Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha tái liên đới với các tín hữu Kitô Trung Đông
Lm. Trần Đức Anh OP
09:40 30/01/2015
VATICAN. Sáng ngày 30-1-2015, ĐTC Phanxicô tái liên tiếng bày tỏ tình liên đới và kêu gọi cầu nguyện cho các tín hữu Kitô bị bách hại tại Trung Đông, nhất là tại Siria và Irak.
Ngài trình bày lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến 30 thành viên Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương nhóm họp tại Roma trong một tuần qua. ĐTC nói:
”Trong lúc này, chúng ta đặc biệt chia sẻ nỗi kinh hoàng và đau khổ vì những gì xảy ra tại Trung Đông, đặc biệt tại Irak và Siria. Tôi nhớ đến tất cả mọi người dân trong vùng, trong đó có các anh chị em Kitô chúng ta và nhiều nhóm thiểu số, đang phải chịu những hậu quả của cuộc xung đột cam go. Cùng với anh em, tôi cầu nguyện hằng ngày để sớm có một giải pháp thương thuyết, và khẩn cầu lòng từ nhân thương xót của Thiên Chúa đối với những người bị thương tổn vì thảm trạng bao la này.”
ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tất cả các tín hữu Kitô đều được mời gọi cộng tác với nhau trong sự chấp nhận và tín nhiệm nhau để phục vụ chính nghĩa hòa bình và công lý. Ước gì nhờ lời chuyển cầu và tấm gương của nhiều vị tử đạo và các thánh, đã can đảm làm chứng tá cho Chúa Kitô trong tất cả các Giáo Hội chúng ta, nâng đỡ và củng cố anh em cùng với các cộng đoàn của anh em”.
Trước đó trong phần đầu bài diễn văn, ĐTC nhắc đến quá trình hoạt động từ năm 2003 của Ủy ban hỗn hợp đối thoại gồm đại diện của Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất Kitô và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương. Trong 10 năm đầu, Ủy ban đã nhìn lại quá khứ và cứu xét sự hiệp thông của các Giáo Hội với nhau trong những thế kỷ đầu tiên, và trong cuộc gặp gỡ lần này, Ủy ban đã nghiên cứu sâu rộng về bạn chất của các bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội.
ĐTC nói: ”Tôi cầu mong công việc mà anh em đã khởi sự có thể mang lại thành quả dồi dào cho việc nghiên cứu chung về thần học và giúp chúng ta ngày càng sống tình thân hữu huynh đệ sâu xa hơn”.
Trong Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học này, ngoài Công Giáo còn có đại diện của 7 Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, như Giáo Hội Copte Ai Cập, Giáo Hội Arméni Tông truyền (Arméni, Liban), Giáo Hội Chính Thống Ethiopia, Eritrea, Siro Malankara (Ấn độ).
Ngoài ra cũng có Ủy Ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và 14 Giáo Hội Chính Thống, đông đảo hơn với gần 60 thành viên (SD 30-1-2015)
Ngài trình bày lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến 30 thành viên Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương nhóm họp tại Roma trong một tuần qua. ĐTC nói:
”Trong lúc này, chúng ta đặc biệt chia sẻ nỗi kinh hoàng và đau khổ vì những gì xảy ra tại Trung Đông, đặc biệt tại Irak và Siria. Tôi nhớ đến tất cả mọi người dân trong vùng, trong đó có các anh chị em Kitô chúng ta và nhiều nhóm thiểu số, đang phải chịu những hậu quả của cuộc xung đột cam go. Cùng với anh em, tôi cầu nguyện hằng ngày để sớm có một giải pháp thương thuyết, và khẩn cầu lòng từ nhân thương xót của Thiên Chúa đối với những người bị thương tổn vì thảm trạng bao la này.”
ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tất cả các tín hữu Kitô đều được mời gọi cộng tác với nhau trong sự chấp nhận và tín nhiệm nhau để phục vụ chính nghĩa hòa bình và công lý. Ước gì nhờ lời chuyển cầu và tấm gương của nhiều vị tử đạo và các thánh, đã can đảm làm chứng tá cho Chúa Kitô trong tất cả các Giáo Hội chúng ta, nâng đỡ và củng cố anh em cùng với các cộng đoàn của anh em”.
Trước đó trong phần đầu bài diễn văn, ĐTC nhắc đến quá trình hoạt động từ năm 2003 của Ủy ban hỗn hợp đối thoại gồm đại diện của Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất Kitô và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương. Trong 10 năm đầu, Ủy ban đã nhìn lại quá khứ và cứu xét sự hiệp thông của các Giáo Hội với nhau trong những thế kỷ đầu tiên, và trong cuộc gặp gỡ lần này, Ủy ban đã nghiên cứu sâu rộng về bạn chất của các bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội.
ĐTC nói: ”Tôi cầu mong công việc mà anh em đã khởi sự có thể mang lại thành quả dồi dào cho việc nghiên cứu chung về thần học và giúp chúng ta ngày càng sống tình thân hữu huynh đệ sâu xa hơn”.
Trong Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học này, ngoài Công Giáo còn có đại diện của 7 Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, như Giáo Hội Copte Ai Cập, Giáo Hội Arméni Tông truyền (Arméni, Liban), Giáo Hội Chính Thống Ethiopia, Eritrea, Siro Malankara (Ấn độ).
Ngoài ra cũng có Ủy Ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và 14 Giáo Hội Chính Thống, đông đảo hơn với gần 60 thành viên (SD 30-1-2015)
Giáo lý Đại hội Thế giới về Gia đình: ''Sứ mệnh yêu thương''
TGP Philadelphia
09:55 30/01/2015
TÌNH YÊU LÀ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG TA
BÀI HAI: SỨ MỆNH YÊU THƯƠNG
Thiên Chúa thực hiện công trình của Ngài qua chúng ta. Chúng ta có một sứ mệnh. Chúng ta đang sống trong một thế giới với một cùng đích, đó là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, và tỏ lộ tình yêu ấy cho những người khác. Thiên Chúa tìm cách cứu chữa một thế giới đã đổ vỡ. Ngài mời gọi chúng ta làm chứng và giúp thực hiện công trình ấy.
Thánh Kinh giải thích và định hình cho ý nghĩa của tình yêu
21. Lịch sử bắt đầu khi Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh của Ngài. Theo dòng lịch sử, Thiên Chúa gọi và hình thành một dân tộc. Ngài ký kết một giao ước với chúng ta, đầu tiên qua dân Israel, và sau đó qua Đức Kitô và Hội Thánh. Trong mối quan hệ này, Thiên Chúa dạy chúng ta biết yêu thương như Ngài đã yêu thương.
22. Nói cách khác, vì đã được tạo dựng cho hiệp thông, nên chúng ta nhận biết rằng tình yêu là sứ vụ của chúng ta. Tặng phẩm cuộc sống Chúa ban cho ta có trước và định hình cho hành động cũng như cách sống của chúng ta. Tóm lại, “cách thức Thiên Chúa yêu thương trở thành thước đo cho tình yêu con người”[1].
23. Để sống theo cách ấy đòi hỏi ta phải khiêm hạ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết làm cho con tim chúng ta đồng hình đồng dạng với Chúa và nhìn thế giới qua lăng kính của Ngài. Con đường của Chúa thì tốt đẹp hơn, nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng hơn.
24. Thánh Kinh đầy dẫy những chuyện minh họa Tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là một người cha nhân từ dang tay đón đứa con hoang đàng trở về và mở tiệc ăn mừng (Lc 15,11-32). Thiên Chúa là một mục tử đi tìm con chiên lạc (Lc 15,3-7). Thiên Chúa là một người mẹ an ủi vỗ về con cái mình (Is 66,13). Thiên Chúa là một người bạn dám hi sinh mạng sống mình vì bạn hữu, và biết khóc thương khi bạn hữu gặp sầu buồn (Ga 11,35). Thiên Chúa là một người thầy, dạy ta biết yêu thương và phục vụ nhau như những người lân cận (Mt 22,39). Thiên Chúa là một người làm vườn, chăm sóc chúng ta cho đến khi sinh hoa kết quả (Ga 15,1). Thiên Chúa là một ông vua mời gọi chúng ta vào dự tiệc cưới của con Ngài (Mt 22,1-14). Thiên Chúa nghe lời kêu van của anh mù và đã dừng lại hỏi anh: Anh muốn tôi làm gì cho anh? (Mc 10,46-52). Thiên Chúa ân cần tiếp đón, lòng đầy xót thương đối với đoàn dân Ngài đang đói khát, ban cho họ của ăn no đầy (Mt 14,13-21)[2], và hiến ban chính mình cho họ (Mt 26,16).
Hôn nhân là một hình ảnh cốt yếu trong Thánh Kinh diễn tả tình yêu Thiên Chúa
25. Tất cả những hình ảnh trên đây và nhiều hình ảnh khác nữa giúp chúng ta khám phá được chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa. Những hình ảnh ấy làm nổi bật thứ tình yêu mà chúng ta được mời gọi để làm chứng bằng cuộc sống riêng của mỗi người chúng ta. Thế nhưng, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhận xét, có một hình ảnh cơ bản làm bối cảnh cho các tình yêu khác Thiên Chúa:
“Thiên Chúa yêu thương dân Ngài”. Thật vậy, mạc khải Thánh Kinh trên hết diễn tả một câu chuyện tình, chuyện giao ước Thiên Chúa với loài người. Đây là lý do tại sao câu chuyện đời sống và tình yêu kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong giao ước hôn nhân được Thiên Chúa sử dụng như một biểu tượng của lịch sử cứu độ [3].
26. Hình ảnh hôn nhân là trung tâm trong việc diễn tả giao ước của Thiên Chúa với dân Israel, và về sau còn với Hội thánh. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI dạy: “Hôn nhân dựa trên tình yêu độc nhất và dứt khoát trở thành biểu tượng cho tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và ngược lại cũng vậy”[4]. Giao ước của Thiên Chúa là một chủ đề trung tâm của Thánh Kinh, và hôn nhân là ẩn dụ được ưa thích nhất của Sách Thánh dùng để diễn tả tương quan của Thiên Chúa với nhân loại. Cũng những ý tưởng đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khi còn là Tổng giám mục Munich đã giải thích:
Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ để bước vào lịch sử tình yêu với nhân loại. Ngài tạo dựng thế giới để tình yêu được hiện hữu. Phía sau điều này là những lời lẽ của Israel dẫn thẳng đến Giao ước mới …. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ để có thể trở thành một người phàm và để tuôn đổ tình yêu của Ngài trên chúng ta và để mời gọi chúng ta yêu thương đáp lại[5].
27. Hình ảnh hôn nhân đó đã bắt đầu có từ trong Cựu ước. Từ đó chúng ta được biết rằng Thiên Chúa yêu thương ta cách thân tình, dịu dàng và khát khao. “Các Tiên tri, đặc biệt là Hôsê và Êdêkiel, diễn tả niềm say mê của Thiên Chúa đối với dân Ngài, qua việc sử dụng cách bạo dạng những hình ảnh yêu đương”[6]. Trong sách tiên tri Hôsê, Thiên Chúa hứa sẽ “quyến rũ” Israel, thổ lộ “tâm tình với nàng”, cho đến khi nàng “đáp lại như buổi thanh xuân” và sẽ gọi Người: “Mình ơi” (Hs 2,16-18). Trong sách Êdêkiel, Thiên Chúa nói với Israel bằng một ngữ ảnh hết sức nhạy cảm: “Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che đậy sự trần trụi của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập giao ước với ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng, và ngươi thuộc về Ta. Ta đã lấy nước tắm rửa … rồi xức dầu thơm cho ngươi…. Ngươi đã nên xinh đẹp tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu” (Ed 16,8-13)[7]. Chúng ta cũng thấy kiểu nói tương tự như thế trong sách Isaia[8], Giêrêmia[9] và Thánh vịnh[10]. Sách Diễm ca cũng lấp lánh hằng trăm bài thuyết giáo sử dụng hình ảnh hôn nhân để giải thích tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với dân Ngài.
Thánh Kinh không ủy mị nói về tình yêu hôn nhân
28. Cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Ngài có thể không vững bền. “Quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Israel được diễn tả bằng những ẩn dụ như đính hôn và kết hôn”, do đó khi dân Chúa phạm tội, tính thất thường của chúng ta trở thành một thứ tội “ngoại tình và đàng điếm”[11]. Trong sách tiên tri Hôsê, tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel đặt Ngài vào vị thế của một đức lang quân bị phản bội bởi một người vợ bất trung. Như Thiên Chúa nói với Hôsê: “Ngươi cứ đi yêu người đàn bà đang có tình nhân và đang ngoại tình, cũng như Đức Chúa yêu thương con cái Israel, trong khi chúng lại quay lưng đi theo các thần khác” (Hs 3,1).
29. Khi dân Chúa quên đi những điều răn Ngài truyền dạy, thờ ơ đối với người nghèo sống quanh họ, tìm kiếm sự an toàn từ các quyền lực ngoại bang, hoặc xoay qua thờ lạy ngẫu thần – lúc đó là họ ngoại tình và đàng điếm, những từ ngữ thích đáng dành để diễn tả sự bất trung của họ[12].
30. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn kiên định. Đức Thánh Cha Phanxicô gần đây, khi suy niệm về đoạn sách Êdêkiel 16, lưu ý Thiên Chúa vẫn nói những lời yêu thương cả khi dân Israel bất trung với Ngài[13]. Israel phạm tội. Israel vô ơn. Israel đàng điếm chạy theo các ngẫu thần. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi dân đã giao ước với Ngài. Họ luôn có thể hối cải và được tha thứ. Lòng thương xót của Thiên Chúa hàm nghĩa Ngài hằng tìm kiếm điều thiện hảo cho dân Israel ngay cả khi họ trốn tránh Ngài. “Vì Đức Chúa đã gọi ngươi về, như gọi một người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn, như gọi một người vợ cưới lúc thanh xuân, bấy giờ đang bị ruồng bỏ, Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp…nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót” (Is 54,6-8). Thiên Chúa vẫn nhẫn nại yêu thương dân Ngài, ngay cả khi chúng ta sa ngã phạm tội, ngay cả khi chúng ta cứ cứng lòng sống như không có Người.
31. Cách tương tự, tình yêu hay bác ái Kitô giáo sâu hơn những cảm xúc nhất thời rất nhiều. Nó gồm cả khía cạnh tình cảm và đam mê, nhưng nó cũng là một sự chọn lựa. Tình yêu là một sứ vụ chúng ta lãnh nhận, một sự sắp đặt mà ta chấp nhận, một lời kêu gọi chúng ta tự nguyện bước theo. Loại tình yêu này có những chiều kích mà ta có thể khám phá khi chịu nhượng bộ. Loại tình yêu này tìm kiếm và bước theo Thiên Chúa, mà nếu ta trung tín với giao ước của Ngài chúng ta sẽ học biết được thế nào là tình yêu. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi Israel để tìm một bạn tình hấp dẫn khác. Ngài cũng chẳng nản lòng khi bị khước từ. Ngài không bao giờ đổi dạ thay lòng. Ngài chỉ muốn điều tốt lành nhất, điều chân thật và điều thiện tối hậu cho dân Ngài. Và trong khi tình yêu của Ngài dành cho Israel cũng đam mê khát vọng (điều này không ai chối cãi nếu đọc các sách tiên tri) chính khía cạnh “dục tình” này trong tình yêu thần linh luôn được triển nở nhờ sự trung tín hy sinh của Thiên Chúa[14]. Tình yêu đam mê của Thiên Chúa luôn hợp nhất với lòng thương xót và kiên nhẫn của Ngài.
Hôn nhân, tình yêu và sự hy tế của Đức Kitô trên thập giá
32. Tình yêu của Thiên Chúa được đoạn 5 Thư gửi Tín hữu Êphêsô diễn tả rất sinh động, trong đó, thánh Phaolô quảng diễn hôn nhân tương tự như quan hệ giữa Chúa Kitô và Hội thánh[15]. Thánh Phaolô thúc dục người chồng và người vợ “hãy tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21). Bởi thế, hôn nhân Kitô giáo không phải là một sự thương lượng về quyền lợi và trách nhiệm, nhưng đúng hơn là một diễn tả sự tự hiến cho nhau của đôi vợ chồng. Về cơ bản nó khác xa rất nhiều thứ chủ nghĩa bình quyền thuần túy. Thánh Phaolô viết “người chồng là đầu của vợ như Chúa Kitô là đầu của Hội thánh” (Ep 5,23). Nhưng điều đó có nghĩa là gì xét theo ngữ cảnhtrong thực tế? Thánh Phaolô kêu gọi những người chồng hãy yêu thương vợ bằng một tình yêu tự hiến, phản chiếu tình yêu hiến tế của Chúa Kitô trên thập giá. Phá bỏ ý tưởng hẹp hòi “trọng nam khinh nữ” và bóc lột người phụ nữ, trái nghịch sâu xa với các luật gia đình khác của thế giới cổ đại, Thánh Phaolô dạy phải linh động theo hình ảnh Thiên Chúa: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh” (Ep 5,25). Rút ra từ đoạn 5 của Thư Êphêsô này, Hội thánh nói về hôn nhân như là một bí tích, và kêu gọi các cặp vợ chồng hãy sống hiệp thông trong tình yêu tự hiến như hi tế thập giá.
33. Đức Giêsu giúp các Kitô hữu nói một cách xác tín về tình yêu Thiên Chúa. Người tỏ bày giao ước của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, bằng cách hoàn tất lịch sử của Israel như là một câu chuyện phổ quát về ơn cứu độ. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu tự hiến, bởi vì, chính Người, theo sát nghĩa của từ, là [Ngôi] Lời của Thiên Chúa mặc lấy xác phàm. Người yêu thương Hội thánh như tân nương của Người. Và chính tình yêu vô vị lợi này (được minh chứng bằng máu Người đổ ra trên thập giá) làm mẫu cho thứ tình yêu phục vụ lẫn nhau cần thiết trong mọi cuộc hôn nhân và gia đình Kitô giáo.
34. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI dạy: “Bởi chiêm ngắm cạnh nương long bị đâm thâu qua của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiểu được làm sao … Thiên Chúa là tình yêu. Chính nơi đó sự thật này được chiêm ngắm. Và cũng phải từ đó mà chúng ta định nghĩa về tình yêu. Khi chiêm ngắm như thế, người Kitô hữu mới khám phá ra được con đường, trên đó cuộc sống và tình yêu của họ phải bước đi”[16].
35. Đối với nhiều người ngày nay, “tình yêu” chẳng qua chỉ là một cảm xúc nồng nàng hoặc một sự quyến rũ thể lý. Những yếu tố này có vai trò của nó. Nhưng tình yêu đích thực (là tình yêu biết kiên nhẫn, đi vào chiều sâu và có khả năng thỏa mãn con tim nhân loại suốt cuộc đời) lớn lên từ những gì chúng ta hiến ban cho tha nhân, chứ không phải từ những gì chúng ta chiếm hữu cho mình. Chúa Giêsu Kitô đã chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Cái khả năng từ bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của mình mà hiến thân cho tha nhân, một điều rất nền tảng và có sức giải phóng, là sợi chỉ nối kết toàn bộ giáo huấn Công Giáo về hôn nhân và gia đình. Giáo huấn Công Giáo đích thực về hôn nhân và gia đình phân biệt rõ ràng đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu giả tạo.
36. Thánh Kinh có nhiều cách diễn tả bổ sung cho nhau và trùng lấp về tình yêu của Thiên Chúa, nhưng trong các cách đó, tình yêu dưới hình thức hôn nhân được đề cập nhiều nhất. Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài (đầu tiên là với Israel sau đó là Hội thánh) thì tương tự như một cuộc hôn nhân. Cuộc hôn nhân này không phải luôn dễ dàng, nhưng tội lỗi nhân loại không bao giờ là tiếng nói cuối cùng. Sự trung tín của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết thế nào là tình yêu đích thực và sự trung tín đích thực thì biểu lộ ra như thế nào. Đức Giêsu Kitô, chào đón mọi người chúng ta bước vào làm thành viên trong gia đình Thiên Chúa, đã cho chúng ta một định nghĩa mới và bất ngờ về tình yêu, cho ta những khả năng mới để được sống sung mãn.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Tại sao tình yêu Thiên Chúa giống như một cuộc hôn nhân?
2. Cách Thiên Chúa yêu thương khác với cách thức yêu thương của con người như thế nào?
3. Tình yêu đích thật là gì và làm sao chúng ta có thể nhận ra được nó? Bạn có thể kể ra một vài điểm giống nhau và khác nhau giữa tình yêu lãng mạn theo tập tục văn hóa của bạn với tình yêu giao ước của Thiên Chúa không ?
4. Bạn có thể nhớ về một thời gian nào đó trong lúc mà tình yêu của Thiên Chúa đã giúp bạn biết cách yêu thương chân thành hơn và tốt đẹp hơn không?
[1] ĐGH Bênêđictô XVI, Tđ. Deus Caritas Est (DCE) (2005), 11.
[2] Cf. thêm Mt 15,32-39; Mc 6,31-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,5-15.
[3] ĐGH Benêđictô XVI, “Bài nói chuyện với các tham dự viên tại diễn đàn của các hiệp hội gia đình”, Rôma 16/05/2008.
[4] DCE, 11.
[5] Joseph Ratzinger, In the Beginning: a Catholic understandingn of the story of creation and fall, Wm. B. Eerdmans Publishing Co., Grand Rapids, MI, 1995, 30.
[6] DCE, 9.
[7] Cf. Ed 23.
[8] Cf. Is 50,1; 54,5; 61,10; 62,5.
[9] Cf. Gr 2,2; 3,1; 3,6-12; 31,32.
[10] Cf. Tv 45.
[11] DCE, 9.
[12] Cf. Xh 34,16; Tl 2,17; Ds 15,39; và Đnl 31,16.
[13] ĐGH Phanxicô, Bài Giảng, “Thánh lễ tại Nhà Nguyện Santa Marta – Khi một tình yêu thất bại”, Osservatore Romano, 28/02/2014.
[14] DCE, 5.
[15] Ep 5,21-33.
[16] DCE, 12. Cf. Ga 19,37; và 1Ga 4,8.
Bài giảng tại Santa Marta: Ký ức và hy vọng
Đặng Tự Do
15:50 30/01/2015
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảnh báo rằng các Kitô hữu thờ ơ, là những người đã đánh mất đi ký ức và lòng nhiệt tình về cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Kitô, đang đứng trước nguy cơ rước ma quỷ vào nhà mình. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng người Kitô hữu phải luôn giữ ký ức về cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Chúa Kitô cũng như niềm hy vọng của họ nơi Ngài để giúp họ tiến về phía trước với lòng can đảm của đức tin. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong thánh lễ Sáng thứ Sáu 30 tháng Giêng tại nhà nguyện Santa Marta.
Trình bày những suy tư của ngài trên Thư gửi tín hữu Do Thái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định rằng một người không còn nhớ về cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Chúa Giêsu là một con người trống rỗng và nghèo nàn về tâm linh, như trong trường hợp của những người nhạt đạo. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ngày đầu gặp gỡ với Đức Kitô không bao giờ có thể bị lãng quên.
Những Kitô hữu lạnh nhạt đang trong vòng nguy hiểm
"Ký ức của chúng ta rất quan trọng để nhắc nhớ ta về những ân sủng nhận được, bởi vì nếu chúng ta xua đi lòng nhiệt thành đến từ ký ức của tình yêu đầu tiên này, thì lúc đó một nguy cơ rất lớn ập đến với các Kitô hữu: nguy cơ của một đức tin lụi tàn, một Kitô hữu thờ ơ. Họ vẫn đang ở đó nhưng bất động. Đúng họ đang là các Kitô hữu, không sai, nhưng họ đã mất đi ký ức về tình yêu đầu tiên. Và họ cũng đã đánh mất đi lửa nhiệt tình trong họ. Ngoài ra, họ cũng đã mất kiên nhẫn, không còn chịu đựng nổi những vấn đề trong cuộc sống với một tinh thần yêu thương của Chúa Giêsu, để tha thứ, và vác trên vai những khó khăn .... Những Kitô hữu nhạt đạo, những kẻ thật tội nghiệp, họ đang trong vòng nguy hiểm. "
Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi ngài nghĩ đến các Kitô hữu thờ ơ, ngài bị đánh động bởi hai hình ảnh đánh kinh tởm, thứ nhất là hình ảnh về con chó ăn lại những gì nói đã ói ra được mô tả bởi Thánh Phêrô; và thứ hai là câu chuyện Chúa Giêsu kể về những người đã đuổi ma quỷ đi và quyết định đi theo Tin Mừng nhưng khi ma quỷ quay trở lại với quân tiếp viện thì họ lại mở toang cửa nhà ra đón chúng. Đức Giáo Hoàng nói điều này giống như quay trở lại với thứ ô uế đã nôn ra trước đó.
"Một Kitô hữu có hai thông số là ký ức và hy vọng. Chúng ta phải gợi lên ký ức của chúng ta để đừng đánh mất đi kinh nghiệm đẹp đẽ của tình yêu đầu tiên là nguồn mạch đem đến cho chúng ta hy vọng. Nhiều lần hy vọng bị chìm ngập trong bóng tối nhưng Kitô hữu vẫn đi về phía trước. Anh chị em ấy tin và tiến về phía trước bởi vì họ biết rằng hy vọng trong việc tìm kiếm Chúa Giêsu không bao giờ làm họ thất vọng. Hai tham số này chính là những khung cảnh trong đó chúng ta có thể bảo vệ ơn cứu rỗi xuất phát từ Chúa dành cho những người lành."
Ký ức, hy vọng và đức tin
Đức Giáo Hoàng nói ơn cứu rỗi này cần phải được bảo vệ để bảo đảm rằng hạt cải nhỏ bé sẽ lớn lên và sinh hoa kết quả.
"Thật buồn và đau lòng khi thấy rất nhiều người Kitô hữu - rất nhiều Kitô hữu! - nửa vời, rất nhiều Kitô hữu, những người đã thất bại trên con đường hướng tới một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, những người đang xa lánh cuộc gặp gỡ này với Chúa Giêsu; những người đã mất ký ức về tình yêu đầu tiên và không còn có bất kỳ chút hy vọng nào. "
Trình bày những suy tư của ngài trên Thư gửi tín hữu Do Thái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định rằng một người không còn nhớ về cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Chúa Giêsu là một con người trống rỗng và nghèo nàn về tâm linh, như trong trường hợp của những người nhạt đạo. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ngày đầu gặp gỡ với Đức Kitô không bao giờ có thể bị lãng quên.
Những Kitô hữu lạnh nhạt đang trong vòng nguy hiểm
"Ký ức của chúng ta rất quan trọng để nhắc nhớ ta về những ân sủng nhận được, bởi vì nếu chúng ta xua đi lòng nhiệt thành đến từ ký ức của tình yêu đầu tiên này, thì lúc đó một nguy cơ rất lớn ập đến với các Kitô hữu: nguy cơ của một đức tin lụi tàn, một Kitô hữu thờ ơ. Họ vẫn đang ở đó nhưng bất động. Đúng họ đang là các Kitô hữu, không sai, nhưng họ đã mất đi ký ức về tình yêu đầu tiên. Và họ cũng đã đánh mất đi lửa nhiệt tình trong họ. Ngoài ra, họ cũng đã mất kiên nhẫn, không còn chịu đựng nổi những vấn đề trong cuộc sống với một tinh thần yêu thương của Chúa Giêsu, để tha thứ, và vác trên vai những khó khăn .... Những Kitô hữu nhạt đạo, những kẻ thật tội nghiệp, họ đang trong vòng nguy hiểm. "
Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi ngài nghĩ đến các Kitô hữu thờ ơ, ngài bị đánh động bởi hai hình ảnh đánh kinh tởm, thứ nhất là hình ảnh về con chó ăn lại những gì nói đã ói ra được mô tả bởi Thánh Phêrô; và thứ hai là câu chuyện Chúa Giêsu kể về những người đã đuổi ma quỷ đi và quyết định đi theo Tin Mừng nhưng khi ma quỷ quay trở lại với quân tiếp viện thì họ lại mở toang cửa nhà ra đón chúng. Đức Giáo Hoàng nói điều này giống như quay trở lại với thứ ô uế đã nôn ra trước đó.
"Một Kitô hữu có hai thông số là ký ức và hy vọng. Chúng ta phải gợi lên ký ức của chúng ta để đừng đánh mất đi kinh nghiệm đẹp đẽ của tình yêu đầu tiên là nguồn mạch đem đến cho chúng ta hy vọng. Nhiều lần hy vọng bị chìm ngập trong bóng tối nhưng Kitô hữu vẫn đi về phía trước. Anh chị em ấy tin và tiến về phía trước bởi vì họ biết rằng hy vọng trong việc tìm kiếm Chúa Giêsu không bao giờ làm họ thất vọng. Hai tham số này chính là những khung cảnh trong đó chúng ta có thể bảo vệ ơn cứu rỗi xuất phát từ Chúa dành cho những người lành."
Ký ức, hy vọng và đức tin
Đức Giáo Hoàng nói ơn cứu rỗi này cần phải được bảo vệ để bảo đảm rằng hạt cải nhỏ bé sẽ lớn lên và sinh hoa kết quả.
"Thật buồn và đau lòng khi thấy rất nhiều người Kitô hữu - rất nhiều Kitô hữu! - nửa vời, rất nhiều Kitô hữu, những người đã thất bại trên con đường hướng tới một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, những người đang xa lánh cuộc gặp gỡ này với Chúa Giêsu; những người đã mất ký ức về tình yêu đầu tiên và không còn có bất kỳ chút hy vọng nào. "
Vatican “tấn công” phẫu thuật thẩm mỹ, siêu người mẫu Brazil quả quyết sửa sắc đẹp là một tội lỗi
Đặng Tự Do
19:06 30/01/2015
Một tài liệu mới của Vatican đã lên án phẫu thuật thẩm mỹ phụ nữ, gọi đó là "một tấn kích đối với căn tính phụ nữ."
Tài liệu này được hình thành ra bởi một nhóm phụ nữ cố vấn cho Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa và sẽ được dùng như một hướng dẫn thảo luận trong khóa họp khoáng đại về những vấn đề liên quan đến phụ nữ trong Giáo Hội kéo dài từ 04 đến 07 tháng Hai dưới sự chủ toạ của Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi.
Tài liệu có đoạn viết "phẫu thuật thẩm mỹ giống như một Burqa làm bằng thịt." Burqa là áo choàng truyền thống mà phụ nữ Hồi giáo thường mặc nơi công cộng.
Tài liệu cảnh báo chống lại những phẫu thuật thẩm mỹ nói "phẫu thuật thẩm mỹ không xuất phát từ nhu cầu cần được điều trị y khoa có thể là một tấn kích đối với bản sắc nữ tính. Nó cho thấy một sự từ chối cơ thể đến mức phủ nhận những 'hương vị' lẽ ra phải được tôn trọng trong cuộc sống".
Những chỉ trích về phẫu thuật thẩm mỹ tự chọn là một phần trong một phân tích rộng hơn về những thách thức mà người phụ nữ hiện đại phải đối diện trong Giáo Hội và xã hội.
Tờ Christian Post ghi nhận rằng tài liệu về phẫu thuật thẩm mỹ của Tòa Thánh được đưa ra trùng hợp với tuyên bố của siêu người mẫu Andressa Urach của Brazil, người đã quả quyết là sửa sắc đẹp là một tội lỗi.
Siêu người mẫu Andressa Urach, xướng ngôn viên của nhiều chương trình truyền hình Brazil, năm nay 27 tuổi, đang cố giành giật lại mạng sống sau một ca giải phẩu thẩm mỹ ở bệnh viện Conceiaicao ở Porto Alegere. Có lúc các bác sĩ nghĩ rằng Andressa Urach đã qua đời. Tuy nhiên, hiện cô vẫn còn sống. Cô nói với tờ Daily Mail là cô tin đã từng vượt qua lằn ranh của cuộc sống và gặp gỡ Chúa.
Cô nói:
"Tôi biết rằng tôi đã rời khỏi cơ thể của tôi và đã chết. Tôi đã đến một chỗ hoang vắng, giống như một sa mạc, hoàn toàn im lặng. Đó là khi tôi biết rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của Ngài. Tôi biết tôi đang đứng trước ngày chung thẩm của mình. Cuộc sống của tôi lóe lên trước mắt tôi như một bộ phim. Tôi cảm thấy xấu hổ và biết tôi không xứng đáng được lên thiên đàng. Tôi cầu xin sự tha thứ và cầu xin Chúa cho tôi một cơ hội khác, và hứa sẽ hoán cải."
Andressa Urach nói cô không nghĩ là cô đủ sức chống lại trào lưu “nghiện” sửa sắc đẹp của phụ nữ ở Brazil nhưng cô sẽ chiến đấu chống lại não trạng này đến hơi thở cuối cùng.
Theo thống kê của Hội Giải Phẩu Thẩm Mỹ Hoa Kỳ, Brazil là nước đứng đầu thế giới về số ca thẩm mỹ trong năm 2013 với 1,491, 721 ca. Hoa Kỳ đứng thứ hai với 1,452, 356 ca.
Siêu người mẫu Andressa Urach |
Tài liệu có đoạn viết "phẫu thuật thẩm mỹ giống như một Burqa làm bằng thịt." Burqa là áo choàng truyền thống mà phụ nữ Hồi giáo thường mặc nơi công cộng.
Tài liệu cảnh báo chống lại những phẫu thuật thẩm mỹ nói "phẫu thuật thẩm mỹ không xuất phát từ nhu cầu cần được điều trị y khoa có thể là một tấn kích đối với bản sắc nữ tính. Nó cho thấy một sự từ chối cơ thể đến mức phủ nhận những 'hương vị' lẽ ra phải được tôn trọng trong cuộc sống".
Những chỉ trích về phẫu thuật thẩm mỹ tự chọn là một phần trong một phân tích rộng hơn về những thách thức mà người phụ nữ hiện đại phải đối diện trong Giáo Hội và xã hội.
Tờ Christian Post ghi nhận rằng tài liệu về phẫu thuật thẩm mỹ của Tòa Thánh được đưa ra trùng hợp với tuyên bố của siêu người mẫu Andressa Urach của Brazil, người đã quả quyết là sửa sắc đẹp là một tội lỗi.
Siêu người mẫu Andressa Urach, xướng ngôn viên của nhiều chương trình truyền hình Brazil, năm nay 27 tuổi, đang cố giành giật lại mạng sống sau một ca giải phẩu thẩm mỹ ở bệnh viện Conceiaicao ở Porto Alegere. Có lúc các bác sĩ nghĩ rằng Andressa Urach đã qua đời. Tuy nhiên, hiện cô vẫn còn sống. Cô nói với tờ Daily Mail là cô tin đã từng vượt qua lằn ranh của cuộc sống và gặp gỡ Chúa.
Cô nói:
"Tôi biết rằng tôi đã rời khỏi cơ thể của tôi và đã chết. Tôi đã đến một chỗ hoang vắng, giống như một sa mạc, hoàn toàn im lặng. Đó là khi tôi biết rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của Ngài. Tôi biết tôi đang đứng trước ngày chung thẩm của mình. Cuộc sống của tôi lóe lên trước mắt tôi như một bộ phim. Tôi cảm thấy xấu hổ và biết tôi không xứng đáng được lên thiên đàng. Tôi cầu xin sự tha thứ và cầu xin Chúa cho tôi một cơ hội khác, và hứa sẽ hoán cải."
Andressa Urach nói cô không nghĩ là cô đủ sức chống lại trào lưu “nghiện” sửa sắc đẹp của phụ nữ ở Brazil nhưng cô sẽ chiến đấu chống lại não trạng này đến hơi thở cuối cùng.
Theo thống kê của Hội Giải Phẩu Thẩm Mỹ Hoa Kỳ, Brazil là nước đứng đầu thế giới về số ca thẩm mỹ trong năm 2013 với 1,491, 721 ca. Hoa Kỳ đứng thứ hai với 1,452, 356 ca.
Vatican sẽ cung cấp cho người vô gia cư ở Rôma chỗ cắt tóc và cạo râu miễn phí
Đặng Tự Do
19:43 30/01/2015
Vatican sẽ cung cấp cho người vô gia cư ở Rôma không chỉ các phòng tắm mà thôi nhưng còn cả chỗ cắt tóc và cạo râu khi cơ sở mới được khánh thành vào tháng Hai, người đứng đầu văn phòng bác ái của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cho biết như trên.
Năm ngoái, Tòa Thánh công bố sẽ cung cấp các phòng tắm vòi sen ở quảng trường Thánh Phêrô cho những người vô gia cư. Tờ Avvenire, tức là Tương Lai, hôm thứ Năm 29 tháng Giêng trích thuật lời Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski cho biết Vatican cũng sẽ cung cấp chỗ cắt tóc và cạo râu bắt đầu từ ngày 16 tháng 2 tại một khu vực dưới hàng cột của quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski, với chức danh chính thức là Quan Phát Chẩn của Đức Giáo Hoàng, cho biết nhiều thợ hớt tóc tại kinh thành Rôma đã tình nguyện cắt tóc và cạo râu miễn phí cho người vô gia cư vào thứ Hai hàng tuần, là ngày mà các cửa hàng của họ theo thói quen sẽ đóng cửa.
Tờ báo cho biết những người thợ hớt tóc tại kinh thành Rôma tốt lành này đã tặng ghế, dụng cụ cắt tóc và gương.
Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski đã đưa ra ý tưởng xây dựng nhà tắm tại Quảng trường Thánh Phêrô vào năm ngoái sau khi ngài mời một người vô gia cư đi ăn với ngài nhưng người này từ chối và nói rằng người ông rất hôi vì không tìm được chỗ tắm rửa.
Đề nghị của Đức Tổng Giám mục đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của Đức Thánh Cha với các dự án vòi sen và sau đó mở rộng thêm việc cắt tóc và cạo râu.
Năm ngoái, Tòa Thánh công bố sẽ cung cấp các phòng tắm vòi sen ở quảng trường Thánh Phêrô cho những người vô gia cư. Tờ Avvenire, tức là Tương Lai, hôm thứ Năm 29 tháng Giêng trích thuật lời Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski cho biết Vatican cũng sẽ cung cấp chỗ cắt tóc và cạo râu bắt đầu từ ngày 16 tháng 2 tại một khu vực dưới hàng cột của quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski, với chức danh chính thức là Quan Phát Chẩn của Đức Giáo Hoàng, cho biết nhiều thợ hớt tóc tại kinh thành Rôma đã tình nguyện cắt tóc và cạo râu miễn phí cho người vô gia cư vào thứ Hai hàng tuần, là ngày mà các cửa hàng của họ theo thói quen sẽ đóng cửa.
Tờ báo cho biết những người thợ hớt tóc tại kinh thành Rôma tốt lành này đã tặng ghế, dụng cụ cắt tóc và gương.
Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski đã đưa ra ý tưởng xây dựng nhà tắm tại Quảng trường Thánh Phêrô vào năm ngoái sau khi ngài mời một người vô gia cư đi ăn với ngài nhưng người này từ chối và nói rằng người ông rất hôi vì không tìm được chỗ tắm rửa.
Đề nghị của Đức Tổng Giám mục đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của Đức Thánh Cha với các dự án vòi sen và sau đó mở rộng thêm việc cắt tóc và cạo râu.
Mở án phong chân phước cho chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare
Đặng Tự Do
20:03 30/01/2015
Tiến trình điều tra để phong Chân Phước cho chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare, tức là Tổ Ấm, đã được bắt đầu ở cấp giáo phận vào hôm thứ Ba 27 tháng Giêng dưới hình thức một buổi kinh chiều tại nhà thờ chính tòa Frascati, gần Rôma.
Chị Chiara Lubich đã được sinh ra ở Trento, miền Bắc nước Ý. Chị đã thành lập Phong trào Quốc tế Focolare, mà đặc sủng là thúc đẩy hòa bình và sự hiệp nhất của tất cả mọi người, ở Frascati.
Trong một thông điệp gởi đến những người tham dự buổi lễ, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh nói Đức Giáo Hoàng Phanxicô hy vọng rằng gương sáng của chị Chiara Lubich sẽ truyền cảm hứng cho "sự canh tân lòng trung thành với Chúa Kitô và lòng quảng đại phục vụ cho sự hiệp nhất của Giáo Hội" giữa những người đã noi theo di sản tinh thần quý giá của cô.
Đức Hồng Y Parolin nói Đức Giáo Hoàng cũng mong mỏi cuộc đời và các tác phẩm của chị Chiara Lubich sẽ được các tín hữu trên toàn thế giới biết đến nhiều hơn.
Chị Chiara Lubich (tên rửa tội là Silvia) sinh tại thành phố Trentô, miền Bắc Italia, vào năm 1920. Năm 1943, giữa thời thế chiến thứ hai, cùng với vài người bạn, Chị Chiara Lubich đã bắt đầu sống thực hành giáo huấn phúc âm trong cảnh sống hằng ngày. Nhóm bạn sống phúc âm này quy tựu lại với nhau thành một cộng đoàn nhỏ, gọi là "Focolare", tức "Tổ Ấm", khai sinh một phong trào sống phúc âm giữa đời, mà hiện nay được biết đến với tên gọi "Phong Trào Tổ Ấm", có mặt tại 182 quốc gia, thuộc khắp năm châu, với khoảng 4 triệu thành viên. Ðiều đặc biệt là trong số thành viên của Phong Trào "Tổ Ấm", có cả những thành viên kitô, nhưng không phải là Công Giáo, đến từ 350 Giáo Hội kitô, hoặc cộng đồng Giáo Hội kitô khác nhau. Và có cả những anh chị em hồi giáo, do thái giáo, phật giáo, ấn độ giáo, lão giáo, vân vân,... đến sinh hoạt trong phong trào. Như thế, với dòng thời gian, từ một "tổ ấm" nhỏ sống tinh thần phúc âm, một phong trào lớn được khai sinh, dựa trên tinh thần tu đức hiệp thông, quy tụ những con người thuộc mọi lứa tuổi, chủng tộc, văn hoá, ngôn ngữ, ngành nghề, hoàn cảnh xã hội. Ðó là những con người dấn thân trở thành "men tình yêu thương", nhắm xây dựng một thế giới liên đới hơn, hiệp nhất hơn.
Nhìn chung, trong hơn 60 năm sinh hoạt, Phong Trào Tổ Ấm do chị Chiara Lubich sáng lập và làm chủ tịch, đã gợi hứng và khai sinh biết bao sáng kiến cụ thể, cho người lớn, cũng như cho các bạn trẻ và cho cả những trẻ nhỏ nữa.
Dấn thân của Chị Chiara Lubich đã mang lại nhiều giải thưởng tôn vinh chính cá nhân của Chị: năm 1977, Chị được giải thưởng Templeton vì sự Tiến Bộ Tôn Giáo; năm 1996, giải thưởng của UNESCO vì sự nghiệp giáo dục cho Hoà Bình; năm 1998, giải thưởng Âu Châu về Nhân Quyền. Ðặc biệt, từ năm 1996 đến khi qua đời, chị Chiara Lubich, đã nhận được 9 Bằng Tiến Sĩ Danh Dự, từ các Ðại Học tại Âu Châu, Châu Mỹ La Tinh, Á Châu và Hoa Kỳ. Nhiều thành phố trên thế giới đã công nhận Chị là "Công Dân Danh Dự" của thành phố.
Chị Chiara Lubich là một giáo dân đơn sơ, nhưng có một uy quyền tinh thần rất cao. Ðược Ðức Gioan XXIII đón tiếp, được Ðức Phaolô VI lắng nghe, và được Ðức Gioan Phaolô II mộ mến, Chị Chiara Lubich đã tham dự hai Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới.
Chị Chiara Lubich đã được sinh ra ở Trento, miền Bắc nước Ý. Chị đã thành lập Phong trào Quốc tế Focolare, mà đặc sủng là thúc đẩy hòa bình và sự hiệp nhất của tất cả mọi người, ở Frascati.
Trong một thông điệp gởi đến những người tham dự buổi lễ, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh nói Đức Giáo Hoàng Phanxicô hy vọng rằng gương sáng của chị Chiara Lubich sẽ truyền cảm hứng cho "sự canh tân lòng trung thành với Chúa Kitô và lòng quảng đại phục vụ cho sự hiệp nhất của Giáo Hội" giữa những người đã noi theo di sản tinh thần quý giá của cô.
Đức Hồng Y Parolin nói Đức Giáo Hoàng cũng mong mỏi cuộc đời và các tác phẩm của chị Chiara Lubich sẽ được các tín hữu trên toàn thế giới biết đến nhiều hơn.
Chị Chiara Lubich (tên rửa tội là Silvia) sinh tại thành phố Trentô, miền Bắc Italia, vào năm 1920. Năm 1943, giữa thời thế chiến thứ hai, cùng với vài người bạn, Chị Chiara Lubich đã bắt đầu sống thực hành giáo huấn phúc âm trong cảnh sống hằng ngày. Nhóm bạn sống phúc âm này quy tựu lại với nhau thành một cộng đoàn nhỏ, gọi là "Focolare", tức "Tổ Ấm", khai sinh một phong trào sống phúc âm giữa đời, mà hiện nay được biết đến với tên gọi "Phong Trào Tổ Ấm", có mặt tại 182 quốc gia, thuộc khắp năm châu, với khoảng 4 triệu thành viên. Ðiều đặc biệt là trong số thành viên của Phong Trào "Tổ Ấm", có cả những thành viên kitô, nhưng không phải là Công Giáo, đến từ 350 Giáo Hội kitô, hoặc cộng đồng Giáo Hội kitô khác nhau. Và có cả những anh chị em hồi giáo, do thái giáo, phật giáo, ấn độ giáo, lão giáo, vân vân,... đến sinh hoạt trong phong trào. Như thế, với dòng thời gian, từ một "tổ ấm" nhỏ sống tinh thần phúc âm, một phong trào lớn được khai sinh, dựa trên tinh thần tu đức hiệp thông, quy tụ những con người thuộc mọi lứa tuổi, chủng tộc, văn hoá, ngôn ngữ, ngành nghề, hoàn cảnh xã hội. Ðó là những con người dấn thân trở thành "men tình yêu thương", nhắm xây dựng một thế giới liên đới hơn, hiệp nhất hơn.
Nhìn chung, trong hơn 60 năm sinh hoạt, Phong Trào Tổ Ấm do chị Chiara Lubich sáng lập và làm chủ tịch, đã gợi hứng và khai sinh biết bao sáng kiến cụ thể, cho người lớn, cũng như cho các bạn trẻ và cho cả những trẻ nhỏ nữa.
Dấn thân của Chị Chiara Lubich đã mang lại nhiều giải thưởng tôn vinh chính cá nhân của Chị: năm 1977, Chị được giải thưởng Templeton vì sự Tiến Bộ Tôn Giáo; năm 1996, giải thưởng của UNESCO vì sự nghiệp giáo dục cho Hoà Bình; năm 1998, giải thưởng Âu Châu về Nhân Quyền. Ðặc biệt, từ năm 1996 đến khi qua đời, chị Chiara Lubich, đã nhận được 9 Bằng Tiến Sĩ Danh Dự, từ các Ðại Học tại Âu Châu, Châu Mỹ La Tinh, Á Châu và Hoa Kỳ. Nhiều thành phố trên thế giới đã công nhận Chị là "Công Dân Danh Dự" của thành phố.
Chị Chiara Lubich là một giáo dân đơn sơ, nhưng có một uy quyền tinh thần rất cao. Ðược Ðức Gioan XXIII đón tiếp, được Ðức Phaolô VI lắng nghe, và được Ðức Gioan Phaolô II mộ mến, Chị Chiara Lubich đã tham dự hai Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới.
Một Giám Mục, 3 linh mục, và gần 50 giáo dân bị cướp ở Venezuela
Đặng Tự Do
23:33 30/01/2015
"Chúng tôi không thể tiếp tục như thế này, tôi không nhìn thấy hành động cụ thể nào chống lại bạo lực", Đức Cha Mariano José Parra Sandoval, Giám mục giáo phận Ciudad Guyana, Venezuela đã viết thư cho chính phủ nước này như trên sau khi bị cướp, cùng với 50 người khác trong một cuộc họp giáo xứ vào ngày 27 tháng Giêng.
"Lúc 8:00 tối, khi bước gần đến hội trường của giáo xứ Virgen del Valle, ở Ciudad Guyana, tôi cảm thấy mọi thứ đều rất yên tĩnh xung quanh. Nhưng ngay khi tôi bước vào nhiều tiếng quát tháo bắt tôi phải nằm xuống sàn nhà". Vị giám mục cho báo chí địa phương biết như trên.
Ngài nói thêm: "Tôi đã nói chuyện với thống đốc tiểu bang là chúng ta không thể tiếp tục như thế này. Tiền được chi vào rất nhiều thứ, nhưng chính phủ chẳng dành chút nào cho chi phí bảo vệ an toàn cho các công dân".
Bản tin của thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc hôm 30 tháng Giêng tường thuật rằng cha chính xứ, và hai linh mục khác, coi sóc các giáo xứ lân cận đã cho biết rằng từ đầu năm 2015 đến nay đây là lần thứ năm kẻ cướp đã tấn Công Giáo xứ này. Đức Cha Sandoval đã bị cướp đi một điện thoại cầm tay và một laptop.
Ngài nói thêm: “Chúng ta không thể đóng cửa nhà thờ vì mất an ninh. Chúng ta cần dạy người trẻ sống không bạo lực. Nhưng một điều chắc chắn, là hiện nay chúng ta không sống an toàn trong xã hội Venezuela.".
Tuyệt vọng và thiếu an ninh tại các thành phố của Venezuela đang đẩy các nhóm thanh niên tấn công người đi đường chỉ vì một vài đô la. Phạm pháp đô thị đã tăng lên và nhiều người tin rằng đó là hậu quả của tình hình kinh tế khủng khiếp mà đất nước đang trải qua.
"Lúc 8:00 tối, khi bước gần đến hội trường của giáo xứ Virgen del Valle, ở Ciudad Guyana, tôi cảm thấy mọi thứ đều rất yên tĩnh xung quanh. Nhưng ngay khi tôi bước vào nhiều tiếng quát tháo bắt tôi phải nằm xuống sàn nhà". Vị giám mục cho báo chí địa phương biết như trên.
Ngài nói thêm: "Tôi đã nói chuyện với thống đốc tiểu bang là chúng ta không thể tiếp tục như thế này. Tiền được chi vào rất nhiều thứ, nhưng chính phủ chẳng dành chút nào cho chi phí bảo vệ an toàn cho các công dân".
Bản tin của thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc hôm 30 tháng Giêng tường thuật rằng cha chính xứ, và hai linh mục khác, coi sóc các giáo xứ lân cận đã cho biết rằng từ đầu năm 2015 đến nay đây là lần thứ năm kẻ cướp đã tấn Công Giáo xứ này. Đức Cha Sandoval đã bị cướp đi một điện thoại cầm tay và một laptop.
Ngài nói thêm: “Chúng ta không thể đóng cửa nhà thờ vì mất an ninh. Chúng ta cần dạy người trẻ sống không bạo lực. Nhưng một điều chắc chắn, là hiện nay chúng ta không sống an toàn trong xã hội Venezuela.".
Tuyệt vọng và thiếu an ninh tại các thành phố của Venezuela đang đẩy các nhóm thanh niên tấn công người đi đường chỉ vì một vài đô la. Phạm pháp đô thị đã tăng lên và nhiều người tin rằng đó là hậu quả của tình hình kinh tế khủng khiếp mà đất nước đang trải qua.
Một linh mục Dòng Cát Minh sẽ giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho ĐGH Phanxicô và Giáo triều Rôma
Nguyễn Việt Nam
23:10 30/01/2015
Cha Bruno Secondin, một linh mục Dòng Cát Minh đang giảng dạy tại Đại học Giáo hoàng Gregoriô ở Rôma, sẽ giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các thành viên của Giáo triều Rôma.
Tuần tĩnh tâm tập trung vào tiên tri Ê-lia, sẽ diễn ra từ ngày 22 đến 27 Tháng Hai, tức là Tuần Thứ Nhất Mùa Chay, tại một nhà tĩnh tâm ở Ariccia, một thành phố nhỏ gần ngoại ô Rôma. Đây là nhà tĩnh tâm của các cha dòng Thánh Phaolô. Năm ngoái, tuần tĩnh tâm Mùa Chay cũng đã diễn ra tại đây từ 9 đến 14 tháng Ba. Vị thuyết giảng trong dịp này là Đức Ông Angelo De Donatis, một cha sở của giáo phận Rôma.
Truyền thống Đức Giáo Hoàng và giáo triều Rôma tham dự tuần tĩnh tâm đã có từ năm 1925. Trong 39 năm sau đó, các tuần tĩnh tâm này chỉ diễn ra vào Mùa Vọng. Đến năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục mới đề ra Tuần tĩnh tâm Mùa Chay và cũng mở rộng danh sách các vị thuyết giảng. Cho đến lúc đó, các vị giảng thuyết đều là các cha dòng Tên.
Thông thường, tuần tĩnh tâm của giáo triều Rôma được tổ chức tại nhà nguyện Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc - trong dinh Tông Tòa của Tòa Thánh. Năm ngoái, trước khi thôi giữ chức Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone đã thông báo ý định của Đức Thánh Cha muốn tổ chức tĩnh tâm bên ngoài Vatican.
Tuần tĩnh tâm tập trung vào tiên tri Ê-lia, sẽ diễn ra từ ngày 22 đến 27 Tháng Hai, tức là Tuần Thứ Nhất Mùa Chay, tại một nhà tĩnh tâm ở Ariccia, một thành phố nhỏ gần ngoại ô Rôma. Đây là nhà tĩnh tâm của các cha dòng Thánh Phaolô. Năm ngoái, tuần tĩnh tâm Mùa Chay cũng đã diễn ra tại đây từ 9 đến 14 tháng Ba. Vị thuyết giảng trong dịp này là Đức Ông Angelo De Donatis, một cha sở của giáo phận Rôma.
Truyền thống Đức Giáo Hoàng và giáo triều Rôma tham dự tuần tĩnh tâm đã có từ năm 1925. Trong 39 năm sau đó, các tuần tĩnh tâm này chỉ diễn ra vào Mùa Vọng. Đến năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục mới đề ra Tuần tĩnh tâm Mùa Chay và cũng mở rộng danh sách các vị thuyết giảng. Cho đến lúc đó, các vị giảng thuyết đều là các cha dòng Tên.
Thông thường, tuần tĩnh tâm của giáo triều Rôma được tổ chức tại nhà nguyện Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc - trong dinh Tông Tòa của Tòa Thánh. Năm ngoái, trước khi thôi giữ chức Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone đã thông báo ý định của Đức Thánh Cha muốn tổ chức tĩnh tâm bên ngoài Vatican.
Top Stories
Pope Francis: spirit of fraternity with Oriental Orthodox
VIS
09:37 30/01/2015
(Vatican 2015-01-30) Pope Francis on Friday received the participants in a meeting -this week - of the Joint International Commission for Theological Dialogue between the Catholic Church and the Oriental Orthodox Churches.
The Oriental Orthodox Churches those Orthodox Eastern Christian churches which recognize only the first three ecumenical councils, and rejected the formulae of the Council of Chalcedon, at which certain central Christological doctrines were dogmatically defined, most especially the dual nature – fully divine and fully human, perfectly united though without mixing, blending or alteration – of Christ.
In remarks prepared for the occasion and delivered during the noon audience in the Apostolic Palace at the Vatican, Pope Francis praised the progress of the Commission in its dozen years of work, and called on all participants to continue their journey in a spirit of brotherhood. “I express my hope that this work will bear rich fruit for our common theological research and help us to experience ever more fully our fraternal friendship,” the Holy Father said.
Pope Francis went on to note, with, “dismay and deep sadness,” the ongoing conflicts and crises in the Middle East, especially in Iraq and Syria. “I join you,” he said, “in praying for a negotiated solution and in imploring God’s goodness and mercy upon all those affected by this immense tragedy.” The Holy Father continued, saying, “All Christians are called to work together, in mutual acceptance and trust, in order to serve the cause of peace and justice. May the intercession and example of the many martyrs and saints who have borne courageous witness to Christ in all our Churches sustain and strengthen you and your Christian communities.”
Pope Francis concluded his remarks by thanking the participants for their visit, invoking the Lord’s blessings and the maternal protection of Mary on their ministry, and asking in turn for their continued prayers for him.
The Oriental Orthodox Churches those Orthodox Eastern Christian churches which recognize only the first three ecumenical councils, and rejected the formulae of the Council of Chalcedon, at which certain central Christological doctrines were dogmatically defined, most especially the dual nature – fully divine and fully human, perfectly united though without mixing, blending or alteration – of Christ.
In remarks prepared for the occasion and delivered during the noon audience in the Apostolic Palace at the Vatican, Pope Francis praised the progress of the Commission in its dozen years of work, and called on all participants to continue their journey in a spirit of brotherhood. “I express my hope that this work will bear rich fruit for our common theological research and help us to experience ever more fully our fraternal friendship,” the Holy Father said.
Pope Francis went on to note, with, “dismay and deep sadness,” the ongoing conflicts and crises in the Middle East, especially in Iraq and Syria. “I join you,” he said, “in praying for a negotiated solution and in imploring God’s goodness and mercy upon all those affected by this immense tragedy.” The Holy Father continued, saying, “All Christians are called to work together, in mutual acceptance and trust, in order to serve the cause of peace and justice. May the intercession and example of the many martyrs and saints who have borne courageous witness to Christ in all our Churches sustain and strengthen you and your Christian communities.”
Pope Francis concluded his remarks by thanking the participants for their visit, invoking the Lord’s blessings and the maternal protection of Mary on their ministry, and asking in turn for their continued prayers for him.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đảng trường tồn cho ai, vì ai ?
Phạm Trần
11:03 30/01/2015
ĐẢNG TRƯỜNG TỒN CHO AI, VÌ AI ?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và bộ máy lý luận-tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam đang ráo riết biện giải tại sao đảng phải trường tồn để độc quyền cai trị, nhưng lại không sao giải thích được vì đâu mà dân không còn tin vào đảng nữa trong khi cán bộ, đảng viên thì cứ nối đuôi nhau “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
Hiện tượng này chưa bao giờ xẩy ra trước các Đại hội đảng 5 năm một lần, nhưng đã nổi lên vào dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đảng (03/02/1930 - 03/02/2015) và trước Đại hội thứ XII dự trù khai mạc vào tháng 1/2016.
Có 6 lý do khiến Lãnh đạo đảng phải ra quân:
Trước tiên, sau quyết định không công bố kết qủa phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư tại Hội nghị Trung ương 10 (từ 05 – 12/01/2015) như đảng hứa “sẽ công khai” thì Lãnh đạo tự tròng thêm vào cổ sợi giây thòng lọng thất hứa khiến uy tín đảng xuống sâu thêm một nấc dưới đáy lòng dân.
Thứ nhì, sau 3 năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” phổ biến ngày 18/01/2012, đảng vẫn còn vật lộn với “các tệ nạn tham nhũng,lãng phí” trong hệ thống cai trị.
Thứ ba, sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà đảng đã bắt đầu từ ngày 03-02-2007, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn coi việc “rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” không quan trọng bằng việc “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Thứ bốn, đòi hỏi đảng phải trả quyền tự quyết cho dân đã lên cao và lan rộng trong nhiều tầng lớp từ thành phố về nông thôn.
Thứ năm, làn sóng phẫn nộ của dân về thái độ đảng yếu mềm trước hành động lấn chiếm biển đảo Việt Nam của Trung Cộng ở Biển Đông không còn hạn chế ở Trí thức mà đã biến thành căm thù người Trung Quốc trong tâm khảm trẻ em và người dân lao động.
Thứ sáu, chủ trương quốc phòng không dựa vào nước lớn để bảo vệ Tổ quốc trước tham vọng bành trướng và đe dọa sự vẹn tòan độc lập, chủ quyền lãnh thổ ngày càng rõ rệt của Trung Quốc đã bị trí thức phê bình không thực tế và “quân tử viển vông” để được ngủ yên trong “qũy đạo Bắc Kinh” có hại cho nước.
CÀNG LÀM CÀNG HỎNG
Để đối phó với những vấn đề nêu trên, ông Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng chỉ biết chống đỡ bằng lời kêu gọi, chỉ thị đảng viên làm tốt hơn để chuẩn bị nhân sự cho khóa đảng XII.
Nhưng tại sao căn bệnh trầm kha của “quốc nạn tham nhũng”, nguyên nhân làm cho đảng viên suy thoái tư tưởng, mất đạo đức vẫn tiếp tục gây nhức nhối cho đảng và khổ cho dân 3 năm sau Hội nghị Trung ương 4 ?
Ông Trọng trả lời : “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được triển khai khá đồng bộ và đã có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn, phức tạp liên quan đến lợi ích, đụng chạm đến những người có chức, có quyền, đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ, quyết liệt, không thể nóng vội.” (trích phỏng vấn của TTXVN, 25/01/2015)
Nhưng đảng muốn dân phải “kiên trì, bền bỉ” bao nhiêu năm nữa thì mới thấy ánh sáng ở cuối đường hầm, hay là ông muốn nói thế để “câu giờ” cho dân chờ sung rụng ?
Bởi lẽ từ em bé 5 tuổi cũng biết ông Trọng đã nói như thế nhiều lần rồi. Dân nghe mãi cũng nhàm tai huống chi đảng viên thấp cổ bé miệng cấp thừa hành chỉ biết nuốt nước bọt trước cơ ngơi, tiền bạc của các cấp có chức, có quyền ?
Khi Nghị quyềt 4 ra đời, nhiều cựu Lãnh đạo và người dân đã ca tụng ông Trọng có quyết tâm làm sạch đảng để lấy lại niềm tin trong dân, nhưng rồi mọi người lại phải nghe ông lâp đi lập lại lời hứa : “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần được tiếp tục đẩy mạnh, không phải bằng lời nói, hô hào chung chung, mà phải bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Đó là phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng, một cơ chế trừng trị, răn đe để không dám tham nhũng và một cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng. Đồng thời, phải tăng cường biện pháp tuyên truyền giáo dục để nâng cao đạo đức, xây dựng liêm chính, giáo dục tinh thần biết trọng liêm sỉ, danh dự; mở rộng phạm vi tham gia của công chúng và phát huy vai trò của báo chí, công luận trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Khi đã xảy ra tham nhũng thì phải xử lý kiên quyết, xử lý thật nghiêm, đúng quy định của luật pháp, không có vùng cấm, không có ngoại lệ...” (theo TTXVN, 25/01/2015)
Nhưng đảng đã có đủ mọi “cơ chế” để phòng ngừa, trừng phạt và giáo dục cán bộ, đảng viên từ trước khi có Nghị quyết 4. Đảng cũng đã có Mặt trận Tổ quốc thay mặt dân làm công tác giám sát và khuyến khích báo chí tiếp tay cho chính quyền chống tham nhũng, nhưng chưa bao giờ Mặt trận Tổ quốc làm tròn nhiệm vụ giám sát, ngược lại đã tiếp tay đồng lõa để cho đảng che giấu những kẻ có lỗi.
Bằng chứng cụ thể như việc kê khai tài sản của các ứng cử viên Quốc hội được đảng cơ cấu và Mặt trận đồng ý tuyển chọn sau các cuộc được gọi là “hiệp thương” đã không bao giờ được công bố cho dân biết mà chỉ cất vào hộc tủ đảng bộ cơ sở.
Báo chí cũng bị ngăn cấm không được loan tin, nếu chưa được xác minh bởi cơ quan điều tra thì đó là hành động kiểm duyệt và vi phạm quyền tự do thông tin của người làm báo.
Ngay đến vai trò giám sát của Quốc hội cũng bị hạn chế đến độ chưa bao giờ có một Đại biểu dám đòi Quốc hội điều tra hay đích thân “thăm dân cho biết sự tình” về một vụ tham nhũng được bàn luận trong dân thì làm sao chống được tham nhũng ?
Trong cuộc phỏng vấn đánh dấu 85 năm có đảng, ông Trọng nhìn nhận : “ Sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống chính là một trong những nguyên nhân của tình trạng gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.”
Nhưng tại sao phẩm chất và đạo đức của người Cộng sản Việt Nam ngày một suy đồi ?
Bởi vì, theo báo cáo của ông Ngô Văn Dụ, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra thì : “ Tình hình vi phạm kỷ luật Đảng trong thời gian qua còn tiếp tục diễn biến phức tạp, tỷ lệ đảng viên bị kỷ luật là cấp ủy viên các cấp còn cao (30,7%) cho thấy việc tu dưỡng, rèn luyện và chấp hành kỷ luật đảng của một số đảng viên có chức vụ còn nhiều hạn chế, kỷ luật do vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ đảng viên có vi phạm bị khai trừ chiếm 12%, bị phạt tù chiếm 1,4% so với số bị thi hành kỷ luật cho thấy tình hình vi phạm trong Đảng thời gian qua vẫn còn nghiêm trọng, chưa được kiềm chế. Một số trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm thời gian so với quy định, tỷ lệ thay đổi hình thức kỷ luật qua giải quyết khiếu nại, tố cáo còn cao…” (Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm 2015 tại Hà Nội, ngày 27/01/2015)
Như vậy thì lỗi tại ai mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn hô suông: “Trong đấu tranh cách mạng, lưỡi lê, họng súng của quân thù đã không lung lạc được tinh thần, nhuệ khí của người cộng sản. Ngày nay, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên càng phải giữ vững và phát huy phẩm chất, đạo đức cách mạng của người cộng sản. Đảng ta đã xác định : Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó yếu tố con người là quyết định, công tác cán bộ là then chốt của then chốt. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu đi đầu, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, có hiệu quả cụ thể thì dân mới tin; cán bộ có tốt, tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, mới có thể thành công được.”
Qúa hay. Nghe ông Trọng nói mà lỗ tai cũng phải reo lên, nhưng có lẽ ông Trọng không được nghe Giáo sư Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu tại Cuộc tọa đàm trực tuyến ngày 22/01 (2015) do báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức với đề tài “Mãi mãi niềm tin theo Đảng”.
Ông Bảo nói: “ Theo tôi, bây giờ, nhất là khi Đảng ta đang nhấn mạnh đến đạo đức, lối sống trong Đảng, thì phải có bổ trợ như thế nào trong giải pháp cán bộ mới khắc phục tình hình nan giải hiện nay - người đông mà việc không chạy, người xứng đáng làm việc thì không có việc mà phải ngồi chờ, còn người không nên để trong bộ máy nữa mà chúng ta không biết xử lý như thế nào. Đó chính là khâu cải cách tư pháp, cải cách hành chính nói riêng và cải cách nhà nước phải tính đến trong thời gian tới. Đó cũng là hướng tư duy của Đảng ta trong khâu giải quyết mắt xích tổ chức cán bộ như một đột phá trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.”
Đằng sau lời nói của Giáo sư Hòang Chí Bảo là hình ảnh của tham nhũng, của tình trạng chạy chức chạy quyền, của tệ nạn “con ông cháu cha” được quy họach bởi các nhóm lợi ích trong đảng.
Vì vậy, ông Bảo mới cáo giác rằng : “ Hiện nay chúng ta đang đứng trước một tình huống rất nhức nhối: Chưa bao giờ những người có học lại thất nghiệp nhiều như bây giờ. 170.000 cử nhân, thạc sĩ, có cả Tiến sĩ cũng thất nghiệp; cá biệt có Tiến sĩ ở nước ngoài về thi tuyển một công việc bình thường cũng bị trượt.
Ở đây có những lắt léo, bất minh trong vấn đề dùng người, mà nếu nhìn vào sự thật thì ta thấy đây là một sự bất công xã hội. Có lẽ phải dùng đến một hệ thống đồng bộ các giải pháp, từ giáo dục đào tạo, đặc biệt là siết chặt kỷ cương, quy chế, chế tài và phải đổi mới thể chế dùng người, chính sách dùng người thì chúng ta mới đáp ứng được yêu cầu này.”
Vậy Nghị quyết 4 thành công hay thất bại mà cho đến ngày 16/01 (2015), ông Nguyễn Phú Trọng vẫn còn lập lại lời ông nói năm 2013 rằng : “Cán bộ làm công tác chống tham nhũng mà tay đã nhúng chàm thì không thể chống được tham nhũng”.
Câu trả lời là, tuy đã có khỏang 50,000 trên tổng số 4 triệu đảng viên bị khai trừ, kỷ luật, trừng phạt sau 3 năm thi hành Nghị quyết 4 nhưng con số` “một bộ phận không nhỏ” tiếp tục suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vẫn còn nhan nhản trong xã hội.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi nghe ông Nguyễn Đức Hà, Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương, thành viên Tổ giúp việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã nói tại cuộc Tọa đàm ngày 22/01/2015 : “ Mặc dù chúng ta đã tiến hành nhiều cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhiều lần Trung ương đã có nghị quyết, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu như mong muốn.”
Ông Hà nói tiếp : “ Bên cạnh mặt tích cực, cũng thấy rằng trong Đảng hiện nay, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn khá nặng nên nhiều khi kiểm điểm nhưng mới nói ưu điểm nhiều, khuyết điểm thì nói ít hoặc không dám nói, hoặc thể hiện ở mức độ nhẹ nhàng… Bên cạnh đó, tính hình thức, bệnh thành tích còn đang khá nặng ở tất cả các cấp, một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc về vấn đề này, nên trong tự phê bình và phê bình vẫn còn nể nang, né tránh, hình thức và thậm chí còn ca ngợi lẫn nhau. Những điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả việc thực hiện Nghị quyết.”
AI PHÊ BÌNH AI ?
Ngòai việc phòng, chống tham nhũng mà đảng cứ nói hoài câu “vẫn còn nghiêm trọng”, dù đã có Luật từ năm 2005 và Ban Chỉ đạo Trung ương từng do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu rồi lại chuyển sang cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp điều hành từ Ngày 01-02-2013, Nghị quyết 4 còn tập trung vào công tác “tự phê bình và phê bình” để cán bộ tự chữa mình.
Tuy nhiên ông Nguyễn Đức Hà đã không ngần ngại nói công khai: “Có thể nói, việc tự phê bình và phê bình của các tập thể và cá nhân thì vẫn còn tình trạng nói ưu điểm nhiều, nói khuyết điểm ít, hoặc nếu có nói về khuyết điểm thì cũng cố gắng né tránh một số từ có tính nhạy cảm, rồi cứ loanh quanh nói khuyết điểm nhưng có khi đây lại là một sự mong muốn. Không phải không có chuyện mượn tự phê bình và phê bình để ca ngợi, để động viên, khen ngợi, thậm chí không phải không có ý kiến có tính chất nịnh nọt trong đó. Tôi cũng từng được nghe những chuyện phê bình lãnh đạo, phê bình người khác nhưng đó lại là sự “phê bình khen ngợi” thì không đúng. Và việc này tôi cũng phải nói thật là ở cấp nào cũng có, từ Trung ương đến các địa phương. Có lẽ chỉ có việc tự phê bình và phê bình tập thể và cá nhân của các đồng chí Bộ Chính trị và Ban Bí thư là thực sự nghiêm túc, thực sự là gương mẫu và đúng là một tấm gương để cho các cấp noi theo.”
Ông Hà nói thế nhưng khi Bộ Chính trị đề nghị Hội nghị Trung ương 6 kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì lại không thành công vì chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được Ban Chấp hành Trung ương cho phủi tay với câu nói nghe không lọt tai trong Diễn văn Bế mạc ngày 15/10/2012: “Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.”
Như vậy là đảng đã đẻ ra tình trạng “nể nang, né tránh, ngại va chạm” như câu trả lời sau đây của ông Nguyễn Đức Hà về công tác tự phê bình và phê bình cứ tan lõang theo cấp bậc:
“ Quá trình thực hiện xuống từng cấp đã phôi phai, nó cũng bay đi ít nhiều một chút và không còn nguyên vẹn đúng như tinh thần. Tôi thấy đây là cái phổ quát nhất, nếu bây giờ chúng ta cứ từng cơ quan, từng đơn vị, nếu đồng chí nào là cấp ủy, Bí thư Chi bộ, Bí thư Đảng ủy, Bí thư Huyện ủy cứ yêu cầu Ban Tổ chức cung cấp từng bản kiểm điểm cuối năm của mấy nghìn đảng viên của địa phương thì có lẽ hầu như bản kiểm điểm nào cũng đều có một khuyết điểm giống nhau là đôi khi còn nể nang, né tránh, ngại va chạm. Tôi cho đây là khuyết điểm lớn nhất mà có thể nói tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén nhất về xây dựng Đảng, nhưng chính cái sắc bén nhất thì chúng ta lại đang yếu.”
Vậy công tác cả nước “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, sau 8 năm mỏi mòn đã đi về đâu ?
Ông Nguyễn Đức Hà không ngại nói thẳng : “Không ít nơi vẫn còn hình thức, chỉ nói thôi chứ những hành động cụ thể chưa nhiều. Vì vậy, cần phải khắc phục cho được bệnh thành tích và tính hình thức. “
Trong nội hàm “hình thức” ai cũng thấy có chuyện phòng, chống tham nhũng lấy “vừa chống vừa xây” hay “răn đe là chính” làm phương châm hành động thì bao giờ dân mới hết bị cán bộ nhũng nhiễu ?
Nhưng liệu tính “hình thức” này có bị biến dạng để làm theo Trung Quốc như trong kế họach đào tạo cán bộ chiến lược cấp cao của đảng CSVN hay không ?
Theo lời ông Tô Huy Rứa - ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, trưởng Ban Tổ chức trung ương tiết lộ ngày 27/01/2015 thì :” Qua làm việc với lãnh đạo các cấp của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc có chuẩn bị nhân sự cấp cao, nhưng không hoàn toàn như cách của Việt Nam là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược không những cho nhiệm kỳ này mà cho các nhiệm kỳ sau.”
Như vậy rõ ràng đảng CSVN đã học theo cách chọn cán bộ cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng chỉ khác ở điểm Trung Quốc chọn người cho từng nhiệm kỳ còn Việt Nam thì chọn cho nhiều nhiệm kỳ.
Do đó, ông Tô Huy Rưá mới khoe : “ Chúng ta đã làm thành công, cuối cùng trung ương, Bộ Chính trị đã quyết định danh sách 290 đồng chí trung ương cho các khóa sắp tới, đã quyết định được 22 đồng chí vào quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Và tới đây chúng ta sẽ tiếp tục giới thiệu, bổ sung theo đúng quy định, quy trình.” (theo báo Tuổi Trẻ, ngày 28/01/2015)
Ông Rứa tuyên bố tại hội nghị cán bộ, công chức của Ban Tổ chức trung ương tổng kết công tác năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015.
Làm như thế thì đảng CSVN bây giờ là chi nhánh của đảng Cộng sản Trung Quốc hay chỉ còn độc lập trên lý thuyết mà ông Nguyễn Phú Trọng còn nói với TTXVN ngày 25/01/2015 rằng ông chúc “Đảng ta, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, mãi mãi trường tồn” , nhưng cho ai và vì ai ? -/-
Phạm Trần
(01/015)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và bộ máy lý luận-tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam đang ráo riết biện giải tại sao đảng phải trường tồn để độc quyền cai trị, nhưng lại không sao giải thích được vì đâu mà dân không còn tin vào đảng nữa trong khi cán bộ, đảng viên thì cứ nối đuôi nhau “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
Hiện tượng này chưa bao giờ xẩy ra trước các Đại hội đảng 5 năm một lần, nhưng đã nổi lên vào dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đảng (03/02/1930 - 03/02/2015) và trước Đại hội thứ XII dự trù khai mạc vào tháng 1/2016.
Có 6 lý do khiến Lãnh đạo đảng phải ra quân:
Trước tiên, sau quyết định không công bố kết qủa phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị và Ban Bí thư tại Hội nghị Trung ương 10 (từ 05 – 12/01/2015) như đảng hứa “sẽ công khai” thì Lãnh đạo tự tròng thêm vào cổ sợi giây thòng lọng thất hứa khiến uy tín đảng xuống sâu thêm một nấc dưới đáy lòng dân.
Thứ nhì, sau 3 năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” phổ biến ngày 18/01/2012, đảng vẫn còn vật lộn với “các tệ nạn tham nhũng,lãng phí” trong hệ thống cai trị.
Thứ ba, sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà đảng đã bắt đầu từ ngày 03-02-2007, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn coi việc “rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” không quan trọng bằng việc “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Thứ bốn, đòi hỏi đảng phải trả quyền tự quyết cho dân đã lên cao và lan rộng trong nhiều tầng lớp từ thành phố về nông thôn.
Thứ năm, làn sóng phẫn nộ của dân về thái độ đảng yếu mềm trước hành động lấn chiếm biển đảo Việt Nam của Trung Cộng ở Biển Đông không còn hạn chế ở Trí thức mà đã biến thành căm thù người Trung Quốc trong tâm khảm trẻ em và người dân lao động.
Thứ sáu, chủ trương quốc phòng không dựa vào nước lớn để bảo vệ Tổ quốc trước tham vọng bành trướng và đe dọa sự vẹn tòan độc lập, chủ quyền lãnh thổ ngày càng rõ rệt của Trung Quốc đã bị trí thức phê bình không thực tế và “quân tử viển vông” để được ngủ yên trong “qũy đạo Bắc Kinh” có hại cho nước.
CÀNG LÀM CÀNG HỎNG
Để đối phó với những vấn đề nêu trên, ông Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng chỉ biết chống đỡ bằng lời kêu gọi, chỉ thị đảng viên làm tốt hơn để chuẩn bị nhân sự cho khóa đảng XII.
Nhưng tại sao căn bệnh trầm kha của “quốc nạn tham nhũng”, nguyên nhân làm cho đảng viên suy thoái tư tưởng, mất đạo đức vẫn tiếp tục gây nhức nhối cho đảng và khổ cho dân 3 năm sau Hội nghị Trung ương 4 ?
Ông Trọng trả lời : “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được triển khai khá đồng bộ và đã có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn, phức tạp liên quan đến lợi ích, đụng chạm đến những người có chức, có quyền, đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ, quyết liệt, không thể nóng vội.” (trích phỏng vấn của TTXVN, 25/01/2015)
Nhưng đảng muốn dân phải “kiên trì, bền bỉ” bao nhiêu năm nữa thì mới thấy ánh sáng ở cuối đường hầm, hay là ông muốn nói thế để “câu giờ” cho dân chờ sung rụng ?
Bởi lẽ từ em bé 5 tuổi cũng biết ông Trọng đã nói như thế nhiều lần rồi. Dân nghe mãi cũng nhàm tai huống chi đảng viên thấp cổ bé miệng cấp thừa hành chỉ biết nuốt nước bọt trước cơ ngơi, tiền bạc của các cấp có chức, có quyền ?
Khi Nghị quyềt 4 ra đời, nhiều cựu Lãnh đạo và người dân đã ca tụng ông Trọng có quyết tâm làm sạch đảng để lấy lại niềm tin trong dân, nhưng rồi mọi người lại phải nghe ông lâp đi lập lại lời hứa : “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần được tiếp tục đẩy mạnh, không phải bằng lời nói, hô hào chung chung, mà phải bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Đó là phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng, một cơ chế trừng trị, răn đe để không dám tham nhũng và một cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng. Đồng thời, phải tăng cường biện pháp tuyên truyền giáo dục để nâng cao đạo đức, xây dựng liêm chính, giáo dục tinh thần biết trọng liêm sỉ, danh dự; mở rộng phạm vi tham gia của công chúng và phát huy vai trò của báo chí, công luận trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Khi đã xảy ra tham nhũng thì phải xử lý kiên quyết, xử lý thật nghiêm, đúng quy định của luật pháp, không có vùng cấm, không có ngoại lệ...” (theo TTXVN, 25/01/2015)
Nhưng đảng đã có đủ mọi “cơ chế” để phòng ngừa, trừng phạt và giáo dục cán bộ, đảng viên từ trước khi có Nghị quyết 4. Đảng cũng đã có Mặt trận Tổ quốc thay mặt dân làm công tác giám sát và khuyến khích báo chí tiếp tay cho chính quyền chống tham nhũng, nhưng chưa bao giờ Mặt trận Tổ quốc làm tròn nhiệm vụ giám sát, ngược lại đã tiếp tay đồng lõa để cho đảng che giấu những kẻ có lỗi.
Bằng chứng cụ thể như việc kê khai tài sản của các ứng cử viên Quốc hội được đảng cơ cấu và Mặt trận đồng ý tuyển chọn sau các cuộc được gọi là “hiệp thương” đã không bao giờ được công bố cho dân biết mà chỉ cất vào hộc tủ đảng bộ cơ sở.
Báo chí cũng bị ngăn cấm không được loan tin, nếu chưa được xác minh bởi cơ quan điều tra thì đó là hành động kiểm duyệt và vi phạm quyền tự do thông tin của người làm báo.
Ngay đến vai trò giám sát của Quốc hội cũng bị hạn chế đến độ chưa bao giờ có một Đại biểu dám đòi Quốc hội điều tra hay đích thân “thăm dân cho biết sự tình” về một vụ tham nhũng được bàn luận trong dân thì làm sao chống được tham nhũng ?
Trong cuộc phỏng vấn đánh dấu 85 năm có đảng, ông Trọng nhìn nhận : “ Sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống chính là một trong những nguyên nhân của tình trạng gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.”
Nhưng tại sao phẩm chất và đạo đức của người Cộng sản Việt Nam ngày một suy đồi ?
Bởi vì, theo báo cáo của ông Ngô Văn Dụ, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra thì : “ Tình hình vi phạm kỷ luật Đảng trong thời gian qua còn tiếp tục diễn biến phức tạp, tỷ lệ đảng viên bị kỷ luật là cấp ủy viên các cấp còn cao (30,7%) cho thấy việc tu dưỡng, rèn luyện và chấp hành kỷ luật đảng của một số đảng viên có chức vụ còn nhiều hạn chế, kỷ luật do vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ đảng viên có vi phạm bị khai trừ chiếm 12%, bị phạt tù chiếm 1,4% so với số bị thi hành kỷ luật cho thấy tình hình vi phạm trong Đảng thời gian qua vẫn còn nghiêm trọng, chưa được kiềm chế. Một số trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm thời gian so với quy định, tỷ lệ thay đổi hình thức kỷ luật qua giải quyết khiếu nại, tố cáo còn cao…” (Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm 2015 tại Hà Nội, ngày 27/01/2015)
Như vậy thì lỗi tại ai mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn hô suông: “Trong đấu tranh cách mạng, lưỡi lê, họng súng của quân thù đã không lung lạc được tinh thần, nhuệ khí của người cộng sản. Ngày nay, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên càng phải giữ vững và phát huy phẩm chất, đạo đức cách mạng của người cộng sản. Đảng ta đã xác định : Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó yếu tố con người là quyết định, công tác cán bộ là then chốt của then chốt. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu đi đầu, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, có hiệu quả cụ thể thì dân mới tin; cán bộ có tốt, tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, mới có thể thành công được.”
Qúa hay. Nghe ông Trọng nói mà lỗ tai cũng phải reo lên, nhưng có lẽ ông Trọng không được nghe Giáo sư Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu tại Cuộc tọa đàm trực tuyến ngày 22/01 (2015) do báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức với đề tài “Mãi mãi niềm tin theo Đảng”.
Ông Bảo nói: “ Theo tôi, bây giờ, nhất là khi Đảng ta đang nhấn mạnh đến đạo đức, lối sống trong Đảng, thì phải có bổ trợ như thế nào trong giải pháp cán bộ mới khắc phục tình hình nan giải hiện nay - người đông mà việc không chạy, người xứng đáng làm việc thì không có việc mà phải ngồi chờ, còn người không nên để trong bộ máy nữa mà chúng ta không biết xử lý như thế nào. Đó chính là khâu cải cách tư pháp, cải cách hành chính nói riêng và cải cách nhà nước phải tính đến trong thời gian tới. Đó cũng là hướng tư duy của Đảng ta trong khâu giải quyết mắt xích tổ chức cán bộ như một đột phá trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.”
Đằng sau lời nói của Giáo sư Hòang Chí Bảo là hình ảnh của tham nhũng, của tình trạng chạy chức chạy quyền, của tệ nạn “con ông cháu cha” được quy họach bởi các nhóm lợi ích trong đảng.
Vì vậy, ông Bảo mới cáo giác rằng : “ Hiện nay chúng ta đang đứng trước một tình huống rất nhức nhối: Chưa bao giờ những người có học lại thất nghiệp nhiều như bây giờ. 170.000 cử nhân, thạc sĩ, có cả Tiến sĩ cũng thất nghiệp; cá biệt có Tiến sĩ ở nước ngoài về thi tuyển một công việc bình thường cũng bị trượt.
Ở đây có những lắt léo, bất minh trong vấn đề dùng người, mà nếu nhìn vào sự thật thì ta thấy đây là một sự bất công xã hội. Có lẽ phải dùng đến một hệ thống đồng bộ các giải pháp, từ giáo dục đào tạo, đặc biệt là siết chặt kỷ cương, quy chế, chế tài và phải đổi mới thể chế dùng người, chính sách dùng người thì chúng ta mới đáp ứng được yêu cầu này.”
Vậy Nghị quyết 4 thành công hay thất bại mà cho đến ngày 16/01 (2015), ông Nguyễn Phú Trọng vẫn còn lập lại lời ông nói năm 2013 rằng : “Cán bộ làm công tác chống tham nhũng mà tay đã nhúng chàm thì không thể chống được tham nhũng”.
Câu trả lời là, tuy đã có khỏang 50,000 trên tổng số 4 triệu đảng viên bị khai trừ, kỷ luật, trừng phạt sau 3 năm thi hành Nghị quyết 4 nhưng con số` “một bộ phận không nhỏ” tiếp tục suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vẫn còn nhan nhản trong xã hội.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi nghe ông Nguyễn Đức Hà, Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương, thành viên Tổ giúp việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã nói tại cuộc Tọa đàm ngày 22/01/2015 : “ Mặc dù chúng ta đã tiến hành nhiều cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhiều lần Trung ương đã có nghị quyết, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu như mong muốn.”
Ông Hà nói tiếp : “ Bên cạnh mặt tích cực, cũng thấy rằng trong Đảng hiện nay, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn khá nặng nên nhiều khi kiểm điểm nhưng mới nói ưu điểm nhiều, khuyết điểm thì nói ít hoặc không dám nói, hoặc thể hiện ở mức độ nhẹ nhàng… Bên cạnh đó, tính hình thức, bệnh thành tích còn đang khá nặng ở tất cả các cấp, một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc về vấn đề này, nên trong tự phê bình và phê bình vẫn còn nể nang, né tránh, hình thức và thậm chí còn ca ngợi lẫn nhau. Những điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả việc thực hiện Nghị quyết.”
AI PHÊ BÌNH AI ?
Ngòai việc phòng, chống tham nhũng mà đảng cứ nói hoài câu “vẫn còn nghiêm trọng”, dù đã có Luật từ năm 2005 và Ban Chỉ đạo Trung ương từng do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu rồi lại chuyển sang cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp điều hành từ Ngày 01-02-2013, Nghị quyết 4 còn tập trung vào công tác “tự phê bình và phê bình” để cán bộ tự chữa mình.
Tuy nhiên ông Nguyễn Đức Hà đã không ngần ngại nói công khai: “Có thể nói, việc tự phê bình và phê bình của các tập thể và cá nhân thì vẫn còn tình trạng nói ưu điểm nhiều, nói khuyết điểm ít, hoặc nếu có nói về khuyết điểm thì cũng cố gắng né tránh một số từ có tính nhạy cảm, rồi cứ loanh quanh nói khuyết điểm nhưng có khi đây lại là một sự mong muốn. Không phải không có chuyện mượn tự phê bình và phê bình để ca ngợi, để động viên, khen ngợi, thậm chí không phải không có ý kiến có tính chất nịnh nọt trong đó. Tôi cũng từng được nghe những chuyện phê bình lãnh đạo, phê bình người khác nhưng đó lại là sự “phê bình khen ngợi” thì không đúng. Và việc này tôi cũng phải nói thật là ở cấp nào cũng có, từ Trung ương đến các địa phương. Có lẽ chỉ có việc tự phê bình và phê bình tập thể và cá nhân của các đồng chí Bộ Chính trị và Ban Bí thư là thực sự nghiêm túc, thực sự là gương mẫu và đúng là một tấm gương để cho các cấp noi theo.”
Ông Hà nói thế nhưng khi Bộ Chính trị đề nghị Hội nghị Trung ương 6 kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì lại không thành công vì chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được Ban Chấp hành Trung ương cho phủi tay với câu nói nghe không lọt tai trong Diễn văn Bế mạc ngày 15/10/2012: “Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.”
Như vậy là đảng đã đẻ ra tình trạng “nể nang, né tránh, ngại va chạm” như câu trả lời sau đây của ông Nguyễn Đức Hà về công tác tự phê bình và phê bình cứ tan lõang theo cấp bậc:
“ Quá trình thực hiện xuống từng cấp đã phôi phai, nó cũng bay đi ít nhiều một chút và không còn nguyên vẹn đúng như tinh thần. Tôi thấy đây là cái phổ quát nhất, nếu bây giờ chúng ta cứ từng cơ quan, từng đơn vị, nếu đồng chí nào là cấp ủy, Bí thư Chi bộ, Bí thư Đảng ủy, Bí thư Huyện ủy cứ yêu cầu Ban Tổ chức cung cấp từng bản kiểm điểm cuối năm của mấy nghìn đảng viên của địa phương thì có lẽ hầu như bản kiểm điểm nào cũng đều có một khuyết điểm giống nhau là đôi khi còn nể nang, né tránh, ngại va chạm. Tôi cho đây là khuyết điểm lớn nhất mà có thể nói tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén nhất về xây dựng Đảng, nhưng chính cái sắc bén nhất thì chúng ta lại đang yếu.”
Vậy công tác cả nước “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, sau 8 năm mỏi mòn đã đi về đâu ?
Ông Nguyễn Đức Hà không ngại nói thẳng : “Không ít nơi vẫn còn hình thức, chỉ nói thôi chứ những hành động cụ thể chưa nhiều. Vì vậy, cần phải khắc phục cho được bệnh thành tích và tính hình thức. “
Trong nội hàm “hình thức” ai cũng thấy có chuyện phòng, chống tham nhũng lấy “vừa chống vừa xây” hay “răn đe là chính” làm phương châm hành động thì bao giờ dân mới hết bị cán bộ nhũng nhiễu ?
Nhưng liệu tính “hình thức” này có bị biến dạng để làm theo Trung Quốc như trong kế họach đào tạo cán bộ chiến lược cấp cao của đảng CSVN hay không ?
Theo lời ông Tô Huy Rứa - ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, trưởng Ban Tổ chức trung ương tiết lộ ngày 27/01/2015 thì :” Qua làm việc với lãnh đạo các cấp của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc có chuẩn bị nhân sự cấp cao, nhưng không hoàn toàn như cách của Việt Nam là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược không những cho nhiệm kỳ này mà cho các nhiệm kỳ sau.”
Như vậy rõ ràng đảng CSVN đã học theo cách chọn cán bộ cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng chỉ khác ở điểm Trung Quốc chọn người cho từng nhiệm kỳ còn Việt Nam thì chọn cho nhiều nhiệm kỳ.
Do đó, ông Tô Huy Rưá mới khoe : “ Chúng ta đã làm thành công, cuối cùng trung ương, Bộ Chính trị đã quyết định danh sách 290 đồng chí trung ương cho các khóa sắp tới, đã quyết định được 22 đồng chí vào quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Và tới đây chúng ta sẽ tiếp tục giới thiệu, bổ sung theo đúng quy định, quy trình.” (theo báo Tuổi Trẻ, ngày 28/01/2015)
Ông Rứa tuyên bố tại hội nghị cán bộ, công chức của Ban Tổ chức trung ương tổng kết công tác năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015.
Làm như thế thì đảng CSVN bây giờ là chi nhánh của đảng Cộng sản Trung Quốc hay chỉ còn độc lập trên lý thuyết mà ông Nguyễn Phú Trọng còn nói với TTXVN ngày 25/01/2015 rằng ông chúc “Đảng ta, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, mãi mãi trường tồn” , nhưng cho ai và vì ai ? -/-
Phạm Trần
(01/015)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thành Công Của Bé
Richard Drysdale
21:19 30/01/2015
Ảnh của Richard Drysdale
Tự tin là yếu tố chính của thành công:
Tin là mình có thể làm được
Tin là mình xứng đáng
Tin là mình sẽ đạt được !
The strongest factor for success
is self-esteem: Believing you can do
it, believing you deserve it,
believing you will get it !