : “Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc” (Gr 1,4-5).
Trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với dân Ngài, chúng ta không thể không nhắc đến những vị ngôn sứ, những người được Thiên Chúa chọn gọi để loan báo cho dân Chúa biết được chương trình và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Các ngài là những vị đại diện của Thiên Chúa để đồng hành với dân, hướng dẫn và bảo vệ dân, nhắc nhở dân không lạc vào con đường gian tà tội lỗi, nhưng luôn sống đời công chính, trung thành với giao ước đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân, đặc biệt là sự chuẩn bị để đón Đấng Mêsia ngự đến. Ơn gọi ngôn sứ cao cả đấy, nhưng cũng đầy những hy sinh đau khổ, những trái ý, những thập giá trong cuộc đời thi hành sứ vụ của mình. Giêrêmia là một nhân chứng (x. Gr 20,7-18).
Giêrêmia, vị ngôn sứ bị chống đối
Giêrêmia là chứng nhân của một thời đại quyết liệt. Đời sống của ông gắn liền nước Giuđa gần bốn mươi năm (626-587 trước CN). Với một sứ mạng cao cả và gian nan. Giêrêmia là một ngôn sứ thi hành sứ mạng trong một bối cảnh rất phức tạp về mặt tôn giáo, chính trị và xã hội, vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông đã gặp nhiều đau khổ, vì bị nghi kỵ, chống đối và ngược đãi. Trong khi thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, Giêrêmia gặp phải toàn những chống đối, hắt hủi và bắt bớ cách dữ dội, vì phải nói lên những lời của Chúa cho dân Người. Mà lời của Chúa là những lời lên án, đe dọa và nhắm thẳng đến đời sống luân lý của dân, nên người ta không dễ gì đón nhận : “Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20,8b). Đang trong lúc buồn phiền thì lời Đức Chúa lại cứ như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy, khiến Giêrêmia không chịu nổi: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt”(Gr 20,9b). Lời Thiên Chúa có một sức mạnh mà con người không thể chống lại nổi. Chúa đã khích lệ ông và bảo đảm với ông: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi nhưng không làm gì được, vì có Ta ở với người để giải thoát ngươi”. Chúa đã giữ lời hứa với vị Ngôn sứ, giúp cho sứ mạng của ông sinh hoa kết trái.
Đức Giêsu là Giêrêmia mới
Khởi đầu thi hành sứ vụ Thiên sai của Chúa Giêsu với những việc như chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh Người, danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi.
Hôm nay Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, "mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói : "Ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ" (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). "Người này không phải là con ông Giuse sao?" (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây? Chúa Giêsu bị chống đối. Sứ mạng của Chúa Giêsu vừa huy hoàng vừa gian nan. Người được người ta tung hô, ca tụng, nhưng cũng bị người ta chống đối, sỉ nhục như ngôn sứ Giêrêmia.
Vừa được ca ngợi, vừa bị phê phán, đó là thân phận chung của các ngôn sứ. Chúa sai các ngài đi để thông truyền sứ điệp của Chúa, kêu gọi dân từ bỏ đường tà, trở về với Chúa trong đường ngay nẻo chính. Hầu hết các vị ngôn sứ trong Cựu ước đều gặp phải những chống đối gay gắt, nhiều vị đã bị giết chết. Chúa Giêsu cũng đã phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ, giống như các ngôn sứ thời Cựu ước. Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Thưa, Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.
Sứ mạng và ơn gọi của người Ki tô hữu chúng ta
Nếu chúng ta có ơn gọi làm ngôn sứ, để chu toàn sứ mạng cao cả này, chúng ta gặp những khó khăn là cái chắc. Có người đặt câu hỏi: “Tại sao Đạo Chúa dạy những điều tốt lành như vậy, mà vẫn có ít người theo, thậm chí còn có người chống đối?” Điều đã xảy đến với các ngôn sứ, đã xảy ra đối với Chúa Giêsu, rồi trong suốt lịch sử Giáo Hội đến chúng ta hôm nay, sẽ đến với những ai là ngôn sứ, chúng ta phải chấp nhận. Cuộc tranh đấu giữa Sự thật và sự gian dối, giữa Ánh sáng và tối tăm, giữa Yêu thương và thù hận, luôn là cuộc giằng co khốc liệt. Chúa mời gọi chúng ta làm sao để Tình yêu chiến thắng hận thù, Ánh sáng chiến thắng tối tăm và Sự thật chiến thắng gian dối. Như thế, trong cuộc sống trần gian hôm nay, chúng ta sẽ trở thành những ngôn sứ của tình thương.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
Gr 1,4-5.17-19; 1 Cr 12,31-13,13; Lc 4,21-30
THI HÀNH SỨ VỤ NGÔN SỨ CHO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 4,21-30
(21) Đức Giê-su bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau : “Ông này không phài là con ông Giu-se đó sao?”.(23) Người bảo với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào ! (24) Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (25) “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội. (26) Thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả. Nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành (thành này được xây trên núi). Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
2. Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại : vì họ đã không được Người làm phép lạ để chứng minh vai trò Thiên Sai của Người trong khi Người lại đòi họ phải có đức tin như điều kiện để Người làm phép lạ. Người trưng dẫn hai nhân vật thời xưa là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã nhận được phép lạ nhờ đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thái độ thán phục ban đầu sang tức giận muốn giết hại Người.
3. CHÚ THÍCH :
- C 21-22 : + “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” : Đức Giê-su trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng hồng ân cứu độ ấy không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” : Khi ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).
- C 23-24 : + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình !” : Đức Giê-su đã dùng câu tục ngữ này để diễn tả ý muốn của các người đồng hương Na-da-rét, đòi Người phải làm phép lạ để ưu tiên phục vụ đồng hương, giống như Người đã từng làm ở các nơi. + Ca-phác-na-um : là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giê-su. Tại đây, Đức Giê-su đã chữa lành nhiều bệnh nhân và thực thi nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28) : tha tội trước khi chữa người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm đến người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung trong việc giữ luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào !” : Dân làng Na-da-rét muốn thử thách Người giống như Xa-tan đã làm. Họ muốn lợi dụng Đức Giê-su để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng đã thấu hiểu nguồn gốc của Đức Giê-su, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” : Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân Do thái trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của các vua quan và dân chúng như ngôn sứ Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23), Ngôn sứ Na-than đã cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Sam 12,1-15), Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trách phạt dân chúng tội tôn thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính do “Trung ngôn nghịch nhĩ” và “Lời thật mất lòng” mà nhiều vị ngôn sứ đã bị người đương thời thù ghét và giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” tương tự câu “Bụt nhà không thiêng” của người Việt chúng ta.
- C 25-27 : + Tôi nói cho các ông hay : Đức Giê-su muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là ơn ấy được dành cho mọi dân mọi nước, chứ không dành riêng cho dân Ít-ra-en hay cho dân làng Na-da-rét. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như : khen viên đại đội trưởng người Rô-ma (x. Lc 7,9); Dạy môn đệ noi gương bác ái của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37); Khen người đàn bà xứ Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta vượt qua cơn đói kém : Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói do trời hạn hán mất mùa. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà này đã được hưởng phép lạ làm cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi : Ngôn sứ Ê-li-sa là đồ đệ của ngôn sứ Ê-li-a, rất nổi tiếng vì có khả năng chữa bệnh cách lạ thường. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan tên là Na-a-man bị mắc bệnh phong cùi. Nhờ làm theo lời một nữ tì người Ít-ra-en mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm đến xin ngôn sứ Ê-li-sa chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn vâng lời dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần nên ông đã được phép lạ khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C 28-30 : + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ : Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn yêu cầu được xem Người làm phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái là dân ưu tuyển của Đức Chúa. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê nhà Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người ta chống đối, mà ông Si-mê-on đã tiên báo (x. Lc 2,34). Cuối cùng Người còn bị kết án chịu chết trên cây thập giá nữa (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi : Trước sự chống đối của dân làng Na-da-rét, Đức Giê-su đã vượt qua giữa họ mà đi trên đường của Người, là đường kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).
4. CÂU HỎI :
1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai?
2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và có sứ vụ gì?
3) Tại sao dân làng Na-da-rét đòi Đức Giê-su làm phép lạ cho họ xem và họ đã phản ứng thế nào khi không được thỏa mãn?
4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giê-su coi trọng dân ngọai hơn dân Do thái?
5) Khi nêu ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người đàn bà thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn dạy điều gì với người đồng hương Na-da-rét?
6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận muốn giết chết Đức Giê-su?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN :
1) NA-THAN SỬA LỖI VUA ĐA-VÍT CÁCH KHÔN NGOAN (x. 2 Sm 12,1-13) :
Sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va vợ của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ lệnh cho đại tướng Gio-áp mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng tài này, ngôn sứ Na-than đã được Đức Chúa sai đến cáo trách tội ác ngoại tình và “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã vào đền vua và trình lên một câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân đến nhà anh nông dân nghèo chỉ có một con chiên cái duy nhất mà anh rất mực thương yêu, rồi bắt con chiên ấy về làm thịt để đãi bạn bè. Vua Đa-vít sau khi nghe kể về hành động thất nhân ác đức của tên phú hộ đã tỏ thái độ tức giận với tên phú hộ. Bấy giờ Na-than mới nói : “Tên phú hộ gian ác ấy chính là đức vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va rồi còn giết chồng là tướng U-ri-gia để đoạt vợ của ông ta”. Nhờ cách cáo tội khôn ngoan này mà Vua Đa-vít đã nhận ra tội lỗi to lớn của mình và đã hồi tâm sám hối.
2) HƯỚNG DẪN GIẢI PHÁP GIÚP MANG LẠI HẠNH PHÚC :
Có một nhà hiền triết nọ chuyên làm cố vấn giúp đỡ những ai buồn phiền chán nản. Bất cứ ai đến xin cũng đều được nhà hiền triết cho lời khuyên hữu ích.
Một hôm, một người chủ xưởng may đến xin nhà hiền triết giúp giải quyết khó khăn gặp phải trong gia đình. Gia đình ông gồm 9 người : hai vợ chồng và 7 đứa con trai nhỏ. Họ sống chen chúc nhau trong một căn chòi nóng bức chật chội. Do không có chỗ chơi nên lũ trẻ rủ nhau vào vui đùa trong xưởng may tương đối rộng rãi. Bà mẹ luôn miệng la hét lũ trẻ để giữ trật tự. Còn ông chủ phần lo sản xuất quần áo, phần bị lũ con la hét quậy phá nên tâm trí không lúc nào được thanh thản.
Nghe hoàn cảnh của gia đình ông chủ xưởng may, nhà hiền triết liền cho lời khuyên như sau :
- Ông hãy ra chợ mua một con dê đực và mang về cột nó trong xưởng may để lũ trẻ hết chỗ quậy phá.
Tuy không hiểu hết lý do, nhưng ông chủ xưởng may vốn tin vào khả năng của nhà hiền triết, nên vâng lời ra chợ mua về một con dê đực và cột nó vào góc xưởng may khiến lũ trẻ không còn chỗ vui chơi quậy phá. Nhưng bây giờ lại đến lượt con dê đực quậy. Không những nó phóng uế bừa bãi bốc mùi hôi thối trong xưởng may, mà miệng nó không ngừng kêu “be be”… khiến ai nấy đều rất khó chịu !
Mấy hôm sau, ông chủ xưởng may lại đến than phiền về sự quậy phá của con dê với nhà hiền triết và lần này ông lại cho lời khuyên :
- Ông hãy về nhà và mau mang con dê ra chợ bán đi.
Nghe vậy, ông chủ xưởng may cảm thấy vui như vừa được giải thoát khỏi gánh nặng. Ông vội về dắt con dê ra chợ bán, đang lúc bà vợ cùng gia nhân làm tổng vệ sinh để tẩy uế nhà xưởng. Bảy đứa nhóc sau khi thấy xưởng may sạch sẽ, lại rủ nhau vào trong xưởng vui đùa la hét như trước. Có điều bây giờ tiếng la hét của chúng không còn làm ông bố khó chịu. Ông tự nhủ : dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng dễ chịu hơn nhiều so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn đáng ghét kia … Và từ ngày đó gia đình ông chủ xưởng may lại được yên vui hạnh phúc như trước.
3) CAN ĐẢM NÓI LỜI TRUNG NGHĨA TRƯỚC KẺ THỦ ÁC :
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp sợ trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không mở miệng thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng : “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị giết !”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời : “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm cho lòng người sợ hãi phải nghe theo mình là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe trước đó.
Câu chuyện trên cho thấy những lời nói đúng đắn cũng có sức mạnh chống lại được những kẻ gian ác. Những lời đó mang tính tiên tri mà mỗi tín hữu chúng ta đều có thể thực hiện được trong cuộc sống hằng ngày,
3. THẢO LUẬN :
Trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã luôn ưu ái và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái. Vậy chúng ta nên đối xử thế nào với anh em lương dân để giới thiệu Chúa cho họ?
4. SUY NIỆM :
Khi muốn dạy dân Chúa điều gì, Đức Chúa không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng dùng các tổ phụ hay các ngôn sứ để tuyên sấm thay Ngài. Ngôn sứ phải được Thiên Chúa chọn và phải nói tất cả những lời Đức Chúa muốn ông nói. Những lời ngôn sứ nói ra thường không dễ nghe và khó được người nghe đón nhận, vì đã vạch trần những sai trái của họ, nhất là khi họ là nhà lãnh đạo dân chúng trong đạo ngoài đời.
1. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn sứ và bị đồng hương chống đối :
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại : Trong Hội đường Na-da-rét, sau khi đọc đoạn sách của Ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su tuyên bố : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng Na-da-rét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát của Đức Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về nghề thợ mộc thấp hèn và gia cảnh tầm thường của Người, nên họ không tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh vai trò Thiên Sai bằng các phép lạ như Người đã làm tại thành Ca-phác-na-um. Nhưng Đức Giê-su đã không làm phép lạ nào tại đây vì họ không tin. Sở dĩ dân ngoại đã được hưởng phép lạ, vì họ đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Rồi Người kết luận :“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ vì họ nghĩ Đức Giê-su đã coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và đã xem thường người đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô Người xuống vực, nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Thi hành sứ vụ ngôn sứ hôm nay : Mỗi tín hữu chúng ta nhờ chịu phép rửa tội và thêm sức nên đã được tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su. Để chu toàn sứ vụ ngôn sứ cao quý này, chúng ta cần tránh và cần làm những gì?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân : Dân làng Na-da-rét do có thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của Đức Giê-su, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Thành kiến là một thói xấu mà ai trong chúng ta ít nhiều cũng mắc phải : Cùng một lời nói hay việc làm do một người có địa vị cao hay uy tín lớn nói thì được mọi người coi trọng, đang khi nếu lời nói hay việc làm đó lại do một người bình dân làm thì sẽ bị mọi người coi thường và không chấp nhận.
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ : Qua câu chuyện hũ bột tại nhà bà góa nghèo thời ngôn sứ Ê-li-a không bị cạn, và bệnh cùi của viên quan ngoại giáo Na-a-man thời ngôn sứ Ê-li-sa được khỏi bệnh cách lạ thường, Đức Giê-su cho thấy mọi dân tộc đều được Chúa ban ơn cứu độ chứ không chỉ riêng dân Do thái, miễn là họ phải có lòng tin, thể hiện qua việc thực hành Lời Chúa. Đức Giê-su muốn chúng ta hôm nay không đóng khung các họat động tông đồ hay việc chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn hẹp, mà phải mở rộng tình thương đến hết mọi người.
-Cần nói Lời Chúa cách trung thực : Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói Lời Chúa cách chính xác, dù sự thật thường mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì chúng ta phải trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả có thể bị kẻ ác thù ghét bách hại.
-Cần dũng cảm bênh vực công lý : Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược dòng. Chúng ta cần tránh ngả theo dư luận xấu, cũng không hùa theo số đông lầm lạc, mà phải biết ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy. Điều này đòi chúng ta phải dũng cảm đứng về phía sự thật và khôn ngoan để giữ hòa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn ngoan dám bênh vực công lý này sẽ giúp người đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như Lời Chúa phán : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong việc sửa lỗi anh em :
Mỗi Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn sứ của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi tín hữu được tham phần. Nhiệm vụ ấy đòi mỗi tín hữu phải can đảm thi hành triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu có thể bị chối bỏ hay chống đối.
- Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện : Để nói Lời Chúa cách hữu hiệu với người có lỗi để họ sẵn sàng đón nhận và sửa đổi, chúng ta cần làm việc đó cách khôn ngoan, như ngôn sứ Na-than đã làm khi sửa lỗi cho vua Đa-vít (x. 2 Sm 12,1-13).
- Cần sửa lỗi tha nhân thế nào? : Để việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta nên theo thứ tự như sau :
+ Nhờ ơn Chúa giúp như Lời Chúa dạy : “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,8).
+ Cần tạo uy tín : Phải biết tự sửa mình trước khi sửa lỗi tha nhân, để tránh tình trạng : “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
+ Cần sửa lỗi do tình bác ái thôi thúc chứ không do sự ganh ghét đố kỵ.
+ Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường” : “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê ít”.
+ Cần sửa lỗi theo bốn bước theo Lời Chúa dạy như sau : Một là gặp riêng kẻ có lỗi; Hai là mang theo một hoặc hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ Ngôn Sứ là rao giảng Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Xin cho chúng con chuyên cần học sống Lời Chúa tại nhà thờ. Đọc câu Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho “Sự Thật” (x Ga 14,6), và tin vào sức mạnh của sự thật, như Chúa đã dạy : “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì che giấu mà không được tỏ lộ, chẳng có gì bí ẩn mà không được đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe thì hãy nghe!”
Người nói với các ông: “Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
Đó là lời Chúa
CN 4 C
Ngày 21.01, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo, Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Macta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha chia sẻ về đề tài “sự ghen ghét và đố kỵ”. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này.
“Bài đọc một trích sách Samuen thuật lại sự đố kỵ của Saun vua Ítraen, với Đavít. Sau chiến thắng vẻ vang trước người Philitinh, các phụ nữ từ khắp mọi thành của Ítraen kéo ra múa nhảy và ca hát rằng: ‘Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn’. Từ ngày đó, vua Saun nhìn Đavít với con mắt ghen tỵ và hoài nghi. Vua nghi ngờ sau này Đavít sẽ phản bội, và vì thế vua nảy sinh ý định giết Đavít. Nhưng sau đó, vua Saun đã nghe lời khuyên của người con trai mà suy nghĩ lại, không thực hiện ý đồ xấu xa của mình nữa. Ghen ghét là một căn bệnh sẽ dẫn đến sự đố kỵ
Lòng đố kỵ thật xấu xa! Đó là một thái độ xấu. Sự ghen ghét và lòng đố kỵ phát triển trong lòng người ta như cỏ dại. Nó phát triển và không để cho bất kỳ thứ thảo mộc tốt lành nào có thể mọc lên được nữa. Thứ cỏ dại ấy sẽ khiến tâm hồn người ta ra tối tăm, bệnh hoạn. Nó không để cho con người được bình an nhưng khiến con tim luôn dằn vặt, đau đớn. Một con tim đố kỵ rất có thể dẫn đến mưu sát và chết chóc. Kinh Thánh đã nói rất rõ: Lòng ghen tị tội lỗi đã mang sự chết vào trần gian.
Lòng đố kỵ dẫn đến việc ‘giết’ những người có điều mà mình không có. Nhưng người ấy sẽ luôn đau khổ, vì một con tim ghen ghét và đố kỵ sẽ luôn khổ đau, một sự khổ đau muốn người khác phải chết. Chúng ta không phải đi đâu xa mới có thể thấy những điều này. Rất nhiều lần, trong cộng đoàn của chúng ta, vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán. Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác.
Tổng trấn Philatô thật thông minh và nhạy bén vì biết rằng chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giêsu. Lòng ghen tỵ, theo cách giải thích của Philatô, một người thông minh nhưng lại không đủ can đảm chính là điều dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. Các thượng tế trao nộp Ngài vì ghen tỵ. Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta đừng vì ghen ghét, đố kỵ mà ra tay ‘trao nộp’ những người anh chị em của chúng ta trong cùng một xứ đạo, một cộng đoàn, một xóm làng, khiến họ phải đau khổ và phải chết. Ai cũng có những tội lỗi và thiếu sót, nhưng ai cũng có những nhân đức riêng của mình. Tội lỗi và nhân đức đều có nơi mỗi người. Chúng ta hãy để ý đến nhân đức và đừng giết chết người khác bằng những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ”.(x.vietvatican.net, 21/01/2016).
Tin Mừng hôm nay kể về những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ của dân làng Nadaret nên họ muốn giết Đức Giêsu.
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Người vào hội đường ngày Sabat. Giữa cộng đoàn toàn những người quen thuộc, Chúa Giêsu đọc và giảng giải ý nghĩa nội dung trích đoạn sách tiên tri Isaia, qua đó nhấn mạnh những điều Isaia tiên báo đã được ứng nghiệm. Sự ứng nghiệm ngay “hôm nay”, nơi bản thân con người mang tên Giêsu “con ông Giuse”.
Những người đồng hương quen thuộc của Chúa “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, nhưng họ vẫn chưa nhận ra vị cứu thế, ơn cứu độ và những người được cứu. Dưới mắt họ, Chúa Giêsu vẫn chỉ là “con của Giuse”. Chính những lối mòn trong ý nghĩ ngăn cản con người nhận ra sứ điệp mới. Những ý nghĩ đã thành nếp, sự đánh giá và nhìn nhận đã thành thói quen đang bịt mắt con người trước nhân tố mới.Tình trạng mù loà diễn ra khi con người bằng lòng với thế giới quen thuộc. Không mong chờ và khát khao sự thay đổi, nên khó lòng nhận ra huyền nhiệm náu mình bên dưới vẻ bình thường. (Khổng Thành Ngọc).
Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn.Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.
Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.
Còn Đức Giêsu vẫn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Thân phận thật bi đát của tiên tri. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài muốn nói với họ về lòng tin của hai “kẻ ngoại” giúp cho họ được cứu thoát. Bà goá thành Xarepta qua khỏi nạn hạn hán, ông quan Naaman xứ Syria được khỏi bệnh. Cả hai nhờ tin mà được cứu.
Câu chuyện “kẻ ngoại” được cứu đã khiến người “trong nhà” bị chạm nọc nổi cơn tam bành. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong và những gì thuộc về tinh thần cao thượng những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ muốn đẩy Ngài xuống vực. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”.
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.
Các nguồn tin nói rằng linh mục Dòng Tên người Hà Lan, nổi tiếng thánh thiện, bị sát hại ở Syria sẽ không được phong chân phước.
Việc phong chân phước cho linh mục Dòng Tên người Hà Lan Frans van der Lugt, bị sát hại ở Syria năm 2014, là điều không thể xảy ra trong tương lai gần - và rất có thể là vĩnh viễn.
Tuần báo Công Giáo Hà Lan Katholiek Nieuwsblad đã đưa tin này sau khi nói chuyện với những người trực tiếp tham gia vào quá trình này.
Lý do chính của việc này là vào khoảng năm 2009 hoặc 2010, Cha Van der Lugt bị cáo buộc đã đưa ra những tuyên bố xem thường nạn lạm dụng tình dục trong Giáo Hội. Khi được một nhóm du khách Tây Âu hỏi thăm cộng đồng tôn giáo của ngài ở Homs, Syria, ngài nói rằng theo ý kiến của ngài tất cả sự chú ý vào tội lỗi lạm dụng của hàng giáo sĩ đã bị phóng đại. Ngài cũng được cho là đã đặt câu hỏi về tác động của lạm dụng đối với các nạn nhân, cũng như độ tin cậy của họ.
Những người đến thăm cho rằng đã bị sốc trước những tuyên bố của ngài và báo cáo với cấp trên của ngài. Một lời khiển trách chính thức được cho là chưa hề được đưa ra vào thời điểm đó vì Cha Van der Lugt bị ốm ngay sau đó và phải nhập viện. Nhưng có một hồ sơ được ghi chép đầy đủ gần đây đã được đưa ra ánh sáng trong quá trình điều tra sơ bộ về thủ tục phong chân phước, theo một nguồn thạo tin từ tỉnh Dòng Tên Hà Lan.
Vào tháng 4 năm 2019, Cha Pascual Cebollada nói với Katholiek Nieuwsblad rằng tiến trình phong chân phước cho Cha Van der Lugts đã được mở và có thể sẽ hoàn thành trong vòng ba hoặc bốn năm. Cha Cebollada hoạt động như cáo thỉnh viên trong quá trình này, và linh mục Dòng Tên người Hà Lan Thom Sicking làm phó cáo thỉnh viên.
Các tu sĩ Dòng Tên đã đệ đơn xin tuyên Chân Phước cho ngài. Bề trên tổng quyền của Dòng Tên, là Cha Arturo Sosa đã đồng ý - và giám mục của Aleppo – là người chính thức bắt đầu tiến trình phong thánh – cũng rất nhiệt tình.
Câu chuyện Cha Van der Lugts coi thường những tuyên bố về việc lạm dụng bùng lên đã khiến các tu sĩ Dòng Tên quyết định tạm ngưng án tuyên Chân Phước có khả năng là vĩnh viễn.
Thay vào đó, Dòng Tên hiện đang tập trung vào án tuyên thánh cho một nhà truyền giáo người Hà Lan khác đã mất mạng ở Trung Đông là Cha Nico Kluiters, sinh ra ở Delft, người bị sát hại ở Li Băng vào năm 1985. Quá trình phong chân phước cho ngài đã được bắt đầu vào hôm thứ Bảy 22 tháng Giêng.
Cũng có một lý do chính thức cho việc nhanh chóng phong chân phước cho Cha Nico Kluiters hơn là Cha Van der Lugt: Trong trường hợp của Cha Kluiters, thủ phạm và động cơ đã được biết rõ. Rõ ràng là ngài đã bị sát hại vì lòng căm thù đối với đức tin Kitô, là một trong những lý do đẩy nhanh một tiến trình phong chân phước hoặc phong thánh.
Cha Frans van der Lugt sinh ra ở La Hay, đã làm việc ở Trung Đông từ năm 1964, bị bắn chết tại Homs vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa rõ hung thủ là ai và động cơ của người ấy, nhưng có khả năng ngài bị giết vì lý do chính trị hơn là tôn giáo.
Source:Crux
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary # 136: Sex with a Witch”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 136: Luyến ái với phù thủy”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy
Quan hệ luyến ái với phù thủy là một ý tưởng cực kỳ ngu xuẩn. Chúng tôi đã gặp một số người đến xin trừ tà vì đã làm như thế, và họ chắc chắn cần được giúp đỡ! Dù người đàn ông hay người đàn bà hành nghề phù thủy cố gắng “chúc phúc” cho bạn tình hay nguyền rủa họ, thì hành động của họ sẽ luôn có hại về mặt tinh thần và cuối cùng trở thành một lời nguyền.
Ví dụ, một phụ nữ gần đây đã nói rằng dì của cô ấy, là người hành nghề phù thủy, đã cố gắng giúp cô ấy một số trợ giúp tinh thần thông qua phép thuật của mình. Gần như ngay lập tức, các vấn đề tâm linh của cô trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.
Bản thân quan hệ luyến ái trái đạo đức, tức là quan hệ luyến ái ngoài hôn nhân, là một tội trọng mà nhất thiết sẽ mở ra những ảnh hưởng của Sa-tan. Nhưng quan hệ luyến ái với một người làm nghề phù thủy, dùng các phép thuật hay bùa ngải là đặc biệt ngu xuẩn. Quan hệ luyến ái gắn kết sâu sắc hai người. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một sợi dây tình yêu đầy ân sủng. Nhưng khi thực hiện hành vi tội lỗi này với một phù thủy, hoặc một thầy bùa ngải, nó sẽ liên kết một người với Satan. Các phù thủy và những thầy bùa ngải lấy được sức mạnh của họ từ Satan, cho dù họ có biết điều đó hay không.
Những người đến với chúng tôi để được giúp đỡ, có quan hệ luyến ái với một phù thủy, đều có mối liên hệ sâu sắc với cái ác. Tệ nạn này khó mà diệt trừ tận gốc. Một sự ăn năn chân thành và xưng tội qua bí tích hòa giải là một khởi đầu tốt, nhưng sự giải thoát cuối cùng có thể sẽ là một cuộc chiến lâu dài. Trong mỗi trường hợp như vậy, Satan đã vạch ra lãnh thổ của hắn và liên tục tuyên bố, “Ngươi thuộc về ta!”
Hơn nữa, một số người cũng ăn phải những đồ vật bị nguyền rủa từ phù thủy mà cuối cùng họ đã vượt qua một cách đau đớn trong quá trình trừ tà. Cho dù nó có ý nghĩa như một lời chúc hay một lời nguyền, bất cứ thứ gì mà phù thủy hay thầy bùa ngải đưa ra như một lọ thuốc đều là một lời nguyền, vì nó xuất phát từ việc họ thực hành ma thuật, thứ luôn tìm thấy nó bắt nguồn từ cái ác.
Khi đất nước này ngày càng rơi vào tình trạng vô đạo đức, phù thủy và những điều huyền bí, nhiều người sẽ bị ràng buộc sâu sắc với cái ác. Tôi sợ rằng sẽ có ít người tìm được đường ra khỏi bóng tối.
Những người trẻ của chúng ta cần được cảnh báo:
+ Không thực hành bất kỳ hình thức phù thủy nào;
+ Ngay cả “phước lành” của phù thủy hay thầy bùa cuối cùng cũng trở thành lời nguyền;
+ Không kết bạn với một người hành nghề phù thủy;
+ Và, không bao giờ, không bao giờ, có quan hệ luyến ái với một phù thủy.
Source:Catholic Exorcism
Azerbaijan đang tìm kiếm sự giúp đỡ ngoại giao của Vatican trong cuộc xung đột đang diễn ra với Armenia. Đức Thánh Cha Phanxicô và nhóm trợ lý của ngài đang thể hiện sự sẵn sàng hỗ trợ điều này.
Thứ Năm tuần trước, một phái đoàn do Chủ tịch Văn phòng người Hồi giáo Caucasus, Grand Mufti Allahshukur Pashazadeh dẫn đầu đã được Đức Thánh Cha đón tiếp. Sau cuộc gặp gỡ này, Đức Phanxicô đã tiếp những nhà lãnh đạo tôn giáo có mặt tại Azerbaijan, bao gồm Chính thống giáo Nga và Giáo Hội Công Giáo, trong một phái đoàn do Đại sứ Azerbaijan tại Pháp và Tòa thánh, Rahman Mustafayev dẫn đầu.
Trong cuộc họp báo tại Rôma sau cuộc gặp, nhà lãnh đạo tôn giáo lập luận rằng Tổng thống Azerbaijan Ilham Aliyev đã tiếp tục các chính sách hợp tác với Vatican do cha ông là Heydar khởi xướng. Giáo sĩ Hồi giáo cho biết “chuyến thăm lịch sử” của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Azerbaijan vào năm 2016 đã làm nổi bật “sự khoan dung” và mức độ tuyệt vời của đối thoại giữa các tôn giáo ở đất nước vùng Caucasus.
Thông tấn xã Azeri đưa tin, nhà ngoại giao hàng đầu của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Pietro Parolin, người Ý, đã nhận lời mời đến thăm đất nước này trong năm nay để đánh dấu kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Azerbaijan là một quốc gia đa số theo đạo Hồi, và từng là một phần của Liên Xô cho đến năm 1991. Quân Liên Xô đã phá hủy nhà thờ Công Giáo duy nhất của thủ đô vào những năm 1930 và ngôi thánh đường chỉ được xây dựng lại vào năm 2007. Theo Catholic Almanac, chỉ có hai nhà truyền giáo phục vụ những Cộng đồng Công Giáo nhỏ bé phần lớn có nguồn gốc Ba Lan và Armenia.
Armenia, cũng là một phần trước đây của Liên Xô, có 93% dân số là các tín hữu của Giáo hội Armenia Tông Truyền, một phần của gia đình các Giáo hội Chính thống Phương Đông. Armenia tuyên bố là nhà nước Kitô Giáo chính thức đầu tiên trên thế giới vào năm 301 sau Chúa Giáng Sinh.
Xung đột hiện tại bắt nguồn từ sự tan rã của Liên Xô, khi hai nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ bắt đầu tranh chấp lãnh thổ Thượng Karabakh, nơi sinh sống chủ yếu của người gốc Armenia và theo Kitô Giáo.
Đức Phanxicô đã đến thăm Armenia vài tháng trước khi đến Azerbaijan. Hai quốc gia có xung đột lâu dài về khu vực Nagorno-Karabakh. Chiến tranh đã nổ ra nhiều lần. Thỏa thuận hòa bình mới nhất được đưa ra vào tháng 11 năm 2020, nhưng lệnh ngừng bắn đã không kéo dài được bao lâu.
Vào tháng 5 năm 2021, binh lính Azerbaijan đã vượt vài dặm vào Armenia ở các tỉnh Syunik và Gegharkunik, chiếm vài dặm vuông lãnh thổ Armenia. Cho đến nay, họ vẫn chưa rút khỏi lãnh thổ Armenia được quốc tế công nhận bất chấp lời kêu gọi của Nghị viện Châu Âu, Hoa Kỳ và Pháp.
Đức Phanxicô nói chung được yêu mến ở Armenia do ngài đã lên án mạnh mẽ Cuộc diệt chủng Armenia ngay từ đầu trong triều đại giáo hoàng của mình. Theo lời của Đại sứ Azerbaijan tại Pháp, Rahman Mustafayev, Đức Thánh Cha và Tòa thánh trở thành “người đóng vai trò quan trọng” trong việc bình định khu vực.
Source:Crux
Các nhà lãnh đạo Công Giáo ở Sri Lanka đã đặt ra các nghi vấn về cuộc điều tra của cảnh sát liên quan đến việc phát hiện một quả lựu đạn bên trong một nhà thờ vào ngày 11 tháng Giêng, ba ngày trước lễ kỷ niệm 1,000 ngày kể từ vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh 2019.
Đức Hồng Y Malcolm Ranjith của Colombo bày tỏ nghi ngờ về tính chính trực trong cuộc điều tra của cảnh sát, mặc dù Bộ trưởng Quốc phòng Kamal Gunaratne khẳng định rằng các quan chức cảnh sát đã biết rõ về cuộc điều tra và hy vọng họ sẽ sớm bắt giữ những kẻ chủ mưu chính và đưa chúng ra trước công lý.
Đức Hồng Y Ranjith trước đó đã kêu gọi cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra minh bạch. Tuy nhiên, điều gây kinh hoàng cho các nhà lãnh đạo Giáo Hội là cảnh sát đã bắt đi ông từ trông coi nhà thờ Các Thánh ở Borella cùng với một người đàn ông bị tình nghi gài lựu đạn. Chính ông từ nhà thờ là người đã phát hiện ra quả lựu đạn và tri hô lên.
Cảnh sát cho biết vụ bắt giữ được thực hiện sau khi các quan chức tình báo nhà nước điều tra và các cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nghi phạm chính đã được trả 50,000 rupee, tức là 250 USD, để cài lựu đạn.
Cha Jude Sherman Fernando và hội đồng giáo xứ của nhà thờ Các Thánh cho biết: “Chúng tôi kiên quyết kêu gọi tất cả các cơ quan có liên quan và chính phủ xem xét những vấn đề này một cách rất nghiêm túc và giải quyết các cuộc điều tra với tất cả kỹ năng hợp lý, cẩn thận và phân định kỹ lưỡng.”
Tuyên bố lên án mạnh mẽ hành động cài một quả lựu đạn tại một nơi thờ tự, nơi có rất nhiều người đến thờ phượng, tìm kiếm niềm an ủi và bình yên kể từ thế kỷ 18.
Cha Fernando nói: “Nó vi phạm các quyền cơ bản của các thành viên trong cộng đồng giáo xứ của chúng tôi và ảnh hưởng đến niềm tin vào an ninh quốc gia của tất cả các công dân ở đất nước này.”
Lãnh đạo phe đối lập Sajith Premadasa cũng bày tỏ sự nghi ngờ về bản chất của các cuộc điều tra đang diễn ra
Linh mục và hội đồng giáo xứ cũng bày tỏ sự không hài lòng của họ về cách thức mà các cuộc điều tra đang tiến hành. Cảnh sát đến bắt ngay ông từ nhà thờ ngay cả trước khi xem toàn bộ đoạn phim CCTV do nhà thờ cung cấp.
Cha Fernando cho biết một người có thể được nhìn thấy vào khuôn viên nhà thờ với một chiếc túi trong đoạn phim.
Bộ trưởng Bộ Công an Sarath Weerasekera cho rằng những tuyên bố của hàng lãnh đạo Giáo Hội như vậy có thể làm xói mòn lòng tin của công chúng đối với cảnh sát. Ông cho rằng điều rất quan trọng là công chúng nên tin tưởng vào cảnh sát.
Source:UCANews
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Chat #134: Demons Witness to Sanctity of Church”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 134: Ma quỷ cho ta thấy sự thánh thiện của Giáo Hội”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Để biết điều gì là thánh thiện thực sự, người ta có thể nhìn vào thứ mà ma quỷ căm ghét. Ma quỷ bị tra tấn bởi bất cứ thứ gì thánh thiện. Và một trong những sự tra tấn lớn nhất, đối với tất cả các loài ma quỷ, là vào một Nhà thờ Công Giáo.
+ Đầu tiên, khi ma quỷ đến gần Nhà thờ, chuông vang lên. Ma quỷ bị xua đuổi bởi âm thanh của chuông Nhà thờ. Một số nhà trừ tà rung một chuông nhỏ đã được làm phép trong lễ trừ tà là vì lý do đó.
+ Bước qua các cửa của Nhà thờ gây ra sự đau khổ và lo lắng lớn cho ma quỷ. Nhiều người bị ma quỷ nhập cảm thấy không thể bước vào bên trong một ngôi nhà thờ; những con quỷ tuyệt vọng cố gắng ngăn cản họ bước vào ngôi thánh đường.
+ Việc chúc lành cho bản thân bằng nước thánh là nguồn cực hình cho ma quỷ. Nước thánh là một phần của mọi lễ trừ tà. Đây là một trong những á bí tích hiệu quả nhất để đuổi mọi loài quỷ.
+ Tiến lên trên cung thánh, người ta nhìn thấy một cây thánh giá. Một phần tiêu chuẩn của mọi lễ trừ tà là nêu lên dấu hiệu cho sự thất bại của ma quỷ, đó là hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh, và nói, “Ecce crucem Domini: fugite partes adversae”, nghĩa là “Đây là thánh giá Chúa: xua tan mọi quyền lực quỷ ma”. Khi tôi nâng cây thánh giá lên trong một lễ trừ tà gần đây, những con quỷ đã hét lên “Cất nó đi! Nó đang đốt cháy tôi!”
+ Gần bàn thờ tiêu biểu là ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Những con quỷ thậm chí không thể nói tên của Đức Mẹ, Đức Mẹ thật thánh thiện và đầy ân sủng. Ma quỳ khiếp sợ Đức Mẹ.
+ Khi Thánh lễ bắt đầu, một linh mục đến gần và hôn lên bàn thờ. Ma quỷ ghét các linh mục, vì các ngài đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Như một con quỷ đã nói với tôi giữa một lễ trừ tà “Tao ghét cái ngày mà cô ta gặp mày!”
+ Bản thân lễ phục của các linh mục, đặc biệt là dây stôla, là những lễ phục quyền năng. Khi một người bị quỷ ám đang vật lộn với ma quỷ, chúng tôi quấn dây đai của một linh mục, biểu tượng của sự trong trắng, quanh thắt lưng của cô ấy. Những con quỷ cầu xin hãy gỡ bỏ dây đai ấy ra. Trong một lễ trừ tà khác, tôi đặt dây stôla của mình lên người bị quỷ ám và những con quỷ rú lên đau đớn, “Cởi nó ra! Cởi nó ra!”
+ Ma quỷ làm mọi cách để không cho một người bị quỷ ám đi lễ và rước lễ. Một người bị quỷ ám cho biết bánh thánh đối với cô ấy có mùi vị như “một con vật chết”. Ma quỷ kinh sợ sự hiện diện thực sự. Các tín đồ của Satan giáo biết bánh thánh sau khi đã được thánh hiến thiêng liêng như thế nào, đó là lý do tại sao chúng cố gắng ăn cắp bánh thánh và làm các trò báng bổ.
Mọi thứ trong một Nhà thờ Công Giáo đều làm ma quỷ hồn phi phách tán vì sự thánh thiện. Phản ứng như bị tra tấn của chúng là một minh chứng rõ ràng và mạnh mẽ cho sự thánh thiện của Giáo hội và những ân sủng biểu lộ bên trong. Do đó, đến Nhà thờ hàng ngày đối với tất cả chúng ta chẳng phải là một khoảnh khắc tuyệt vời sao? Thực sự chẳng có sự gì quan trọng hơn hoặc đầy ân sủng hơn Thánh lễ hàng ngày?
Source:Catholic Exorcisms
Linh mục Dòng Tên Rutilio Grande của El Salvador đã được phong chân phước vào hôm thứ Bảy ngày 22 tháng Giêng tại San Salvador cùng với hai giáo dân đồng hành và Cha Cosme Spessotto thuộc dòng Phanxicô. Tất cả đều là nạn nhân của vụ giết người dưới bàn tay của đội tử thần trong nhiều năm khủng bố ở El Salvador và là những vị tử vì đạo vì đức tin và công lý.
Cha Rutilio Grande và hai người bạn đồng hành của ngài đã chết vào ngày 12 tháng 3 năm 1977. Họ bị bắn hạ bởi các tay súng hoạt động cho chính phủ bấy giờ.
Trong một video, cha Arturo Sosa, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, cho biết:
“Cha Rutilio Grande là một tu sĩ Dòng Tên có chiều kích nhân bản và tôn giáo và con người nổi bật. Trong thể xác yếu đuối của mình, ngài tìm thấy sự vĩ đại của mình. (...) Ngài biết cách trở thành một cố vấn, một người bạn đồng hành thông cảm và tử tế, đồng thời kiên định và nghiêm túc về đời sống Kitô Hữu và việc thi hành chức vụ linh mục một cách có trách nhiệm. Xuất thân từ thành phần nông dân, ngài đã tận tụy phục vụ đến mức các nông dân đã tìm thấy nơi ngài một linh mục gần gũi, hy sinh và yêu thương, chia sẻ cuộc sống với cộng đồng những người theo Chúa Giêsu, những người làm chứng cho Tin mừng. “
Lễ phong chân phước sẽ do Đức Hồng Y Gregorio Rosa Chávez cử hành. Cha Pascual Cebollada, cáo thỉnh viên án tuyên thánh, sẽ đại diện cho Cha Bề Trên Tổng tại buổi lễ. Cha Pascual cho biết:
“Thật là một niềm an ủi khi đọc về cuộc đời của Rutilio, để thấy người tu sĩ Dòng Tên này đã dấn thân với những người nhỏ bévà không có khả năng tự vệ như thế nào. Sự siêng năng cầu nguyện và gần gũi với Chúa Giêsu, nghèo khó và khiêm nhường - là điều mà tất cả các tu sĩ Dòng Tên đều được kêu gọi - giờ đây đã khiến ngài trở thành một tấm gương mà tất cả chúng ta có thể học hỏi. “
Cha Rutilio Grande sinh ngày 5 tháng 7 năm 1928. Ngài gia nhập Dòng Tên năm 1945 và được thụ phong năm 1959. Ngài là linh mục đầu tiên thiệt mạng trong cuộc nội chiến ở El Salvador. Vụ sát hại ngài có tác động rất lớn đến Óscar Romero, Tổng giám mục lúc bấy giờ của San Salvador, là người ngày càng thẳng thắn về cuộc chiến và cuối cùng bản thân ngài cũng bị sát hại.
Source:Jesuit
Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội, là ngày thế giới duy nhất được Công đồng Vatican II thiết lập trong Sắc Lệnh Inter Mirifica vào năm 1963. Theo lời khuyên của các giám mục trên thế giới, Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội được cử hành vào Chúa Nhật trước Lễ Hiện Xuống. Trong năm 2022 này, Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội là ngày 29 Tháng Năm.
Văn bản Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội được công bố vào ngày 24 tháng Giêng hàng năm, nhân lễ Thánh Phanxicô đệ Salê, là bổn mạng các nhà báo. Chủ đề của Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội năm nay là “Lắng nghe bằng trái tim”.
Nguyên bản tiếng Ý và các ngôn ngữ khác có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Lắng nghe bằng trái tim
Anh chị em thân mến,
Năm ngoái, chúng ta đã suy tư về nhu cầu “Hãy Đến Và Xem” để khám phá thực tế và có thể kể lại nó bắt đầu bằng việc trải nghiệm các sự kiện và gặp gỡ mọi người. Tiếp tục với nội dung này, bây giờ tôi muốn hướng sự chú ý đến một từ khác, “lắng nghe”, từ này mang tính quyết định trong ngữ pháp giao tiếp và là điều kiện để đối thoại chân thực.
Trên thực tế, chúng ta đang mất khả năng lắng nghe những người trước mặt, cả trong quá trình bình thường của các mối quan hệ hàng ngày và khi tranh luận về các vấn đề quan trọng nhất của đời sống dân sự. Đồng thời, lắng nghe đang trải qua một bước phát triển mới quan trọng trong lĩnh vực truyền thông và thông tin thông qua các podcast và tin nhắn âm thanh khác nhau có sẵn nhằm khẳng định rằng lắng nghe vẫn là điều cần thiết trong giao tiếp của con người.
Một bác sĩ đáng kính, quen chữa trị những vết thương tâm hồn, từng được hỏi đâu là nhu cầu lớn nhất của con người. Anh ấy trả lời rằng: đó là “Mong muốn vô bờ bến để được lắng nghe”. Đó là một mong muốn thường bị che giấu, nhưng điều đó thách thức bất cứ ai được kêu gọi trở thành nhà giáo dục hoặc nhà đào tạo, hoặc những người thực hiện vai trò giao tiếp: cha mẹ và thầy cô giáo, mục tử và các nhân viên mục vụ, chuyên gia truyền thông và những người khác đang thực hiện dịch vụ xã hội hoặc chính trị.
Lắng nghe bằng trái tim
Từ những trang Kinh thánh, chúng ta biết rằng lắng nghe không chỉ có nghĩa là cảm nhận âm thanh, mà về cơ bản được liên kết với mối quan hệ đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. “Shema 'Israel - Hỡi Israel, hãy nghe” (Đnl 6: 4), lời mở đầu này của điều răn thứ nhất trong Sách Luật [Torah – Năm cuốn đầu tiên của Cựu Ước – chú thích của người dịch], liên tục được nhắc lại trong Kinh thánh, đến mức thánh Phaolô khẳng định rằng “đức tin có được nhờ lắng nghe”. (xem Rm 10:17). Thực ra, sáng kiến là của Thiên Chúa, Đấng nói với chúng ta và chúng ta đáp lại bằng cách lắng nghe Ngài. Cuối cùng, ngay cả sự lắng nghe này cũng xuất phát từ ân sủng của Người, như trường hợp của đứa trẻ sơ sinh đáp lại ánh mắt và giọng nói của cha mẹ mình. Trong năm giác quan, giác quan được Thiên Chúa ưu ái dường như là thính giác, có lẽ vì nó ít tọc mạch hơn, kín đáo hơn thị giác, và do đó, con người được tự do hơn.
Lắng nghe tương ứng với phong cách khiêm tốn của Thiên Chúa. Đó là hành động để Thiên Chúa có thể bày tỏ mình là Đấng, bằng cách nói ra, đã tạo ra người nam và người nữ theo hình ảnh của Ngài, và bằng cách lắng nghe nhìn nhận họ là đối tác của Ngài trong cuộc đối thoại. Thiên Chúa yêu thương loài người: đó là lý do tại sao Ngài ngỏ lời với họ, và tại sao Ngài “nghiêng tai” để lắng nghe họ.
Ngược lại, con người có xu hướng trốn tránh các mối quan hệ, quay lưng lại và “bịt tai” để không cần phải lắng nghe. Việc từ chối lắng nghe cuối cùng thường trở thành hung hăng đối với người kia, như đã xảy ra với những người đang nghe phó tế Stêphanô. Họ bịt tai lại, và tất cả đều quay lưng lại với ông (xem Cv 7:57).
Vì vậy, một mặt, Thiên Chúa luôn luôn bày tỏ chính mình bằng cách giao tiếp một cách nhưng không; và mặt khác, những người nam nữ được yêu cầu cởi mở, sẵn sàng lắng nghe. Chúa gọi con người một cách rõ ràng vào giao ước yêu thương, để họ có thể trở nên trọn vẹn như họ là: đó là hình ảnh và sự giống như Thiên Chúa trong khả năng lắng nghe, đón nhận và nhường không gian cho người khác. Về cơ bản, lắng nghe là một chiều kích của tình yêu.
Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đánh giá phẩm chất lắng nghe của họ. “Anh em hãy để ý đến cách thức anh em nghe” (Lc 8:18): đây là điều Người khuyên họ làm sau khi kể lại dụ ngôn người gieo giống, để làm rõ rằng chỉ nghe thôi là chưa đủ, mà cần phải chăm chú lắng nghe cẩn thận. Chỉ những ai đón nhận Lời Chúa với tấm lòng “lương thiện” và trung thành tuân giữ thì mới sinh hoa kết quả là sự sống và ơn cứu độ (x. Lc 8:15). Chú ý đến người mà chúng ta lắng nghe, những gì chúng ta lắng nghe và cách chúng ta lắng nghe, chúng ta mới có thể phát triển trong nghệ thuật giao tiếp. Trọng tâm của nghệ thuật ấy không phải là lý thuyết hay kỹ thuật, mà là “sự cởi mở của trái tim, làm cho sự gần gũi trở nên khả thi”(xem Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm, 171).
Tất cả chúng ta đều có đôi tai, nhưng nhiều khi ngay cả những người có thính giác hoàn hảo cũng không thể nghe thấy một người khác. Trên thực tế, có một bệnh điếc nội tạng tồi tệ hơn điếc thể chất. Thật vậy, việc lắng nghe liên quan đến toàn bộ con người, chứ không chỉ cảm giác nghe. Vị trí thực sự của lắng nghe là trái tim. Dù còn rất trẻ, Vua Salômôn đã tỏ ra mình khôn ngoan vì ông đã cầu xin Chúa ban cho ông một “trái tim biết lắng nghe” (xem 1 Các Vua 3: 9). Thánh Augustinô đã từng khuyến khích chúng ta lắng nghe bằng trái tim (corde audire), đón nhận những lời nói không phải bằng tai, nhưng bằng tâm linh trong tâm hồn chúng ta: “Đừng đặt tim mình nơi đôi tai, nhưng hãy đặt đôi tai trong tim mình”. [1] Thánh Phanxicô thành Assisi đã khuyến khích anh em của mình “hãy nghiêng về đôi tai tâm hồn”. [2]
Do đó, khi tìm kiếm sự giao tiếp thực sự, kiểu lắng nghe đầu tiên cần được khám phá lại là lắng nghe bản thân, những nhu cầu chân thật nhất của bản thân, những nhu cầu được khắc sâu trong tâm hồn mỗi người. Và chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng cách lắng nghe điều khiến chúng ta trở nên độc nhất trong sáng tạo: đó là mong muốn được ở trong mối quan hệ với Chúa và với những người khác. Chúng ta không được tạo ra để sống tách biệt như các nguyên tử, nhưng sống cùng nhau.
Lắng nghe như một điều kiện để giao tiếp tốt
Có một kiểu nghe không hẳn là nghe mà ngược lại: đó là nghe trộm. Trên thực tế, việc nghe lén và theo dõi, bóc lột người khác vì lợi ích của chúng ta là một cám dỗ luôn hiện hữu mà ngày nay dường như đã trở nên gay gắt hơn trong thời đại mạng xã hội. Thay vào đó, điều đặc biệt làm cho giao tiếp trở nên tốt đẹp và hoàn toàn mang tính nhân văn là lắng nghe người đối diện với chúng ta, mặt đối mặt, lắng nghe người khác mà chúng ta tiếp cận với sự cởi mở công bằng, tự tin và trung thực.
Thật không may, việc thiếu sự lắng nghe mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống hàng ngày cũng thể hiện rõ trong cuộc sống công cộng, nơi mà thay vì lắng nghe nhau, chúng ta thường “ci si parla addosso” - “nói chuyện qua lại”. Đây là một triệu chứng của thực tế rằng, thay vì tìm kiếm sự thật và điều lành, người ta tìm kiếm sự đồng thuận; thay vì lắng nghe, người ta chú ý đến khán giả. Ngược lại, giao tiếp tốt không cố gắng gây ấn tượng với công chúng bằng một câu nói chụp mũ, với mục đích chế giễu người kia, nhưng hãy chú ý đến lý do của người kia và cố gắng nắm bắt sự phức tạp của thực tế. Thật đáng buồn khi, ngay cả trong Giáo Hội, sự liên kết về ý thức hệ đã hình thành và sự lắng nghe biến mất, làm gia tăng sự chống đối vô ích.
Trong thực tế, trong nhiều cuộc đối thoại, chúng ta không giao tiếp gì cả. Chúng ta chỉ đơn giản là đợi người kia nói xong là áp đặt quan điểm của mình. Trong những tình huống này, như nhà triết học Abraham Kaplan lưu ý, [3] đối thoại là một cuộc song thoại: một cuộc độc thoại bằng hai giọng nói. Tuy nhiên, trong giao tiếp thực sự, “tôi” và “bạn” đều “di chuyển ra ngoài”, tiếp cận với nhau.
Vì vậy, lắng nghe là thành phần không thể thiếu đầu tiên của đối thoại và giao tiếp tốt. Giao tiếp không thể diễn ra nếu không biết lắng nghe, và không có một nền ngôn luận tốt nếu không có khả năng lắng nghe. Để cung cấp thông tin chắc chắn, cân bằng và đầy đủ, cần phải lắng nghe trong một thời gian dài. Để kể lại một sự kiện hoặc mô tả một trải nghiệm trong việc tường thuật tin tức, điều cần thiết là phải biết cách lắng nghe, sẵn sàng thay đổi ý kiến và thay đổi những giả định ban đầu của mình.
Chỉ bằng cách gạt những lời độc thoại sang một bên thì sự hài hòa của giọng nói mới bảo đảm cho giao tiếp thực sự có thể đạt được. Việc lắng nghe một số nguồn, chứ “không dừng lại ở quán rượu đầu tiên” - như các chuyên gia trong lĩnh vực này dạy chúng ta - bảo đảm độ tin cậy và nghiêm túc của thông tin chúng ta truyền tải. Lắng nghe nhiều giọng nói, lắng nghe lẫn nhau, ngay cả trong Giáo Hội, giữa các anh chị em với nhau, cho phép chúng ta thực hiện nghệ thuật phân định, vốn luôn xuất hiện như khả năng tự định hướng trong một bản giao hưởng các tiếng nói.
Nhưng tại sao phải đối mặt với việc cố gắng lắng nghe? Một nhà ngoại giao vĩ đại của Tòa thánh, Đức Hồng Y Agostino Casaroli, từng nói về “sự kiên nhẫn tử đạo” cần phải lắng nghe và được lắng nghe trong các cuộc đàm phán với các bên khó khăn nhất, để đạt được lợi ích lớn nhất có thể trong tình trạng hạn chế về tự do. Nhưng ngay cả trong những tình huống ít khó khăn hơn, việc lắng nghe luôn đòi hỏi đức tính kiên nhẫn, cùng với khả năng cho phép bản thân ngạc nhiên trước sự thật, dù chỉ là một mảnh vụn của sự thật, nơi người mà chúng ta đang lắng nghe. Chỉ có sự ngạc nhiên mới mang lại kiến thức. Tôi nghĩ đến sự tò mò vô hạn của những đứa trẻ luôn mở to mắt nhìn thế giới xung quanh. Lắng nghe với khung tâm trí này – tức là với sự kinh ngạc của đứa trẻ đang nhận thức về người lớn - luôn luôn làm ta phong phú bởi vì sẽ luôn có điều gì đó, dù nhỏ, mà tôi có thể học hỏi từ người kia và cho phép đơm hoa kết trái trong cuộc sống của chính mình.
Khả năng lắng nghe xã hội có giá trị hơn bao giờ hết trong thời điểm đang bị tổn thương này bởi đại dịch kéo dài. Quá nhiều sự ngờ vực tích lũy trước đây đối với “thông tin chính thức” cũng đã gây ra một “bệnh dịch”, trong đó thế giới thông tin đang ngày càng đấu tranh để trở nên đáng tin cậy và minh bạch. Chúng ta cần lắng nghe và lắng nghe một cách sâu sắc, đặc biệt là đối với những bất an xã hội tăng cao bởi sự suy thoái hoặc ngừng hoạt động của nhiều hoạt động kinh tế.
Thực tế của việc cưỡng bức di cư cũng là một vấn đề phức tạp và không ai có sẵn một phương dược để giải quyết nó. Tôi xin nhắc lại rằng, để vượt qua những định kiến về người di cư và làm tan chảy sự chai sạn của trái tim chúng ta, chúng ta nên cố gắng lắng nghe câu chuyện của họ. Hãy cho mỗi người trong số họ một cái tên và một câu chuyện. Nhiều nhà báo giỏi đã làm được điều này. Và nhiều người khác cũng muốn làm điều đó, giá mà họ có thể. Chúng ta hãy khuyến khích họ! Chúng ta hãy cùng lắng nghe những câu chuyện này nhé! Mọi người sau đó sẽ được tự do ủng hộ các chính sách di cư mà họ cho là phù hợp nhất đối với đất nước của họ. Nhưng trong mọi trường hợp, trước mắt chúng ta không phải là những con số, không phải là những kẻ xâm lược nguy hiểm, mà là những khuôn mặt và những câu chuyện, những ánh mắt, những mong đợi và những đau khổ của những người nam nữ thực sự để chúng ta lắng nghe.
Lắng nghe nhau trong Giáo Hội
Trong Giáo Hội cũng vậy, rất cần lắng nghe lẫn nhau. Đó là món quà cuộc sống quý giá nhất mà chúng ta có thể dành cho nhau. “Các tín hữu Kitô đã quên rằng sứ vụ lắng nghe đã được giao cho họ bởi chính Người là Đấng lắng nghe vĩ đại và là Đấng mà họ nên chia sẻ công việc. Chúng ta nên nghe bằng tai của Thiên Chúa để có thể nói lời của Thiên Chúa” [4]. Thành ra, nhà thần học Tin lành Dietrich Bonhoeffer nhắc nhở chúng ta rằng sự phục vụ đầu tiên mà chúng ta có đối với người khác trong sự hiệp thông bao gồm việc lắng nghe họ. Ai không biết lắng nghe anh chị em mình thì chẳng bao lâu nữa sẽ không thể nghe Thiên Chúa được nữa. [5]
Nhiệm vụ quan trọng nhất trong hoạt động mục vụ là “tông đồ của đôi tai” - lắng nghe trước khi nói, như Tông đồ Giacôbê khuyên chúng ta: “Mọi người hãy mau nghe, và hãy chậm nói” (1:19). Trao ra một chút thời gian của riêng mình một cách nhưng không để lắng nghe mọi người là hành động bác ái đầu tiên.
Một quy trình thượng hội đồng vừa được khởi động. Chúng ta hãy cầu nguyện rằng đó sẽ là một cơ hội tuyệt vời để lắng nghe lẫn nhau. Thực ra, sự hiệp thông không phải là kết quả của các chiến lược và chương trình, nhưng được xây dựng trên sự lắng nghe lẫn nhau giữa anh chị em. Như trong một dàn hợp xướng, sự thống nhất không đòi hỏi sự đồng nhất, đơn điệu mà là sự đa dạng và nhiều giọng, đa âm. Đồng thời, mỗi giọng ca trong ca đoàn hát lên trong khi vẫn lắng nghe các giọng khác để có sự hòa hợp của tổng thể. Sự hòa hợp này là do người sáng tác hình thành, nhưng việc thực hiện nó phụ thuộc vào bản giao hưởng của từng giọng hát.
Với ý thức rằng chúng ta được tham gia vào một sự truyền thông đi trước chúng ta và bao gồm chúng ta, chúng ta có thể khám phá lại một Giáo Hội giao hưởng, trong đó mỗi người có thể hát bằng chính giọng hát của mình, chào đón tiếng nói của người khác như một ân sủng để biểu lộ sự hòa hợp của toàn bộ bản giao hưởng do Chúa Thánh Thần soạn thảo.
Rôma, Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 24 tháng Giêng năm 2022, Lễ Kính Thánh Phanxicô Đệ Salê.
+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô
[1] “ Nolite habere cor in auribus, sed aures in corde” ( Sermo 380, 1: Nuova Biblioteca Agostiniana 34, 568).
[2] “Lettera a tutto l’Ordine”: Fonti Francescane, 216.
[3] Cf. “The life of dialogue”, in J.D. Roslansky, ed., Communication. A discussion at the Nobel Conference, North-Holland Publishing Company, Amsterdam, 1969, pp. 89-198.
[4] D. Bonhoeffer, La vita comune, Queriniana, Brescia 2017, 76.
[5] x. Thượng dẫn, 75.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
Theo tin Tòa Thánh, ngày thứ Tư, 26 tháng 1 năm 2022, trong buổi yết kiến chung tại Hội trường Phaolô VI, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp tục loạt bài giáo lý của ngài về Thánh Cả Giuse, nhấn mạnh tới các giấc mơ của Thánh nhân. Sau đây là nguyên văn bài giáo lý của ngài, dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay tôi muốn tập trung vào hình ảnh Thánh Giuse như một người có những giấc mơ. Trong Kinh thánh, cũng như trong nền văn hóa của các dân tộc cổ xưa, giấc mơ được coi như một phương tiện để Thiên Chúa tự mạc khải Người ra. Giấc mơ tượng trưng cho đời sống tinh thần của mỗi chúng ta, tượng trưng cho không gian nội tâm mà mỗi chúng ta được mời gọi vun sới và canh giữ, nơi Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thường nói với chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải nói rằng bên trong mỗi chúng ta không những có tiếng nói của Thiên Chúa: mà còn nhiều tiếng nói khác nữa. Thí dụ, tiếng nói sợ hãi của chúng ta, tiếng nói của những kinh nghiệm quá khứ, tiếng nói của hy vọng; và cũng có tiếng nói của kẻ ác muốn lừa dối và làm cho chúng ta hoang mang. Do đó, điều quan trọng là nhận ra tiếng nói Thiên Chúa ở giữa những tiếng nói khác. Thánh Giuse chứng tỏ rằng ngài biết cách trau dồi sự im lặng cần thiết và, trên hết, biết cách đưa ra quyết định đúng đắn trước Lời Chúa phán với ngài trong nội tâm. Hôm nay, điều hữu ích cho chúng ta là xem xét bốn giấc mơ trong Tin Mừng có ngài là nhân vật chính, để hiểu cách đặt mình trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Tin Mừng kể cho chúng ta bốn giấc mơ của thánh Giuse.
Trong giấc mơ thứ nhất (x. Mt 1:18-25), thiên thần giúp thánh Giuse giải quyết màn kịch đang làm ngài âu lo khi biết tin Đức Maria mang thai: “Đừng sợ lấy Maria làm vợ, vì đấng thụ thai ở trong bà là do Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (câu 20-21). Và câu trả lời của ngài đến ngay lập tức: “Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần của Chúa đã truyền cho ông” (câu 24). Cuộc sống thường đặt chúng ta vào những tình huống mà chúng ta không hiểu và dường như không có giải pháp. Cầu nguyện trong những khoảnh khắc này - điều này có nghĩa là để Chúa chỉ cho chúng ta điều đúng đắn phải làm. Thực thế, lời cầu nguyện rất thường đem lại cho chúng ta trực giác để vượt thoát nguy nan. Anh chị em thân mến, Chúa không bao giờ cho phép một vấn đề nảy sinh mà không ban cho chúng ta sự giúp đỡ cần thiết để giải quyết nó. Người không ném chúng ta một mình vào lửa. Ngài không bỏ chúng ta giữa các thú dữ. Không. Khi Chúa chỉ cho chúng ta thấy một vấn đề, hoặc tiết lộ một vấn đề, Người luôn ban cho chúng ta trực giác, sự giúp đỡ, sự hiện diện của Người, để thoát ra khỏi nó, để giải quyết nó.
Và giấc mơ mạc khải thứ hai của Thánh Giuse xẩy ra khi tính mạng của Hài nhi Giêsu gặp nguy hiểm. Thông điệp rất rõ ràng: “Hãy trỗi dậy, mang con trẻ và mẹ em trốn sang Ai Cập, và ở đó cho đến khi tôi nói với ông; vì Hêrôđê đang tìm con trẻ để tiêu diệt em” (Mt 2:13). Tin mừng cho biết, Thánh Giuse vâng lời không chút do dự: “Ngài chỗi dậy, dắt con trẻ và mẹ em vào ban đêm, và khởi hành đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (câu 14-15). Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng trải qua những nguy hiểm đe dọa sự hiện hữu của mình hay sự hiện hữu của những người mình yêu thương. Trong những tình huống này, cầu nguyện có nghĩa là lắng nghe tiếng nói có thể mang lại cho chúng ta lòng can đảm như Thánh Giuse, đối đầu với các khó khăn mà không khuất phục.
Tại Ai Cập, Thánh Giuse chờ đợi một dấu hiệu từ Thiên Chúa cho ngài hay ngài có thể trở về quê hương, và đây là nội dung của giấc mơ thứ ba. Sứ thần tiết lộ cho ngài biết những kẻ muốn giết Hài Nhi đã chết và ra lệnh cho ngài phải lên đường cùng với Đức Maria và Chúa Giêsu trở về quê hương (x. Mt 2:19-20). Tin Mừng cho biết, Thánh Giuse “trỗi dậy, đem con trẻ và mẹ em và lên đường trở về Israel” (c. 21). Nhưng trong cuộc hành trình trở về, “khi nghe tin Ác-khê-lao trị vì xứ Giuđê thay cho cha mình là Hêrôđê, ngài sợ không dám đến đó” (câu 22). Đây là điều mặc khải thứ tư: “Được báo trước trong một giấc mơ, ông lui về Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét”(câu 22-23). Sợ hãi cũng là một phần của cuộc sống và nó cũng cần chúng ta cầu nguyện. Thiên Chúa không hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ không bao giờ sợ hãi, nhưng rằng, với sự giúp đỡ của Người, đó sẽ không phải là tiêu chuẩn cho các quyết định của chúng ta. Thánh Giuse trải qua nỗi sợ hãi, nhưng Thiên Chúa cũng hướng dẫn ngài vượt qua điều đó. Sức mạnh của lời cầu nguyện mang lại ánh sáng cho những hoàn cảnh tối tăm.
Vào lúc này, tôi nghĩ tới rất nhiều người đang bị đè bẹp bởi gánh nặng của cuộc sống và không còn có thể hy vọng hay cầu nguyện. Xin Thánh Giuse giúp họ mở lòng ra đối thoại với Thiên Chúa để tìm thấy ánh sáng, sức mạnh và bình an.
Và tôi cũng nghĩ đến các bậc cha mẹ trước các vấn đề của con cái họ: những đứa con mắc nhiều chứng bệnh, những đứa con ốm đau, thậm chí mang các chứng bệnh vĩnh viễn. – Biết bao đau đớn trong đó! - những bậc cha mẹ thấy những khuynh hướng tình dục khác nhau ở con cái của họ; phải giải quyết việc này như thế nào và đồng hành ra sao cùng con cái chứ không ẩn mình trong thái độ lên án. Các bậc cha mẹ nhìn thấy con cái của họ ra đi vì một căn bệnh, và thậm chí còn buồn hơn, chúng ta đọc nó hàng ngày trên báo - những đứa trẻ nghịch ngợm và kết cục là một tai nạn xe hơi. Cha mẹ thấy con mình không tiến bộ ở trường và không biết phải làm thế nào... Rất nhiều vấn đề của cha mẹ. Chúng ta hãy nghĩ về nó: làm thế nào để giúp đỡ họ. Và với những bậc cha mẹ này, tôi xin nói: đừng sợ. Vâng, có đau đớn. Đau đớn rất nhiều. Nhưng anh chị em hãy nghĩ đến Chúa, anh chị em hãy nghĩ đến cách Thánh Giuse giải quyết các vấn đề và xin Thánh Giuse giúp anh chị em. Đừng bao giờ lên án một con trẻ.
Nó khiến tôi đầy lòng cảm thương - điều đó đã xảy ra ở Buenos Aires - khi tôi lên xe buýt và xe búyt chạy qua nhà tù. Có một đoàn người xếp hàng dài để vào thăm các tù nhân. Và có những bà mẹ ở đó. Và tôi rất xúc động bởi bà mẹ này, người đối đầu với vấn đề của đứa con trai mắc sai lầm và đang ở trong tù, đã không để con một mình, đã chường mặt ra và đồng hành cùng con. Dũng khí này; lòng dũng cảm của người cha, người mẹ luôn luôn, luôn luôn đồng hành cùng con cái. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban sự can đảm này cho tất cả những người cha và người mẹ, như Người đã ban cho thánh Giuse. Và cầu nguyện, chứ nhỉ? Anh chị em hãy cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta trong những giây phút này.
Tuy nhiên, cầu nguyện không bao giờ là một cử chỉ trừu tượng hoặc thuần túy bên trong, giống như những phong trào duy linh kia, các phong trào mang tính ngộ đạo hơn là Kitô giáo. Không, không phải thế đâu. Cầu nguyện luôn gắn bó chặt chẽ với lòng bác ái. Chỉ khi chúng ta kết hợp việc cầu nguyện với tình yêu thương, tình yêu đối với trẻ em trong những trường hợp tôi vừa đề cập, hoặc tình yêu đối với người lân cận, thì chúng ta mới có thể hiểu được các sứ điệp của Chúa. Thánh Giuse đã cầu nguyện, làm việc và yêu thương - ba điều tuyệt vời đối với cha mẹ: cầu nguyện, làm việc và yêu thương - và vì điều này mà ngài luôn nhận được những gì ngài cần để đương đầu với những thử thách trong cuộc sống. Chúng ta hãy phó mình cho ngài và sự chuyển cầu của ngài.
Lạy Thánh Giuse, ngài là người có những giấc mơ,
Xin dạy chúng con phục hồi đời sống thiêng liêng
như nơi nội thẳm, nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Người và cứu vớt chúng con.
Xin loại bỏ khỏi chúng con ý nghĩ cho rằng cầu nguyện là vô ích;
Xin giúp mỗi người chúng con sống tương ứng với những gì Chúa bày tỏ cho chúng con.
Xin cho lý trí của chúng con được soi sáng bởi ánh sáng của Chúa Thánh thần,
cho lòng chúng con được khích lệ bởi sức mạnh của Người
và nỗi sợ hãi của chúng con được cứu vớt bởi lòng thương xót của Người. Amen.
Thông tấn xã Công Giáo Vietcatholic xin chúc mừng Đức Tân Giám mục và xin được phỏng vấn ngài.
Đức Cha Giuse: Khi được bổ nhiệm, tâm tình của tôi là tạ ơn Chúa đã, qua Đức Thánh Cha Phanxicô, tuyển chọn tôi trở nên giám mục dù tôi thấy mình luôn bất xứng và cũng lúng túng vì không biết phải làm thế nào.
PV: Thưa Đức Cha, là một giáo sư Kinh Thánh ở các học viện và đại chủng viện, Đức Cha có những thuận lợi nào trong sứ vụ Giám mục?
Đức Cha Giuse: Nhờ có một chút kinh nghiệm giảng dạy Kinh thánh, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong việc chu toàn bổn phận giảng dạy Lời Chúa trong tư cách là giám mục.
PV: Đức Cha là giáo sư Đại Chủng Viện và Học Viện Công Giáo. Cha giáo Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J, Quyền Khoa Trưởng HVCG đã diễn tả ngắn gọn “Cha là thành viên của Hội Đồng Khoa và đã giúp cho chương trình STL về mặt cổ ngữ. Hẳn quý giáo sư và sinh viên ai cũng mến nhớ sự hiện diện của Cha”. Đức Cha có tâm tình nào khi phải tạm rời bỏ công việc giảng dạy của mình?
Đức Cha Giuse: Tôi cũng hơi tiếc nếu không điều kiện không còn thuận lợi để tiếp tục công việc giảng dạy. Tôi rất yêu thích giảng dạy, đặc biệt là cổ ngữ Hy lạp. Vì Hy lạp sẽ giúp sinh viên có thể đọc và hiểu Lời Chúa một cách thấu đáo hơn và khám phá ra những ý nghĩa của bản văn kinh thánh mà có khi không một bản dịch nào có thể diễn tả hết được.
PV: Đức Cha về phục vụ nơi quê hương của Ông Bà Cố là giáo phận Bắc Ninh, xin Đức Cha cho chúng con biết đôi nét về giáo phận Bắc Ninh và những tâm tình của Đức Cha khi về nơi quê cha đất tổ với tư cách mục tử.
Đức Cha Giuse: Giáo phận Bắc Ninh trải dài trên diện tích trọn vẹn của 5 tỉnh trọn vẹn: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc; cùng 6 tỉnh có các xã, huyện liên hệ. Với diện tích khá rộng như thế, nên việc chăm sóc mục vụ cho bà con giáo dân là một vất vả cho các linh mục và cũng gặp không ít khó khăn.
Đối với tôi, xác tín đặc tính của Giáo hội là Công Giáo, nên một khi đã chấp nhận sứ mạng thì quyết tâm lên đường, mau chóng thích nghi, hết lòng chu toàn công việc được trao, rồi rút kinh nghiệm, phân định để tìm ý Chúa, sau đó tiếp tục lên đường…
PV: Xin Đức Cha cho chúng con biết ý nghĩa huy hiệu và khẩu hiệu Giám mục của Đức Cha.
+Văn vật:
Như lời Đức Cha Cosma, giám mục giáo phận BN, đã chia sẻ trong bài phỏng vấn sau khi chịu chức giám mục 10/2008: ‘Kinh Bắc là đất văn vật. Nhân vật huyền thoại Thánh Gióng quê ở huyện Gia Lâm, chiến thắng ở thành phố Bắc Ninh, về trời tại huyện Sóc Sơn (Gia lâm và Sóc sơn đều thuộc đất Gp. Bắc Ninh)… Tre vàng là loại tre mọc khá phổ biến trên đất Kinh Bắc, nhưng không có gì đặc biệt lắm, chỉ là loại tre thường thôi. Xưa kia Thánh Gióng đã nhổ những cây tre vàng đánh đuổi quân xâm lược.’ Từ gợi ý này, thân tre vàng đã được chọn làm thanh đứng của thánh giá trong logo.
Ngoài thân tre vàng thẳng đứng, huy hiệu còn có thanh ngang gồm hai chi tiết: cành lá tre và bông lúa vàng. Đây là hình ảnh quen thuộc của làng quê bắc bộ và đây cũng là logo của Gp. Bắc ninh.
+Văn hóa:
Theo Đức Cha Cosma, ‘Dân ca Quan Họ có thể nói là kết tinh truyền thống văn hoá Kinh Bắc’. Ý tưởng này được thể hiện qua chiếc nón quai thao trên nền của tấm khiên logo; Trên mảnh đất văn hóa ấy, sứ vụ Giám mục được thực thi. Điều này được diễn tả qua hai hình tượng của kinh thánh: ngọn lửa - diễn tả việc chăm sóc đức tin cho anh chị em tín hữu và bông lúa - diễn tả việc loan báo tin mừng.
Khẩu hiệu giám mục: Khi ngồi trên máy bay để đi ra Bắc Ninh, tôi tranh thủ đọc tài liệu về THĐGM lần 16 được gởi từ Vp. thư ký của HĐGMVN, trong đó có phần tóm tắt lại bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô tại phiên khai mạc THĐ tại Rôma. ĐGH ghi nhận ba động từ như phương thế giúp thực hiện chủ đề của THĐ. Ba động từ đó là: gặp gỡ, lắng nghe, phân định. Như được Chúa Thánh Thần gợi hứng, tôi chọn ba động từ này cho khẩu hiệu giám mục, không chỉ để cùng với giáo hội địa phương tham dự THĐ thứ 16, nhưng còn là phương châm sống mỗi ngày trong suốt sứ vụ mục tử của mình.
Chúng con xin cám ơn Đức Cha và cầu nguyện cho Đức Cha luôn bình an trong sứ vụ mới.
Gioan Lê Quang Vinh thực hiện
Xem hình
Mở đầu là đại diện Ban mục vụ Cộng đoàn Thánh Phao Lô đã thay mặt cho cha tuyên úy cộng đoàn đi vắng, để chào mừng Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tổng Giáo Phận đã ưu ái chọn cộng đoàn và Nhà thờ Thánh Phao Lô để dâng lễ tạ ơn trong năm nay. Nhưng vì tình hình dịch bệnh, mọi dự định ban đầu để tổ chức tiệc mừng đã không thể thực hiện được.
Thánh lễ đồng tế do Linh mục Anthony Nguyễn Hữu Quảng SDB, trưởng ban điều hợp ban tuyên úy cộng đồng chủ tế, cùng với quý Cha: Lý Trọng Danh, Hoàng Kim Huy, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Cao, Cha Luân cùng hai thầy phó tế đồng tế.
Cùng với quý tu sỹ nam nữ, các ban đại diện 17 cộng đoàn, đại diện các ban ngành đoàn thể Việt Nam trong Tổng Giáo phận Melbourne về hiệp dâng Thánh lễ. Đặc biệt phụng vụ thánh ca do Ca đoàn Phao Lô của Cộng đoàn Giáo xứ Saint Paul phụ trách, ca đoàn đã chọn các bài hát mang chủ đề tạ ơn đã nâng tâm hồn mọi người lên thật sốt sắng trong niềm tri ân cảm tạ.
Linh mục Lý Trọng Danh đã chia sẻ lời Chúa. Xin tóm ý: cha xoay quanh những ý nghĩa của sự ta ơn. Cha đặt ra một số câu hỏi về ý nghĩa tạ ơn trong hoàn cảnh chúng ta hiện nay như: tạ ơn về sự đóng cửa nhà thờ? Tạ ơn về những tang thương, chết chóc trong mùa dịch? Tạ ơn về nhiều điều chúng ta vẫn chưa hiểu những bất ngờ sẩy ra trong cơn đại dịch và sẽ sẩy đến cho chúng ta, cho cộng đồng!
Để trả lời cho những thắc mắc ấy, trong hoàn cảnh của đại dịch, chúng ta lại cảm thấy cần đến nhau, giúp đỡ cho nhau, thể hiện tình bác ái, yêu thương và sự bình an của chúng ta được đến dâng lễ hôm nay, cũng rất xứng đáng để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Và chúng ta thể hiện sự tạ ơn chân thành ấy như thế nào, để Chúa thương đón nhận.
Cộng đồng dâng lời nguyện xin cảm tạ với lòng biết ơn đến Nước Úc mà chúng ta mừng quốc khánh hôm nay, nhưng cũng không quên cầu cho đất nước Việt Nam, cầu xin Chúa thương giúp nhân loại thoát cơn đại dịch của thế kỷ.
Trong những ngày đầu năm Dương lịch, cũng lại là những ngày cuối năm âm lịch, nhiệt độ ở vào khoảng trên 35 độ, trời nóng. Ông Trần Ngọc Cẩn đại diện cho Ban mục vụ Công đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo phận Melbourne, đã lên cám ơn quý cha, quý tu sỹ nam nữ, quý ban mục vụ các cộng đoàn, đoàn thể trong cộng đồng, ca đoàn phụng vụ thánh ca trong lễ tạ ơn. Trong dịp Xuân Nhâm Dần sắp tới, ông chúc cho mọi người được “tràn trề, niềm vui, hạnh phúc và những gì tốt đẹp nhất. Và không quên nhắc lại những việc mà cộng đồng đã làm được như: hưởng ứng lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cộng đồng đã quyên góp giúp đỡ nạn nhân của dịch bệnh Covid Tầu, Tổ chức Cuộc rước Đức Mẹ Thánh Du đến thăm các cộng đoàn và nhiều công việc khác như Đại Hội Thánh Mẫu Lavang.
Trước khi ban phép lành cuối lễ, linh mục chủ tế đã đọc thư của Linh mục Võ Tùng, Tuyên Úy Cộng Đoàn Saint Paul gửi từ Việt Nam qua để chúc tết quý cha cùng cộng đồng. Cộng đồng trao quà xuân đến quý cha, quý tu sỹ nam, nữ và đặc biệt gửi quà đến đại diện của Cộng đoàn Saint Paul.
Các cháu thiếu nhi trong quốc phục cổ truyền đã lên chúc tết quý cha và toàn thể cộng đồng về dâng lễ tạ ơn. Quý Cha và các ban ngành đã chụp hình kỷ niệm. Sau đó mọi người uống nước và ăn chút trái cây, thăm hỏi, vui mừng gặp lại nhau sau một năm và trò chuyện về thời gian khó khăn của dịch bệnh, xong mọi người mới chia tay nhau đi về, không quên câu chúc nhau vui đón mừng năm mới, Năm Nhâm Dần tràn đầy hồng ân của Chúa và Mẹ La Vang.
Bên ngoài xanh lá dong xanh
Bên trong nếp đỗ mỡ hành hạt tiêu
Gói nghĩa tình, gói yêu thương
Dẻo thơm từ thuở Lang Liêu tới giờ.
Trong tâm thức của người dân Việt, tục gói bánh chưng ngày Tết đã trở thành nét văn hóa của dân tộc Việt Nam được lưu truyền từ xa xưa. Đó là nét đẹp truyền thống không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về.
Với mỗi người xa quê, tết là dịp ai cũng mong muốn được về nhà chỉ để được ngồi bên nồi bánh chưng xanh để hàn huyên trò chuyện cùng nhau. Đó là khoảnh khắc ấm áp và hạnh phúc nhất mà ai cũng mong muốn có được.
Để tạo bầu khí vui xuân đón Tết, trung tâm thánh mẫu la vang đã tổ chức Chương trình Gói Bánh Chưng Mừng Xuân Nhâm Dần 2022 vào hai ngày cuối tuần Thứ Bảy Chúa Nhật 22-23/01/2022.
Sắc xanh của lá dong, sắc vàng trắng của đỗ và gạo hòa trong niềm hân hoan của mỗi người đang có mặt tại trung tâm Thánh mẫu La vang, khiến không khí xuân ngập tràn nơi đây.
Theo quan niệm của người Việt nam, hình ảnh chiếc bánh chưng, bánh dầy, không chỉ thể hiện sự phát triển của nền văn minh lúa nước, quan niệm trời tròn đất vuông, mà còn thể hiện sự giao hòa âm dương, nói lên ước mơ của mọi người về một năm mới sung túc, an lành, hạnh phúc và tưởng nhớ tri ân tổ tiên.
Bánh chưng gợi nhớ đến tết, hay tết gợi nhớ đến việc gói bánh chưng. Có lẽ sự hòa quyện đó đã trở thành một biểu trưng văn hóa của dân tộc việt. Bánh chưng biểu trưng cho tết. Vì thế công việc chuẩn bị gói bánh chưng mỗi khi tết đến xuân về đã là một phong tục đẹp trong văn hóa việt nam và luôn cần được lưu giữ.
Một bác tình nguyện viên có chia sẻ với tôi: Đi gói bánh chưng cùng anh chị em trong cộng đoàn, cảm giác khó tả lắm thầy ơi!
Tôi hỏi: Ý bác là vui phải không?
Bác kia trả lời: Không, còn hơn cả thế nữa. vì mình đi ăn tiệc, đi party, đi shopping cũng vui, nhưng không thể có niềm vui như việc đi gói bánh chưng này.
Người bên cạnh góp ý: Anh phải nói là niềm vui đong đầy. Nghĩa là anh phải đến tận nơi đây, tham gia cùng mọi người, tuy mệt đó, nhưng mình thấy tâm hồn được đầy ắp niềm vui bình an.
Tôi thì thấy, có lẽ đó là niềm vui của sự gặp gỡ. Được gặp anh chị em của mình, được cùng chuẩn bị đón xuân, dẫu vất vả, nhưng niềm vui trong Chúa thì luôn vỡ òa trong tâm hồn.
Vì đại dịch cô vid diễn biến phức tạp, các tình nguyện viên được test covid nhanh trước khi vào khu vực được phân công. Tất cả các khâu đều phải đảm bảo yêu cầu an toàn, phòng tránh lây lan dịch bệnh.
Ban Ẩm thực cũng rất nỗ lực, tiếp sức cho anh chị em mình bằng những cốc chè, những tô bún, những món ăn ngon miệng, đậm đà hương vị Việt Nam.
Những hoạt động như thế này không chỉ tạo niềm vui, sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đoàn, cùng nhau vượt qua những khó khăn do đại dịch covid 19 mà còn là cơ hội để họ góp phần bảo tồn gìn giữ những giá trị, nét đẹp văn hóa dân tộc.
"Sự xuất hiện của tinh thần"
Trong vũ trụ của Teilhard, sự Hình thành Vũ trụ [Cosmogenesis] lên đến tuyệt đỉnh là sự Hình thành Con người [Anthropogenesis] (28). Vì vậy, bằng chứng vũ trụ học về sự hiện hữu của Thiên Chúa mà Teilhard sẽ xây dựng trên nền tảng này cũng sẽ được gọi đúng là bằng chứng nhân học. Tốt và có khi tốt hơn. Thực thế, nó đi qua con người, qua tinh thần của con người, vốn là "tinh thần của Trái đất".
Chúng ta không nên coi cách diễn đạt cuối cùng trên hoặc những cách diễn đạt tương tự như có nghĩa là tinh thần là sản phẩm của vật chất. Đó sẽ là một sai lầm lớn. Đối với Teilhard, quan điểm của các nhà biến hóa đã đổi mới cách hiểu về sự phân biệt cổ điển giữa vật chất và tinh thần: nó không hề xóa bỏ sự phân biệt này. Nếu điều này đôi khi chưa được hiểu rõ, đó là vì một hệ luận siêu hình lập tức được đưa ra cho các giải thích đã được trình bầy trên bình diện hiện tượng. Tuy nhiên, Cha Teilhard không ngừng giải thích về vấn đề này. Ngay từ tháng 11 năm 1917, ngài đã viết: “Tất nhiên, không được coi ý thức chỉ là một hậu quả.... [Đó là] sự xuất hiện trong thế giới của một điều khá mới.... [Nó] là một bản thể mới” (29). Là lực lượng hợp nhất các phức tạp [multiple], tinh thần không thể được "cấu thành bởi các phức tạp". Nó có vẻ như "chứa đầy những phần sót lại của vật chất", nhưng không được tạo thành từ vật chất. Nó xuất hiện một cách thực nghiệm “trên vật chất ngày càng được tổng hợp nhiều hơn”, nhưng điều này không có nghĩa là vật chất đang tự thay đổi để trở thành tinh thần mà không cần bất cứ điều gì khác. Giữa hai yếu tố này, có một mạng lưới phức tạp bao gồm “các tương liên” và “đối lập”. Tinh thần không quan trọng hơn “bên trong” của sự vật quan trọng hơn “bên ngoài” của chúng. Tất nhiên, vật chất và tinh thần không phải như "hai ngăn", hay "hai sự vật": nhưng chính thuyết nhị nguyên như vậy, trong khi không bảo đảm sự hiện hữu của tinh thần, có thể đã thể hiện nó. Và tất nhiên, trong chính hữu thể, cũng có một sự thống nhất cụ thể nào đó giữa cái bên ngoài và cái bên trong của vật chất và tinh thần: thậm chí ta còn có thể ghi nhận, tuy không liên quan tới Teilhard, nhưng liên quan tới Claude Bernard và Cha Sertillanges, rằng điều này “trong căn bản, là điều Thánh Tôma vốn đã dạy” (30). Tuy nhiên, đối với Teilhard, có một điều chắc chắn là “tất cả sự nhất quán đều phát xuất từ Chúa Thánh Thần” (31), hoặc, gần như thế, rằng “nếu mọi sự đứng vững và đứng vững với nhau, thì đó chỉ là do tính phức tạp, từ bên trên” (32), Chủ nghĩa duy vật chỉ là ảo tưởng, do “cái nhìn thô thiển về sự vật”; hoặc một lần nữa, “sự nhất quán duy nhất của các hữu thể được ban cho chúng bởi yếu tố tổng hợp của chúng, nghĩa là, qua điều, ở một mức độ hoàn hảo ít nhiều, là linh hồn của chúng, tinh thần của chúng” (33).
Nhưng điều không kém phần chắc chắn là chúng ta luôn tìm kiếm sự nhất quán liên quan tới và trên cơ sở vũ trụ vật chất. Vì chúng ta suy luận trên cơ sở các giác quan. Chúng ta không có trực giác của tinh thần thuần túy. “Không có tinh thần nào (ngay cả Thiên Chúa trong giới hạn kinh nghiệm của chúng ta) hiện hữu, hoặc có thể hiện hữu, bằng cách xây dựng, mà không có một phức hợp [multiple] liên kết với nó” (34). Nói cách khác, theo ngôn ngữ của triết học cổ điển của chúng ta, một chức năng của thế giới là qua một quy nạp hợp lý, chúng ta có thể quả quyết sự hiện hữu của Thiên Chúa. Và, trước nhất, điều y hệt cũng đúng đối với mọi tinh thần, mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết).
Trong tình thế đó, sự xuất hiện của tinh thần (tức là, việc xuất hiện của ý thức phản tỉnh và tự do) trên cơ sở ánh sáng, và vật chất có tính tổng hợp, là một sự xuất hiện không thể đảo ngược. Việc không thể đảo ngược này là điều chúng ta gọi và chính cha Teilhard cũng có lúc gọi, là sự bất tử (35). Nói cách khác, trong vũ trụ, vào cuối quá trình hình thành vũ trụ, chiến thắng của “sự hội tụ” được bảo đảm hơn việc thoái giảm nội lực [entropy] có tính phân tán, hơn “việc lạm dụng nỗi bất hạnh của người khác [usury] và việc tan rã phổ quát” (36). Tóm lại, tinh thần chiến thắng vật chất.
Sau đó, Teilhard kết hợp ý niệm cổ điển bất tử của mỗi linh hồn thiêng liêng với ý niệm bất tử tập thể. Ngài kết hợp nó, nhưng chúng ta nên lưu ý, ngài không thay thế nó. Vì “tinh thần của Trái đất” không có gì thuộc thực tại tập thể bất dị biệt hóa: nó bao gồm các tinh thần có bản vị. Thực vậy, diễn trình trở thành tinh thần y hệt như diễn trình trở thành bản vị; nó kết thúc ở “điểm độc đáo khôn tả của mỗi phần tử biết phản tỉnh” (37), và đó là một trong những ý nghĩa trong đó kiểu nói “vũ trụ bản vị” của Cha Teilhard phải được hiểu. Phân tích đến cùng, thì tính không thể đảo ngược của vũ trụ là sự bất tử bản vị của mọi linh hồn tạo ra nó. Thực vậy, cuối cùng, trong tính thống nhất của nó, vũ trụ, theo yếu tính, là “một thế giới của các linh hồn” (38).
Cuộc chiến đấu "được khai diễn, trong vũ trụ, giữa phức thể hợp nhất [unified multiple] và số đông không có tổ chức" (39). Một cuộc đọ sức tay đôi hoành tráng, trải dài suốt thời gian vũ trụ biến hóa và kết thúc bằng chiến thắng dứt khoát của phức thể hợp nhất, nghĩa là của Tinh Thần bản vị. Cha Teilhard đã mô tả nó trong một loạt các trình bầy được lặp lại bất tận, với một cố gắng mỗi ngày một chính xác hơn. Năm 1951, trong một tiểu luận về Hội tụ của vũ trụ, cha viết như sau:
“Một định luật nền tảng nào đó (có thể hiển thị đối với chúng ta), ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới. Trong Vũ trụ, không chỉ còn việc tự thoái giảm nội lực [entropy] đầy tuyệt vọng nữa, đưa mọi vật trở lại những hình thức sơ đẳng nhất và ổn định nhất, khi chúng tiếp tục lặp đi lặp lại. Nhưng, xuất hiện cùng khắp và trên cơn mưa tro bụi này, một kiểu cơn lốc vũ trụ, ở giữa đó vật chất của thế giới, bằng cách ưu tiên tận dụng cơ may, len lỏi và uốn éo mỗi ngày một chặt chẽ hơn xung quanh chính nó trong một sự phối hợp ngày càng phức tạp và tập trung hơn (40).
“Đến nỗi tính bất hư hoại [incorruptibility] trong đó triết học cổ thời đã biện phân, nột cách chính đáng, thuộc tính đặc trưng nhất của tinh thần tái xuất hiện trong Tư tưởng”, sau một lần che khuất mà nhiều người nghĩ là có tính dứt khoát’ (41).
Bằng chứng về Thiên Chúa
Một khi sự hội tụ không thể đảo ngược này của vũ trụ, hay một lần nữa, "sự trôi dạt vũ trụ của tính phức tạp - ý thức”, đã được thiết lập, thì chúng ta đi đến mắt xích cuối cùng của dây chuyền, kết thúc bằng việc nhất thiết phải khẳng định về Thiên Chúa.
Thực thế, phải tới một điểm trong đó ý thức con người được hoàn tất. “Trước chúng ta, có... một điểm tới hạn và cuối cùng của việc siêu nhân hóa [ultra-homizaton], tương ứng với sự phản tỉnh hoàn toàn của tuệ quyển [noosphere] về chính nó (42); để tóm lược những lời giải thích dài dòng không đi thẳng vào viễn ảnh hiện tại của chúng ta, chúng ta cũng có thể nói đó là điểm bản vị hóa hoàn toàn, trong một sự thống nhất đối lập với một bản sắc thuần nhất. Một diễn trình trong vô tận là điều bất khả.
Thành tựu này, hay “việc phản tỉnh hoàn toàn” này, là ý nghĩa thứ nhất được Cha Teilhard gán cho điều được gọi là “điểm Omega”. “Cực cao hơn của việc đồng phản tỉnh [co-reflection] của con người”, “tuyệt đỉnh của việc nhân hóa”, một điểm như vậy vẫn có tính nội tại [immanent]. Nhưng cũng như ta không thể hướng về nó một cách vô thời hạn mà không bao giờ đạt được nó thế nào, thì việc giữ được nó cũng bất khả như thế. Chúng ta hãy xem chứng minh điều này trong một trang trích từ cuốn Esquisse d’une dialectique de l’esprit [Phác thảo Một Biện chứng pháp về tinh thần] (1946). Trong số các hình thức đa dạng che phủ chứng cớ về sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi Teilhard, chắc chắn chúng ta thấy ở đó, nếu không muốn nói có tính kỹ thuật nhất, ít nhất cũng có tính hệ thống nhất, một trong những quan điểm cụ thể của ngài phụ thuộc nhiều nhất vào tương lai loài người, chẳng hạn như ngài đã khai triển nó một cách tỉ mỉ đặc biệt trong phần thứ hai của sự nghiệp. Do đó, theo ý kiến chúng tôi ít nhất cũng là hình thức gây tranh cãi nhiều nhất:
“Việc biến hóa tự nhiên của sinh quyển được nối dài tới điều mà tôi gọi là tuệ quyển, nhưng nó có hình dạng hội tụ rõ ràng, phác họa một điểm trưởng thành đi lên (hoặc phản tỉnh tập thể).... [Tại điểm này] nhân tính phản tỉnh, một cách tập thể, vẫn đơn độc trước chính nó. Trong những điều kiện này, không thể hình dung một sự phức tạp hóa tiếp theo xác định ra một ý thức cao hơn. Luật lặp lại [law of recurrence] của chúng ta tự động ngừng hoạt động... Đến nỗi... con người được coi là trôi về một vị trí cuối cùng, nơi:
1. về mặt hữu cơ, họ không thể đi xa hơn (ngay cả một cách tập thể) về độ phức tạp, sau đó về độ ý thức;
2. về mặt tâm thần, họ không thể đồng ý rút lui;
3. và về mặt vũ trụ, họ thậm chí không thể ở mãi một nơi, vì, trong việc tự thoái giảm nội lực hoàn vũ của chúng ta, không ngừng tiến lên là lùi lại phía sau.
Điều này nói lên điều gì nếu không phải là, khi đã đến điểm trưởng thành cực kỳ quan yếu này, đường cong của hiện tượng người xuyên qua hệ thống hiện tượng vũ trụ và giả định sự hiên hữu, trước và xa hơn, của một cực ở ngoài vũ trụ nơi toàn bộ phản tỉnh bất khả thông truyền lần lượt được hình thành trong Vũ trụ... trong diễn trình biến hóa được thu thập một cách trọn vẹn và được củng cố một cách dứt khoát?” (43)
Từ phía chúng ta, nhìn theo hướng đi lên, đỉnh của hình nón biến hóa (điểm Omega) thoạt tiên nổi bật trên đường chân trời như một tiêu điểm hội tụ hoàn toàn nội tại: nhân tính hoàn toàn phản tỉnh về chính mình. Nhưng, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn, thì điều rõ ràng là nếu tiêu điểm này muốn đứng vững, nó giả thiết, phía sau nó, và sâu xa hơn chính nó, phải có một hạt nhân siêu việt, thần linh ” (44).
Như chúng ta đã nói, đây chỉ là một trong những hình thức lập luận của Teilhard. Nó giả thiết một viễn kiến về tương lai "được ngoại suy trên đường cong được xây dựng bằng các dữ kiện được việc quan sát thực tế cung cấp" (45). Vì nhiều lý do, một ngoại suy như vậy, được thực hiện một cách hết sức táo bạo, xem ra sẽ gặp nhiều tranh cãi (46) và theo phán đoán của chính Cha Teilhard, khó có thể vượt quá trạng thái “khả hữu” (47), chắc chắn nó không cấu thành một nền tảng hoàn toàn đầy đủ. Ngài cũng đã phải thừa nhận điều này nhiều lần, đặc biệt là trong Nhóm Động vật Người (Le Groupe zoologique humain), trong đó, sau khi đã tiếp thu lập luận mà chúng ta vừa đọc qua một cách chi tiết hơn và với tất cả sự chặt chẽ có thể có, ngài đã kết luận một cách thận trọng và cân nhắc: “Phù hợp với trật tự mới, Thiên văn học hiện đại không ngần ngại xem xét sự hiện hữu của một loại Nguyên tử nguyên sơ, trong đó có thể tập hợp toàn bộ khối lượng của thế giới tinh tú [sidereal] cách đây vài tỷ năm. Đối xứng, cách nào đó với sự thống nhất vật chất nguyên thủy này, há không lạ lùng sao khi Sinh học, được ngoại suy đến cùng cực (và lần này hướng về tương lai), dẫn chúng ta đến một giả thuyết tương tự: giả thuyết về một Trung tâm phổ quát (mà tôi gọi là Omega), không còn là của việc ngoại tại hóa (exteriorization) và mở rộng vật lý, mà là nội tại hóa tâm thần...?” (48).
Nhưng, như chúng ta cũng đã nói, chúng ta tìm thấy ở Cha Teilhard những hình thức lập luận khác, đơn giản hơn, có sức thuyết phục dường như phổ biến hơn. Đức Ông Bruno de Solages đã tóm tắt ba hình thức chính, với một khí lực và sự rõ ràng thường có của ngài, bằng cách chỉ ra những đoạn văn mà người ta có thể tham khảo để hoàn tất lời giải thích. Ngài đã chỉ định chúng bằng những cái tên như sau: (1) Chứng minh bằng hành động của con người, hay “Đấng Tuyệt đối, định đề của Biến hóa”; (49) (2) Chứng minh bằng tính nguyên nhân tác thành và cai quản, hay "Thiên Chúa, Đấng Chuyển động đầu tiên của sự Biến hóa đi lên"; (3) Bằng chứng ở khát vọng của linh hồn con người, hay “yêu Thiên Chúa, điều kiện cho sự hợp nhất tối hậu của tuệ quyển [noosphere] hội tụ” (50). Các nhà bình luận khác, như Cha Maurice Corvez, O.P., (51) hoặc Cha C. Valverde Mucientes, S.J., (52) phân biệt những bằng chứng này một cách hơi khác. Hơn nữa, trong suy nghĩ thực tế của tác giả, chúng không hoàn toàn khác biệt với nhau.
Qua tất cả các bằng chứng ấy, điều mà trước hết, Cha Teilhard muốn chỉ cho những người đương thời của ngài thấy, và là điều chúng ta ghi nhớ trước nhất, đó là, như ngài nói vào năm 1945 trong Action et Activation [Hoạt động và Kích hoạt], “vấn đề về Đấng Chuyển động đầu tiên và Đấng Thu hồi (Collector) tối hậu không giảm đi; ngược lại, nó lớn dần, về tầm quan trọng và độ khẩn cấp bằng những gia tăng đáng kể mà Khoa học áp đặt lên các trình bầy của chúng ta về Vũ trụ” (53). Và ngài đã nhấn mạnh đến việc đặt và bỏ người nghe hoặc độc giả của mình trước chính vấn đề này, ngay cả khi chủ đề được bàn cãi dường như chủ yếu có tính khoa học thuần túy. Chẳng hạn, trang cuối cùng của cuốn Groupe zoologique humain, bản tóm tắt các bài giảng được giảng tại Sorbonne vào mùa đông năm 1950-1951 “dành cho sinh viên tiên tiến” (54), trong đó ngài trình bầy bằng các thuật ngữ đặc biệt về kỹ thuật bản tóm tắt viễn kiến của ngài về vũ trụ.
“Trước nguy cơ bất lực trong việc hình thành nền tảng cho tuệ quyển, “Omega” chỉ có thể được coi là điểm gặp gỡ giữa Vũ trụ đã đạt đến giới hạn tập trung và một Trung tâm khác còn sâu xa hơn, một Trung tâm tự tồn tại và là Nguyên tắc tuyệt đối tối hậu của tính bất phản hồi và bản vị hóa: chỉ có một Omega đích thực. Và chính ở điểm này, nếu tôi không lầm,... vấn đề về Thiên Chúa, Đấng chuyển động, Đấng thu thập và Đấng củng cố, của Biến hóa thích đáng trên hết, trên cả khoa học về Biến hóa” (55).
Kỳ tới: Các thuộc tính của Omega
Mỗi khi Tết đến xuân về, người Việt Nam lại nghênh đón con vật biểu trưng cho năm mới. Đón Xuân Nhâm Dần, lòng người thảnh thản, cảnh vật xanh tươi, trời đất giao hòa chúng ta cùng lần chuyện hổ để xem trong văn hóa dân gian và Kinh Thánh, con vật thứ ba trong 12 con giáp như thế nào?
Trong văn hóa Á Châu
Hổ là con vật hung hãn nhất tượng trưng cho sức mạnh của nền văn hóa cổ phương Đông. Về khôn ngoan, hổ không thể sánh với khỉ và chuột, không kiên trì như trâu, nhanh không bằng ngựa, uy vũ không bằng rồng, luồn lách và hiển độc không bằng rắn, nhưng hổ hội đủ các đặc chất như dũng mãnh, can trường, hiên ngang, dám tấn công cả những con thú to khỏe hơn trong 12 con giáp. Nhờ những đặc chất ấy mà hổ được con người thần thánh hóa trong đời sống xã hội, văn hóa, và nghệ thuật, chẳng một con vật nào dám qua mặt.
Đối với người Việt Nam
Truyền thuyết kể rằng, vị tướng họ Hùng có công đánh đuổi giặc Ân do bà mẹ hổ sinh ra (ngày nay đền Trình ở thắng cảnh Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội còn thờ thần hổ, hương khói khắp bốn mùa). Hoàng Hoa Thám được mệnh danh là Hùm thiêng Yên Thế. Các võ tướng ngày xưa có phù hiệu, ấn tín khắc hình đầu hổ, gọi là hổ phù. Các đình chùa, miếu mạo thường chạm khắc hình hổ, thể hiện sự linh thiêng, bất khả xâm phạm.
Trong văn học, văn hóa dân gian
Hổ được so sánh với những gì được cho là tốt như: hổ dữ không ăn thịt con (chỉ về đạo lý làm người, tình cảm mẫu tử), cọp chết để da, người ta chết để tiếng (nói về danh dự), nam thực như hổ (chỉ về ăn khỏe), mình hổ, tay vượn, bụng beo, lưng sói (chỉ về sự hoàn thiện của một cơ thể đầy sức mạnh), hổ phụ sinh hổ tử (chỉ sự tự hào khi có thế hệ tiếp nối), “Mèo tha miếng thịt xôn xao-Hùm tha con lợn thì nào thấy chi”, “làm bạn với vua như đùa với hổ”v.v…
Truyện dân gian có “Ông Nghè hóa cọp” chế giễu những người “chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng”. Trong truyện cổ tích “Trí khôn ta đây”, con hổ hiền lành, dại dột, bị người lừa. Giai thoại “Con hổ có nghĩa” đã được đưa vào sách giáo khoa cho thấy hổ cũng là con vật có tình nghĩa, biết đền ơn xứng đáng người đã giúp đỡ mình.
Trong tín ngưỡng
Truyền thuyết kể rằng, lúc Nguyễn Ánh bị nhà Tây Sơn truy lùng; gặp hoàn cảnh ngặt nghèo, hết cả lương thực, may nhờ có thịt thú rừng do hổ tha tới tiếp tế mỗi ngày mà sống. Sau khi lên ngôi vua, ông đã lập miếu thờ hổ tại vùng Mô Xoài, tỉnh Bà Rịa để tạ ơn. Dân gian thường gọi là miếu Ông Hổ. Chữ "ông" được dùng với những danh từ kể trên để tỏ lòng tôn kính. Nguyễn Ánh truyền rằng, kẻ nào lỡ tay giết chết hổ thì bị phạt 30 trượng. Còn nếu bắt sống thì được thưởng 30 quan tiền. Cũng vì lệ này mà hổ còn được gọi là Ông Ba Mươi.
Dù là con vật hoang, rất ít khi được thuần phục nhưng hổ đã có sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân Việt, điển hình là câu chuyện Bố cái đại vương Phùng Hưng là người phục hổ bằng tay không.
Trong điêu khắc
Khó lòng thống kê hết số lượng và kiểu dáng tượng, phù điêu, tranh tường, tranh lụa, tranh giấy, tranh thờ…có hình hổ. Tuy vẽ hổ vẽ được hình dáng, khó vẽ được cốt cách, thần thái), nhưng bức “Ngũ Hổ” của tranh dân gian Việt Nam là một kiệt tác nghệ thuật.
Trống đồng Đông Sơn có cách đây khoảng 2500 đến 3000 năm tuổi, nhưng trên mặt trống đã xuất hiện hình con hổ. Điều này cho thấy ý nghĩa hổ trong hóa Việt Nam đã gắn bó hàng nghìn đời nay với sự trân trọng.
Trong y học
Trong chiêm tinh, nhân tướng
Người tuổi Dần mạnh mẽ, không bao giờ ngần ngại, lùi bước trước khó khăn, quan điểm của người này là khó khăn, nguy hiểm bao nhiêu thì chiến công càng vang dội, hãnh diện bấy nhiêu. Họ làm việc nhiệt tình, khẳng khái, quyết đoán, dũng cảm, dám làm việc nghĩa giúp đỡ người khác với lòng bác ái. Có ý thức độc lập mạnh mẽ, không muốn người khác lãnh đạo mình. Có đức tính lạc quan, dám nghĩ, dám làm, ham thích sự đổi mới. Một đức tính đặt biệt mang tính cách riêng của họ là: Đơn giản, tự nhiên.
Người tuổi Dần có trí nhớ tốt và tinh thần ham học hỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, phân tích vấn đề một cách logic, khoa học, ít khi thấy họ mắc sai lầm. Mục tiêu phấn đấu của họ trong suốt cuộc đời là tiền bạc, địa vị và quyền lực.
Những việc người khác không làm được thì người tuổi Dần lại giải quyết rất nhanh chóng, lý do bởi họ không bao giờ sợ hãi, khuất phục trước công việc khó khăn nào. Họ coi trọng danh dự và chữ tín của mình, có trách nhiệm với công việc và với mọi người xung quanh. Vì vậy, tuổi Dần thường hay ra tay bảo vệ những con người yếu đuối, khổ cực.
Trong Kinh Thánh
Ngôn sứ Isaia đã ví sức hùng mạnh của quân thiện chiến Átsua: “Chúng gầm thét như cọp non” (Is 5,29). Trong ý hướng đó ngôn sứ Khabacúc đã loan báo Thiên Chúa dùng dân Canđê để đánh phạt dân phản nghịch: “Ngựa nó nhanh hơn hổ báo, lanh lợi hơn sói chiều hôm” (Kb 2, 8).
Trước khi phanh thây con mồi, thú dữ thường gầm rống lên gọi đàn đến xẻ thịt. Có lẽ vì thế mà ngôn sứ Amôt đặt câu hỏi: “Phải chăng sư tử gầm lên trong lùm rậm mà nó lại không mồi? Phải chăng trong hang ổ, hùm tơ rống lên mà lại không chụp được gì?” (Am 3, 4).
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhâm Dần 2022: NĂM CỌP CHUYỆN CỌP
Năm Nhâm Dần, năm con Cọp, nhắc nhở người Việt những câu thành ngữ và tục ngữ quen thuộc trong dòng văn chương Việt Nam, thí dụ như câu thành ngữ, “Hổ phụ sinh hổ tử.”
“Hổ phụ sinh hổ tử” có nghiã là cọp bố sinh cọp con. Ý muốn nói “Cha nào con nấy”. Cha có tài đức cao rồi cũng sẽ sinh ra con cái cũng tài đức y như bố. Bố Lạc Long Quân là hổ phụ cho nên không ngạc nhiên khi Hổ Phụ Lạc sinh ra 18 Hổ Tử.
Câu thành ngữ “Dưỡng hổ di họa” bắt nguồn từ câu chuyện có người vô rừng bắt được cọp con, mang về nhà nuôi. Tuy là chỉ được cho ăn cơm ăn rau, cọp con vẫn lớn nhanh như thổi. Bởi nhặt được cọp từ hồi còn thơ, người nuôi luôn luôn đối xử với cọp như chó nuôi trong nhà. Nhưng không ngờ, có lần cọp, giờ đã trưởng thành, giơ móng vuốt, tính vồ ông chủ. Thành ngữ “Dưỡng hổ di họa” do đó có nghiã “nuôi hổ để họa”, cũng mang chung tư tưởng với câu tục ngữ, “Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà.”
Câu tục ngữ “Mãnh hổ nan địch quần hồ” nói về sức mạnh của đoàn kết. Đây vẫn là một sự thật, một con hổ hung dữ vẫn không thể nào đánh bại được một bầy chồn hợp đoàn. Dòng lịch sử Việt Nam cũng đã từng chứng minh cho tính xác thực của câu tục ngữ này. Vào những lúc họa xâm lăng phương Bắc đe dọa đời sống độc lập phương Nam, nếu lòng dân Việt kết hợp làm một trong tinh thần “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh,” những âm mưu đen tối cuối cùng rồi cũng tan vỡ như bọt sóng biển. Câu tục ngữ “Mãnh hổ nan địch quần hồ” đã từng được minh họa sắc nét qua hình ảnh của các bô lão hào khí ngất trời, chân đất tiến về kinh thành Thăng Long tham dự Hội Nghị Diên Hồng thời nhà Trần. Hay hình ảnh hào hùng của trưa mùng Năm Tết Kỷ Dậu 1789, với lòng dân như một, đại hoàng đế Quang Trung cưỡi voi tiến vào kinh thành Thăng Long quét sạch vó ngựa xâm lăng Mãn Thanh.
Riêng “Họa hổ họa bì nan họa cốt” là tục ngữ có gốc tích từ câu chuyện về người họa sĩ có tài, vẽ hổ sinh động đến nỗi mới nhìn, có người lầm tưởng hổ thực. “Họa hổ họa bì,” vẽ hình hổ, vẽ da hổ, “nan họa cốt,” nhưng không vẽ được xương, có chung một dòng tư tưởng với câu tục ngữ, “Tri nhân, tri diện, bất tri tâm,” biết người, biết mặt, nhưng khó biết lòng. Giuđa, một trong mười hai tông đồ là hình ảnh tượng trưng cho câu tục ngữ này. Đã hơn ba năm chung sống với Giuđa và với Thầy, mười một tông đồ khác nào ngờ, có ngày Giuđa bán Thầy của mình qua một nụ hôn.
Ngoài ra trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng thường xuyên nghe nhắc tới những câu thành ngữ khác về cọp, thí dụ “Thả hổ về rừng,” “Cáo mượn oai hùm,” “Hổ ly sơn hổ bại,” “Cọp dữ không ăn thịt con.” Hoặc tục ngữ, “Ký cóp cho cọp nó ăn,” “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu,” “Vuốt râu hùm, xiả răng cọp.” Và còn nhiều câu thành ngữ hoặc tục ngữ khác liên quan tới cọp. Có lẽ bởi cọp là một thực thể trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam từ cả ngàn năm nay, cho nên người ta không lạ chi nếu cọp xuất hiện rất nhiều trong dòng văn chương bình dân Việt Nam.
Nhưng có một câu tục ngữ về cọp khiến người viết suy nghĩ khá nhiều, nhất là trong bầu không khí rộn ràng pháo Tết Nhâm Dần. Đó là câu, “Cọp chết để da người ta chết để tiếng.”
Con cọp nằm xuống, mắt nhắm lại, chết đi, nhưng vẫn còn để lại cho trần gian bộ da hổ đẹp. Nhưng riêng con người, nhất là tín hữu Việt Nam, vào một ngày nào đó, nếu nằm xuống, khi đó, nếu có nhắc đến, trần gian sẽ nói gì về người vừa nằm xuống?
Dòng thời gian đã chứng minh Bố Lạc Long Quân, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Công Uẩn, Trần Nhân Tôn, Bô lão Diên Hồng, Lê Lợi, Vua Quang Trung, Linh mục Anrê Dũng Lạc, thánh Anna Đê, và thánh Tôma Thiện đã nằm xuống, nhưng danh thơm vẫn còn lưu truyền trong lòng những tâm hồn Việt Nam.
Nguyện cầu ơn lành thiên đàng tiếp tục đổ xuống trên trần gian để đại dịch Covid-19 sẽ dần dần trở thành một câu chuyện của dĩ vãng.
Đầu năm Nhâm Dần, kính chúc người tín hữu Việt Nam một năm mới với nhiều thành công và may mắn hơn trong năm qua.□
Lúc 5g30 chiều thứ Ba 25 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Kinh Chiều tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành để bế mạc Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo.
Chủ đề được chọn cho Tuần cầu nguyện năm 2021 được trích từ Tin Mừng Thánh Gioan: “Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (x. Ga 15,1-17). Cộng đoàn tu viện Grandchamp Thuỵ Sĩ được giao phó soạn các lời nguyện trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu năm nay. Cộng đoàn này được thành lập vào nửa đầu thế kỷ 20, gồm một số phụ nữ theo truyền thống Tin Lành cải cách của Thuỵ Sĩ nói tiếng Pháp, đã tái khám phá tầm quan trọng của sự thinh lặng trong việc lắng nghe Lời Chúa, đồng thời tiếp tục thực hành các cuộc tĩnh tâm để nuôi dưỡng đời sống đức tin, theo gương Chúa Kitô, lui về nơi thanh vắng để cầu nguyện. Theo trang web của Hội đồng Giáo hoàng về Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô giáo, Cộng đoàn Grandchamp bao gồm 50 nữ tu, những người đã cống hiến “cho công việc hòa giải giữa các Kitô hữu, trong gia đình nhân loại và đối với mọi tạo vật”.
Tham dự buổi lễ có khoảng 20 vị Hồng Y, và các Giám Mục trong giáo triều Rôma, cùng đông đảo giáo sĩ, tu sĩ và anh chị em giáo dân. Bên cạnh đó, còn có đại diện của các Giáo hội Kitô và các Cộng đồng Giáo hội khác hiện diện tại Rôma
Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại vài nét lịch sử tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo.
Năm 1908, Mục Sư Paul Wattson đang coi sóc một nhà thờ Anh giáo ở Graymoor, New York, đưa ra sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo với sự hỗ trợ của các giám mục Anh giáo và Công Giáo, trong đó có Đức Hồng Y William O'Connell của Boston. Tuần Tám Ngày này bắt đầu vào ngày 18 tháng Giêng, lúc bấy giờ là Lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô ở Rôma, và kết thúc vào ngày 25 tháng Giêng, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại.
Năm sau, mục sư Wattson và toàn thể cộng đoàn Anh Giáo của ngài gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và vào năm tiếp theo, tức là năm 1910, cựu mục sư Wattson đã được thụ phong linh mục.
Sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo lan tràn nhanh chóng, và vào năm 1916, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 15, cổ vũ sáng kiến này trong toàn thể Giáo Hội và Tuần Tám ngày này chính thức mang tên Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
Năm 1964, Công Đồng Vatican II ban hành Sắc Lệnh Đại Kết (Unitatis Redintegratio), và ngày 30/5/1995, Chân Phước Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Ut Unum Sint, gồm có ba chương với những tựa đề: Sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo vào công cuộc đại kết; các kết quả của tiến trình đối thoại; và đường còn xa lắm không? Thông điệp đã kiểm điểm những thành quả của tiến trình đối thoại; và phác họa những bước còn phải tiếp tục.
Đây là hai văn kiện làm nền tảng cho Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
Vào đầu buổi lễ, Đức Hồng Y đã cùng cầu nguyện với các nhà lãnh đạo Kitô giáo khác tại trước mộ Thánh Phaolô Tông Đồ.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Trên con đường này, các Đạo Sĩ có thể giúp chúng ta. Chúng ta hãy xem xét cuộc hành trình của họ vào buổi tối hôm nay, có ba bước: bắt đầu từ phía Đông, đi qua Giêrusalem, và cuối cùng là đến Bethlehem.
1. Đầu tiên các Đạo Sĩ lên đường “từ phương Đông” (Mt 2: 1), vì đó là nơi họ nhìn thấy ngôi sao đầu tiên. Họ khởi hành từ phía Đông, từ nơi mặt trời mọc, nhưng họ đang tìm kiếm một thứ ánh sáng lớn hơn. Những nhà thông thái này không bằng lòng với kiến thức và truyền thống của riêng họ; họ mong muốn một cái gì đó hơn thế nữa. Do đó, họ bắt đầu một chuyến đi đầy rủi ro, được thúc đẩy bởi một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ đối với Chúa. Anh chị em thân mến, xin cho chúng ta cũng noi theo ngôi sao của Chúa Giêsu! Cầu mong chúng ta đừng để mình bị phân tâm bởi những ánh sáng lấp lánh của thế giới này, những ngôi sao rực rỡ nhưng đang rơi rụng. Mong sao chúng ta đừng chạy theo những mốt nhất thời, là những ngôi sao băng vụt tắt. Xin cho chúng ta đừng chiều theo cám dỗ muốn được tỏa sáng bằng ánh sáng của chính mình, và chỉ quan tâm đến nhóm của chúng ta cũng như sự bảo vệ chính chúng ta. Chúng ta hãy chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, trên trời, vào ngôi sao của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đi theo Người, Tin Mừng của Người, lời mời gọi hiệp nhất của Người, mà không cần lo lắng về con đường dẫn đến thành tựu trọn vẹn có thể là bao lâu và mệt mỏi thế nào. Chúng ta đừng quên rằng bằng cách nhìn vào ánh sáng, vào Giáo hội - Giáo hội của chúng ta - trên con đường hiệp nhất, tiếp tục là “mysterium lunae” – “mầu nhiệm của mặt trăng”. Chúng ta hãy mong muốn được hành trình cùng nhau, hỗ trợ lẫn nhau, cũng như các Đạo Sĩ. Theo truyền thống, các Đạo Sĩ được miêu tả với những chiếc áo choàng đầy màu sắc đại diện cho các dân tộc khác nhau. Nơi họ, chúng ta có thể thấy phản ánh sự khác biệt của chính chúng ta, những truyền thống và kinh nghiệm Kitô giáo khác nhau của chúng ta, nhưng cũng là sự hiệp nhất của chúng ta, được phát sinh từ cùng một ước muốn: nhìn lên trời và cùng nhau hành trình trên đất.
Phương Đông cũng khiến chúng ta liên tưởng đến những Kitô hữu sống ở nhiều vùng khác nhau bị tàn phá bởi chiến tranh và bạo lực. Chính Hội đồng Giáo hội Trung Đông đã chuẩn bị các tài nguyên cho Tuần Cầu nguyện này. Những anh chị em này của chúng ta phải đương đầu với cơ man những thử thách khó khăn, nhưng qua chứng tá của họ, họ mang đến cho chúng ta hy vọng. Họ nhắc nhở chúng ta rằng ngôi sao của Chúa Kitô chiếu sáng trong bóng tối và không bao giờ lặn. Từ trên cao, Chúa đồng hành và khích lệ những bước đi của chúng ta. Chung quanh Ngài, trên trời có một đoàn tử đạo vĩ đại, cùng nhau tỏa sáng, không phân biệt các hệ phái; các ngài chỉ ra cho chúng ta ở đây dưới thế này con đường của sự hợp nhất thật rõ ràng!
2. Từ phương Đông, các Đạo Sĩ đến Giêrusalem, tâm hồn cháy bỏng khát vọng Thiên Chúa. Họ nói với Hêrôđê: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người” (câu 2). Tuy nhiên, từ ước muốn về thiên đàng, họ bị đưa trở lại trái đất với thực tế khắc nghiệt của nó: Tin Mừng cho chúng ta biết “Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua” (câu 3). Nơi thành thánh, các Đạo Sĩ không nhìn thấy phản chiếu ánh sáng của ngôi sao, nhưng đã trải qua sự kháng cự của các thế lực đen tối của thế gian này. Không chỉ riêng Hêrôđê cảm thấy bị đe dọa bởi vương quyền mới và sự khác biệt này, một vương quyền không bị băng hoại bởi quyền lực thế gian: toàn bộ Giêrusalem đang nhốn nháo bởi thông điệp của các Đạo Sĩ.
Trên hành trình hướng tới sự thống nhất, chúng ta cũng có thể bị ách lại vì cùng một lý do đã làm tê liệt những người đó: sự bối rối và sợ hãi. Nỗi sợ hãi về sự mới mẻ làm đảo lộn thói quen thông thường và cảm giác an toàn của chúng ta; nỗi sợ rằng những người khác có thể làm mất ổn định truyền thống và khuôn mẫu lâu đời của tôi. Tuy nhiên, trong sâu thẳm đó là nỗi sợ hãi đang rình rập trong lòng mỗi con người, nỗi sợ hãi mà từ đó Chúa Phục sinh mong muốn giải thoát chúng ta. Trên hành trình hiệp nhất, ước gì chúng ta đừng bao giờ rơi vào tình cảnh không nghe được những lời khích lệ của Người: “Đừng sợ” (Mt 28: 5,10). Chúng ta đừng sợ đặt anh chị em của mình lên cao hơn nỗi sợ hãi của chính mình! Chúa muốn chúng ta tin cậy lẫn nhau và cùng nhau hành trình, bất chấp những thất bại và tội lỗi của chúng ta, bất chấp lỗi lầm của quá khứ cũng như những vết thương lòng của nhau.
Ở đây cũng vậy, trình thuật về các Đạo Sĩ khuyến khích chúng ta. Chính tại Giêrusalem, nơi thất vọng và chống đối, nơi con đường được chỉ ra bởi thiên đàng dường như chạm phải những bức tường do con người dựng lên, họ đã khám phá ra con đường dẫn đến Bethlehem. Họ học được điều đó từ các thượng tế và kinh sư, những người đã nghiền ngẫm Sách Thánh (x. Mt 2, 4). Các Đạo Sĩ đã tìm thấy Chúa Giêsu không chỉ từ ngôi sao, mà đã biến mất trong thời gian chờ đợi; họ cũng cần lời Chúa. Người Kitô hữu chúng ta cũng không thể đến với Chúa nếu không có lời sống động và hữu hiệu của Người (xem Dt 4:12). Lời ấy đã được ban cho toàn thể dân Chúa để được đón nhận và cầu nguyện, để toàn thể dân Chúa cùng nhau suy niệm. Sau đó, chúng ta hãy đến gần Chúa Giêsu qua lời của Người, nhưng chúng ta cũng hãy đến gần anh chị em của mình qua lời của Chúa Giêsu. Ngôi sao của Người sẽ mọc lên một lần nữa trên hành trình của chúng ta, và Ngài sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui.
3. Đó là những gì đã xảy ra với các Đạo Sĩ, khi họ đến điểm đến cuối cùng: Bethlehem. Tại đó, họ vào nhà, quỳ xuống và thờ lạy hài nhi (x. Mt 2,11). Vậy là cuộc hành trình của họ đã kết thúc: bên nhau, ở chung một nhà, trong thờ lạy. Bằng cách này, các Đạo Sĩ đã tiên báo về các môn đệ của Chúa Giêsu, tuy nhiều nhưng chỉ là một, ở phần kết của Tin Mừng, đã sấp mình thờ lạy trước mặt Chúa Phục sinh trên núi Galilê (x. Mt 28:17). Bằng cách này, họ cũng trở thành một dấu chỉ tiên tri cho chúng ta, những người khao khát Chúa, và cho những người bạn đồng hành của chúng ta trên khắp các nẻo đường của thế giới, những người tìm kiếm qua Kinh thánh về các dấu chỉ của Chúa trong lịch sử. Anh chị em cũng vậy, đối với chúng ta, sự hiệp nhất trọn vẹn, trong cùng một nhà, sẽ chỉ đạt được khi thờ phượng Chúa. Anh chị em thân mến, giai đoạn quyết định của hành trình tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn đòi hỏi sự cầu nguyện mãnh liệt hơn bao giờ hết, nó đòi hỏi sự thờ phượng, thờ phượng Thiên Chúa.
Tuy nhiên, các Đạo Sĩ nhắc nhở chúng ta rằng sự thờ phượng đòi hỏi một điều gì đó khác nơi chúng ta: trước tiên, chúng ta phải quỳ gối. Đó là cách: cúi thấp xuống, bỏ qua những lý do riêng của chúng ta để biến chỉ một mình Chúa trở thành trung tâm của mọi sự. Đã bao nhiêu lần lòng kiêu hãnh chứng tỏ là trở ngại thực sự của sự hiệp thông! Các Đạo Sĩ đã can đảm bỏ lại uy tín và danh tiếng để hạ mình trong ngôi nhà hèn mọn ở Bethlehem; và kết quả là họ thấy mình “tràn ngập niềm vui” (Mt 2,10). Hạ mình, bỏ lại những điều nhất định, đơn giản hóa cuộc sống của mình: tối nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có lòng can đảm đó, lòng can đảm biết khiêm nhường, biết đến thờ phượng Chúa trong cùng một nhà, chung một bàn thờ.
Tại Bethlehem, sau khi họ đã quỳ xuống tôn thờ, các Đạo Sĩ mở rương kho báu của họ và dâng lên vàng, nhũ hương và mộc dược (xem câu 11). Những món quà này nhắc nhở chúng ta rằng, chỉ sau khi cùng nhau cầu nguyện, chỉ trước sự hiện diện của Thiên Chúa và trong ánh sáng của Ngài, chúng ta mới thực sự nhận thức được những kho tàng mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Tuy nhiên, chúng là kho báu thuộc về tất cả, và có nghĩa là được chia sẻ. Vì chúng là ân sủng của Thánh Linh, được tiền định cho công ích, cho việc xây dựng và hiệp nhất dân tộc của Ngài. Chúng ta đến để thấy điều này bằng lời cầu nguyện, nhưng cũng bằng sự phục vụ: khi chúng ta trao cho những người khó khăn, chúng ta dâng mình cho Chúa Giêsu, Đấng đồng hóa với những người nghèo khó và bên lề xã hội (x. Mt 25:34-40); và Người biến chúng ta nên một.
Những món quà của các Đạo Sĩ tượng trưng cho những món quà mà Chúa mong muốn nhận được từ chúng ta. Chúng ta phải trao cho Chúa vàng, là thứ quý giá nhất, vì vị trí thứ nhất luôn phải thuộc về Chúa. Ngài là Đấng chúng ta phải dán mắt vào, chứ không phải chính mình; dõi theo thánh ý của Ngài, chứ không phải ý riêng của chúng ta; và làm theo cách của Ngài, chứ không phải cách của riêng chúng ta. Nếu Chúa thực sự được đặt lên hàng đầu, thì những lựa chọn của chúng ta, kể cả những lựa chọn của Giáo hội, không còn có thể dựa trên chính trị của thế giới này nữa, mà dựa trên thánh ý của Chúa. Sau đó là nhũ hương, gợi lại tầm quan trọng của lời cầu nguyện, là hương thơm dâng lên Thiên Chúa như một mùi hương dễ chịu (xem Tv 141: 2). Xin cho chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi cầu nguyện cho nhau và với nhau. Cuối cùng, mộc dược được dùng để tôn vinh thân xác Chúa Giêsu được hạ xuống khỏi cây thập giá (x. Ga 19:39), nói với chúng ta về sự quan tâm đến xác thịt đau khổ của Chúa, được phản ánh qua các vết thương của người nghèo. Chúng ta hãy phục vụ những người có nhu cầu. Cùng nhau, chúng ta hãy phục vụ Chúa Giêsu đau khổ!
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy theo chỉ dẫn của các Đạo Sĩ cho cuộc hành trình của chính mình, và làm như họ đã làm, trở về nhà “bằng một con đường khác” (Mt 2:12). Giống như Saolô trước cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, chúng ta cần phải thay đổi hướng đi, đảo ngược lộ trình của thói quen và đường lối của chúng ta, để tìm ra con đường mà Chúa đã vạch ra cho chúng ta: đó là con đường khiêm nhường, huynh đệ và tôn thờ. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng can đảm để thay đổi hướng đi, để hoán cải, để làm theo thánh ý của Ngài chứ không phải ý muốn của chúng con; để cùng nhau tiến về phía trước, về phía Chúa, Đấng mà Thánh Linh của Chúa muốn biến chúng con nên một. Amen.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
1. Chỉ vì một câu nói, linh mục Dòng Tên người Hà Lan bị sát hại ở Syria sẽ không được phong chân phước
Các nguồn tin nói rằng linh mục Dòng Tên người Hà Lan, nổi tiếng thánh thiện, bị sát hại ở Syria sẽ không được phong chân phước.
Việc phong chân phước cho linh mục Dòng Tên người Hà Lan Frans van der Lugt, bị sát hại ở Syria năm 2014, là điều không thể xảy ra trong tương lai gần - và rất có thể là vĩnh viễn.
Tuần báo Công Giáo Hà Lan Katholiek Nieuwsblad đã đưa tin này sau khi nói chuyện với những người trực tiếp tham gia vào quá trình này.
Lý do chính của việc này là vào khoảng năm 2009 hoặc 2010, Cha Van der Lugt bị cáo buộc đã đưa ra những tuyên bố xem thường nạn lạm dụng tình dục trong Giáo Hội. Khi được một nhóm du khách Tây Âu hỏi thăm cộng đồng tôn giáo của ngài ở Homs, Syria, ngài nói rằng theo ý kiến của ngài tất cả sự chú ý vào tội lỗi lạm dụng của hàng giáo sĩ đã bị phóng đại. Ngài cũng được cho là đã đặt câu hỏi về tác động của lạm dụng đối với các nạn nhân, cũng như độ tin cậy của họ.
Những người đến thăm cho rằng đã bị sốc trước những tuyên bố của ngài và báo cáo với cấp trên của ngài. Một lời khiển trách chính thức được cho là chưa hề được đưa ra vào thời điểm đó vì Cha Van der Lugt bị ốm ngay sau đó và phải nhập viện. Nhưng có một hồ sơ được ghi chép đầy đủ gần đây đã được đưa ra ánh sáng trong quá trình điều tra sơ bộ về thủ tục phong chân phước, theo một nguồn thạo tin từ tỉnh Dòng Tên Hà Lan.
Vào tháng 4 năm 2019, Cha Pascual Cebollada nói với Katholiek Nieuwsblad rằng tiến trình phong chân phước cho Cha Van der Lugts đã được mở và có thể sẽ hoàn thành trong vòng ba hoặc bốn năm. Cha Cebollada hoạt động như cáo thỉnh viên trong quá trình này, và linh mục Dòng Tên người Hà Lan Thom Sicking làm phó cáo thỉnh viên.
Các tu sĩ Dòng Tên đã đệ đơn xin tuyên Chân Phước cho ngài. Bề trên tổng quyền của Dòng Tên, là Cha Arturo Sosa đã đồng ý - và giám mục của Aleppo – là người chính thức bắt đầu tiến trình phong thánh – cũng rất nhiệt tình.
Câu chuyện Cha Van der Lugts coi thường những tuyên bố về việc lạm dụng bùng lên đã khiến các tu sĩ Dòng Tên quyết định tạm ngưng án tuyên Chân Phước có khả năng là vĩnh viễn.
Thay vào đó, Dòng Tên hiện đang tập trung vào án tuyên thánh cho một nhà truyền giáo người Hà Lan khác đã mất mạng ở Trung Đông là Cha Nico Kluiters, sinh ra ở Delft, người bị sát hại ở Li Băng vào năm 1985. Quá trình phong chân phước cho ngài đã được bắt đầu vào hôm thứ Bảy 22 tháng Giêng.
Cũng có một lý do chính thức cho việc nhanh chóng phong chân phước cho Cha Nico Kluiters hơn là Cha Van der Lugt: Trong trường hợp của Cha Kluiters, thủ phạm và động cơ đã được biết rõ. Rõ ràng là ngài đã bị sát hại vì lòng căm thù đối với đức tin Kitô, là một trong những lý do đẩy nhanh một tiến trình phong chân phước hoặc phong thánh.
Cha Frans van der Lugt sinh ra ở La Hay, đã làm việc ở Trung Đông từ năm 1964, bị bắn chết tại Homs vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa rõ hung thủ là ai và động cơ của người ấy, nhưng có khả năng ngài bị giết vì lý do chính trị hơn là tôn giáo.
Source:Crux
2. Hết khôn dồn tới dại khi có quan hệ luyến ái với phù thủy, hay với những thầy bùa ngải
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary # 136: Sex with a Witch”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 136: Luyến ái với phù thủy”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy
Quan hệ luyến ái với phù thủy là một ý tưởng cực kỳ ngu xuẩn. Chúng tôi đã gặp một số người đến xin trừ tà vì đã làm như thế, và họ chắc chắn cần được giúp đỡ! Dù người đàn ông hay người đàn bà hành nghề phù thủy cố gắng “chúc phúc” cho bạn tình hay nguyền rủa họ, thì hành động của họ sẽ luôn có hại về mặt tinh thần và cuối cùng trở thành một lời nguyền.
Ví dụ, một phụ nữ gần đây đã nói rằng dì của cô ấy, là người hành nghề phù thủy, đã cố gắng giúp cô ấy một số trợ giúp tinh thần thông qua phép thuật của mình. Gần như ngay lập tức, các vấn đề tâm linh của cô trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.
Bản thân quan hệ luyến ái trái đạo đức, tức là quan hệ luyến ái ngoài hôn nhân, là một tội trọng mà nhất thiết sẽ mở ra những ảnh hưởng của Sa-tan. Nhưng quan hệ luyến ái với một người làm nghề phù thủy, dùng các phép thuật hay bùa ngải là đặc biệt ngu xuẩn. Quan hệ luyến ái gắn kết sâu sắc hai người. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một sợi dây tình yêu đầy ân sủng. Nhưng khi thực hiện hành vi tội lỗi này với một phù thủy, hoặc một thầy bùa ngải, nó sẽ liên kết một người với Satan. Các phù thủy và những thầy bùa ngải lấy được sức mạnh của họ từ Satan, cho dù họ có biết điều đó hay không.
Những người đến với chúng tôi để được giúp đỡ, có quan hệ luyến ái với một phù thủy, đều có mối liên hệ sâu sắc với cái ác. Tệ nạn này khó mà diệt trừ tận gốc. Một sự ăn năn chân thành và xưng tội qua bí tích hòa giải là một khởi đầu tốt, nhưng sự giải thoát cuối cùng có thể sẽ là một cuộc chiến lâu dài. Trong mỗi trường hợp như vậy, Satan đã vạch ra lãnh thổ của hắn và liên tục tuyên bố, “Ngươi thuộc về ta!”
Hơn nữa, một số người cũng ăn phải những đồ vật bị nguyền rủa từ phù thủy mà cuối cùng họ đã vượt qua một cách đau đớn trong quá trình trừ tà. Cho dù nó có ý nghĩa như một lời chúc hay một lời nguyền, bất cứ thứ gì mà phù thủy hay thầy bùa ngải đưa ra như một lọ thuốc đều là một lời nguyền, vì nó xuất phát từ việc họ thực hành ma thuật, thứ luôn tìm thấy nó bắt nguồn từ cái ác.
Khi đất nước này ngày càng rơi vào tình trạng vô đạo đức, phù thủy và những điều huyền bí, nhiều người sẽ bị ràng buộc sâu sắc với cái ác. Tôi sợ rằng sẽ có ít người tìm được đường ra khỏi bóng tối.
Những người trẻ của chúng ta cần được cảnh báo:
+ Không thực hành bất kỳ hình thức phù thủy nào;
+ Ngay cả “phước lành” của phù thủy hay thầy bùa cuối cùng cũng trở thành lời nguyền;
+ Không kết bạn với một người hành nghề phù thủy;
+ Và, không bao giờ, không bao giờ, có quan hệ luyến ái với một phù thủy.
Source:Catholic Exorcism
3. Vatican được yêu cầu giúp giải quyết xung đột Armenia-Azerbaijan
Azerbaijan đang tìm kiếm sự giúp đỡ ngoại giao của Vatican trong cuộc xung đột đang diễn ra với Armenia. Đức Thánh Cha Phanxicô và nhóm trợ lý của ngài đang thể hiện sự sẵn sàng hỗ trợ điều này.
Thứ Năm tuần trước, một phái đoàn do Chủ tịch Văn phòng người Hồi giáo Caucasus, Grand Mufti Allahshukur Pashazadeh dẫn đầu đã được Đức Thánh Cha đón tiếp. Sau cuộc gặp gỡ này, Đức Phanxicô đã tiếp những nhà lãnh đạo tôn giáo có mặt tại Azerbaijan, bao gồm Chính thống giáo Nga và Giáo Hội Công Giáo, trong một phái đoàn do Đại sứ Azerbaijan tại Pháp và Tòa thánh, Rahman Mustafayev dẫn đầu.
Trong cuộc họp báo tại Rôma sau cuộc gặp, nhà lãnh đạo tôn giáo lập luận rằng Tổng thống Azerbaijan Ilham Aliyev đã tiếp tục các chính sách hợp tác với Vatican do cha ông là Heydar khởi xướng. Giáo sĩ Hồi giáo cho biết “chuyến thăm lịch sử” của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Azerbaijan vào năm 2016 đã làm nổi bật “sự khoan dung” và mức độ tuyệt vời của đối thoại giữa các tôn giáo ở đất nước vùng Caucasus.
Thông tấn xã Azeri đưa tin, nhà ngoại giao hàng đầu của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Pietro Parolin, người Ý, đã nhận lời mời đến thăm đất nước này trong năm nay để đánh dấu kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Azerbaijan là một quốc gia đa số theo đạo Hồi, và từng là một phần của Liên Xô cho đến năm 1991. Quân Liên Xô đã phá hủy nhà thờ Công Giáo duy nhất của thủ đô vào những năm 1930 và ngôi thánh đường chỉ được xây dựng lại vào năm 2007. Theo Catholic Almanac, chỉ có hai nhà truyền giáo phục vụ những Cộng đồng Công Giáo nhỏ bé phần lớn có nguồn gốc Ba Lan và Armenia.
Armenia, cũng là một phần trước đây của Liên Xô, có 93% dân số là các tín hữu của Giáo hội Armenia Tông Truyền, một phần của gia đình các Giáo hội Chính thống Phương Đông. Armenia tuyên bố là nhà nước Kitô Giáo chính thức đầu tiên trên thế giới vào năm 301 sau Chúa Giáng Sinh.
Xung đột hiện tại bắt nguồn từ sự tan rã của Liên Xô, khi hai nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ bắt đầu tranh chấp lãnh thổ Thượng Karabakh, nơi sinh sống chủ yếu của người gốc Armenia và theo Kitô Giáo.
Đức Phanxicô đã đến thăm Armenia vài tháng trước khi đến Azerbaijan. Hai quốc gia có xung đột lâu dài về khu vực Nagorno-Karabakh. Chiến tranh đã nổ ra nhiều lần. Thỏa thuận hòa bình mới nhất được đưa ra vào tháng 11 năm 2020, nhưng lệnh ngừng bắn đã không kéo dài được bao lâu.
Vào tháng 5 năm 2021, binh lính Azerbaijan đã vượt vài dặm vào Armenia ở các tỉnh Syunik và Gegharkunik, chiếm vài dặm vuông lãnh thổ Armenia. Cho đến nay, họ vẫn chưa rút khỏi lãnh thổ Armenia được quốc tế công nhận bất chấp lời kêu gọi của Nghị viện Châu Âu, Hoa Kỳ và Pháp.
Đức Phanxicô nói chung được yêu mến ở Armenia do ngài đã lên án mạnh mẽ Cuộc diệt chủng Armenia ngay từ đầu trong triều đại giáo hoàng của mình. Theo lời của Đại sứ Azerbaijan tại Pháp, Rahman Mustafayev, Đức Thánh Cha và Tòa thánh trở thành “người đóng vai trò quan trọng” trong việc bình định khu vực.
Source:Crux
1. Nhà thờ Công Giáo ở Sri Lanka bị gài một quả lựu đạn
Các nhà lãnh đạo Công Giáo ở Sri Lanka đã đặt ra các nghi vấn về cuộc điều tra của cảnh sát liên quan đến việc phát hiện một quả lựu đạn bên trong một nhà thờ vào ngày 11 tháng Giêng, ba ngày trước lễ kỷ niệm 1,000 ngày kể từ vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh 2019.
Đức Hồng Y Malcolm Ranjith của Colombo bày tỏ nghi ngờ về tính chính trực trong cuộc điều tra của cảnh sát, mặc dù Bộ trưởng Quốc phòng Kamal Gunaratne khẳng định rằng các quan chức cảnh sát đã biết rõ về cuộc điều tra và hy vọng họ sẽ sớm bắt giữ những kẻ chủ mưu chính và đưa chúng ra trước công lý.
Đức Hồng Y Ranjith trước đó đã kêu gọi cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra minh bạch. Tuy nhiên, điều gây kinh hoàng cho các nhà lãnh đạo Giáo Hội là cảnh sát đã bắt đi ông từ trông coi nhà thờ Các Thánh ở Borella cùng với một người đàn ông bị tình nghi gài lựu đạn. Chính ông từ nhà thờ là người đã phát hiện ra quả lựu đạn và tri hô lên.
Cảnh sát cho biết vụ bắt giữ được thực hiện sau khi các quan chức tình báo nhà nước điều tra và các cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nghi phạm chính đã được trả 50,000 rupee, tức là 250 USD, để cài lựu đạn.
Cha Jude Sherman Fernando và hội đồng giáo xứ của nhà thờ Các Thánh cho biết: “Chúng tôi kiên quyết kêu gọi tất cả các cơ quan có liên quan và chính phủ xem xét những vấn đề này một cách rất nghiêm túc và giải quyết các cuộc điều tra với tất cả kỹ năng hợp lý, cẩn thận và phân định kỹ lưỡng.”
Tuyên bố lên án mạnh mẽ hành động cài một quả lựu đạn tại một nơi thờ tự, nơi có rất nhiều người đến thờ phượng, tìm kiếm niềm an ủi và bình yên kể từ thế kỷ 18.
Cha Fernando nói: “Nó vi phạm các quyền cơ bản của các thành viên trong cộng đồng giáo xứ của chúng tôi và ảnh hưởng đến niềm tin vào an ninh quốc gia của tất cả các công dân ở đất nước này.”
Lãnh đạo phe đối lập Sajith Premadasa cũng bày tỏ sự nghi ngờ về bản chất của các cuộc điều tra đang diễn ra
Linh mục và hội đồng giáo xứ cũng bày tỏ sự không hài lòng của họ về cách thức mà các cuộc điều tra đang tiến hành. Cảnh sát đến bắt ngay ông từ nhà thờ ngay cả trước khi xem toàn bộ đoạn phim CCTV do nhà thờ cung cấp.
Cha Fernando cho biết một người có thể được nhìn thấy vào khuôn viên nhà thờ với một chiếc túi trong đoạn phim.
Bộ trưởng Bộ Công an Sarath Weerasekera cho rằng những tuyên bố của hàng lãnh đạo Giáo Hội như vậy có thể làm xói mòn lòng tin của công chúng đối với cảnh sát. Ông cho rằng điều rất quan trọng là công chúng nên tin tưởng vào cảnh sát.
Source:UCANews
2. Ma quỷ căm ghét những gì là thánh thiện.
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Chat #134: Demons Witness to Sanctity of Church”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 134: Ma quỷ cho ta thấy sự thánh thiện của Giáo Hội”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Để biết điều gì là thánh thiện thực sự, người ta có thể nhìn vào thứ mà ma quỷ căm ghét. Ma quỷ bị tra tấn bởi bất cứ thứ gì thánh thiện. Và một trong những sự tra tấn lớn nhất, đối với tất cả các loài ma quỷ, là vào một Nhà thờ Công Giáo.
+ Đầu tiên, khi ma quỷ đến gần Nhà thờ, chuông vang lên. Ma quỷ bị xua đuổi bởi âm thanh của chuông Nhà thờ. Một số nhà trừ tà rung một chuông nhỏ đã được làm phép trong lễ trừ tà là vì lý do đó.
+ Bước qua các cửa của Nhà thờ gây ra sự đau khổ và lo lắng lớn cho ma quỷ. Nhiều người bị ma quỷ nhập cảm thấy không thể bước vào bên trong một ngôi nhà thờ; những con quỷ tuyệt vọng cố gắng ngăn cản họ bước vào ngôi thánh đường.
+ Việc chúc lành cho bản thân bằng nước thánh là nguồn cực hình cho ma quỷ. Nước thánh là một phần của mọi lễ trừ tà. Đây là một trong những á bí tích hiệu quả nhất để đuổi mọi loài quỷ.
+ Tiến lên trên cung thánh, người ta nhìn thấy một cây thánh giá. Một phần tiêu chuẩn của mọi lễ trừ tà là nêu lên dấu hiệu cho sự thất bại của ma quỷ, đó là hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh, và nói, “Ecce crucem Domini: fugite partes adversae”, nghĩa là “Đây là thánh giá Chúa: xua tan mọi quyền lực quỷ ma”. Khi tôi nâng cây thánh giá lên trong một lễ trừ tà gần đây, những con quỷ đã hét lên “Cất nó đi! Nó đang đốt cháy tôi!”
+ Gần bàn thờ tiêu biểu là ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Những con quỷ thậm chí không thể nói tên của Đức Mẹ, Đức Mẹ thật thánh thiện và đầy ân sủng. Ma quỳ khiếp sợ Đức Mẹ.
+ Khi Thánh lễ bắt đầu, một linh mục đến gần và hôn lên bàn thờ. Ma quỷ ghét các linh mục, vì các ngài đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Như một con quỷ đã nói với tôi giữa một lễ trừ tà “Tao ghét cái ngày mà cô ta gặp mày!”
+ Bản thân lễ phục của các linh mục, đặc biệt là dây stôla, là những lễ phục quyền năng. Khi một người bị quỷ ám đang vật lộn với ma quỷ, chúng tôi quấn dây đai của một linh mục, biểu tượng của sự trong trắng, quanh thắt lưng của cô ấy. Những con quỷ cầu xin hãy gỡ bỏ dây đai ấy ra. Trong một lễ trừ tà khác, tôi đặt dây stôla của mình lên người bị quỷ ám và những con quỷ rú lên đau đớn, “Cởi nó ra! Cởi nó ra!”
+ Ma quỷ làm mọi cách để không cho một người bị quỷ ám đi lễ và rước lễ. Một người bị quỷ ám cho biết bánh thánh đối với cô ấy có mùi vị như “một con vật chết”. Ma quỷ kinh sợ sự hiện diện thực sự. Các tín đồ của Satan giáo biết bánh thánh sau khi đã được thánh hiến thiêng liêng như thế nào, đó là lý do tại sao chúng cố gắng ăn cắp bánh thánh và làm các trò báng bổ.
Mọi thứ trong một Nhà thờ Công Giáo đều làm ma quỷ hồn phi phách tán vì sự thánh thiện. Phản ứng như bị tra tấn của chúng là một minh chứng rõ ràng và mạnh mẽ cho sự thánh thiện của Giáo hội và những ân sủng biểu lộ bên trong. Do đó, đến Nhà thờ hàng ngày đối với tất cả chúng ta chẳng phải là một khoảnh khắc tuyệt vời sao? Thực sự chẳng có sự gì quan trọng hơn hoặc đầy ân sủng hơn Thánh lễ hàng ngày?
Source:Catholic Exorcisms
3. Phong Chân Phước cho Cha Rutilio Grande SJ
Linh mục Dòng Tên Rutilio Grande của El Salvador đã được phong chân phước vào hôm thứ Bảy ngày 22 tháng Giêng tại San Salvador cùng với hai giáo dân đồng hành và Cha Cosme Spessotto thuộc dòng Phanxicô. Tất cả đều là nạn nhân của vụ giết người dưới bàn tay của đội tử thần trong nhiều năm khủng bố ở El Salvador và là những vị tử vì đạo vì đức tin và công lý.
Cha Rutilio Grande và hai người bạn đồng hành của ngài đã chết vào ngày 12 tháng 3 năm 1977. Họ bị bắn hạ bởi các tay súng hoạt động cho chính phủ bấy giờ.
Trong một video, cha Arturo Sosa, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, cho biết:
“Cha Rutilio Grande là một tu sĩ Dòng Tên có chiều kích nhân bản và tôn giáo và con người nổi bật. Trong thể xác yếu đuối của mình, ngài tìm thấy sự vĩ đại của mình. (...) Ngài biết cách trở thành một cố vấn, một người bạn đồng hành thông cảm và tử tế, đồng thời kiên định và nghiêm túc về đời sống Kitô Hữu và việc thi hành chức vụ linh mục một cách có trách nhiệm. Xuất thân từ thành phần nông dân, ngài đã tận tụy phục vụ đến mức các nông dân đã tìm thấy nơi ngài một linh mục gần gũi, hy sinh và yêu thương, chia sẻ cuộc sống với cộng đồng những người theo Chúa Giêsu, những người làm chứng cho Tin mừng. “
Lễ phong chân phước sẽ do Đức Hồng Y Gregorio Rosa Chávez cử hành. Cha Pascual Cebollada, cáo thỉnh viên án tuyên thánh, sẽ đại diện cho Cha Bề Trên Tổng tại buổi lễ. Cha Pascual cho biết:
“Thật là một niềm an ủi khi đọc về cuộc đời của Rutilio, để thấy người tu sĩ Dòng Tên này đã dấn thân với những người nhỏ bévà không có khả năng tự vệ như thế nào. Sự siêng năng cầu nguyện và gần gũi với Chúa Giêsu, nghèo khó và khiêm nhường - là điều mà tất cả các tu sĩ Dòng Tên đều được kêu gọi - giờ đây đã khiến ngài trở thành một tấm gương mà tất cả chúng ta có thể học hỏi. “
Cha Rutilio Grande sinh ngày 5 tháng 7 năm 1928. Ngài gia nhập Dòng Tên năm 1945 và được thụ phong năm 1959. Ngài là linh mục đầu tiên thiệt mạng trong cuộc nội chiến ở El Salvador. Vụ sát hại ngài có tác động rất lớn đến Óscar Romero, Tổng giám mục lúc bấy giờ của San Salvador, là người ngày càng thẳng thắn về cuộc chiến và cuối cùng bản thân ngài cũng bị sát hại.
Source:Jesuit