Phụng Vụ - Mục Vụ
Đường quê
Lm Vũđình Tường
16:02 02/02/2010
Mt 7,12-14 cửa hẹp, đường hẹp dẫn đến sự sống.
Con đường dẫn về quê khác con đường quê. Đường dẫn về quê là con đường lớn, rộng thênh thang. Tách khỏi đường lớn vào ngõ rẽ dẫn về đường quê. Đường quê là con đường nhỏ, thơ mộng. Quang cảnh khác thường so với con đường rộng. Mọi hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt.
Trước tiên, không cần để ý cũng thấy ngay cành tre rũ ngang mặt. Toàn con đường rợp mát nhờ những cây tre uốn cong cầu vồng, che mát cho ngày nắng, tránh ướt cho ngày mưa. Dọc bên đê, lá cỏ xanh non, vươn dài che lấp lối đi. Chỗ ít người qua lại, người ta phải chậm chạp lần mò để khỏi lội trúng vũng nước lầy lội, hay tránh cành cây che lấp lối đi. Không khéo đạp ngay trúng bãi ‘mìn’chó mèo thả lúc đêm.
Thứ đến, cảnh cỏ, cây tranh sống diễn ra trước mắt. Lớp này mọc chồng trên lớp kia. Điều ngạc nhiên, các ngọn đều vươn cao ngày hưởng nắng, đêm tắm sương. Cạnh những bông hoa to lớn, chen lấn nhiều hoa li ti, nhỏ tí, dệt thành một tấm thảm cỏ thiên nhiên, nhuộm muôn mầu sắc tươi sáng. Không chừng gần đâu đó có con thằn lằn, hay rắn nằm ngủ; giật mình thấy bóng người nó sợ bò trốn, tim người đứng xem cũng đánh thình thình.
Không phải chỉ con mắt mới no thoả phong cảnh sắc nước, hương trời. Khó ai tránh khỏi mùi hương, thơm ngát thoát ra từ các bông, âm thầm mời gọi ong bướm, chuyển phấn hoa từ bông đực sang bông cái. Chính dịch vụ chuyên chở phấn giúp loài hoa tồn tại. Loài hoa trả công ong bướm bằng cách cho chúng hút mật hoa. Thức ăn tươi mát, thơm ngon, tinh khiết mà ong bướm ưa thích. Đôi khi có con ong đói, đau bệnh, lạc hướng đụng người, cả hai đột ngột né tránh nhau.
Xã hội nào cũng có kẻ xấu rình mò, vô tình thế nào cũng bị chúng lợi dụng. Cảnh đồng quê cũng không thoát khỏi luật trừ này. Trong lúc người ta đang thưởng thức, thả hồn vào bồng lai tiên cảnh thì chị muỗi đói. Gọi là chị muỗi đói rình mò, vì muỗi đực chay trường cả đời, sống nhờ hút nhựa cây, không hút máu người. Tuy vậy chàng cũng xúi bà xã, em coi kìa, của lạ, mấy người này từ tỉnh về quê, thấy cành cây, bông cỏ đứng ngó như trời trồng thế kia hẳn là dân lạ. Trong lúc người ta đang thưởng thức thì đâu đó chị muỗi cũng âm thầm đến xin tí huyết. Kẻ mất của nhiều khi không biết. Vài ngày sau thấy sưng đỏ âu. Cái giá trả cho tội ăn mặc hở hang. Chị muỗi vui mừng, nhờ bữa tiệc cao lương mĩ vị đó, giúp chị đủ chất dinh dưỡng cho lần mang bầu sắp tới.
Sinh hoạt quê
Dọc đường quê không thiếu hình ảnh quen thuộc. Trên đường đâu đâu cũng thấy một màu xanh của cỏ, màu tươi của hoa. Dưới ruộng chan hoà cảnh lúa xanh đùa trước gió. Tiếp tục đi sẽ thấy những ngôi nhà hiện ra, mái rạ thở khói, cảnh nấu cơm chiều. Người ta thấy vườn rau non. Dưới ao cá lên mói nước để lại vòng tròn xoáy loang dần, loang dần đến tận đám cỏ bờ ao. Hàng dậu ngăn gà phá rau làm bằng mía. Cây nào cũng tươi óng ả, lá vươn dài đong đưa vờn trước gió. Cao hơn là bụi chuối nặng cong cả thân vì trái chi chít. Trên sân có heo gà, dưới ao có vịt ngan, hưởng cảnh thanh bình, chung sống, chăm chỉ mò tôm, bắt cá.
Một vài nhà trước sân có hòn non bộ. Cành lá được xén, tỉa gọn gàng. Cảnh thanh bình bầy ra trước mắt, nhàn hạ và thảnh thơi. Cái nhàn thể hiện ngay cả trong bước chân. Nơi đây không có ai vội vã chạy đua với thời gian, nhanh leo xe bus về nhà sau giờ tan sở. Trái với dân tỉnh thành, ngồi xe chạy không kịp ngắm quang cảnh. Dân miền quê tà tà, thủng thẳng đi vừa ngó trời, vừa xem đất. Nhờ thảnh thơi và từ tốn mà mọi cảnh vật bày ra trước mắt dù quen thuộc người ta vẫn thấy cái đẹp, cái hay, cái mới. Thế mới biết thiên nhiên có sức quyến rũ vô cùng.
Đường quê trong ngày vắng bóng người đi lại. Mọi sinh hoạt dành cho việc ruộng, nương. Giờ cao điểm là sáng sớm và chiều tối. Mỗi ngày sáng tối luôn có nhiều hình ảnh đua giữa người và thời gian. Dù đua vẫn không vội vã. Trời chưa sáng tiếng chuông nhà thờ đổ dồn, kêu gọi Kitô hữu dậy, kẻ chuẩn bị đi lễ sáng, kẻ dâng ngày và lời tạ ơn. Cùng lúc đó học sinh mắt nhắm mắt mở tìm thức ăn, lấy sức cho ngày mới, đạp xe đi học. Mùa mưa vất vả hơn nhiều. Cuốc bộ là phương tiện di chuyển phổ thông nhất. Một lũ học trò vừa đi vừa trò chuyện ran đường. Ai mất ngủ mặc ai, ta cứ việc ồn ào. Chó cắn mặc chó, ta cứ hiên ngang vui chân bước đều. Sau đám học trò, đường quê đón nông dân cùng trâu bò bắt đầu ngày mới, công việc cũ còn đó phải cho xong trước khi bắt đầu việc mới. Dưới sông tiếng đò ghe gọi nhau ơi ới của người đi chợ bán rau, hoa trái, gà vịt. Đối với gà vịt, đường ra chợ là đường một chiều. Chúng ra đi lần đầu và cũng là lần cuối trong đời. Từ nay có chủ mới, có nhà mới. Đại đa số biết rõ định mệnh khi chủ đang đêm đến vỗ về, trói chân, bỏ lồng gánh đi.
Tình đường quê
Người xử dụng đường quê đối xử với nhau chân tình. Đường quê người ta chào hỏi nhau. Trên đường người ta nhường nhau, chia sẻ lối đi. Người ta chào hỏi. Lâu ngày không gặp còn đứng lại chia sẻ tâm tình, trao đổi vài mẩu chuyện nóng mới xảy ra trong xóm làng. Trên đường này tình cảm con người thật rõ nét, thân thương. Người đối xử tử tế với người, già yêu trẻ, trẻ kính trọng già. Phụ nữ, trai tráng trong làng, người nào cũng để lộ trên gương mặt một niềm tin vui, hạnh phúc dù cách ăn mặc của họ thể hiện vẻ đơn sơ, nghèo, cộng thêm vất vả, chân lấm tay bùn, mồ hôi đầy trán, thế mà nơi họ toát ra một niềm vui, niềm hạnh phúc yêu đời.
Trong cái hay cũng có cái phiền của nó. Học sinh nào dại dột không chào cụ già gặp trên đường, chậm nhất là vài ngày sau thầy giáo biết trò đó ra đường thiếu lễ phép. Cha mẹ em nghe tin con mình ra đường không thưa cũng chẳng chào. Chỉ một lần đủ giúp các em cẩn thận hơn khi học môn công dân, đức dục. Trong lớp luôn treo câu ‘tiên học lễ, hậu học văn’. Khi nhận những tin nóng sốt từ đường làng cha mẹ buồn năm phút nhưng yên tâm cả năm vì biết rõ một khi đứa nhỏ làm gì sai trái, ở đâu, ở nhà đều biết tin. Đời sống miền quê là như thế, mọi người có trách nhiệm với nhau, coi sóc cho nhau và bảo vệ lẫn nhau, cả đời sống với truyền thống tốt đẹp.
Con đường nhỏ người ta nhường nhịn, chia sẻ, chào hỏi và phải chịu thiệt thòi, phải từ tốn, phải kiêng nể, phải tự chế và mất đi rất nhiều tự do, bù lại người ta nhận được lòng cảm kích, tình thân thương và những nụ cười hồn nhiên từ lũ trẻ.
Con đường hẹp dẫn về quê trời cũng mang những yếu tố cần thiết trên, nhẫn nhục chia sẻ, yêu thương và cùng nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
Con đường dẫn về quê khác con đường quê. Đường dẫn về quê là con đường lớn, rộng thênh thang. Tách khỏi đường lớn vào ngõ rẽ dẫn về đường quê. Đường quê là con đường nhỏ, thơ mộng. Quang cảnh khác thường so với con đường rộng. Mọi hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt.
Trước tiên, không cần để ý cũng thấy ngay cành tre rũ ngang mặt. Toàn con đường rợp mát nhờ những cây tre uốn cong cầu vồng, che mát cho ngày nắng, tránh ướt cho ngày mưa. Dọc bên đê, lá cỏ xanh non, vươn dài che lấp lối đi. Chỗ ít người qua lại, người ta phải chậm chạp lần mò để khỏi lội trúng vũng nước lầy lội, hay tránh cành cây che lấp lối đi. Không khéo đạp ngay trúng bãi ‘mìn’chó mèo thả lúc đêm.
Thứ đến, cảnh cỏ, cây tranh sống diễn ra trước mắt. Lớp này mọc chồng trên lớp kia. Điều ngạc nhiên, các ngọn đều vươn cao ngày hưởng nắng, đêm tắm sương. Cạnh những bông hoa to lớn, chen lấn nhiều hoa li ti, nhỏ tí, dệt thành một tấm thảm cỏ thiên nhiên, nhuộm muôn mầu sắc tươi sáng. Không chừng gần đâu đó có con thằn lằn, hay rắn nằm ngủ; giật mình thấy bóng người nó sợ bò trốn, tim người đứng xem cũng đánh thình thình.
Không phải chỉ con mắt mới no thoả phong cảnh sắc nước, hương trời. Khó ai tránh khỏi mùi hương, thơm ngát thoát ra từ các bông, âm thầm mời gọi ong bướm, chuyển phấn hoa từ bông đực sang bông cái. Chính dịch vụ chuyên chở phấn giúp loài hoa tồn tại. Loài hoa trả công ong bướm bằng cách cho chúng hút mật hoa. Thức ăn tươi mát, thơm ngon, tinh khiết mà ong bướm ưa thích. Đôi khi có con ong đói, đau bệnh, lạc hướng đụng người, cả hai đột ngột né tránh nhau.
Xã hội nào cũng có kẻ xấu rình mò, vô tình thế nào cũng bị chúng lợi dụng. Cảnh đồng quê cũng không thoát khỏi luật trừ này. Trong lúc người ta đang thưởng thức, thả hồn vào bồng lai tiên cảnh thì chị muỗi đói. Gọi là chị muỗi đói rình mò, vì muỗi đực chay trường cả đời, sống nhờ hút nhựa cây, không hút máu người. Tuy vậy chàng cũng xúi bà xã, em coi kìa, của lạ, mấy người này từ tỉnh về quê, thấy cành cây, bông cỏ đứng ngó như trời trồng thế kia hẳn là dân lạ. Trong lúc người ta đang thưởng thức thì đâu đó chị muỗi cũng âm thầm đến xin tí huyết. Kẻ mất của nhiều khi không biết. Vài ngày sau thấy sưng đỏ âu. Cái giá trả cho tội ăn mặc hở hang. Chị muỗi vui mừng, nhờ bữa tiệc cao lương mĩ vị đó, giúp chị đủ chất dinh dưỡng cho lần mang bầu sắp tới.
Sinh hoạt quê
Dọc đường quê không thiếu hình ảnh quen thuộc. Trên đường đâu đâu cũng thấy một màu xanh của cỏ, màu tươi của hoa. Dưới ruộng chan hoà cảnh lúa xanh đùa trước gió. Tiếp tục đi sẽ thấy những ngôi nhà hiện ra, mái rạ thở khói, cảnh nấu cơm chiều. Người ta thấy vườn rau non. Dưới ao cá lên mói nước để lại vòng tròn xoáy loang dần, loang dần đến tận đám cỏ bờ ao. Hàng dậu ngăn gà phá rau làm bằng mía. Cây nào cũng tươi óng ả, lá vươn dài đong đưa vờn trước gió. Cao hơn là bụi chuối nặng cong cả thân vì trái chi chít. Trên sân có heo gà, dưới ao có vịt ngan, hưởng cảnh thanh bình, chung sống, chăm chỉ mò tôm, bắt cá.
Một vài nhà trước sân có hòn non bộ. Cành lá được xén, tỉa gọn gàng. Cảnh thanh bình bầy ra trước mắt, nhàn hạ và thảnh thơi. Cái nhàn thể hiện ngay cả trong bước chân. Nơi đây không có ai vội vã chạy đua với thời gian, nhanh leo xe bus về nhà sau giờ tan sở. Trái với dân tỉnh thành, ngồi xe chạy không kịp ngắm quang cảnh. Dân miền quê tà tà, thủng thẳng đi vừa ngó trời, vừa xem đất. Nhờ thảnh thơi và từ tốn mà mọi cảnh vật bày ra trước mắt dù quen thuộc người ta vẫn thấy cái đẹp, cái hay, cái mới. Thế mới biết thiên nhiên có sức quyến rũ vô cùng.
Đường quê trong ngày vắng bóng người đi lại. Mọi sinh hoạt dành cho việc ruộng, nương. Giờ cao điểm là sáng sớm và chiều tối. Mỗi ngày sáng tối luôn có nhiều hình ảnh đua giữa người và thời gian. Dù đua vẫn không vội vã. Trời chưa sáng tiếng chuông nhà thờ đổ dồn, kêu gọi Kitô hữu dậy, kẻ chuẩn bị đi lễ sáng, kẻ dâng ngày và lời tạ ơn. Cùng lúc đó học sinh mắt nhắm mắt mở tìm thức ăn, lấy sức cho ngày mới, đạp xe đi học. Mùa mưa vất vả hơn nhiều. Cuốc bộ là phương tiện di chuyển phổ thông nhất. Một lũ học trò vừa đi vừa trò chuyện ran đường. Ai mất ngủ mặc ai, ta cứ việc ồn ào. Chó cắn mặc chó, ta cứ hiên ngang vui chân bước đều. Sau đám học trò, đường quê đón nông dân cùng trâu bò bắt đầu ngày mới, công việc cũ còn đó phải cho xong trước khi bắt đầu việc mới. Dưới sông tiếng đò ghe gọi nhau ơi ới của người đi chợ bán rau, hoa trái, gà vịt. Đối với gà vịt, đường ra chợ là đường một chiều. Chúng ra đi lần đầu và cũng là lần cuối trong đời. Từ nay có chủ mới, có nhà mới. Đại đa số biết rõ định mệnh khi chủ đang đêm đến vỗ về, trói chân, bỏ lồng gánh đi.
Tình đường quê
Người xử dụng đường quê đối xử với nhau chân tình. Đường quê người ta chào hỏi nhau. Trên đường người ta nhường nhau, chia sẻ lối đi. Người ta chào hỏi. Lâu ngày không gặp còn đứng lại chia sẻ tâm tình, trao đổi vài mẩu chuyện nóng mới xảy ra trong xóm làng. Trên đường này tình cảm con người thật rõ nét, thân thương. Người đối xử tử tế với người, già yêu trẻ, trẻ kính trọng già. Phụ nữ, trai tráng trong làng, người nào cũng để lộ trên gương mặt một niềm tin vui, hạnh phúc dù cách ăn mặc của họ thể hiện vẻ đơn sơ, nghèo, cộng thêm vất vả, chân lấm tay bùn, mồ hôi đầy trán, thế mà nơi họ toát ra một niềm vui, niềm hạnh phúc yêu đời.
Trong cái hay cũng có cái phiền của nó. Học sinh nào dại dột không chào cụ già gặp trên đường, chậm nhất là vài ngày sau thầy giáo biết trò đó ra đường thiếu lễ phép. Cha mẹ em nghe tin con mình ra đường không thưa cũng chẳng chào. Chỉ một lần đủ giúp các em cẩn thận hơn khi học môn công dân, đức dục. Trong lớp luôn treo câu ‘tiên học lễ, hậu học văn’. Khi nhận những tin nóng sốt từ đường làng cha mẹ buồn năm phút nhưng yên tâm cả năm vì biết rõ một khi đứa nhỏ làm gì sai trái, ở đâu, ở nhà đều biết tin. Đời sống miền quê là như thế, mọi người có trách nhiệm với nhau, coi sóc cho nhau và bảo vệ lẫn nhau, cả đời sống với truyền thống tốt đẹp.
Con đường nhỏ người ta nhường nhịn, chia sẻ, chào hỏi và phải chịu thiệt thòi, phải từ tốn, phải kiêng nể, phải tự chế và mất đi rất nhiều tự do, bù lại người ta nhận được lòng cảm kích, tình thân thương và những nụ cười hồn nhiên từ lũ trẻ.
Con đường hẹp dẫn về quê trời cũng mang những yếu tố cần thiết trên, nhẫn nhục chia sẻ, yêu thương và cùng nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:40 02/02/2010
ĐẠI SƯ TÁI THẾ
Một triết gia đã chết rất lâu từ mấy thế kỷ thời cổ đại trước, được biết giáo huấn của ông ta đã bị những môn đồ hậu thế giải thích sai lạc, do tâm tánh hay thương xót và nhiệt tâm với chân lý mà ông ta phí nhiều tâm huyết, cuối cùng ông ta được ân sủng trở lại dương thế trong nhiều ngày.
Trong mấy ngày liền ông ta bỏ ra nhiều thời gian, mới khiến cho các môn đồ của ông nhận ra thân phận của ông.
Khi vừa nhận ra ông, thì các môn đồ không những không phun ra những lời vui vẻ, trái lại còn buồn bả xin ông ta nói cho họ nghe bí quyết trở lại dương thế.
Ông ta phí lời vô ích, làm sao mới có thể làm cho các đệ tử tin tưởng là ông ta thực sự không thể nói ra bí quyết, cũng làm sao cho họ hiểu được việc khôi phục lại nguyên vẹn dung mạo tinh thần thuần túy giáo huấn, vẫn là chuyện có quan hệ đến hạnh phúc của nhân loại, rất là quan trọng.
Nhưng tâm huyết ấy cũng như không.
Phản ứng của các đệ tử vẫn là: “Lẽ nào thầy không hiểu rõ, cái quan trọng không phải là giáo huấn của thầy, mà là sự giải thích hoàn toàn đầy đủ của chúng con sao ? Thầy chỉ là một người khách qua đường, còn chúng con thì định cư ở đây.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Ngọai trừ Chúa Giê-su ra, thì không một giáo huấn của đại sư nào trên thế giới này vượt qua mọi thời đại và ứng dụng cho mọi quốc gia dân tộc.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì các đại sư trên thế giới này không ai dám nói mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì không một đại sư nào trên thế giới chết đi rồi tự mình sống lại và không bao giờ chết nữa.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì không có một đại sư nào trên thế giới dám tuyên bố: ai theo tôi sẽ không phải chết đời đời.
Con người ta thường vẫn tự hào mình là “cái rốn” của vũ trụ, lời nói của mình là chỉ nam cho người khác đi theo, cho nên thường hay kiêu ngạo và chỉ trích anh chị em mình, chiến tranh, tội ác và những tệ nạn khác là do đó mà ra.
Cuộc sống lại vĩ đại nhất của Chúa Giê-su đã làm cho giáo huấn của Ngài và của Giáo Hội trở thành niềm tin dích thực, và ngồn hành phúc vĩnh viễn cho những ai tin vào Ngài.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Một triết gia đã chết rất lâu từ mấy thế kỷ thời cổ đại trước, được biết giáo huấn của ông ta đã bị những môn đồ hậu thế giải thích sai lạc, do tâm tánh hay thương xót và nhiệt tâm với chân lý mà ông ta phí nhiều tâm huyết, cuối cùng ông ta được ân sủng trở lại dương thế trong nhiều ngày.
Trong mấy ngày liền ông ta bỏ ra nhiều thời gian, mới khiến cho các môn đồ của ông nhận ra thân phận của ông.
Khi vừa nhận ra ông, thì các môn đồ không những không phun ra những lời vui vẻ, trái lại còn buồn bả xin ông ta nói cho họ nghe bí quyết trở lại dương thế.
Ông ta phí lời vô ích, làm sao mới có thể làm cho các đệ tử tin tưởng là ông ta thực sự không thể nói ra bí quyết, cũng làm sao cho họ hiểu được việc khôi phục lại nguyên vẹn dung mạo tinh thần thuần túy giáo huấn, vẫn là chuyện có quan hệ đến hạnh phúc của nhân loại, rất là quan trọng.
Nhưng tâm huyết ấy cũng như không.
Phản ứng của các đệ tử vẫn là: “Lẽ nào thầy không hiểu rõ, cái quan trọng không phải là giáo huấn của thầy, mà là sự giải thích hoàn toàn đầy đủ của chúng con sao ? Thầy chỉ là một người khách qua đường, còn chúng con thì định cư ở đây.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Ngọai trừ Chúa Giê-su ra, thì không một giáo huấn của đại sư nào trên thế giới này vượt qua mọi thời đại và ứng dụng cho mọi quốc gia dân tộc.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì các đại sư trên thế giới này không ai dám nói mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì không một đại sư nào trên thế giới chết đi rồi tự mình sống lại và không bao giờ chết nữa.
Ngoại trừ Chúa Giê-su ra, thì không có một đại sư nào trên thế giới dám tuyên bố: ai theo tôi sẽ không phải chết đời đời.
Con người ta thường vẫn tự hào mình là “cái rốn” của vũ trụ, lời nói của mình là chỉ nam cho người khác đi theo, cho nên thường hay kiêu ngạo và chỉ trích anh chị em mình, chiến tranh, tội ác và những tệ nạn khác là do đó mà ra.
Cuộc sống lại vĩ đại nhất của Chúa Giê-su đã làm cho giáo huấn của Ngài và của Giáo Hội trở thành niềm tin dích thực, và ngồn hành phúc vĩnh viễn cho những ai tin vào Ngài.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:42 02/02/2010
N2T |
18. Thiên Chúa không cần của cải vật chất của bạn, nhưng người nghèo cần. Bạn đem nó bố thí cho người nghèo thì Thiên Chúa sẽ nhận được.
(Thánh Augustine)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:44 02/02/2010
N2T |
359. Trong cùng khốn của vận mệnh, thì có thể nhìn ra khí tiết của con người.
Mơ ước đầu Xuân
+ GM Gioan B. Bùi Tuần
19:18 02/02/2010
Xuân Canh Dần trùng với Xuân Năm Thánh Việt Nam 2010. Nhiều mong ước xuất hiện trong tôi. Tất cả đều đẹp như những bông hoa Tết.
Một hương sắc đã lôi cuốn tôi. Đó là mong ước phát triển đạo đức. Đạo đức là hương thơm sắc đẹp. Phát triển hương sắc ấy là điều kiện cần thiết cho mọi phát triển các giá trị khác.
Ở đây, tôi xin nói qua về phát triển đạo đức, theo tu đức Phúc Âm.
1/ Những chặng đường
Đạo đức ví như một hạt giống. Nó được gieo trồng trong tâm hồn. Nó cần được phát triển trong thời gian. Thời gian của nó chia ra từng chặng:
a) Chặng đường thanh luyện
Trong chặng này, con người sẽ làm hết sức mình, để thoát ra khỏi tội lỗi. Đầu tiên là phải nhìn nhận mình tội lỗi (x. 1 Ga 9). Nhận mình tội lỗi là một khám phá lương thiện. Tự sức mình, ta không dễ đi sâu vào khám phá khó chịu đó. Rất cần ơn Chúa.
Với ơn Chúa, chúng ta sẽ nhận ra tính cách phức tạp của đạo đức. Có hạt giống tốt trong ta. Và trong ta cũng có hạt giống xấu. Như tính ích kỷ, tính kiêu căng, tính ghen tương, tính ham mê những điều xấu. Những tính xấu ấy qua thời gian đã đưa ta đến tội. Thanh luyện mình khỏi các tội và cội rễ của tội là việc cần làm. Ta làm việc đó nhờ ơn Chúa. Nhờ ơn Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận ra Đấng Cứu độ ta chính là Đức Giêsu Kitô.
b) Chặng đường đi theo Chúa
Ra khỏi đường hầm tội lỗi, chúng ta sẽ nghe tiếng Chúa Giêsu gọi: "Hãy đi theo Thầy". Để đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà đi theo (x. Mt 16,24).
Khi từ bỏ mình và vác thánh giá mình mà đi theo Chúa Giêsu, chúng ta chỉ mưu tìm một sự, đó là vinh quang Chúa. Chúa sẽ soi sáng cho ta biết phải trở nên giống Chúa. Dấu ấn đẹp nhất của sự trở nên giống Chúa Giêsu là hiền lành, khiêm nhường (x. Mt 11,29). Lúc đó, chúng ta sẽ sống khó nghèo, luôn mở lòng ra về phía tình yêu Thiên Chúa.
c) Chặng đường kết hợp với Chúa
Chúa Thánh Thần sẽ đưa chúng ta vào tình yêu Chúa. Người giúp chúng ta ở lại trong tình yêu ấy (2 Ga 15,9). Lúc đó, chúng ta như được biến thành tình yêu. Mến Chúa hết lòng, và yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta. Thương người và mến Chúa chỉ là hai mặt của một tình yêu.
Sống trong tình yêu Chúa, chúng ta chỉ muốn làm mọi sự theo thánh ý Chúa. Nhất là khi được tình yêu Chúa thúc đẩy, chúng ta sẽ dấn thân vào việc phục vụ dưới mọi hình thức.
Ba chặng đường trên đây sẽ được thực hiện dần dần từ từ trong thời gian. Không thể nóng vội. Muốn nên đạo đức ngay lập tức là điều không đạo đức. Phải kiên nhẫn với thời gian. Nhất là phải kiên nhẫn với những thử thách.
2/ Những thử thách
Thử thách có thể là những biến cố xảy ra, đụng chạm đến ta. Gặp biến cố, có người trở nên tốt hơn. Nhưng cũng có người trở thành xấu hơn.
Thử thách là một cách huấn luyện. Dù thử thách xuất hiện dưới hình thức nào, con người tin Chúa chỉ có một cách đối phó là cầu nguyện và tỉnh thức (x. Mc 14,38). Với tinh thần đó, chúng ta bám chặt vào Chúa, lắng nghe tiếng Chúa, bước theo con đường cứu độ của Chúa.
Chúa Giêsu đã gặp thử thách. Có lúc thử thách sập xuống Ngài một cách thê thảm. Ngài cô đơn. Ngài đau đớn. Ngài chỉ biết phó thác nơi Chúa Cha.
Nhiều khi chúng ta cũng bị ném vào những hoàn cảnh hết sức bi đát. Ngày nào cũng gặp trở ngại. Phút nào cũng cảm thấy mong manh. Hướng nào cũng đụng vào giới hạn. Đó là những đêm tối kinh hoàng.
Trong tình trạng như thế, chúng ta, theo gương Đức Mẹ, luôn tin tưởng vào lời Chúa: Phải trải qua đau khổ thánh giá, để đi đến Phục Sinh (x. Lc 24,26). Tin như thế, chúng ta sẽ thấy thánh giá trong thử thách là vinh quang.
Chấp nhận thánh giá vì tình yêu, đó là việc của sự tự do được đức tin soi sáng. Khi tự do được đức tin chỉ dẫn, con người sẽ không đành làm nô lệ bất cứ thế lực nào, mà chỉ chọn một Chúa mà thôi. Lựa chọn đó mới chính là sự tự do đích thực. Bởi vì chọn Chúa là chọn tình yêu tuyệt đối được ban tặng cho chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ biết yêu thương phục vụ người khác một cách vị tha, dù phải hy sinh chồng chất.
* * *
Năm mới sẽ có thời cơ và nguy cơ. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết dùng mọi sự xảy ra, để tiến triển trên đường đạo đức.
Năm mới sẽ có nhiều phức tạp, chúng ta sẽ luôn phát triển đạo đức, chỉ trên nền tảng Đức Giêsu Kitô mà thôi, để chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Năm mới sẽ có nhiều tổ chức để thờ phượng Chúa. Nhưng cách thờ phượng Chúa tốt nhất là “Hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa” (Rm 12,1).
Với chia sẻ trên đây, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa đã ban cho tôi được phục vụ anh chị em.
Cũng xin tận tình cảm ơn anh chị em đã giúp tôi hiểu rõ hơn ơn gọi của tôi, và đã nâng đỡ tôi sống tốt ơn gọi đó.
Xin Chúa giàu tình yêu thương xót ban muôn phước lành cho tất cả chúng ta.
Một hương sắc đã lôi cuốn tôi. Đó là mong ước phát triển đạo đức. Đạo đức là hương thơm sắc đẹp. Phát triển hương sắc ấy là điều kiện cần thiết cho mọi phát triển các giá trị khác.
Ở đây, tôi xin nói qua về phát triển đạo đức, theo tu đức Phúc Âm.
1/ Những chặng đường
Đạo đức ví như một hạt giống. Nó được gieo trồng trong tâm hồn. Nó cần được phát triển trong thời gian. Thời gian của nó chia ra từng chặng:
a) Chặng đường thanh luyện
Trong chặng này, con người sẽ làm hết sức mình, để thoát ra khỏi tội lỗi. Đầu tiên là phải nhìn nhận mình tội lỗi (x. 1 Ga 9). Nhận mình tội lỗi là một khám phá lương thiện. Tự sức mình, ta không dễ đi sâu vào khám phá khó chịu đó. Rất cần ơn Chúa.
Với ơn Chúa, chúng ta sẽ nhận ra tính cách phức tạp của đạo đức. Có hạt giống tốt trong ta. Và trong ta cũng có hạt giống xấu. Như tính ích kỷ, tính kiêu căng, tính ghen tương, tính ham mê những điều xấu. Những tính xấu ấy qua thời gian đã đưa ta đến tội. Thanh luyện mình khỏi các tội và cội rễ của tội là việc cần làm. Ta làm việc đó nhờ ơn Chúa. Nhờ ơn Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận ra Đấng Cứu độ ta chính là Đức Giêsu Kitô.
b) Chặng đường đi theo Chúa
Ra khỏi đường hầm tội lỗi, chúng ta sẽ nghe tiếng Chúa Giêsu gọi: "Hãy đi theo Thầy". Để đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà đi theo (x. Mt 16,24).
Khi từ bỏ mình và vác thánh giá mình mà đi theo Chúa Giêsu, chúng ta chỉ mưu tìm một sự, đó là vinh quang Chúa. Chúa sẽ soi sáng cho ta biết phải trở nên giống Chúa. Dấu ấn đẹp nhất của sự trở nên giống Chúa Giêsu là hiền lành, khiêm nhường (x. Mt 11,29). Lúc đó, chúng ta sẽ sống khó nghèo, luôn mở lòng ra về phía tình yêu Thiên Chúa.
c) Chặng đường kết hợp với Chúa
Chúa Thánh Thần sẽ đưa chúng ta vào tình yêu Chúa. Người giúp chúng ta ở lại trong tình yêu ấy (2 Ga 15,9). Lúc đó, chúng ta như được biến thành tình yêu. Mến Chúa hết lòng, và yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta. Thương người và mến Chúa chỉ là hai mặt của một tình yêu.
Sống trong tình yêu Chúa, chúng ta chỉ muốn làm mọi sự theo thánh ý Chúa. Nhất là khi được tình yêu Chúa thúc đẩy, chúng ta sẽ dấn thân vào việc phục vụ dưới mọi hình thức.
Ba chặng đường trên đây sẽ được thực hiện dần dần từ từ trong thời gian. Không thể nóng vội. Muốn nên đạo đức ngay lập tức là điều không đạo đức. Phải kiên nhẫn với thời gian. Nhất là phải kiên nhẫn với những thử thách.
2/ Những thử thách
Thử thách có thể là những biến cố xảy ra, đụng chạm đến ta. Gặp biến cố, có người trở nên tốt hơn. Nhưng cũng có người trở thành xấu hơn.
Thử thách là một cách huấn luyện. Dù thử thách xuất hiện dưới hình thức nào, con người tin Chúa chỉ có một cách đối phó là cầu nguyện và tỉnh thức (x. Mc 14,38). Với tinh thần đó, chúng ta bám chặt vào Chúa, lắng nghe tiếng Chúa, bước theo con đường cứu độ của Chúa.
Chúa Giêsu đã gặp thử thách. Có lúc thử thách sập xuống Ngài một cách thê thảm. Ngài cô đơn. Ngài đau đớn. Ngài chỉ biết phó thác nơi Chúa Cha.
Nhiều khi chúng ta cũng bị ném vào những hoàn cảnh hết sức bi đát. Ngày nào cũng gặp trở ngại. Phút nào cũng cảm thấy mong manh. Hướng nào cũng đụng vào giới hạn. Đó là những đêm tối kinh hoàng.
Trong tình trạng như thế, chúng ta, theo gương Đức Mẹ, luôn tin tưởng vào lời Chúa: Phải trải qua đau khổ thánh giá, để đi đến Phục Sinh (x. Lc 24,26). Tin như thế, chúng ta sẽ thấy thánh giá trong thử thách là vinh quang.
Chấp nhận thánh giá vì tình yêu, đó là việc của sự tự do được đức tin soi sáng. Khi tự do được đức tin chỉ dẫn, con người sẽ không đành làm nô lệ bất cứ thế lực nào, mà chỉ chọn một Chúa mà thôi. Lựa chọn đó mới chính là sự tự do đích thực. Bởi vì chọn Chúa là chọn tình yêu tuyệt đối được ban tặng cho chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ biết yêu thương phục vụ người khác một cách vị tha, dù phải hy sinh chồng chất.
* * *
Năm mới sẽ có thời cơ và nguy cơ. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết dùng mọi sự xảy ra, để tiến triển trên đường đạo đức.
Năm mới sẽ có nhiều phức tạp, chúng ta sẽ luôn phát triển đạo đức, chỉ trên nền tảng Đức Giêsu Kitô mà thôi, để chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Năm mới sẽ có nhiều tổ chức để thờ phượng Chúa. Nhưng cách thờ phượng Chúa tốt nhất là “Hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa” (Rm 12,1).
Với chia sẻ trên đây, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa đã ban cho tôi được phục vụ anh chị em.
Cũng xin tận tình cảm ơn anh chị em đã giúp tôi hiểu rõ hơn ơn gọi của tôi, và đã nâng đỡ tôi sống tốt ơn gọi đó.
Xin Chúa giàu tình yêu thương xót ban muôn phước lành cho tất cả chúng ta.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Vun trồng hòa bình
Jos. Tú Nạc, NMS
18:17 02/02/2010
Năm mươi năm, chính phủ Hoa Kỳ và Cuba đa coi nhau như kẻ thù. Đã có đôi chút thông tin liên lạc giữa người dân của hai quốc gia này. Nhưng vẫn luôn có một người được cả hai nền văn hóa đều tôn trọng. Tấm gương của ông có thể đã mang đến nhịp cầu văn hóa về sự hiểu biết mới giữa Cuba và Hoa Kỳ. Ông là một nhà thơ Cuba nổi tiếng Jose Marti.
Jose Marti sinh năm 1853 tại Cuba. Lúc đó, Cuba là thuộc địa dưới quyền cai trị của Tây Ban Nha. Cuộc đời ông trong lúc đó, nhiều người đã tranh đấu cho nền tự trị của Cuba. Trong đấu tranh đã nhào nặn cuộc đời Marti cùng những lựa chọn của ông. Khi còn bé, Marti đã học tập để trở thành một nghệ sỹ. Ông đã biết cách diễn tả ý tưởng của mình trong văn viết.
Khi là một thanh niên, Marti theo học luật tại Tây Ban Nha và đã nhận được bằng luật khoa. Nhưng chính phủ Tây Ban Nha sợ ông ủng hộ nền độc lập của Cuba. Thay vào đó, ông trở thành một giáo viên trường tư thục của Cuba. Công việc giảng dạy đã cho ông diễn tả ý tưởng của mình. Nó cũng cho ông thời gian để viết lách.
Marti đã xuất bản những bài viết uyên bác và những cột tin tức quan trọng. Ông đã viết để cổ vũ niềm tin tự do của Mỹ Latin. Trong nững năm đầu của ông, Cuba vẫn chịu sự nô lệ. Sự đô hộ kéo dài mãi đến năm 1886. Marti đã tranh luận chống lại những điều luật và tập quán xã hội đối xử thiên vị với những người không phải Âu châu.
Marti thường bị chỉ trích về những lời lẽ của ông. Một số chính quyền đã cấm không cho đăng những bài phát biểu của ông. Marti thậm chí đã phải rời bỏ cả Tây Ban Nha lẫn Cuba. Ông đã phải sống và viết trong hoàn cảnh lưu vong. Những nghiên cứu và công việc của ông với tư cách là một nhà văn đã đưa ông đi tới Mexico, Guatemala, và Venezuela. Cuối cùng Marti đã tìm thấy tự do để viết ở Thành phố Nữu Ước.
Trứ danh là những tác phẩm thi ca của ông. Tập thơ được ái mộ nhất là Simple Verses hoặc Versos Sencillos (Những vần thơ mộc mạc). Những bài thơ này diễn tả niềm tin của ông về sự tự do của những nhà văn cùng day dứt yêu thương của nhà văn cho tất cả mọi người.
Sau đây là bài thơ từ tập Simple Verses. Nó có tên “39”. Bài thơ nói về sự trưởng thành của những bông hồng trắng xinh đẹp. Loài hoa này được trân trọng ở Cuba và các nước Mỹ châu.
I grow white roses
In January as in July
For the honest friend who freely
Offers me his hand.
And for he who tears from me
the heart with which I live,
Neither sharps thorns nor unwanted weeds do I grow
But grow white roses.
“Bài thơ 39” quả “mộc mạc” với đôi nét chấm phá. Nó được diễn tả qua hai khổ thơ ngắn. Trong cả tiếng Tây Ban Nha lẫn tiếng Anh, ngôn ngữ và hình ảnh thật giản dị, trong sáng. Nhưng trong cái tồn tại đơn giản vẫn mang một vẻ đẹp phức hợp. Marti đã dùng hình ảnh đơn giản của một người trồng tỉa chăm sóc những bông hồng. Hành động trồng tỉa loài hoa này nói lên tình hữu nghị, tha thứ, và hòa bình.
“Bài thơ 39” cũng có thể được tìm thấy trong lời của bài hát Cuba phổ biến, “Guantanamera.” Joseito Fernendez đã phổ nhạc cho bài Guantanamera vào năm 1929. Lời của bài hát này đã được ông tập hợp một số bài thơ của Marti. Nhiều ca sỹ nổi tiếng trên thế giới đã trình bày và thu âm bài hát này. Một vài ca sỹ đã trình bày bài hát này như một lời phản đối xã hội. Nhiều người hát bài này vì vẻ đẹp giản dị tự nhiên của nó.
“Bài thơ 39” mở đầu và kết thúc cùng một ý, “Ta ươm những bông hồng trắng.” Biểu tượng của bài thơ này là hình ảnh ấy – hình ảnh một người trồng và chăm sóc cho những bông hoa màu trắng. Và người ấy đã mang đến cho tiếng nói của thi ca.
Nhưng những ngôn từ và hình ảnh khác gợi ra những ý hoàn toàn khác. Những bông hồng của Marti đã lớn lên trong tháng Giêng cho đến tháng Bảy – những tháng mùa đông cũng như mùa hè. Những bông hồng này đã trưởng thành cho kẻ thù cũng như cho “người bạn chân thành.” Người bạn “dâng hiến bàn tay cởi mở” của yêu thương, giúp đỡ và đón chào. Nhưng kẻ thù đã “xé nát con tim” bằng bàn tay độc ác. Sự khác nhau cuối cùng là giữa những bông hồng xinh xắn này với những loài cỏ dại tác hại cùng những gai nhọn đớn đau.
Trong bài thơ này Marti diễn tả nỗi khát khao của ông về tình yêu huynh đệ - thứ tình yêu liên đới với tất cả mọi người. Ông đã diễn tả khát vọng của ông cho hòa bình. Bông hồng ấy là món quà mỹ miều của tình yêu. Màu trắng của bông hồng tượng trưng thiện chí và hòa bình. Marti diễn tả sự tha thứ và hòa bình cho kẻ thù của mình – không đổ lỗi hay chống trả.
Phục vụ hòa bình thật là khó. Quay về tội ác vì tội ác là bản tính con người. Bản tính con người thường sinh ra những “cỏ dại và gai nhọn” đáp trả bằng bạo lực và đàn áp. Nhiều người nghĩ yêu thương và tha thứ kẻ thù là việc không thể thực hiện, tha thứ kẻ thù có thể khó khăn như việc trồng những bông hồng trong tháng Giêng giá lạnh. Marti đã viết bài thơ này trong lúc tha hương. Ông đang sống ở Thành phố Nữu Ước Hoa Kỳ. Mùa đông ở đó vô cùng giá lạnh. Trong lúc sống tha hương, ông đã phải chiến đấu để suy nghĩ những điều tốt về kẻ thù của mình.
Một lần nữa nhìn vào dòng mở đầu và kết thúc của “bài thơ 39” đã cho thấy cách sử dụng đặc biệt của Marti động từ “ươm/trồng.” Chăm sóc và trồng những bông hồng trắng không phải là công việc dễ dàng. Những bông hồng trắng này là kết quả của một quá trình lâu dài và khó khăn. Hoa hồng không thể phát triển nếu thiếu sự chăm sóc. Trong điều kiện thời tiết xấu, thiếu mưa, côn trùng gây hại, đất trồng ít mầu mỡ, tất cả có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hoa hồng. Người trồng phải làm việc cần mẫn để tiêu hủy những vấn đề phức tạp gây trở ngại cho sự thành công của nó.
Hình ảnh của Marti, “Ta ươm những bông hồng trắng,” tương tự công việc của đời ông. Ông đã thiết tha mong mỏi hòa bình và tình nhân ái hướng về mọi người. Ông cũng làm việc cho tự do và nền tự trị của Cuba và Mỹ Latin. Đối với Marti thực hiện công việc này quả là một việc gian nan và vất vả. Ông đã dành nhiều năm tháng sống và viết trong kiếp tha hương. Và năm 1895, ông đã qua đời trong chiến đấu chống lại bạo lực của Tây Ban Nha tại Cuba.
Những tượng đài tưởng niệm tôn vinh Jose Marti có thể thấy ở cả hai quốc gia Hoa Kỳ - Công viên Central Park nổi tiếng thuộc Thành phố Nữu Ước – cũng như ở Havana, Cuba. Dân chúng hai quốc gia này tôn trọng ông như một anh hùng. Ngày nay Hoa Kỳ và Cuba không quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa là vô vọng. Một ngày nào đó, chính phủ của cả hai quốc gia có thể cùng nhau “trồng những bông hồng trắng.”
(Growing Peace)
Jose Marti sinh năm 1853 tại Cuba. Lúc đó, Cuba là thuộc địa dưới quyền cai trị của Tây Ban Nha. Cuộc đời ông trong lúc đó, nhiều người đã tranh đấu cho nền tự trị của Cuba. Trong đấu tranh đã nhào nặn cuộc đời Marti cùng những lựa chọn của ông. Khi còn bé, Marti đã học tập để trở thành một nghệ sỹ. Ông đã biết cách diễn tả ý tưởng của mình trong văn viết.
Khi là một thanh niên, Marti theo học luật tại Tây Ban Nha và đã nhận được bằng luật khoa. Nhưng chính phủ Tây Ban Nha sợ ông ủng hộ nền độc lập của Cuba. Thay vào đó, ông trở thành một giáo viên trường tư thục của Cuba. Công việc giảng dạy đã cho ông diễn tả ý tưởng của mình. Nó cũng cho ông thời gian để viết lách.
Marti đã xuất bản những bài viết uyên bác và những cột tin tức quan trọng. Ông đã viết để cổ vũ niềm tin tự do của Mỹ Latin. Trong nững năm đầu của ông, Cuba vẫn chịu sự nô lệ. Sự đô hộ kéo dài mãi đến năm 1886. Marti đã tranh luận chống lại những điều luật và tập quán xã hội đối xử thiên vị với những người không phải Âu châu.
Marti thường bị chỉ trích về những lời lẽ của ông. Một số chính quyền đã cấm không cho đăng những bài phát biểu của ông. Marti thậm chí đã phải rời bỏ cả Tây Ban Nha lẫn Cuba. Ông đã phải sống và viết trong hoàn cảnh lưu vong. Những nghiên cứu và công việc của ông với tư cách là một nhà văn đã đưa ông đi tới Mexico, Guatemala, và Venezuela. Cuối cùng Marti đã tìm thấy tự do để viết ở Thành phố Nữu Ước.
Trứ danh là những tác phẩm thi ca của ông. Tập thơ được ái mộ nhất là Simple Verses hoặc Versos Sencillos (Những vần thơ mộc mạc). Những bài thơ này diễn tả niềm tin của ông về sự tự do của những nhà văn cùng day dứt yêu thương của nhà văn cho tất cả mọi người.
Sau đây là bài thơ từ tập Simple Verses. Nó có tên “39”. Bài thơ nói về sự trưởng thành của những bông hồng trắng xinh đẹp. Loài hoa này được trân trọng ở Cuba và các nước Mỹ châu.
I grow white roses
In January as in July
For the honest friend who freely
Offers me his hand.
And for he who tears from me
the heart with which I live,
Neither sharps thorns nor unwanted weeds do I grow
But grow white roses.
“Bài thơ 39” quả “mộc mạc” với đôi nét chấm phá. Nó được diễn tả qua hai khổ thơ ngắn. Trong cả tiếng Tây Ban Nha lẫn tiếng Anh, ngôn ngữ và hình ảnh thật giản dị, trong sáng. Nhưng trong cái tồn tại đơn giản vẫn mang một vẻ đẹp phức hợp. Marti đã dùng hình ảnh đơn giản của một người trồng tỉa chăm sóc những bông hồng. Hành động trồng tỉa loài hoa này nói lên tình hữu nghị, tha thứ, và hòa bình.
“Bài thơ 39” cũng có thể được tìm thấy trong lời của bài hát Cuba phổ biến, “Guantanamera.” Joseito Fernendez đã phổ nhạc cho bài Guantanamera vào năm 1929. Lời của bài hát này đã được ông tập hợp một số bài thơ của Marti. Nhiều ca sỹ nổi tiếng trên thế giới đã trình bày và thu âm bài hát này. Một vài ca sỹ đã trình bày bài hát này như một lời phản đối xã hội. Nhiều người hát bài này vì vẻ đẹp giản dị tự nhiên của nó.
“Bài thơ 39” mở đầu và kết thúc cùng một ý, “Ta ươm những bông hồng trắng.” Biểu tượng của bài thơ này là hình ảnh ấy – hình ảnh một người trồng và chăm sóc cho những bông hoa màu trắng. Và người ấy đã mang đến cho tiếng nói của thi ca.
Nhưng những ngôn từ và hình ảnh khác gợi ra những ý hoàn toàn khác. Những bông hồng của Marti đã lớn lên trong tháng Giêng cho đến tháng Bảy – những tháng mùa đông cũng như mùa hè. Những bông hồng này đã trưởng thành cho kẻ thù cũng như cho “người bạn chân thành.” Người bạn “dâng hiến bàn tay cởi mở” của yêu thương, giúp đỡ và đón chào. Nhưng kẻ thù đã “xé nát con tim” bằng bàn tay độc ác. Sự khác nhau cuối cùng là giữa những bông hồng xinh xắn này với những loài cỏ dại tác hại cùng những gai nhọn đớn đau.
Trong bài thơ này Marti diễn tả nỗi khát khao của ông về tình yêu huynh đệ - thứ tình yêu liên đới với tất cả mọi người. Ông đã diễn tả khát vọng của ông cho hòa bình. Bông hồng ấy là món quà mỹ miều của tình yêu. Màu trắng của bông hồng tượng trưng thiện chí và hòa bình. Marti diễn tả sự tha thứ và hòa bình cho kẻ thù của mình – không đổ lỗi hay chống trả.
Phục vụ hòa bình thật là khó. Quay về tội ác vì tội ác là bản tính con người. Bản tính con người thường sinh ra những “cỏ dại và gai nhọn” đáp trả bằng bạo lực và đàn áp. Nhiều người nghĩ yêu thương và tha thứ kẻ thù là việc không thể thực hiện, tha thứ kẻ thù có thể khó khăn như việc trồng những bông hồng trong tháng Giêng giá lạnh. Marti đã viết bài thơ này trong lúc tha hương. Ông đang sống ở Thành phố Nữu Ước Hoa Kỳ. Mùa đông ở đó vô cùng giá lạnh. Trong lúc sống tha hương, ông đã phải chiến đấu để suy nghĩ những điều tốt về kẻ thù của mình.
Một lần nữa nhìn vào dòng mở đầu và kết thúc của “bài thơ 39” đã cho thấy cách sử dụng đặc biệt của Marti động từ “ươm/trồng.” Chăm sóc và trồng những bông hồng trắng không phải là công việc dễ dàng. Những bông hồng trắng này là kết quả của một quá trình lâu dài và khó khăn. Hoa hồng không thể phát triển nếu thiếu sự chăm sóc. Trong điều kiện thời tiết xấu, thiếu mưa, côn trùng gây hại, đất trồng ít mầu mỡ, tất cả có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hoa hồng. Người trồng phải làm việc cần mẫn để tiêu hủy những vấn đề phức tạp gây trở ngại cho sự thành công của nó.
Hình ảnh của Marti, “Ta ươm những bông hồng trắng,” tương tự công việc của đời ông. Ông đã thiết tha mong mỏi hòa bình và tình nhân ái hướng về mọi người. Ông cũng làm việc cho tự do và nền tự trị của Cuba và Mỹ Latin. Đối với Marti thực hiện công việc này quả là một việc gian nan và vất vả. Ông đã dành nhiều năm tháng sống và viết trong kiếp tha hương. Và năm 1895, ông đã qua đời trong chiến đấu chống lại bạo lực của Tây Ban Nha tại Cuba.
Những tượng đài tưởng niệm tôn vinh Jose Marti có thể thấy ở cả hai quốc gia Hoa Kỳ - Công viên Central Park nổi tiếng thuộc Thành phố Nữu Ước – cũng như ở Havana, Cuba. Dân chúng hai quốc gia này tôn trọng ông như một anh hùng. Ngày nay Hoa Kỳ và Cuba không quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa là vô vọng. Một ngày nào đó, chính phủ của cả hai quốc gia có thể cùng nhau “trồng những bông hồng trắng.”
(Growing Peace)
Các Giám mục từng được tấn phong bất hợp pháp nhìn lại con đường khúc khủy đã qua
UCAN
18:28 02/02/2010
NAM KINH (UCAN) -- Ba vị giám mục trẻ tuổi đã được tấn phong cách đây 10 năm trong một lễ nghi gây nhiều tranh cãi, nay nhìn lại biến cố ấy, tuy không hẹn mà cùng nói chung một tiếng, đó là Ơn gọi đến từ Thiên Chúa.
Ngày lễ Chúa Hiển linh 6.1.2000, 5 vị giám mục Trung Quốc dù chưa được Vatican bổ nhiệm chính thức đã được truyền chức. Sự kiện này đã làm chấn động toàn thể Giáo hội hoàn vũ.
Giáo hội “công khai” tại Trung Quốc từ năm 1958 đã bắt đầu “tự chọn, tự phong” chức giám mục, cho đến lần phong chức năm 2000 là lần phong chức cho nhiều vị giám mục nhất. Lần phong chức này được cử hành cùng ngày với việc Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tấn phong Giám mục cho 12 vị tại Vatican. Tin này khi lan truyền ra bên ngoài đã làm mọi người trong và ngoài Trung Quốc hết sức chú ý.
Ông Lâm Thụy Kỳ, một nghiên cứu viên lâu năm, nhiều kinh nghiệm của Trung tâm nghiên cứu Chúa Thánh Thần thuộc giáo phận Hong Kong, đã nói với UCANS, sự kiện năm đó đã “làm vỡ vụn những kỳ vọng của mọi người về mối quan hệ giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng, về lâu dài trở thành một nhân tố bất lợi cho việc thiết lập bang giao giữa hai phía".
Giám mục Lục Tân Bình: rất xác tín về ơn gọi
Cha Lục Tân Bình, năm ấy mới 36 tuổi được tấn phong Giám mục phụ tá giáo phận Nam Kinh, là người trẻ tuổi nhất trong số 5 vị. Cha nhớ lại lúc ấy “ tâm hồn rất băn khoăn”, nhưng cha nghĩ đến hoàn cảnh giáo hội địa phương hết sức đặc thù, nên cuối cùng đã quyết định phục tùng mệnh lệnh của Đức Giám mục đương quyền. Cha nói: “Từ trước đến giờ tôi luôn xác tín về ơn gọi của mình, và tôi tin Thiên Chúa hiểu quyết định của tôi”.
Đức cha Lục Tân Bình cho biết, trước khi Tòa thánh chấp nhận ngài vào năm 2007, ngài đã trải qua một khoảng thời gian không ít khó khăn, nhiều thầy đại chủng sinh không chấp nhận ngài truyền chức phó tế hay linh mục, giáo dân cũng có nhiều cách nhìn rất khác nhau. Ngài nói: “Tôi hiểu cảm giác của họ, cũng may là vẫn còn đa số linh mục và giáo dân tôn trọng (tôi)”.
Giáo phận Nam Kinh hiện có 40.000 giáo dân, trong đó vẫn còn 5.000 giáo dân ở nhà dự thánh lễ do các linh mục thuộc Giáo hội thầm lặng cử hành, nhưng, Đức cha Lục Tân Bình nói rằng, giữa hai giáo hội trong những năm gần đây không có bất kỳ xung đột nào.
Ngài cũng bộc lộ, ngài từng khuyên các vị ứng viên chức giám mục rằng “được Đức Thánh Cha bổ nhiệm thì tốt hơn”, điều đó sẽ làm cho công tác mục vụ thuận lợi hơn.
Đầu tháng Giêng năm nay, giáo phận Nam Kinh đã tổ chức đợt tĩnh tâm cho các linh mục nhân Năm Linh mục, vì thế không tổ chức việc kỷ niệm 10 năm ngày được tấn phong giám mục của đức cha Lục Tân Bình.
Trong khoảng thời gian này, một cộng đoàn giáo hội công khai thuộc vùng Hoa Đông là giáo phận Mân Đông vào ngày 9.1.2010 đã cử hành dịp kỷ niệm 10 năm được tấn phong giám mục của đức cha Chiêm Tư Lộc gồm Thánh lễ, tọa đàm và tiệc mừng. Ngoài khoảng vài trăm giáo dân, một số quan chức chính phủ trung ương và địa phương đến dự; còn có ông Lưu Bách Niên, phó chủ tịch Giáo hội Ái quốc Trung quốc, đã từ Bắc Kinh đến nhà thờ chính toàn tại thành phố Ninh Đức để tham dự đợt kỷ niệm này.
Đức cha Chiêm Tư Lộc: Thập giá là giao kết giữa Đau khổ và Niềm vui.
Đức cha Chiêm Tư Lộc, là vị duy nhất trong 5 vị không được Tòa thánh công nhận, nói: những khúc mắc và cả những trọng trách mà ngài trải qua trong 10 năm được phong làm giám mục làm cho ngài ngày càng hiểu rõ hơn về sự kỳ diệu của Ơn gọi. Ngài giảng trong Thánh lễ hôm ấy: “Trong tim của tôi, số 10 (thập,+) không phải chỉ là một con số đơn thuần, cũng không chỉ là một ký hiệu toán học, mà đó là sự giao kết giữa đau khổ và niềm vui, cái chết và sự sống”.
Đức cha Chiêm Tư Lộc, 48 tuổi, nói với UCANS rằng, ngài “vẫn chờ đợi trong hi vọng” được hiệp thông với Đức Thánh Cha.
Giáo phận Mân Đông gồm 70.000 tín hữu, 1/10 trong số đó thuộc quyền lãnh đạo của đức cha Chiêm Tư Lộc, đa số các giáo hữu đều phục tùng đức cha Hoàng Thủ Thành thuộc Giáo hội thầm lặng.
Một số linh mục thuộc Giáo hội thầm lặng nói với UCANS, họ không nhận lời mời dự lễ kỷ niệm 10 phong giám mục của đức cha Chiêm Tư Lộc, vì họ không thể hiệp thông với ngài trong Thánh lễ; nhưng, nếu một ngày nào đó, đức cha Chiêm Tư Lộc được công nhận, họ đều phục tùng quyết định của Tòa Thánh.
Đức Cha Phương Kiện Bình thuộc giáo phận Đường Sơn (vùng Hoa Bắc, Trung Quốc) là 1 trong 5 vị được Tòa Thánh công nhận sớm nhất, vào năm 2002.
Đức cha Phương Kiện Bình chia sẻ: “Con đường 10 năm qua thật gian khổ”, ngài tự nhận rằng chưa làm được gì cho giáo phận của mình, vì thế không thể tổ chức lễ mừng kỷ niệm. Ngài cho biết, do lễ phong chức giám mục lần ấy đã tạo nên sóng gió lớn trong Giáo hội, thêm vào đó là việc bổ nhiệm giám mục trong những năm gần đây hết sức nhạy cảm, và nghĩ đến việc cải thiện mối quan hệ giữa Tòa thánh và chính phủ Trung Quốc, nên ngài thà không tổ chức lễ kỷ nhiệm ấy mà chỉ khiêm tốn thúc đẩy công việc truyền bá Tin Mừng.
Năm 2008, Đức cha Phương Kiện Bình vừa chính thức nhậm chức chính tòa giáo phận này từ đức cha Lưu Cảnh Hòa mới nghỉ hưu; Đức cha Lưu Cảnh Hòa gần đây cũng đã được Tòa Thánh công nhận.
Hai vị còn lại trong số 5 vị cùng được tấn phong năm ấy là đức cha Cận Đạo Viễn, giám mục giáo phận Trường Trị (Lộ An) và đức cha Tô Trường Sơn, giám mục giáo phận Bảo Định.
Đức cha Tô Trường Sơn đã qua đời năm 2006, thọ 80 tuổi. Người thạo tin Giáo hội cho biết, Tòa Thánh, do chưa thể theo các thể thức thông thường, đã hỏi ý kiến của đức cha Tô Chí Dân thuộc Giáo hội thầm lặng hiện nay vẫn còn bị giam giữ, nên chưa thể xử lý việc đức cha Tô Trường Sơn đệ đơn xin hiệp thông với Tòa Thánh.
Việc bổ nhiệm Giám mục vẫn là ngăn trở cho việc thiết lập bang giao giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng
Người thạo tin cho biết, vào năm 2008, Tòa Thánh đã công nhận đức cha Cận Đạo Viễn là “giám mục hợp pháp nhưng không có quyền quản trị”, đồng thời yêu cầu ngài tùng phục đức cha chính tòa giáo phận là đức giám mục Lý Nghị.
Tuy nhiên, đức cha Lý Nghị, người được Tòa Thánh bổ nhiệm chính thức nhưng không được chính quyền Trung Cộng công nhận, đã nói với UCANS, ngài và đức cha Cận Đạo Viễn vẫn chưa có bất cứ sự hòa giải nào. Ngài nói: “Năm ngoái, tôi đã mời đức cha Cận Đạo Viễn cùng đồng tế lễ Truyền Dầu, nhưng ngài đã không đến”. Cả hai vị giám mục trên đều đã hơn 80 tuổi, tự điều hành công việc mục vụ riêng rẽ, mỗi vị lãnh đạo khoảng 20 linh mục.
Gần 10 năm trở lại đây, quan hệ giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng có lúc lên lúc xuống, vấn đề bổ nhiệm giám mục vẫn là một trong những trở ngại chính. Trước mắt trong số 80 vị giám mục của Trung Quốc, đã có hơn 90% được Tòa Thánh công nhận.
Năm 2007, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã có bức tông thư gửi toàn thể Giáo hội Trung Quốc, nhấn mạnh Đức Giáo hoàng là người có quyền tối cao trong việc bổ nhiệm các giám mục, từ lúc ấy đến nay, không có bất cứ một sự truyền chức giám mục bất hợp pháp nào xảy ra; và từ năm 2008 cho đến nay, Giáo hội Trung Quốc cũng vẫn không có thêm một giám mục mới nào.
Các nhà quan sát của Giáo hội cho biết, vẫn còn sớm để nói rằng cả hai phía đều đạt tới mức đồng thuận trong vấn đề bổ nhiệm giám mục.
Ngày lễ Chúa Hiển linh 6.1.2000, 5 vị giám mục Trung Quốc dù chưa được Vatican bổ nhiệm chính thức đã được truyền chức. Sự kiện này đã làm chấn động toàn thể Giáo hội hoàn vũ.
Giáo hội “công khai” tại Trung Quốc từ năm 1958 đã bắt đầu “tự chọn, tự phong” chức giám mục, cho đến lần phong chức năm 2000 là lần phong chức cho nhiều vị giám mục nhất. Lần phong chức này được cử hành cùng ngày với việc Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tấn phong Giám mục cho 12 vị tại Vatican. Tin này khi lan truyền ra bên ngoài đã làm mọi người trong và ngoài Trung Quốc hết sức chú ý.
Ông Lâm Thụy Kỳ, một nghiên cứu viên lâu năm, nhiều kinh nghiệm của Trung tâm nghiên cứu Chúa Thánh Thần thuộc giáo phận Hong Kong, đã nói với UCANS, sự kiện năm đó đã “làm vỡ vụn những kỳ vọng của mọi người về mối quan hệ giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng, về lâu dài trở thành một nhân tố bất lợi cho việc thiết lập bang giao giữa hai phía".
Giám mục Lục Tân Bình: rất xác tín về ơn gọi
Cha Lục Tân Bình, năm ấy mới 36 tuổi được tấn phong Giám mục phụ tá giáo phận Nam Kinh, là người trẻ tuổi nhất trong số 5 vị. Cha nhớ lại lúc ấy “ tâm hồn rất băn khoăn”, nhưng cha nghĩ đến hoàn cảnh giáo hội địa phương hết sức đặc thù, nên cuối cùng đã quyết định phục tùng mệnh lệnh của Đức Giám mục đương quyền. Cha nói: “Từ trước đến giờ tôi luôn xác tín về ơn gọi của mình, và tôi tin Thiên Chúa hiểu quyết định của tôi”.
Đức cha Lục Tân Bình cho biết, trước khi Tòa thánh chấp nhận ngài vào năm 2007, ngài đã trải qua một khoảng thời gian không ít khó khăn, nhiều thầy đại chủng sinh không chấp nhận ngài truyền chức phó tế hay linh mục, giáo dân cũng có nhiều cách nhìn rất khác nhau. Ngài nói: “Tôi hiểu cảm giác của họ, cũng may là vẫn còn đa số linh mục và giáo dân tôn trọng (tôi)”.
Giáo phận Nam Kinh hiện có 40.000 giáo dân, trong đó vẫn còn 5.000 giáo dân ở nhà dự thánh lễ do các linh mục thuộc Giáo hội thầm lặng cử hành, nhưng, Đức cha Lục Tân Bình nói rằng, giữa hai giáo hội trong những năm gần đây không có bất kỳ xung đột nào.
Ngài cũng bộc lộ, ngài từng khuyên các vị ứng viên chức giám mục rằng “được Đức Thánh Cha bổ nhiệm thì tốt hơn”, điều đó sẽ làm cho công tác mục vụ thuận lợi hơn.
Đầu tháng Giêng năm nay, giáo phận Nam Kinh đã tổ chức đợt tĩnh tâm cho các linh mục nhân Năm Linh mục, vì thế không tổ chức việc kỷ niệm 10 năm ngày được tấn phong giám mục của đức cha Lục Tân Bình.
Trong khoảng thời gian này, một cộng đoàn giáo hội công khai thuộc vùng Hoa Đông là giáo phận Mân Đông vào ngày 9.1.2010 đã cử hành dịp kỷ niệm 10 năm được tấn phong giám mục của đức cha Chiêm Tư Lộc gồm Thánh lễ, tọa đàm và tiệc mừng. Ngoài khoảng vài trăm giáo dân, một số quan chức chính phủ trung ương và địa phương đến dự; còn có ông Lưu Bách Niên, phó chủ tịch Giáo hội Ái quốc Trung quốc, đã từ Bắc Kinh đến nhà thờ chính toàn tại thành phố Ninh Đức để tham dự đợt kỷ niệm này.
Đức cha Chiêm Tư Lộc: Thập giá là giao kết giữa Đau khổ và Niềm vui.
Đức cha Chiêm Tư Lộc, là vị duy nhất trong 5 vị không được Tòa thánh công nhận, nói: những khúc mắc và cả những trọng trách mà ngài trải qua trong 10 năm được phong làm giám mục làm cho ngài ngày càng hiểu rõ hơn về sự kỳ diệu của Ơn gọi. Ngài giảng trong Thánh lễ hôm ấy: “Trong tim của tôi, số 10 (thập,+) không phải chỉ là một con số đơn thuần, cũng không chỉ là một ký hiệu toán học, mà đó là sự giao kết giữa đau khổ và niềm vui, cái chết và sự sống”.
Đức cha Chiêm Tư Lộc, 48 tuổi, nói với UCANS rằng, ngài “vẫn chờ đợi trong hi vọng” được hiệp thông với Đức Thánh Cha.
Giáo phận Mân Đông gồm 70.000 tín hữu, 1/10 trong số đó thuộc quyền lãnh đạo của đức cha Chiêm Tư Lộc, đa số các giáo hữu đều phục tùng đức cha Hoàng Thủ Thành thuộc Giáo hội thầm lặng.
Một số linh mục thuộc Giáo hội thầm lặng nói với UCANS, họ không nhận lời mời dự lễ kỷ niệm 10 phong giám mục của đức cha Chiêm Tư Lộc, vì họ không thể hiệp thông với ngài trong Thánh lễ; nhưng, nếu một ngày nào đó, đức cha Chiêm Tư Lộc được công nhận, họ đều phục tùng quyết định của Tòa Thánh.
Đức Cha Phương Kiện Bình thuộc giáo phận Đường Sơn (vùng Hoa Bắc, Trung Quốc) là 1 trong 5 vị được Tòa Thánh công nhận sớm nhất, vào năm 2002.
Đức cha Phương Kiện Bình chia sẻ: “Con đường 10 năm qua thật gian khổ”, ngài tự nhận rằng chưa làm được gì cho giáo phận của mình, vì thế không thể tổ chức lễ mừng kỷ niệm. Ngài cho biết, do lễ phong chức giám mục lần ấy đã tạo nên sóng gió lớn trong Giáo hội, thêm vào đó là việc bổ nhiệm giám mục trong những năm gần đây hết sức nhạy cảm, và nghĩ đến việc cải thiện mối quan hệ giữa Tòa thánh và chính phủ Trung Quốc, nên ngài thà không tổ chức lễ kỷ nhiệm ấy mà chỉ khiêm tốn thúc đẩy công việc truyền bá Tin Mừng.
Năm 2008, Đức cha Phương Kiện Bình vừa chính thức nhậm chức chính tòa giáo phận này từ đức cha Lưu Cảnh Hòa mới nghỉ hưu; Đức cha Lưu Cảnh Hòa gần đây cũng đã được Tòa Thánh công nhận.
Hai vị còn lại trong số 5 vị cùng được tấn phong năm ấy là đức cha Cận Đạo Viễn, giám mục giáo phận Trường Trị (Lộ An) và đức cha Tô Trường Sơn, giám mục giáo phận Bảo Định.
Đức cha Tô Trường Sơn đã qua đời năm 2006, thọ 80 tuổi. Người thạo tin Giáo hội cho biết, Tòa Thánh, do chưa thể theo các thể thức thông thường, đã hỏi ý kiến của đức cha Tô Chí Dân thuộc Giáo hội thầm lặng hiện nay vẫn còn bị giam giữ, nên chưa thể xử lý việc đức cha Tô Trường Sơn đệ đơn xin hiệp thông với Tòa Thánh.
Việc bổ nhiệm Giám mục vẫn là ngăn trở cho việc thiết lập bang giao giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng
Người thạo tin cho biết, vào năm 2008, Tòa Thánh đã công nhận đức cha Cận Đạo Viễn là “giám mục hợp pháp nhưng không có quyền quản trị”, đồng thời yêu cầu ngài tùng phục đức cha chính tòa giáo phận là đức giám mục Lý Nghị.
Tuy nhiên, đức cha Lý Nghị, người được Tòa Thánh bổ nhiệm chính thức nhưng không được chính quyền Trung Cộng công nhận, đã nói với UCANS, ngài và đức cha Cận Đạo Viễn vẫn chưa có bất cứ sự hòa giải nào. Ngài nói: “Năm ngoái, tôi đã mời đức cha Cận Đạo Viễn cùng đồng tế lễ Truyền Dầu, nhưng ngài đã không đến”. Cả hai vị giám mục trên đều đã hơn 80 tuổi, tự điều hành công việc mục vụ riêng rẽ, mỗi vị lãnh đạo khoảng 20 linh mục.
Gần 10 năm trở lại đây, quan hệ giữa Tòa Thánh và chính quyền Trung Cộng có lúc lên lúc xuống, vấn đề bổ nhiệm giám mục vẫn là một trong những trở ngại chính. Trước mắt trong số 80 vị giám mục của Trung Quốc, đã có hơn 90% được Tòa Thánh công nhận.
Năm 2007, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã có bức tông thư gửi toàn thể Giáo hội Trung Quốc, nhấn mạnh Đức Giáo hoàng là người có quyền tối cao trong việc bổ nhiệm các giám mục, từ lúc ấy đến nay, không có bất cứ một sự truyền chức giám mục bất hợp pháp nào xảy ra; và từ năm 2008 cho đến nay, Giáo hội Trung Quốc cũng vẫn không có thêm một giám mục mới nào.
Các nhà quan sát của Giáo hội cho biết, vẫn còn sớm để nói rằng cả hai phía đều đạt tới mức đồng thuận trong vấn đề bổ nhiệm giám mục.
Giáo hội Cuba cảnh báo về nguy cơ kinh tế sụp đổ
Tú Anh, RFI
18:33 02/02/2010
Tờ báo của Tòa tổng giám mục La Habana hôm qua, 01/02/2010, đã kêu gọi chính phủ Cuba phải tiến hành những cải tổ để cứu vãn nền kinh tế đang bên bờ của sự sụp đổ.
Theo bài báo này, '' tình hình kinh tế Cuba đã trở nên phức tạp và có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, do những mất cân đối nội tại và tình hình khó khăn của thế giới''.
Trước đó, vào tháng 9 năm ngoái, tờ báo của Tòa tổng giám mục cũng đã từng chỉ trích '' sự tập trung quá độ và quốc doanh hóa toàn diện khiến chi tiêu công tăng cao và đây là một trở ngại lớn đối với tiến trình hiện đại hóa, sự phát huy sáng kiến cá nhân và tiến bộ''
Trong năm 2009, mức tăng trưởng của Cuba chỉ đạt 1,4%, so với mức 4,1% của năm 2008, do sụt giảm thu nhập về du lịch và xuất khẩu nickel, do hậu quả nhiều cơn bão và do lệnh cấm vận của Mỹ. Hiện giờ, chính phủ Cuban vẫn kiểm soát đến 95% nền kinh tế.
Các tổ chức nhân quyền đòi Lào cho tiếp xúc với người Hmong bị cưỡng bách hồi hương.
(Nguồn: http://www.congdongnguoiviet.fr/ThoiSuNQ/1002KimLong2ToiAcChongNLh.htm)
Theo bài báo này, '' tình hình kinh tế Cuba đã trở nên phức tạp và có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, do những mất cân đối nội tại và tình hình khó khăn của thế giới''.
Trước đó, vào tháng 9 năm ngoái, tờ báo của Tòa tổng giám mục cũng đã từng chỉ trích '' sự tập trung quá độ và quốc doanh hóa toàn diện khiến chi tiêu công tăng cao và đây là một trở ngại lớn đối với tiến trình hiện đại hóa, sự phát huy sáng kiến cá nhân và tiến bộ''
Trong năm 2009, mức tăng trưởng của Cuba chỉ đạt 1,4%, so với mức 4,1% của năm 2008, do sụt giảm thu nhập về du lịch và xuất khẩu nickel, do hậu quả nhiều cơn bão và do lệnh cấm vận của Mỹ. Hiện giờ, chính phủ Cuban vẫn kiểm soát đến 95% nền kinh tế.
Các tổ chức nhân quyền đòi Lào cho tiếp xúc với người Hmong bị cưỡng bách hồi hương.
(Nguồn: http://www.congdongnguoiviet.fr/ThoiSuNQ/1002KimLong2ToiAcChongNLh.htm)
Toà thánh ra thông báo về số tu sĩ tử nạn tại trận động đất Haiti
Trần Mạnh Trác
18:53 02/02/2010
Vatican, ngày 2 tháng 2 năm 2010 (CNA). - Hai mươi ngày sau khi Haiti bị tàn phá bởi trận động đất 7.0 độ (richter scale ), Toà thánh Vatican đã công bố danh sách đầu tiên số thiệt mạng cuả các nam và nữ tu sĩ. Bản báo cáo cũng liệt kê các tòa nhà đã bị phá hủy hoặc thiệt hại trong thảm họa này.
Theo cơ quan Tin Tức Truyền Giáo Fides, danh sách của các tu sĩ tử nạn cho thấy rằng trận động đất gây ra "thiệt hại không thể đền bù được" cho Giáo Hội Công Giáo Haiti, đó là chưa kể những thiệt hại về cơ sở hạ tầng của Giáo Hội.
Báo cáo sơ bộ cho thấy rằng các ngôi nhà cuả dòng Daughters of Charity of St Vincent de Paul đã bị thiệt hại và họ đã mất đi một nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Wisdom bị tiêu hủy toàn bộ nhà và trường học, và chết sáu nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Mary đã chịu nhiều cực kỳ thương khó với cái chết cuả 13 nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Mary Help of Christians, nhà và nhà trường đã bị san bằng, trong khi dòng (nam) Christian Brothers bị mất nhà dòng chính, ba trường học và sự sống cuả hai thầy.
Dòng chuyên về giáo dục The Little Sisters of St Therese phải chịu mất mát sinh mạng bốn nữ tu, bảy giáo viên và 60 học sinh. Hai nhà dòng và năm trường học bị san bằng.
Dòng Salesians Don Bosco bị mất ba thầy cũng như một nhà dòng và một trường học.
Sau cùng, dòng Sisters of St Anne báo cáo một sơ thiệt mạng.
Dòng The Sisters Franciscan thông báo với Vatican rằng trường học của họ bị phá huỷ hoàn toàn.
Theo báo cáo, còn nhiều thiệt hại vật chất rộng lớn cho các cơ sở của dòng Marianists, dòng Missionaries of Scheut, dòng Missionaries of the Heart of Mary Immaculate, và dòng nữ Đa Minh Dominican Sisters of the Presentation.
Theo cơ quan Tin Tức Truyền Giáo Fides, danh sách của các tu sĩ tử nạn cho thấy rằng trận động đất gây ra "thiệt hại không thể đền bù được" cho Giáo Hội Công Giáo Haiti, đó là chưa kể những thiệt hại về cơ sở hạ tầng của Giáo Hội.
Báo cáo sơ bộ cho thấy rằng các ngôi nhà cuả dòng Daughters of Charity of St Vincent de Paul đã bị thiệt hại và họ đã mất đi một nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Wisdom bị tiêu hủy toàn bộ nhà và trường học, và chết sáu nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Mary đã chịu nhiều cực kỳ thương khó với cái chết cuả 13 nữ tu.
Nhà dòng The Daughters of Mary Help of Christians, nhà và nhà trường đã bị san bằng, trong khi dòng (nam) Christian Brothers bị mất nhà dòng chính, ba trường học và sự sống cuả hai thầy.
Dòng chuyên về giáo dục The Little Sisters of St Therese phải chịu mất mát sinh mạng bốn nữ tu, bảy giáo viên và 60 học sinh. Hai nhà dòng và năm trường học bị san bằng.
Dòng Salesians Don Bosco bị mất ba thầy cũng như một nhà dòng và một trường học.
Sau cùng, dòng Sisters of St Anne báo cáo một sơ thiệt mạng.
Dòng The Sisters Franciscan thông báo với Vatican rằng trường học của họ bị phá huỷ hoàn toàn.
Theo báo cáo, còn nhiều thiệt hại vật chất rộng lớn cho các cơ sở của dòng Marianists, dòng Missionaries of Scheut, dòng Missionaries of the Heart of Mary Immaculate, và dòng nữ Đa Minh Dominican Sisters of the Presentation.
Diễn đàn quốc tế lần thứ 10 về giới trẻ
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
19:02 02/02/2010
ROMA 02/02/2010 (zenit.org) - Diễn đàn quốc tế lần thứ 10 về giới trẻ sẽ được Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân tổ chức từ ngày 24 đến ngày 28 tháng ba tại Roma, báo Osservatore Romano đã loan tin trong số ấn hành ngày 2 tháng hai.
300 bạn trẻ, đại biểu thuộc HĐGM các nước và các phong trào cũng như các hiệp hội quốc tế sẽ cùng nhau thảo luận về chủ đề: « Học hỏi để yêu thương ».
Trong một xã hội bị đụng chạm bởi « sự khủng hoảng về hôn nhân Kitô giáo và mẫu mực truyền thống về gia đình », « bởi sự hụt hẫng về giáo dục và bởi thuyết tương đối về luân lý », các bạn trẻ sẽ tìm tòi để hiểu biết làm thế nào có thể đáp trả ơn gọi Kitô hữu bằng tình yêu.
Chương trình gồm: các cuộc hội thảo, bàn tròn, chứng tá và làm việc nhóm. Những người tham dự sẽ đề cập đến các chủ đề như: vẻ đẹp tình yêu của Thiên Chúa, nhãn quan Kitô giáo về tính dục, hứa hôn như là sự chuẩn bị cho hôn nhân Kitô giáo, bí tích hôn phối…
Mặt khác, các chứng từ cũng sẽ liên quan đến những bậc sống khác nhau: đời sống thánh hiến, tư tế, dấn thân trong xã hội và chính trị.
Đây cũng là dịp để cho các bạn trẻ « sống cụ thể hóa chiều kích Giáo Hội », báo Osservatore Romano nhận định, lại vừa tham dự vào những buổi cầu nguyện, cử hành bí tích hay chuyến hành hương theo chân thánh Phêrô và Phaolô cũng như các vị thánh lớn của Giáo Hội.
Diễn đàn này quy tụ các bạn trẻ trên khắp thế giới cứ ba năm một lần. Chủ đề của năm 2004 là « Làm chứng cho Chúa Kitô trong môi trường đại học » và của năm 2007 là «Làm chứng cho Chúa Kitô trong môi trường nghề nghiệp ».
300 bạn trẻ, đại biểu thuộc HĐGM các nước và các phong trào cũng như các hiệp hội quốc tế sẽ cùng nhau thảo luận về chủ đề: « Học hỏi để yêu thương ».
Trong một xã hội bị đụng chạm bởi « sự khủng hoảng về hôn nhân Kitô giáo và mẫu mực truyền thống về gia đình », « bởi sự hụt hẫng về giáo dục và bởi thuyết tương đối về luân lý », các bạn trẻ sẽ tìm tòi để hiểu biết làm thế nào có thể đáp trả ơn gọi Kitô hữu bằng tình yêu.
Chương trình gồm: các cuộc hội thảo, bàn tròn, chứng tá và làm việc nhóm. Những người tham dự sẽ đề cập đến các chủ đề như: vẻ đẹp tình yêu của Thiên Chúa, nhãn quan Kitô giáo về tính dục, hứa hôn như là sự chuẩn bị cho hôn nhân Kitô giáo, bí tích hôn phối…
Mặt khác, các chứng từ cũng sẽ liên quan đến những bậc sống khác nhau: đời sống thánh hiến, tư tế, dấn thân trong xã hội và chính trị.
Đây cũng là dịp để cho các bạn trẻ « sống cụ thể hóa chiều kích Giáo Hội », báo Osservatore Romano nhận định, lại vừa tham dự vào những buổi cầu nguyện, cử hành bí tích hay chuyến hành hương theo chân thánh Phêrô và Phaolô cũng như các vị thánh lớn của Giáo Hội.
Diễn đàn này quy tụ các bạn trẻ trên khắp thế giới cứ ba năm một lần. Chủ đề của năm 2004 là « Làm chứng cho Chúa Kitô trong môi trường đại học » và của năm 2007 là «Làm chứng cho Chúa Kitô trong môi trường nghề nghiệp ».
Giáo hội tại Cuba cho rằng kinh tế nước này đang đứng bên bờ vực thẳm.
Chu Văn
19:04 02/02/2010
Giáo hội tại Cuba cho rằng kinh tế nước này đang đứng bên bờ vực thẳm.
Havana [AFP 31/1/2010] - Giáo hội Công giáo tại Cuba cho rằng kinh tế nước này đang đứng bên bờ vực thẳm.
Trong số ra ngày Chúa Nhựt vừa qua, tuần báo của tổng giáo phận Havana viết rằng chính phủ Cuba cần phải đưa ra những cải tổ để cứu nền kinh tế nước này khỏi sụp đổ.
Trên báo "Palabra Nueva" của tổng giáo phận Havana, cha Boris Moreno, một nhà chuyên môn về kinh tế học, nhận định rằng tình hình kinh tế của Cuba đã trở nên khá phức tạp và có nguy cơ rơi xuống vực thẳm. Vì những xáo trộn nội bộ cũng như tình trạng kinh tế khó khăn của toàn thế giới, kinh tế Cuba đang rơi vào một tình trạng đáng lo ngại.
Dạo tháng 9 năm 2009, tuần báo của Tổng giáo phận Havana cũng đã tố cáo "chủ trương tập trung kinh tế và chính sách quốc hữu hóa thái quá" của chính phủ, khiến tạo ra thất thoát và gây cản trở cho công cuộc hiện đại hóa cũng như phát huy sáng kiến cá nhân và sự tiến bộ.
Tỷ lệ gia tăng kinh tế của quốc gia cộng sản này là 4.1 phần trăm trong năm 2008. Trong năm 2009, mức tăng trưởng kinh tế chỉ còn 1.4 phần trăm. Một trong những lý do chính của tình trạng trì trệ này là sự giảm sút mức thu nhập từ ngành du lịch. Việc xuất khẩu kền [nickel] cũng sút giảm và nhứt các trận bão lụt vừa qua cũng như tình trạng cấm vận do Hoa kỳ áp đặt từ năm 1962 cũng gây ra nhiều thiệt hại cho kinh tế của nước này.
Vốn kiểm soát 95 phần trăm hoạt động kinh tế, chính phủ cộng sản Cuba đã nhìn nhận rằng đất nước đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về ngoại tệ và đề ra mục tiêu tăng trưởng là 1.9 phần trăm trong năm 2010.
Chính phủ loan báo sẽ cắt giảm chi phí và nhập khẩu mà 80 phần trăm là thực phẩm cũng như đề ra những biện pháp gia tăng sản xuất, vốn bị trì trệ vì nạn bàn giấy, nạn trộm cắp trong các công ty quốc doanh.
Cha Moreno than phiền là chưa thấy có dấu hiệu cải tổ nào dưới thời ông Raul Castro, người đã lên thay thế anh mình là chủ tịch Fidel Castro cách đây 3 năm.
Havana [AFP 31/1/2010] - Giáo hội Công giáo tại Cuba cho rằng kinh tế nước này đang đứng bên bờ vực thẳm.
Trong số ra ngày Chúa Nhựt vừa qua, tuần báo của tổng giáo phận Havana viết rằng chính phủ Cuba cần phải đưa ra những cải tổ để cứu nền kinh tế nước này khỏi sụp đổ.
Trên báo "Palabra Nueva" của tổng giáo phận Havana, cha Boris Moreno, một nhà chuyên môn về kinh tế học, nhận định rằng tình hình kinh tế của Cuba đã trở nên khá phức tạp và có nguy cơ rơi xuống vực thẳm. Vì những xáo trộn nội bộ cũng như tình trạng kinh tế khó khăn của toàn thế giới, kinh tế Cuba đang rơi vào một tình trạng đáng lo ngại.
Dạo tháng 9 năm 2009, tuần báo của Tổng giáo phận Havana cũng đã tố cáo "chủ trương tập trung kinh tế và chính sách quốc hữu hóa thái quá" của chính phủ, khiến tạo ra thất thoát và gây cản trở cho công cuộc hiện đại hóa cũng như phát huy sáng kiến cá nhân và sự tiến bộ.
Tỷ lệ gia tăng kinh tế của quốc gia cộng sản này là 4.1 phần trăm trong năm 2008. Trong năm 2009, mức tăng trưởng kinh tế chỉ còn 1.4 phần trăm. Một trong những lý do chính của tình trạng trì trệ này là sự giảm sút mức thu nhập từ ngành du lịch. Việc xuất khẩu kền [nickel] cũng sút giảm và nhứt các trận bão lụt vừa qua cũng như tình trạng cấm vận do Hoa kỳ áp đặt từ năm 1962 cũng gây ra nhiều thiệt hại cho kinh tế của nước này.
Vốn kiểm soát 95 phần trăm hoạt động kinh tế, chính phủ cộng sản Cuba đã nhìn nhận rằng đất nước đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về ngoại tệ và đề ra mục tiêu tăng trưởng là 1.9 phần trăm trong năm 2010.
Chính phủ loan báo sẽ cắt giảm chi phí và nhập khẩu mà 80 phần trăm là thực phẩm cũng như đề ra những biện pháp gia tăng sản xuất, vốn bị trì trệ vì nạn bàn giấy, nạn trộm cắp trong các công ty quốc doanh.
Cha Moreno than phiền là chưa thấy có dấu hiệu cải tổ nào dưới thời ông Raul Castro, người đã lên thay thế anh mình là chủ tịch Fidel Castro cách đây 3 năm.
Kỷ niệm 125 năm thành lập tổ chức thiện nguyện tại Lộ Ðức.
Chu Văn
19:08 02/02/2010
Kỷ niệm 125 năm thành lập tổ chức thiện nguyện tại Lộ Ðức.
Roma [Zenit 31/1/2010] - Tổ Chức thiện nguyện tại Lộ Ðức kỷ niệm 125 năm thành lập.
Trong buổi tiếp kiến sáng thứ Tư 27 tháng Giêng năm 2010, Ðức thánh cha Benedicto XVI đã chào thăm Ðức cha Jacques Perrier, giám mục Tarbes-Lộ Ðức và hàng trăm thiện nguyện viên Lộ Ðức. Thiện nguyện Lộ Ðức là một tổ chức quốc tế làm công tác thiện nguyện trong việc đón tiếp và chăm sóc khách hành hương tại Trung Tâm Lộ Ðức.
Tổ chức này được thành lập ngày 28 tháng Giêng năm 1885. Hiện tổ chức này qui tụ trên 20 ngàn thiện nguyện viên đến từ hơn 70 quốc gia trên thế giới.
Ngỏ lời với một nhóm thiện nguyện viên hiện diện trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần sáng thư Tư 27 tháng Giêng năm 2010, Ðức thánh cha nói rằng sứ mệnh của tổ chức là một sự phục vụ quý báu.
Một thông cáo của tổ chức cho biết các thiện nguyện viên đảm trách nhiều dịch vụ như đón tiếp khách hành hương tại ga xe lửa và phi trường Lộ Ðức, lo chỗ ăn chỗ ở cho khách hành hương, chuẩn bị các buổi lễ, hướng dẫn khách hành hương đến các phòng tắm.
Ðể được thu nhận làm thiện nguyện viên, các bạn trẻ trên 18 tuổi phải theo một khóa huấn luyện 4 năm.
Roma [Zenit 31/1/2010] - Tổ Chức thiện nguyện tại Lộ Ðức kỷ niệm 125 năm thành lập.
Trong buổi tiếp kiến sáng thứ Tư 27 tháng Giêng năm 2010, Ðức thánh cha Benedicto XVI đã chào thăm Ðức cha Jacques Perrier, giám mục Tarbes-Lộ Ðức và hàng trăm thiện nguyện viên Lộ Ðức. Thiện nguyện Lộ Ðức là một tổ chức quốc tế làm công tác thiện nguyện trong việc đón tiếp và chăm sóc khách hành hương tại Trung Tâm Lộ Ðức.
Tổ chức này được thành lập ngày 28 tháng Giêng năm 1885. Hiện tổ chức này qui tụ trên 20 ngàn thiện nguyện viên đến từ hơn 70 quốc gia trên thế giới.
Ngỏ lời với một nhóm thiện nguyện viên hiện diện trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần sáng thư Tư 27 tháng Giêng năm 2010, Ðức thánh cha nói rằng sứ mệnh của tổ chức là một sự phục vụ quý báu.
Một thông cáo của tổ chức cho biết các thiện nguyện viên đảm trách nhiều dịch vụ như đón tiếp khách hành hương tại ga xe lửa và phi trường Lộ Ðức, lo chỗ ăn chỗ ở cho khách hành hương, chuẩn bị các buổi lễ, hướng dẫn khách hành hương đến các phòng tắm.
Ðể được thu nhận làm thiện nguyện viên, các bạn trẻ trên 18 tuổi phải theo một khóa huấn luyện 4 năm.
Top Stories
Polish "Chain of Hearts” Initiative: great encouragement to faithful in Vietnam
J.B. An Dang
08:52 02/02/2010
Catholics in Vietnam have recently learned great news from Polish Catholic News Agency KAI that the upcoming Thursday, February 4 will be the Polish National Day of Prayer for persecuted Vietnamese Catholics.
“We cannot remain indifferent,” said Dr. Thomas Atłas, the secretary of the Polish Episcopate for the Missions. “We invite everyone to be involved in our initiative, ‘chain of hearts’, whose aim is to provide spiritual support for the Church in Vietnam and firm opposition to repression and religious persecution, whose expression is the e-mails, letters and calls addressed to the Vietnamese diplomatic mission in our country.”
News on The Polish National Day of Prayer for persecuted Vietnamese Catholics, an initiative of the Polish Bishops' Commission for Missions and of Polish Redemptorist Province, “has spread quickly in Hanoi,” observed Fr. Joseph Nguyen from the Vietnam capital.
“It’s so joyful and emotional to hear such good things happening in our time of trials and tribulation, ” he added.
Fr. Van Chi Chu, spokesperson of The Federation of Vietnamese Catholic Mass Media, warmly praised the initiative of Polish brothers and sisters in Christ.
“This precious, innovative idea of the Missionary Committee of the Polish Episcopal Council is a great source of encouragement, and comfort for the Church in Vietnam and our country in general,” he said.
“Fervent prayer is the answer for brutal violence,” he added noting that Vietnamese Catholics around the world have launched a campaign of “Exult the Cross of Christ as the instrument of our salvation”. “The Adoration of the Precious and Life-Giving Cross,” said Fr. Van Chi, “is the answer for the act of sacrilege of demolition of the crucifix at Dong Chiem parish.”
The campaign of “Exult the Cross of Christ” has started sometime after the demolition of the Dong Chiem crucifix in Vinh diocese and is spreading quickly inside Vietnam. In the photo, thousands of Catholics packed the church at Yen Hoa in the diocese of Vinh on Jan. 30 for the adoration of Cross and a special Mass to pray for Dong Chiem parish. It has been proven to be a great success as many Vietnamese Catholic congregations throughout the country and abroad have joined the chorus to exult the crucifix, a positive result coming out of Dong Chiem incident.
“We cannot remain indifferent,” said Dr. Thomas Atłas, the secretary of the Polish Episcopate for the Missions. “We invite everyone to be involved in our initiative, ‘chain of hearts’, whose aim is to provide spiritual support for the Church in Vietnam and firm opposition to repression and religious persecution, whose expression is the e-mails, letters and calls addressed to the Vietnamese diplomatic mission in our country.”
“It’s so joyful and emotional to hear such good things happening in our time of trials and tribulation, ” he added.
Fr. Van Chi Chu, spokesperson of The Federation of Vietnamese Catholic Mass Media, warmly praised the initiative of Polish brothers and sisters in Christ.
“This precious, innovative idea of the Missionary Committee of the Polish Episcopal Council is a great source of encouragement, and comfort for the Church in Vietnam and our country in general,” he said.
“Fervent prayer is the answer for brutal violence,” he added noting that Vietnamese Catholics around the world have launched a campaign of “Exult the Cross of Christ as the instrument of our salvation”. “The Adoration of the Precious and Life-Giving Cross,” said Fr. Van Chi, “is the answer for the act of sacrilege of demolition of the crucifix at Dong Chiem parish.”
The campaign of “Exult the Cross of Christ” has started sometime after the demolition of the Dong Chiem crucifix in Vinh diocese and is spreading quickly inside Vietnam. In the photo, thousands of Catholics packed the church at Yen Hoa in the diocese of Vinh on Jan. 30 for the adoration of Cross and a special Mass to pray for Dong Chiem parish. It has been proven to be a great success as many Vietnamese Catholic congregations throughout the country and abroad have joined the chorus to exult the crucifix, a positive result coming out of Dong Chiem incident.
More violence in Dong Chiem as police attack three Catholic students
Asia-News
08:57 02/02/2010
The students had gone to church to pray. A group of police agents attacked them. One of the three was arrested. The authorities are preparing reports against the people who protested against the destruction of the local cross. The archbishop of Hanoi is targeted again.
Hanoi (AsiaNews) – Dong Chiem is still under attack. After destroying the cross on Che Mountain, forcing residents to remove those that had been erected in its place, beating priests, journalists and worshippers, the authorities are still laying siege to the parish church, attacking anyone who dares approach it. Last Saturday, three students from the Saint Anthony of Padua Congregation in Vinh were stopped for doing just that, one was arrested.
According to the congregation’s spiritual adviser Fr John Luu Ngoc Quynh, the three “had attended the Eucharistic adoration at Dong Chiem church.” A kilometre from there in An Tien commune, they were “on their way home” when a “group of police agents stopped them and then savagely attacked them”. One of students, Anthony Tran Van Son, “tried to run in a field but was chased and beaten.” Next day, “at 11.30 pm, police brought him to his dormitory and after searching the premises took away two other students who shared his room.”
Fr Luu Ngoc Quynh firmly slammed the “continued violation of the law against Vietnamese citizens, especially Catholics”. In a statement, he called for Anthony Tran Van Son’s release and a end to the siege of Dong Chiem parish as well as respect for the right to move freely. He urged the Vietnamese government "to investigate the latest attack in order to bring the culprits to justice."
According to Églises d’Asie, the authorities are drafting two reports to identify those who organised the protest movement against the removal of the cross, which was blown up on 6 January.
The first one is by An Phu commune (where the parish church is located), which points the finger at a number of lay people and many Redemptorists, referring to each by name.
The second by My Duc District, which includes Dong Chiem, was sent to Hanoi. It singles out the archbishopric in the capital, openly naming its chancellor, Fr Le Trong Cung, who signed the two press releases that made public what was happening. However, it lays the greatest blame on the archbishop himself, Mgr Joseph Ngo Quang Kiêt, for mobilising priests and worshippers and for allowing the press releases to go ahead.
But this is nothing new; Mgr Kiet had already been attacked in the past. In fact, Hanoi’s mayor did call for his removal from office.
Indeed, as Redemptorist Superior Fr Vincent Pham Trung Thanh told AsiaNews, “the government is trying its best to lure the archbishop of Hanoi and Thai ha Redemptorists into a trap in which the tiniest mistake [on their part] would give the government an opportunity for open persecution, or at least an excuse to launch accusations against them.”
Hanoi (AsiaNews) – Dong Chiem is still under attack. After destroying the cross on Che Mountain, forcing residents to remove those that had been erected in its place, beating priests, journalists and worshippers, the authorities are still laying siege to the parish church, attacking anyone who dares approach it. Last Saturday, three students from the Saint Anthony of Padua Congregation in Vinh were stopped for doing just that, one was arrested.
According to the congregation’s spiritual adviser Fr John Luu Ngoc Quynh, the three “had attended the Eucharistic adoration at Dong Chiem church.” A kilometre from there in An Tien commune, they were “on their way home” when a “group of police agents stopped them and then savagely attacked them”. One of students, Anthony Tran Van Son, “tried to run in a field but was chased and beaten.” Next day, “at 11.30 pm, police brought him to his dormitory and after searching the premises took away two other students who shared his room.”
Fr Luu Ngoc Quynh firmly slammed the “continued violation of the law against Vietnamese citizens, especially Catholics”. In a statement, he called for Anthony Tran Van Son’s release and a end to the siege of Dong Chiem parish as well as respect for the right to move freely. He urged the Vietnamese government "to investigate the latest attack in order to bring the culprits to justice."
According to Églises d’Asie, the authorities are drafting two reports to identify those who organised the protest movement against the removal of the cross, which was blown up on 6 January.
The first one is by An Phu commune (where the parish church is located), which points the finger at a number of lay people and many Redemptorists, referring to each by name.
The second by My Duc District, which includes Dong Chiem, was sent to Hanoi. It singles out the archbishopric in the capital, openly naming its chancellor, Fr Le Trong Cung, who signed the two press releases that made public what was happening. However, it lays the greatest blame on the archbishop himself, Mgr Joseph Ngo Quang Kiêt, for mobilising priests and worshippers and for allowing the press releases to go ahead.
But this is nothing new; Mgr Kiet had already been attacked in the past. In fact, Hanoi’s mayor did call for his removal from office.
Indeed, as Redemptorist Superior Fr Vincent Pham Trung Thanh told AsiaNews, “the government is trying its best to lure the archbishop of Hanoi and Thai ha Redemptorists into a trap in which the tiniest mistake [on their part] would give the government an opportunity for open persecution, or at least an excuse to launch accusations against them.”
Ancora violenza a Dong Chiem: la polizia aggredisce tre studenti cattolici
Asia-News
08:58 02/02/2010
I giovani si erano recati a pregare nella parrocchia. Aggrediti da un gruppo di agenti. Uno dei tre è stato anche arrestato. Le autorità preparano rapporti contro coloro che hanno protestato per la distruzione del crocefisso. Torna sotto tiro l’arcivescovo di Hanoi.
Hanoi (AsiaNews) - Non è finite a Dong Chiem. Distrutta la croce sul monte Che, costretta la gente a togliere quelle messe al suo posto, picchiati e minacciati sacerdoti, giornalisti e fedeli, le autorità continuano a tenere sotto assedio, anche se meno visibile, la parrocchia e ad assalire chi vi si reca. E’ accaduto, il 30 gennaio, a tre studenti della società Sant’Antonio da Padova di Vinh. Uno di loro è stato anche arrestato.
I tre, nella ricostruzione data da padre John Luu Ngoc Quynh, consigliere spirituale della società, a Vinh, “avevano compiuto l’adorazione eucaristica nella chiesa di Dong Chiem”. “Sulla via del ritorno, a un chilometro dalla parrocchia, ad An Tien, un gruppo di agenti li ha fermati e li ha ferocemente attaccati”. Uno dei tre, Anthony Tran Van Son “ha tentato di fuggire nei campi, ma è stato preso e picchiato con maggiore violenza”. “Alle 23.30 del 31, poi, la polizia lo ha portato al suo dormitorio e, dopo una perquisizione, ha arrestato altri due studenti che abitavano nella stessa camera”.
“Ferma” la protesta di padre Luu Ngoc Quynh per la “continua serie di violazioni della legge contro cittadini vietnamiti, in particolare cattolici”. La dichiarazione domanda l’immediato rilascio del giovane e “la fine dell’assedio alla parrocchia di Dong Chiem, il rispetto del diritto di movimento e di visitare la chiesa” e chiede “di investigare sull’attacco per portare i colpevoli davanti alla giustizia”.
Sulla vicenda di Dong Chiem, a quanto riferisce Eglises d’Asie, le autorità stanno preparando due rapporti, che mirano a individuare i responsabili del movimento di protesta contro l’abbattimento del crocefisso, fato saltare il 6 gennaio. Il primo, preparato dal comune di An Phu (nel quale è la parrocchia) chiama in causa in modo particolare alcuni fedeli laici e numerosi religiosi redentoristi. Ognuno è puntigliosamente citato per nome.
Il secondo rapporto è del distretto di My Duc (nel quale rientra Dong Chiem) ed è stato inviato alle autorità di Hanoi. Esso ha per obiettivo l’arcivescovado di Hanoi e indica esplicitamente il cancelliere, padre Le Trong Cung, firmatario dei due comunicati di denuncia di quanto accaduto. Ma il maggiore responsabilità viene attribuita all’arcivescovo, mons. Joseph Ngo Quang Kiêt che avrebbe mobilitato sacerdoti e fedeli e che avrebbe consentito la pubblicazione dei comunicati.
Quest’ultima notizia da un lato ricorda i precedenti attacchi contro mons. Kiet, del quale il sindaco della capitale chiese la rimozione, dall’altro conferma quanto detto ad AsiaNews da padre Vincent Pham Trung Thanh, superiore dei redentoristi del Vietnam, secondo il quale, con la vicenda di Dong Chiem, “il governo ha fatto del suo meglio per attirare l’arcivescovo di Hanoi e i redentoristi di Thai Ha in una trappola, nella quale un loro piccolo errore avrebbe dato alle autorità buoni pretesti per una aperta persecuzione, o almeno l’occasione per lanciare accuse contro di loro”.
Hanoi (AsiaNews) - Non è finite a Dong Chiem. Distrutta la croce sul monte Che, costretta la gente a togliere quelle messe al suo posto, picchiati e minacciati sacerdoti, giornalisti e fedeli, le autorità continuano a tenere sotto assedio, anche se meno visibile, la parrocchia e ad assalire chi vi si reca. E’ accaduto, il 30 gennaio, a tre studenti della società Sant’Antonio da Padova di Vinh. Uno di loro è stato anche arrestato.
I tre, nella ricostruzione data da padre John Luu Ngoc Quynh, consigliere spirituale della società, a Vinh, “avevano compiuto l’adorazione eucaristica nella chiesa di Dong Chiem”. “Sulla via del ritorno, a un chilometro dalla parrocchia, ad An Tien, un gruppo di agenti li ha fermati e li ha ferocemente attaccati”. Uno dei tre, Anthony Tran Van Son “ha tentato di fuggire nei campi, ma è stato preso e picchiato con maggiore violenza”. “Alle 23.30 del 31, poi, la polizia lo ha portato al suo dormitorio e, dopo una perquisizione, ha arrestato altri due studenti che abitavano nella stessa camera”.
“Ferma” la protesta di padre Luu Ngoc Quynh per la “continua serie di violazioni della legge contro cittadini vietnamiti, in particolare cattolici”. La dichiarazione domanda l’immediato rilascio del giovane e “la fine dell’assedio alla parrocchia di Dong Chiem, il rispetto del diritto di movimento e di visitare la chiesa” e chiede “di investigare sull’attacco per portare i colpevoli davanti alla giustizia”.
Sulla vicenda di Dong Chiem, a quanto riferisce Eglises d’Asie, le autorità stanno preparando due rapporti, che mirano a individuare i responsabili del movimento di protesta contro l’abbattimento del crocefisso, fato saltare il 6 gennaio. Il primo, preparato dal comune di An Phu (nel quale è la parrocchia) chiama in causa in modo particolare alcuni fedeli laici e numerosi religiosi redentoristi. Ognuno è puntigliosamente citato per nome.
Il secondo rapporto è del distretto di My Duc (nel quale rientra Dong Chiem) ed è stato inviato alle autorità di Hanoi. Esso ha per obiettivo l’arcivescovado di Hanoi e indica esplicitamente il cancelliere, padre Le Trong Cung, firmatario dei due comunicati di denuncia di quanto accaduto. Ma il maggiore responsabilità viene attribuita all’arcivescovo, mons. Joseph Ngo Quang Kiêt che avrebbe mobilitato sacerdoti e fedeli e che avrebbe consentito la pubblicazione dei comunicati.
Quest’ultima notizia da un lato ricorda i precedenti attacchi contro mons. Kiet, del quale il sindaco della capitale chiese la rimozione, dall’altro conferma quanto detto ad AsiaNews da padre Vincent Pham Trung Thanh, superiore dei redentoristi del Vietnam, secondo il quale, con la vicenda di Dong Chiem, “il governo ha fatto del suo meglio per attirare l’arcivescovo di Hanoi e i redentoristi di Thai Ha in una trappola, nella quale un loro piccolo errore avrebbe dato alle autorità buoni pretesti per una aperta persecuzione, o almeno l’occasione per lanciare accuse contro di loro”.
Philippines: Réuni en congrès à Manille, le clergé catholique est mis en garde contre la tentation de l’arrogance et du pouvoir
Eglises d'Asie
11:14 02/02/2010
Rassemblé du 24 au 29 janvier derniers à Manille, le clergé catholique philippin a réfléchi durant cinq jours autour du thème: « Fidélité au Christ, fidélité du prêtre ». Des nombreux échanges, tables rondes et conférences plénières, il est ressorti que les prêtres catholiques des Philippines devaient prendre garde à ne pas se laisser aveugler par le pouvoir que pouvait leur conférer leur position. Veiller à rester missionnaire dans le ministère quotidien doit être une préoccupation centrale pour tous les prêtres, a notamment expliqué Mgr Florentino Lavarias, président de la Commission pour les vocations de la Conférence des évêques catholiques des Philippines.
Après un premier congrès organisé en 2004 (1), c’était la deuxième fois que les évêques philippins réunissaient ainsi leurs prêtres. Pour accueillir quelque 5 500 prêtres (sur les plus de 7 000 que compte l’Eglise catholique aux Philippines), la Conférence épiscopale avait fait les choses en grand: le World Trade Center de Manille avait été loué pour la circonstance et le Cuneta Astrodome, un stade normalement dédié aux compétitions de basket, à Pasay City, dans la banlieue de Manille, avait été choisi pour accueillir la messe de clôture, célébrée dans l’après-midi du 29 janvier. Toutefois, alors que le pays est en campagne pour les élections générales du 10 mai prochain, l’archevêque de la capitale, le cardinal Gaudencio Rosales, avait prévenu à l’avance: le congrès serait interdit aux hommes politiques, l’Eglise n’étant pas désireuse de voir l’événement transformé en forum médiatique au service de la communication de tel ou tel personnalité politique.
C’est donc entre eux que les prêtres des Philippines ont réfléchi à leur ministère, en cette Année sacerdotale proclamée par le pape Benoît XVI. Venu de Rome, le capucin Raniero Cantalamessa, prédicateur de la Maison pontificale, a succédé au micro à Mgr Antonio Tagle, théologien et évêque du diocèse d’Imus, ainsi qu’à d’autres prédicateurs et personnalités, telles Maria Voce, présidente du mouvement Focolari.
Mgr Tagle avait choisi d’axer son propos sur la nécessaire humilité que devait revêtir le sacerdoce ministériel aux Philippines. La haute estime dans laquelle les Philippins tiennent leurs prêtres et leurs évêques pose une difficulté particulière à ceux-ci: trop souvent, l’exercice du sacerdoce entraîne chez eux un penchant à l’arrogance et à l’abus de pouvoir, a notamment expliqué l’évêque philippin dans une session à huis clos. Pour le P. Romulo Ponte, curé de paroisse à San Pablo City, ville située au sud-est de Manille, sur l’île de Luzon, le propos vise juste. « Il est très facile de se laisser aller lorsque l’on est prêtre aux Philippines », explique-t-il, notamment là où les catholiques sont très majoritaires, au centre et au nord du pays. Les prêtres sont invités à toutes sortes de festivités mondaines; s’il y a une file d’attente quelque part, on les fait passer devant; ils sont sollicités pour prendre la parole, y compris sur des sujets où ils n’ont aucune compétence; bref, ils peuvent rapidement se comporter comme des enfants gâtés, poursuit le prêtre.
Pour Mgr Joel Baylon, aujourd’hui évêque de Legazpi, mais auparavant posté à Masbate, île du centre du pays où les armées privées sont un réel problème, le clergé est généralement considéré comme détenant un grand pouvoir. « Les gens qui sont menacés par les armées privées des politiciens locaux se placent sous la protection des prêtres. Lorsque quelqu’un veut obtenir un poste dans l’administration ou un avantage quelconque, bien souvent, il se tourne vers l’évêque pour demander une recommandation, témoigne l’évêque. L’Eglise est perçue comme puissante car il serait suicidaire pour un politicien de s’en prendre physiquement à un prêtre; de plus, les gens voient que nous sommes invités par les politiques. »
Quant au P. Cantalamessa, son propos était centré sur la prêtrise comprise comme une « Pentecôte pérenne » dans laquelle le prêtre vit à l’imitation du Christ dans toutes les dimensions de son existence. A propos du célibat, le prédicateur a souligné combien celui-ci devait être compris « comme un don et non comme un fardeau ». Mgr Florentino Lavarias a rapporté à l’agence Ucanews (2) que les échanges entre prêtres après l’intervention du P. Cantalamessa avaient pris « un caractère émotionnel » tandis que certains partageaient à haute voix au sujet « de leur manque de fidélité au Christ dans leur ministère, tout en reconnaissant que Jésus, lui, ne les abandonnait jamais ».
A l’issue du congrès, les prêtres ont adopté un plan d’action pour « dédier à nouveau leur ministère au service des pauvres », en s’engageant à être attentif à ne pas exploiter leur position dans la société ou l’Eglise. Au cours des échanges, certains ont mis en avant les initiatives de certains diocèses, notamment dans le sud philippin, où l’évêque prend soin de réunir régulièrement ses prêtres pour être avec eux et partager un repas, un temps récréatif ou social. La Conférence épiscopale a rappelé qu’elle avait mis sur pied Assist, programme de formation continue, notamment orienté pour aider les prêtres « en situation difficile » – dont la question du respect du célibat (3).
(1) Voir EDA 401
(2) Ucanews, 1er février 2010.
(3) En 2000, Mgr Oscar Cruz, vicaire judiciaire national, a créé un bureau spécial afin d’aider les diocèses qui sont amenés à prononcer des dispenses pour des prêtres qui se trouvent avoir charge de famille ou sont engagés dans une relation avec une femme. Quelque 200 cas ont été soumis à ce bureau depuis sa création.
(Source: Eglises d'Asie, 2 février 2010)
Après un premier congrès organisé en 2004 (1), c’était la deuxième fois que les évêques philippins réunissaient ainsi leurs prêtres. Pour accueillir quelque 5 500 prêtres (sur les plus de 7 000 que compte l’Eglise catholique aux Philippines), la Conférence épiscopale avait fait les choses en grand: le World Trade Center de Manille avait été loué pour la circonstance et le Cuneta Astrodome, un stade normalement dédié aux compétitions de basket, à Pasay City, dans la banlieue de Manille, avait été choisi pour accueillir la messe de clôture, célébrée dans l’après-midi du 29 janvier. Toutefois, alors que le pays est en campagne pour les élections générales du 10 mai prochain, l’archevêque de la capitale, le cardinal Gaudencio Rosales, avait prévenu à l’avance: le congrès serait interdit aux hommes politiques, l’Eglise n’étant pas désireuse de voir l’événement transformé en forum médiatique au service de la communication de tel ou tel personnalité politique.
C’est donc entre eux que les prêtres des Philippines ont réfléchi à leur ministère, en cette Année sacerdotale proclamée par le pape Benoît XVI. Venu de Rome, le capucin Raniero Cantalamessa, prédicateur de la Maison pontificale, a succédé au micro à Mgr Antonio Tagle, théologien et évêque du diocèse d’Imus, ainsi qu’à d’autres prédicateurs et personnalités, telles Maria Voce, présidente du mouvement Focolari.
Mgr Tagle avait choisi d’axer son propos sur la nécessaire humilité que devait revêtir le sacerdoce ministériel aux Philippines. La haute estime dans laquelle les Philippins tiennent leurs prêtres et leurs évêques pose une difficulté particulière à ceux-ci: trop souvent, l’exercice du sacerdoce entraîne chez eux un penchant à l’arrogance et à l’abus de pouvoir, a notamment expliqué l’évêque philippin dans une session à huis clos. Pour le P. Romulo Ponte, curé de paroisse à San Pablo City, ville située au sud-est de Manille, sur l’île de Luzon, le propos vise juste. « Il est très facile de se laisser aller lorsque l’on est prêtre aux Philippines », explique-t-il, notamment là où les catholiques sont très majoritaires, au centre et au nord du pays. Les prêtres sont invités à toutes sortes de festivités mondaines; s’il y a une file d’attente quelque part, on les fait passer devant; ils sont sollicités pour prendre la parole, y compris sur des sujets où ils n’ont aucune compétence; bref, ils peuvent rapidement se comporter comme des enfants gâtés, poursuit le prêtre.
Pour Mgr Joel Baylon, aujourd’hui évêque de Legazpi, mais auparavant posté à Masbate, île du centre du pays où les armées privées sont un réel problème, le clergé est généralement considéré comme détenant un grand pouvoir. « Les gens qui sont menacés par les armées privées des politiciens locaux se placent sous la protection des prêtres. Lorsque quelqu’un veut obtenir un poste dans l’administration ou un avantage quelconque, bien souvent, il se tourne vers l’évêque pour demander une recommandation, témoigne l’évêque. L’Eglise est perçue comme puissante car il serait suicidaire pour un politicien de s’en prendre physiquement à un prêtre; de plus, les gens voient que nous sommes invités par les politiques. »
Quant au P. Cantalamessa, son propos était centré sur la prêtrise comprise comme une « Pentecôte pérenne » dans laquelle le prêtre vit à l’imitation du Christ dans toutes les dimensions de son existence. A propos du célibat, le prédicateur a souligné combien celui-ci devait être compris « comme un don et non comme un fardeau ». Mgr Florentino Lavarias a rapporté à l’agence Ucanews (2) que les échanges entre prêtres après l’intervention du P. Cantalamessa avaient pris « un caractère émotionnel » tandis que certains partageaient à haute voix au sujet « de leur manque de fidélité au Christ dans leur ministère, tout en reconnaissant que Jésus, lui, ne les abandonnait jamais ».
A l’issue du congrès, les prêtres ont adopté un plan d’action pour « dédier à nouveau leur ministère au service des pauvres », en s’engageant à être attentif à ne pas exploiter leur position dans la société ou l’Eglise. Au cours des échanges, certains ont mis en avant les initiatives de certains diocèses, notamment dans le sud philippin, où l’évêque prend soin de réunir régulièrement ses prêtres pour être avec eux et partager un repas, un temps récréatif ou social. La Conférence épiscopale a rappelé qu’elle avait mis sur pied Assist, programme de formation continue, notamment orienté pour aider les prêtres « en situation difficile » – dont la question du respect du célibat (3).
(1) Voir EDA 401
(2) Ucanews, 1er février 2010.
(3) En 2000, Mgr Oscar Cruz, vicaire judiciaire national, a créé un bureau spécial afin d’aider les diocèses qui sont amenés à prononcer des dispenses pour des prêtres qui se trouvent avoir charge de famille ou sont engagés dans une relation avec une femme. Quelque 200 cas ont été soumis à ce bureau depuis sa création.
(Source: Eglises d'Asie, 2 février 2010)
Wietnam: Kolejny napad na redemptorystów (Ba Lan) Đồng Chiêm còn bị bao vây
Łukasz Sianożęcki
11:46 02/02/2010
Grupa wietnamskich policjantów napadła na trzech nowicjuszy po tym, jak wzięli oni udział w adoracji eucharystycznej w kościele parafialnym w Dong Chiem - miejscowości, gdzie komuniści wysadzili krzyż. Wracających ze świątyni kleryków zatrzymano i bestialsko pobito, a jednego aresztowano. Władze kościelne domagają się uwolnienia zatrzymanego. Informacje o kolejnych prześladowaniach w Wietnamie zbiegają się z ogłoszonym przez polskich redemptorystów na 2 lutego dniem pamięci o katolikach w tym kraju.
"Z całą mocą protestujemy przeciwko serii bieżących pogwałceń prawa wobec obywateli wietnamskich, a katolików w szczególności" - stwierdził w wydanym w trybie pilnym oświadczeniu o. Jan Luu Ngoc Quynh, ojciec duchowny zgromadzenia redemptorystów z Vinh w prowincji Hanoi. Domaga się on jednocześnie niezwłocznego uwolnienia nowicjusza br. Antoniego Trana Van Sona, który został bestialsko pobity i aresztowany przez policję za to, że przyszedł modlić się z parafianami w Dong Chiem.
Według relacji o. Jana, do bestialskiego napadu na nowicjuszy doszło w miejscowości oddalonej o blisko kilometr od Dong Chiem. Grupa policjantów zatrzymała całą trójkę i bestialsko ich pobiła. Najbardziej ucierpiał kleryk Antoni Tran Van Son. - Próbował uciec w pole, aby uniknąć policyjnej napaści, ale oni za nim pobiegli i bili go jeszcze gwałtowniej - dodał redemptorysta. Następnego dnia policja zabrała nowicjusza Antoniego Trana do jego pokoju w klasztorze i tam przeprowadzono drobiazgowe przeszukanie. Aresztowano jeszcze dwóch jego współlokatorów. Księża proszą o modlitwę w intencji kleryka Antoniego, "uczciwego i pokojowego nowicjusza ze zgromadzenia w Vinh".
Wcześniej państwowe media informowały o wycofaniu setek policjantów z Dong Chiem, aby - jak twierdziły - przywrócić tam normalne warunki życia. Jednak parafianie informują o obecności na miejscu sporej liczby nieumundurowanych policjantów, którzy pozostają w stanie gotowości, by zaatakować każdego przybysza spoza parafii. W rzeczywistości jednak policja nadal okupuje parafię. Redemptoryści wzywają do zakończenia oblężenia Dong Chiem i poszanowania prawa do swobodnego poruszania się i odwiedzania parafii.
We wszystkich polskich kościołach, gdzie posługę pełnią redemptoryści, wierni będą się dziś modlić w intencji prześladowanych w Wietnamie katolików. W ogłoszonym przez Warszawską Prowincję Redemptorystów dniu pamięci o katolikach w Wietnamie po Mszach św. w ich intencji odmawiana będzie modlitwa rzymska do Matki Bożej Nieustającej Pomocy.
(Source: http://www.naszdziennik.pl/index.php?dat=20100202&typ=wi&id=wi13.txt)
"Z całą mocą protestujemy przeciwko serii bieżących pogwałceń prawa wobec obywateli wietnamskich, a katolików w szczególności" - stwierdził w wydanym w trybie pilnym oświadczeniu o. Jan Luu Ngoc Quynh, ojciec duchowny zgromadzenia redemptorystów z Vinh w prowincji Hanoi. Domaga się on jednocześnie niezwłocznego uwolnienia nowicjusza br. Antoniego Trana Van Sona, który został bestialsko pobity i aresztowany przez policję za to, że przyszedł modlić się z parafianami w Dong Chiem.
Według relacji o. Jana, do bestialskiego napadu na nowicjuszy doszło w miejscowości oddalonej o blisko kilometr od Dong Chiem. Grupa policjantów zatrzymała całą trójkę i bestialsko ich pobiła. Najbardziej ucierpiał kleryk Antoni Tran Van Son. - Próbował uciec w pole, aby uniknąć policyjnej napaści, ale oni za nim pobiegli i bili go jeszcze gwałtowniej - dodał redemptorysta. Następnego dnia policja zabrała nowicjusza Antoniego Trana do jego pokoju w klasztorze i tam przeprowadzono drobiazgowe przeszukanie. Aresztowano jeszcze dwóch jego współlokatorów. Księża proszą o modlitwę w intencji kleryka Antoniego, "uczciwego i pokojowego nowicjusza ze zgromadzenia w Vinh".
Wcześniej państwowe media informowały o wycofaniu setek policjantów z Dong Chiem, aby - jak twierdziły - przywrócić tam normalne warunki życia. Jednak parafianie informują o obecności na miejscu sporej liczby nieumundurowanych policjantów, którzy pozostają w stanie gotowości, by zaatakować każdego przybysza spoza parafii. W rzeczywistości jednak policja nadal okupuje parafię. Redemptoryści wzywają do zakończenia oblężenia Dong Chiem i poszanowania prawa do swobodnego poruszania się i odwiedzania parafii.
We wszystkich polskich kościołach, gdzie posługę pełnią redemptoryści, wierni będą się dziś modlić w intencji prześladowanych w Wietnamie katolików. W ogłoszonym przez Warszawską Prowincję Redemptorystów dniu pamięci o katolikach w Wietnamie po Mszach św. w ich intencji odmawiana będzie modlitwa rzymska do Matki Bożej Nieustającej Pomocy.
(Source: http://www.naszdziennik.pl/index.php?dat=20100202&typ=wi&id=wi13.txt)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giới trẻ giáo xứ Tam Tổng Thanh Hòa mừng lễ thánh bổn mạng - Gioan Bosco và suy tôn Thánh Giá
Thanh Minh
09:59 02/02/2010
Giới trẻ giáo xứ Tam Tổng mừng lễ thánh bổn mạng - Gioan Bosco
THANH HOÁ – Vào những ngày cuối năm âm lịch 2009, mọi người đang nô nức chuẩn bị đón Tết Cổ Truyền của dân tộc, nhất là những người trẻ đi làm ăn xa quê đang hối hả trở về với gia đình, để tận hưởng bầu khí ấm áp tình gia đình, giáo xứ Tam tổng-giáo phận Thanh hoá đã tổ chức ngày lễ kính thánh Gioan Bosco – Bổn mạng giới trẻ vào ngày 30 tháng 01 năm 2010.
Đây là thời giờ lý tưởng cho những buổi quy tụ người trẻ, vì cuộc sống tại Miền Bắc gặp nhiều khó khăn, nên hầu hết giới trẻ đều đi làm ăn xa quê tại Miền Nam. Và cũng thật là hữu ích và ý nghĩa, khi mà các bạn trẻ trong giáo xứ xa quê – xa nhau lâu ngày được sum họp bên nhau tại ngôi thánh đường thân yêu trong NĂM THÁNH GIÁO HỘI VIỆT NAM 2010.
Buổi sáng, các bạn trẻ đã tập trung đông đủ tại nhà thờ để cùng nhau suy gẫm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình trong suốt một năm qua. Đồng thời, các bạn cũng được mời gọi để nhìn lại đời sống đức tin của chính mình. Cha Giacobe Mai Văn Toản – phó ban mục vụ giới trẻ giáo phận đã khởi đi từ chủ đề đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội năm vừa qua – THẮP SÁNG TÌNH YÊU GIA ĐÌNH, để gợi ý, soi sáng và mời gọi các bạn trẻ hãy biết quý trọng tình nghĩa gia đình Công Giáo và sống làm chứng: yêu mến cha mẹ, nâng đỡ và sống đoàn kết với anh em, cùng nhau thăng tiến đức tin và loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cho mọi người. Cha giảng phòng cũng đã tóm tắt những sự kiện xảy ra trong thời gian qua
đối với Giáo Hội, như biến cố Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý, Bàu Sen và Đồng Chiêm, để giúp giới trẻ hiểu rõ hơn sự việc và nhất là để đáp lại lời mọi gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sống MẦU NHIỆM - HIỆP THÔNG - SỨ VỤ. Sau hơn một giờ tĩnh tâm và hội thảo, quý cha trong ban mục vụ giới trẻ đã cùng với giới trẻ cử hành thánh lễ kính thánh Gioan Bosco, để cầu nguyện cho Giáo hội và cách riêng cho giới trẻ.
Tiệc liên hoan mừng lễ thánh bổn mạng là không thể thiếu đối với giới trẻ giáo xứ Tam tổng. Các bậc cha mẹ đỡ đầu đã lo toan mọi sự, để sau thánh lễ các bạn trẻ về tại các địa điểm giáo họ mình cùng chung chia niềm vui với nhau trong ngày mừng lễ thánh quan thày.
Buổi tối cùng ngày, toàn thể giới trẻ trong giáo xứ đã quy tụ tại khuôn viên thánh đường và bắt đầu đêm suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, để hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa và Giáo hội, đặc biệt với những anh chị em đang chịu đau khổ trên toàn thế giới. Cha Giuse Nguyễn văn Ba, phó xứ Tam tổng và cũng là cha đặc trách giới trẻ giáo hạt Nga Sơn đã chủ sự nghi thức đi đường Thánh Giá trọng thể. Đại điện giới trẻ của 15 giáo họ đã thay nhau vác Thánh Giá suốt chặng
đường từ hang đá Đức Mẹ cho tới lễ đài nhà giáo lý. Kết thúc giờ ngắm đường Thánh Giá Chúa là giờ cầu nguyện theo hình thức cộng đoàn Taizé, để suy tôn Thánh Giá và cầu nguyện cho công lý và hoà bình. Buổi cử hành nghi thức đã diễn ra trang nghiêm và sốt sắng, mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho người trẻ và toàn thể giáo xứ.
Hình thức cầu nguyện Taizé và suy tôn thánh giá Chúa đã được thực hiện tại 4 địa điểm thuộc 4 phái trong giáo xứ Tam tổng, kể từ tháng 9 tới nay. Mỗi tháng một lần, buổi cầu nguyện được ban điều hành giới trẻ trong phái gồm 4 giáo họ tổ chức, dưới sự hướng dẫn của cha đặc trách và thầy giúp xứ Fx. Nguyễn Quốc Cường. Cây Thánh Giá đã được các bạn trẻ thay nhau cung nghinh một vòng trong giáo xứ, để mọi người suy tôn và cầu nguyện.
Để khép lại ngày mừng lễ kính thánh bổn mạng, các bạn trẻ đã cũng nhau vui ca hát giao lưu văn nghệ, và chúc nhau một năm mới “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và mọi người”.
THANH HOÁ – Vào những ngày cuối năm âm lịch 2009, mọi người đang nô nức chuẩn bị đón Tết Cổ Truyền của dân tộc, nhất là những người trẻ đi làm ăn xa quê đang hối hả trở về với gia đình, để tận hưởng bầu khí ấm áp tình gia đình, giáo xứ Tam tổng-giáo phận Thanh hoá đã tổ chức ngày lễ kính thánh Gioan Bosco – Bổn mạng giới trẻ vào ngày 30 tháng 01 năm 2010.
Buổi sáng, các bạn trẻ đã tập trung đông đủ tại nhà thờ để cùng nhau suy gẫm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình trong suốt một năm qua. Đồng thời, các bạn cũng được mời gọi để nhìn lại đời sống đức tin của chính mình. Cha Giacobe Mai Văn Toản – phó ban mục vụ giới trẻ giáo phận đã khởi đi từ chủ đề đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội năm vừa qua – THẮP SÁNG TÌNH YÊU GIA ĐÌNH, để gợi ý, soi sáng và mời gọi các bạn trẻ hãy biết quý trọng tình nghĩa gia đình Công Giáo và sống làm chứng: yêu mến cha mẹ, nâng đỡ và sống đoàn kết với anh em, cùng nhau thăng tiến đức tin và loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cho mọi người. Cha giảng phòng cũng đã tóm tắt những sự kiện xảy ra trong thời gian qua
Tiệc liên hoan mừng lễ thánh bổn mạng là không thể thiếu đối với giới trẻ giáo xứ Tam tổng. Các bậc cha mẹ đỡ đầu đã lo toan mọi sự, để sau thánh lễ các bạn trẻ về tại các địa điểm giáo họ mình cùng chung chia niềm vui với nhau trong ngày mừng lễ thánh quan thày.
Buổi tối cùng ngày, toàn thể giới trẻ trong giáo xứ đã quy tụ tại khuôn viên thánh đường và bắt đầu đêm suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, để hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa và Giáo hội, đặc biệt với những anh chị em đang chịu đau khổ trên toàn thế giới. Cha Giuse Nguyễn văn Ba, phó xứ Tam tổng và cũng là cha đặc trách giới trẻ giáo hạt Nga Sơn đã chủ sự nghi thức đi đường Thánh Giá trọng thể. Đại điện giới trẻ của 15 giáo họ đã thay nhau vác Thánh Giá suốt chặng
Hình thức cầu nguyện Taizé và suy tôn thánh giá Chúa đã được thực hiện tại 4 địa điểm thuộc 4 phái trong giáo xứ Tam tổng, kể từ tháng 9 tới nay. Mỗi tháng một lần, buổi cầu nguyện được ban điều hành giới trẻ trong phái gồm 4 giáo họ tổ chức, dưới sự hướng dẫn của cha đặc trách và thầy giúp xứ Fx. Nguyễn Quốc Cường. Cây Thánh Giá đã được các bạn trẻ thay nhau cung nghinh một vòng trong giáo xứ, để mọi người suy tôn và cầu nguyện.
Để khép lại ngày mừng lễ kính thánh bổn mạng, các bạn trẻ đã cũng nhau vui ca hát giao lưu văn nghệ, và chúc nhau một năm mới “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và mọi người”.
Đức Giám mục Hải Phòng ăn tết tại làng Phong Chí Linh – Hải Dương
Xuân Đương
18:10 02/02/2010
HẢI DƯƠNG - Thứ bảy vừa qua, Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, quý Cha và các Ứng sinh Giáo phận Hải Phòng có một chương trình giao lưu và ăn tết với bệnh nhân làng Phong Chí Linh - Hải Dương.
Hơn một trăm năm mươi bệnh nhân làng Phong Chí Linh được gặp gỡ giao lưu với Đức Cha Giuse, Quý Cha và các Ứng sinh của Giáo phận, các tiết mục văn nghệ, trò chơi đã làm cho không khí của hội trường Làng Phong vui vẻ hơn, những nụ cười của anh chị em bệnh nhân đã xua đi cái giá lạnh của những ngày cuối đông, những ánh mắt sáng lên niềm vui niềm hy vọng. Đức Cha Giuse đã thăm hỏi từng bệnh nhân về cuộc sống, gia đình và những ước nguyện của họ, Ngài cầu chúc cho anh chị em bệnh nhân luôn vui vẻ, bình an và mạnh khỏe trong Năm mới Canh Dần.
Tiếp đến là Thánh lễ Tạ ơn do Đức cha Giuse cùng với Cha G.B Vũ Văn Kiện, Phêrô Nguyễn Văn Lập, Giuse Nguyễn Mạnh Kỳ, và Cha Hiệt Dòng Đa minh. Trong Bài giảng Đức Cha nói đến niềm tin của con người trước Đấng Tối Cao là Thiên Chúa, Ong Trời, tất cả mọi người là anh chị em với nhau, không phân biệt họ là ai: giàu nghèo, già trẻ, mạnh khỏe hay bệnh tật họ đều được Thiên Chúa, Ong Trời yêu thương và săn sóc. Hãy sống lạc quan và tin tưởng vào Thiên Chúa vì Ngài không bỏ rơi ai hết. Cách vận dụng từ ngữ của Đức Cha rất đơn sơ và dễ hiểu đã làm cho các bệnh nhân chăm chú lắng nghe.
Bữa ăn agape tuy đạm bạc nhưng thật cảm động và thân ái khi Đức Cha và Quý Cha cùng ăn chung với anh chị em bệnh nhân, mọi người vui vẻ, cườinói, gắp cho nhau những phần thức ăn trên đĩa
Chương trình hội chợ cho các bệnh nhân cũng thật ấn tượng, gần 150 bệnh nhân, với hơn bốn mươi mặt hàng ngày Tết được bán ra, mỗi bệnh nhân được phát cho một số phiếu để mua hàng, mọi người thật vui khi có quyền lựa chon những món hàng mình thích, chũng như những món hàng cần thiết cho dịp Tết sắp đến.
Đúng là vui như Tết, tuy ngày Tết chưa tới, nhưng năm nay Làng Phong Chí Linh Hải Dương đã được đón một cái Tết sớm mọi năm vì có sự hiện diện của Đức Cha, quý Cha Quý Ứng sinh giáo Phận Hải Phòng đến chúc Tết, một cái Tết thật ấm cúng và chan hòa, một bầu khí gia đình thân thiện.
Xin Chúa Xuân luôn hiện diện với Anh chị em Làng Phong này để mỗi ngày trong cuộc đời cho dù phải chịu đựng bệnh tật về thể xác nhưng họ luôn sống trong yêu thương an bình và hy vọng.
Tiếp đến là Thánh lễ Tạ ơn do Đức cha Giuse cùng với Cha G.B Vũ Văn Kiện, Phêrô Nguyễn Văn Lập, Giuse Nguyễn Mạnh Kỳ, và Cha Hiệt Dòng Đa minh. Trong Bài giảng Đức Cha nói đến niềm tin của con người trước Đấng Tối Cao là Thiên Chúa, Ong Trời, tất cả mọi người là anh chị em với nhau, không phân biệt họ là ai: giàu nghèo, già trẻ, mạnh khỏe hay bệnh tật họ đều được Thiên Chúa, Ong Trời yêu thương và săn sóc. Hãy sống lạc quan và tin tưởng vào Thiên Chúa vì Ngài không bỏ rơi ai hết. Cách vận dụng từ ngữ của Đức Cha rất đơn sơ và dễ hiểu đã làm cho các bệnh nhân chăm chú lắng nghe.
Bữa ăn agape tuy đạm bạc nhưng thật cảm động và thân ái khi Đức Cha và Quý Cha cùng ăn chung với anh chị em bệnh nhân, mọi người vui vẻ, cườinói, gắp cho nhau những phần thức ăn trên đĩa
Chương trình hội chợ cho các bệnh nhân cũng thật ấn tượng, gần 150 bệnh nhân, với hơn bốn mươi mặt hàng ngày Tết được bán ra, mỗi bệnh nhân được phát cho một số phiếu để mua hàng, mọi người thật vui khi có quyền lựa chon những món hàng mình thích, chũng như những món hàng cần thiết cho dịp Tết sắp đến.
Đúng là vui như Tết, tuy ngày Tết chưa tới, nhưng năm nay Làng Phong Chí Linh Hải Dương đã được đón một cái Tết sớm mọi năm vì có sự hiện diện của Đức Cha, quý Cha Quý Ứng sinh giáo Phận Hải Phòng đến chúc Tết, một cái Tết thật ấm cúng và chan hòa, một bầu khí gia đình thân thiện.
Xin Chúa Xuân luôn hiện diện với Anh chị em Làng Phong này để mỗi ngày trong cuộc đời cho dù phải chịu đựng bệnh tật về thể xác nhưng họ luôn sống trong yêu thương an bình và hy vọng.
Góp yêu thương, gói bánh chưng nghĩa tình
Xuân Trần
18:21 02/02/2010
Sài Gòn nhộn nhịp, phồn hoa với những tòa nhà lỗng lẫy, những chiếc xe ô tô sang trọng, lịch lãm… của tầng lớp thượng lưu, nhưng khuất sau sự phồn hoa đó, có bao mảnh đời “đêm nay ngủ ngoài đường”, những kiếp mưu sinh, lặng lẽ đi về trong đêm tối. Người ở phương Nam mà lòng hướng về phương Bắc giá lạnh, lạc lõng, cô đơn, tôi ngẫm về những kiếp người bên lề cuộc sống…
Từ những mùa xuân, qua nhóm sinh viên chúng tôi cùng đồng hành với cha Raphael trong các chiến dịch Chén Cơm Giáng Sinh, bánh chưng cho người nghèo ăn tết. Năm nay, năm cuối của chương trình đại học, thời gian khít khao không thể về được, đứa nào cũng buồn và chắc chắn cha là người buồn nhất, qua điện thoại tôi hỏi: “Cha ơi: Tết này cha có tổ chức Chiến dịch “Bánh chưng cho người nghèo” không? Chúng con không về được". Qua điện thoại giọng trầm buồn cha nói: “Có, nhưng kinh phí thiếu lắm con ơi. Con viết một bài kêu gọi mọi người ủng hộ cha đi”. Vậy là tôi viết…
Chúng tôi đã cùng đồng hành với cha Nhàn trong dịp Tết năm 2008, 2009 với chiến dịch “Bánh chưng cho người nghèo”, hàng ngàn chiếc bánh thơm ngon, nóng hổi, đó là những món quà yêu thương mà cha Raphael góp nhặt từ những tấm lòng vàng trao tận tay người nghèo, giúp họ có cái Tết ấm áp. Bao nhiêu chiếc bánh “bấy nhiêu ân tình”, thổi lên “hơi ấm giữa mùa đông giá lạnh”. Mùa đông lạnh nhưng tình người ấm áp giữa cuộc đời: “ Có khi trên dòng đời tấp nập - Ta vô tình đi lướt qua nhau”. (“Có khi nào”- Bùi Minh Quốc). Dù cuộc sống vô tình nhưng vẫn có những đôi tay dang rộng kết nối tình người trong từng tấm bánh, từng chén cơm.
Quan tâm đến những người đau khổ, bị bỏ rơi, với từng miếng cơm, manh áo, tập vở, chiếc bút góp từ “muôn trái tim – một tấm lòng”, cha “ươm mầm xanh”, dệt lên trong lòng các em những ước vọng. Và tay trong tay, cùng với sự giúp đỡ của những tấm lòng trắc ẩn, cha kết nối những “mảnh đời dễ vỡ” trong nhóm khuyết tật “NỐI VÒNG TAY”, nay đổi thành nhóm “NGHI LỰC SỐNG”, đào tạo vi tính cho các em. Từ nhóm khuyết tật, những bài ca về sự vươn lên, về tình yêu thương và sự chia sẻ của các em được viết lên như những câu chuyện cổ tích. Câu chuyện về cuộc đời của Hiệp sĩ Công nghệ Thông tin Nguyễn Công Hùng, học trò của Cha Nhàn như một bằng chứng tuyệt vời về bài ca “Nghị Lực Sống” ấy.
Hành trình gieo yêu thương của cha là hành trình “như cánh chim không mỏi” đem tình yêu, niềm vui cho người nghèo. Năm 2008, Ngài lập dự án “Giúp vốn để chăn nuôi bò cho những hộ dân nghèo”, làm WC tự huỷ để giảm bớt bệnh như “quỹ yêu thương” cho các gia đình nghèo, không phân biệt lương giáo để họ có cơ hội vươn lên.
Về vùng Nghi Phong, ngồi nơi quán nước, chúng ta nghe đâu đó những biệt danh người ta đặt cho ngài: “Ông cha bên lương”, “Linh mục của người nghèo”,"Ông cha khuyết tật","Linh mục cơ động", "Ông cha nghệ sĩ"...Mỗi biệt danh gắn với một “lĩnh vực yêu thương” nhưng trong trái tim “yêu không mỏi” của người Linh mục muốn “ôm trọn tất cả”, những biệt danh đó gói lại trong “mối tình không biên giới”.
Cuộc sống như một “Tấn trò đời”, “Tấn trò đời” với những khoảng cách, ranh giới: người giàu – kẻ nghèo, người may mắn – kẻ bất hạnh..... Là con người, không ai có quyền chọn cửa để sinh ra, cũng như những người kém may mắn họ cũng cảm thấy không hay ho gì khi đưa bàn tay gầy guộc của mình để xin ăn. Chính vì vậy, mỗi dịp Tết đến, Xuân về trong từng cơn gió lạnh, những trái tim mong manh không khỏi băn khoăn: Tết năm nay sẽ ra sao? Lại một năm nữa, Tết mà như không Tết. Trong những băn khoăn đó, có những phút ngậm ngùi, xót xa của những người mẹ không mua nổi cho con mình một cái áo, đôi dép mới để mừng xuân. Nhìn con mình, trông con người khác tươm tất, đầy đủ… mẹ ngoảnh mặt gạt những giọt nước mắt…khóc thầm. “ Nổi buồn đó không phải của riêng ai”….như người mẹ hiền, người linh mục của Chúa tự chất lên đôi vai của mình những ưu tư đồng cảm, vì đã trót chọn cho mình phía đứng của người nghèo.
Từ trái tim chân thành của một người Ki-tô hữu, một người con sinh ra tại Nghệ An, mảnh đất “cày lên sỏi đá”, một sinh viên nghèo nơi đất khách quê người hướng về quê hương, ước mơ một mùa xuân đoàn tụ bến bếp lửa hồng với nồi bánh chưng bốc mùi thơm của đất mẹ, tôi nguyện cầu nếu có ai đó đọc những lời chân thành này, xin chung tay cùng người “Linh mục của người nghèo” người Linh mục với một “tình yêu không biên giới”, góp yêu thương, gói bánh chưng nghĩa tình, giúp đỡ những kẻ đang đi tìm mùa xuân trên đất mẹ. Hoà nhịp với đất trời để đón một mùa xuân bất tận.
Chúng tôi đã cùng đồng hành với cha Nhàn trong dịp Tết năm 2008, 2009 với chiến dịch “Bánh chưng cho người nghèo”, hàng ngàn chiếc bánh thơm ngon, nóng hổi, đó là những món quà yêu thương mà cha Raphael góp nhặt từ những tấm lòng vàng trao tận tay người nghèo, giúp họ có cái Tết ấm áp. Bao nhiêu chiếc bánh “bấy nhiêu ân tình”, thổi lên “hơi ấm giữa mùa đông giá lạnh”. Mùa đông lạnh nhưng tình người ấm áp giữa cuộc đời: “ Có khi trên dòng đời tấp nập - Ta vô tình đi lướt qua nhau”. (“Có khi nào”- Bùi Minh Quốc). Dù cuộc sống vô tình nhưng vẫn có những đôi tay dang rộng kết nối tình người trong từng tấm bánh, từng chén cơm.
Quan tâm đến những người đau khổ, bị bỏ rơi, với từng miếng cơm, manh áo, tập vở, chiếc bút góp từ “muôn trái tim – một tấm lòng”, cha “ươm mầm xanh”, dệt lên trong lòng các em những ước vọng. Và tay trong tay, cùng với sự giúp đỡ của những tấm lòng trắc ẩn, cha kết nối những “mảnh đời dễ vỡ” trong nhóm khuyết tật “NỐI VÒNG TAY”, nay đổi thành nhóm “NGHI LỰC SỐNG”, đào tạo vi tính cho các em. Từ nhóm khuyết tật, những bài ca về sự vươn lên, về tình yêu thương và sự chia sẻ của các em được viết lên như những câu chuyện cổ tích. Câu chuyện về cuộc đời của Hiệp sĩ Công nghệ Thông tin Nguyễn Công Hùng, học trò của Cha Nhàn như một bằng chứng tuyệt vời về bài ca “Nghị Lực Sống” ấy.
Hành trình gieo yêu thương của cha là hành trình “như cánh chim không mỏi” đem tình yêu, niềm vui cho người nghèo. Năm 2008, Ngài lập dự án “Giúp vốn để chăn nuôi bò cho những hộ dân nghèo”, làm WC tự huỷ để giảm bớt bệnh như “quỹ yêu thương” cho các gia đình nghèo, không phân biệt lương giáo để họ có cơ hội vươn lên.
Về vùng Nghi Phong, ngồi nơi quán nước, chúng ta nghe đâu đó những biệt danh người ta đặt cho ngài: “Ông cha bên lương”, “Linh mục của người nghèo”,"Ông cha khuyết tật","Linh mục cơ động", "Ông cha nghệ sĩ"...Mỗi biệt danh gắn với một “lĩnh vực yêu thương” nhưng trong trái tim “yêu không mỏi” của người Linh mục muốn “ôm trọn tất cả”, những biệt danh đó gói lại trong “mối tình không biên giới”.
Cuộc sống như một “Tấn trò đời”, “Tấn trò đời” với những khoảng cách, ranh giới: người giàu – kẻ nghèo, người may mắn – kẻ bất hạnh..... Là con người, không ai có quyền chọn cửa để sinh ra, cũng như những người kém may mắn họ cũng cảm thấy không hay ho gì khi đưa bàn tay gầy guộc của mình để xin ăn. Chính vì vậy, mỗi dịp Tết đến, Xuân về trong từng cơn gió lạnh, những trái tim mong manh không khỏi băn khoăn: Tết năm nay sẽ ra sao? Lại một năm nữa, Tết mà như không Tết. Trong những băn khoăn đó, có những phút ngậm ngùi, xót xa của những người mẹ không mua nổi cho con mình một cái áo, đôi dép mới để mừng xuân. Nhìn con mình, trông con người khác tươm tất, đầy đủ… mẹ ngoảnh mặt gạt những giọt nước mắt…khóc thầm. “ Nổi buồn đó không phải của riêng ai”….như người mẹ hiền, người linh mục của Chúa tự chất lên đôi vai của mình những ưu tư đồng cảm, vì đã trót chọn cho mình phía đứng của người nghèo.
Từ trái tim chân thành của một người Ki-tô hữu, một người con sinh ra tại Nghệ An, mảnh đất “cày lên sỏi đá”, một sinh viên nghèo nơi đất khách quê người hướng về quê hương, ước mơ một mùa xuân đoàn tụ bến bếp lửa hồng với nồi bánh chưng bốc mùi thơm của đất mẹ, tôi nguyện cầu nếu có ai đó đọc những lời chân thành này, xin chung tay cùng người “Linh mục của người nghèo” người Linh mục với một “tình yêu không biên giới”, góp yêu thương, gói bánh chưng nghĩa tình, giúp đỡ những kẻ đang đi tìm mùa xuân trên đất mẹ. Hoà nhịp với đất trời để đón một mùa xuân bất tận.
175 Linh mục tham dự Tuần Tĩnh Tâm Linh Mục Đoàn thuộc Giáo Phận Đàlạt
Tứ Linh
18:32 02/02/2010
ĐÀ LẠT - 17 giờ 15 chiều thứ Sáu (29.01.2010), 175 Linh mục triều và dòng thuộc Giáo phận Đàlạt đã cùng hiệp dâng Thánh lễ Tạ ơn tại Nhà thờ Chánh Tòa Đàlạt. Đặc biệt, Thánh lễ còn có sự hiện diện của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đàlạt là Chủ tế, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm - Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sàigòn - giảng lễ và cũng là vị giảng tĩnh tâm cho Linh mục đoàn.
“Mỗi linh mục thực sự phải nỗ lực trở nên hoàn thiện. Tính hữu hiệu của sứ vụ linh mục tùy thuộc chủ yếu vào sự hoàn thiện thiêng liêng này”, đây là lời của Đức Thánh Cha Bênêđitô 16 khi quyết định mở Năm Linh mục cho toàn thể Hội thánh. Ý thức được điều này, không chỉ các Linh mục sốt sắng tham dự tuần tĩnh tâm, mà các tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo dân, hiệp thông cầu nguyện cho Linh mục đoàn của Giáo phận, để không chỉ các ngài được đón nhận nhiều hồng ân của Thiên Chúa trong tuần tĩnh tâm, mà ngày càng trở nên tốt lành, thánh thiện và hiệp nhất.
Sau khi giới thiệu Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm với cộng đoàn, Đức Giám mục Giáo phận bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn Chúa đã ban. Đồng thời, Đức Cha ngỏ lời cám ơn các cộng đoàn tu sĩ và giáo dân, đã hiệp ý cầu nguyện cho các cha trong những ngày qua.
Dựa vào các Bài đọc Lời Chúa (Is 61,1-3a; Dt 5,1-10; Ga 15,9-17) và chủ đề của tuần tĩnh tâm, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm chia sẻ những vấn đề cốt lõi của sự hiệp thông, ngài nói:
“Là Giám mục, tôi có cơ hội giúp các Linh mục ở một số Giáo phận, nhưng chưa nơi nào lại có Thánh lễ kết thúc tuần tĩnh tâm Linh mục được cử hành tại Nhà thờ Chánh Tòa, với sự tham dự đông đủ của quý nam nữ tu sĩ và anh chị em giáo dân. Chỉ có ở Đàlạt ! Tôi nghĩ nên thực hiện điều này ở những nơi khác tại Việt nam. Đây là một hình ảnh tuyệt vời trình bày về Hội thánh hiệp thông.
1. Hiệp thông có Chúa làm tâm điểm: Chiều nay, Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, quây quần bên Bàn Thánh, quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô là Vị Mục Tử Tối Cao. Chính Ngài thu hút chúng ta đến đây, chính Ngài là nguồn của sự hiệp thông. Trong Hội thánh, sự hiệp thông trước hết là hiệp thông có Chúa làm tâm điểm.
Vì ý thức như thế, các Linh mục mới dành thời gian để tĩnh tâm. Đây không phải là dịp để các Linh mục học tập đường lối của Hội thánh, nếu cần đã có lúc khác. Nhưng cốt yếu là anh em Linh mục chúng tôi đào sâu, làm mới lại mối hiệp thông của cá nhân mình với Thiên Chúa là suối nguồn hiệp thông. Chúng tôi ý thức càng đi sâu vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, chúng tôi sẽ càng có khả năng phục vụ sự hiệp thông trong Hội thánh.
Cũng vì ý thức như thế, anh chị em mới tha thiết cầu nguyện cho các Linh mục. Tôi được biết trước khi vào tuần tĩnh tâm, Đức Giám mục Giáo phận đã thông báo cho anh chị em biết, không chỉ để biết mà còn xin anh chị em cầu nguyện. Người giáo dân, đặc biệt giáo dân Việt nam có lòng yêu mến các Linh mục. Yêu mến không phải vì Linh mục đẹp trai hay tài giỏi, càng không phải vì giàu sang, mà chỉ vì Linh mục là người của Chúa.
Dù là Linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta đều ý thức rằng sự hiệp thông phải có Chúa làm tâm điểm.
2. Sự hiệp thông của tình yêu: Chúa Giêsu cầu nguyện trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài nói với các môn đệ hôm nay: ‘Như Chúa Cha yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy’. Chỉ một câu mà ba lần Chúa nhắc đến tình yêu.
Sống hiệp thông với Chúa nghĩa là ở lại trong tình yêu của Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên ở lại trong tình yêu của Chúa thì đương nhiên dẫn đến yêu thương nhau. Mệnh lệnh quan trọng nhất mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta: ‘anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em’. Người Công giáo chúng ta hiệp thông với nhau không phải để gây thanh thế hay vì bất kỳ một động cơ nào khác, mà đơn giản chỉ vì đó là dòng chảy của tình yêu, là điều rất đỗi tự nhiên như nước phải chảy, gió phải thổi, mây phải bay: Sự hiệp thông của tình yêu.
3. Sự hiệp thông mang tính thừa sai: Sự hiệp thông của tình yêu đích thực thì mang tính thừa sai, có giá trị loan báo Tin mừng của Chúa cho anh chị em của mình.
Khi đến dâng Thánh lễ ở Nhà thờ Chánh tòa Đàlạt, thấy Nhà thờ nằm trên một ngọn đồi và tôi nhớ đến lời Chúa Giêsu: ‘một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được. Người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, mà phải đặt trên giá để ánh sáng soi chiếu cho mọi người. Cũng vậy, sự sáng của chúng con phải chiếu dọi cho mọi người thấy, để người ta nhìn thấy đời sống, công việc tốt lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời’.
Nhà Thờ Chánh Tòa Đàlạt còn quen gọi là Nhà thờ Con Gà. Hình ảnh này khiến tôi liên tưởng đến tiếng gà gáy trong Phúc âm, tiếng gà thức tỉnh tâm hồn của một Phêrô chối Chúa (Phêrô là thánh Bổn mạng của mình nên tôi càng nhớ hơn).
Vậy khi một cộng đoàn sống hiệp thông, hiệp thông của tình yêu đích thực, cộng đoàn ấy sẽ trở thành tiếng thức tỉnh lương tâm con người, nhất là trong tình trạng đạo đức suy đồi của thời đại hiện nay. Cộng đoàn ấy trở thành một thành phố xây dựng trên núi cao không thể che giấu, nhưng bày tỏ khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương cho mọi người, có nghĩa một cộng đoàn hiệp thông yêu thương sẽ có khả năng loan báo Tin mừng. Đó là điều mà Hội thánh, cách riêng Giáo phận Đàlạt hết sức quan tâm.
Lịch sử Giáo hội làm chứng điều ấy: cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem đã sống hiệp thông yêu thương nhau, đến độ người ngoại giáo lúc bấy giờ thốt lên ‘kìa xem họ thương yêu nhau là dường nào’ và cộng đoàn ngày càng gia tăng.
Lịch sử Giáo hội Việt nam cũng ghi nhận: cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên ở đất Thăng Long hiệp thông yêu thương nhau, đến độ lúc ấy người ta chưa biết đây là đạo gì, nhưng nhìn vào đời sống của cha ông chúng ta, người ta đặt tên là đạo yêu nhau, và cộng đoàn cũng càng lúc càng gia tăng.
Cho nên một cộng đoàn hiệp thông yêu thương thực sự, là một cộng đoàn có sức thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng.
Thưa anh chị em,
Hơn lúc nào hết, đây là giây phút của hiệp thông yêu thương bởi chúng ta quy tụ nơi đây để cử hành Bí tích Thánh Thể. Như thánh Phaolô nói: ‘khi ta ăn bánh là ta thông phần vào Mình Chúa Kitô; khi ta uống chén là ta thông phần vào Máu Chúa Kitô. Mà khi chúng ta cùng ăn một bánh và cùng uống một chén cho nên tuy nhiều người nhưng chúng ta chỉ nên một’.
Ước gì sự hiệp thông yêu thương này được tiếp tục nối dài và thể hiện trong gia đình của anh chị em, trong Giáo xứ, trong Giáo phận của chúng ta. Khi cộng đoàn càng thực sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, có Chúa làm tâm điểm, hiệp thông trong tình yêu thương, thì cộng đoàn ấy càng có khả năng loan báo Tin mừng của Chúa, nghĩa là góp phần chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta”.
Sau khi cùng hiệp lòng sốt sắng dâng Thánh lễ và lãnh nhận Ơn Toàn xá trong Năm Thánh 2010, Cha Tổng Đại diện Phaolô Lê Đức Huân thay cho mọi người dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Cha Phêrô và Đức Cha Giảng phòng, bảy tỏ tâm tình yêu mến và vâng phục “Chúng con xin cám ơn Đức cha và hứa sẽ trở thành những người phục vụ sự hiệp thông, xây dựng sự hiệp nhất, không phải lúc này những trong suốt đời Linh mục”... “Chúng con xin ghi lại những lời giáo huấn của Đức cha, không phải ghi trên băng dĩa nhưng khắc ghi trong sâu thẳm tâm hồn mình. Xin Chúa cho chúng con trở nên những Linh mục phục vụ sự hiệp thông như những gì Đức cha đã ân cần hướng dẫn”. Cha Tổng Đại diện còn đặc biệt cám ơn các cộng đoàn tu sĩ và bà con giáo dân đã luôn yêu thương, hợp tác, hiệp nhất với nhau và với các Linh mục để xây dựng Hội thánh và cộng tác trong việc loan báo Tin mừng. Ngài ước ao “xin cho tất cả chúng ta luôn hiệp nhất với nhau để cùng xây dựng sự hiệp thông sung mãn và tích cực dấn thân tham gia mọi sinh hoạt của Hội thánh, nhất là sinh hoạt truyền giáo trong Năm Thánh của Giáo hội Việt nam và trong Năm Thánh của Giáo phận thân yêu này”.
Rất gần gũi và chân thành, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm đã bày tỏ những suy nghĩ của ngài trong lời đáp từ:
“Tôi ở Sàigòn, tuy không xa Đàlạt bao nhiêu nhưng lại ít có dịp lên đây. Lần đầu tiên được hân hạnh dâng Thánh lễ tại Nhà thờ Con Gà trong một khung cảnh thật trang trọng: có Đức Giám mục Giáo phận, có Linh mục đoàn, có đông đủ quý nam nữ tu sĩ và giáo dân. Ấn tượng hôm nay sâu sắc và ở mãi trong tâm hồn tôi.
Đàlạt là vùng đất thơ mộng, khí hậu trong lành, phong cảnh tuyệt đẹp. Nơi đây đã khơi nguồn sáng tác cho nhiều văn nghệ sỹ và nhiều sáng tạo văn học nghệ thuật. Tôi nghĩ vùng đất này cũng tác động đến con người: người Đàlạt hiền hòa, dễ thương, nhẹ nhàng. Tôi gặp điều đó ngay trong nhà thờ này, ngay trong kiến trúc của ngôi thánh đường này với màu sắc và ánh sáng thật dễ thương; tôi gặp điều đó trong tiếng đàn, tiếng hát của ca đoàn rất hay, không phải khen cho vui mà rất thật lòng; tôi gặp điều đó trong sự tham dự của anh chị em nhẹ nhàng nhưng tích cực vào cử hành phụng vụ.
Về mặt Giáo hội, Giáo phận Đàlạt đóng góp rất quan trọng cho Giáo hội Việt nam, có Giám mục Giáo phận là Chủ tịch HĐGM, không những là chủ chăn của anh chị em mà còn là cột trụ của Giáo hội Việt nam.
Cũng phải hãnh diện vì Linh mục đoàn của anh chị em đoàn kết, hiệp nhất, yêu thương và cống hiến nhiều nhân sự đắc lực cho Giáo hội, không chỉ tại Đàlạt mà cả Giáo hội Việt nam. Bên cạnh đó, còn có sự đóng góp của các tu sĩ và giáo dân cho Giáo phận Đàlạt ngày càng phát triển, thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cách mạnh mẽ và hiệu quả.
Một lần nữa, chân thành cám ơn tâm tình quý mến của anh chị em. Tôi chỉ xin khi nhớ đến Giám mục của anh chị em và cầu nguyện cho ngài, cho tôi ké một tý, vì tôi cũng chọn bổn mạng giống ngài là thánh Phêrô. Hết lòng cám ơn”.
Kết thúc tuần tĩnh tâm, chắc chắn khi trở về, các Linh mục sẽ mang lại một nguồn sinh khí mới cho nơi mình đang phục vụ. Vì hơn lúc nào hết, đây không chỉ là thời gian ân sủng trong Năm Thánh của Giáo hội, mà còn là thời gian ân sủng của “Năm Linh mục”.
Sau khi giới thiệu Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm với cộng đoàn, Đức Giám mục Giáo phận bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn Chúa đã ban. Đồng thời, Đức Cha ngỏ lời cám ơn các cộng đoàn tu sĩ và giáo dân, đã hiệp ý cầu nguyện cho các cha trong những ngày qua.
Dựa vào các Bài đọc Lời Chúa (Is 61,1-3a; Dt 5,1-10; Ga 15,9-17) và chủ đề của tuần tĩnh tâm, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm chia sẻ những vấn đề cốt lõi của sự hiệp thông, ngài nói:
“Là Giám mục, tôi có cơ hội giúp các Linh mục ở một số Giáo phận, nhưng chưa nơi nào lại có Thánh lễ kết thúc tuần tĩnh tâm Linh mục được cử hành tại Nhà thờ Chánh Tòa, với sự tham dự đông đủ của quý nam nữ tu sĩ và anh chị em giáo dân. Chỉ có ở Đàlạt ! Tôi nghĩ nên thực hiện điều này ở những nơi khác tại Việt nam. Đây là một hình ảnh tuyệt vời trình bày về Hội thánh hiệp thông.
1. Hiệp thông có Chúa làm tâm điểm: Chiều nay, Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, quây quần bên Bàn Thánh, quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô là Vị Mục Tử Tối Cao. Chính Ngài thu hút chúng ta đến đây, chính Ngài là nguồn của sự hiệp thông. Trong Hội thánh, sự hiệp thông trước hết là hiệp thông có Chúa làm tâm điểm.
Vì ý thức như thế, các Linh mục mới dành thời gian để tĩnh tâm. Đây không phải là dịp để các Linh mục học tập đường lối của Hội thánh, nếu cần đã có lúc khác. Nhưng cốt yếu là anh em Linh mục chúng tôi đào sâu, làm mới lại mối hiệp thông của cá nhân mình với Thiên Chúa là suối nguồn hiệp thông. Chúng tôi ý thức càng đi sâu vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, chúng tôi sẽ càng có khả năng phục vụ sự hiệp thông trong Hội thánh.
Cũng vì ý thức như thế, anh chị em mới tha thiết cầu nguyện cho các Linh mục. Tôi được biết trước khi vào tuần tĩnh tâm, Đức Giám mục Giáo phận đã thông báo cho anh chị em biết, không chỉ để biết mà còn xin anh chị em cầu nguyện. Người giáo dân, đặc biệt giáo dân Việt nam có lòng yêu mến các Linh mục. Yêu mến không phải vì Linh mục đẹp trai hay tài giỏi, càng không phải vì giàu sang, mà chỉ vì Linh mục là người của Chúa.
Dù là Linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta đều ý thức rằng sự hiệp thông phải có Chúa làm tâm điểm.
2. Sự hiệp thông của tình yêu: Chúa Giêsu cầu nguyện trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài nói với các môn đệ hôm nay: ‘Như Chúa Cha yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy’. Chỉ một câu mà ba lần Chúa nhắc đến tình yêu.
Sống hiệp thông với Chúa nghĩa là ở lại trong tình yêu của Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên ở lại trong tình yêu của Chúa thì đương nhiên dẫn đến yêu thương nhau. Mệnh lệnh quan trọng nhất mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta: ‘anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em’. Người Công giáo chúng ta hiệp thông với nhau không phải để gây thanh thế hay vì bất kỳ một động cơ nào khác, mà đơn giản chỉ vì đó là dòng chảy của tình yêu, là điều rất đỗi tự nhiên như nước phải chảy, gió phải thổi, mây phải bay: Sự hiệp thông của tình yêu.
3. Sự hiệp thông mang tính thừa sai: Sự hiệp thông của tình yêu đích thực thì mang tính thừa sai, có giá trị loan báo Tin mừng của Chúa cho anh chị em của mình.
Khi đến dâng Thánh lễ ở Nhà thờ Chánh tòa Đàlạt, thấy Nhà thờ nằm trên một ngọn đồi và tôi nhớ đến lời Chúa Giêsu: ‘một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được. Người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, mà phải đặt trên giá để ánh sáng soi chiếu cho mọi người. Cũng vậy, sự sáng của chúng con phải chiếu dọi cho mọi người thấy, để người ta nhìn thấy đời sống, công việc tốt lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời’.
Nhà Thờ Chánh Tòa Đàlạt còn quen gọi là Nhà thờ Con Gà. Hình ảnh này khiến tôi liên tưởng đến tiếng gà gáy trong Phúc âm, tiếng gà thức tỉnh tâm hồn của một Phêrô chối Chúa (Phêrô là thánh Bổn mạng của mình nên tôi càng nhớ hơn).
Vậy khi một cộng đoàn sống hiệp thông, hiệp thông của tình yêu đích thực, cộng đoàn ấy sẽ trở thành tiếng thức tỉnh lương tâm con người, nhất là trong tình trạng đạo đức suy đồi của thời đại hiện nay. Cộng đoàn ấy trở thành một thành phố xây dựng trên núi cao không thể che giấu, nhưng bày tỏ khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương cho mọi người, có nghĩa một cộng đoàn hiệp thông yêu thương sẽ có khả năng loan báo Tin mừng. Đó là điều mà Hội thánh, cách riêng Giáo phận Đàlạt hết sức quan tâm.
Lịch sử Giáo hội làm chứng điều ấy: cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem đã sống hiệp thông yêu thương nhau, đến độ người ngoại giáo lúc bấy giờ thốt lên ‘kìa xem họ thương yêu nhau là dường nào’ và cộng đoàn ngày càng gia tăng.
Lịch sử Giáo hội Việt nam cũng ghi nhận: cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên ở đất Thăng Long hiệp thông yêu thương nhau, đến độ lúc ấy người ta chưa biết đây là đạo gì, nhưng nhìn vào đời sống của cha ông chúng ta, người ta đặt tên là đạo yêu nhau, và cộng đoàn cũng càng lúc càng gia tăng.
Cho nên một cộng đoàn hiệp thông yêu thương thực sự, là một cộng đoàn có sức thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng.
Thưa anh chị em,
Hơn lúc nào hết, đây là giây phút của hiệp thông yêu thương bởi chúng ta quy tụ nơi đây để cử hành Bí tích Thánh Thể. Như thánh Phaolô nói: ‘khi ta ăn bánh là ta thông phần vào Mình Chúa Kitô; khi ta uống chén là ta thông phần vào Máu Chúa Kitô. Mà khi chúng ta cùng ăn một bánh và cùng uống một chén cho nên tuy nhiều người nhưng chúng ta chỉ nên một’.
Ước gì sự hiệp thông yêu thương này được tiếp tục nối dài và thể hiện trong gia đình của anh chị em, trong Giáo xứ, trong Giáo phận của chúng ta. Khi cộng đoàn càng thực sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, có Chúa làm tâm điểm, hiệp thông trong tình yêu thương, thì cộng đoàn ấy càng có khả năng loan báo Tin mừng của Chúa, nghĩa là góp phần chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta”.
Sau khi cùng hiệp lòng sốt sắng dâng Thánh lễ và lãnh nhận Ơn Toàn xá trong Năm Thánh 2010, Cha Tổng Đại diện Phaolô Lê Đức Huân thay cho mọi người dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Cha Phêrô và Đức Cha Giảng phòng, bảy tỏ tâm tình yêu mến và vâng phục “Chúng con xin cám ơn Đức cha và hứa sẽ trở thành những người phục vụ sự hiệp thông, xây dựng sự hiệp nhất, không phải lúc này những trong suốt đời Linh mục”... “Chúng con xin ghi lại những lời giáo huấn của Đức cha, không phải ghi trên băng dĩa nhưng khắc ghi trong sâu thẳm tâm hồn mình. Xin Chúa cho chúng con trở nên những Linh mục phục vụ sự hiệp thông như những gì Đức cha đã ân cần hướng dẫn”. Cha Tổng Đại diện còn đặc biệt cám ơn các cộng đoàn tu sĩ và bà con giáo dân đã luôn yêu thương, hợp tác, hiệp nhất với nhau và với các Linh mục để xây dựng Hội thánh và cộng tác trong việc loan báo Tin mừng. Ngài ước ao “xin cho tất cả chúng ta luôn hiệp nhất với nhau để cùng xây dựng sự hiệp thông sung mãn và tích cực dấn thân tham gia mọi sinh hoạt của Hội thánh, nhất là sinh hoạt truyền giáo trong Năm Thánh của Giáo hội Việt nam và trong Năm Thánh của Giáo phận thân yêu này”.
Rất gần gũi và chân thành, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm đã bày tỏ những suy nghĩ của ngài trong lời đáp từ:
“Tôi ở Sàigòn, tuy không xa Đàlạt bao nhiêu nhưng lại ít có dịp lên đây. Lần đầu tiên được hân hạnh dâng Thánh lễ tại Nhà thờ Con Gà trong một khung cảnh thật trang trọng: có Đức Giám mục Giáo phận, có Linh mục đoàn, có đông đủ quý nam nữ tu sĩ và giáo dân. Ấn tượng hôm nay sâu sắc và ở mãi trong tâm hồn tôi.
Đàlạt là vùng đất thơ mộng, khí hậu trong lành, phong cảnh tuyệt đẹp. Nơi đây đã khơi nguồn sáng tác cho nhiều văn nghệ sỹ và nhiều sáng tạo văn học nghệ thuật. Tôi nghĩ vùng đất này cũng tác động đến con người: người Đàlạt hiền hòa, dễ thương, nhẹ nhàng. Tôi gặp điều đó ngay trong nhà thờ này, ngay trong kiến trúc của ngôi thánh đường này với màu sắc và ánh sáng thật dễ thương; tôi gặp điều đó trong tiếng đàn, tiếng hát của ca đoàn rất hay, không phải khen cho vui mà rất thật lòng; tôi gặp điều đó trong sự tham dự của anh chị em nhẹ nhàng nhưng tích cực vào cử hành phụng vụ.
Về mặt Giáo hội, Giáo phận Đàlạt đóng góp rất quan trọng cho Giáo hội Việt nam, có Giám mục Giáo phận là Chủ tịch HĐGM, không những là chủ chăn của anh chị em mà còn là cột trụ của Giáo hội Việt nam.
Cũng phải hãnh diện vì Linh mục đoàn của anh chị em đoàn kết, hiệp nhất, yêu thương và cống hiến nhiều nhân sự đắc lực cho Giáo hội, không chỉ tại Đàlạt mà cả Giáo hội Việt nam. Bên cạnh đó, còn có sự đóng góp của các tu sĩ và giáo dân cho Giáo phận Đàlạt ngày càng phát triển, thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cách mạnh mẽ và hiệu quả.
Một lần nữa, chân thành cám ơn tâm tình quý mến của anh chị em. Tôi chỉ xin khi nhớ đến Giám mục của anh chị em và cầu nguyện cho ngài, cho tôi ké một tý, vì tôi cũng chọn bổn mạng giống ngài là thánh Phêrô. Hết lòng cám ơn”.
Kết thúc tuần tĩnh tâm, chắc chắn khi trở về, các Linh mục sẽ mang lại một nguồn sinh khí mới cho nơi mình đang phục vụ. Vì hơn lúc nào hết, đây không chỉ là thời gian ân sủng trong Năm Thánh của Giáo hội, mà còn là thời gian ân sủng của “Năm Linh mục”.
Thư Mùa Chay của Đức GM Đà Lạt
18:45 02/02/2010
TÒA GIÁM MỤC
9, Nguyễn Thái Học
Đàlạt – Lâm Đồng
Đàlạt, ngày 02 tháng 02 năm 2010
Kính gửi: Quý Cha
Các Tu Sĩ, Chủng Sinh
và Anh Chị Em Giáo Dân
trong Gia đình Giáo Phận
1. Chúng ta sắp bước vào Mùa Chay. Hành trình bốn mươi ngày của Mùa Chay Thánh là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta bước theo Chúa Kitô cách gần gũi hơn, hăng say hơn, với tất cả lòng tin cậy và yêu mến. Mùa Chay là “thì mạnh” của Năm Phụng Vụ, hay nói như thánh Phaolô, là “thời Thiên Chúa thi ân và là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6,2). Mùa Chay chính là thời điểm mà Chúa Giêsu Kitô tuôn đổ muôn vàn ân sủng cho Hiền thê của Ngài là Hội Thánh qua mầu nhiệm Thánh Giá.
2. Trong bầu khí của Năm Thánh 2010, Mùa Chay năm nay thúc đẩy chúng ta sống tinh thần hy sinh, sám hối và hòa giải cách chân thành và triệt để hơn, theo đúng tinh thần Tin Mừng, nhất là vì trong những ngày gần đây, trước những biến cố đau buồn xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam, nhiều anh chị em tín hữu cảm thấy hoang mang lo lắng, không biết định hướng thế nào trước những luồng thông tin và dư luận khác biệt nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do đó, với trách nhiệm hướng dẫn đời sống đức tin của cộng đồng Dân Chúa, tôi muốn cùng suy nghĩ với anh chị em về mầu nhiệm Thánh Giá mang sức mạnh cứu độ, mầu nhiệm mà Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành và sống cách đặc biệt trong Mùa Chay. Hy vọng rằng những suy nghĩ này sẽ góp phần thúc đẩy tất cả chúng ta sống tinh thần Mùa Chay như Hội Thánh mong muốn, ngõ hầu sự bình an và ánh sáng đích thực của Đức Kitô phục sinh sẽ bừng lên trong đời sống Hội Thánh cũng như trong cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay.
Hội Thánh tuyên xưng mầu nhiệm Thánh Giá:
3. Nhìn từ bên ngoài, thập giá là sự thất bại của Chúa Giêsu. Đứng trước thập giá của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy thất vọng, hoang mang và sợ hãi (x. Ga 20,19). Tâm trạng này bộc lộ rõ nơi khuôn mặt và giọng nói u buồn của hai môn đệ làng Emmau, khi họ kể lại câu chuyện về Đức Giêsu thành Nadarét bị đóng đinh trên thập giá với “Người Khách Lạ” (Lc 24,17). Khi nói về thập giá của Chúa Giêsu trong thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô khởi đi từ cái nhìn nhân loại để rồi chuyển sang cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của đức tin. Dưới cái nhìn nhân loại, thập giá quả thực là sự “điên rồ” và “ô nhục” (1Cr 1,23), bởi đó là một nhục hình dành cho những kẻ nô lệ và hạng dân đen. Theo nghĩa này, thập giá là biểu tượng cho tất cả những đau khổ bất công mà người nghèo hèn, vô tội phải gánh chịu trong suốt dòng lịch sử.
4. Tuy nhiên, trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa được thực hiện nơi thập giá Chúa Kitô, kế hoạch đã làm cho thánh Phaolô ngất ngây trong chiêm ngưỡng và tạ ơn (Ep 1,3-14; 3,14), thì thập giá trở thành Thánh Giá, nghĩa là nơi biểu lộ sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (x.1Cr 1,18), vì “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,25). Hướng nhìn của đức tin đã làm cho thánh Phaolô dứt khoát chọn lựa Thánh Giá: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh… Chúng tôi không muốn biết điều gì khác hơn ngoài Đức Giêsu Kitô và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh thập giá” (1Cr 1,22; 2,2). Chính vì thế, người kitô hữu chúng ta tuyên xưng Thánh Giá là Nguồn Ơn Cứu Độ và là Vinh Quang của chúng ta: “Ôi Thánh Giá, nguồn cậy trông duy nhất của chúng con”. Nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng, sức mạnh lớn nhất là tình yêu chứ không phải hận thù. Đấng chịu đóng đinh ở Giêrusalem chỉ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta có thể đi đến mức như thế nào. Nơi Thánh Giá của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã “phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,14).
Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Thánh Giá:
5. Vì Thánh Giá là Nguồn Ơn Cứu Độ nên trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Hội Thánh tôn vinh mầu nhiệm Thánh Giá. Sau khi đọc lại và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, Hội Thánh cử hành nghi thức thờ lạy Thánh Giá cách trọng thể. Vị chủ sự nâng cao Thánh Giá và xướng: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu độ trần gian”, rồi kêu gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”. Tất cả mọi người quỳ gối xuống, cung kính thờ lạy Thánh Giá.
Chúng ta tôn vinh Thánh Giá không những trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mà còn trong Thánh lễ mỗi ngày. Cử hành Thánh Thể là cử hành cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, vì “mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó, Chúa Kitô, Chiên Vượt qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (Lumen gentium số 3). Trong Thánh lễ, hy tế của Đức Kitô trở thành hy tế của mọi chi thể trong Thân Mình Ngài là Hội Thánh. Tất cả đời sống chúng ta, với niềm vui và nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc, thành công và thất bại, tất cả đều được kết hợp với Đức Kitô và hy tế của Ngài; nhờ đó mang một ý nghĩa và giá trị mới. Chính vì thế, Thánh lễ có vị trí đặc biệt trong đời sống người công giáo, và chúng ta cần dâng Thánh lễ với tất cả ý thức đức tin của mình.
Hội Thánh sống mầu nhiệm Thánh Giá:
6. Mầu nhiệm Thánh Giá không chỉ được tuyên xưng và cử hành như một nghi lễ mà còn phải đưa vào đời sống hằng ngày của chúng ta. Tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự mầu nhiệm Thánh Giá Chúa bằng nhiều cách. Trước hết bằng việc thông phần đau khổ với Chúa: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ… Nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Kitô hữu thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó…” (1Pr 4,13-14). Vì được thông phần đau khổ của Đấng mang lấy mọi khổ đau của nhân loại, mà chúng ta được kêu gọi cảm thông, chia sẻ tất cả những đau khổ, khốn cùng, những thảm kịch do bất công, bạo lực mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu trong cuộc sống hôm nay (x. Cl 1,24).
Nhưng để có thể sống chia sẻ, cảm thông như Đức Kitô đã làm đối với nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá, chúng ta cần phải đi lại con đường mà Chúa đã đi, con đường từ bỏ bản thân, đến mức tự hủy vì tình yêu và cho tình yêu. Thật vậy, cốt lõi của mầu nhiệm Thánh Giá là sự tự hủy vì tình yêu. Để diễn tả mầu nhiệm này, thánh Phaolô đã trích dẫn một thánh thi mà có lẽ mượn từ phụng vụ của các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Ngài đã mở đầu bằng những lời như sau: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (x. Pl 2,5-7). Áng văn tuyệt tác này họa lại tất cả hành trình của Đức Kitô, từ nhập thể tới phục sinh và đến tận việc được siêu tôn bên hữu Chúa Cha. Thánh thi trong thư gửi tín hữu Philipphê đưa chúng ta vào điểm độc sáng nhất của Kitô giáo. Vị Thiên Chúa sáng tạo đã chấp nhận hòa mình với thụ tạo của mình.
Qua nhập thể, Con Thiên Chúa tự trút bỏ mọi uy quyền, mang lấy xác phàm như chúng ta. Ngài đã trở nên một người như chúng ta và mãi là như thế. Quả là một sự tự hạ đến vô cùng. Nhưng sự tự hạ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở đó, “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,9). Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta phải tập từ bỏ chính mình, sống tinh thần tự hủy, để có thể sống yêu thương, yêu thương cho đến cùng, yêu thương hết mọi người. Cũng vậy, con đường xây dựng công lý và hoà bình của Nước Thiên Chúa phải mang dấu ấn riêng biệt của Chúa Giêsu Kitô là dấu ấn tự hủy, dấu ấn của tình yêu. Mọi lời nói và hành động của chúng ta chỉ có thể đem lại công lý và hòa bình đích thực khi mang theo dấu ấn này.
Cuối cùng, chúng ta được mời gọi làm chứng cho tình yêu tha thứ và hòa giải của Thánh Giá. Làm sao khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta lại không nhớ đến lời nguyện xin tha thứ của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34) ? Vì thế, để sống mầu nhiệm Thánh Giá trên quê hương đất nước chúng ta, một đàng chúng ta phải sống cách dứt khoát và quyết liệt hơn đòi hỏi của Tin Mừng, của các Mối Phúc Thật: “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” (Kinh Hòa Bình), và đàng khác chúng ta làm tất cả những điều đó vì tình yêu và với tình yêu tha thứ của Thánh Giá mà thôi. Chỉ như thế, hành động của chúng ta mới là hành động mang ý nghĩa cứu độ, hành động của người môn đệ Chúa Kitô.
7. Anh chị em thân mến,
Khi suy gẫm về mầu nhiệm Thánh Giá với anh chị em, tôi không thể không nhớ đến Bài Ca Thứ Tư về Người Tôi Tớ mà Isaia đã phác họa. Trong bức chân dung đó, Người Tôi Tớ sống trọn vẹn cho người khác và vì người khác, sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Hội Thánh ngay từ thuở ban đầu đã nhận ra Người Tôi Tớ đó không ai khác hơn là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta:
“Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
Sự thật, chính người đã mang lấy
những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề.
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,3-5).
Xin Chúa Giêsu cùng đồng hành với chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay
và lôi kéo chúng ta đến với Thánh Giá cứu độ của Ngài.
Thân ái,
+ Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám Mục Giáo Phận Đàlạt
9, Nguyễn Thái Học
Đàlạt – Lâm Đồng
Đàlạt, ngày 02 tháng 02 năm 2010
Kính gửi: Quý Cha
Các Tu Sĩ, Chủng Sinh
và Anh Chị Em Giáo Dân
trong Gia đình Giáo Phận
1. Chúng ta sắp bước vào Mùa Chay. Hành trình bốn mươi ngày của Mùa Chay Thánh là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta bước theo Chúa Kitô cách gần gũi hơn, hăng say hơn, với tất cả lòng tin cậy và yêu mến. Mùa Chay là “thì mạnh” của Năm Phụng Vụ, hay nói như thánh Phaolô, là “thời Thiên Chúa thi ân và là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6,2). Mùa Chay chính là thời điểm mà Chúa Giêsu Kitô tuôn đổ muôn vàn ân sủng cho Hiền thê của Ngài là Hội Thánh qua mầu nhiệm Thánh Giá.
2. Trong bầu khí của Năm Thánh 2010, Mùa Chay năm nay thúc đẩy chúng ta sống tinh thần hy sinh, sám hối và hòa giải cách chân thành và triệt để hơn, theo đúng tinh thần Tin Mừng, nhất là vì trong những ngày gần đây, trước những biến cố đau buồn xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam, nhiều anh chị em tín hữu cảm thấy hoang mang lo lắng, không biết định hướng thế nào trước những luồng thông tin và dư luận khác biệt nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do đó, với trách nhiệm hướng dẫn đời sống đức tin của cộng đồng Dân Chúa, tôi muốn cùng suy nghĩ với anh chị em về mầu nhiệm Thánh Giá mang sức mạnh cứu độ, mầu nhiệm mà Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành và sống cách đặc biệt trong Mùa Chay. Hy vọng rằng những suy nghĩ này sẽ góp phần thúc đẩy tất cả chúng ta sống tinh thần Mùa Chay như Hội Thánh mong muốn, ngõ hầu sự bình an và ánh sáng đích thực của Đức Kitô phục sinh sẽ bừng lên trong đời sống Hội Thánh cũng như trong cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay.
Hội Thánh tuyên xưng mầu nhiệm Thánh Giá:
3. Nhìn từ bên ngoài, thập giá là sự thất bại của Chúa Giêsu. Đứng trước thập giá của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy thất vọng, hoang mang và sợ hãi (x. Ga 20,19). Tâm trạng này bộc lộ rõ nơi khuôn mặt và giọng nói u buồn của hai môn đệ làng Emmau, khi họ kể lại câu chuyện về Đức Giêsu thành Nadarét bị đóng đinh trên thập giá với “Người Khách Lạ” (Lc 24,17). Khi nói về thập giá của Chúa Giêsu trong thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô khởi đi từ cái nhìn nhân loại để rồi chuyển sang cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của đức tin. Dưới cái nhìn nhân loại, thập giá quả thực là sự “điên rồ” và “ô nhục” (1Cr 1,23), bởi đó là một nhục hình dành cho những kẻ nô lệ và hạng dân đen. Theo nghĩa này, thập giá là biểu tượng cho tất cả những đau khổ bất công mà người nghèo hèn, vô tội phải gánh chịu trong suốt dòng lịch sử.
4. Tuy nhiên, trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa được thực hiện nơi thập giá Chúa Kitô, kế hoạch đã làm cho thánh Phaolô ngất ngây trong chiêm ngưỡng và tạ ơn (Ep 1,3-14; 3,14), thì thập giá trở thành Thánh Giá, nghĩa là nơi biểu lộ sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (x.1Cr 1,18), vì “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,25). Hướng nhìn của đức tin đã làm cho thánh Phaolô dứt khoát chọn lựa Thánh Giá: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh… Chúng tôi không muốn biết điều gì khác hơn ngoài Đức Giêsu Kitô và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh thập giá” (1Cr 1,22; 2,2). Chính vì thế, người kitô hữu chúng ta tuyên xưng Thánh Giá là Nguồn Ơn Cứu Độ và là Vinh Quang của chúng ta: “Ôi Thánh Giá, nguồn cậy trông duy nhất của chúng con”. Nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng, sức mạnh lớn nhất là tình yêu chứ không phải hận thù. Đấng chịu đóng đinh ở Giêrusalem chỉ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta có thể đi đến mức như thế nào. Nơi Thánh Giá của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã “phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,14).
Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Thánh Giá:
5. Vì Thánh Giá là Nguồn Ơn Cứu Độ nên trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Hội Thánh tôn vinh mầu nhiệm Thánh Giá. Sau khi đọc lại và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, Hội Thánh cử hành nghi thức thờ lạy Thánh Giá cách trọng thể. Vị chủ sự nâng cao Thánh Giá và xướng: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu độ trần gian”, rồi kêu gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”. Tất cả mọi người quỳ gối xuống, cung kính thờ lạy Thánh Giá.
Chúng ta tôn vinh Thánh Giá không những trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mà còn trong Thánh lễ mỗi ngày. Cử hành Thánh Thể là cử hành cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, vì “mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó, Chúa Kitô, Chiên Vượt qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (Lumen gentium số 3). Trong Thánh lễ, hy tế của Đức Kitô trở thành hy tế của mọi chi thể trong Thân Mình Ngài là Hội Thánh. Tất cả đời sống chúng ta, với niềm vui và nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc, thành công và thất bại, tất cả đều được kết hợp với Đức Kitô và hy tế của Ngài; nhờ đó mang một ý nghĩa và giá trị mới. Chính vì thế, Thánh lễ có vị trí đặc biệt trong đời sống người công giáo, và chúng ta cần dâng Thánh lễ với tất cả ý thức đức tin của mình.
Hội Thánh sống mầu nhiệm Thánh Giá:
6. Mầu nhiệm Thánh Giá không chỉ được tuyên xưng và cử hành như một nghi lễ mà còn phải đưa vào đời sống hằng ngày của chúng ta. Tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự mầu nhiệm Thánh Giá Chúa bằng nhiều cách. Trước hết bằng việc thông phần đau khổ với Chúa: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ… Nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Kitô hữu thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó…” (1Pr 4,13-14). Vì được thông phần đau khổ của Đấng mang lấy mọi khổ đau của nhân loại, mà chúng ta được kêu gọi cảm thông, chia sẻ tất cả những đau khổ, khốn cùng, những thảm kịch do bất công, bạo lực mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu trong cuộc sống hôm nay (x. Cl 1,24).
Nhưng để có thể sống chia sẻ, cảm thông như Đức Kitô đã làm đối với nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá, chúng ta cần phải đi lại con đường mà Chúa đã đi, con đường từ bỏ bản thân, đến mức tự hủy vì tình yêu và cho tình yêu. Thật vậy, cốt lõi của mầu nhiệm Thánh Giá là sự tự hủy vì tình yêu. Để diễn tả mầu nhiệm này, thánh Phaolô đã trích dẫn một thánh thi mà có lẽ mượn từ phụng vụ của các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Ngài đã mở đầu bằng những lời như sau: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (x. Pl 2,5-7). Áng văn tuyệt tác này họa lại tất cả hành trình của Đức Kitô, từ nhập thể tới phục sinh và đến tận việc được siêu tôn bên hữu Chúa Cha. Thánh thi trong thư gửi tín hữu Philipphê đưa chúng ta vào điểm độc sáng nhất của Kitô giáo. Vị Thiên Chúa sáng tạo đã chấp nhận hòa mình với thụ tạo của mình.
Qua nhập thể, Con Thiên Chúa tự trút bỏ mọi uy quyền, mang lấy xác phàm như chúng ta. Ngài đã trở nên một người như chúng ta và mãi là như thế. Quả là một sự tự hạ đến vô cùng. Nhưng sự tự hạ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở đó, “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,9). Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta phải tập từ bỏ chính mình, sống tinh thần tự hủy, để có thể sống yêu thương, yêu thương cho đến cùng, yêu thương hết mọi người. Cũng vậy, con đường xây dựng công lý và hoà bình của Nước Thiên Chúa phải mang dấu ấn riêng biệt của Chúa Giêsu Kitô là dấu ấn tự hủy, dấu ấn của tình yêu. Mọi lời nói và hành động của chúng ta chỉ có thể đem lại công lý và hòa bình đích thực khi mang theo dấu ấn này.
Cuối cùng, chúng ta được mời gọi làm chứng cho tình yêu tha thứ và hòa giải của Thánh Giá. Làm sao khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta lại không nhớ đến lời nguyện xin tha thứ của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34) ? Vì thế, để sống mầu nhiệm Thánh Giá trên quê hương đất nước chúng ta, một đàng chúng ta phải sống cách dứt khoát và quyết liệt hơn đòi hỏi của Tin Mừng, của các Mối Phúc Thật: “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” (Kinh Hòa Bình), và đàng khác chúng ta làm tất cả những điều đó vì tình yêu và với tình yêu tha thứ của Thánh Giá mà thôi. Chỉ như thế, hành động của chúng ta mới là hành động mang ý nghĩa cứu độ, hành động của người môn đệ Chúa Kitô.
7. Anh chị em thân mến,
Khi suy gẫm về mầu nhiệm Thánh Giá với anh chị em, tôi không thể không nhớ đến Bài Ca Thứ Tư về Người Tôi Tớ mà Isaia đã phác họa. Trong bức chân dung đó, Người Tôi Tớ sống trọn vẹn cho người khác và vì người khác, sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Hội Thánh ngay từ thuở ban đầu đã nhận ra Người Tôi Tớ đó không ai khác hơn là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta:
“Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
Sự thật, chính người đã mang lấy
những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề.
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,3-5).
Xin Chúa Giêsu cùng đồng hành với chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay
và lôi kéo chúng ta đến với Thánh Giá cứu độ của Ngài.
Thân ái,
+ Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám Mục Giáo Phận Đàlạt
Dòng Mến Thánh Giá tổ chức ngày cuối năm cho sinh viên Công giáo Huế
Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo
18:58 02/02/2010
Sân và nguyện đường rộng rãi thoáng mát trong những ngày giáp tết, các nữ tu Mến Thánh Giá đã dành cho sinh viên chương trình sinh hoạt ý nghĩa, vui nhộn và sống động từ việc tìm hiểu lịch sử Năm Thánh, đến chứng từ chia sẻ của một linh mục người Việt gốc Trung Hoa, vượt biên sang Mỹ sau năm 1975.
Các bạn sinh viên đã biết được sự anh dũng từ người kỹ sư tin học tiếng tăm tại Mỹ, mỗi giờ anh kiếm được 30-40 mỹ kim từ việc dạy và làm chuyên viên kỹ thuật cho các công ty lớn tại Mỹ, đã bán hai căn nhà trị giá 200.000 mỹ kim, giúp đỡ người nghèo để chạy theo tiếng Chúa gọi.
Sự kiện thầy Lu ca Trần Đức trở lại đạo Công giáo, làm linh mục là “cú sốc” cho gia đình vì cha mẹ ngài là Phật giáo gốc Trung Hoa, không muốn con mình theo đạo Công giáo.
Cha Đức, trở lại Công giáo năm 1995 nhờ sống với một gia đình công giáo đạo đức, sau đó ngài khám phá ra lòng thương xót, phục vụ người nghèo vô vị lợi của vị cha giáo người Việt đã dạy tiếng Anh cho ngài, rồi ngài ao ước đi tu trở thành linh mục. Hiện ngài đang hoạt động trong các tổ chức bác ái của giáo hội Hoa Kỳ.
Trong dịp nầy, các sinh viên còn biết thêm kiến thức lịch sử Giáo hội Việt Nam qua nữ tu Anna Trần Thị Hồng Túy, bề trên dòng Mến Thánh Giá Huế, nói chuyện lịch sử truyền giáo tại Việt Nam của hai vị giám mục đại diện tông tòa đầu tiên của Giáo hội Việt Nam là hai đức cha François Pallu và Pierre Lambert de la Motte.
Giáo hội Việt Nam đang mừng Năm Thánh 350 năm thiết lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, và 50 năm thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Các sinh viên tham dự cảm thấy thích thú, họ vỗ tay lớn khi xem 7 nữ tu hóa trang thân làm giám mục và linh mục của hội thừa sai Pháp đang nhóm họp để soạn thảo chương trình đào tạo linh mục cho Việt Nam, họ còn vỗ tay khi nghe cha Trần Đức hát, ngâm thơ ca ngợi đời sống vui buồn của linh mục.
Lucia Lê Thị Thu Hường, sinh viên nhóm ngoại ngữ, không những cô ca ngợi sự vui vẻ, đón tiếp của các nữ tu, mà qua buổi họp mặt cô còn biết được công lao các vị thừa sai hải ngoại đã góp công rất lớn trong việc xây dựng Giáo hội Việt Nam.
Phát biểu với sinh viên trước khi các bạn trở về nhà đón tết, linh mục An tôn Nguyễn Văn Tuyến, đặc trách sinh viên Công giáo Huế nói rằng mục đích buổi sinh hoạt là giúp sinh viên hiểu được Giáo hội Việt Nam qua lịch sử các vị mục tử, ngài hy vọng trong số sinh viên của ngài sẽ có nhiều người làm linh mục hoặc nữ tu để phục vụ Giáo hội.
Chương trình cuối năm, ngoài thuyết giảng, chầu thánh thể còn có cơm tối, văn nghệ vui đón xuân Canh Dần và xổ số trúng thưởng.
Đức tổng giám mục Huế, Têphanô Nguyễn Như Thể đã đến dự và chúc lành cho sinh viên, ngài khuyên họ đọc Lời Chúa mỗi ngày trong năm Thánh 2009- 2010 vì hầu hết sinh viên Công giáo Huế đều có sách Kinh Thánh.
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa và Đền Thờ tại nhà thờ Đa Minh Ba Chuông
Maria Vũ Loan
19:01 02/02/2010
SAIGÒN -- Chiều ngày lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Vào Đền Thờ, còn được gọi là lễ Nến, khá đông trẻ em được bố mẹ dẫn đến nhà thờ Đa Minh Ba Chuông để tham dự thánh lễ. Hôm nay, trong thánh lễ đồng tế có nghi thức làm phép nến và nghi thức chúc lành cho trẻ em và các bà mẹ.
Mở đầu là lời chào mừng của cha chánh xứ Giuse Đào Trung Hiệu OP gởi đến cha mẹ và các em bé với tràng vỗ tay hân hoan của cộng đoàn. Tiếp theo là lời cầu nguyện trang trọng trong nghi thức làm phép nến có rẩy nước thánh, làm cho người dự hiểu rằng tuy những cây nến màu trắng có nơ hồng, nơ xanh xếp đầy trên chiếc bàn kia xem ra chỉ là một sản phẩm bình thường, nhưng giờ đây chúng trở nên thánh thiêng khi được làm công cụ chứa đựng ánh sáng – một biểu tượng sứ mệnh của hài nhi Giêsu, vì Ngài là “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel dân Ngài (Lc 2,22-40).
Và giáo dân còn có thói quen mang nến đã làm phép về nhà để thắp lên khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện lúc có người ốm đau, đi xa hoặc trong những dịp cưới hỏi hay tang chế.
Trong lòng nhà thờ bầu khí như tươi vui hơn vì có nhiều trẻ em, cháu thì được cha bế, cháu được mẹ ẵm, những cháu khác nhỉnh hơn thì được cùng đứng cùng ngồi với cha mẹ trong thánh lễ. Còn ngoài sân nhà thờ, nhiều cháu tung tăng, vô tư chạy đi chạy lại trong bộ quần áo đẹp…tất cả như nói lên niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa trong chặng đường dài nuôi dạy con cái mà người làm cha mẹ chẳng biết những gì sẽ xảy ra.
Bài giảng sâu sắc của linh mục chủ tế còn xoáy nhẹ vào lòng những người làm cha mẹ mà trong đời thường niềm tin song song với chuyện cơm áo gạo tiền. Cha nhấn mạnh bốn điểm:
- Ca ngợi sự sống của Thiên Chúa: câu chuyện trong Cựu Ước khi có một tai ương là tất cả những trẻ nam con của dân Ai Cập đều bị giết, còn con trẻ của dân Do Thái được tha khi bôi máu lên cửa….nhắc nhở cho mọi người rằng sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa, con người lớn lên trong sự bảo bọc của Thiên Chúa và con đường sống của chúng ta chỉ có giá trị khi đi theo giáo huấn của Người.
- Ý nghĩa về gia đình, tuổi thơ và vai trò làm cha mẹ: Khi cử hành bí tích hôn phối, những người lập gia đình được nghe câu hỏi này: “Anh chị có đón nhận con cái Thiên Chúa ban và giáo dục chúng theo sự hướng dẫn của Giáo Hội không?” Cha dẫn chứng rằng, hiện nay, Việt Nam là một trong ba quốc gia đứng đầu thế giới trong việc phá thai, nghĩa là trên đất nước này có nhiều nghĩa trang thai nhi. Đó là điều đau lòng vì sự sống Thiên Chúa trao ban là một món quà quí giá, chúng ta được hợp tác với Thiên Chúa mà sáng tạo ra một con người biết suy nghĩ, biết yêu thương và hành động.
- Lưỡi đòng và bảy sự thương khó của Đức Mẹ: Khởi nguồn từ một thế giới từ chối ánh sáng nên gặp phải nhiều khốn khổ chuân chuyên; Đức Maria đã làm tròn vai trò làm mẹ của mình. Được báo trước nỗi đau, Đức Maria can đảm đón nhận người con rướm máu trên thánh giá, trong khi các bà mẹ không thể biết được những gì sẽ xảy ra với con mình; thế nên Đức Mẹ cảm thông với tất cả những bà mẹ.
- Cha thổ lộ cảm xúc riêng của mình khi xem tài liệu nói về những công cụ khoa học giết chết thai nhi; và thật mỉa mai khi trong tài liệu có câu nói của thai nhi: “Mẹ ơi, con chưa nhìn thấy mặt mẹ, nhưng cho con được gọi mẹ là mẹ vì con vật nó còn có mẹ….con đi trước, mẹ sẽ đi sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau, vì ngoài phần xác, con người còn có phần anh linh, mà người Công Giáo gọi là linh hồn, mà linh hồn là thứ làm cho chúng ta vinh dự được nói chuyện với Thiên Chúa.
Linh mục kết thúc bài giảng bằng lời cầu mong mọi người cùng chung tay xây dựng một thế giới có nền văn minh của tình thương. Bốn ý tưởng trên làm mọi người như lặng đi trong khi các con trẻ vẫn ngây ngô và ấm áp trong vòng tay mẹ cha.
Sau đó, thật xúc động khi nhiều người xếp hàng, bế con lên trước cung thánh để các linh mục đồng tế chúc lành. Có nhiều người Công giáo, đứng trước khó khăn về cuộc sống, đã nhút nhát chỉ sinh một đứa con, trong khi những người Cộng sản còn “cho phép” sinh hai con. Nhiều quốc gia đang già đi và phải khốn khổ khi tha thiết kêu gọi phụ nữ sinh ra những công dân. Và nếu quan tâm, suy nghĩ một chút thì (khi chỉ sinh một con) thật tội nghiệp cho đứa bé chỉ có một mình trong căn nhà của cha mẹ và còn nhiều chuyện khác nữa.
Thánh lễ kết thúc, nhiều người lên nhận nến rồi ra về, nhưng chắc chắn bài giảng hôm nay của cha chủ tế lắng đọng ít nhiều trong lòng những người làm cha mẹ với nhiều lo toan khó nhọc vẫn hy vọng tín thác về những đứa con của mình vào một Thiên Chúa yêu thương.
Mở đầu là lời chào mừng của cha chánh xứ Giuse Đào Trung Hiệu OP gởi đến cha mẹ và các em bé với tràng vỗ tay hân hoan của cộng đoàn. Tiếp theo là lời cầu nguyện trang trọng trong nghi thức làm phép nến có rẩy nước thánh, làm cho người dự hiểu rằng tuy những cây nến màu trắng có nơ hồng, nơ xanh xếp đầy trên chiếc bàn kia xem ra chỉ là một sản phẩm bình thường, nhưng giờ đây chúng trở nên thánh thiêng khi được làm công cụ chứa đựng ánh sáng – một biểu tượng sứ mệnh của hài nhi Giêsu, vì Ngài là “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel dân Ngài (Lc 2,22-40).
Và giáo dân còn có thói quen mang nến đã làm phép về nhà để thắp lên khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện lúc có người ốm đau, đi xa hoặc trong những dịp cưới hỏi hay tang chế.
Trong lòng nhà thờ bầu khí như tươi vui hơn vì có nhiều trẻ em, cháu thì được cha bế, cháu được mẹ ẵm, những cháu khác nhỉnh hơn thì được cùng đứng cùng ngồi với cha mẹ trong thánh lễ. Còn ngoài sân nhà thờ, nhiều cháu tung tăng, vô tư chạy đi chạy lại trong bộ quần áo đẹp…tất cả như nói lên niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa trong chặng đường dài nuôi dạy con cái mà người làm cha mẹ chẳng biết những gì sẽ xảy ra.
Bài giảng sâu sắc của linh mục chủ tế còn xoáy nhẹ vào lòng những người làm cha mẹ mà trong đời thường niềm tin song song với chuyện cơm áo gạo tiền. Cha nhấn mạnh bốn điểm:
- Ca ngợi sự sống của Thiên Chúa: câu chuyện trong Cựu Ước khi có một tai ương là tất cả những trẻ nam con của dân Ai Cập đều bị giết, còn con trẻ của dân Do Thái được tha khi bôi máu lên cửa….nhắc nhở cho mọi người rằng sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa, con người lớn lên trong sự bảo bọc của Thiên Chúa và con đường sống của chúng ta chỉ có giá trị khi đi theo giáo huấn của Người.
- Ý nghĩa về gia đình, tuổi thơ và vai trò làm cha mẹ: Khi cử hành bí tích hôn phối, những người lập gia đình được nghe câu hỏi này: “Anh chị có đón nhận con cái Thiên Chúa ban và giáo dục chúng theo sự hướng dẫn của Giáo Hội không?” Cha dẫn chứng rằng, hiện nay, Việt Nam là một trong ba quốc gia đứng đầu thế giới trong việc phá thai, nghĩa là trên đất nước này có nhiều nghĩa trang thai nhi. Đó là điều đau lòng vì sự sống Thiên Chúa trao ban là một món quà quí giá, chúng ta được hợp tác với Thiên Chúa mà sáng tạo ra một con người biết suy nghĩ, biết yêu thương và hành động.
- Lưỡi đòng và bảy sự thương khó của Đức Mẹ: Khởi nguồn từ một thế giới từ chối ánh sáng nên gặp phải nhiều khốn khổ chuân chuyên; Đức Maria đã làm tròn vai trò làm mẹ của mình. Được báo trước nỗi đau, Đức Maria can đảm đón nhận người con rướm máu trên thánh giá, trong khi các bà mẹ không thể biết được những gì sẽ xảy ra với con mình; thế nên Đức Mẹ cảm thông với tất cả những bà mẹ.
- Cha thổ lộ cảm xúc riêng của mình khi xem tài liệu nói về những công cụ khoa học giết chết thai nhi; và thật mỉa mai khi trong tài liệu có câu nói của thai nhi: “Mẹ ơi, con chưa nhìn thấy mặt mẹ, nhưng cho con được gọi mẹ là mẹ vì con vật nó còn có mẹ….con đi trước, mẹ sẽ đi sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau, vì ngoài phần xác, con người còn có phần anh linh, mà người Công Giáo gọi là linh hồn, mà linh hồn là thứ làm cho chúng ta vinh dự được nói chuyện với Thiên Chúa.
Linh mục kết thúc bài giảng bằng lời cầu mong mọi người cùng chung tay xây dựng một thế giới có nền văn minh của tình thương. Bốn ý tưởng trên làm mọi người như lặng đi trong khi các con trẻ vẫn ngây ngô và ấm áp trong vòng tay mẹ cha.
Sau đó, thật xúc động khi nhiều người xếp hàng, bế con lên trước cung thánh để các linh mục đồng tế chúc lành. Có nhiều người Công giáo, đứng trước khó khăn về cuộc sống, đã nhút nhát chỉ sinh một đứa con, trong khi những người Cộng sản còn “cho phép” sinh hai con. Nhiều quốc gia đang già đi và phải khốn khổ khi tha thiết kêu gọi phụ nữ sinh ra những công dân. Và nếu quan tâm, suy nghĩ một chút thì (khi chỉ sinh một con) thật tội nghiệp cho đứa bé chỉ có một mình trong căn nhà của cha mẹ và còn nhiều chuyện khác nữa.
Thánh lễ kết thúc, nhiều người lên nhận nến rồi ra về, nhưng chắc chắn bài giảng hôm nay của cha chủ tế lắng đọng ít nhiều trong lòng những người làm cha mẹ với nhiều lo toan khó nhọc vẫn hy vọng tín thác về những đứa con của mình vào một Thiên Chúa yêu thương.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bài nhạc: Con là kẻ đưa đinh
Vương Huyền & Cao Quỳnh Thu
09:12 02/02/2010
Mời nghe bài nhạc ở cuối trang
Cộng đoàn Vinh Hà Nội kêu gọi ngưng phong tỏa giáo xứ Đồng Chiêm
VOA
09:45 02/02/2010
Cộng đoàn Vinh Hà Nội kêu gọi ngưng phong tỏa giáo xứ Đồng Chiêm
Cộng đoàn Vinh tại Hà Nội yêu cầu nhà nứơc chấm dứt việc bắt giữ, hành hung giáo dân trái phép và ngưng phong tỏa giáo xứ Đồng Chiêm.
Bản tin ngày 2/2 của Thông tấn xã Công giáo CNA có trụ sở tại Hoa Kỳ trích dẫn tuyên cáo của Cộng đoàn Vinh có chữ ký của Linh mục Lưu Ngọc Quỳnh yêu cầu chính quyền tôn trọng quyền tự do đi lại của mọi công dân, giáo dân thăm viếng giáo xứ Đồng Chiêm.
Tuyên cáo đăng trên trang web của Cộng đoàn Vinh lên án việc công an tấn công ba tu sinh đang đi thăm giáo xứ vào sáng ngày 30/1, trong đó có tu sinh An tôn Trần Văn Sơn bị hành hung và bắt giữ.
Vẫn theo nguồn tin này, tối ngày 30/1, công an đã tiến hành lục soát phòng trọ của anh Sơn, đồng thời bắt giữ 2 người bạn trọ cùng phòng với anh.
Tuyên cáo của Cộng đoàn Vinh cực lực phản đối việc lực lựơng công quyền liên tiếp hành hung, bắt giữ một số giáo dân khi tiếp cận đến khu vực Đồng Chiêm trong thời gian gần đây và yêu cầu chính quyền điều tra, truy tố những người vi phạm pháp luật.
Phát biểu với Ban Việt Ngữ đài VOA, anh Nguyễn Văn Thống, Trưởng Cộng đoàn Vinh, cho biết thêm về tinh thần của bản tuyên cáo mà Cộng đoàn Vinh vừa đưa ra:
“Thứ nhất là lên án việc người công giáo vào Đồng Chiêm không đựơc tự do mà còn bị đánh đập. Thứ hai, lên án việc bắt người một cách trái phép, không có lệnh của pháp luật. Thứ ba, lên án việc đưa người đến khám xét nhà dân mà lại không có lệnh của cơ quan công quyền.”
Tin của Asia News số ra cùng ngày trích lời linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế, cho hay cho tới nay chính quyền chưa hồi đáp những lời kêu gọi điều tra về những vụ đánh người này.
Bất ổn tại Đồng Chiêm xảy ra sau khi hàng trăm công an võ trang đến cưỡng chế phá sập cây Thánh Giá do giáo dân dựng lên ở nghĩa địa Núi Thờ, còn gọi là Núi Chẽ, thuộc thôn Đồng Chiêm, xã An Phú, huyện Mỹ Đức, Hà Nội vào ngày 6/1 vừa qua. Tin tức từ giáo hội cho biết ngay khi sự việc diễn ra, có 2 nữ giáo dân bị đánh trọng thương phải nhập viện.
Những ngày sau đó, một số giáo dân liên tục bị triệu tập và một số tín hữu bị hành hung khi đến khu vực Đồng Chiêm. Trong số này có trường hợp của ông Nguyễn Hữu Vinh và tu sĩ An Tôn Nguyễn Văn Tặng thuộc Dòng Chúa Cứu thế.
Trong khi đó, vẫn theo Asia News, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam do nhà nước thành lập vừa đăng lời kêu gọi trên website đề nghị có biện pháp trừng phạt mạnh tay đối với những ai nhân danh tôn giáo vi phạm pháp luật.
Nguồn: CNA, Asia News, Congdoanvinhhn.com
Cộng đoàn Vinh tại Hà Nội yêu cầu nhà nứơc chấm dứt việc bắt giữ, hành hung giáo dân trái phép và ngưng phong tỏa giáo xứ Đồng Chiêm.
Bản tin ngày 2/2 của Thông tấn xã Công giáo CNA có trụ sở tại Hoa Kỳ trích dẫn tuyên cáo của Cộng đoàn Vinh có chữ ký của Linh mục Lưu Ngọc Quỳnh yêu cầu chính quyền tôn trọng quyền tự do đi lại của mọi công dân, giáo dân thăm viếng giáo xứ Đồng Chiêm.
Tuyên cáo đăng trên trang web của Cộng đoàn Vinh lên án việc công an tấn công ba tu sinh đang đi thăm giáo xứ vào sáng ngày 30/1, trong đó có tu sinh An tôn Trần Văn Sơn bị hành hung và bắt giữ.
Vẫn theo nguồn tin này, tối ngày 30/1, công an đã tiến hành lục soát phòng trọ của anh Sơn, đồng thời bắt giữ 2 người bạn trọ cùng phòng với anh.
Tuyên cáo của Cộng đoàn Vinh cực lực phản đối việc lực lựơng công quyền liên tiếp hành hung, bắt giữ một số giáo dân khi tiếp cận đến khu vực Đồng Chiêm trong thời gian gần đây và yêu cầu chính quyền điều tra, truy tố những người vi phạm pháp luật.
Phát biểu với Ban Việt Ngữ đài VOA, anh Nguyễn Văn Thống, Trưởng Cộng đoàn Vinh, cho biết thêm về tinh thần của bản tuyên cáo mà Cộng đoàn Vinh vừa đưa ra:
“Thứ nhất là lên án việc người công giáo vào Đồng Chiêm không đựơc tự do mà còn bị đánh đập. Thứ hai, lên án việc bắt người một cách trái phép, không có lệnh của pháp luật. Thứ ba, lên án việc đưa người đến khám xét nhà dân mà lại không có lệnh của cơ quan công quyền.”
Tin của Asia News số ra cùng ngày trích lời linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế, cho hay cho tới nay chính quyền chưa hồi đáp những lời kêu gọi điều tra về những vụ đánh người này.
Bất ổn tại Đồng Chiêm xảy ra sau khi hàng trăm công an võ trang đến cưỡng chế phá sập cây Thánh Giá do giáo dân dựng lên ở nghĩa địa Núi Thờ, còn gọi là Núi Chẽ, thuộc thôn Đồng Chiêm, xã An Phú, huyện Mỹ Đức, Hà Nội vào ngày 6/1 vừa qua. Tin tức từ giáo hội cho biết ngay khi sự việc diễn ra, có 2 nữ giáo dân bị đánh trọng thương phải nhập viện.
Những ngày sau đó, một số giáo dân liên tục bị triệu tập và một số tín hữu bị hành hung khi đến khu vực Đồng Chiêm. Trong số này có trường hợp của ông Nguyễn Hữu Vinh và tu sĩ An Tôn Nguyễn Văn Tặng thuộc Dòng Chúa Cứu thế.
Trong khi đó, vẫn theo Asia News, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam do nhà nước thành lập vừa đăng lời kêu gọi trên website đề nghị có biện pháp trừng phạt mạnh tay đối với những ai nhân danh tôn giáo vi phạm pháp luật.
Nguồn: CNA, Asia News, Congdoanvinhhn.com
Ông Bùi Tín trả lời phỏng vấn AFP nhân dịp 80 năm Đảng CS Việt Nam
Bùi Tín/Thông Luận
18:48 02/02/2010
Ông Bùi Tín trả lời phỏng vấn AFP nhân dịp 80 năm Đảng CS Việtnam (3-2-1930 - 3-2-2010)
A. Genet: Chào ông Bùi Tín. Nhà cầm quyền trong nước đang có những cuộc họp kỷ niệm ngày thành lập đảng CS (ngày 3-2), xin ông cho biết vài cảm tưởng.
Bùi Tín: Chào cô. Tôi cũng biết ở Hànội có những cuộc họp kỷ niệm, một cuộc hội thảo, và xuất bản sách về 80 năm đảng CS Việt Nam, hồi đầu mang tên đảng Cộng sản Đông dương. Những diễn văn dài, nặng về công thức, nặng tính giáo điều, về chủ nghĩa Mác - Lénin, về giai cấp vô sản, về chủ nghĩa xã hội, về quá độ từ chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới..., nhưng tôi tin rằng những người viết ra, đọc lên và cả những người ngồi nghe, không có ai còn tin ở điều mình viết, đọc và nghe. Họ đang là những nhà tư sản, tư bản mới, có nhà đất, có cổ phần, chứng khoán, khá nhiều còn hùn hạp với các triệu phú, tỷ phú quốc tế. Họ chỉ giữ lại của lý luận cộng sản cái phần xấu nhất là nền chuyên chính độc đảng để bảo vệ tài sản riêng bất chính.
A. Genet: Theo ông vai trò và vị trí của đảng cộng sản VN (le rôle et la place du PCV) trong lịch sử Việt Nam là gì ?
Bùi Tín: Đảng CS VN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác - mặt này ít được chú ý vì bị họ che dấu kỹ - là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái chính trị khác bị họ thủ tiêu.
Đã vậy, sau hoà bình và thống nhất, đảng CS đã bỏ qua cơ hội hoà hợp hoà giải dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh. Đây là thất bại nặng nề nhất, bi thảm nhất, tê hại lâu dài nhất. Họ đã nhân danh các "trại cải tạo", trả thù, bỏ tù đầy đoạ 20 vạn sỹ quan viên chức chế độ cũ, phân biệt đối xử theo tư duy hận thù, tạo nên bi kịch hàng triệu thuyền nhân, với không biết bao nhiêu người chết thê thảm ngoài biển cả.
Họ còn diệt trừ tư sản công thương nghiệp, diệt trừ nông dân cá thể, cưỡng bức tập thể hoá, tàn phá tận gốc nền sản xuất xã hội, rồi mới buộc phải đổi mới, mà chỉ đổi mới bộ phận về kinh tế, còn bất động về chính trị.
Chính những sai lầm to lớn về chủ trương, đường lối, chiến lược ấy đã làm giảm sút nặng nề uy tín của đảng CS trước xã hội và nhân dân.
Đến nay uy tín của đảng còn giảm sút nặng nề hơn do họ đang thất bại trong xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và phồn vinh; hiện nay bất công, tham nhũng, hối lộ, bất lương, phi pháp, ích kỷ, vô đạo đức đang lan tràn không có cách gì kìm hãm; giáo dục xuống cấp, y tế bệ rạc đang là đặc điểm của chế độ.
A. Genet: Vậy theo ông tính chính đáng ( légitimité - legitimacy / PCV) của đảng CS Việt Nam hiện nay ra sao ?
Bùi Tín: Vấn đề này đang nóng bỏng. Phe xã hội chủ nghĩa mà đảng CS tự nhân Việt Nam là một tiền đồn đã tiêu tan cũng với sự tan rã của Liên Xô đứng đầu phong tràn CS quốc tế đã đặt đảng CS Việt Nam vào cuộc khủng hoảng chiến lược về bản chất của đảng, về lý luận cũng như về thực tiễn. Khủng hoả ng cực lớn này đãn dẫn đảng CS đến bế tắc toàn diện. Đảng CS đã thuộc về quá khứ, một quá khứ không chịu ra đi!
Do đó, ngay trong đảng đang có yêu cầu đổi tên đảng, là đảng Lao động VN như trước, hay là đảng Dân chủ, hay đảng Dân chủ Xã hội. Cũng có ý kiến nên là đảng Nhân dân, đảng Dân tộc, hay đảng Công dân. Tên gọi "đảng CS" là không thích hợp, không có ý nghĩa vì chủ nghĩa xã hội thực tiễn qua phe xã hội chủ nghĩa (từ 1945 đến 1991) do phong trào CS sinh ra đã chết. Nó đã được các nhà lý luận và chính trị thế giới đánh giá là sai lầm lịch sử lớn nhất, cũng là tội ác lớn nhất trong của thế kỷ 20, gắn liền với cái chết của 100 triệu sinh mạng con người, qua các cuộc đấu tranh giai cấp, thanh trừng, trại tập trung, đại nhảy vọt, cách mạng văn hoá vô sản, tận diệt địa chủ tư sản, phú nông, trí thức tiểu tư sản.
A. Genet: Nhân dịp này, xin ông nhận định đảng CS hiện đang đứng trước thách thức gì ( les problèmes confrontés par le PCV actuellement)?
Bùi Tín: Thách thức lớn nhất đối với bộ chính trị CS hiện nay là họ phải trả lời minh bạch với nhân dân là sao họ lại tỏ ra yếu đuối, ươn hèn, thoả hiệp với bành trướng Bắc Kinh. Cái bóng Bắc Kinh cứ lù lù sau những sự kiện mất đất, mất biển, mất đảo, rước công ty và công nhân TQ khai thác bâuxít vào Tây nguyên, tàn sát ngư dân Việt trên vùng biển VN, xử án tù rất nặng những trí thức, sinh viên, luật sư lên tiếng tố cáo sự ươn hèn của họ trước họa xâm lăng.
Thách thức lớn là đòi hỏi họ phải sớm từ bỏ độc quyền đảng trị rất tệ hại, trả lại cho xã hội quyền công dân đầy đủ, trước hết là quyền tự do bầu cử và ứng cử, từ bỏ kiểu "đảng chọn dân bầu" phi pháp trơ trẽn đã kéo dài quá lâu.
Họ chỉ có một lối ra danh dự là trả lại quyền công dân đầy đủ cho mọi công dân, tôn trọng thật sự nhân dân ta đã trưởng thành trong thời hội nhập, để cho công dân Việt Nam thực hiện quyền lập hội, quyền tự do báo chí, để đảng CS không còn một mình một chiếu trong không khí chính trị cưỡng bức, ngạt thở.
Lúc ấy, đảng CS - dù đổi hay không đổi tên - sẽ tranh đua bình đẳng và công bằng với các đảng khác (nên coi nhau là đảng bạn) trong khuôn khổ pháp luật, lấy nhân dân làm trọng tài, với lá phiếu tự do làm phương tiện lựa chọn người thay mặt mình cầm quyền, mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc thật sự cho toàn dân. Lúc ấy nền chính trị nước chúng tôi sẽ náo nức, lành mạnh sinh động, thú vị biết bao!
Đây là thách thức cơ bản nhất của Đại hội XI của đảng CS VN đầu năm 2011, mà các văn kiện sắp được công bố để cho đại hội các cấp thảo luận.
Trước đây đảng CS VN vin cớ là VN mang đặc thù châu Á, theo Nho giáo, Khổng giáo, không hợp với nền dân chủ phương Tây! Nhưng nay họ trả lời ra sao, khi các nước châu Á khác đã từ bỏ độc quyền đảng trị: chế độ Suharto, chế độ Marcos, chế độ Pak Chung Hi, chế độ Tưởng Giới Thạch... đều bị thay thế bằng chế độ đa đảng trong ổn định, tiến bộ và phát triển...
Không phải ngẫu nhiên mà Nhóm chuyên gia Harvard ở VN, những "think tank" của Viện IDS Hà Nội, các trí thức tâm huyết như nhà toán học Hoàng Tuỵ, nhà văn hoá Nguyên Ngọc, nhóm Việt Nam Minh Triết Nguyễn Huệ Chi, cho đến trung tướng Đặng Quốc Bảo và giáo sư Vũ Minh Khương ở Singapour... đều cho rằng vấn đề của VN hiện tại không phải là đổi mới bộ phận, thay chính sách này, luật lệ kia, mà là phải thay đổi hẳn toàn bộ hệ thống, từ hệ thống độc đoán sang hệ thống dân chủ, từ hệ thống độc đảng sang hệ thống đa đảng trong luật pháp, từ hệ thống chăn dắt chặt chẽ báo chí, khống chế internet sang hệ thống cởi mở, tự do thông tin nhiều chiều, tự do đối thoại, tự do tranh biện, phản biện, như ở tuyệt đại đa số các xã hội bình thường, văn minh khác.
Không thay hệ thống thì chỉ là xoa bóp, thuốc cảm cúm của lang băm hủ lậu trước những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ chết người, dẫn đến thảm họa chung, trước hết là thảm hoạ cho đảng CS.
A. Genet: Cám ơn nhà báo Bùi Tín rất nhiều và chúc ông năm 2010 và năm âm lịch con Hổ nhiều may mắn.
A. Genet: Chào ông Bùi Tín. Nhà cầm quyền trong nước đang có những cuộc họp kỷ niệm ngày thành lập đảng CS (ngày 3-2), xin ông cho biết vài cảm tưởng.
Bùi Tín: Chào cô. Tôi cũng biết ở Hànội có những cuộc họp kỷ niệm, một cuộc hội thảo, và xuất bản sách về 80 năm đảng CS Việt Nam, hồi đầu mang tên đảng Cộng sản Đông dương. Những diễn văn dài, nặng về công thức, nặng tính giáo điều, về chủ nghĩa Mác - Lénin, về giai cấp vô sản, về chủ nghĩa xã hội, về quá độ từ chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới..., nhưng tôi tin rằng những người viết ra, đọc lên và cả những người ngồi nghe, không có ai còn tin ở điều mình viết, đọc và nghe. Họ đang là những nhà tư sản, tư bản mới, có nhà đất, có cổ phần, chứng khoán, khá nhiều còn hùn hạp với các triệu phú, tỷ phú quốc tế. Họ chỉ giữ lại của lý luận cộng sản cái phần xấu nhất là nền chuyên chính độc đảng để bảo vệ tài sản riêng bất chính.
A. Genet: Theo ông vai trò và vị trí của đảng cộng sản VN (le rôle et la place du PCV) trong lịch sử Việt Nam là gì ?
Bùi Tín: Đảng CS VN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác - mặt này ít được chú ý vì bị họ che dấu kỹ - là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái chính trị khác bị họ thủ tiêu.
Đã vậy, sau hoà bình và thống nhất, đảng CS đã bỏ qua cơ hội hoà hợp hoà giải dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh. Đây là thất bại nặng nề nhất, bi thảm nhất, tê hại lâu dài nhất. Họ đã nhân danh các "trại cải tạo", trả thù, bỏ tù đầy đoạ 20 vạn sỹ quan viên chức chế độ cũ, phân biệt đối xử theo tư duy hận thù, tạo nên bi kịch hàng triệu thuyền nhân, với không biết bao nhiêu người chết thê thảm ngoài biển cả.
Họ còn diệt trừ tư sản công thương nghiệp, diệt trừ nông dân cá thể, cưỡng bức tập thể hoá, tàn phá tận gốc nền sản xuất xã hội, rồi mới buộc phải đổi mới, mà chỉ đổi mới bộ phận về kinh tế, còn bất động về chính trị.
Chính những sai lầm to lớn về chủ trương, đường lối, chiến lược ấy đã làm giảm sút nặng nề uy tín của đảng CS trước xã hội và nhân dân.
Đến nay uy tín của đảng còn giảm sút nặng nề hơn do họ đang thất bại trong xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và phồn vinh; hiện nay bất công, tham nhũng, hối lộ, bất lương, phi pháp, ích kỷ, vô đạo đức đang lan tràn không có cách gì kìm hãm; giáo dục xuống cấp, y tế bệ rạc đang là đặc điểm của chế độ.
A. Genet: Vậy theo ông tính chính đáng ( légitimité - legitimacy / PCV) của đảng CS Việt Nam hiện nay ra sao ?
Bùi Tín: Vấn đề này đang nóng bỏng. Phe xã hội chủ nghĩa mà đảng CS tự nhân Việt Nam là một tiền đồn đã tiêu tan cũng với sự tan rã của Liên Xô đứng đầu phong tràn CS quốc tế đã đặt đảng CS Việt Nam vào cuộc khủng hoảng chiến lược về bản chất của đảng, về lý luận cũng như về thực tiễn. Khủng hoả ng cực lớn này đãn dẫn đảng CS đến bế tắc toàn diện. Đảng CS đã thuộc về quá khứ, một quá khứ không chịu ra đi!
Do đó, ngay trong đảng đang có yêu cầu đổi tên đảng, là đảng Lao động VN như trước, hay là đảng Dân chủ, hay đảng Dân chủ Xã hội. Cũng có ý kiến nên là đảng Nhân dân, đảng Dân tộc, hay đảng Công dân. Tên gọi "đảng CS" là không thích hợp, không có ý nghĩa vì chủ nghĩa xã hội thực tiễn qua phe xã hội chủ nghĩa (từ 1945 đến 1991) do phong trào CS sinh ra đã chết. Nó đã được các nhà lý luận và chính trị thế giới đánh giá là sai lầm lịch sử lớn nhất, cũng là tội ác lớn nhất trong của thế kỷ 20, gắn liền với cái chết của 100 triệu sinh mạng con người, qua các cuộc đấu tranh giai cấp, thanh trừng, trại tập trung, đại nhảy vọt, cách mạng văn hoá vô sản, tận diệt địa chủ tư sản, phú nông, trí thức tiểu tư sản.
A. Genet: Nhân dịp này, xin ông nhận định đảng CS hiện đang đứng trước thách thức gì ( les problèmes confrontés par le PCV actuellement)?
Bùi Tín: Thách thức lớn nhất đối với bộ chính trị CS hiện nay là họ phải trả lời minh bạch với nhân dân là sao họ lại tỏ ra yếu đuối, ươn hèn, thoả hiệp với bành trướng Bắc Kinh. Cái bóng Bắc Kinh cứ lù lù sau những sự kiện mất đất, mất biển, mất đảo, rước công ty và công nhân TQ khai thác bâuxít vào Tây nguyên, tàn sát ngư dân Việt trên vùng biển VN, xử án tù rất nặng những trí thức, sinh viên, luật sư lên tiếng tố cáo sự ươn hèn của họ trước họa xâm lăng.
Thách thức lớn là đòi hỏi họ phải sớm từ bỏ độc quyền đảng trị rất tệ hại, trả lại cho xã hội quyền công dân đầy đủ, trước hết là quyền tự do bầu cử và ứng cử, từ bỏ kiểu "đảng chọn dân bầu" phi pháp trơ trẽn đã kéo dài quá lâu.
Họ chỉ có một lối ra danh dự là trả lại quyền công dân đầy đủ cho mọi công dân, tôn trọng thật sự nhân dân ta đã trưởng thành trong thời hội nhập, để cho công dân Việt Nam thực hiện quyền lập hội, quyền tự do báo chí, để đảng CS không còn một mình một chiếu trong không khí chính trị cưỡng bức, ngạt thở.
Lúc ấy, đảng CS - dù đổi hay không đổi tên - sẽ tranh đua bình đẳng và công bằng với các đảng khác (nên coi nhau là đảng bạn) trong khuôn khổ pháp luật, lấy nhân dân làm trọng tài, với lá phiếu tự do làm phương tiện lựa chọn người thay mặt mình cầm quyền, mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc thật sự cho toàn dân. Lúc ấy nền chính trị nước chúng tôi sẽ náo nức, lành mạnh sinh động, thú vị biết bao!
Đây là thách thức cơ bản nhất của Đại hội XI của đảng CS VN đầu năm 2011, mà các văn kiện sắp được công bố để cho đại hội các cấp thảo luận.
Trước đây đảng CS VN vin cớ là VN mang đặc thù châu Á, theo Nho giáo, Khổng giáo, không hợp với nền dân chủ phương Tây! Nhưng nay họ trả lời ra sao, khi các nước châu Á khác đã từ bỏ độc quyền đảng trị: chế độ Suharto, chế độ Marcos, chế độ Pak Chung Hi, chế độ Tưởng Giới Thạch... đều bị thay thế bằng chế độ đa đảng trong ổn định, tiến bộ và phát triển...
Không phải ngẫu nhiên mà Nhóm chuyên gia Harvard ở VN, những "think tank" của Viện IDS Hà Nội, các trí thức tâm huyết như nhà toán học Hoàng Tuỵ, nhà văn hoá Nguyên Ngọc, nhóm Việt Nam Minh Triết Nguyễn Huệ Chi, cho đến trung tướng Đặng Quốc Bảo và giáo sư Vũ Minh Khương ở Singapour... đều cho rằng vấn đề của VN hiện tại không phải là đổi mới bộ phận, thay chính sách này, luật lệ kia, mà là phải thay đổi hẳn toàn bộ hệ thống, từ hệ thống độc đoán sang hệ thống dân chủ, từ hệ thống độc đảng sang hệ thống đa đảng trong luật pháp, từ hệ thống chăn dắt chặt chẽ báo chí, khống chế internet sang hệ thống cởi mở, tự do thông tin nhiều chiều, tự do đối thoại, tự do tranh biện, phản biện, như ở tuyệt đại đa số các xã hội bình thường, văn minh khác.
Không thay hệ thống thì chỉ là xoa bóp, thuốc cảm cúm của lang băm hủ lậu trước những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ chết người, dẫn đến thảm họa chung, trước hết là thảm hoạ cho đảng CS.
A. Genet: Cám ơn nhà báo Bùi Tín rất nhiều và chúc ông năm 2010 và năm âm lịch con Hổ nhiều may mắn.
Dồn lực Internet cho Việt Nam
Vi Anh / Việt Báo
19:03 02/02/2010
Trên phương diện tích cực, Internet bây giờ là một vũ khi đấu tranh hữu hiệu. Internet là viện công tố chống lại các chế độ độc tài. Nhưng bất cứ phát minh nào cũng có thể bị lạm dụng, trở thành tiêu cực.
Thay vì dùng Internet thách thức nhau, trả lời trả vốn, bươi móc dĩ vãng, bươi móc lịch sử VN Cộng Hòa, kẻ vạch tổng thống này, tổng thống kia, trích một đoạn của một câu nói lúc này hay lúc nọ, chẻ chữ ra làm đôi làm ba, rồi thách thức "đối thoại" để gần như "đối thụi" nhau,ước gì người Việt Hải Ngoại dồn nỗ lực đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN trên Internet thì hay biết mấy.
Tuy không gian tin học là không gian "ảo", tuy Internet là xa lộ thông tin vô hình, nhưng thông tin nghị luận là phương tiện truyền thông "thực", đi nhanh như ánh sáng. Kết quả. Quốc tế vận cho cuộc đấu tranh sẽ được nhân dân và chánh quyền các nước hiểu biết hơn. Vận động đồng vào cuộc đấu tranh sẽ qui mô và sâu rộng hơn.
Hiện thời thì giờ và công sức của người Việt Hải ngoại sử dụng Internet rất nhiều và rất lớn. Trung bình một người có Internet mỗi ngày có thể có hàng trăm điện thư. Người có mặt thường, có nhiều bí danh, địa chỉ trên Internet có khi một ngày có cả mấy ngàn điện thư gởi đến không chừng. Nhưng đa số lại là những điều ít ai chờ đợi. It nhứt 95% là những bài thơ, những bài thuốc, những hình ảnh, những ý kiến, những tuyên bố, tuyên dương, những diễn đàn không muốn mà đến. Nếu check all và delete thì ngại mất thư từ, nên cũng phải liếc qua, chỉ có thế thôi cũng đã mất quá nhiều thì giờ. Nếu là chuyện thiên hạ đấu đá nhau thì không nói làm chi, nhưng cũng có khi thấy có tên người quen biết, người có tiếng tăm khả kính nên cũng phải mở attachment, đổi font chữ, zoom lên xem coi. Thường thì gặp phải trận pháo kích. Ôi nào đạn nón cối, nón tai bèo, dép râu, chụp lên đầu nhiều người, văng miểng tứ tung beng. Khiến phải lo có ngày cũng đến phiên mình.
Giá mà dùng công sức và thì giờ viết đưa ra những ý kiến, những lý luận gây nội chiến, thách đấu đó, bà con cô bác mình ở hải ngoại dùng Internet để loan tải những hành động CS Hà nội gian ác đối với người dân Việt cho cả thế giới biết thì hay biết mấy.
Nhưng buồn thay mỗi lần lên Internet, đọc ý kiến, diễn đàn ở VN Hải Ngoại. Một trận lốc xoáy (hurricane) truyền thông tiếng Việt hải ngoại như đang lên cơn và đi theo hướng mù quáng tố cáo, bươi móc, chưởi bới nhau. Ít nhứt mỗi tuần là có vài ba cuộc tranh luận, hội luận thành "tranh loạn, hội loạn", đối thoại suýt "đối thụi" nhau.
Thử tưởng tượng trong một tuần có hàng chục người chụp mũ, hàng trăm bị chụp mũ CS trên Internet. Không từ ai cả, từ những người tu hành, những anh em tù nhân cải tạo CS, đến anh chị em dân cử đương thời dĩ chí những nhà tranh đấu, những người bỏ thì giớ công tác cộng đồng, đoàn thể. Từ chuyện ngồi thiền, cầu nguyện đến khiếu kiện, tọa kháng, biểu tình. Bất cứ chuyện gì, người nào cũng có thể bị bới móc đời tư, hồi năm thìn bão lụt, đến đặt chuyện đặt điều dựa vào những tin đồn, lời kể mà không buồn kiểm chứng. Một ngày mà trên email có cả ngàn trang web, trang thơ gởi đến như vậy. Thì, chỉ ngồi không mà đọc, bỏ ăn, bỏ ngủ cũng không kịp, chớ đừng nói phân tích, ai đúng ai sai, cái gì thật, cái gì giả. Khó có nếu không muốn nói là không có chỗ cho những cuộc nói chuyện nghiêm túc, tranh luận, hội luận, đối thoại bình tĩnh, ôn hòa, tương kính.
Tại sao trận lốc xoáy truyền thông tiếng Việt hải ngoại trên Internet thành hình và lên cơn như thế? Một là Internet là một xa lộ thông tin trên không gian ảo, gần như không tốn kém, xả rác thế nào cũng không bị phạt như trên xa lộ thực ở Mỹ. Người chạy xe trên Internet không cần có bằng lái xe, một người có thể có một chục tên tùy thích, đã gọi là nickname thì mấy cái cũng vô tội vạ. Tự do Internet là tự do trên không gian ảo nên tự do người này không bị hạn chế bới tự do người khác thực trong xã hội pháp trị. Luật lệ lái xe trên Internet cũng không có nên tự do dễ thành loạn hành.
Hai là tính chủ quan của Con Người. Nhận định đúng sai thường do cái nhìn chủ quan tiên thẫm của con người. Vấn đề sự kiện mà còn vậy, huống hồ gì những vấn đề kinh tế, chánh trị, văn hóa, xã hội rắc rối hơn đa dạng, đa diện hơn, nên thường 9 người thì 10 ý.
Ba là truyền thông đại chúng nói chung trong đó có báo chí, phát thanh, phát hình và ngoài luồng có webs, youtube, paltalk, blog, v.v... - mục đích tối hậu của nó vẫn là lợi và danh. Những lời qua tiếng lại, hội luận, tranh luận, đối thoại, bút chiến, phỏng vấn, những hình ảnh chấn động tung ra thâm ý vẫn là bán ra như món hàng. Mà lợi danh là cứu cánh. Lợi là số tiền bán báo, bán hình, số tiền thu mắc vào kinh, số tiền thu quảng cáo. Danh là số người đọc, tham gia ý kiến, số người đồng ý, số phát tán quan điểm lập trường.
Trên truyền thông truyền thống mở một trận lời qua tiếng lại đao to búa lớn hơi khó vì có sự sàng lọc của ban biên tập, chủ báo, chủ đài, chớ trên Internet thì quá dễ vì có ai sàng lọc đâu. Vừa dễ vừa nhanh thành cơn lốc. Muốn chống hay binh một người, một thời, cứ cắt một khúc của một câu nói của người ấy, cứ lấy một mặt của sư kiện lịch sử nào đó; cứ đưa ra một nhận định chủ quan nào đó rồi tìm những dữ kiện để biện minh; rồi đưa lên diễn đàn Internet với lời lẽ cho kêu, cho nổ, tạo thành cú sốc, thì có trận đại pháo làm mìn gài sẵn trên diển đàn nổ tung lên thành một trận chiến.
Chiến thuật thường thấy bây giờ trên một số ít tờ báo, chương trình truyền hình và diễn đàn là khai thác mâu thuẩn dưới chiêu bài làm truyền thông hai, ba, đa chiều. Phỏng vấn hai bên đang giằng co với nhau. Gây mâu thuẩn để bên này đấu với bên kia, bên kia đá lại bên nầy cho ra trò,chuyện bé sẽ xé ra to. Nhưng kinh nghiệm cho thấy ban đầu cũng có ép phê báo bán chạy, show có người xem, nhưng về lâu về dài, không độc giả nào, khán thính giả nào muốn bị tra tấn bởi những chuyện dài "nhân dân tự vận", biến "Người Dân Muốn Biết" thành "Người Dân Muốn Chết" chán nữa.
Không thể đổ lỗi cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên tử tìm ra có thể phục vụ hòa bình nhưng cũng có thể làm vũ khi chiến tranh. Internet cũng vậy. Internet giúp con người chia sẻ thông tin, nghị luận mở rộng kiến thức, đến gần chân thiện mỹ mà cũng có thể thành đao to búa lớn đánh phá nhau. Hoàn toàn do con người sử dụng nó. "Khoa học mà không lương tâm chỉ là sự bại hoại của tâm hồn" (Science sans conscience n'est que ruine de l'âme) là vậy.
Nếu lương tâm Con Người của người Việt Hải ngoại, lương tâm Việt của người Việt hải ngoại còn cắn rứt trước cảnh khổ của đồng báo ở nước nhà, trước những điều gian ác của nhà cầm quyền CS Hà nội, người Việt hải ngoại dồn nổ lực dùng Internet để quốc tế vận với chánh quyền và nhân dân các nước, và vận động chiến với đồng bào trong nước đứng lên giành lại tự do, dân chủ nhân quyền VN, thì Internet sẽ vô cùng hữu ích.
(Nguồn: http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=2&nid=155074)
Thay vì dùng Internet thách thức nhau, trả lời trả vốn, bươi móc dĩ vãng, bươi móc lịch sử VN Cộng Hòa, kẻ vạch tổng thống này, tổng thống kia, trích một đoạn của một câu nói lúc này hay lúc nọ, chẻ chữ ra làm đôi làm ba, rồi thách thức "đối thoại" để gần như "đối thụi" nhau,ước gì người Việt Hải Ngoại dồn nỗ lực đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN trên Internet thì hay biết mấy.
Tuy không gian tin học là không gian "ảo", tuy Internet là xa lộ thông tin vô hình, nhưng thông tin nghị luận là phương tiện truyền thông "thực", đi nhanh như ánh sáng. Kết quả. Quốc tế vận cho cuộc đấu tranh sẽ được nhân dân và chánh quyền các nước hiểu biết hơn. Vận động đồng vào cuộc đấu tranh sẽ qui mô và sâu rộng hơn.
Hiện thời thì giờ và công sức của người Việt Hải ngoại sử dụng Internet rất nhiều và rất lớn. Trung bình một người có Internet mỗi ngày có thể có hàng trăm điện thư. Người có mặt thường, có nhiều bí danh, địa chỉ trên Internet có khi một ngày có cả mấy ngàn điện thư gởi đến không chừng. Nhưng đa số lại là những điều ít ai chờ đợi. It nhứt 95% là những bài thơ, những bài thuốc, những hình ảnh, những ý kiến, những tuyên bố, tuyên dương, những diễn đàn không muốn mà đến. Nếu check all và delete thì ngại mất thư từ, nên cũng phải liếc qua, chỉ có thế thôi cũng đã mất quá nhiều thì giờ. Nếu là chuyện thiên hạ đấu đá nhau thì không nói làm chi, nhưng cũng có khi thấy có tên người quen biết, người có tiếng tăm khả kính nên cũng phải mở attachment, đổi font chữ, zoom lên xem coi. Thường thì gặp phải trận pháo kích. Ôi nào đạn nón cối, nón tai bèo, dép râu, chụp lên đầu nhiều người, văng miểng tứ tung beng. Khiến phải lo có ngày cũng đến phiên mình.
Giá mà dùng công sức và thì giờ viết đưa ra những ý kiến, những lý luận gây nội chiến, thách đấu đó, bà con cô bác mình ở hải ngoại dùng Internet để loan tải những hành động CS Hà nội gian ác đối với người dân Việt cho cả thế giới biết thì hay biết mấy.
Nhưng buồn thay mỗi lần lên Internet, đọc ý kiến, diễn đàn ở VN Hải Ngoại. Một trận lốc xoáy (hurricane) truyền thông tiếng Việt hải ngoại như đang lên cơn và đi theo hướng mù quáng tố cáo, bươi móc, chưởi bới nhau. Ít nhứt mỗi tuần là có vài ba cuộc tranh luận, hội luận thành "tranh loạn, hội loạn", đối thoại suýt "đối thụi" nhau.
Thử tưởng tượng trong một tuần có hàng chục người chụp mũ, hàng trăm bị chụp mũ CS trên Internet. Không từ ai cả, từ những người tu hành, những anh em tù nhân cải tạo CS, đến anh chị em dân cử đương thời dĩ chí những nhà tranh đấu, những người bỏ thì giớ công tác cộng đồng, đoàn thể. Từ chuyện ngồi thiền, cầu nguyện đến khiếu kiện, tọa kháng, biểu tình. Bất cứ chuyện gì, người nào cũng có thể bị bới móc đời tư, hồi năm thìn bão lụt, đến đặt chuyện đặt điều dựa vào những tin đồn, lời kể mà không buồn kiểm chứng. Một ngày mà trên email có cả ngàn trang web, trang thơ gởi đến như vậy. Thì, chỉ ngồi không mà đọc, bỏ ăn, bỏ ngủ cũng không kịp, chớ đừng nói phân tích, ai đúng ai sai, cái gì thật, cái gì giả. Khó có nếu không muốn nói là không có chỗ cho những cuộc nói chuyện nghiêm túc, tranh luận, hội luận, đối thoại bình tĩnh, ôn hòa, tương kính.
Tại sao trận lốc xoáy truyền thông tiếng Việt hải ngoại trên Internet thành hình và lên cơn như thế? Một là Internet là một xa lộ thông tin trên không gian ảo, gần như không tốn kém, xả rác thế nào cũng không bị phạt như trên xa lộ thực ở Mỹ. Người chạy xe trên Internet không cần có bằng lái xe, một người có thể có một chục tên tùy thích, đã gọi là nickname thì mấy cái cũng vô tội vạ. Tự do Internet là tự do trên không gian ảo nên tự do người này không bị hạn chế bới tự do người khác thực trong xã hội pháp trị. Luật lệ lái xe trên Internet cũng không có nên tự do dễ thành loạn hành.
Hai là tính chủ quan của Con Người. Nhận định đúng sai thường do cái nhìn chủ quan tiên thẫm của con người. Vấn đề sự kiện mà còn vậy, huống hồ gì những vấn đề kinh tế, chánh trị, văn hóa, xã hội rắc rối hơn đa dạng, đa diện hơn, nên thường 9 người thì 10 ý.
Ba là truyền thông đại chúng nói chung trong đó có báo chí, phát thanh, phát hình và ngoài luồng có webs, youtube, paltalk, blog, v.v... - mục đích tối hậu của nó vẫn là lợi và danh. Những lời qua tiếng lại, hội luận, tranh luận, đối thoại, bút chiến, phỏng vấn, những hình ảnh chấn động tung ra thâm ý vẫn là bán ra như món hàng. Mà lợi danh là cứu cánh. Lợi là số tiền bán báo, bán hình, số tiền thu mắc vào kinh, số tiền thu quảng cáo. Danh là số người đọc, tham gia ý kiến, số người đồng ý, số phát tán quan điểm lập trường.
Trên truyền thông truyền thống mở một trận lời qua tiếng lại đao to búa lớn hơi khó vì có sự sàng lọc của ban biên tập, chủ báo, chủ đài, chớ trên Internet thì quá dễ vì có ai sàng lọc đâu. Vừa dễ vừa nhanh thành cơn lốc. Muốn chống hay binh một người, một thời, cứ cắt một khúc của một câu nói của người ấy, cứ lấy một mặt của sư kiện lịch sử nào đó; cứ đưa ra một nhận định chủ quan nào đó rồi tìm những dữ kiện để biện minh; rồi đưa lên diễn đàn Internet với lời lẽ cho kêu, cho nổ, tạo thành cú sốc, thì có trận đại pháo làm mìn gài sẵn trên diển đàn nổ tung lên thành một trận chiến.
Chiến thuật thường thấy bây giờ trên một số ít tờ báo, chương trình truyền hình và diễn đàn là khai thác mâu thuẩn dưới chiêu bài làm truyền thông hai, ba, đa chiều. Phỏng vấn hai bên đang giằng co với nhau. Gây mâu thuẩn để bên này đấu với bên kia, bên kia đá lại bên nầy cho ra trò,chuyện bé sẽ xé ra to. Nhưng kinh nghiệm cho thấy ban đầu cũng có ép phê báo bán chạy, show có người xem, nhưng về lâu về dài, không độc giả nào, khán thính giả nào muốn bị tra tấn bởi những chuyện dài "nhân dân tự vận", biến "Người Dân Muốn Biết" thành "Người Dân Muốn Chết" chán nữa.
Không thể đổ lỗi cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên tử tìm ra có thể phục vụ hòa bình nhưng cũng có thể làm vũ khi chiến tranh. Internet cũng vậy. Internet giúp con người chia sẻ thông tin, nghị luận mở rộng kiến thức, đến gần chân thiện mỹ mà cũng có thể thành đao to búa lớn đánh phá nhau. Hoàn toàn do con người sử dụng nó. "Khoa học mà không lương tâm chỉ là sự bại hoại của tâm hồn" (Science sans conscience n'est que ruine de l'âme) là vậy.
Nếu lương tâm Con Người của người Việt Hải ngoại, lương tâm Việt của người Việt hải ngoại còn cắn rứt trước cảnh khổ của đồng báo ở nước nhà, trước những điều gian ác của nhà cầm quyền CS Hà nội, người Việt hải ngoại dồn nổ lực dùng Internet để quốc tế vận với chánh quyền và nhân dân các nước, và vận động chiến với đồng bào trong nước đứng lên giành lại tự do, dân chủ nhân quyền VN, thì Internet sẽ vô cùng hữu ích.
(Nguồn: http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=2&nid=155074)
Nghĩa Cử Cao Đẹp
Lại Thế Lãng
19:08 02/02/2010
Bốn tháng Hai ngày Toàn quốc Ba Lan cầu nguyện
Cho những người bị bách hại tại Việt Nam
Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Thái Hà, Bầu Sen, Loan Lý
Đang đối diện với những đối xử tàn bạo, bất công.
Ba Lan ở đâu nghe quen qúa
Đất nước bị cộng sản thống trị một thời
Thông cảm sâu xa nỗi đau người tín hữu
Cũng là anh, chị, em, là chi thể Chúa Kitô.
Có phải Giáo hội Ba Lan dư nướv mắt?
Không. Chỉ vì bị xúc phạm niềm tin!
“Một hành động thách thức lương tâm người Công giáo”
Mà “Chúng ta không thể im lặng được nữa”
Ôi! Quý thay một nghĩa cử cao đẹp
Xin muôn vàn cảm tạ Hội đồng Giám mục Ba Lan
Nguyện một lòng một ý trong lời cầu nguyện
Cho Giáo hội Việt Nam sớm qua khỏi cảnh gian nan
Vermont 2/2/2010
(Những chữ trong ngoặc kép là lời tuyên bố
của linh mục tiến sĩ Tomasz Atlas, thư ký Hội đồng Giám Mục Ba Lan)
Cho những người bị bách hại tại Việt Nam
Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Thái Hà, Bầu Sen, Loan Lý
Đang đối diện với những đối xử tàn bạo, bất công.
Ba Lan ở đâu nghe quen qúa
Đất nước bị cộng sản thống trị một thời
Thông cảm sâu xa nỗi đau người tín hữu
Cũng là anh, chị, em, là chi thể Chúa Kitô.
Có phải Giáo hội Ba Lan dư nướv mắt?
Không. Chỉ vì bị xúc phạm niềm tin!
“Một hành động thách thức lương tâm người Công giáo”
Mà “Chúng ta không thể im lặng được nữa”
Ôi! Quý thay một nghĩa cử cao đẹp
Xin muôn vàn cảm tạ Hội đồng Giám mục Ba Lan
Nguyện một lòng một ý trong lời cầu nguyện
Cho Giáo hội Việt Nam sớm qua khỏi cảnh gian nan
Vermont 2/2/2010
(Những chữ trong ngoặc kép là lời tuyên bố
của linh mục tiến sĩ Tomasz Atlas, thư ký Hội đồng Giám Mục Ba Lan)
Chính quyền csVN đang diễn những tuồng hề thật tệ hại
Hà Long
19:17 02/02/2010
Trong những ngày đầu năm 2010 tình hình chính trị trong nước cũng như đối ngoại của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng csVN đầy biến động. Những yếu tố kỳ dị bên trong tự nhiên lôi kéo thêm những cái nhìn xoi mói và tò mò từ bên ngoài càng gia tăng.
Vài con số thống kê cụ thể
Ghi nhận vài con số có thể tìm trên mạng Google về các dữ kiện tòa án xét xử những nhà nhân quyền, vụ Đồng Chiêm, Bát Nhã và nóng hổi vụ tên ác tặc hiệu trưởng Sầm Đức Xương.
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 15.500.000 lần cho nguyễn tiến trung (thời gian 32 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 14.700.000 lần cho lê công định (thời gian 30 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 7.406 bài báo viết về "nguyễn tiến trung" (27 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 9.899 bài báo viết về "lê công định" (26 giây)
Dùng từ ngữ tiếng anh „dissident in Vietnam“ (người đối kháng) thì tìm được:
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 563.000 lần cho từ ngữ dissident in Vietnam (23 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 7.920.000 lần cho đồng chiêm (32 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 6.047 bài báo về "đồng chiêm" (28 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 462.000 cho bát nhã (6 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 136 bài báo viết về "bát nhã" (9 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 1.210.000 cho Sầm Đức Xương (30 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 153 bài báo về "Sầm Đức Xương" (17 giây)
Tiện đây một chút so sánh về Thái Hà
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 14.300.000 lần cho thái hà (31 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 2.728 bài báo về "thái hà" (22 giây)
Những con số về dữ kiện nhìn thấy được qua các thông tin trên các trang mạng quả là to lớn, đáng tiếc không tìm được thống kê về con số của người theo dõi các tin tức trên. Chắc chắn phải tính được trên con số hàng triệu.
Tòa án csVN trở thành một nơi diễn tuồng hề
Từ lâu sau chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ trong một thời gian ngắn – chưa đến 1 tháng - mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải nhôn nhao đương đầu với phong ba bão táp trước giới truyền thông trong và ngoài nước như những ngày vừa qua.
Những tòa án xét xử đóng tuồng như những tên rối đang diễn trò. Phiên tòa được gọi là xét xử “công khai” 4 nhà Dân chủ yêu nước tại Sài Gòn hôm 20/01: luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, hai doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long chẳng khác một cuộc chạy xô theo tuồng diễn, hay nói nôm na như một cuộc xét xử ngông cuồng của băng đảng trộm cướp mafia: Ngăn cản các nhà báo ngoại quốc đến tham dự bằng những sự lừa đảo, dấu tên vị chánh án, kết tội nhanh không cho thời gian luật sư biện hộ bênh vực thân chủ…
Cả thế giới chê bai nền dân chủ và luật pháp của csVN. Theo thông tấn xã AFP nhận định vào ngày 31/1/2010: The European Union criticised the court after the hearing for not looking into the claims. The case sparked concern in Europe and the United States, and among a global association of lawyers, human rights watchdogs and press freedom groups. (Liên hiệp Châu Âu đã chỉ trích phiên toà đã không đi sâu và xem xét thêm về những lời xác nhận trước tòa. Phiên tòa này cũng gây nên mối quan tâm cho Liên hiệp Châu Âu và Hoa Kỳ, Hội Luật sư Thế giới, những tổ chức theo dõi và bảo vệ nhân quyền cũng như các tổ chức bảo về quyền tự do báo chí).
Từ phiên tòa xét xử 4 nhà Dân chủ yêu nước tại Sàigòn nhìn vào một phiên tòa điển hình tại Hà Giang về vụ Sầm Đức Xương, một hiệu trưởng mua dâm và bán dâm các học sinh của mình. Phiên tòa đang rất “nóng” cho người Hà Giang và cho người dân cả nước. Chẳng khác chi mọi người đang ngong ngóng đi xem tuồng diễn xuất với nhiều tình tiết ly kỳ. Màn một đã diễn xong, hay nhất là phiên tòa tuyên bố hủy bản án sơ thẩm. Lý do cấp sơ thẩm đã để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng về mặt tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử và cố tình ém nhẹm danh sách những “quan to” trong thành phố Hà Giang đi mua dâm. Một tờ báo theo lề phải trong nước bức xúc đã bình luận về trò hề luật pháp VN: “Vụ án Sầm Đức Xương một lần nữa chứng minh: Không làm đúng tố tụng, không tôn trọng sự có mặt của các luật sư, điều này chỉ gây bất lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng”.
Nếu đúng như thế thì các cuộc xét xử của csVN về đất đai của Dân Oan, của những người yêu nước… không khác gì toà án tại Hà Giang trong những ngày này: gian lận, lừa đảo, đổ tội, ép cung, khống chế, sai phạm từ nhỏ đến lớn…
“Quan to” được tuyên dương trong phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
Từ vụ việc Sầm Đức Xương người dân Việt Nam đang nóng về ông “quan to” nhất ở Huế rất hãnh diện nhận được bằng tưởng thưởng học tập theo gương HCM. Blogger Trương Duy Nhất là người khám phá ra hiện tượng Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế là 1 trong 3 vị Bí thư Tỉnh ủy của cả nước được tuyên dương trong phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Blogger TDN cho dân cư mạng một nguồn dẫn chứng rất kỳ lạ đã được giới báo chí loan đi cách đây hơn 4 năm từ báo Lao Động số 327 ra ngày 26-11-2005 với tựa đề ĐẤT CỐ ĐÔ CÓ “VUA”: Vụ tình nói về một “quan” to nhất tỉnh vào một nhà hàng ăn trưa và dở trò xàm xỡ vì không cầm lòng trước nhan sắc của cô tiếp viên chỉ đáng tuổi con mình nên đã… ghì đầu cô ta lại rồi hôn đánh chụt một cái vào má, trước sự chứng kiến của quan khách có mặt trong nhà hàng hôm đó! Quá bất ngờ và cảm thấy nhục nhã bởi hành vi của vị “quan” đáng kính mà lâu nay cô chỉ thỉnh thoảng được thấy mặt và nghe nói toàn lời hay, ý đẹp trên ti-vi, cô tiếp viên đã đáp trả ngay lập tức bằng một cái tát như trời giáng vào mặt “quan”! Chuyện đến đây chưa hẳn đã có đoạn kết tệ hại, nếu “quan” hành xử như một người có văn hoá (lỡ có tí bia rượu), chẳng hạn nói một lời xin lỗi. Đàng này, sau một lúc bỏ đi vào nhà vệ sinh, “quan” quay trở ra, mặt hầm hầm chỉ tay, lớn tiếng: “Đuổi, đuổi ngay cô tiếp viên không biết làm việc kia!”. Tất nhiên chủ quán thanh toán tiền công và cho cô nghỉ việc ngay sau đó. Chưa hết, “quan” còn doạ sẽ cho đóng cửa, không chỉ nhà hàng này mà còn cả… các nhà hàng bên cạnh!
Từ khi Blogger Trương Duy Nhất đưa tin thì cả nước đều biết đến danh gọi của “quan” to nhất tỉnh là Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế. Tuồng diễn đã lỡ rồi làm cho csVN không kịp kéo màn lại được vì ông Mẫn đang là một ngôi sao sáng của csVN (sic!).
Tự tiện phá nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ và “Mày tao chi tớ”
Một chuyện đùa đầu năm 2010 có thật cũng nên được nhắc lại nơi đây nói về sự ngu xuẩn và ngông cuồng của nhà cầm quyền csVN qua vụ phá bức tường của nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ (con trai ông Cù Huy Cận) vào sáng 27/1/2010 lúc 9 giờ. Chủ tịch phường Điện Biện, Hà Nội, Ông Lê Văn Định, dẫn một số lớn công an và dân phòng đến đập phá hàng rào của gia đình luật sư Cù Huy Hà Vũ tại số 24 phố Điện Biên Phủ, tại ngôi nhà này hai cố thi sĩ Huy Cận và Xuân Diệu đã từng sinh sống. Nhà thơ Huy Cận đã từng là bộ trưởng trong chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người đã ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2/9/1945.
Chuyện quấy rối phá huỷ tài sản được ghi nhận như sau: ông chủ tịch phường Lê Văn Định đến gõ cửa nhà 24 Điện Biên Phủ, nói “Mày mở cửa ra”. Bà Dương Hà (vợ ông Cù Huy Hà Vũ) bên trong nghe giọng điệu đó nên đã trả lời: “Chồng tôi đi vắng, tôi không mở”. Ông Định nói tiếp: “Mày có thích làm luật sư nữa hay không thì bảo?” Và bà Dương Hà đã phải mở cửa cho ông chủ tịch vào.
Ông chủ tịch vào khu nhà cùng với nhiều người và không lập biên bản gì cả, lập tức họ phá tường, phá giỡ mái che trên khung sắt. Bà Cù Thị Xuân Bích, em gái ông Cù Huy Hà Vũ, gọi điện cho Công an 113. Bộ phận CA này nói rằng, đây là cưỡng chế vi phạm, nên họ không đến. Tức thì luật sư Cù Huy Hà Vũ được gia đình thông báo và viết đơn tố cáo khẩn cấp lên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết cùng ngày 27/1/2010.
Kết cục có hậu chỉ trong thời gian ngắn chưa đến 1 ngày qua nhận định của nhà giáo Phạm Toàn (trang mạng Bauxitvietnam) với bài viết “Trước 9 giờ và sau 9 giờ”: “Ấy thế rồi, đến tối thì tình hình khác hẳn. Cứ như có phép lạ từ trên trời rơi xuống. Chỉ vì hồi chiều, lại đã có một đoàn công nhân tới "cưỡng chế" ngược: họ khênh đến một cái hàng rào đã hàn sẵn và sơn sẵn để lắp vào chỗ hồi 9 giờ sáng họ mới phá cái tường ngăn. Sau đó họ rút đi, và theo lời kể của Cù Huy Hà Vũ qua điện thoại: "bây giờ sạch sẽ quá đi, chúng nó dọn từng mẩu rác, nhà em có lẽ còn lâu mới phải quét sân quét vườn!"
Từ sự thú nhận của ông Nguyễn Trọng Khanh, phó Chủ tịch UBND phường Điện Biên khi bị hỏi dồn ai là người ra lệnh đập phá thì ông tiết lộ một bí mật động trời: "Chúng tôi cũng chẳng muốn làm, nhưng đây là chỉ đạo của Thủ tướng!".
Có thể là một cuộc trả thù cá nhân chăng? Sự thể là vào ngày 11/6/2009 luật sư Cù Huy Hà Vũ đứng ra kiện ông Thủ tướng ra Tòa do đã quyết định cho khai thác mỏ bauxite tại Tây Nguyên trái Hiến pháp và pháp luật.
Vì thế khi được đài Á Châu Tự Do phỏng vấn cùng ngày 27/1/2010 luật sư Cù Huy Hà Vũ đã trả lời rất rõ ràng: “Tôi nói thẳng ra rằng đấy là sự ươn hèn của chính phủ. Hành vi đập tường rào trái pháp luật của ngày hôm nay đã diễn ra tại nhà tôi đã thể hiện thủ tướng rất tiểu nhân, chỉ đạo các cấp thuộc quyền để mà quấy rối tôi.”
Câu chuyện phá nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ cứ tưởng như là một giấc chiêm bao không bao giờ có hiện thực trong cuộc sống, nhưng đối với csVN thì đó là một điều có thể xảy ra từ một chế độ ươn hèn dùng bạo lực để đàn áp, từ một nhà nước đổi trắng thay đen chưa kịp qua 12 tiếng đồng hồ.
Vì tư thù mà một vị thủ tướng muốn lạm dụng quyền hành để trả thù người dân thì đất nước này sẽ trở thành một mảnh đất của những kẻ côn đồ du đãng.
Suy ra từ đấy, trong một xã hội đen của csVN thì Nguyễn thế Thảo làm sao mà không ra tay trả thù người công giáo tại Hà Nội, cách riêng cho cá nhân tổng giám mục Ngô Quang Kiệt. Cụ thể nhất qua các địa danh Tòa Khâm Sứ, Thái Hà và Đồng Chiêm.
Cách diễn đạt của luật sư Cù Huy Hà Vũ rất rõ ràng và -có thể là tiếng nói mạnh mẽ đại diện cho các tầng lớp người dân Việt Nam đang phải sống trong im lặng- dành cho những quan to ở Việt Nam. Đó là một can đảm phi thường dám nói lên tiếng nói của sự thật!
Hậu quả cho cuộc triệt hạ Thánh giá trên Núi Thờ - Đồng Chiêm
Theo thống kê của Google đã tìm kiếm ở trên thì con số cho thấy độ nóng Đồng Chiêm đang lên cao độ. Nhiều bài báo trong và ngoài nước đã phân tích và viết rõ ràng. Tiếng nói của Tòa Thánh Vatican qua các trang báo quốc tế Zenit và Fides có thể nói công khai hơn vụ Tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Sự kiện phải để ý đến tiếng nói từ Ba Lan thật mạnh mẽ. Đây là một quốc gia đã sống trong cưỡng chế của bạo tàn cộng sản và họ có nhiều kinh nghiệm xương máu đấu tranh đòi công lý hòa bình. Cả giáo hội Ba Lan đang hỗ trợ tinh thần cho những con chiên bé bỏng tại Đồng Chiêm qua ngày giáo hội Ba Lan hiệp thông cầu nguyện cho công lý tại VN vào ngày 04/2 này. Một liên kết hiệp thông mạnh mẽ nhất từ trước tới nay tại Phương Tây cho giáo hội Việt Nam trong công cuộc đòi công lý, sự thật và hòa bình.
Nhà cầm quyền csVN đã đi nhầm bước, giả như phá nhà của luật sư Cù Huy Hà Vũ thì còn chữa vội cho xong vì họ nắm quyền lực trong tầm tay, nhưng Đồng Chiêm đã trở thành điểm nóng của thế giới: Thánh giá đã đổ, máu đã rơi, tang chứng của hung khí còn rành rành nơi hiện trường, người dân đang bị tù tội. csVN không thể bịt kín Đồng Chiêm lại được, cho dù họ muốn làm như đã một lần phải muối mặt cúi đầu nhục nhã "cưỡng chế" ngược cái hàng rào nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ.
Chỉ vì ngu xuẩn và ngông cuồng csVN bây giờ mới ra nông nổi này. Ấy vậy thế mà hay như câu nói người tính không bằng trời tính! Chỉ vì cây thánh giá nhỏ bé bằng bê tông bằng lứa tre, chỉ vì một thôn làng nghèo nơi vùng đồi núi xa xăm đã làm cho mặt mũi csVN phải bầm tím trước dư luận quốc tế.
Đây là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang đặt lại vấn đề đưa csVN vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC List - "Country of Particular Concern") vì VN đã không cải thiện tình trạng đàn áp tự do tôn giáo. Danh sách CPC List được Hoa Kỳ dùng đối ngoại dành riêng cho các quốc gia “tham gia hoặc dung túng các hành động vi phạm tự do tôn giáo”. Qua đó Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có quyền lựa chọn các biện pháp như ngoại giao, kinh tế, bao gồm cả chế tài hoặc thỏa hiệp về đầu tư song phương giữa hai quốc gia. Nữ dân biểu Loretta Sanchez và các đồng nghiệp đang dấn thân cho công tác chính trị này.
Ngoài ra USCIRF (Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế) đã viết lá thư vào ngày 06/1/2010 cho tổng thống Barack Obama về vi phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam (xem phần kèm theo đã được công bố cho giới truyền thông vào ngày 21/1/2010). Ủy ban USCIRF được thiết lập tại quốc hội Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ để xem xét các dữ kiện và hoàn cảnh của các quốc gia vi phạm quyền tự do tôn giáo và họ có trách nhiệm đệ trình các biện pháp chế tài thích ứng lên chủ tịch quốc hội và tổng thống.
Nếu quốc hội Hoa Kỳ đồng thuận đưa VN trở lại danh sách CPC thì đúng là một cú tát trời giáng cho csVN trong giai đoạn này. Và cái giá của Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Bát Nhã và Đồng Chiêm trở thành giá cắt cổ cho những tên côn đồ csVN.
Linh mục Tomasz Atłas, thư ký của Hội Đồng Giám Mục Ba Lan đã tố cáo csVN rất rõ ràng qua thông tấn xã KAI trước dư luận quốc tế: “Chúng ta không thể cứ im lặng mãi được trước những nỗi đau của anh chị em chúng ta tại Việt Nam. Chương trình ‘Chuỗi Trái Tim’ kêu gọi tình liên đới của tất cả những người Công Giáo tại Ba Lan. Mỗi người được mời gọi để nói cho anh chị em khác về những gì đang diễn ra tại Việt Nam. Tất cả được mời gọi cầu nguyện cho Giáo Hội tại Việt Nam, cách riêng cho Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, anh chị em giáo dân Hà Nội.”
Mong rằng công lý, hòa bình và sự thật sẽ mau chóng triển nở trên quê hương Việt Nam.
Bức thư của Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế USCIRF gửi đến tổng thống Barack Obama:
USCIRF Urges President to Designate Vietnam as a CPC in Letter
http://www.uscirf.gov/index.php?option=com_content&task=view&id=2938&Itemid=1
FOR IMMEDIATE RELEASE
January 21, 2010
WASHINGTON, D.C. – The U.S. Commission on International Religious Freedom sent the following letter to President Obama urging him to designate Vietnam as a "Country of Particular Concern."
January 6, 2010
President Barack Obama
The White House
1600 Pennsylvania Avenue, NW
Washington, D.C. 20500
Dear Mr. President:
We are writing today to respectfully ask your Administration to consider reviewing current policy regarding Vietnam. Human rights conditions in that country continue to deteriorate and the Vietnamese government has taken active steps to repress, intimidate, and imprison free speech, democracy, religious freedom, labor activists, and the lawyers who defend them. We urge the Administration to consider designating Vietnam as a “Country of Particular Concern” (CPC) under the International Religious Freedom Act of 1998 and signaling to Congress its support for quick passage of the Vietnam Human Rights Act (S. 1159/H.R. 1969). We believe these two measures will provide your Administration with the necessary tools, incentives, and funding to effectively advance U.S. interests in freedom and human rights in Vietnam.
In your inaugural address, you eloquently said that those who “cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent…are on the wrong side of history…we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.” Though the U.S. and Vietnam share a tragic history, the U.S. has extended substantial trade benefits, development assistance, and humanitarian project funding to Vietnam in recent years. The U.S. granted Vietnam Permanent Normal Trading Relations in December 2006, paving the way for Vietnam to join the World Trade Organization. Over the past three years, however, Vietnam has imprisoned dozens of dissidents and taken steps to silence dissent and ban independent religious and human rights organizations.
The U.S. Commission on International Religious Freedom (USCIRF) and its staff have traveled to Vietnam five times since 2003, most recently in May 2009. Sadly, it is our belief that the human rights situation in Vietnam will deteriorate even more next year in advance of the 11th National Party Congress. Additional political, economic, and political incentives are needed at this time to advance vital U.S. interests and protect human rights.
It is our belief that the CPC designation is a flexible diplomatic tool that, when used previously for Vietnam, brought about some tangible results without hindering advances on other bilateral interests. We believe it can be used now with similar results. Targeted diplomatic action, when coupled with positive political incentives and possible economic sanctions, produced real human rights improvements in Vietnam. The current policy of quiet diplomacy and increased trade has not brought about the same results.
As a senator, you worked closely with USCIRF on Vietnam. In a letter to the previous Administration, you cited numerous cases of religious freedom and human rights abuses and asked that the State Department be a “strong voice on behalf of the human rights of the Vietnamese people.”
Designating Vietnam as a CPC and signaling support for passage of the Vietnam Human Rights Act is the type of strong voice needed at this time. We hope your Administration can establish clear policies and use all available diplomatic tools to support the hopes and aspirations of the Vietnamese people for both greater freedoms and prosperity.
Sincerely yours,
Leonard Leo
Chair
cc: Kurt M. Campbell, Assistant Secretary for East Asian and Pacific Affairs
Michael H. Posner, Assistant Secretary for Democracy, Human Rights and Labor
Samantha Power, Special Assistant to the President and Senior Director for Multilateral Affairs and Human Rights
Ambassador Jeffrey A. Bader, Special Assistant to the President and Senior Director for East Asian Affairs
To interview a USCIRF Commissioner, contact Tom Carter, Communications Director at tcarter@uscirf.gov, or (202) 523-3257.
Vài con số thống kê cụ thể
Ghi nhận vài con số có thể tìm trên mạng Google về các dữ kiện tòa án xét xử những nhà nhân quyền, vụ Đồng Chiêm, Bát Nhã và nóng hổi vụ tên ác tặc hiệu trưởng Sầm Đức Xương.
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 15.500.000 lần cho nguyễn tiến trung (thời gian 32 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 14.700.000 lần cho lê công định (thời gian 30 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 7.406 bài báo viết về "nguyễn tiến trung" (27 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 9.899 bài báo viết về "lê công định" (26 giây)
Dùng từ ngữ tiếng anh „dissident in Vietnam“ (người đối kháng) thì tìm được:
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 563.000 lần cho từ ngữ dissident in Vietnam (23 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 7.920.000 lần cho đồng chiêm (32 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 6.047 bài báo về "đồng chiêm" (28 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 462.000 cho bát nhã (6 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 136 bài báo viết về "bát nhã" (9 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 1.210.000 cho Sầm Đức Xương (30 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 153 bài báo về "Sầm Đức Xương" (17 giây)
Tiện đây một chút so sánh về Thái Hà
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 14.300.000 lần cho thái hà (31 giây)
Hiệu quả từ 1-10 của khoảng 2.728 bài báo về "thái hà" (22 giây)
Những con số về dữ kiện nhìn thấy được qua các thông tin trên các trang mạng quả là to lớn, đáng tiếc không tìm được thống kê về con số của người theo dõi các tin tức trên. Chắc chắn phải tính được trên con số hàng triệu.
Tòa án csVN trở thành một nơi diễn tuồng hề
Từ lâu sau chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ trong một thời gian ngắn – chưa đến 1 tháng - mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải nhôn nhao đương đầu với phong ba bão táp trước giới truyền thông trong và ngoài nước như những ngày vừa qua.
Những tòa án xét xử đóng tuồng như những tên rối đang diễn trò. Phiên tòa được gọi là xét xử “công khai” 4 nhà Dân chủ yêu nước tại Sài Gòn hôm 20/01: luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, hai doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long chẳng khác một cuộc chạy xô theo tuồng diễn, hay nói nôm na như một cuộc xét xử ngông cuồng của băng đảng trộm cướp mafia: Ngăn cản các nhà báo ngoại quốc đến tham dự bằng những sự lừa đảo, dấu tên vị chánh án, kết tội nhanh không cho thời gian luật sư biện hộ bênh vực thân chủ…
Cả thế giới chê bai nền dân chủ và luật pháp của csVN. Theo thông tấn xã AFP nhận định vào ngày 31/1/2010: The European Union criticised the court after the hearing for not looking into the claims. The case sparked concern in Europe and the United States, and among a global association of lawyers, human rights watchdogs and press freedom groups. (Liên hiệp Châu Âu đã chỉ trích phiên toà đã không đi sâu và xem xét thêm về những lời xác nhận trước tòa. Phiên tòa này cũng gây nên mối quan tâm cho Liên hiệp Châu Âu và Hoa Kỳ, Hội Luật sư Thế giới, những tổ chức theo dõi và bảo vệ nhân quyền cũng như các tổ chức bảo về quyền tự do báo chí).
Từ phiên tòa xét xử 4 nhà Dân chủ yêu nước tại Sàigòn nhìn vào một phiên tòa điển hình tại Hà Giang về vụ Sầm Đức Xương, một hiệu trưởng mua dâm và bán dâm các học sinh của mình. Phiên tòa đang rất “nóng” cho người Hà Giang và cho người dân cả nước. Chẳng khác chi mọi người đang ngong ngóng đi xem tuồng diễn xuất với nhiều tình tiết ly kỳ. Màn một đã diễn xong, hay nhất là phiên tòa tuyên bố hủy bản án sơ thẩm. Lý do cấp sơ thẩm đã để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng về mặt tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử và cố tình ém nhẹm danh sách những “quan to” trong thành phố Hà Giang đi mua dâm. Một tờ báo theo lề phải trong nước bức xúc đã bình luận về trò hề luật pháp VN: “Vụ án Sầm Đức Xương một lần nữa chứng minh: Không làm đúng tố tụng, không tôn trọng sự có mặt của các luật sư, điều này chỉ gây bất lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng”.
Nếu đúng như thế thì các cuộc xét xử của csVN về đất đai của Dân Oan, của những người yêu nước… không khác gì toà án tại Hà Giang trong những ngày này: gian lận, lừa đảo, đổ tội, ép cung, khống chế, sai phạm từ nhỏ đến lớn…
“Quan to” được tuyên dương trong phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
Từ vụ việc Sầm Đức Xương người dân Việt Nam đang nóng về ông “quan to” nhất ở Huế rất hãnh diện nhận được bằng tưởng thưởng học tập theo gương HCM. Blogger Trương Duy Nhất là người khám phá ra hiện tượng Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế là 1 trong 3 vị Bí thư Tỉnh ủy của cả nước được tuyên dương trong phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Blogger TDN cho dân cư mạng một nguồn dẫn chứng rất kỳ lạ đã được giới báo chí loan đi cách đây hơn 4 năm từ báo Lao Động số 327 ra ngày 26-11-2005 với tựa đề ĐẤT CỐ ĐÔ CÓ “VUA”: Vụ tình nói về một “quan” to nhất tỉnh vào một nhà hàng ăn trưa và dở trò xàm xỡ vì không cầm lòng trước nhan sắc của cô tiếp viên chỉ đáng tuổi con mình nên đã… ghì đầu cô ta lại rồi hôn đánh chụt một cái vào má, trước sự chứng kiến của quan khách có mặt trong nhà hàng hôm đó! Quá bất ngờ và cảm thấy nhục nhã bởi hành vi của vị “quan” đáng kính mà lâu nay cô chỉ thỉnh thoảng được thấy mặt và nghe nói toàn lời hay, ý đẹp trên ti-vi, cô tiếp viên đã đáp trả ngay lập tức bằng một cái tát như trời giáng vào mặt “quan”! Chuyện đến đây chưa hẳn đã có đoạn kết tệ hại, nếu “quan” hành xử như một người có văn hoá (lỡ có tí bia rượu), chẳng hạn nói một lời xin lỗi. Đàng này, sau một lúc bỏ đi vào nhà vệ sinh, “quan” quay trở ra, mặt hầm hầm chỉ tay, lớn tiếng: “Đuổi, đuổi ngay cô tiếp viên không biết làm việc kia!”. Tất nhiên chủ quán thanh toán tiền công và cho cô nghỉ việc ngay sau đó. Chưa hết, “quan” còn doạ sẽ cho đóng cửa, không chỉ nhà hàng này mà còn cả… các nhà hàng bên cạnh!
Từ khi Blogger Trương Duy Nhất đưa tin thì cả nước đều biết đến danh gọi của “quan” to nhất tỉnh là Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế. Tuồng diễn đã lỡ rồi làm cho csVN không kịp kéo màn lại được vì ông Mẫn đang là một ngôi sao sáng của csVN (sic!).
Tự tiện phá nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ và “Mày tao chi tớ”
Một chuyện đùa đầu năm 2010 có thật cũng nên được nhắc lại nơi đây nói về sự ngu xuẩn và ngông cuồng của nhà cầm quyền csVN qua vụ phá bức tường của nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ (con trai ông Cù Huy Cận) vào sáng 27/1/2010 lúc 9 giờ. Chủ tịch phường Điện Biện, Hà Nội, Ông Lê Văn Định, dẫn một số lớn công an và dân phòng đến đập phá hàng rào của gia đình luật sư Cù Huy Hà Vũ tại số 24 phố Điện Biên Phủ, tại ngôi nhà này hai cố thi sĩ Huy Cận và Xuân Diệu đã từng sinh sống. Nhà thơ Huy Cận đã từng là bộ trưởng trong chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người đã ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2/9/1945.
Chuyện quấy rối phá huỷ tài sản được ghi nhận như sau: ông chủ tịch phường Lê Văn Định đến gõ cửa nhà 24 Điện Biên Phủ, nói “Mày mở cửa ra”. Bà Dương Hà (vợ ông Cù Huy Hà Vũ) bên trong nghe giọng điệu đó nên đã trả lời: “Chồng tôi đi vắng, tôi không mở”. Ông Định nói tiếp: “Mày có thích làm luật sư nữa hay không thì bảo?” Và bà Dương Hà đã phải mở cửa cho ông chủ tịch vào.
Ông chủ tịch vào khu nhà cùng với nhiều người và không lập biên bản gì cả, lập tức họ phá tường, phá giỡ mái che trên khung sắt. Bà Cù Thị Xuân Bích, em gái ông Cù Huy Hà Vũ, gọi điện cho Công an 113. Bộ phận CA này nói rằng, đây là cưỡng chế vi phạm, nên họ không đến. Tức thì luật sư Cù Huy Hà Vũ được gia đình thông báo và viết đơn tố cáo khẩn cấp lên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết cùng ngày 27/1/2010.
Kết cục có hậu chỉ trong thời gian ngắn chưa đến 1 ngày qua nhận định của nhà giáo Phạm Toàn (trang mạng Bauxitvietnam) với bài viết “Trước 9 giờ và sau 9 giờ”: “Ấy thế rồi, đến tối thì tình hình khác hẳn. Cứ như có phép lạ từ trên trời rơi xuống. Chỉ vì hồi chiều, lại đã có một đoàn công nhân tới "cưỡng chế" ngược: họ khênh đến một cái hàng rào đã hàn sẵn và sơn sẵn để lắp vào chỗ hồi 9 giờ sáng họ mới phá cái tường ngăn. Sau đó họ rút đi, và theo lời kể của Cù Huy Hà Vũ qua điện thoại: "bây giờ sạch sẽ quá đi, chúng nó dọn từng mẩu rác, nhà em có lẽ còn lâu mới phải quét sân quét vườn!"
Từ sự thú nhận của ông Nguyễn Trọng Khanh, phó Chủ tịch UBND phường Điện Biên khi bị hỏi dồn ai là người ra lệnh đập phá thì ông tiết lộ một bí mật động trời: "Chúng tôi cũng chẳng muốn làm, nhưng đây là chỉ đạo của Thủ tướng!".
Có thể là một cuộc trả thù cá nhân chăng? Sự thể là vào ngày 11/6/2009 luật sư Cù Huy Hà Vũ đứng ra kiện ông Thủ tướng ra Tòa do đã quyết định cho khai thác mỏ bauxite tại Tây Nguyên trái Hiến pháp và pháp luật.
Vì thế khi được đài Á Châu Tự Do phỏng vấn cùng ngày 27/1/2010 luật sư Cù Huy Hà Vũ đã trả lời rất rõ ràng: “Tôi nói thẳng ra rằng đấy là sự ươn hèn của chính phủ. Hành vi đập tường rào trái pháp luật của ngày hôm nay đã diễn ra tại nhà tôi đã thể hiện thủ tướng rất tiểu nhân, chỉ đạo các cấp thuộc quyền để mà quấy rối tôi.”
Câu chuyện phá nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ cứ tưởng như là một giấc chiêm bao không bao giờ có hiện thực trong cuộc sống, nhưng đối với csVN thì đó là một điều có thể xảy ra từ một chế độ ươn hèn dùng bạo lực để đàn áp, từ một nhà nước đổi trắng thay đen chưa kịp qua 12 tiếng đồng hồ.
Vì tư thù mà một vị thủ tướng muốn lạm dụng quyền hành để trả thù người dân thì đất nước này sẽ trở thành một mảnh đất của những kẻ côn đồ du đãng.
Suy ra từ đấy, trong một xã hội đen của csVN thì Nguyễn thế Thảo làm sao mà không ra tay trả thù người công giáo tại Hà Nội, cách riêng cho cá nhân tổng giám mục Ngô Quang Kiệt. Cụ thể nhất qua các địa danh Tòa Khâm Sứ, Thái Hà và Đồng Chiêm.
Cách diễn đạt của luật sư Cù Huy Hà Vũ rất rõ ràng và -có thể là tiếng nói mạnh mẽ đại diện cho các tầng lớp người dân Việt Nam đang phải sống trong im lặng- dành cho những quan to ở Việt Nam. Đó là một can đảm phi thường dám nói lên tiếng nói của sự thật!
Hậu quả cho cuộc triệt hạ Thánh giá trên Núi Thờ - Đồng Chiêm
Theo thống kê của Google đã tìm kiếm ở trên thì con số cho thấy độ nóng Đồng Chiêm đang lên cao độ. Nhiều bài báo trong và ngoài nước đã phân tích và viết rõ ràng. Tiếng nói của Tòa Thánh Vatican qua các trang báo quốc tế Zenit và Fides có thể nói công khai hơn vụ Tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Sự kiện phải để ý đến tiếng nói từ Ba Lan thật mạnh mẽ. Đây là một quốc gia đã sống trong cưỡng chế của bạo tàn cộng sản và họ có nhiều kinh nghiệm xương máu đấu tranh đòi công lý hòa bình. Cả giáo hội Ba Lan đang hỗ trợ tinh thần cho những con chiên bé bỏng tại Đồng Chiêm qua ngày giáo hội Ba Lan hiệp thông cầu nguyện cho công lý tại VN vào ngày 04/2 này. Một liên kết hiệp thông mạnh mẽ nhất từ trước tới nay tại Phương Tây cho giáo hội Việt Nam trong công cuộc đòi công lý, sự thật và hòa bình.
Nhà cầm quyền csVN đã đi nhầm bước, giả như phá nhà của luật sư Cù Huy Hà Vũ thì còn chữa vội cho xong vì họ nắm quyền lực trong tầm tay, nhưng Đồng Chiêm đã trở thành điểm nóng của thế giới: Thánh giá đã đổ, máu đã rơi, tang chứng của hung khí còn rành rành nơi hiện trường, người dân đang bị tù tội. csVN không thể bịt kín Đồng Chiêm lại được, cho dù họ muốn làm như đã một lần phải muối mặt cúi đầu nhục nhã "cưỡng chế" ngược cái hàng rào nhà luật sư Cù Huy Hà Vũ.
Chỉ vì ngu xuẩn và ngông cuồng csVN bây giờ mới ra nông nổi này. Ấy vậy thế mà hay như câu nói người tính không bằng trời tính! Chỉ vì cây thánh giá nhỏ bé bằng bê tông bằng lứa tre, chỉ vì một thôn làng nghèo nơi vùng đồi núi xa xăm đã làm cho mặt mũi csVN phải bầm tím trước dư luận quốc tế.
Đây là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang đặt lại vấn đề đưa csVN vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC List - "Country of Particular Concern") vì VN đã không cải thiện tình trạng đàn áp tự do tôn giáo. Danh sách CPC List được Hoa Kỳ dùng đối ngoại dành riêng cho các quốc gia “tham gia hoặc dung túng các hành động vi phạm tự do tôn giáo”. Qua đó Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có quyền lựa chọn các biện pháp như ngoại giao, kinh tế, bao gồm cả chế tài hoặc thỏa hiệp về đầu tư song phương giữa hai quốc gia. Nữ dân biểu Loretta Sanchez và các đồng nghiệp đang dấn thân cho công tác chính trị này.
Ngoài ra USCIRF (Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế) đã viết lá thư vào ngày 06/1/2010 cho tổng thống Barack Obama về vi phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam (xem phần kèm theo đã được công bố cho giới truyền thông vào ngày 21/1/2010). Ủy ban USCIRF được thiết lập tại quốc hội Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ để xem xét các dữ kiện và hoàn cảnh của các quốc gia vi phạm quyền tự do tôn giáo và họ có trách nhiệm đệ trình các biện pháp chế tài thích ứng lên chủ tịch quốc hội và tổng thống.
Nếu quốc hội Hoa Kỳ đồng thuận đưa VN trở lại danh sách CPC thì đúng là một cú tát trời giáng cho csVN trong giai đoạn này. Và cái giá của Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Bát Nhã và Đồng Chiêm trở thành giá cắt cổ cho những tên côn đồ csVN.
Linh mục Tomasz Atłas, thư ký của Hội Đồng Giám Mục Ba Lan đã tố cáo csVN rất rõ ràng qua thông tấn xã KAI trước dư luận quốc tế: “Chúng ta không thể cứ im lặng mãi được trước những nỗi đau của anh chị em chúng ta tại Việt Nam. Chương trình ‘Chuỗi Trái Tim’ kêu gọi tình liên đới của tất cả những người Công Giáo tại Ba Lan. Mỗi người được mời gọi để nói cho anh chị em khác về những gì đang diễn ra tại Việt Nam. Tất cả được mời gọi cầu nguyện cho Giáo Hội tại Việt Nam, cách riêng cho Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, anh chị em giáo dân Hà Nội.”
Mong rằng công lý, hòa bình và sự thật sẽ mau chóng triển nở trên quê hương Việt Nam.
Bức thư của Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế USCIRF gửi đến tổng thống Barack Obama:
USCIRF Urges President to Designate Vietnam as a CPC in Letter
http://www.uscirf.gov/index.php?option=com_content&task=view&id=2938&Itemid=1
FOR IMMEDIATE RELEASE
January 21, 2010
WASHINGTON, D.C. – The U.S. Commission on International Religious Freedom sent the following letter to President Obama urging him to designate Vietnam as a "Country of Particular Concern."
January 6, 2010
President Barack Obama
The White House
1600 Pennsylvania Avenue, NW
Washington, D.C. 20500
Dear Mr. President:
We are writing today to respectfully ask your Administration to consider reviewing current policy regarding Vietnam. Human rights conditions in that country continue to deteriorate and the Vietnamese government has taken active steps to repress, intimidate, and imprison free speech, democracy, religious freedom, labor activists, and the lawyers who defend them. We urge the Administration to consider designating Vietnam as a “Country of Particular Concern” (CPC) under the International Religious Freedom Act of 1998 and signaling to Congress its support for quick passage of the Vietnam Human Rights Act (S. 1159/H.R. 1969). We believe these two measures will provide your Administration with the necessary tools, incentives, and funding to effectively advance U.S. interests in freedom and human rights in Vietnam.
In your inaugural address, you eloquently said that those who “cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent…are on the wrong side of history…we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.” Though the U.S. and Vietnam share a tragic history, the U.S. has extended substantial trade benefits, development assistance, and humanitarian project funding to Vietnam in recent years. The U.S. granted Vietnam Permanent Normal Trading Relations in December 2006, paving the way for Vietnam to join the World Trade Organization. Over the past three years, however, Vietnam has imprisoned dozens of dissidents and taken steps to silence dissent and ban independent religious and human rights organizations.
The U.S. Commission on International Religious Freedom (USCIRF) and its staff have traveled to Vietnam five times since 2003, most recently in May 2009. Sadly, it is our belief that the human rights situation in Vietnam will deteriorate even more next year in advance of the 11th National Party Congress. Additional political, economic, and political incentives are needed at this time to advance vital U.S. interests and protect human rights.
It is our belief that the CPC designation is a flexible diplomatic tool that, when used previously for Vietnam, brought about some tangible results without hindering advances on other bilateral interests. We believe it can be used now with similar results. Targeted diplomatic action, when coupled with positive political incentives and possible economic sanctions, produced real human rights improvements in Vietnam. The current policy of quiet diplomacy and increased trade has not brought about the same results.
As a senator, you worked closely with USCIRF on Vietnam. In a letter to the previous Administration, you cited numerous cases of religious freedom and human rights abuses and asked that the State Department be a “strong voice on behalf of the human rights of the Vietnamese people.”
Designating Vietnam as a CPC and signaling support for passage of the Vietnam Human Rights Act is the type of strong voice needed at this time. We hope your Administration can establish clear policies and use all available diplomatic tools to support the hopes and aspirations of the Vietnamese people for both greater freedoms and prosperity.
Sincerely yours,
Leonard Leo
Chair
cc: Kurt M. Campbell, Assistant Secretary for East Asian and Pacific Affairs
Michael H. Posner, Assistant Secretary for Democracy, Human Rights and Labor
Samantha Power, Special Assistant to the President and Senior Director for Multilateral Affairs and Human Rights
Ambassador Jeffrey A. Bader, Special Assistant to the President and Senior Director for East Asian Affairs
To interview a USCIRF Commissioner, contact Tom Carter, Communications Director at tcarter@uscirf.gov, or (202) 523-3257.
Giáo xứ Vĩnh Giang cầu nguyện cho các “Linh Mục Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam”
Anthony Trung Thành
19:25 02/02/2010
VINH - Hôm nay, ngày 02 tháng 02 năm 2010, ngày quốc tế đời sống thánh hiến, Giáo xứ Vĩnh Giang dâng thánh lễ và thắp nền cầu nguyện:
Cho những người dâng mình phục vụ Chúa và Giáo Hội được trọn đời trung tín với ơn gọi của mình.
Cho các nạn nhân ở Giáo xứ Đồng Chiêm, nhất là ba Sinh Viên Công Giáo Vinh vừa bị bắt bớ và đánh đập.
Cho các Linh Mục đang tham gia tổ chức “Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam” biết vì danh dự là Linh Mục Công Giáo của mình mà rời bỏ cái danh hiệu “Linh Mục Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo”.
Theo như Linh mục Đinh Hũu Thoại, “Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo” không hề “Đoàn Kết” và càng không phải là “Công Giáo”. Chỉ đơn cử sự kiện Đồng Chiêm cũng đủ biết “Cái Uỷ Ban” này chẳng những không hiệp thông cùng với các Linh mục và Giáo dân Đồng Chiêm trong nỗi đớn đau mất mát mà còn tiếp tay, đăng tải trên trang Wed của mình những thông tin sai lệch, bịa đặt để kết án Đức Tổng Giám Mục Giuse và các Linh Mục qua bài “Bình yên về với Đồng Chiêm”.
Cho những người dâng mình phục vụ Chúa và Giáo Hội được trọn đời trung tín với ơn gọi của mình.
Cho các nạn nhân ở Giáo xứ Đồng Chiêm, nhất là ba Sinh Viên Công Giáo Vinh vừa bị bắt bớ và đánh đập.
Cho các Linh Mục đang tham gia tổ chức “Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam” biết vì danh dự là Linh Mục Công Giáo của mình mà rời bỏ cái danh hiệu “Linh Mục Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo”.
Theo như Linh mục Đinh Hũu Thoại, “Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo” không hề “Đoàn Kết” và càng không phải là “Công Giáo”. Chỉ đơn cử sự kiện Đồng Chiêm cũng đủ biết “Cái Uỷ Ban” này chẳng những không hiệp thông cùng với các Linh mục và Giáo dân Đồng Chiêm trong nỗi đớn đau mất mát mà còn tiếp tay, đăng tải trên trang Wed của mình những thông tin sai lệch, bịa đặt để kết án Đức Tổng Giám Mục Giuse và các Linh Mục qua bài “Bình yên về với Đồng Chiêm”.
Tản mạn: Thánh giá cứu rỗi Đồng Chiêm
J.B Nguyễn Hữu Vinh
20:09 02/02/2010
Sau những ngày hàng trăm cảnh sát “do thôn Đồng Chiêm điều động” cùng với các loại vũ khí, hơi cay, trái nổ, chó nghiệp vụ và các loại xe máy khác nhau đưa lực lượng trong đêm tối để bảo vệ cho việc “thôn tự tháo dỡ” Thánh Giá trên Núi Thờ của giáo xứ Đồng Chiêm tình hình trở nên sôi động.
Đồng Chiêm trở nên nổi tiếng.
Bấy giờ, mọi người trên thế giới mới biết được có một địa danh mang tên là Đồng Chiêm. Một vùng đất trũng nghèo quanh năm bỗng nhiên nổi tiếng thế giới. Địa danh này vượt khỏi ranh giới một tỉnh Hà Tây cũ, vượt cả Thành phố Hà Nội mới, vượt tầm cả Việt Nam để sang bên kia bờ Đại Dương và lan khắp thế giới.
Mọi người, dù người nước ngoài hay người Việt xa quê lâu năm, chưa thấy ai gọi sai tên Đồng Chiêm, chứng tỏ rằng Đồng Chiêm được sự chú ý đặc biệt của cả cộng đồng Quốc tế, mới đây ở Ba Lan đã kêu gọi cả nước cầu nguyện khởi đầu tuần cầu nguyện cho Đồng Chiêm kể từ ngày 4/2/2010, tên Đồng Chiêm rất rõ ràng.
Điều này có ý nghĩa lớn, bởi nói đến điều này tôi nhớ lại cái gọi là công văn của “Chủ tịch” xã An Phú, có đóng dấu Quốc huy hẳn hoi mà vẫn sai sót nghiêm trọng là chủ tịch Phường thay Chủ tịch nước chuyển địa danh Phường Hàng Trống sang Quận Đống Đa? Có người nói rằng ông Chủ tịch này báo hại ông bưu tá chuyển thư, ông tìm khắp Quận Đống Đa hết một tuần mới hiểu ra rằng không có phường nào có tên như thế, vì vậy công văn mới bị chuyển chậm lại(!?)
Không chỉ có thế, ông ta còn thay Tòa án kết tội các công dân một cách ngang nhiên, trắng trợn bất chấp pháp luật và bất chấp liêm sỉ của con người chứ chưa dám nói là “cán bộ”. Nhiều công dân được ông ta kết tội thản nhiên, kể cả bản thân tôi là nạn nhân bị đánh đập và cướp bóc ngay trên đất do ông ta làm chủ tịch ông ta cũng tặng cho danh hiệu “bị cáo”. Ông Trần Đức Mạnh - một giáo dân khác cũng vậy? Không rõ ông ta thấy tôi ra tòa lần nào chưa? Hay ông nhầm lẫn khi tôi cùng với hàng ngàn giáo dân trước phiên tòa Sơ thẩm ở giáo dân Thái Hà ngày 8/12/2008 và ông ta tưởng rằng tất cả đó là bị cáo? Hay trong mắt ông, đã là giáo dân thì đáng gọi là bị cáo tất cả?
Nhiều người bảo chúng tôi là “phải kiện ông ta ra tòa vì tội làm nhục người khác theo luật định, vì nhà nước chúng ta là nhà nước pháp quyền luôn tốt đẹp, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật – nhà nước bảo thế”...
Nhưng hỡi ôi, chúng tôi hiểu ông ta là cán bộ, cán bộ nhà nước thì chuyện thay tòa án có gì là lạ mà kiện với chả... tụng, dù ông rất dốt không hiểu rõ một địa danh mà mình đang gửi công văn đến. Các vụ kiện như vậy ở ta không phải là “cái kiện kiện củ khoai”, nói vậy là sai, mà phải gọi là cá nằm trên thớt lại đòi kiện con dao.
Với lại trình độ anh cán bộ xã ở ta như vậy là quá được rồi, ít nhất là ông ta cũng có trình độ copy và pass lại những điều trên báo HNM, An ninh Thủ đô, Sài Gòn Giải phóng và Website của Ủy Ban Đoàn kết Công giáo. (Mặc dù trong thâm tâm, tôi vẫn không tin anh ta có đủ trình độ viết cái văn bản này).
Mặc khác nhỡ kiện ra tòa, lại vấp phải ông thẩm phán nằm trong chiến dịch “vơ vét thẩm phán” như ông Chánh án Tòa án tối cao báo cáo dạo nào trước Quốc hội, hoặc gặp ông thuộc diện thẩm phán được “chiếu cố” vì ngoan, dễ bảo... thì chắc chắn 100% là con dao sẽ bổ xuống.
Thôn nghèo, nhưng không thiếu lực lượng vũ trang
Đồng Chiêm, tự cái tên nó cũng đã nói lên vùng đất trũng này qúa nghèo khó và khốn khổ. Người dân ở đây đa số đàn ông đã phải đi kiếm ăn xa, nhìn trong nhà thờ một màu trắng khăn tang toàn phụ nữ, trẻ em và mấy ông cụ già.
Đồng Chiêm nằm trong xã An Phú, nơi được ông Chủ tịch xã báo cáo rằng: “Vì là vùng trũng, thuần nông, trong số 602ha diện tích canh tác chỉ có hơn 200ha cấy được hai vụ, còn lại là đất 1 vụ lúa, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thế nên An Phú có tới 28% hộ nghèo” (Trích: “Bình yên về với Đồng Chiêm –HNM)
Một xã nghèo như vậy nhưng đêm 5 sáng ngày 6/1/2010 “thôn Đồng Chiêm” đã chi ra số tiền phải nói là khổng lồ để huy động một lực lượng cảnh sát vũ trang và vũ khí hùng hậu kèm chó và các loại phương tiện tối tân cỡ đó để chỉ đối phó với khoảng “200 người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em” (theo công văn của UBND Xã An Phú) chỉ để đang đêm đập phá một cây Thánh Giá trên đỉnh Núi Thờ là nhằm mục đích gì? Đó là cách đốt tiền dân chăng?
Và mặc dầu đã có một lực lượng hùng hậu như thế nhưng vẫn để cho “phụ nữ, trẻ em” ném đá vào lực lượng bảo vệ” và “tự ném đá vào nhau”? Đồng thời để cho “phụ nữ và trẻ em” sử dụng bình xịt, hơi cay, pháo mù, trái nổ... của Bộ Công an đến nỗi máu me đầm đìa trước cơ man nào là cảnh sát thì quả là lực lượng cảnh sát của VN hiện nay sinh ra để làm gì?
Thánh Giá cứu rỗi Đồng Chiêm?
Những chiến sĩ trong “lực lượng bảo vệ” này “bị dân ném đá” tấn công được điều trị ở đâu? sao không thấy báo chí nói đến để nhân dân đến thăm hỏi và lực lượng vũ trang phát động cuộc “thi đua lập thành tích noi gương các chiến sĩ đã bảo vệ thành công việc phá Thánh Giá Đồng Chiêm, chào mừng 1.000 năm Thăng Long và Đại hội Đảng XI”.
(Xin nhắc nhà cầm quyền đừng trả lời là “để nghiêm kỷ cương, pháp luật” nhé, bởi nếu cần nghiêm, cần kỷ cương, thì Hà Nội không thiếu việc để làm. Hãy vào Google mà tìm với chữ “Hà Nội: Nhà không phép, trái phép” chúng ta có đến 13.200.000 kết quả chỉ trong 0.61 giây, cần chi nhọc công đến tận Đồng Chiêm?) Hà Nội có hàng ngàn công trình xây dựng không phép và sai phép. Phạm Quang Nghị: Phải xử lý cán bộ cơ sở buông lỏng quản lý?
Với số tiền đó và kinh phí khổng lồ cho những “đống đất” và ngăn chặn sau khi đập cây Thánh Giá, nếu để dành chia đều cho dân thì người dân Đồng Chiêm chắc sẽ trở thành những nông dân giàu nhất Việt Nam và con số 28% số hộ nghèo là chuyện dĩ vãng.
Trận lụt cuối năm 2008, (đúng 40 ngày sau khi Tòa Khâm sứ được biến thành vườn hoa với tốc độ “nhanh nhất thế giới”), Đồng Chiêm thành biển nước. Khi ông Phạm Quang Nghị (Bí thư Thành ủy) bận họp tổng kết tôn giáo hai ngày xong, thì ở đây đã có một mạng dân ra đi. Khi đó ông cho rằng “...nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm” câu nói này được coi là “lỡ lời” trót nói ra mồm nên ông phải xin lỗi sau đó.
Vậy nhưng, chưa có khi nào thấy tin rằng giáo dân Đồng Chiêm được cứu trợ từ nhà nước kể cả khi lũ lụt chết người. Báo Hà Nội mới cũng ngoảnh mặt làm ngơ, những cái chết oan khiên dưới bùn sâu Đồng Chiêm vẫn im mà chịu.
Chỉ thấy sau đó, đại diện Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và Tòa TGM Hà Nội, các hội đoàn Công giáo khắp nơi, khắp các xứ họ về Đồng Chiêm cứu trợ mà thôi.
Khi chúng tôi vào tới Đồng Chiêm, điều ngạc nhiên nhất là ngôi nhà thờ nổi cao ngay trên cồn đất giữa làng, còn xung quanh là những con đường lổn nhổn sỏi, đá, nước và từng vũng lầy. Những con đường nông thôn vào nhà thờ, nhà xứ cũng đầy những ổ trâu, ổ voi. Khó tưởng tượng được rằng đây là vùng nông thôn bắc bộ đến nay đường sá vẫn còn như thế.
Bổng nhiên, sau vụ đập Thánh Giá, sau những cố gắng bằng nhiều cách như “tư duy... đống đất”, dày đặc của cảnh sát, cán bô công quyền ngăn chặn mọi người, mọi nẻo đến Đồng Chiêm. Bất cứ ai ra vào đều được xét hỏi, ngăn chặn và sẵn sàng được nhóm côn đồ hỏi thăm sức khỏe đến khi nào “máu chảy, vỡ mặt, u đầu” cướp mọi dụng cụ hình ảnh, cho đến... sợ mới thôi.
Đến khi đó báo chí tuyên bố: “Bình an về với Đồng Chiêm”?
Cũng gần như ngay lập tức nhà nước đổ vào đây tức 30 tấn gạo chia cho mỗi nhân khẩu 15kg. Rồi báo Hà Nội mới đến tặng quà, rồi thăm hỏi, rồi “bình yên về với Đồng Chiêm”...
Những ngày sau đó, báo chí liên tục đưa tin về chiến dịch cứu trợ cho Đồng Chiêm: nào là đầu tư làm 5,8km đường nông thôn, làm nhà văn hóa cho Đồng Chiêm... rồi chính báo Hà Nội mới, nơi thường xuyên có những bài viết xuyên tạc sự thật về vấn đề tôn giáo như Thái Hà, Tòa Khâm sứ, Đồng Chiêm... bằng những lời lẽ xuyên tạc độc địa đã bị các cơ quan truyền thông quốc tế vạch mặt lại đến tặng quà cho giáo dân Đồng Chiêm.
Khi nghe tin buổi tặng quà này được HNM đưa tin, có người ta bảo rằng “hôm nay quạ đến thăm gà con”?. Thật hết chỗ nói cái tốt của các cơ quan nhà nước và cả những nơi như Báo Hà Nội mới với giáo dân Đồng Chiêm những ngày sau khi Thánh Giá bị đập tan.
Những điều đó nhờ đâu? Nhờ ơn Đảng và ơn Chính phủ? Có lẽ câu cửa miệng chúng ta được dạy, được học và được phải nghe bao chục năm nay là thế, báo chí nhà nước cũng luôn luôn nói thế. Vâng, “nhờ ơn đảng và ơn nhà nước”.
Nhưng ơn đảng và ơn nhà nước sao chỉ đột ngột đến với giáo dân Đồng Chiêm sau khi Thánh Giá bị đập tan, phụ nữ “tự ném đá vào nhau” đến mau me đầm đìa và khu vực Đồng Chiêm bị cô lập?
Sau khi Đồng Chiêm đột ngột được quan tâm, dân được phát gạo, được thăm nom và ủng hộ từ chính quyền và báo HNM, nhiều người cứ tưởng bở nên đồn thổi với nhau rằng: “Có lẽ phải dựng thêm nhiều Thánh Giá, nhất là những nơi còn quá nghèo khó, những nơi không được đầu tư như Đồng Chiêm để đến khi “thôn tự tháo dỡ” như ở Đồng Chiêm may ra dân mới “nhận được sự quan tâm” của chính quyền như vậy để có đường mà đi, có gạo mà ăn, có quà ăn tết”.
Đây quả là tin đồn nguy hiểm, vì như vậy, nơi nơi sẽ dựng lên Thánh giá nếu có người công giáo, còn nếu không có người công giáo thì có thể là tượng Phật, hoặc bất cứ biểu tượng niềm tin tôn giáo nào. Đến khi đó lấy đâu ra đủ cảnh sát để bảo vệ cho “Thôn tự tháo dỡ” và lấy đâu ra đủ gạo, đủ tiền để đầu tư cho dân như ở Đồng Chiêm?
Điều không thể chối cãi là nhờ Thánh Giá bị đập tan mà sau đó giáo dân Đồng Chiêm đã được nhà nước, chính quyền “quan tâm cách đặc biệt” kể cả cô lập với mọi người bên ngoài.
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó giáo dân Đồng Chiêm mới được cấp mỗi người 15kg gạo được lên truyền hình sung sướng mơ cả đời cũng không bao giờ có.
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó Báo HNM cũng đã đến tặng quà cho giáo dân Đồng Chiêm, cử chỉ này đã làm nhiều người đặt câu hỏi: Có ai hi vọng được báo HNM đến thăm nữa không đây?
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó những con đường nội thôn Đồng Chiêm 5,8km được lên kế hoạch khẩn cấp thi công để nhân dân kịp thời đón tết.
Tất cả là Hồng Ân
Thánh giá xưa là nơi Đức Kitô đã lấy thân mình hiến tế để chuộc tội cho tất cả thế gian. Trên cây Thánh giá này, Ngài đã chịu bao cực hình, chịu đánh đập, chịu chết nhục nhã cho nhân loại được cứu rỗi. Thánh giá đã mang nặng thân thể Đức Kitô và mang nặng hơn nữa là tội lỗi loài người.
Trải qua hai ngàn năm, ngày nay Thánh giá là biểu tượng Đức tin mạnh mẽ của những Kito hữu trên toàn thế giới. Thánh giá là biểu tượng của tình yêu không bờ bến và sự hi sinh đến tận cùng "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15,13).
Và hôm nay, tại Đồng Chiêm, Thánh giá đã bị đập tan, đã chịu nhục nhằn tan nát bởi những bàn tay vô đạo, một lần nữa Thánh Giá lại chịu hi sinh để Đồng Chiêm đi vào tiềm thức của 2 tỷ tín hữu Kitô trên toàn thế giới như địa danh Núi Sọ xưa kia. Những giáo dân Đồng Chiêm nghèo khó muôn đời chìm dưới bùn sâu nay đã trở thành những chứng nhân lịch sử như dân thành Gierusalem xưa và họ cũng đã được yên ủi. Đó cũng là Hồng Ân.
Đơn giản nhất, dễ thấy nhất là Thánh giá Núi Thờ đã chấp nhận hi sinh, chịu tan nát nhục nhằn để giáo dân Đồng Chiêm hôm nay “được” sự quan tâm, nhận được “ơn đảng, ơn chính phủ”.
Ngày hôm nay người ta đang “tưng bừng kỷ niệm” lần thứ 80 ngày sinh của đảng cộng sản VN. Liệu có nơi nào muốn nhận được sự quan tâm như ở Đồng Chiêm?
Hà Nội, ngày 3/2/2010
Bấy giờ, mọi người trên thế giới mới biết được có một địa danh mang tên là Đồng Chiêm. Một vùng đất trũng nghèo quanh năm bỗng nhiên nổi tiếng thế giới. Địa danh này vượt khỏi ranh giới một tỉnh Hà Tây cũ, vượt cả Thành phố Hà Nội mới, vượt tầm cả Việt Nam để sang bên kia bờ Đại Dương và lan khắp thế giới.
Mọi người, dù người nước ngoài hay người Việt xa quê lâu năm, chưa thấy ai gọi sai tên Đồng Chiêm, chứng tỏ rằng Đồng Chiêm được sự chú ý đặc biệt của cả cộng đồng Quốc tế, mới đây ở Ba Lan đã kêu gọi cả nước cầu nguyện khởi đầu tuần cầu nguyện cho Đồng Chiêm kể từ ngày 4/2/2010, tên Đồng Chiêm rất rõ ràng.
Không chỉ có thế, ông ta còn thay Tòa án kết tội các công dân một cách ngang nhiên, trắng trợn bất chấp pháp luật và bất chấp liêm sỉ của con người chứ chưa dám nói là “cán bộ”. Nhiều công dân được ông ta kết tội thản nhiên, kể cả bản thân tôi là nạn nhân bị đánh đập và cướp bóc ngay trên đất do ông ta làm chủ tịch ông ta cũng tặng cho danh hiệu “bị cáo”. Ông Trần Đức Mạnh - một giáo dân khác cũng vậy? Không rõ ông ta thấy tôi ra tòa lần nào chưa? Hay ông nhầm lẫn khi tôi cùng với hàng ngàn giáo dân trước phiên tòa Sơ thẩm ở giáo dân Thái Hà ngày 8/12/2008 và ông ta tưởng rằng tất cả đó là bị cáo? Hay trong mắt ông, đã là giáo dân thì đáng gọi là bị cáo tất cả?
Nhiều người bảo chúng tôi là “phải kiện ông ta ra tòa vì tội làm nhục người khác theo luật định, vì nhà nước chúng ta là nhà nước pháp quyền luôn tốt đẹp, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật – nhà nước bảo thế”...
Nhưng hỡi ôi, chúng tôi hiểu ông ta là cán bộ, cán bộ nhà nước thì chuyện thay tòa án có gì là lạ mà kiện với chả... tụng, dù ông rất dốt không hiểu rõ một địa danh mà mình đang gửi công văn đến. Các vụ kiện như vậy ở ta không phải là “cái kiện kiện củ khoai”, nói vậy là sai, mà phải gọi là cá nằm trên thớt lại đòi kiện con dao.
Với lại trình độ anh cán bộ xã ở ta như vậy là quá được rồi, ít nhất là ông ta cũng có trình độ copy và pass lại những điều trên báo HNM, An ninh Thủ đô, Sài Gòn Giải phóng và Website của Ủy Ban Đoàn kết Công giáo. (Mặc dù trong thâm tâm, tôi vẫn không tin anh ta có đủ trình độ viết cái văn bản này).
Mặc khác nhỡ kiện ra tòa, lại vấp phải ông thẩm phán nằm trong chiến dịch “vơ vét thẩm phán” như ông Chánh án Tòa án tối cao báo cáo dạo nào trước Quốc hội, hoặc gặp ông thuộc diện thẩm phán được “chiếu cố” vì ngoan, dễ bảo... thì chắc chắn 100% là con dao sẽ bổ xuống.
Đồng Chiêm, tự cái tên nó cũng đã nói lên vùng đất trũng này qúa nghèo khó và khốn khổ. Người dân ở đây đa số đàn ông đã phải đi kiếm ăn xa, nhìn trong nhà thờ một màu trắng khăn tang toàn phụ nữ, trẻ em và mấy ông cụ già.
Đồng Chiêm nằm trong xã An Phú, nơi được ông Chủ tịch xã báo cáo rằng: “Vì là vùng trũng, thuần nông, trong số 602ha diện tích canh tác chỉ có hơn 200ha cấy được hai vụ, còn lại là đất 1 vụ lúa, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thế nên An Phú có tới 28% hộ nghèo” (Trích: “Bình yên về với Đồng Chiêm –HNM)
Một xã nghèo như vậy nhưng đêm 5 sáng ngày 6/1/2010 “thôn Đồng Chiêm” đã chi ra số tiền phải nói là khổng lồ để huy động một lực lượng cảnh sát vũ trang và vũ khí hùng hậu kèm chó và các loại phương tiện tối tân cỡ đó để chỉ đối phó với khoảng “200 người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em” (theo công văn của UBND Xã An Phú) chỉ để đang đêm đập phá một cây Thánh Giá trên đỉnh Núi Thờ là nhằm mục đích gì? Đó là cách đốt tiền dân chăng?
Và mặc dầu đã có một lực lượng hùng hậu như thế nhưng vẫn để cho “phụ nữ, trẻ em” ném đá vào lực lượng bảo vệ” và “tự ném đá vào nhau”? Đồng thời để cho “phụ nữ và trẻ em” sử dụng bình xịt, hơi cay, pháo mù, trái nổ... của Bộ Công an đến nỗi máu me đầm đìa trước cơ man nào là cảnh sát thì quả là lực lượng cảnh sát của VN hiện nay sinh ra để làm gì?
Những chiến sĩ trong “lực lượng bảo vệ” này “bị dân ném đá” tấn công được điều trị ở đâu? sao không thấy báo chí nói đến để nhân dân đến thăm hỏi và lực lượng vũ trang phát động cuộc “thi đua lập thành tích noi gương các chiến sĩ đã bảo vệ thành công việc phá Thánh Giá Đồng Chiêm, chào mừng 1.000 năm Thăng Long và Đại hội Đảng XI”.
(Xin nhắc nhà cầm quyền đừng trả lời là “để nghiêm kỷ cương, pháp luật” nhé, bởi nếu cần nghiêm, cần kỷ cương, thì Hà Nội không thiếu việc để làm. Hãy vào Google mà tìm với chữ “Hà Nội: Nhà không phép, trái phép” chúng ta có đến 13.200.000 kết quả chỉ trong 0.61 giây, cần chi nhọc công đến tận Đồng Chiêm?) Hà Nội có hàng ngàn công trình xây dựng không phép và sai phép. Phạm Quang Nghị: Phải xử lý cán bộ cơ sở buông lỏng quản lý?
Với số tiền đó và kinh phí khổng lồ cho những “đống đất” và ngăn chặn sau khi đập cây Thánh Giá, nếu để dành chia đều cho dân thì người dân Đồng Chiêm chắc sẽ trở thành những nông dân giàu nhất Việt Nam và con số 28% số hộ nghèo là chuyện dĩ vãng.
Vậy nhưng, chưa có khi nào thấy tin rằng giáo dân Đồng Chiêm được cứu trợ từ nhà nước kể cả khi lũ lụt chết người. Báo Hà Nội mới cũng ngoảnh mặt làm ngơ, những cái chết oan khiên dưới bùn sâu Đồng Chiêm vẫn im mà chịu.
Chỉ thấy sau đó, đại diện Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và Tòa TGM Hà Nội, các hội đoàn Công giáo khắp nơi, khắp các xứ họ về Đồng Chiêm cứu trợ mà thôi.
Khi chúng tôi vào tới Đồng Chiêm, điều ngạc nhiên nhất là ngôi nhà thờ nổi cao ngay trên cồn đất giữa làng, còn xung quanh là những con đường lổn nhổn sỏi, đá, nước và từng vũng lầy. Những con đường nông thôn vào nhà thờ, nhà xứ cũng đầy những ổ trâu, ổ voi. Khó tưởng tượng được rằng đây là vùng nông thôn bắc bộ đến nay đường sá vẫn còn như thế.
Bổng nhiên, sau vụ đập Thánh Giá, sau những cố gắng bằng nhiều cách như “tư duy... đống đất”, dày đặc của cảnh sát, cán bô công quyền ngăn chặn mọi người, mọi nẻo đến Đồng Chiêm. Bất cứ ai ra vào đều được xét hỏi, ngăn chặn và sẵn sàng được nhóm côn đồ hỏi thăm sức khỏe đến khi nào “máu chảy, vỡ mặt, u đầu” cướp mọi dụng cụ hình ảnh, cho đến... sợ mới thôi.
Đến khi đó báo chí tuyên bố: “Bình an về với Đồng Chiêm”?
Cũng gần như ngay lập tức nhà nước đổ vào đây tức 30 tấn gạo chia cho mỗi nhân khẩu 15kg. Rồi báo Hà Nội mới đến tặng quà, rồi thăm hỏi, rồi “bình yên về với Đồng Chiêm”...
Những ngày sau đó, báo chí liên tục đưa tin về chiến dịch cứu trợ cho Đồng Chiêm: nào là đầu tư làm 5,8km đường nông thôn, làm nhà văn hóa cho Đồng Chiêm... rồi chính báo Hà Nội mới, nơi thường xuyên có những bài viết xuyên tạc sự thật về vấn đề tôn giáo như Thái Hà, Tòa Khâm sứ, Đồng Chiêm... bằng những lời lẽ xuyên tạc độc địa đã bị các cơ quan truyền thông quốc tế vạch mặt lại đến tặng quà cho giáo dân Đồng Chiêm.
Khi nghe tin buổi tặng quà này được HNM đưa tin, có người ta bảo rằng “hôm nay quạ đến thăm gà con”?. Thật hết chỗ nói cái tốt của các cơ quan nhà nước và cả những nơi như Báo Hà Nội mới với giáo dân Đồng Chiêm những ngày sau khi Thánh Giá bị đập tan.
Những điều đó nhờ đâu? Nhờ ơn Đảng và ơn Chính phủ? Có lẽ câu cửa miệng chúng ta được dạy, được học và được phải nghe bao chục năm nay là thế, báo chí nhà nước cũng luôn luôn nói thế. Vâng, “nhờ ơn đảng và ơn nhà nước”.
Nhưng ơn đảng và ơn nhà nước sao chỉ đột ngột đến với giáo dân Đồng Chiêm sau khi Thánh Giá bị đập tan, phụ nữ “tự ném đá vào nhau” đến mau me đầm đìa và khu vực Đồng Chiêm bị cô lập?
Sau khi Đồng Chiêm đột ngột được quan tâm, dân được phát gạo, được thăm nom và ủng hộ từ chính quyền và báo HNM, nhiều người cứ tưởng bở nên đồn thổi với nhau rằng: “Có lẽ phải dựng thêm nhiều Thánh Giá, nhất là những nơi còn quá nghèo khó, những nơi không được đầu tư như Đồng Chiêm để đến khi “thôn tự tháo dỡ” như ở Đồng Chiêm may ra dân mới “nhận được sự quan tâm” của chính quyền như vậy để có đường mà đi, có gạo mà ăn, có quà ăn tết”.
Đây quả là tin đồn nguy hiểm, vì như vậy, nơi nơi sẽ dựng lên Thánh giá nếu có người công giáo, còn nếu không có người công giáo thì có thể là tượng Phật, hoặc bất cứ biểu tượng niềm tin tôn giáo nào. Đến khi đó lấy đâu ra đủ cảnh sát để bảo vệ cho “Thôn tự tháo dỡ” và lấy đâu ra đủ gạo, đủ tiền để đầu tư cho dân như ở Đồng Chiêm?
Điều không thể chối cãi là nhờ Thánh Giá bị đập tan mà sau đó giáo dân Đồng Chiêm đã được nhà nước, chính quyền “quan tâm cách đặc biệt” kể cả cô lập với mọi người bên ngoài.
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó giáo dân Đồng Chiêm mới được cấp mỗi người 15kg gạo được lên truyền hình sung sướng mơ cả đời cũng không bao giờ có.
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó Báo HNM cũng đã đến tặng quà cho giáo dân Đồng Chiêm, cử chỉ này đã làm nhiều người đặt câu hỏi: Có ai hi vọng được báo HNM đến thăm nữa không đây?
Nhờ Thánh Giá bị đập tan, mà sau đó những con đường nội thôn Đồng Chiêm 5,8km được lên kế hoạch khẩn cấp thi công để nhân dân kịp thời đón tết.
Tất cả là Hồng Ân
Thánh giá xưa là nơi Đức Kitô đã lấy thân mình hiến tế để chuộc tội cho tất cả thế gian. Trên cây Thánh giá này, Ngài đã chịu bao cực hình, chịu đánh đập, chịu chết nhục nhã cho nhân loại được cứu rỗi. Thánh giá đã mang nặng thân thể Đức Kitô và mang nặng hơn nữa là tội lỗi loài người.
Trải qua hai ngàn năm, ngày nay Thánh giá là biểu tượng Đức tin mạnh mẽ của những Kito hữu trên toàn thế giới. Thánh giá là biểu tượng của tình yêu không bờ bến và sự hi sinh đến tận cùng "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15,13).
Và hôm nay, tại Đồng Chiêm, Thánh giá đã bị đập tan, đã chịu nhục nhằn tan nát bởi những bàn tay vô đạo, một lần nữa Thánh Giá lại chịu hi sinh để Đồng Chiêm đi vào tiềm thức của 2 tỷ tín hữu Kitô trên toàn thế giới như địa danh Núi Sọ xưa kia. Những giáo dân Đồng Chiêm nghèo khó muôn đời chìm dưới bùn sâu nay đã trở thành những chứng nhân lịch sử như dân thành Gierusalem xưa và họ cũng đã được yên ủi. Đó cũng là Hồng Ân.
Đơn giản nhất, dễ thấy nhất là Thánh giá Núi Thờ đã chấp nhận hi sinh, chịu tan nát nhục nhằn để giáo dân Đồng Chiêm hôm nay “được” sự quan tâm, nhận được “ơn đảng, ơn chính phủ”.
Ngày hôm nay người ta đang “tưng bừng kỷ niệm” lần thứ 80 ngày sinh của đảng cộng sản VN. Liệu có nơi nào muốn nhận được sự quan tâm như ở Đồng Chiêm?
Hà Nội, ngày 3/2/2010
Thủ tục khiếu tố các vi phạm Nhân quyền tại Hội đồng Nhân quyền LHQ
Ls Trần Lê Nguyên
22:45 02/02/2010
LTS: Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu tài liệu quan trọng sau đây về "Thủ tục khiếu kiện các vi phạm nhân quyền tại Hội đồng Liên Hiệp Quốc" do luật sư Trần Lê-Nguyên soạn. Luật sư Trần Lê Nguyên và các người con của ông cũng là những luật sư chuyên môn về luật quốc tế và các luật lệ liên quan tới nhân quyền. Tài liệu sẽ giúp cho người Việt Nam chúng ta được hiểu rõ những quyền lợi của mình, đồng thời cũng cho thấy những hậu quả mà các kẻ lãnh đạo độc tài CS lạm dụng quyền thế đàn áp dân chúng, rồi sớm muộn những vi phạm nhân quyền sẽ bị đưa ra ánh sáng Công Lý và những kẻ phạm dù quyền lực cao đến mấy cũng sẽ bị trừng phạt.
Theo vị Giám đốc ban chấp hành của Hiệp hội Nhân quyền Washington DC chi nhánh Châu Á, có tối thiểu 50 vụ kiện chống các viên chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc nộp bởi các học viên Pháp Luân Công từ 2002 đến 2007. Có hơn 30 quốc gia và hơn 70 luật sư đang giúp các học viên trong các vụ kiện, phần lớn kể cả trường hợp hộ và hình, là chống Giang Trạch Dân (hiện có 15 quốc gia).
THỦ TỤC KHIẾU TỐ CÁC VI PHẠM NHÂN QUYỀN TẠI HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC.
Nghị Quyết 5/1 của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc ngày 18/6/2007 đã mở ra một cơ hôi mới cho các nạn nhân bị trà đạp các quyền căn bản được công nhận (1).
Thực vậy, Thủ tục có tên 1503 đã được cải tiến theo Quyết Nghị 5/1, trở thành phổ quát và tự động phải được xem xét bởi một Ủy Ban Hành Động thuộc Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
AI CÓ THỂ TÔ CÁO HAY KHIẾU KIỆN
Trước đây, theo các Thỏa Ước cũ, các đơn kiện khiếu tố chỉ được chấp nhận một khi quốc gia liên hệ công nhận thẩm quyên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc.
Trái lại, Thủ tục mới đơn kiện khiếu tố được chấp nhận, không cần quốc gia liên hệ có ký hay phê chuẩn các thỏa ước về nhân quyền hay không.
Chính vì vậy, thủ tục khiếu tố này có tính cách PHỔ QUÁT (universelle).
Do vậy mỗi công dân của một quốc gia thành viên của Liên Hiêp Quốc có thể tự mình đứng nguyên đơn khiếu tố tại Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
Hơn thế nũa, tất cả các cá nhân, đoàn thể, hoặc một nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của sự đàn áp nhân quyền hay các quyền căn bản, đều có thể khiếu kiện.
CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƠN ĐƯỢC CHẤP NHẬN
Đơn khiếu kiện, trước tiên phải liên quan tới một trong các quyền của con người hay các quyền tự do căn bản được công nhận và phải hội đủ các yếu tố sau đây:
1- Đơn khiếu kiện phải rõ ràng không có ý đồ (motivation) chính trị và mục tiêu hợp với Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về quyền dân sự và Chính Trị và các qui ước khác về nhân quyền..
2- Đơn khiếu kiện phải ghi rõ chi tiết các sự kiện của các vi phạm và mục đích của đơn kiện cũng như các quyền đã bị chà đạp (2).
3- Đơn khiếu kiện cần được biên sọan theo cung cách nhã nhặn, không dùng các từ, các câu văn có tính cách phỉ báng hay nhục mạ.
4- Đơn khiếu kiện có thể là do một cá nhân, một tổ chức, một nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của sự đàn áp nhân quyền, nhóm người này có thể là một tổ chức ngoài chính phủ, hành động vì thiện ý, không có mục tiêu chính trị, và quả quyết trực tiếp và chắc chắn các vi phạm ghi trong đơn. Tuy nhiên, nếu sự hiểu biết các vi phạm trên mặc dù không trực tiếp, cũng được chấp nhận, miễn là các chi tiết của chứng cớ đó không thể tranh cãi được.
5- Đơn khiếu kiện không được chỉ căn cứ duy nhất dựa trên các thông tin trên các phương tiện truyền thông đăng tải.
6- Đơn khiếu kiện này phải là mới, không liện hệ tới vụ việc đã xem xét trong khuôn khổ của một thủ tục đặc biệt của một cơ quan của LHQ hay các tổ chức miền tương tự.
7- Đơn khiếu kiện này không có hiệu quả hay quá lâu nếu hành sử trong nước.
TIẾN TRÌNH ĐƠN KHIẾU KIỆN
Khi nhận được các đơn khiếu kiện bởi các cá nhân, một tổ chức hay một nhóm người, một Ủy Ban Hành Động trực thuộc Hội Đồng Nhân Quyền gồm 5 thành viên sẽ cứu xét xem các tố cáo này có tuân thủ các tiêu chuẩn qui định hay không.
Nếu đơn khiếu kiện này được tuyên bố chấp nhận (recevable), quốc gia liện hệ sẽ nhận được đơn tố cáo này và phải trả lời các tố cáo đó.
Một khi có đủ bằng chứng cho thấy thực tế có những vi phạm trầm trọng và có hệ thống các quyền được công nhận, Ủy Ban Hành Động sẽ đệ trình lên Hội Đồng Nhân Quyền bản tường trình chi tiệt các vi phạm và các quyên bị chà đạp đồng thời đưa ra các biện pháp thích nghi cần thiết khuyến cáo quốc gia vi phạm nhân quyền.
Các khuyến cáo vi phạm nhân quyền này cũng được trình lên Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc để cơ quan này có những biện pháp trợ giúp nhằm cải thiện và phòng ngừa các vi phạm bị chỉ trích tố cáo.
Ngoài ra còn có một thủ tục đặc biệt dành cho các nhóm chuyên viên, thu nhận các hồ sơ khiếu kiện cá nhân, gia đình họ hay các ngươì đại diện, hay do một tổ chức bảo vệ nhân quyền, tổ chức ngoài chính phủ, thay thế họ hành động.
Các nhóm này chuyển các đơn khiếu kiện, qua đường lối ngoại giao cho chính phủ bị tố cáo vi phạm nhân quyền và yêu cầu họ cho biết trong hạn 90 ngày, ý kiến, bình luận về các cáo buộc nêu trên, cả về các sự kiện lẫn luật áp dụng, tiến trình, kết qủa điều tra.
Sau đó các nhóm này sẽ đưa ra một thông báo kèm theo những khuyến cáo và gửi cho chính phủ liện hệ vi phạm nhân quyền. Các người khiếu tố cũng sẽ nhận đuợc thông báo trên, ba tuần sau. Thông báo này cũng được công bố trong phúc trình hàng năm của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
ĐƠN KHIẾU KIỆN GỦI VỀ:
SERVICE D APPUI
HCDH-UNOG
1211 GENEVE
SUISSE
Télécopie: (4122) 917-9011
Email: 1503@OHCHR.ORG
Tiện đây chúng tôi cũng xin lưu ý quí độc gỉa rằng một số lớn các quốc gia dân chủ tự do cho phép khởi kiện trước Tòa Án địa phương, các vi phạm nhân quyền trầm trọng và có hệ thống, không những thủ phạm trực tiếp đàn áp mà cả những người lãnh đạo chính quyền từ trung ương tới địa phương.
THÍ DỤ :
- Toà án Đức quốc ngày 25/01/2010 đã ra án lệnh quốc tế bắt giam Tuớng Jorge Rafael Videla, nguyên lãnh đạo cuộc đảo chánh tại Argentine năm 1976 vi tội vi phạm nhân quyền.
- Brasil đã cho dẫn độ một lãnh đạo quân sự về hưu tới Argentine để trả lời về những vi phạm nhân quyền trong chiến dịch “Condor.”
- Tòa Tối Cao Pérou đã xác nhận cựu TT Fujimori 25 năm tù, và bị dẫn độ vào tù sau nhiều năm lẩn trốn ở ngoại quốc.
- Tướng Reynaldo Bignone, nay 83 tuổi, nguyên Chủ Tịch nước Argentine, bi kết án hàng chục năm vì tội bắt cóc, hành hạ, thủ tiệu đối thủ chính trị.
- Giang Trạch Dân, nguyên Chủ Tịch, cùng 4 ủy viên trong Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc bị ông Ismael Moreno, Thẩm phán Tòa án Quốc gia Tây Ban Nha truy tố về tội ác tra tấn và diệt chủng đối với học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh và các tỉnh Liêu Ninh, Sơn Đông.
- Tại Canada, nhiều vu kiện vi phạm nhân quyền bởi các cựu lãnh đạo ngoại quốc cư trú tại Canada đang bị truy tố hình sự mà hai trong số vụ kiện do Văn phòng Luật sư của hai đứa con người viết đảm trách.
Theo cô Theresa Chu, giám đốc ban chấp hành của Hiệp hội Nhân quyền Washington DC chi nhánh Châu Á, có tối thiểu 50 vụ kiện chống các viên chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc nộp bởi các học viên Pháp Luân Công từ 2002 đến 2007. Có hơn 30 quốc gia và hơn 70 luật sư đang giúp các học viên trong các vụ kiện, phần lớn kể cả trường hợp hộ và hình, là chống Giang Trạch Dân (hiện có 15 quốc gia).
Chúng tôi chỉ nêu lên vài vụ kiện tiêu biểu, còn hàng trăm các vụ kiện khác đang tiếp diễn trên nhiều nước khác nhau vì những vi phạm trầm trọng và có hệ thống các quyền căn bản được quốc tế công nhận.
Các điều trình bày trên chứng tỏ rằng, sớm muộn những vi phạm nhân quyền sẽ bị đưa ra ánh sáng Công Lý và những kẻ phạm dù quyền lực cao đến mấy cũng sẽ bị trừng phạt.
Không gian bắt đầu dần dần càng chật hẹp cho những chính quyền độc tài và các nhà lãnh đạo chà đạp các quyền căn bản của con người, tự cho mình cái quyền ngồi trên luật pháp quốc nội và quốc tế.
GHI CHÚ:
(1) - các quyền căn bản được nghi nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền :
Điều 7
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.
Điều 13
1. Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.
2. Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.
Điều 18
Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Điều 19
Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Điều 20
1. Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.
2. Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.
Điều 21
1. Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.
2. Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
3. Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.
(2) - Các quyền căn bàn nghi nhận trong Công Ước Quốc Tế về quyền dân sự và Chính Trị.
Điều 12
1. Những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong lãnh thổ.
2. Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một quốc gia, kể cả quốc gia của mình.
3. Những quyền tự do ghi trên không thể bị giới hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác được thừa nhận trong Công Ước này.
4. Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương một cách độc đoán.
Điều 18
1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2. Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3. Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.
4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Điều 19:
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác.
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Điều 21
Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác.
Điều 22
1. Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác. Điều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành xử quyền tự do lập hội của các giới quân nhân và cảnh sát.
3. Điều luật này không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Động Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay áp dụng những đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong Công Ước Lao Động Quốc Tế.
Điều 25
2. Không bị kỳ thị (như đã quy định ở điều 2) và không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và có cơ hội:
a. Được tham gia vào việc điều hành chính quyền, hoặc trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển chọn.
b. Được bầu cử và ứng cử trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri.
c. Được quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
Điều 26
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào.
Điều 27
Đối với các cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này bảo đảm cho các thành phần thiểu số cũng với những người khác trong cộng đồng của họ được quyền hưởng văn hoá riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
(3) - Đơn khiếu kiện phải ghi rõ: tên tuôỉ, giới tính, nơi cư trú; nếu là tổ chứ hay nhóm người phải ghi danh tính của tổ chức, cộng đồng; diễn tả trường hợp xẩy ra tai nạn; tác giả vi phạm hay suy đoán;, quan chức, chức vụ, lý do viện cớ hay suy đoàn; Các cấp chính quyên cao có liên hệ và, hay họ đã có những biện pháp gì khi đã được thông báo.
Theo vị Giám đốc ban chấp hành của Hiệp hội Nhân quyền Washington DC chi nhánh Châu Á, có tối thiểu 50 vụ kiện chống các viên chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc nộp bởi các học viên Pháp Luân Công từ 2002 đến 2007. Có hơn 30 quốc gia và hơn 70 luật sư đang giúp các học viên trong các vụ kiện, phần lớn kể cả trường hợp hộ và hình, là chống Giang Trạch Dân (hiện có 15 quốc gia).
THỦ TỤC KHIẾU TỐ CÁC VI PHẠM NHÂN QUYỀN TẠI HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC.
Nghị Quyết 5/1 của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc ngày 18/6/2007 đã mở ra một cơ hôi mới cho các nạn nhân bị trà đạp các quyền căn bản được công nhận (1).
Thực vậy, Thủ tục có tên 1503 đã được cải tiến theo Quyết Nghị 5/1, trở thành phổ quát và tự động phải được xem xét bởi một Ủy Ban Hành Động thuộc Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
AI CÓ THỂ TÔ CÁO HAY KHIẾU KIỆN
Trước đây, theo các Thỏa Ước cũ, các đơn kiện khiếu tố chỉ được chấp nhận một khi quốc gia liên hệ công nhận thẩm quyên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc.
Trái lại, Thủ tục mới đơn kiện khiếu tố được chấp nhận, không cần quốc gia liên hệ có ký hay phê chuẩn các thỏa ước về nhân quyền hay không.
Chính vì vậy, thủ tục khiếu tố này có tính cách PHỔ QUÁT (universelle).
Do vậy mỗi công dân của một quốc gia thành viên của Liên Hiêp Quốc có thể tự mình đứng nguyên đơn khiếu tố tại Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
Hơn thế nũa, tất cả các cá nhân, đoàn thể, hoặc một nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của sự đàn áp nhân quyền hay các quyền căn bản, đều có thể khiếu kiện.
CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƠN ĐƯỢC CHẤP NHẬN
Đơn khiếu kiện, trước tiên phải liên quan tới một trong các quyền của con người hay các quyền tự do căn bản được công nhận và phải hội đủ các yếu tố sau đây:
1- Đơn khiếu kiện phải rõ ràng không có ý đồ (motivation) chính trị và mục tiêu hợp với Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về quyền dân sự và Chính Trị và các qui ước khác về nhân quyền..
2- Đơn khiếu kiện phải ghi rõ chi tiết các sự kiện của các vi phạm và mục đích của đơn kiện cũng như các quyền đã bị chà đạp (2).
3- Đơn khiếu kiện cần được biên sọan theo cung cách nhã nhặn, không dùng các từ, các câu văn có tính cách phỉ báng hay nhục mạ.
4- Đơn khiếu kiện có thể là do một cá nhân, một tổ chức, một nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của sự đàn áp nhân quyền, nhóm người này có thể là một tổ chức ngoài chính phủ, hành động vì thiện ý, không có mục tiêu chính trị, và quả quyết trực tiếp và chắc chắn các vi phạm ghi trong đơn. Tuy nhiên, nếu sự hiểu biết các vi phạm trên mặc dù không trực tiếp, cũng được chấp nhận, miễn là các chi tiết của chứng cớ đó không thể tranh cãi được.
5- Đơn khiếu kiện không được chỉ căn cứ duy nhất dựa trên các thông tin trên các phương tiện truyền thông đăng tải.
6- Đơn khiếu kiện này phải là mới, không liện hệ tới vụ việc đã xem xét trong khuôn khổ của một thủ tục đặc biệt của một cơ quan của LHQ hay các tổ chức miền tương tự.
7- Đơn khiếu kiện này không có hiệu quả hay quá lâu nếu hành sử trong nước.
TIẾN TRÌNH ĐƠN KHIẾU KIỆN
Khi nhận được các đơn khiếu kiện bởi các cá nhân, một tổ chức hay một nhóm người, một Ủy Ban Hành Động trực thuộc Hội Đồng Nhân Quyền gồm 5 thành viên sẽ cứu xét xem các tố cáo này có tuân thủ các tiêu chuẩn qui định hay không.
Nếu đơn khiếu kiện này được tuyên bố chấp nhận (recevable), quốc gia liện hệ sẽ nhận được đơn tố cáo này và phải trả lời các tố cáo đó.
Một khi có đủ bằng chứng cho thấy thực tế có những vi phạm trầm trọng và có hệ thống các quyền được công nhận, Ủy Ban Hành Động sẽ đệ trình lên Hội Đồng Nhân Quyền bản tường trình chi tiệt các vi phạm và các quyên bị chà đạp đồng thời đưa ra các biện pháp thích nghi cần thiết khuyến cáo quốc gia vi phạm nhân quyền.
Các khuyến cáo vi phạm nhân quyền này cũng được trình lên Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiêp Quốc để cơ quan này có những biện pháp trợ giúp nhằm cải thiện và phòng ngừa các vi phạm bị chỉ trích tố cáo.
Ngoài ra còn có một thủ tục đặc biệt dành cho các nhóm chuyên viên, thu nhận các hồ sơ khiếu kiện cá nhân, gia đình họ hay các ngươì đại diện, hay do một tổ chức bảo vệ nhân quyền, tổ chức ngoài chính phủ, thay thế họ hành động.
Các nhóm này chuyển các đơn khiếu kiện, qua đường lối ngoại giao cho chính phủ bị tố cáo vi phạm nhân quyền và yêu cầu họ cho biết trong hạn 90 ngày, ý kiến, bình luận về các cáo buộc nêu trên, cả về các sự kiện lẫn luật áp dụng, tiến trình, kết qủa điều tra.
Sau đó các nhóm này sẽ đưa ra một thông báo kèm theo những khuyến cáo và gửi cho chính phủ liện hệ vi phạm nhân quyền. Các người khiếu tố cũng sẽ nhận đuợc thông báo trên, ba tuần sau. Thông báo này cũng được công bố trong phúc trình hàng năm của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ.
ĐƠN KHIẾU KIỆN GỦI VỀ:
SERVICE D APPUI
HCDH-UNOG
1211 GENEVE
SUISSE
Télécopie: (4122) 917-9011
Email: 1503@OHCHR.ORG
Tiện đây chúng tôi cũng xin lưu ý quí độc gỉa rằng một số lớn các quốc gia dân chủ tự do cho phép khởi kiện trước Tòa Án địa phương, các vi phạm nhân quyền trầm trọng và có hệ thống, không những thủ phạm trực tiếp đàn áp mà cả những người lãnh đạo chính quyền từ trung ương tới địa phương.
THÍ DỤ :
- Toà án Đức quốc ngày 25/01/2010 đã ra án lệnh quốc tế bắt giam Tuớng Jorge Rafael Videla, nguyên lãnh đạo cuộc đảo chánh tại Argentine năm 1976 vi tội vi phạm nhân quyền.
- Brasil đã cho dẫn độ một lãnh đạo quân sự về hưu tới Argentine để trả lời về những vi phạm nhân quyền trong chiến dịch “Condor.”
- Tòa Tối Cao Pérou đã xác nhận cựu TT Fujimori 25 năm tù, và bị dẫn độ vào tù sau nhiều năm lẩn trốn ở ngoại quốc.
- Tướng Reynaldo Bignone, nay 83 tuổi, nguyên Chủ Tịch nước Argentine, bi kết án hàng chục năm vì tội bắt cóc, hành hạ, thủ tiệu đối thủ chính trị.
- Giang Trạch Dân, nguyên Chủ Tịch, cùng 4 ủy viên trong Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc bị ông Ismael Moreno, Thẩm phán Tòa án Quốc gia Tây Ban Nha truy tố về tội ác tra tấn và diệt chủng đối với học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh và các tỉnh Liêu Ninh, Sơn Đông.
- Tại Canada, nhiều vu kiện vi phạm nhân quyền bởi các cựu lãnh đạo ngoại quốc cư trú tại Canada đang bị truy tố hình sự mà hai trong số vụ kiện do Văn phòng Luật sư của hai đứa con người viết đảm trách.
Theo cô Theresa Chu, giám đốc ban chấp hành của Hiệp hội Nhân quyền Washington DC chi nhánh Châu Á, có tối thiểu 50 vụ kiện chống các viên chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc nộp bởi các học viên Pháp Luân Công từ 2002 đến 2007. Có hơn 30 quốc gia và hơn 70 luật sư đang giúp các học viên trong các vụ kiện, phần lớn kể cả trường hợp hộ và hình, là chống Giang Trạch Dân (hiện có 15 quốc gia).
Chúng tôi chỉ nêu lên vài vụ kiện tiêu biểu, còn hàng trăm các vụ kiện khác đang tiếp diễn trên nhiều nước khác nhau vì những vi phạm trầm trọng và có hệ thống các quyền căn bản được quốc tế công nhận.
Các điều trình bày trên chứng tỏ rằng, sớm muộn những vi phạm nhân quyền sẽ bị đưa ra ánh sáng Công Lý và những kẻ phạm dù quyền lực cao đến mấy cũng sẽ bị trừng phạt.
Không gian bắt đầu dần dần càng chật hẹp cho những chính quyền độc tài và các nhà lãnh đạo chà đạp các quyền căn bản của con người, tự cho mình cái quyền ngồi trên luật pháp quốc nội và quốc tế.
GHI CHÚ:
(1) - các quyền căn bản được nghi nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền :
Điều 7
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.
Điều 13
1. Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.
2. Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.
Điều 18
Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Điều 19
Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Điều 20
1. Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.
2. Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.
Điều 21
1. Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.
2. Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
3. Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.
(2) - Các quyền căn bàn nghi nhận trong Công Ước Quốc Tế về quyền dân sự và Chính Trị.
Điều 12
1. Những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong lãnh thổ.
2. Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một quốc gia, kể cả quốc gia của mình.
3. Những quyền tự do ghi trên không thể bị giới hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác được thừa nhận trong Công Ước này.
4. Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương một cách độc đoán.
Điều 18
1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2. Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3. Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.
4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Điều 19:
1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác.
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Điều 21
Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác.
Điều 22
1. Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác. Điều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành xử quyền tự do lập hội của các giới quân nhân và cảnh sát.
3. Điều luật này không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Động Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay áp dụng những đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong Công Ước Lao Động Quốc Tế.
Điều 25
2. Không bị kỳ thị (như đã quy định ở điều 2) và không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và có cơ hội:
a. Được tham gia vào việc điều hành chính quyền, hoặc trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển chọn.
b. Được bầu cử và ứng cử trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri.
c. Được quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
Điều 26
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào.
Điều 27
Đối với các cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này bảo đảm cho các thành phần thiểu số cũng với những người khác trong cộng đồng của họ được quyền hưởng văn hoá riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
(3) - Đơn khiếu kiện phải ghi rõ: tên tuôỉ, giới tính, nơi cư trú; nếu là tổ chứ hay nhóm người phải ghi danh tính của tổ chức, cộng đồng; diễn tả trường hợp xẩy ra tai nạn; tác giả vi phạm hay suy đoán;, quan chức, chức vụ, lý do viện cớ hay suy đoàn; Các cấp chính quyên cao có liên hệ và, hay họ đã có những biện pháp gì khi đã được thông báo.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Đức Maria qua các thời đại (14)
Vũ Văn An
03:28 02/02/2010
Chương mười ba: Người Đàn Bà Mặc Áo Mặt Trời
Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng,
Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thẩy người phàm,
con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được thấy mộng.
- Công Vụ 2:17, Gioen 2:28
Các bản linh ca (spirituals) của người Mỹ gốc Phi Châu rất sâu sắc và mạnh mẽ đồng hóa kinh nghiệm nô lệ tại Bắc Mỹ với lịch sử Israel, nhưng lại tương đối ít nhắc đến đức Ma-ri-a, có lẽ vì các Giáo Hội của phần đông người nô lệ đều theo Tin Lành hay Thệ Phản chứ không hẳn Công Giáo La Mã. Nhưng quả là ngạc nhiên khi khám phá ra điều này là trong một bài linh ca kia, đức Ma-ri-a đã được khoác cho danh hiệu “người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng” (1). Vì việc đem tước hiệu lấy từ sách Khải Huyền “Và kìa xuất hiện một điềm lạ lớn trên trời: một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” áp dụng vào đức Trinh Nữ Ma-ri-a xưa nay vốn là đặc điểm của lối giải thích Tân Ước theo truyền thống Công Giáo La Mã, hơn là theo truyền thống Thệ Phản (2). Một cách đặc trưng hơn, lối giải thích ấy đã được truyền thống Công Giáo La Mã sử dụng để biện minh và chứng thực cho các lần hiện ra, không những cho thị nhân của sách Khải Huyền mà còn cho những thị nhân sau này nữa, về cùng một “ điềm lạ lớn trên trời” và về đức Ma-ri-a như Người Đàn Bà Mặc Áo Mặt Trời. Hàng ngàn những lần đức Ma-ri-a hiện ra như thế theo nghĩa hẹp đã được tường trình khắp các thế kỷ, bắt đầu từ thị kiến này trong Sách Khải Huyền. Một trong những lần hiện ra sớm nhất là vào thế kỷ thứ tư, như đã được một nhà thần học và huyền nhiệm là Thánh Grêgôriô thành Nyssa tường trình trong một bài giảng in trong cuốn tiểu sử của ngài tựa là Grêgôriô Làm Phép Lạ (3).
Nhưng bất kể thế giá trổi vượt của một vị thánh và thần học gia nơi người tường thuật, việc hiện ra sớm sủa này chưa bao giờ được các thẩm quyền có trách nhiệm trong Giáo Hội chính thức nhìn nhận. Thực thế, dù những người chỉ trích luôn loan truyền nhiều ấn tượng hòng tố cáo Giáo Hội muốn cổ võ những cuộc hiện ra như thế, cũng như các dị đoan khác đi kèm, để bòn tiền của người ngờ ngệch (4), lịch sử việc công nhận chúng trái lại rõ ràng cho thấy “Giáo Hội rất thận trọng đối với các cuộc hiện ra, và dành cho chúng một vị thế rất thấp vì chúng là những dấu chỉ đến với ta qua giác quan và do đó dễ rơi vào những ảo giác có tính chủ quan” (5). René Laurentin, một thế giá hàng đầu về lịch sử các cuộc hiện ra của đức Ma-ri-a, đã nhận định như thế. Việc biên tập có phê phán của ông về các tài liệu chung quanh và tiếp theo những lần hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 là một kho dữ liệu không thể thiếu cho những ai muốn nghiên cứu tất cả những lần đức Ma-ri-a hiện ra từ xưa đến nay (6). Một danh mục, công bố vào năm 1962 về các lần đức Ma-ri-a hiện ra được giáo quyền nhìn nhận là đáng tin tưởng sùng kính, giữa vô số các trình thuật do các cá nhân và các nhóm đệ nạp, chỉ liệt kê tổng cộng 10 biến cố, theo thứ tự thời gian sau đây (không hẳn theo thứ tự thời gian chúng được chính thức nhìn nhận) (7):
.
Trong số 10 biến cố trên, 3 biến cố thời danh nhất và là những biến cố chính mà chúng tôi sẽ thảo luận ở đây là Guadalupe, Lộ Đức và Fátima. Trong số những biến cố không được giáo quyền thừa nhận, nổi tiếng nhất có lẽ là loạt hiện ra bắt đầu vào ngày 3 tháng 7 năm 1876 tại Marpingen, Đức, với 5 thiếu nữ là Katharina Hubertus và cô chị là Lischen Hubertus, Susanna Leist, Margaretha Kunz, và Anna Meisberger (15).
Vì mục đích ở đây, ta thấy có một số nét chung cho phần lớn những lần hiện ra thời cận đại. Trong cuộc nghiên cứu biến cố Marpingen của mình, nhà sử học David Blackbourn đã nhận diện ra “tất cả các yếu tố của một lần hiện ra thời cận đại”. Và những yếu tố này đều được “tổng hợp” tại Lộ Đức, đó là: “tính đơn thành của thị nhân khiêm hạ, đem lại một sứ điệp, sự hoài nghi khởi đầu của cha chính xứ, phản ứng thù nghịch của nhà cầm quyền dân sự, những việc cho là chữa bệnh cách lạ lùng, và cuối cùng là việc Giáo Hội cho phép sùng kính chính thức” (16) – dĩ nhiên điểm cuối cùng không xẩy ra với biến cố tại Marpingen năm 1876.
Có một điều rõ ràng là: tuyệt đại đa số những người được đức Ma-ri-a hiện ra trong thời kỳ thường mệnh danh là thế kỷ đức Ma-ri-a hiện ra, tức 100 năm từ thập niên 1830 tới thập niên 1930 (17), đều không thuộc giai cấp ưu tú, mà chỉ là các giáo dân và nông dân tầm thường (18). Người ta coi điều này như đã ứng nghiệm lời đức Ma-ri-a tuyên xưng và nói tiên tri trong kinh Magnificat, “Người đã dẹp tan phường kiêu ngạo, hạ bệ kẻ quyền thế và nâng cao người thấp hèn.Người đã cho người nghèo khó no nê và để kẻ giầu có trở về tay không” (19). Điều ấy tương phản với khá nhiều lần hiện ra thời Trung Cổ, lúc Ngài hay hiện ra với những nhà tôn giáo chuyên nghiệp và những nhà chuyên nghiệp tôn giáo (căn cứ vào bảng liệt kê trên, điều này chỉ đúng cho trường hợp hiện ra với Nữ Tu Catherine de Labouré năm 1830); trong số này, có những lần đã xẩy ra với giai cấp thượng lưu như trường hợp hiện ra với Thánh Nữ Brigitta của Thụy Điển. Trái lại, vào ngày 13 tháng 5 năm 1946, khi hơn 700,000 khách hành hương, gần 1 phần 10 dân số Bồ Đào Nha, tụ tập tại Fátima để tôn kính đức Ma-ri-a Nữ Vương Hòa Bình, cám ơn Ngài vì Thế Chiến II chấm dứt, thì họ là “những người đàn bà bụi bờ, các đầy tớ, già cũng như trẻ, giầu có cũng như bần hàn, đủ mọi loại người (tuy phần đông là người khiêm hạ, phần lớn đi chân không, thuộc giai cấp công nhân cùng gia đình họ)” đã đến để tôn kính đức Trinh Nữ (20), giống hiện tượng sùng kính từng xẩy ra tại nơi này suốt 30 năm trước đó.
Những người như Emile Zola (21) từng giải thích sai về mục đích của việc dành đặc ân này đối với người nghèo và người tầm thường, coi nó như một cách Giáo Hội dùng quyền bính để thao túng sự dốt nát vô phương cứu chữa của khối quần chúng vô học, một thao túng mà ông cho sẽ bị khoa học và giáo dục đánh tan một ngày gần đây. Cũng có người cho rằng đây chỉ là sự sủng ái của đức Trinh Nữ đối với những người giống như Ngài (22). Bất chấp những luận điểm ấy, cả phản ứng khởi đầu đối với các thị kiến lẫn những tranh luận về sau đều cho rằng điều trên phản ảnh rõ rệt một cuộc “chiến tranh giai cấp” y như trong sách giáo khoa. Đến độ một người vô sản rất có ảnh hưởng, dù vẫn chỉ trích các biểu hiện tâm linh cho là “thuốc phiện ngu dân”, cũng đã đứng về phía những người vô sản này mà ủng hộ hết mình cho những lần hiện ra này.
Các biến cố liên hệ tới việc đức Trinh Nữ hiện ra tại Guadalupe năm 1531 gắn liền với những căng thẳng, không những của chiến tranh giai cấp mà còn là chiến tranh chủng tộc và tranh chấp chiết trung luận tôn giáo (religious syncretism) nữa (23). Vì Juan Diego là một người Thổ Dân (Indian), trong khi những người thoạt đầu không nhìn nhận tính cách chính xác trong các trình thuật của ông lại là người Da Trắng (Caucasian) (24). Chính vì thế, trong số các nhận định khác biệt về Nuestra Senora de Guadalupe (Đức Bà Guadalupe), một ý kiến được thần học giải phóng gợi hứng đã nhận định như sau: “điều người da trắng phải nhìn nhận chính là việc làm hay sứ mệnh của người Thổ Dân. Lời của người Thổ Dân bị đặt thành vấn đề, anh ta phải đấu tranh để sứ mệnh của mình được người Da Trắng công nhận. Trong cuộc đấu tranh này, người Thổ Dân nắm chắc anh ta được sự ủng hộ tuyệt đối của đức Nữ Trinh” (25). Khi khảo sát việc phát triển của lòng sùng kính đối với Đức Bà Guadalupe, các nhà nhân chủng học đưa ra nhiều mối liên kết gần gũi giữa lòng sùng kính ấy với thân phận Thổ Dân sống dưới sự đô hộ thực dân của người Tây Ban Nha (26). Đức Bà Guadalupe cũng được coi như đã chứng thực không những phong trào đối kháng đầy ý thức của người Thổ Dân đối với việc quê cha đất tổ của họ bị biến thành một “Tây Ban Nha Mới” mà còn chứng thực cả “hình ảnh nữ tính về chính mình” trong việc phản kháng lại hình thức thống trị có tính tổ phụ do những người xâm chiếm và cả những nhà truyền giáo Tây Ban Nha đại biểu (27). Trong cuộc đấu tranh này, cũng còn một điều hiển nhiên nữa là nơi hiện ra chính là địa điểm thờ một thần nữ thổ dân, một nữ thần mà các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đã tìm hết cách dẹp bỏ nhưng nay rõ ràng đã trở về với các người tân tòng thổ dân dưới vóc dáng Mẹ Thiên Chúa (28). Ấy thế nhưng, hoàn cảnh ấy không phải là không có những nghịch lý đặc biệt của nó. Dù ngày nay được đồng hóa một cách gần gũi với chính nghĩa Thổ Dân tại Mễ Tây Cơ đến độ, như trên đã nói, Đức Ma-ri-a được xưng tụng là “lá cờ tư riêng không chính thức của người Mễ Tây Cơ” (29), nhưng cái tên “Guadalupe” vốn không phải là chữ của thổ dân mà có nguồn gốc Tây Ban Nha. Chữ ấy vốn dùng để chỉ tên một ngôi đền kính đức Ma-ri-a tại Cáceres, Tây Ban Nha, từ rất lâu, trước khi Juan Diego được thấy Nuestra Senora de Guadalupe; việc vai trò của đức Trinh Nữ tại Tây Ban Nha tiếp tục nổi bật đã được chứng minh bằng nhiều cuộc hiện ra tại đó vào thời Trung Cổ cũng như vào đầu thời cận đại và đã được minh họa bằng nhiều bức tượng đức Ma-ri-a kiểu barốc (30). Nhưng chính nhờ việc đồng hóa với quần chúng thổ dân và những người bị chà đạp ở đấy cũng như ở mọi nơi khác, đức Trinh Nữ Ma-ri-a tại Guadalupe đã trở thành “Mẹ của Mễ Tây Cơ”, như lời thi sĩ Octavio Paz từng nói (31), hay “biểu tượng quốc gia Mễ Tây Cơ” như nhiều nhà văn từng xưng tụng (32). Tuy nhiên, tước hiệu kép sau đây, một tước hiệu xuất hiện trong một cuộc trưng bày, “Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Mỹ Châu” (33) quả đã tóm lược đầy đủ vai trò kép của Ngài. Và thế là trong thi ca sùng kính Ngài, mọi chủ đề trên đều đã được thăm dò (34).
Đôi lúc, đức Ma-ri-a giữ im lặng khi hiện ra, im lặng một cách khó hiểu là đàng khác. Nhưng thông thường, Ngài đưa ra một sứ điệp, trước nhất cho các thị nhân, rồi sau đó cho toàn thể Giáo Hội và thế giới. Thỉnh thoảng, như trường hợp “bí mật thứ ba” rất nổi tiếng của Đức Bà Fatima chẳng hạn (35), sứ điệp kia đã được giữ bí mật, chỉ được tiết lộ trong tương lai khi thật cần thiết mà thôi; việc này thường chỉ xẩy ra sau nhiều giả đoán về nội dung của thông điệp cũng như thời điểm công bố. Các sứ điệp có tính cách chính trị do đức Trinh Nữ ban bố làm nguời ta chú ý hơn nhiều, cả trên báo chí phổ thông lẫn trong văn chương bác học. Qua việc không chọn một người xâm chiếm Tây Ban Nha mà chọn một người thổ dân Mỹ làm thị nhân, Đức Bà Guadalupe đã trở thành một biểu tượng quốc gia cho người Mễ Tây Cơ và là yếu tố quyết định dứt khoát của việc “tạo nên ý thức quốc gia Mễ Tây Cơ” (36). Tuy nhiên, các trường hợp điển hình khác của ta ở đây, tức Lộ Đức, Fátima và Marpingen, cũng cho thấy sự can thiệp minh nhiên của đức Trinh Nữ vào tình thế chính trị lúc ấy qua một sứ điệp. Bởi thế, tại Lộ Đức chẳng hạn, “Đức Ma-ri-a, nơi nương tựa của người ốm đau và tội lỗi, cũng đã là nơi nương tựa của Nước Pháp Công Giáo nữa. Trong tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ngài đã đánh ngã không những Xatan mà cả những lữ đoàn Cộng Hòa và các ý niệm duy vật chủ nghĩa của nó. Là Nữ Vương Thiên Đàng, Ngài cũng là Nữ Vương Nước Pháp, hay ít nữa cũng là biểu tượng cho ‘Pháp Quốc Chân Thực’. Còn nữa, trong vóc dáng trẻ trung và y phục đơn giản, Ngài còn đồng hóa với người trẻ, người nghèo và người khiêm hạ. Đức Ma-ri-a thực sự là một biểu tượng đoàn kết sẽ giúp nhân dân Pháp vượt qua các dị biệt giai cấp, vùng và địa phương của mình” (37).
Tương tự như thế, trong một thông điệp gửi nhân dân Bồ Đào Nha năm 1942, nhân dịp kỷ niệm 25 năm đức Ma-ri-a hiện ra tại Fátima, cũng vào thời điểm giữa Thế Chiến II, Đức Piô XII đã trực tiếp liên kết việc hiện ra năm 1917, lúc sắp chấm dứt Thế Chiến I, với cơn khủng hoảng của thời ngài trong một cuộc thế chiến khác: “Ngày nay, các con càng cám ơn Đức Mẹ Fátima bao nhiêu, thì các con càng đặt tin tưởng vào Ngài trong tương lai bấy nhiêu, các con càng cảm thấy gần gũi Ngài được Ngài che chở dưới ánh sáng của Ngài bao nhiêu, thì ngược lại, số phận của nhiều quốc gia càng bi thảm bấy nhiêu vì bị xâu xé từng mảnh bởi quá nhiều tai ương lớn lao của lịch sử…Bây giờ hơn bao giờ hết, chỉ có lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa mới có hiệu lực; một lòng tin tưởng được Đấng Trung Gian là Đức Mẹ dâng lên trước Tòa Thiên Chúa Tối Cao” (38). Nhưng đối với nhiều người từng kinh qua thử thách nẩy lửa của cả hai cuộc chiến, kể cả với Giáo Hội là người đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến trong suốt lịch sử lâu dài của mình, kết cục của Thế Chiến II vẫn là một thử thách nẩy lửa đầy kinh hãi không kém. Việc Đông Âu, gồm luôn các nước theo Chính Thống Giáo như Nga, Serbia, và Bulgaria và cả các nước theo Công Giáo La Mã như Ba Lan, Croatia, và Lithuania, bị thống trị bởi các lực lượng quân sự và ý thức hệ chính trị còn thù nghịch đối với Kitô Giáo và mọi tôn giáo nói chung hơn cả Cách Mạng Pháp, làm tâm trí các vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã lo âu không ít. Và việc đó cũng được coi như làm bận tâm cả Đức Mẹ Fátima nữa, khi Ngài hiện ra ngay trong năm Cách Mạng Nga. Bởi thế, khi đến Fátima kính viếng Đức Ma-ri-a năm 1967, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Ngài hiện ra ở đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố: “Cả thế giới đang lâm nguy. Vì lý do đó, chúng tôi đã đến dưới chân Nữ Vương Hòa Bình để xin Ngài hồng ơn Thiên Chúa, một hồng ân đem tới sự can thiệp của Chúa, Đấng cao cả, tốt lành, nhân hậu và mầu nhiệm” (39)
Tuy nhiên, quá chú tâm tới các sứ điệp chính trị của đức Nữ Trinh đôi khi đã dẫn các nhà báo và sử gia đầy óc thế tục đi vào chủ nghĩa giản lược (reductionism) mà quên đi vai trò của Ngài trong việc khai triển học lý nơi các sứ điệp của Giáo Hội. Trước hết, Ngài hằng được coi là sẵn sàng can thiệp để hỗ trợ việc khai triển một học lý nếu học lý đó đặc biệt đề cập tới chính bản thân Ngài. Trong hai chương kế tiếp, chúng tôi sẽ bàn tới hai trong ba học lý “mới” rất quan trọng do Giáo Hội Công Giáo La Mã xác quyết trong thời hiện đại, đó là tín điều vô nhiễm nguyên tội lúc tượng thai đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được công bố năm 1854, và tín điều Đức Bà Hồn Xác Lên Trời, được công bố năm 1950. (Tín điều thứ ba là tín điều Đức Giáo Hoàng Không Thể Sai Lầm do Công Đồng Vatican I công bố năm 1870, một phần để chứng thực cho hành động năm 1854 của Đức Giáo Hoàng Piô IX). Chính là để củng cố cho tín điều đầu tiên trong ba tín điều này, mà đức Trinh Nữ đã hiện ra tại Lộ Đức sau đó ít năm; vì Bà Mầu Nhiệm đã dùng thổ ngữ mà phán với Bernadette Soubiroux rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Dù cả các hình ảnh chính trị lẫn các hình ảnh tôn giáo do Đức Ma-ri-a mang đến lúc Ngài hiện ra thẩy đều có tính bảo thủ, nhưng người ta ngạc nhiên thấy phản ứng chính thức ở mọi cấp đối với các lần hiện ra ấy không hào hứng chút nào. Thực vậy, Giáo Hội mọi cấp đã hết sức thận trọng trong việc xử lý các hiện tượng này bằng cách khai triển trong nhiều năm cả một bộ các tiêu chuẩn tín lý và mục vụ nhằm phân biệt những hiện tượng chân thực với những hiện tượng ảo giác (40). Điều Blackbourn gọi là “chủ nghĩa hoài nghi khởi đầu từ cha xứ [và] phản ứng thù nghịch của thẩm quyền dân sự” (41) đã trở thành chuyện bình thường trong các câu truyện hiện ra (42). Không một câu truyện nào về việc đức Ma-ri-a hiện ra, kể cả những lần hiện ra với Juan Diego và Bernadette, lại không gặp phản ứng khăng khăng tiêu cực của cha xứ sở tại và của các thẩm phán địa phương.
Các phản ứng như thế từ hàng giáo sĩ và thẩm quyền địa phương đã nói lên phần nào tính hàm hồ sâu sắc của chính hiện tượng đức Ma-ri-a hiện ra, giống như thanh gươm hai lưỡi. Vì nó quả đã được dùng như một khí giới trong trận chiến đôi khi phải đánh tập hậu mà Giáo Hội thường dùng để chống lại các thù địch hiện đại của mình. Nước Pháp của những người như Voltaire và Diderot có thể bị mọi giới ở cuối thế kỷ 18 coi như vườn ươm chủ nghĩa duy lý và là thành trì của chủ nghĩa vô thần; nhưng đức Trinh Nữ đã liên tiếp xuất hiện với cái nước Pháp duy lý và vô thần ấy nhiều lần trong thế kỷ tiếp sau đó, qua Nữ Tu Catherine de Labouré tại Paris ngày 17 tháng Mười Một năm 1830, qua Maximin Giraud và Mélanie Mathieu tại La Salette ngày 19 tháng Chín năm 1846, và nhất là qua Bernadette Soubiroux tại Lộ Đức các ngày từ 11 tháng Hai tới 16 tháng Bẩy năm 1858. Người ta có đủ lý do để tin rằng: cả chiến dịch dùng trí thức chống đỡ nền mạc khải của Kitô Giáo qua công trình hộ giáo của khoa thần học Công Giáo La Mã thế kỷ 19, trong đó có công trình hộ giáo của trường phái triết học Thomist canh tân, lẫn chiến dịch dùng chính trị chống đỡ Giáo Hội định chế và các đặc quyền của nó khỏi sự tấn kích của chủ nghĩa bài giáo sĩ trong thời ấy cũng không thể hữu hiệu bằng chiến dịch do đức Trinh Nữ đem lại, nhất là đối với giới bình dân. Vì có người đã nói rất hay rằng “La Mã là đầu nhưng Lộ Đức mới là trái tim của Giáo Hội”(43). Nhưng cũng chính từ đấy mà có sự hàm hồ trong các lần đức Ma-ri-a hiện ra. Sự hàm hố ấy là như thế này: thẩm quyền của linh mục chánh xứ, trong tòa giải tội và cả trong việc long trọng cử hành Thánh Lễ trước bàn thờ sở tại, xem ra chẳng còn bao nhiêu nghĩa lý so với sức lôi cuốn to lớn từ việc đích thân hiện ra của đấng không phải ai khác mà là chính Mẹ Thiên Chúa và việc Ngài tiếp tục hành động tại hang đá Lộ Đức. Như trong thời Cải Cách, việc các nhà giảng thuyết dạo rao bán ơn đại xá từng đe dọa làm cho việc ban phát bí tích thống hối tại cấp giáo xứ bị mất giá thế nào, thì các mục tử cấp giáo xứ đang mất giá tại Pháp vào thế kỷ 19 lẽ dĩ nhiên cũng không ưa bị các vụ “hão huyền” của bọn con nít tự cho mình được thấy đức Trinh Nữ Ma-ri-a dây dưa tới thừa tác vụ của mình như thế.
Đối với nhiều đền thánh Đức Mẹ, được thiết lập do các vụ hiện ra này kêu gọi, chiều kích nổi bật nhất chính là khía cạnh lạ lùng, và cùng với nó là đoàn ngũ đông đảo các khách hành hương, chủ yếu bị khía cạnh lạ lùng kia lôi cuốn. Đặc điểm lạ lùng này trước nhất áp dụng vào chính các thị kiến, tức các hiện tượng chỉ có thể phát sinh từ một khả năng vượt quá bình thường, dù nguyên nhân gốc của nó là sức mạnh siêu nhiên hay chỉ là một thứ bệnh tâm thần (neurosis). Việc đức Ma-ri-a hay Chúa Kitô hiện ra tự nó là một biến cố siêu việt, mà tính khả tín thường tùy thuộc tính khả tín trước đó của một phép lạ nào bất cứ.
Ngược lại, một khi được chấp nhận hay “được chứng thực” (bất kể diễn trình chứng thực ấy bao gồm những gì), thì sức mạnh lạ lùng của việc hiện ra sẽ lan tới chính con người của thị nhân hay tới các địa điểm hiện ra hay tới một khía cạnh vật lý nào đó của địa điểm ấy, ngay cả nếu khía cạnh vật lý ấy được mang xa hẳn địa điểm nguyên khởi của việc hiện ra kia, như trong trường hợp nước hay làm phép lạ của Lộ Đức. Tuy vậy, ít nhất trong lý thuyết, các phép lạ và tư cách hưởng phép lạ này luôn tùy thuộc con người đức Trinh Nữ, chứ không tùy thuộc sức ma thuật mà người ta lầm tưởng là của chính địa điểm hay sự vật Ngài đụng tới hay nhờ sự hiện diện của Ngài mà được biến đổi. Việc lật ngược vai trò của phép lạ, thường hay xẩy ra sau một thời gian, từ quan điểm ngày xưa của cả ngoại giáo lẫn Kitô Giáo cho rằng phép lạ là hành động để minh chứng thẩm quyền của người làm phép lạ đến quan điểm hiện nay của phong trào Ánh Sáng cho rằng cái được gọi là phép lạ có đáng tin hay không là hoàn toàn tùy thuộc thế giá đã được chấp nhận nơi con người thánh thiện, là điều không hoàn toàn áp dụng ở đây, vì các phép lạ tại Fátima và Lộ Đức đã diễn tiến theo cả hai cách trên.
Các thống kê về việc nhờ phép lạ mà được khỏi bệnh, nhất là trường hợp Lộ Đức, đã được quan niệm rất khác nhau (44). Dù chính xác hay không, người ta từng ước lượng rằng: chỉ trong vòng một thế kỷ rưỡi, số khách hành hương tới Lộ Đức đã gấp đôi số khách hành hương tới Mecca trong hơn 13 thế kỷ qua (45). Tất nhiên, một số người đến đó để du lịch hay vì tò mò, và số đông khác đến đó chỉ để cầu nguyện. Nhưng hàng chục ngàn người, và có lẽ hàng triệu người, đã đến Lộ Đức hành hương để mong chờ phép lạ chữa khỏi bệnh thân xác và tinh thần của mình. Sức mạnh làm phép lạ của đức Trinh Nữ tại Lộ Đức và Fátima đã được thẩm quyền cao cấp nhất chứng thực.Toàn thế giới văn minh, Công Giáo La Mã hay không, thẩy đều ngỡ ngàng khi đức Giáo Hoàng Gio-an Phaolô II bị bắn và bị trọng thương tại Công Trường Thánh Phêrô vào ngày 13 tháng Năm năm 1981 và thật hân hoan khi nghe tin ngài thoát chết. Chính đức Giáo Hoàng đã không để ai hoài nghi đối với quan điểm của ngài về việc nhờ đâu và tại sao ngài thoát chết: “Và một lần nữa, tôi đội ơn đức Trinh Nữ Diễm Phúc… Lẽ nào tôi có thể quên được rằng biến cố tại Công Trường Thánh Phêrô kia đã xẩy ra vào ngày và giờ kỷ niệm Mẹ Chúa Kitô hiện ra lần đầu với các nông dân nhỏ bé cách nay 60 năm tại Fátima, nước Bồ Đào Nha? Ngày ấy… tôi cảm nhận được sự che chở của người Mẹ phi thường, một sự che chở còn mạnh hơn cả chính viên đạn” (46). Đức Piô XII nhân dịp kỷ niệm 25 năm, đức Phaolô VI nhân đến thăm đền thánh dịp kỷ niệm 50 năm, và đức Gio-an Phaolô II sau khi bị ám sát hụt, cả ba vị giáo hoàng đều kêu gọi người ta chú ý đặc biệt tới Đức Mẹ Fátima, y hệt như các vị và tất cả các vị giáo hoàng khác thuộc thế kỷ 20 đều đã dùng thẩm quyền của mình để khuyến khích việc tôn sùng Đức Mẹ Lộ Đức vậy.
Tương phản với “chủ nghĩa hoài nghi khởi đầu” mà Blackbourn cho là một đặc điểm trong lịch sử các lần đức Ma-ri-a hiện ra, ta thấy có điều được ông gọi là “việc Giáo Hội thiết lập lòng tôn sùng chính thức với một mục đích” mà theo ông Lộ Đức là điển hình sáng chói nhất (và Marpingen là ngoại lệ đáng kể hơn cả) (47). Vì, như Barbara Pope từng nhận xét “La Mã … luôn quan tâm đến việc chống đỡ đức tin truyền thống tại một quốc gia được Giáo Hội này coi như vườn ươm trồng các cuộc cách mạng hiện đại… các động lực phối hợp giữa đức tin và nhạy cảm chính trị đã thúc đẩy ngôi vị giáo hoàng nhìn nhận niềm tin của người Công Giáo Pháp, một niềm tin cho rằng họ được đức Ma-ri-a tuyển chọn” (48). Như nhận xét vừa rồi ngụ ý, niềm tin của người Công Giáo Pháp đối với việc hiện ra và việc họ “được đức Ma-ri-a tuyển chọn” đầu tiên đã bén rễ sâu nơi các cấp địa phương, vùng và quốc gia, sau đó và từ đó mới được sự chuẩn nhận của đức giáo hoàng. Tương tự như thế, chính vị “bản quyền”, tức giám mục Leira, năm 1930 đã “(1) tuyên bố là đáng tin các thị kiến của các mục đồng tại Cova da Iria trong giáo xứ Fátima của giáo phận này trong các ngày 13 mỗi tháng, từ tháng Năm tới tháng Mười năm 1917 và (2) chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fátima” (49). Trái với việc giáo quyền tự ý áp đặt lên hàng ngũ giáo dân bất đắc dĩ, như một số những người chú giải thù nghịch thường giả thiết, niềm tin vào việc đức Maia hiện ra hầu hết đã được “bề dưới” áp đặt lên hàng giáo phẩm, đến nỗi ta có thể nói đây quả là một diễn trình dân chủ vậy. Như hồng y John Henry Newman có lần đã mô tả, khi đề cập tới học lý về Chúa Ba Ngôi trong thế kỷ thứ 4, chứ không phải học lý về đức Ma-ri-a trong thế kỷ 19, chính “nền chính thống của tín hữu” đã thắng các suy tư của các nhà thần học (50). Tuy nhiên, một cách thực tế hơn (mà cũng có thể yếm thế hơn), người ta có thể coi sự kiện Giáo Hội chuẩn nhận hay khuyến khích có hệ thống việc tôn sùng chính thức kia như một cố gắng nhằm hạn chế nơi đoàn ngũ tín hữu những quá lạm mà việc tôn sùng đức Ma-ri-a rất dễ mắc phải. Thực vậy, như một học giả từng phán đoán, “Vì được Giáo Hội cẩn trọng bảo vệ ngay từ đầu, nên Lộ Đức có lẽ là nơi được kiểm soát và điều hợp chặt chẽ nhất, ở cả bình diện ý nghĩa lẫn thực hành trong các việc tôn sùng hành hương” (51). Ta có thể thêm rằng: ít nhất trong một số khía cạnh, cả Guadalupe lẫn Fátima xem ra cũng không thua Lộ Đức bao xa. Ta có thể an tâm cho rằng đối với nhiều triệu người, không hình thức tôn sùng hay học lý về đức Ma-ri-a nào đã mang theo mình được tầm ý nghĩa to lớn hơn những lần Ngài hiện ra một cách lạ lùng.
_____________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Ghi chú
1. “Wasn’t That a Wonder”, Slave Songs of the Georgia Sea Islands, Lydia Parrish chủ biên (New York: Creative Age Press, 1942), 139.
2. Kh 12:1; xem Altfrid Th. Kassing, Die Kirche und Maria: Ihr Verhaltnis im 12.Kapitel der Apokalypse (Dusseldorf: Patmos-Verlog, 1958).
3. PG 46:90913.
4. Xem Edmond Paris, Les mystères de Lourdes, La Salette, Fatima: Les marchands du temps, mercantilisme religieux, marché d’illusions (La Chaux-de-Fonds: Union de défense protestante suisse, 1971).
5. René Laurentin và René Lejeune, Messages and Teachings of Mary at Medjugorje (Milford, Ohio: Riehle Foundation, 1988), 15.
6. René Laurentin chủ biên, Lourdes: Documents authentiques (Paris: L. Lethielleux, 1966).
7. LTK 7:64-65 (Herman Lais).
8. Rubén Vagas Ugarte, Historia del culto de María en Ibero-américa y de sus Imágenes y Santuarios más celebrados, 2 cuốn, ấn bản thứ 3 (Madrid: Talleres Gráficos Jura, 1956), 1:163-207; các trước tác rất rộng lớn được lên danh mục trong công trình song ngữ do Gloria Grajales và Ernest J. Burrus chủ biên, Guadalupan Bibliography (Washington D.C.: Georgetown University Press, 1986).
9. Edmond Carpez, La Vénérable Catherine Labouré, fille de la Charité de Saint Vincent de Paul (1806-1876), ấn bản thứ 6 (Paris: Lecoffre 1913).
10. Sandra L. Zimdars-Swartz, Encountering Mary: From La Salette to Medjugorje (Princeton, N.Y.: Princeton University Press, 1991).
11. René Laurentin, Lourdes: Histoire authentique des apparitions, 6 cuốn (Paris: Lethielleux, 1961-64); mới đây có Stéphane Baumont, Histoire de Lourdes(Toulouse: Edition Privat, 1993).
12. Cyril C. Martindale, The Message of Fatima (London: Burns, Oates, and Washbourne, 1950).
13. Beinert và Petri, Handbuch der Marienkunde 533 (René Laurentin); một bài khảo sát có phê phán về cả hai thị kiến tại Bỉ này là của Gerd Schallenberg, Visionare Erlebnisse (Augsburg: Pattloch Verlag, 1990) 83-95.
14. Từ ngày công bố bảng liệt kê này, đã có thêm hai biến cố được “chấp thuận” là Akita bên Nhật và Betania bên Venezuela.
15. Bây giờ nên xem David Blackbourn, Marpingen: Apparitions of the Virgin Mary in Nineteenth-Century Germany (New York: Alfred A. Knopf, 1994).
16. Blackbourn, Marpingen, 5. Vì bảng liệt kê các yếu tố này tương hợp cách rất gần gũi với bảng liệt kê tôi từng đưa ra trong lần dự thảo đầu tiên chương này, trước khi đọc và xem lại bài nghiên cứu của Blachbourn, nên chúng tôi rất biết ơn được thích ứng nó tại đây để phù hợp với các mục tiêu lịch sử hơi khác một chút.
17. Về ý nghĩa của hiện tượng sinh sôi nẩy nở trong thời hiện đại này, xin xem René Laurentin, Multiplication des apparitions de la Vierge aujourd’hui: est-ce elle? Que veut-elle dire? ấn bản thứ 3 (Paris: Fayard, 1991).
18. Một cách tổng quát, xin xem Werner Freitag, Volks- und Elitenfrommigkeit in der fruhen Neuzeit: Marien-wallfahrten im Furstbistum Munster (Paderborn: F. Schoning, 1991).
19. Lc 1:51-53.
20. William Thomas Walsh, Our Lady of Fatima (New York: Macmillan, 1947), 214, 140.
21. Emile Zola, Lourdes, Ernest Alfred Vizatelly (Dover, N.H.: A. Sutton, 1993).
22. Antonio González Dorado, Mariología popular Latinoamericana: De la María conquistadora a la María liberadora (Asunción, Paraguay: Ediciones Loyola, 1985).
23. Anna Gradowska, Magna Mater: El sincretismo hispanoamericano en algunas imágenes Ma-ri-anas (Caracas: Museo de Bellas Artes, 1992).
24. Christopher Rengers, Mary of the Americas: Our Lady of Guadalupe (New York: Alba House, 1989).
25. Ivone Gebara và Maria Clara Bingemer, Mary, Mother of God, Mother of the Poor (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1989), 152.
26. William B. Taylor, “The Virgin of Guadalupe in New Spain: An Inquiry into the Social History of Ma-ri-an Devotion”, American Ethnologist 14 (1987): 9-25.
27. Ena Campbell, “The Virgin of Guadalupe and the Female Self-Image: A Mexican Case History”, MotherWorship, James J. Preston chủ biên (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1982), 5-24.
28. Adela Fernadez, Dioses prehispánicos de Mexico: Mitos y deidades de panteón Nahuatl (Mexico. D.F.: Panorama Editorial, 1983), 108-12.
29. Rodriguez, Days of Obligation, 16-20.
30. William A. Christian Jr., Apparitions in Late Medieval and Renaissance Spain, (Princeton N.J.: Princeton University Press 1981); María Dolores Díaz Vaquero, La Virgen en la escultrura cordobesca del baroco (Cordova: Monte de Piedad y Caja de Ahorros de Córdoba, 1987).
31. Octavio Paz, The Labyrinth of Solitude, Lysander Kemp (New York: Grove Press, 1965), 85.
32. Eric R. Wolf, “The Virgin of Guadalupe: A Mexican National Symbol”, Journal of American Folkore 71 (1958): 34-38; Stafford Poole, Our Lady of Guadalupe: The Origins and Sources of a M exican National Symbol, 1531-1797 (Tucson: University of Arizona Press, 1995).
33. Edwin Eduard Sylvest chủ biên, Nuestra Senora de Guadalupe: Mother of God Mother of Americas (Dallas, Tex.: Bridwell Library, 1992).
34. Joaqín Antonio Penalosa chủ biên, Poesía guadalupana: siglo XIX (Mexico City: Editorial Jus, 1985).
35. Peter Laszlo, La troisième secret de Fatima enfin connu (Montréal: Guérin, 1987).
36. Jacques Lafaye, Quetzalcol1atl and Guadalupe: The Formation of Mexican National Consciousness, 1531-1813 (Chicago: University of Chicago Press, 1974), 211-57.
37. Barbara Pope, “Immaculate and Powerful: The Marian Revival in the Nineteenth Century”, trong Immaculate and Powerful: The Femal in Sacred Image and Social Reality, Clarissa W. Atkinson, Constance H. Buchanan, và Margaret R. Miles chủ biên (Boston: Beacon Press, 1985), 173, 183-84, 189.
38. Finbar Ryan, Our Lady of Fatima (Dublin: Brown and Nolan, 1942), 228-29.
39. Đức Phalô VI, Pilgrimage to Fatima – Addresses (Washington D.C.: United States Catholic Conference, 1968), 6.
40. Các tiêu chuẩn này đã được phát biểu có hệ thống bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin vào ngày 25 tháng 2 năm 1978.
41. Blackbourn, Marpingen, 5.
42. Xem Cornelia Goksu, Heroldsbach: Eine verbotene Wallfahrt (Wurzburg: Echter Verlag, 1991).
43. Andrea Dahlberg, “The Body as a Principle of Holism: three Pilgrimages to Lourdes”, Contesting the Sacred: The Anthropology of Christian Pilgrimage, John Eade và Michael J. Sallnow chủ biên (New York: Routledge, 1991), 35.
44. Cố gắng rất sớm nhằm đưa ra một thẩm định là A.Marchand, The Facts of Lourdes: And the Medical Bureau, Francis Izard dịch (London: Burns, Oates, and Wasbourne, 1924).
45. B. Pope, “Immaculate and Powerful”, 173.
46. L’Osservatore Romano, 12/10/1981.
47. Blackbourn, Marpingen, 5.
48. B.Pope, “Immaculate and Powerful”, 183-84.
49. Joseph A. Pelletier, The Sun Danced at Fatima (New York: Doubleday Image Books, 1983), 146-47.
50. John Henry Newman, “The Orthodoxy of the Body of the Faith during the Supremacy of Arianism”, Ghi chú V trong The Arians of the Fourth Century, ấn bản 3, (London, E. Lumley, 1871), 454-72.
51. Dahlberg, “The Body as a Principle of Holism” 10-11.
Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng,
Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thẩy người phàm,
con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được thấy mộng.
- Công Vụ 2:17, Gioen 2:28
Các bản linh ca (spirituals) của người Mỹ gốc Phi Châu rất sâu sắc và mạnh mẽ đồng hóa kinh nghiệm nô lệ tại Bắc Mỹ với lịch sử Israel, nhưng lại tương đối ít nhắc đến đức Ma-ri-a, có lẽ vì các Giáo Hội của phần đông người nô lệ đều theo Tin Lành hay Thệ Phản chứ không hẳn Công Giáo La Mã. Nhưng quả là ngạc nhiên khi khám phá ra điều này là trong một bài linh ca kia, đức Ma-ri-a đã được khoác cho danh hiệu “người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng” (1). Vì việc đem tước hiệu lấy từ sách Khải Huyền “Và kìa xuất hiện một điềm lạ lớn trên trời: một người đàn bà mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” áp dụng vào đức Trinh Nữ Ma-ri-a xưa nay vốn là đặc điểm của lối giải thích Tân Ước theo truyền thống Công Giáo La Mã, hơn là theo truyền thống Thệ Phản (2). Một cách đặc trưng hơn, lối giải thích ấy đã được truyền thống Công Giáo La Mã sử dụng để biện minh và chứng thực cho các lần hiện ra, không những cho thị nhân của sách Khải Huyền mà còn cho những thị nhân sau này nữa, về cùng một “ điềm lạ lớn trên trời” và về đức Ma-ri-a như Người Đàn Bà Mặc Áo Mặt Trời. Hàng ngàn những lần đức Ma-ri-a hiện ra như thế theo nghĩa hẹp đã được tường trình khắp các thế kỷ, bắt đầu từ thị kiến này trong Sách Khải Huyền. Một trong những lần hiện ra sớm nhất là vào thế kỷ thứ tư, như đã được một nhà thần học và huyền nhiệm là Thánh Grêgôriô thành Nyssa tường trình trong một bài giảng in trong cuốn tiểu sử của ngài tựa là Grêgôriô Làm Phép Lạ (3).
Nhưng bất kể thế giá trổi vượt của một vị thánh và thần học gia nơi người tường thuật, việc hiện ra sớm sủa này chưa bao giờ được các thẩm quyền có trách nhiệm trong Giáo Hội chính thức nhìn nhận. Thực thế, dù những người chỉ trích luôn loan truyền nhiều ấn tượng hòng tố cáo Giáo Hội muốn cổ võ những cuộc hiện ra như thế, cũng như các dị đoan khác đi kèm, để bòn tiền của người ngờ ngệch (4), lịch sử việc công nhận chúng trái lại rõ ràng cho thấy “Giáo Hội rất thận trọng đối với các cuộc hiện ra, và dành cho chúng một vị thế rất thấp vì chúng là những dấu chỉ đến với ta qua giác quan và do đó dễ rơi vào những ảo giác có tính chủ quan” (5). René Laurentin, một thế giá hàng đầu về lịch sử các cuộc hiện ra của đức Ma-ri-a, đã nhận định như thế. Việc biên tập có phê phán của ông về các tài liệu chung quanh và tiếp theo những lần hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 là một kho dữ liệu không thể thiếu cho những ai muốn nghiên cứu tất cả những lần đức Ma-ri-a hiện ra từ xưa đến nay (6). Một danh mục, công bố vào năm 1962 về các lần đức Ma-ri-a hiện ra được giáo quyền nhìn nhận là đáng tin tưởng sùng kính, giữa vô số các trình thuật do các cá nhân và các nhóm đệ nạp, chỉ liệt kê tổng cộng 10 biến cố, theo thứ tự thời gian sau đây (không hẳn theo thứ tự thời gian chúng được chính thức nhìn nhận) (7):
9-12 tháng 12 năm 1531 | tại Guadalupe, Mễ Tây Cơ, hiện ra với Juan Diego (8); |
17 tháng 11 năm 1830 | tại Paris, hiện ra với Nữ Tu Catherine de Labouré (9); |
19 tháng 9 năm 1846 | tại La Salette, thuộc dẫy Núi Alps gần Grenoble, hiện ra với Maximin Giraud và Mélanie Calvat (10); |
11 tháng 2 – 16 tháng 7 năm 1858 | tại Lộ Đức, Pháp, hiện ra với Bernadette Soubiroux (11); |
12-13 tháng 1 năm 1866 | tại Filippsdorf (Philippsdorf), nay thuộc Cộng Hòa Tiệp, hiện ra với Magdalena Kade; |
17 tháng 1 năm 1871 | tại Pontmain miền Brittany; |
8 tháng 7 năm 1876 | tại Pompei, Ý; |
13 tháng 5 – 13 tháng 10 năm 1917 | tại Fátima, Bồ Đào Nha, hiện ra với ba trẻ em, Lucia, Phanxicô và Jacinta (12); |
29 tháng 11 năm 1932 – 3 tháng 1 năm 1933 | tại Beauraing, Bỉ (13); và |
15 tháng 1 – 2 tháng 2 năm 1933 | tại Banneux, Bỉ, hiện ra với Mariette Beco (14) |
Trong số 10 biến cố trên, 3 biến cố thời danh nhất và là những biến cố chính mà chúng tôi sẽ thảo luận ở đây là Guadalupe, Lộ Đức và Fátima. Trong số những biến cố không được giáo quyền thừa nhận, nổi tiếng nhất có lẽ là loạt hiện ra bắt đầu vào ngày 3 tháng 7 năm 1876 tại Marpingen, Đức, với 5 thiếu nữ là Katharina Hubertus và cô chị là Lischen Hubertus, Susanna Leist, Margaretha Kunz, và Anna Meisberger (15).
Vì mục đích ở đây, ta thấy có một số nét chung cho phần lớn những lần hiện ra thời cận đại. Trong cuộc nghiên cứu biến cố Marpingen của mình, nhà sử học David Blackbourn đã nhận diện ra “tất cả các yếu tố của một lần hiện ra thời cận đại”. Và những yếu tố này đều được “tổng hợp” tại Lộ Đức, đó là: “tính đơn thành của thị nhân khiêm hạ, đem lại một sứ điệp, sự hoài nghi khởi đầu của cha chính xứ, phản ứng thù nghịch của nhà cầm quyền dân sự, những việc cho là chữa bệnh cách lạ lùng, và cuối cùng là việc Giáo Hội cho phép sùng kính chính thức” (16) – dĩ nhiên điểm cuối cùng không xẩy ra với biến cố tại Marpingen năm 1876.
Có một điều rõ ràng là: tuyệt đại đa số những người được đức Ma-ri-a hiện ra trong thời kỳ thường mệnh danh là thế kỷ đức Ma-ri-a hiện ra, tức 100 năm từ thập niên 1830 tới thập niên 1930 (17), đều không thuộc giai cấp ưu tú, mà chỉ là các giáo dân và nông dân tầm thường (18). Người ta coi điều này như đã ứng nghiệm lời đức Ma-ri-a tuyên xưng và nói tiên tri trong kinh Magnificat, “Người đã dẹp tan phường kiêu ngạo, hạ bệ kẻ quyền thế và nâng cao người thấp hèn.Người đã cho người nghèo khó no nê và để kẻ giầu có trở về tay không” (19). Điều ấy tương phản với khá nhiều lần hiện ra thời Trung Cổ, lúc Ngài hay hiện ra với những nhà tôn giáo chuyên nghiệp và những nhà chuyên nghiệp tôn giáo (căn cứ vào bảng liệt kê trên, điều này chỉ đúng cho trường hợp hiện ra với Nữ Tu Catherine de Labouré năm 1830); trong số này, có những lần đã xẩy ra với giai cấp thượng lưu như trường hợp hiện ra với Thánh Nữ Brigitta của Thụy Điển. Trái lại, vào ngày 13 tháng 5 năm 1946, khi hơn 700,000 khách hành hương, gần 1 phần 10 dân số Bồ Đào Nha, tụ tập tại Fátima để tôn kính đức Ma-ri-a Nữ Vương Hòa Bình, cám ơn Ngài vì Thế Chiến II chấm dứt, thì họ là “những người đàn bà bụi bờ, các đầy tớ, già cũng như trẻ, giầu có cũng như bần hàn, đủ mọi loại người (tuy phần đông là người khiêm hạ, phần lớn đi chân không, thuộc giai cấp công nhân cùng gia đình họ)” đã đến để tôn kính đức Trinh Nữ (20), giống hiện tượng sùng kính từng xẩy ra tại nơi này suốt 30 năm trước đó.
Những người như Emile Zola (21) từng giải thích sai về mục đích của việc dành đặc ân này đối với người nghèo và người tầm thường, coi nó như một cách Giáo Hội dùng quyền bính để thao túng sự dốt nát vô phương cứu chữa của khối quần chúng vô học, một thao túng mà ông cho sẽ bị khoa học và giáo dục đánh tan một ngày gần đây. Cũng có người cho rằng đây chỉ là sự sủng ái của đức Trinh Nữ đối với những người giống như Ngài (22). Bất chấp những luận điểm ấy, cả phản ứng khởi đầu đối với các thị kiến lẫn những tranh luận về sau đều cho rằng điều trên phản ảnh rõ rệt một cuộc “chiến tranh giai cấp” y như trong sách giáo khoa. Đến độ một người vô sản rất có ảnh hưởng, dù vẫn chỉ trích các biểu hiện tâm linh cho là “thuốc phiện ngu dân”, cũng đã đứng về phía những người vô sản này mà ủng hộ hết mình cho những lần hiện ra này.
Các biến cố liên hệ tới việc đức Trinh Nữ hiện ra tại Guadalupe năm 1531 gắn liền với những căng thẳng, không những của chiến tranh giai cấp mà còn là chiến tranh chủng tộc và tranh chấp chiết trung luận tôn giáo (religious syncretism) nữa (23). Vì Juan Diego là một người Thổ Dân (Indian), trong khi những người thoạt đầu không nhìn nhận tính cách chính xác trong các trình thuật của ông lại là người Da Trắng (Caucasian) (24). Chính vì thế, trong số các nhận định khác biệt về Nuestra Senora de Guadalupe (Đức Bà Guadalupe), một ý kiến được thần học giải phóng gợi hứng đã nhận định như sau: “điều người da trắng phải nhìn nhận chính là việc làm hay sứ mệnh của người Thổ Dân. Lời của người Thổ Dân bị đặt thành vấn đề, anh ta phải đấu tranh để sứ mệnh của mình được người Da Trắng công nhận. Trong cuộc đấu tranh này, người Thổ Dân nắm chắc anh ta được sự ủng hộ tuyệt đối của đức Nữ Trinh” (25). Khi khảo sát việc phát triển của lòng sùng kính đối với Đức Bà Guadalupe, các nhà nhân chủng học đưa ra nhiều mối liên kết gần gũi giữa lòng sùng kính ấy với thân phận Thổ Dân sống dưới sự đô hộ thực dân của người Tây Ban Nha (26). Đức Bà Guadalupe cũng được coi như đã chứng thực không những phong trào đối kháng đầy ý thức của người Thổ Dân đối với việc quê cha đất tổ của họ bị biến thành một “Tây Ban Nha Mới” mà còn chứng thực cả “hình ảnh nữ tính về chính mình” trong việc phản kháng lại hình thức thống trị có tính tổ phụ do những người xâm chiếm và cả những nhà truyền giáo Tây Ban Nha đại biểu (27). Trong cuộc đấu tranh này, cũng còn một điều hiển nhiên nữa là nơi hiện ra chính là địa điểm thờ một thần nữ thổ dân, một nữ thần mà các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đã tìm hết cách dẹp bỏ nhưng nay rõ ràng đã trở về với các người tân tòng thổ dân dưới vóc dáng Mẹ Thiên Chúa (28). Ấy thế nhưng, hoàn cảnh ấy không phải là không có những nghịch lý đặc biệt của nó. Dù ngày nay được đồng hóa một cách gần gũi với chính nghĩa Thổ Dân tại Mễ Tây Cơ đến độ, như trên đã nói, Đức Ma-ri-a được xưng tụng là “lá cờ tư riêng không chính thức của người Mễ Tây Cơ” (29), nhưng cái tên “Guadalupe” vốn không phải là chữ của thổ dân mà có nguồn gốc Tây Ban Nha. Chữ ấy vốn dùng để chỉ tên một ngôi đền kính đức Ma-ri-a tại Cáceres, Tây Ban Nha, từ rất lâu, trước khi Juan Diego được thấy Nuestra Senora de Guadalupe; việc vai trò của đức Trinh Nữ tại Tây Ban Nha tiếp tục nổi bật đã được chứng minh bằng nhiều cuộc hiện ra tại đó vào thời Trung Cổ cũng như vào đầu thời cận đại và đã được minh họa bằng nhiều bức tượng đức Ma-ri-a kiểu barốc (30). Nhưng chính nhờ việc đồng hóa với quần chúng thổ dân và những người bị chà đạp ở đấy cũng như ở mọi nơi khác, đức Trinh Nữ Ma-ri-a tại Guadalupe đã trở thành “Mẹ của Mễ Tây Cơ”, như lời thi sĩ Octavio Paz từng nói (31), hay “biểu tượng quốc gia Mễ Tây Cơ” như nhiều nhà văn từng xưng tụng (32). Tuy nhiên, tước hiệu kép sau đây, một tước hiệu xuất hiện trong một cuộc trưng bày, “Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Mỹ Châu” (33) quả đã tóm lược đầy đủ vai trò kép của Ngài. Và thế là trong thi ca sùng kính Ngài, mọi chủ đề trên đều đã được thăm dò (34).
Đôi lúc, đức Ma-ri-a giữ im lặng khi hiện ra, im lặng một cách khó hiểu là đàng khác. Nhưng thông thường, Ngài đưa ra một sứ điệp, trước nhất cho các thị nhân, rồi sau đó cho toàn thể Giáo Hội và thế giới. Thỉnh thoảng, như trường hợp “bí mật thứ ba” rất nổi tiếng của Đức Bà Fatima chẳng hạn (35), sứ điệp kia đã được giữ bí mật, chỉ được tiết lộ trong tương lai khi thật cần thiết mà thôi; việc này thường chỉ xẩy ra sau nhiều giả đoán về nội dung của thông điệp cũng như thời điểm công bố. Các sứ điệp có tính cách chính trị do đức Trinh Nữ ban bố làm nguời ta chú ý hơn nhiều, cả trên báo chí phổ thông lẫn trong văn chương bác học. Qua việc không chọn một người xâm chiếm Tây Ban Nha mà chọn một người thổ dân Mỹ làm thị nhân, Đức Bà Guadalupe đã trở thành một biểu tượng quốc gia cho người Mễ Tây Cơ và là yếu tố quyết định dứt khoát của việc “tạo nên ý thức quốc gia Mễ Tây Cơ” (36). Tuy nhiên, các trường hợp điển hình khác của ta ở đây, tức Lộ Đức, Fátima và Marpingen, cũng cho thấy sự can thiệp minh nhiên của đức Trinh Nữ vào tình thế chính trị lúc ấy qua một sứ điệp. Bởi thế, tại Lộ Đức chẳng hạn, “Đức Ma-ri-a, nơi nương tựa của người ốm đau và tội lỗi, cũng đã là nơi nương tựa của Nước Pháp Công Giáo nữa. Trong tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ngài đã đánh ngã không những Xatan mà cả những lữ đoàn Cộng Hòa và các ý niệm duy vật chủ nghĩa của nó. Là Nữ Vương Thiên Đàng, Ngài cũng là Nữ Vương Nước Pháp, hay ít nữa cũng là biểu tượng cho ‘Pháp Quốc Chân Thực’. Còn nữa, trong vóc dáng trẻ trung và y phục đơn giản, Ngài còn đồng hóa với người trẻ, người nghèo và người khiêm hạ. Đức Ma-ri-a thực sự là một biểu tượng đoàn kết sẽ giúp nhân dân Pháp vượt qua các dị biệt giai cấp, vùng và địa phương của mình” (37).
Tương tự như thế, trong một thông điệp gửi nhân dân Bồ Đào Nha năm 1942, nhân dịp kỷ niệm 25 năm đức Ma-ri-a hiện ra tại Fátima, cũng vào thời điểm giữa Thế Chiến II, Đức Piô XII đã trực tiếp liên kết việc hiện ra năm 1917, lúc sắp chấm dứt Thế Chiến I, với cơn khủng hoảng của thời ngài trong một cuộc thế chiến khác: “Ngày nay, các con càng cám ơn Đức Mẹ Fátima bao nhiêu, thì các con càng đặt tin tưởng vào Ngài trong tương lai bấy nhiêu, các con càng cảm thấy gần gũi Ngài được Ngài che chở dưới ánh sáng của Ngài bao nhiêu, thì ngược lại, số phận của nhiều quốc gia càng bi thảm bấy nhiêu vì bị xâu xé từng mảnh bởi quá nhiều tai ương lớn lao của lịch sử…Bây giờ hơn bao giờ hết, chỉ có lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa mới có hiệu lực; một lòng tin tưởng được Đấng Trung Gian là Đức Mẹ dâng lên trước Tòa Thiên Chúa Tối Cao” (38). Nhưng đối với nhiều người từng kinh qua thử thách nẩy lửa của cả hai cuộc chiến, kể cả với Giáo Hội là người đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến trong suốt lịch sử lâu dài của mình, kết cục của Thế Chiến II vẫn là một thử thách nẩy lửa đầy kinh hãi không kém. Việc Đông Âu, gồm luôn các nước theo Chính Thống Giáo như Nga, Serbia, và Bulgaria và cả các nước theo Công Giáo La Mã như Ba Lan, Croatia, và Lithuania, bị thống trị bởi các lực lượng quân sự và ý thức hệ chính trị còn thù nghịch đối với Kitô Giáo và mọi tôn giáo nói chung hơn cả Cách Mạng Pháp, làm tâm trí các vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã lo âu không ít. Và việc đó cũng được coi như làm bận tâm cả Đức Mẹ Fátima nữa, khi Ngài hiện ra ngay trong năm Cách Mạng Nga. Bởi thế, khi đến Fátima kính viếng Đức Ma-ri-a năm 1967, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Ngài hiện ra ở đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố: “Cả thế giới đang lâm nguy. Vì lý do đó, chúng tôi đã đến dưới chân Nữ Vương Hòa Bình để xin Ngài hồng ơn Thiên Chúa, một hồng ân đem tới sự can thiệp của Chúa, Đấng cao cả, tốt lành, nhân hậu và mầu nhiệm” (39)
Tuy nhiên, quá chú tâm tới các sứ điệp chính trị của đức Nữ Trinh đôi khi đã dẫn các nhà báo và sử gia đầy óc thế tục đi vào chủ nghĩa giản lược (reductionism) mà quên đi vai trò của Ngài trong việc khai triển học lý nơi các sứ điệp của Giáo Hội. Trước hết, Ngài hằng được coi là sẵn sàng can thiệp để hỗ trợ việc khai triển một học lý nếu học lý đó đặc biệt đề cập tới chính bản thân Ngài. Trong hai chương kế tiếp, chúng tôi sẽ bàn tới hai trong ba học lý “mới” rất quan trọng do Giáo Hội Công Giáo La Mã xác quyết trong thời hiện đại, đó là tín điều vô nhiễm nguyên tội lúc tượng thai đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được công bố năm 1854, và tín điều Đức Bà Hồn Xác Lên Trời, được công bố năm 1950. (Tín điều thứ ba là tín điều Đức Giáo Hoàng Không Thể Sai Lầm do Công Đồng Vatican I công bố năm 1870, một phần để chứng thực cho hành động năm 1854 của Đức Giáo Hoàng Piô IX). Chính là để củng cố cho tín điều đầu tiên trong ba tín điều này, mà đức Trinh Nữ đã hiện ra tại Lộ Đức sau đó ít năm; vì Bà Mầu Nhiệm đã dùng thổ ngữ mà phán với Bernadette Soubiroux rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Dù cả các hình ảnh chính trị lẫn các hình ảnh tôn giáo do Đức Ma-ri-a mang đến lúc Ngài hiện ra thẩy đều có tính bảo thủ, nhưng người ta ngạc nhiên thấy phản ứng chính thức ở mọi cấp đối với các lần hiện ra ấy không hào hứng chút nào. Thực vậy, Giáo Hội mọi cấp đã hết sức thận trọng trong việc xử lý các hiện tượng này bằng cách khai triển trong nhiều năm cả một bộ các tiêu chuẩn tín lý và mục vụ nhằm phân biệt những hiện tượng chân thực với những hiện tượng ảo giác (40). Điều Blackbourn gọi là “chủ nghĩa hoài nghi khởi đầu từ cha xứ [và] phản ứng thù nghịch của thẩm quyền dân sự” (41) đã trở thành chuyện bình thường trong các câu truyện hiện ra (42). Không một câu truyện nào về việc đức Ma-ri-a hiện ra, kể cả những lần hiện ra với Juan Diego và Bernadette, lại không gặp phản ứng khăng khăng tiêu cực của cha xứ sở tại và của các thẩm phán địa phương.
Các phản ứng như thế từ hàng giáo sĩ và thẩm quyền địa phương đã nói lên phần nào tính hàm hồ sâu sắc của chính hiện tượng đức Ma-ri-a hiện ra, giống như thanh gươm hai lưỡi. Vì nó quả đã được dùng như một khí giới trong trận chiến đôi khi phải đánh tập hậu mà Giáo Hội thường dùng để chống lại các thù địch hiện đại của mình. Nước Pháp của những người như Voltaire và Diderot có thể bị mọi giới ở cuối thế kỷ 18 coi như vườn ươm chủ nghĩa duy lý và là thành trì của chủ nghĩa vô thần; nhưng đức Trinh Nữ đã liên tiếp xuất hiện với cái nước Pháp duy lý và vô thần ấy nhiều lần trong thế kỷ tiếp sau đó, qua Nữ Tu Catherine de Labouré tại Paris ngày 17 tháng Mười Một năm 1830, qua Maximin Giraud và Mélanie Mathieu tại La Salette ngày 19 tháng Chín năm 1846, và nhất là qua Bernadette Soubiroux tại Lộ Đức các ngày từ 11 tháng Hai tới 16 tháng Bẩy năm 1858. Người ta có đủ lý do để tin rằng: cả chiến dịch dùng trí thức chống đỡ nền mạc khải của Kitô Giáo qua công trình hộ giáo của khoa thần học Công Giáo La Mã thế kỷ 19, trong đó có công trình hộ giáo của trường phái triết học Thomist canh tân, lẫn chiến dịch dùng chính trị chống đỡ Giáo Hội định chế và các đặc quyền của nó khỏi sự tấn kích của chủ nghĩa bài giáo sĩ trong thời ấy cũng không thể hữu hiệu bằng chiến dịch do đức Trinh Nữ đem lại, nhất là đối với giới bình dân. Vì có người đã nói rất hay rằng “La Mã là đầu nhưng Lộ Đức mới là trái tim của Giáo Hội”(43). Nhưng cũng chính từ đấy mà có sự hàm hồ trong các lần đức Ma-ri-a hiện ra. Sự hàm hố ấy là như thế này: thẩm quyền của linh mục chánh xứ, trong tòa giải tội và cả trong việc long trọng cử hành Thánh Lễ trước bàn thờ sở tại, xem ra chẳng còn bao nhiêu nghĩa lý so với sức lôi cuốn to lớn từ việc đích thân hiện ra của đấng không phải ai khác mà là chính Mẹ Thiên Chúa và việc Ngài tiếp tục hành động tại hang đá Lộ Đức. Như trong thời Cải Cách, việc các nhà giảng thuyết dạo rao bán ơn đại xá từng đe dọa làm cho việc ban phát bí tích thống hối tại cấp giáo xứ bị mất giá thế nào, thì các mục tử cấp giáo xứ đang mất giá tại Pháp vào thế kỷ 19 lẽ dĩ nhiên cũng không ưa bị các vụ “hão huyền” của bọn con nít tự cho mình được thấy đức Trinh Nữ Ma-ri-a dây dưa tới thừa tác vụ của mình như thế.
Đối với nhiều đền thánh Đức Mẹ, được thiết lập do các vụ hiện ra này kêu gọi, chiều kích nổi bật nhất chính là khía cạnh lạ lùng, và cùng với nó là đoàn ngũ đông đảo các khách hành hương, chủ yếu bị khía cạnh lạ lùng kia lôi cuốn. Đặc điểm lạ lùng này trước nhất áp dụng vào chính các thị kiến, tức các hiện tượng chỉ có thể phát sinh từ một khả năng vượt quá bình thường, dù nguyên nhân gốc của nó là sức mạnh siêu nhiên hay chỉ là một thứ bệnh tâm thần (neurosis). Việc đức Ma-ri-a hay Chúa Kitô hiện ra tự nó là một biến cố siêu việt, mà tính khả tín thường tùy thuộc tính khả tín trước đó của một phép lạ nào bất cứ.
Ngược lại, một khi được chấp nhận hay “được chứng thực” (bất kể diễn trình chứng thực ấy bao gồm những gì), thì sức mạnh lạ lùng của việc hiện ra sẽ lan tới chính con người của thị nhân hay tới các địa điểm hiện ra hay tới một khía cạnh vật lý nào đó của địa điểm ấy, ngay cả nếu khía cạnh vật lý ấy được mang xa hẳn địa điểm nguyên khởi của việc hiện ra kia, như trong trường hợp nước hay làm phép lạ của Lộ Đức. Tuy vậy, ít nhất trong lý thuyết, các phép lạ và tư cách hưởng phép lạ này luôn tùy thuộc con người đức Trinh Nữ, chứ không tùy thuộc sức ma thuật mà người ta lầm tưởng là của chính địa điểm hay sự vật Ngài đụng tới hay nhờ sự hiện diện của Ngài mà được biến đổi. Việc lật ngược vai trò của phép lạ, thường hay xẩy ra sau một thời gian, từ quan điểm ngày xưa của cả ngoại giáo lẫn Kitô Giáo cho rằng phép lạ là hành động để minh chứng thẩm quyền của người làm phép lạ đến quan điểm hiện nay của phong trào Ánh Sáng cho rằng cái được gọi là phép lạ có đáng tin hay không là hoàn toàn tùy thuộc thế giá đã được chấp nhận nơi con người thánh thiện, là điều không hoàn toàn áp dụng ở đây, vì các phép lạ tại Fátima và Lộ Đức đã diễn tiến theo cả hai cách trên.
Các thống kê về việc nhờ phép lạ mà được khỏi bệnh, nhất là trường hợp Lộ Đức, đã được quan niệm rất khác nhau (44). Dù chính xác hay không, người ta từng ước lượng rằng: chỉ trong vòng một thế kỷ rưỡi, số khách hành hương tới Lộ Đức đã gấp đôi số khách hành hương tới Mecca trong hơn 13 thế kỷ qua (45). Tất nhiên, một số người đến đó để du lịch hay vì tò mò, và số đông khác đến đó chỉ để cầu nguyện. Nhưng hàng chục ngàn người, và có lẽ hàng triệu người, đã đến Lộ Đức hành hương để mong chờ phép lạ chữa khỏi bệnh thân xác và tinh thần của mình. Sức mạnh làm phép lạ của đức Trinh Nữ tại Lộ Đức và Fátima đã được thẩm quyền cao cấp nhất chứng thực.Toàn thế giới văn minh, Công Giáo La Mã hay không, thẩy đều ngỡ ngàng khi đức Giáo Hoàng Gio-an Phaolô II bị bắn và bị trọng thương tại Công Trường Thánh Phêrô vào ngày 13 tháng Năm năm 1981 và thật hân hoan khi nghe tin ngài thoát chết. Chính đức Giáo Hoàng đã không để ai hoài nghi đối với quan điểm của ngài về việc nhờ đâu và tại sao ngài thoát chết: “Và một lần nữa, tôi đội ơn đức Trinh Nữ Diễm Phúc… Lẽ nào tôi có thể quên được rằng biến cố tại Công Trường Thánh Phêrô kia đã xẩy ra vào ngày và giờ kỷ niệm Mẹ Chúa Kitô hiện ra lần đầu với các nông dân nhỏ bé cách nay 60 năm tại Fátima, nước Bồ Đào Nha? Ngày ấy… tôi cảm nhận được sự che chở của người Mẹ phi thường, một sự che chở còn mạnh hơn cả chính viên đạn” (46). Đức Piô XII nhân dịp kỷ niệm 25 năm, đức Phaolô VI nhân đến thăm đền thánh dịp kỷ niệm 50 năm, và đức Gio-an Phaolô II sau khi bị ám sát hụt, cả ba vị giáo hoàng đều kêu gọi người ta chú ý đặc biệt tới Đức Mẹ Fátima, y hệt như các vị và tất cả các vị giáo hoàng khác thuộc thế kỷ 20 đều đã dùng thẩm quyền của mình để khuyến khích việc tôn sùng Đức Mẹ Lộ Đức vậy.
Tương phản với “chủ nghĩa hoài nghi khởi đầu” mà Blackbourn cho là một đặc điểm trong lịch sử các lần đức Ma-ri-a hiện ra, ta thấy có điều được ông gọi là “việc Giáo Hội thiết lập lòng tôn sùng chính thức với một mục đích” mà theo ông Lộ Đức là điển hình sáng chói nhất (và Marpingen là ngoại lệ đáng kể hơn cả) (47). Vì, như Barbara Pope từng nhận xét “La Mã … luôn quan tâm đến việc chống đỡ đức tin truyền thống tại một quốc gia được Giáo Hội này coi như vườn ươm trồng các cuộc cách mạng hiện đại… các động lực phối hợp giữa đức tin và nhạy cảm chính trị đã thúc đẩy ngôi vị giáo hoàng nhìn nhận niềm tin của người Công Giáo Pháp, một niềm tin cho rằng họ được đức Ma-ri-a tuyển chọn” (48). Như nhận xét vừa rồi ngụ ý, niềm tin của người Công Giáo Pháp đối với việc hiện ra và việc họ “được đức Ma-ri-a tuyển chọn” đầu tiên đã bén rễ sâu nơi các cấp địa phương, vùng và quốc gia, sau đó và từ đó mới được sự chuẩn nhận của đức giáo hoàng. Tương tự như thế, chính vị “bản quyền”, tức giám mục Leira, năm 1930 đã “(1) tuyên bố là đáng tin các thị kiến của các mục đồng tại Cova da Iria trong giáo xứ Fátima của giáo phận này trong các ngày 13 mỗi tháng, từ tháng Năm tới tháng Mười năm 1917 và (2) chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fátima” (49). Trái với việc giáo quyền tự ý áp đặt lên hàng ngũ giáo dân bất đắc dĩ, như một số những người chú giải thù nghịch thường giả thiết, niềm tin vào việc đức Maia hiện ra hầu hết đã được “bề dưới” áp đặt lên hàng giáo phẩm, đến nỗi ta có thể nói đây quả là một diễn trình dân chủ vậy. Như hồng y John Henry Newman có lần đã mô tả, khi đề cập tới học lý về Chúa Ba Ngôi trong thế kỷ thứ 4, chứ không phải học lý về đức Ma-ri-a trong thế kỷ 19, chính “nền chính thống của tín hữu” đã thắng các suy tư của các nhà thần học (50). Tuy nhiên, một cách thực tế hơn (mà cũng có thể yếm thế hơn), người ta có thể coi sự kiện Giáo Hội chuẩn nhận hay khuyến khích có hệ thống việc tôn sùng chính thức kia như một cố gắng nhằm hạn chế nơi đoàn ngũ tín hữu những quá lạm mà việc tôn sùng đức Ma-ri-a rất dễ mắc phải. Thực vậy, như một học giả từng phán đoán, “Vì được Giáo Hội cẩn trọng bảo vệ ngay từ đầu, nên Lộ Đức có lẽ là nơi được kiểm soát và điều hợp chặt chẽ nhất, ở cả bình diện ý nghĩa lẫn thực hành trong các việc tôn sùng hành hương” (51). Ta có thể thêm rằng: ít nhất trong một số khía cạnh, cả Guadalupe lẫn Fátima xem ra cũng không thua Lộ Đức bao xa. Ta có thể an tâm cho rằng đối với nhiều triệu người, không hình thức tôn sùng hay học lý về đức Ma-ri-a nào đã mang theo mình được tầm ý nghĩa to lớn hơn những lần Ngài hiện ra một cách lạ lùng.
_____________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Ghi chú
1. “Wasn’t That a Wonder”, Slave Songs of the Georgia Sea Islands, Lydia Parrish chủ biên (New York: Creative Age Press, 1942), 139.
2. Kh 12:1; xem Altfrid Th. Kassing, Die Kirche und Maria: Ihr Verhaltnis im 12.Kapitel der Apokalypse (Dusseldorf: Patmos-Verlog, 1958).
3. PG 46:90913.
4. Xem Edmond Paris, Les mystères de Lourdes, La Salette, Fatima: Les marchands du temps, mercantilisme religieux, marché d’illusions (La Chaux-de-Fonds: Union de défense protestante suisse, 1971).
5. René Laurentin và René Lejeune, Messages and Teachings of Mary at Medjugorje (Milford, Ohio: Riehle Foundation, 1988), 15.
6. René Laurentin chủ biên, Lourdes: Documents authentiques (Paris: L. Lethielleux, 1966).
7. LTK 7:64-65 (Herman Lais).
8. Rubén Vagas Ugarte, Historia del culto de María en Ibero-américa y de sus Imágenes y Santuarios más celebrados, 2 cuốn, ấn bản thứ 3 (Madrid: Talleres Gráficos Jura, 1956), 1:163-207; các trước tác rất rộng lớn được lên danh mục trong công trình song ngữ do Gloria Grajales và Ernest J. Burrus chủ biên, Guadalupan Bibliography (Washington D.C.: Georgetown University Press, 1986).
9. Edmond Carpez, La Vénérable Catherine Labouré, fille de la Charité de Saint Vincent de Paul (1806-1876), ấn bản thứ 6 (Paris: Lecoffre 1913).
10. Sandra L. Zimdars-Swartz, Encountering Mary: From La Salette to Medjugorje (Princeton, N.Y.: Princeton University Press, 1991).
11. René Laurentin, Lourdes: Histoire authentique des apparitions, 6 cuốn (Paris: Lethielleux, 1961-64); mới đây có Stéphane Baumont, Histoire de Lourdes(Toulouse: Edition Privat, 1993).
12. Cyril C. Martindale, The Message of Fatima (London: Burns, Oates, and Washbourne, 1950).
13. Beinert và Petri, Handbuch der Marienkunde 533 (René Laurentin); một bài khảo sát có phê phán về cả hai thị kiến tại Bỉ này là của Gerd Schallenberg, Visionare Erlebnisse (Augsburg: Pattloch Verlag, 1990) 83-95.
14. Từ ngày công bố bảng liệt kê này, đã có thêm hai biến cố được “chấp thuận” là Akita bên Nhật và Betania bên Venezuela.
15. Bây giờ nên xem David Blackbourn, Marpingen: Apparitions of the Virgin Mary in Nineteenth-Century Germany (New York: Alfred A. Knopf, 1994).
16. Blackbourn, Marpingen, 5. Vì bảng liệt kê các yếu tố này tương hợp cách rất gần gũi với bảng liệt kê tôi từng đưa ra trong lần dự thảo đầu tiên chương này, trước khi đọc và xem lại bài nghiên cứu của Blachbourn, nên chúng tôi rất biết ơn được thích ứng nó tại đây để phù hợp với các mục tiêu lịch sử hơi khác một chút.
17. Về ý nghĩa của hiện tượng sinh sôi nẩy nở trong thời hiện đại này, xin xem René Laurentin, Multiplication des apparitions de la Vierge aujourd’hui: est-ce elle? Que veut-elle dire? ấn bản thứ 3 (Paris: Fayard, 1991).
18. Một cách tổng quát, xin xem Werner Freitag, Volks- und Elitenfrommigkeit in der fruhen Neuzeit: Marien-wallfahrten im Furstbistum Munster (Paderborn: F. Schoning, 1991).
19. Lc 1:51-53.
20. William Thomas Walsh, Our Lady of Fatima (New York: Macmillan, 1947), 214, 140.
21. Emile Zola, Lourdes, Ernest Alfred Vizatelly (Dover, N.H.: A. Sutton, 1993).
22. Antonio González Dorado, Mariología popular Latinoamericana: De la María conquistadora a la María liberadora (Asunción, Paraguay: Ediciones Loyola, 1985).
23. Anna Gradowska, Magna Mater: El sincretismo hispanoamericano en algunas imágenes Ma-ri-anas (Caracas: Museo de Bellas Artes, 1992).
24. Christopher Rengers, Mary of the Americas: Our Lady of Guadalupe (New York: Alba House, 1989).
25. Ivone Gebara và Maria Clara Bingemer, Mary, Mother of God, Mother of the Poor (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1989), 152.
26. William B. Taylor, “The Virgin of Guadalupe in New Spain: An Inquiry into the Social History of Ma-ri-an Devotion”, American Ethnologist 14 (1987): 9-25.
27. Ena Campbell, “The Virgin of Guadalupe and the Female Self-Image: A Mexican Case History”, MotherWorship, James J. Preston chủ biên (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1982), 5-24.
28. Adela Fernadez, Dioses prehispánicos de Mexico: Mitos y deidades de panteón Nahuatl (Mexico. D.F.: Panorama Editorial, 1983), 108-12.
29. Rodriguez, Days of Obligation, 16-20.
30. William A. Christian Jr., Apparitions in Late Medieval and Renaissance Spain, (Princeton N.J.: Princeton University Press 1981); María Dolores Díaz Vaquero, La Virgen en la escultrura cordobesca del baroco (Cordova: Monte de Piedad y Caja de Ahorros de Córdoba, 1987).
31. Octavio Paz, The Labyrinth of Solitude, Lysander Kemp (New York: Grove Press, 1965), 85.
32. Eric R. Wolf, “The Virgin of Guadalupe: A Mexican National Symbol”, Journal of American Folkore 71 (1958): 34-38; Stafford Poole, Our Lady of Guadalupe: The Origins and Sources of a M exican National Symbol, 1531-1797 (Tucson: University of Arizona Press, 1995).
33. Edwin Eduard Sylvest chủ biên, Nuestra Senora de Guadalupe: Mother of God Mother of Americas (Dallas, Tex.: Bridwell Library, 1992).
34. Joaqín Antonio Penalosa chủ biên, Poesía guadalupana: siglo XIX (Mexico City: Editorial Jus, 1985).
35. Peter Laszlo, La troisième secret de Fatima enfin connu (Montréal: Guérin, 1987).
36. Jacques Lafaye, Quetzalcol1atl and Guadalupe: The Formation of Mexican National Consciousness, 1531-1813 (Chicago: University of Chicago Press, 1974), 211-57.
37. Barbara Pope, “Immaculate and Powerful: The Marian Revival in the Nineteenth Century”, trong Immaculate and Powerful: The Femal in Sacred Image and Social Reality, Clarissa W. Atkinson, Constance H. Buchanan, và Margaret R. Miles chủ biên (Boston: Beacon Press, 1985), 173, 183-84, 189.
38. Finbar Ryan, Our Lady of Fatima (Dublin: Brown and Nolan, 1942), 228-29.
39. Đức Phalô VI, Pilgrimage to Fatima – Addresses (Washington D.C.: United States Catholic Conference, 1968), 6.
40. Các tiêu chuẩn này đã được phát biểu có hệ thống bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin vào ngày 25 tháng 2 năm 1978.
41. Blackbourn, Marpingen, 5.
42. Xem Cornelia Goksu, Heroldsbach: Eine verbotene Wallfahrt (Wurzburg: Echter Verlag, 1991).
43. Andrea Dahlberg, “The Body as a Principle of Holism: three Pilgrimages to Lourdes”, Contesting the Sacred: The Anthropology of Christian Pilgrimage, John Eade và Michael J. Sallnow chủ biên (New York: Routledge, 1991), 35.
44. Cố gắng rất sớm nhằm đưa ra một thẩm định là A.Marchand, The Facts of Lourdes: And the Medical Bureau, Francis Izard dịch (London: Burns, Oates, and Wasbourne, 1924).
45. B. Pope, “Immaculate and Powerful”, 173.
46. L’Osservatore Romano, 12/10/1981.
47. Blackbourn, Marpingen, 5.
48. B.Pope, “Immaculate and Powerful”, 183-84.
49. Joseph A. Pelletier, The Sun Danced at Fatima (New York: Doubleday Image Books, 1983), 146-47.
50. John Henry Newman, “The Orthodoxy of the Body of the Faith during the Supremacy of Arianism”, Ghi chú V trong The Arians of the Fourth Century, ấn bản 3, (London, E. Lumley, 1871), 454-72.
51. Dahlberg, “The Body as a Principle of Holism” 10-11.
Thông Báo
Chương trình Lễ An táng Đức ông Philippê Trần Văn Hoài tại Roma Italia
LM Phêrô Maria Nguyễn Hữu Hiền
06:58 02/02/2010
Kính thưa Đức Hồng Y, Quý Đức Tổng Giám Mục,
Qúy Đức Cha Quý Cha, Quý Tu Sĩ Nam Nữ và Tất Cả Quý Vị,
Trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh
chúng con xin báo tin và xin mọi người cầu nguyện cho
em, anh, cậu, bác và ông của chúng con là:
Đức Ông Philipphê Trần Văn Hoài
Đã được Chúa gọi về với Ngài lúc 12g15, giờ Roma, ngày 02 tháng 2 năm 2010, tại Roma.
Thứ Hai ngày 8/2:
11g00: Nghi thức tẩm liệm tại bệnh viện Sant'Andrea, Via Grottarossa 1035-1039, Roma
17g00: Thánh lễ cầu cho linh hồn Philiphê tại Nhà nguyện Dòng các Nữ tu Đa Minh, Via Cassia 1173, Roma
Thứ Ba 9/2:
09g00: Thánh lễ an Táng tại nhà nguyện Dòng các Nữ tu Đa Minh, Via Cassia 1173, Roma
Sau thánh lễ, linh cữu sẽ được chôn tại nghĩa trang của Bộ Truyền Giáo.
Xin Qúy Đức Hồng Y, qúy Đức Cha, qúy cha và mọi người cầu nguyện cho linh hồn Philiphê
và xin Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm và đón nhận linh hồn Philiphê về với Ngài trên Thiên Đàng
Tiểu Sử
Sinh năm 1929 tại GX An Ninh, Cửa Tùng
Năm 1943: Vào TCV An Ninh:
Vào ĐCV Phú Xuân:
Năm 1951: vào ĐCV Thánh Giuse tại Saigon
Năm 1959: Thụ phong Linh mục:
Năm 1959: Phụ trách Họ Đạo Bác Vọng, Huế
Năm 1961: Giáo sư Tiểu Chủng Viện Phú Xuân, Huế
Năm 1962-1968: Giáo sư Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện, Huế
Năm 1969: Du học Roma
Tang Gia đồng bái tạ
Chị: BQP Nguyễn Hữu Mùi và các con, cháu
Cháu: Nữ Tu Maria Genovefa Nguyễn thị Liên Để
Cháu: Lm Phêrô Maria Nguyễn Hữu Hiến, Nhật Bản
Em: BQP Trần Văn Hảo và các con, cháu
Em: Bà Trần thị Tuyết Trinh, chồng, các con và các cháu
Nghĩa tử:
Lm JB. Lê Quang Quý, GP Huế
Lm Giuse Lê văn Sỹ, GP Nha Trang
Lm Giuse Nguyễn văn Chánh, GP Huế
Lm J.B. Phạm Ngọc Hiệp, GP Huế
Lm Anrê Nguyễn Văn Chiến, Florida
Văn Hóa
Truyện ngắn: Thanh Hỏa Trà, Hồng Huyết Lan
Nguyễn Trung Tây, SVD
17:46 02/02/2010
Truyện ngắn: Thanh Hỏa Trà, Hồng Huyết Lan
Chuyện kể rằng hoàng đế Quang Trung trên đường kéo quân ra Bắc diệt quân Mãn Thanh, ngài ghé vào gặp La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp hỏi về kế sách đánh giặc. Nguyễn Thiếp nói, “Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng ngạo mạn và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh, tất chiến thắng”…
Trời mấy ngày hôm nay bỗng dưng lạnh buốt. Cái giá rét cuối năm thổi về huyện La Sơn lạnh se da thịt khiến cụ Nguyễn thêm nặng giọng ho khan vào những buổi tối bên chung trà có màu nước vàng đặc như mật ong. Khoác vào người chiếc áo bông dầy màu trắng ngà ngà, cụ Nguyễn loay hoay nấu thêm bình nước nóng cho ấm trà mới. Bóng cụ cô đơn, khẳng khiu, đổ dài bên lò than hồng. Than hồng tí tách nổ văng tung tóe trong đêm đen tựa như những ngôi sao băng trên nền trời cuối năm. Miệng húng hắng ho nhưng cụ vẫn nhận ra được tiếng chân đạp trên lá khô ngoài ngõ vắng. Ngẩng đầu nhìn ra khung cửa sổ, mặt cụ tươi vui hẳn lên. Cụ Nguyễn cất tiếng chào,
— Chào cụ Nghè.
— Không dám, chào cụ.
Từ hồi tóc còn để chỏm, học lớp cụ Tú Chuyên trong làng, cụ Nghè Văn Tiên và cụ Nguyễn Thiếp đã thân với nhau. Học được với cụ Tú Chuyên mấy năm, Văn Tiên chuyển sang huyện bên cạnh theo cửa môn của cụ Nghè Thanh Hậu, một người khoa mục nổi tiếng văn hay chữ tốt không phải chỉ trong tỉnh Nghệ An mà cả vùng Bắc Hà. Năm Nhâm Tuất, năm vỡ con đê khúc sông Ðáy đổ vào sông Nhị Hà, Văn Tiên hai mươi hai tuổi đỗ thủ khoa trường Nghệ. Ba mươi tuổi Nghè Văn Tiên đỗ tiến sĩ, được bổ làm Tri Phủ quyền thụ Án Sát. Trước khi quân Ó tiến vào kinh thành Thăng Long chấm dứt cơ nghiệp 200 năm của Chúa Trịnh, viện cớ thân phụ cao tuổi, cụ Nghè Văn Tiên từ quan về lại làng. Riêng cụ Nguyễn, ngoại trừ thời gian ngồi dạy học tại nhà Ðề Lĩnh ở Thăng Long, sau mấy kỳ lận đận với thi cử, quyết định về làng mở trường dạy sách thánh hiền cho con cháu và dân chúng trong huyện La Sơn. Bởi vậy người trong huyện gọi cụ là La Sơn Phu Tử. Cụ Nguyễn và cụ Nghè nể nhau về tài học, trọng nhau về đức độ. Riêng cụ Nghè Văn Tiên kính trọng La Sơn Phu Tử về cái kiến thức thông thiên bác cổ. Có lần, trong tiệc rượu tân niên bên nhà quan huyện Hương Sơn, cụ Nghè nói,
— Thời Tam Quốc có Ngọa Long tiên sinh nằm trong nhà cỏ nhưng vẫn biết thiên hạ sẽ chia ba. Bây giờ Bắc Hà có Nguyễn tiên sin. Một đời lận đận với thi cử, không mấy khi rời bước khỏi làng, nhưng những chuyện trong thiên hạ không đâu cụ không biết. Đến là tài.
Quan huyện Hương Sơn vuốt râu khẽ góp ý,
— Nghe nói La Sơn Phu tử còn biết cả đông y nữa cơ.
Cụ Nghè Văn Tiên tiếp lời,
— Quan nói đúng. La Sơn Phu Tử chính là một vị đông y tài sánh với Hải Thượng Lãn Ông của huyện nhà. Có nhiều con bệnh hiểm nghèo, thầy thuốc chê, người nhà chuẩn bị áo quan, tìm kiếm mộ phần. Đưa đến tiên sinh, ngài cứu sống bẩy tám. Trong thời gian dạy học tại kinh đô, Phu Tử và Lãn Ông vẫn thường xuyên gặp gỡ trao đổi về đông y học. Trong thời gian chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán, có hai ba lần Hải Thượng Lãn Ông triệu mời Nguyễn tiên sinh tới Phủ Chúa chẩn mạch cho Thế Tử tại lầu Tử Các. Bởi vậy có lần Hải Thượng Lãn Ông vắng nhà, hình như vô rừng hái thuốc, trong khi đó Chúa Trịnh Khải ngã bệnh nặng. Có người chợt nhớ tới vị đông y bạn của Hải Thượng Lãn Ông. La Sơn Phu Tử lập tức được triệu mời vào kinh đô. Chỉ qua hai thang thuốc, Chúa Trịnh dần dần hồi phục. Từ đó Chúa coi tiên sinh là đại ân nhân, ăn cơm mời ngồi cùng mâm. Biết tiên sinh là người thông thiên bác cổ, Thái Thượng Hoàng và Chúa Trịnh thường xuyên mời ra kinh đô vấn kế. Nếu không có nạn quân Ó, có lẽ tiên sinh đã về lại kinh thành Thăng Long làm việc hẳn trong Phủ Chúa rồi. Có lần thân mẫu của La Sơn Phu Tử ngã bệnh. Nếu không có nhân sâm trong Phủ Chúa, e khó sống. Tiên sinh lên kinh đô diện kiến Chúa Trịnh. Chính tay Chúa Công mở cửa kho thuốc, trao một lạng nhân sâm cho tiên sinh.
Cụ Nguyễn rót nước trà mời khách, những giọt nước trà óng ánh màu mật ong,
— Mời cụ Nghè.
— Không dám. Mời cụ.
Cụ Nghè Văn Tiên đưa chung trà màu nâu đỏ nhỏ tựa hột trứng gà con so lên miệng. Uống một ngụm, cụ đặt chung trà xuống mặt bàn.
— Hương trà thơm. Mới đưa vào miệng, vị chát. Nhưng nuốt vào tới cổ họng, vị ngọt đượm quanh cần cổ. Cụ đặt mua trà này ở đâu vậy?
— Tôi có người cháu gọi bằng bác từ phía Đàng Trong gửi tặng. Người Nam Hà họ cũng có nhiều loại trà khá lạ. Tôi thoạt tiên cứ tưởng thằng cháu mua của người Minh Hương mạn Hà Tiên. Sau mới biết không phải. Trà này của người Nam Hà.
Cụ Nghè ngạc nhiên,
— Trà Nam Hà? Cụ mà không nói, chắc cứ tưởng mình đang uống trà tàu.
— Trà này người Ðàng Trong gọi là Thanh Hỏa Trà, chỉ xuất hiện trên vùng đất có chất diêm, khí hậu lạnh quanh năm. Thanh Hỏa Trà vị đắng. Màu vàng tươi, óng ánh như mật ong. Người suy nhược uống vào, thần khí trở lại bình thường. Đặc biệt Thanh Hỏa Trà ngừa và giải được độc tính của lá Hồng Huyết.
Cụ Nghè nhíu đôi chân mày,
— Cụ muốn nói đến Hồng Huyết Lan?
Cụ Nguyễn gật đầu. Cụ Nghè Văn Tiên kể chuyện,
— Ở nhà, tôi có một giò Hồng Huyết Lan do một người thân gửi biếu Tết. Người này dặn đừng tưới nước, đúng Giao Thừa Hồng Huyết Lan sẽ nở. Tôi, tôi chưa bao giờ nghe nói tới Hồng Huyết Lan.
Dừng lại nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt cụ Nghè Văn Tiên dò hỏi. Khe khẽ cười, cụ Nguyễn chậm rãi nói,
— Hồng Huyết Lan chỉ xuất hiện trên mạn ngược. Khi nở, hoa hình trái tim đỏ như máu tươi. Lá cắt nhỏ, phơi khô ba sương bốn nắng. Giã nát thành bột, bột mang tính độc dược. Hồng Huyết Lan dùng đúng liều lượng có khả năng cứu sống người bị thổ tả. Nhưng nếu đốt trên lò than, mùi thơm hơn trầm hương. Người ngửi phải khói Hồng Huyết Lan, sau ba canh giờ, thất khiếu bắt đầu ứa máu mà chết.
Đứng dậy mở cửa tủ gỗ cẩm xà cừ bóng lộn nằm dưới bàn thờ, cụ Nguyễn chỉ vào lọ thuốc màu hồng ngọc,
— Đây là Hồng Huyết Lan.
Cụ chỉ vào lọ thuốc màu bạch ngọc nằm ngay bên cạnh,
— Đây là trầm hương.
Cầm lọ bạch ngọc trên tay, cụ rắc nhẹ trầm vào lư hương bằng đồng óng ánh đặt trên mặt tủ gỗ. Nhìn khói trắng quyện tròn bốc cao, cụ Nghè nhấp một ngụm trà, miệng cười hóm hỉnh,
— Giờ này cụ có đốt trầm hương trộn Hồng Huyết Lan, tôi vẫn chưa có cơ hội dạo chơi cõi tuyền đài.
Cụ Nguyễn nhíu mày, rồi bật tung tiếng cường vui,
— Cụ nói đúng, bởi ta đang uống trà Thanh Hỏa. Nhưng cụ yên chí, lương y như từ mẫu, tôi chỉ cứu người...
Cụ Nguyễn dừng ngang tiếng cười, sát khí bỗng dưng nổi cộm dầy như mây xám vần vũ bám đen vầng trán, giọng cụ khô khốc,
— Họa may, ngoại lệ, chắc chỉ có một người...
Cụ Nghè nhíu mày nhận ra người bạn vong niên ngước mắt nhìn lên bàn thờ gia tiên. Cụ nhìn theo. Trên bàn thờ, bức hoành sơn đỏ thêu chữ Lê đại tự kim tuyến và linh bài có khắc năm chữ Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn mờ ảo trong ánh sáng chập chờn của hai ngọn nến đỏ tươi. Cụ Nghè vẻ đăm chiêu,
— Nếu vậy chắc cụ biết Hồng Huyết Lan chỉ nở vào cuối tháng Chạp, đầu tháng Giêng, hơn ba tháng hoa chưa tàn. Nhưng đặc biệt Hồng Huyết Lan sẽ không đỏ thắm màu máu nếu không có máu đổ thịt rơi!
Dừng lại, cụ dường như thì thầm,
— Tôi nghe nói nhìn Hồng Huyết Lan, biết tình hình thời cuộc. Nếu hoa nở đỏ màu máu, người ta biết nhân gian sắp sửa trải qua một cuộc binh đao.
Cụ Nghè ngưng lại, nâng cao chung trà,
— Tôi theo lời dặn, từ ngày được hoa không tưới nước. Thật là bất ngờ sáng hôm qua tự nhiên lan hé nụ. Ngạc nhiên tôi hỏi người trong nhà có ai đụng chạm tới giò lan hay không? Đứa con dâu thứ rụt rè nói cách đây hai hôm tôi đi vắng, thằng cháu tinh nghịch đổ nước tưới lan.
Một lần nữa cụ xuống giọng, thì thào nho nhỏ,
— Tôi nhìn hoa Hồng Huyết mà rùng mình, hoa hình trái tim đỏ tươi màu máu. Những nụ còn lại đang chuẩn bị hé nở, nhìn vào bên trong, màu máu đỏ tươi! Ngửi được cả mùi máu tanh nồng nặc!
Cụ Nghè dừng lại, không nói gì thêm. Cụ Nguyễn lặng thinh nhìn ra ngoài khung cửa. Bên ngoài trời tháng Chạp vẫn tối đen như mực. Cụ Nghè Văn Tiên lên tiếng đánh đổ bức tường yên lặng vây bọc chung quanh,
— Chắc cụ cũng biết tình hình Bắc Hà ngày càng rối loạn. Sau ngày Chỉnh bị Nhậm đánh đuổi, Hoàng Thượng bỏ kinh thành Thăng Long chạy sang Bắc Kinh. Cống Chỉnh bỏ đi, Văn Nhậm một mình hùng cứ đất Bắc. Bắc Hà thay đổi từ vua sang chúa, từ chúa sang công, từ công sang tướng. Nhưng, một lần nữa Huệ kéo quân Ó ra lại Bắc Hà, thế lực của võ biền Văn Nhậm tan biến. Quân Ó bỏ về lại Nam Hà, 20 vạn quân Thanh dưới quyền Lưỡng Quảng Tổng Ðốc Tôn Sĩ Nghị vượt biên giới Lạng Sơn kéo xuống kinh thành. Thời Nhậm bỏ trống Thăng Long, kéo quân về đóng tại núi Tam Ðiệp.
Cụ Nghè nhìn bạn, thở dài,
— Tôi nghe nói Hoàng Thượng lơ là việc triều đình, ngày đêm chỉ lo báo thù trả oán. Trong khi đó, hai mươi vạn lính Thanh trấn đóng kinh thành ngày đêm hà hiếp dân chúng.
Cụ Nghè đăm chiêu, lắc đầu,
— Nghĩ hoài mà vẫn không hiểu tình hình Bắc Hà rồi sẽ ra sao.
Quay sang người đối diện, cụ thở than,
— Mấy đêm rồi tôi ngủ không được, trằn trọc tới lui. Chiều nay tôi nói phải ghé vào cụ. Cụ bác học, thông thiên địa lý, chắc chắn phải có nhiều cao kiến…
Đưa chung trà thơm lên miệng, uống một ngụm nhỏ, cụ Nguyễn cười,
— Cụ Nghè hỏi thì chắc cũng phải xin góp nhặt một vài điều để hầu cụ. Nhưng, cụ đã hỏi thì tôi áng chắc trong đầu cụ cũng đã có một vài cao kiến.
Cụ Nghè lắc đầu cười xòa,
— Tôi, tôi rối bời qua đây kiếm cụ tâm sự, vấn kế, ai ngờ bị hỏi ngược lại. Nhưng thôi, đã bị hỏi thì chắc cũng phải nói.
Nhìn ra ngoài khung cửa sổ, cụ Nghè Văn Tiên trầm ngâm mơ màng. Quay vào nhìn chung trà, rồi chăm chú nhìn lên bản đồ Thăng Long dán trên vách tường chi chít những khoanh tròn màu mực đỏ những cửa ải hiểm yếu dẫn vào kinh thành, cụ Nghè chậm rãi nói,
— Từ ngày Lê Thái Tổ lên ngôi năm Mậu Thân, đất Thăng Long từ đó đến nay vẫn chưa đổi chủ, mặc dù con cháu tướng quân Trịnh Kiểm và Hữu Vệ Điện Tiền Nguyễn Kim lập hai phủ Chúa tại Thăng Long và Phú Xuân lấn áp vua Lê. Hai trăm năm rồi Trịnh Nguyễn phân chia đất nước, hùng cứ một phương. Nhưng Bắc Hà và Nam Hà trên danh nghĩa vẫn thuộc vua Lê, bởi ngai vàng của Thái Tổ vẫn còn đó. Thêm vào đó, mặc dù là dân của hai quốc gia, người Bắc và người Nam Hà đều răng nhuộm đen ăn trầu xanh. Ngày Tết, người của song Hà vẫn đốt pháo, dựng nêu, đưa ông Táo về trời, nấu bánh chưng xanh, cúng tổ tiên vào giờ Giao Thừa. Nhưng thật là bất ngờ, anh em Tây Sơn nông dân chân lấm tay bùn nổi lên từ Quy Nhơn dẹp đổ vương quyền của Chúa Nguyễn, của Trương Phúc Loan. Lần thứ nhất quân Ó vượt sông Gianh, Phủ Chúa tại kinh đô truyền nối trong vòng hai trăm năm sụp đổ. Lần thứ hai quân Ó kéo ra Thăng Long, quyền hành của Nhậm tan theo gió bụi.
Cụ Nghè Văn Tiên dừng lại, mặt trầm tư,
— Nhưng tình hình lần này hoàn toàn khác. Hai lần trước, quân Ó kéo ra kinh thành cũng chỉ đụng phải đám tàn quân kiêu binh Tam Phủ, một Văn Nhậm vô mưu. Lần này hai mươi vạn quân thiện chiến Mãn Thanh, dưới quyền điều động của danh tướng Lưỡng Quảng Tôn Tổng Ðốc, vượt biên giới Lạng Sơn. Bởi vậy tướng Tây Sơn Thời Nhậm khiếp sợ, chưa giao tranh chưa đụng trận đã cuốn cờ kéo quân Ó bỏ chạy về núi Tam Điệp.
Lắc đầu, cụ Nghè thở dài,
— Có một điều tôi không hiểu. Nghe nói Hoàng Thượng về lại kinh thành nhưng đất Bắc Hà vẫn như vô chủ, bởi từ ngày về lại Thăng Long, Hoàng Thượng ngày ngày bỏ ngai vàng, thân chinh vào tận Tây Long Cung, trại đóng binh của Lưỡng Tổng Đốc hỏi han việc quốc sự.
Cụ Nghè đăm chiêu,
— Chỉ với cụ tôi mới dám thổ lộ điều tâm huyết.
Cụ Nghè ngần ngừ,
— Một phần tôi mong Hoàng Thượng mau chóng khôi phục ngai vàng, phủ Chúa được lập lại. Nhưng nhìn vào Thăng Long với hai mươi vạn quân thiện chiến rợp bóng kinh thành, tự nhiên, thật tình mà nói…
Cụ Nghè giọng nhỏ lại, gần như thì thầm,
— Tôi lại nghĩ tới quân Ó…
Bên ngoài tối đen. Một vài tiếng pháo chuột nổ đì đùng xa xa. Than hồng bám tro tàn ngủ quên trong lò. Bóng của hai người lu mờ câm lặng trên vách tường nhà. Trống điểm canh buồn rầu vang dội đêm đen. Giờ này giờ Hợi.
oOo
Tiễn bước người bạn vong niên ra khỏi cửa ngõ, cụ Nguyễn quay vào nhà. Tiếng chó sủa vang đầu ngõ khiến cụ nhíu mày ngạc nhiên, bầy chó trong nhà không lạ gì cụ Nghè Văn Tiên. Bước vào căn phòng khách, cụ giật mình. Trong làn ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn dầu, cụ Nguyễn nhận ra một người lạ mặt mặc quần áo dạ hành đen tuyền bó sát người, lưng quay lại cánh cửa, mặt hướng lên bàn thờ nhìn bức hoành sơn đỏ thêu chữ Lê đại tự kim tuyến và linh bài có khắc chữ Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn. Biết cụ bước vào, người lạ mặt chậm rãi xoay ngang, cất tiếng chào, âm giọng trầm, tiếng ngân vang,
— Kính chào Nguyễn tiên sinh.
Cụ Nguyễn khơi cao ngọn đèn, người lạ mặt hiện ra rõ từng nét. Dáng cao, hai bờ vai rộng, nước da đen sậm, mắt sáng long lanh trong đêm tối. Giọng người khách nghe lạ không phải của Bắc Hà,
— Xin lỗi, tôi ghé nhà hơi đường đột. Nghe danh La Sơn Phu Tử nổi tiếng một vùng. Đã hai lần có công chuyện đi ngang qua, tôi đều muốn ghé vào thăm hỏi. Nhưng cả hai lần đều lỡ dịp. Nay tôi quyết định gác qua mọi chuyện, ghé vào thăm hỏi tiên sinh, sau có một vài tâm ý muốn xin được chỉ giáo.
Cụ Nguyễn giơ tay,
— Mời đại nhân.
Người khách ngồi xuống. Cụ Nguyễn đưa tay nhấc ấm trà, ấm trà nhẹ tênh. Nhìn quanh, cụ lưỡng lự đứng dậy, rồi lại ngồi xuống nhìn người đối diện. Người khách lạ nhìn lên bàn thờ, rồi lại nhìn quanh căn phòng khách, ánh mắt dừng lại nơi có bản đồ kinh thành Thăng Long được đánh dấu với chi chít những khoanh tròn màu mực đỏ những cửa ải chiến lược. Nhìn theo người khách, cụ Nguyễn nhíu mày, cất giọng khô khốc,
— Cám ơn cho những lời quá khen. Lần trước ngài ra Bắc chấm dứt cơ nghiệp trăm năm của Chúa Trịnh, lần thứ hai ngài lại ra Bắc Hà bắt sống Vũ văn Nhậm, đã hai lần đại nhân đi ngang qua đây, cả hai lần tôi đều lỡ dịp được hầu tiếp ngài.
Cụ Nguyễn đứng dậy, cổ bật ra những tiếng ho khan,
— Xin lỗi đại nhân. Trời cuối năm lạnh se da thịt. Tôi thì lại đã có tuổi. Mấy năm nay thường hay đau yếu…
Cụ Nguyễn hạ khung cửa sổ xuống. Chậm rãi quay lại tủ gỗ cẩm xà cừ, cụ lấy ra lọ thuốc hồng ngọc Hồng Huyết Lan. Mở nắp lư hương, cụ Nguyễn rắc nhè nhẹ hương trầm Hồng Huyết Lan lên than hồng. Đụng lửa, khói trắng bốc cao tỏa hương thơm ngào ngạt dầy đặc không gian nhỏ bé của căn phòng khách. Cụ Nguyễn bỏ về ghế, ngồi xuống. Người khách lạ nhìn cụ Nguyễn, khẽ cười, bắt đầu nói,
— Tôi xuất thân từ chốn quê mùa, ngưu ẩm, không biết đốt hương trầm, không biết gẩy đàn, không biết nhiều chữ thánh hiền, nhưng cũng được một vài dịp đi tới lui. Tôi nhớ có nhiều lần ghé vào kinh thành, gặp người Mãn Châu. Người Thanh cụ biết thuộc phương Bắc, to cao lực lưỡng, lấn chiếm xuống Trung Nguyên chấm dứt nhà Minh. Tới thời Khang Hy, tiêu diệt Thiên Địa Hội, chấn chỉnh lại nhà Đại Thanh. Tới thời Càn Long, hùng khí vươn cao.
Người khách lạ dừng lại, giọng trầm buồn,
— Từ bao lâu nay phương Bắc vẫn ỷ lớn coi thường người phương Nam. Người nước Nam, rất tiếc, thời của Lý Đại Tướng với Bắc đánh Tống Nam bình Chiêm, thời của Trần Đại Tướng chỉ sông Hóa thề không trở về nếu không dẹp tan giặc Mông Cổ, thời của Lê Thái Tổ mười năm nằm gai nếm mật tại Lam Sơn đã qua. Hai trăm năm rồi, hai phủ Chúa dùng danh hiệu Thái Tổ hiệu lệnh thiên hạ. Hai trăm năm rồi, Bắc Hà và Nam Hà đoạn giao, coi nhau là thù địch. Người Bắc Hà coi người nằm sau dòng sông Gianh là ngoại tộc, man di mọi rợ. Người Nam Hà coi người nằm trên dòng sông Gianh là hủ nho, cổ hũ, không thức thời. Cũng là người Việt, thế mà anh em trong nhà quay sang chống đối, hận thù, giết nhau, gây ra bẩy lần cảnh nồi da xáo thịt.
Nhìn ấm trà nguội lạnh nằm giữa bàn, người khách lạ yên lặng trong giây phút, rồi lại tiếp tục,
— Tôi nhớ có lần ra tới Thăng Long, đi ngang qua chợ tôi gặp những người Mãn Châu đầu thắt bím, quần áo xuề xòa, dáng vẻ thương buôn, dạo chơi kinh thành. Vừa đi họ vừa nhổ xoèn xoẹt xuống mặt đường. Những người này tới đâu, dân Thăng Long nhìn theo với ánh mắt sợ hãi, chiêm ngưỡng. Có hai ba người học trò, và cả những người con gái nhoẻn miệng cười duyên dáng, mở miệng bập bẹ một vài tiếng Mãn Châu với người Thanh. Nhưng người Mãn Châu nói tiếng Hán, tủm tỉm cười với nhau, không thèm trả lời, bỏ đi thẳng một nước.
Người khách lạ mặt lạnh như tiền,
— Về phòng trọ, tối hôm đó tôi trằn trọc cả đêm.
Tiếp tục nhìn ấm trà nguội lạnh nằm giữa bàn, người khách lạ cười khẩy,
— Có một thời tiên sinh ở kinh thành, tôi tin ngài cũng đã nhìn thấy hàng tơ lụa của người phương Bắc tràn ngập Thăng Long. Người Bắc Hà ghé vào xem, trầm trồ khen ngợi. Bắc Hà cũng như Nam Hà, người ta hát nhạc Mãn Châu. Gần đây tôi thấy có người bắt đầu cạo đầu thắt bím, mặc quần áo Mãn Châu. Dân kinh thành đua nhau học tiếng Mãn. Người người đọc sách nhà Thanh.
Nhìn khung cửa sổ đóng kín rồi nhìn khói của hương trầm thơm ngát trong bầu không khí, người khách tiếp tục,
— Có hai ba lần, tôi gặp những người tuổi trẻ của Bắc Hà và cả Nam Hà. Tôi hỏi họ về Gia Huấn Ca của Vương Hầu Nguyễn Trãi, không mấy người biết. Tôi hỏi họ về sự tích Trầu Cau, chẳng ai hay. Tôi kể chuyện tổ tiên Hùng Vương Mười Tám đời, họ tưởng đó là chuyện của ai. Chuyện tích về nguồn gốc dân tộc, người tuổi trẻ của song Hà đều không hay không biết. Nhưng hỏi họ về nguồn gốc của người Thanh, của nhà Minh, của nhà Hán, hay của thời Ðường không ai không biết. Thơ Lý Bạch, thơ Thôi Hộ, người tuổi trẻ của song Hà đều thuộc nằm lòng. Tôi ngạc nhiên, nhói đau.
Người khách lạ dừng lại nhìn người đối diện,
— Tôi nhớ hai ba lần ghé qua bên Xiêm. Xiêm La theo chế độ cưỡng bách giáo dục, tất cả trẻ em đều phải cắp sách đến trường. Mười tám tuổi, thanh niên vô chùa tu học hai năm. Chùa chiền và trường học xuất hiện khắp nơi trong nước. Cứ khoảng một dãy phố lại thấy một sân trường và một cảnh chùa. Ghé vào những khu vực san sát nhà cửa, lâu đài mọc cao như nấm, ngựa xe tấp nập trong kinh thành Vọng Các, tôi ngạc nhiên nhận ra đó là khu vực của người Đại Việt. Hỏi ra mới biết những người này trước đó ở bên nước ta họ không có một tấc đất để cắm dùi. Nhưng một lần bỏ quê cha đất tổ, đời sống họ thay đổi. Họ trắng da thắm thịt. Tôi cũng gặp rất nhiều thanh niên của Bắc Hà và Nam Hà thông minh tráng kiện làm việc trong triều đình vua Xiêm. Nhìn họ cao lớn, tưởng người Xiêm. Có người dậy học cho những hoàng tử Xiêm. Hỏi chuyện tôi mới biết khi còn ở bên nước Nam ta, họ là những trẻ mục đồng, không biết mặt chữ nhất. Tôi bàng hoàng không tin vào con mắt của mình trừng trừng mở lớn.
Người khách lạ khẽ thở dài, nhìn lên hoành sơn có chữ Lê,
— Tôi vẫn còn nhớ vào thời Ức Trai tiên sinh, ngài viết trong bản Bình Ngô Đại Cáo, “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”. Chuyện thời Ức Trai, thời của Lê Thái Tổ, chuyện lâu rồi mà cũng còn như mới. Thời của mười năm liền đất nước Văn Lang mở ngõ cho giặc Minh phá bỏ. Thời của người nước Nam bị đày xuống biển mò ngọc trai, lên rừng kiếm ngà voi cho giặc Minh. Hào khí của người Lạc Việt xuống thấp. Nhiều người bỏ sang Vạn Tượng, Nam Vang, Vọng Các sống một đời tha hương. Nhờ vượng khí nước Nam, nhà Lê nổi lên từ Lam Sơn với mười năm nằm gai nếm mật. Cuối cùng Liễu Thăng đầu rụng tại Chi Lăng, Vương Thông đầu hàng tại Đông Quan. Kinh thành Thăng Long vươn mình bước vào vận hội mới.
Dừng lại trong một thoáng, đôi mắt người khách lạ long lanh màu của lửa,
— Bây giờ Càn Long dựa vào Hoàng tôn Lê Duy Kỳ, sai Tôn Sĩ Nghị đưa hai mươi vạn quân tiến vào Thăng Long. Kinh thành hiện giờ đang ngập bóng người thắt bím. Hoàng tôn Lê Duy Kỳ xưng làm vua, làm cha mẹ của dân. Nhưng thay vì lo đến tương lai của con cái, chỉ vì tư lợi riêng tư, Chiêu Thống dám hy sinh vận mạng của cả một đất nước, của một dân tộc, cõng rắn cắn gà nhà, tạo thêm một cơ hội ngàn vàng cho ngoại bang dầy xéo người nước Nam ta.
Nhìn thẳng vào người đối diện, người khách lạ nói chậm nhưng rõ,
— Tiên sinh là người thông thiên bác học của Bắc Hà. Xin được tiên sinh chỉ giáo cho những điều tâm huyết mà tôi vừa trình bày…
Bên ngoài gió lạnh cuối năm buồn rầu than thở qua khe hở của khung cửa. Trong chiếc áo bông dầy cộm, cụ Nguyễn yên lặng cúi nhìn đất đen, không nói chi. Gió lạnh tiếp tục xào xạc bên ngoài khung cửa, cụ Nguyễn nhìn lên làn khói trắng thơm ngào ngạt quyện bay trong bầu không khí. Cụ nghĩ ngợi. Cụ đứng dậy mở toang khung cửa sổ liếp tre. Gió lạnh ngập tràn bầu không khí thơm ngát trầm hương Hồng Huyết Lan. Sương lạnh bên ngoài thổi hắt vào mặt bật ra những tiếng ho húng hắng nơi cổ họng của cụ Nguyễn. Người khách lạ nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt thoáng ngạc nhiên. Cụ Nguyễn miệng húng hắng ho,
— Xin lỗi đại nhân! Tôi lỡ tay đốt nhiều trầm quá, khói bay xông xốc vào cổ họng, ngứa ran cả cổ, muốn ho. Mở cửa sổ ra thì tốt hơn. Sương có lạnh một chút nhưng không khí trong lành không vương khói trầm hương.
Chậm rãi bước tới tủ gỗ cẩm xà, cụ Nguyễn cất giọng thân tình,
— Tôi có một loại trà quý của Nam Hà. Những lúc tối trời giá lạnh, hay pha uống. Trà đặc sánh màu vàng tương tự mật ong. Uống vào, vị đắng, nhưng xuống tới cổ đổi sang dịu ngọt. Trong trà có linh dược giúp người bệnh hồi phục nhanh chóng không kém gì nhân sâm.
Người khách lạ cười,
— Cụ muốn nói tới Thanh Hỏa Trà được trồng trên vùng cao nguyên đất đỏ, khí hậu quanh năm sương mù giá rét của Nam Hà?
— Ðúng, Thanh Hỏa Trà của người nước Nam. Ngài vó ngựa vạn dậm từ Nam Hà kéo tới đây. Chắc là mệt mỏi lắm rồi. Mời ngài chung ẩm với tôi một ấm trà nóng…
Cụ Nguyễn đặt chung trà nhỏ màu nâu đỏ trước mặt người khách lạ. Cụ Nguyễn cất giọng,
— Kính mời ngài.
Một vài tiếng pháo cối nổ vang dội đêm đen. Bóng của cả hai người một già một trẻ lung linh nhảy múa trên vách tường nhà. Than hồng cháy đỏ tươi vui tiếp tục tí tách trong đêm đen. Trời đã khuya lắm rồi. Trống điểm sang canh, giờ này giờ Tý. Lắng nghe tiếng pháo nổ xa xa, lắng nghe tiếng mõ điểm canh, người khách lạ cất tiếng hỏi,
— Nay quân Mãn Thanh kéo quân sang đây, thế giặc mạnh như chém sắt chẻ tre. Thầy, thầy nghĩ chúng ta phải làm sao?
Cụ Nguyễn đứng lên, ngón tay chỉ vào bản đồ kinh thành Thăng Long dán trên vách tường,
— Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh tất chiến thắng…
oOo
Mùa Xuân Nhâm Tý 1792, trong khi đang tiến đánh Nguyễn Ánh tại thành Gia Định, vua Quang Trung tự dưng quỵ ngã, rồi dần dần thiếp đi trong hôn mê, sau cùng băng hà tại điện Trung Hòa vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý, thọ bốn mươi tuổi, ở ngôi hoàng đế được năm năm. Không ai rõ lý do và nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của đại hoàng đế nước Nam. Có người suy đoán nói hoàng đế Quang Trung, do làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều, bị cao huyết áp, đứt mạch máu não mà chết. Có người nghi vấn đặt vấn đề có thể hoàng đế bị đầu độc hoặc đã từng bị đầu độc trong quá khứ. Nếu đúng là như vậy, ai là người có khả năng đến gần long thể để đầu độc được hoàng đế nước Nam?
www.nguyentrungtay.com
Hồng Huyết Lan, Ảnh NTT |
Chuyện kể rằng hoàng đế Quang Trung trên đường kéo quân ra Bắc diệt quân Mãn Thanh, ngài ghé vào gặp La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp hỏi về kế sách đánh giặc. Nguyễn Thiếp nói, “Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng ngạo mạn và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh, tất chiến thắng”…
Trời mấy ngày hôm nay bỗng dưng lạnh buốt. Cái giá rét cuối năm thổi về huyện La Sơn lạnh se da thịt khiến cụ Nguyễn thêm nặng giọng ho khan vào những buổi tối bên chung trà có màu nước vàng đặc như mật ong. Khoác vào người chiếc áo bông dầy màu trắng ngà ngà, cụ Nguyễn loay hoay nấu thêm bình nước nóng cho ấm trà mới. Bóng cụ cô đơn, khẳng khiu, đổ dài bên lò than hồng. Than hồng tí tách nổ văng tung tóe trong đêm đen tựa như những ngôi sao băng trên nền trời cuối năm. Miệng húng hắng ho nhưng cụ vẫn nhận ra được tiếng chân đạp trên lá khô ngoài ngõ vắng. Ngẩng đầu nhìn ra khung cửa sổ, mặt cụ tươi vui hẳn lên. Cụ Nguyễn cất tiếng chào,
— Chào cụ Nghè.
— Không dám, chào cụ.
Từ hồi tóc còn để chỏm, học lớp cụ Tú Chuyên trong làng, cụ Nghè Văn Tiên và cụ Nguyễn Thiếp đã thân với nhau. Học được với cụ Tú Chuyên mấy năm, Văn Tiên chuyển sang huyện bên cạnh theo cửa môn của cụ Nghè Thanh Hậu, một người khoa mục nổi tiếng văn hay chữ tốt không phải chỉ trong tỉnh Nghệ An mà cả vùng Bắc Hà. Năm Nhâm Tuất, năm vỡ con đê khúc sông Ðáy đổ vào sông Nhị Hà, Văn Tiên hai mươi hai tuổi đỗ thủ khoa trường Nghệ. Ba mươi tuổi Nghè Văn Tiên đỗ tiến sĩ, được bổ làm Tri Phủ quyền thụ Án Sát. Trước khi quân Ó tiến vào kinh thành Thăng Long chấm dứt cơ nghiệp 200 năm của Chúa Trịnh, viện cớ thân phụ cao tuổi, cụ Nghè Văn Tiên từ quan về lại làng. Riêng cụ Nguyễn, ngoại trừ thời gian ngồi dạy học tại nhà Ðề Lĩnh ở Thăng Long, sau mấy kỳ lận đận với thi cử, quyết định về làng mở trường dạy sách thánh hiền cho con cháu và dân chúng trong huyện La Sơn. Bởi vậy người trong huyện gọi cụ là La Sơn Phu Tử. Cụ Nguyễn và cụ Nghè nể nhau về tài học, trọng nhau về đức độ. Riêng cụ Nghè Văn Tiên kính trọng La Sơn Phu Tử về cái kiến thức thông thiên bác cổ. Có lần, trong tiệc rượu tân niên bên nhà quan huyện Hương Sơn, cụ Nghè nói,
— Thời Tam Quốc có Ngọa Long tiên sinh nằm trong nhà cỏ nhưng vẫn biết thiên hạ sẽ chia ba. Bây giờ Bắc Hà có Nguyễn tiên sin. Một đời lận đận với thi cử, không mấy khi rời bước khỏi làng, nhưng những chuyện trong thiên hạ không đâu cụ không biết. Đến là tài.
Quan huyện Hương Sơn vuốt râu khẽ góp ý,
— Nghe nói La Sơn Phu tử còn biết cả đông y nữa cơ.
Cụ Nghè Văn Tiên tiếp lời,
— Quan nói đúng. La Sơn Phu Tử chính là một vị đông y tài sánh với Hải Thượng Lãn Ông của huyện nhà. Có nhiều con bệnh hiểm nghèo, thầy thuốc chê, người nhà chuẩn bị áo quan, tìm kiếm mộ phần. Đưa đến tiên sinh, ngài cứu sống bẩy tám. Trong thời gian dạy học tại kinh đô, Phu Tử và Lãn Ông vẫn thường xuyên gặp gỡ trao đổi về đông y học. Trong thời gian chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán, có hai ba lần Hải Thượng Lãn Ông triệu mời Nguyễn tiên sinh tới Phủ Chúa chẩn mạch cho Thế Tử tại lầu Tử Các. Bởi vậy có lần Hải Thượng Lãn Ông vắng nhà, hình như vô rừng hái thuốc, trong khi đó Chúa Trịnh Khải ngã bệnh nặng. Có người chợt nhớ tới vị đông y bạn của Hải Thượng Lãn Ông. La Sơn Phu Tử lập tức được triệu mời vào kinh đô. Chỉ qua hai thang thuốc, Chúa Trịnh dần dần hồi phục. Từ đó Chúa coi tiên sinh là đại ân nhân, ăn cơm mời ngồi cùng mâm. Biết tiên sinh là người thông thiên bác cổ, Thái Thượng Hoàng và Chúa Trịnh thường xuyên mời ra kinh đô vấn kế. Nếu không có nạn quân Ó, có lẽ tiên sinh đã về lại kinh thành Thăng Long làm việc hẳn trong Phủ Chúa rồi. Có lần thân mẫu của La Sơn Phu Tử ngã bệnh. Nếu không có nhân sâm trong Phủ Chúa, e khó sống. Tiên sinh lên kinh đô diện kiến Chúa Trịnh. Chính tay Chúa Công mở cửa kho thuốc, trao một lạng nhân sâm cho tiên sinh.
Cụ Nguyễn rót nước trà mời khách, những giọt nước trà óng ánh màu mật ong,
— Mời cụ Nghè.
— Không dám. Mời cụ.
Cụ Nghè Văn Tiên đưa chung trà màu nâu đỏ nhỏ tựa hột trứng gà con so lên miệng. Uống một ngụm, cụ đặt chung trà xuống mặt bàn.
— Hương trà thơm. Mới đưa vào miệng, vị chát. Nhưng nuốt vào tới cổ họng, vị ngọt đượm quanh cần cổ. Cụ đặt mua trà này ở đâu vậy?
— Tôi có người cháu gọi bằng bác từ phía Đàng Trong gửi tặng. Người Nam Hà họ cũng có nhiều loại trà khá lạ. Tôi thoạt tiên cứ tưởng thằng cháu mua của người Minh Hương mạn Hà Tiên. Sau mới biết không phải. Trà này của người Nam Hà.
Cụ Nghè ngạc nhiên,
— Trà Nam Hà? Cụ mà không nói, chắc cứ tưởng mình đang uống trà tàu.
— Trà này người Ðàng Trong gọi là Thanh Hỏa Trà, chỉ xuất hiện trên vùng đất có chất diêm, khí hậu lạnh quanh năm. Thanh Hỏa Trà vị đắng. Màu vàng tươi, óng ánh như mật ong. Người suy nhược uống vào, thần khí trở lại bình thường. Đặc biệt Thanh Hỏa Trà ngừa và giải được độc tính của lá Hồng Huyết.
Cụ Nghè nhíu đôi chân mày,
— Cụ muốn nói đến Hồng Huyết Lan?
Cụ Nguyễn gật đầu. Cụ Nghè Văn Tiên kể chuyện,
— Ở nhà, tôi có một giò Hồng Huyết Lan do một người thân gửi biếu Tết. Người này dặn đừng tưới nước, đúng Giao Thừa Hồng Huyết Lan sẽ nở. Tôi, tôi chưa bao giờ nghe nói tới Hồng Huyết Lan.
Dừng lại nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt cụ Nghè Văn Tiên dò hỏi. Khe khẽ cười, cụ Nguyễn chậm rãi nói,
— Hồng Huyết Lan chỉ xuất hiện trên mạn ngược. Khi nở, hoa hình trái tim đỏ như máu tươi. Lá cắt nhỏ, phơi khô ba sương bốn nắng. Giã nát thành bột, bột mang tính độc dược. Hồng Huyết Lan dùng đúng liều lượng có khả năng cứu sống người bị thổ tả. Nhưng nếu đốt trên lò than, mùi thơm hơn trầm hương. Người ngửi phải khói Hồng Huyết Lan, sau ba canh giờ, thất khiếu bắt đầu ứa máu mà chết.
Đứng dậy mở cửa tủ gỗ cẩm xà cừ bóng lộn nằm dưới bàn thờ, cụ Nguyễn chỉ vào lọ thuốc màu hồng ngọc,
— Đây là Hồng Huyết Lan.
Cụ chỉ vào lọ thuốc màu bạch ngọc nằm ngay bên cạnh,
— Đây là trầm hương.
Cầm lọ bạch ngọc trên tay, cụ rắc nhẹ trầm vào lư hương bằng đồng óng ánh đặt trên mặt tủ gỗ. Nhìn khói trắng quyện tròn bốc cao, cụ Nghè nhấp một ngụm trà, miệng cười hóm hỉnh,
— Giờ này cụ có đốt trầm hương trộn Hồng Huyết Lan, tôi vẫn chưa có cơ hội dạo chơi cõi tuyền đài.
Cụ Nguyễn nhíu mày, rồi bật tung tiếng cường vui,
— Cụ nói đúng, bởi ta đang uống trà Thanh Hỏa. Nhưng cụ yên chí, lương y như từ mẫu, tôi chỉ cứu người...
Cụ Nguyễn dừng ngang tiếng cười, sát khí bỗng dưng nổi cộm dầy như mây xám vần vũ bám đen vầng trán, giọng cụ khô khốc,
— Họa may, ngoại lệ, chắc chỉ có một người...
Cụ Nghè nhíu mày nhận ra người bạn vong niên ngước mắt nhìn lên bàn thờ gia tiên. Cụ nhìn theo. Trên bàn thờ, bức hoành sơn đỏ thêu chữ Lê đại tự kim tuyến và linh bài có khắc năm chữ Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn mờ ảo trong ánh sáng chập chờn của hai ngọn nến đỏ tươi. Cụ Nghè vẻ đăm chiêu,
— Nếu vậy chắc cụ biết Hồng Huyết Lan chỉ nở vào cuối tháng Chạp, đầu tháng Giêng, hơn ba tháng hoa chưa tàn. Nhưng đặc biệt Hồng Huyết Lan sẽ không đỏ thắm màu máu nếu không có máu đổ thịt rơi!
Dừng lại, cụ dường như thì thầm,
— Tôi nghe nói nhìn Hồng Huyết Lan, biết tình hình thời cuộc. Nếu hoa nở đỏ màu máu, người ta biết nhân gian sắp sửa trải qua một cuộc binh đao.
Cụ Nghè ngưng lại, nâng cao chung trà,
— Tôi theo lời dặn, từ ngày được hoa không tưới nước. Thật là bất ngờ sáng hôm qua tự nhiên lan hé nụ. Ngạc nhiên tôi hỏi người trong nhà có ai đụng chạm tới giò lan hay không? Đứa con dâu thứ rụt rè nói cách đây hai hôm tôi đi vắng, thằng cháu tinh nghịch đổ nước tưới lan.
Một lần nữa cụ xuống giọng, thì thào nho nhỏ,
— Tôi nhìn hoa Hồng Huyết mà rùng mình, hoa hình trái tim đỏ tươi màu máu. Những nụ còn lại đang chuẩn bị hé nở, nhìn vào bên trong, màu máu đỏ tươi! Ngửi được cả mùi máu tanh nồng nặc!
Cụ Nghè dừng lại, không nói gì thêm. Cụ Nguyễn lặng thinh nhìn ra ngoài khung cửa. Bên ngoài trời tháng Chạp vẫn tối đen như mực. Cụ Nghè Văn Tiên lên tiếng đánh đổ bức tường yên lặng vây bọc chung quanh,
— Chắc cụ cũng biết tình hình Bắc Hà ngày càng rối loạn. Sau ngày Chỉnh bị Nhậm đánh đuổi, Hoàng Thượng bỏ kinh thành Thăng Long chạy sang Bắc Kinh. Cống Chỉnh bỏ đi, Văn Nhậm một mình hùng cứ đất Bắc. Bắc Hà thay đổi từ vua sang chúa, từ chúa sang công, từ công sang tướng. Nhưng, một lần nữa Huệ kéo quân Ó ra lại Bắc Hà, thế lực của võ biền Văn Nhậm tan biến. Quân Ó bỏ về lại Nam Hà, 20 vạn quân Thanh dưới quyền Lưỡng Quảng Tổng Ðốc Tôn Sĩ Nghị vượt biên giới Lạng Sơn kéo xuống kinh thành. Thời Nhậm bỏ trống Thăng Long, kéo quân về đóng tại núi Tam Ðiệp.
Cụ Nghè nhìn bạn, thở dài,
— Tôi nghe nói Hoàng Thượng lơ là việc triều đình, ngày đêm chỉ lo báo thù trả oán. Trong khi đó, hai mươi vạn lính Thanh trấn đóng kinh thành ngày đêm hà hiếp dân chúng.
Cụ Nghè đăm chiêu, lắc đầu,
— Nghĩ hoài mà vẫn không hiểu tình hình Bắc Hà rồi sẽ ra sao.
Quay sang người đối diện, cụ thở than,
— Mấy đêm rồi tôi ngủ không được, trằn trọc tới lui. Chiều nay tôi nói phải ghé vào cụ. Cụ bác học, thông thiên địa lý, chắc chắn phải có nhiều cao kiến…
Đưa chung trà thơm lên miệng, uống một ngụm nhỏ, cụ Nguyễn cười,
— Cụ Nghè hỏi thì chắc cũng phải xin góp nhặt một vài điều để hầu cụ. Nhưng, cụ đã hỏi thì tôi áng chắc trong đầu cụ cũng đã có một vài cao kiến.
Cụ Nghè lắc đầu cười xòa,
— Tôi, tôi rối bời qua đây kiếm cụ tâm sự, vấn kế, ai ngờ bị hỏi ngược lại. Nhưng thôi, đã bị hỏi thì chắc cũng phải nói.
Nhìn ra ngoài khung cửa sổ, cụ Nghè Văn Tiên trầm ngâm mơ màng. Quay vào nhìn chung trà, rồi chăm chú nhìn lên bản đồ Thăng Long dán trên vách tường chi chít những khoanh tròn màu mực đỏ những cửa ải hiểm yếu dẫn vào kinh thành, cụ Nghè chậm rãi nói,
— Từ ngày Lê Thái Tổ lên ngôi năm Mậu Thân, đất Thăng Long từ đó đến nay vẫn chưa đổi chủ, mặc dù con cháu tướng quân Trịnh Kiểm và Hữu Vệ Điện Tiền Nguyễn Kim lập hai phủ Chúa tại Thăng Long và Phú Xuân lấn áp vua Lê. Hai trăm năm rồi Trịnh Nguyễn phân chia đất nước, hùng cứ một phương. Nhưng Bắc Hà và Nam Hà trên danh nghĩa vẫn thuộc vua Lê, bởi ngai vàng của Thái Tổ vẫn còn đó. Thêm vào đó, mặc dù là dân của hai quốc gia, người Bắc và người Nam Hà đều răng nhuộm đen ăn trầu xanh. Ngày Tết, người của song Hà vẫn đốt pháo, dựng nêu, đưa ông Táo về trời, nấu bánh chưng xanh, cúng tổ tiên vào giờ Giao Thừa. Nhưng thật là bất ngờ, anh em Tây Sơn nông dân chân lấm tay bùn nổi lên từ Quy Nhơn dẹp đổ vương quyền của Chúa Nguyễn, của Trương Phúc Loan. Lần thứ nhất quân Ó vượt sông Gianh, Phủ Chúa tại kinh đô truyền nối trong vòng hai trăm năm sụp đổ. Lần thứ hai quân Ó kéo ra Thăng Long, quyền hành của Nhậm tan theo gió bụi.
Cụ Nghè Văn Tiên dừng lại, mặt trầm tư,
— Nhưng tình hình lần này hoàn toàn khác. Hai lần trước, quân Ó kéo ra kinh thành cũng chỉ đụng phải đám tàn quân kiêu binh Tam Phủ, một Văn Nhậm vô mưu. Lần này hai mươi vạn quân thiện chiến Mãn Thanh, dưới quyền điều động của danh tướng Lưỡng Quảng Tôn Tổng Ðốc, vượt biên giới Lạng Sơn. Bởi vậy tướng Tây Sơn Thời Nhậm khiếp sợ, chưa giao tranh chưa đụng trận đã cuốn cờ kéo quân Ó bỏ chạy về núi Tam Điệp.
Lắc đầu, cụ Nghè thở dài,
— Có một điều tôi không hiểu. Nghe nói Hoàng Thượng về lại kinh thành nhưng đất Bắc Hà vẫn như vô chủ, bởi từ ngày về lại Thăng Long, Hoàng Thượng ngày ngày bỏ ngai vàng, thân chinh vào tận Tây Long Cung, trại đóng binh của Lưỡng Tổng Đốc hỏi han việc quốc sự.
Cụ Nghè đăm chiêu,
— Chỉ với cụ tôi mới dám thổ lộ điều tâm huyết.
Cụ Nghè ngần ngừ,
— Một phần tôi mong Hoàng Thượng mau chóng khôi phục ngai vàng, phủ Chúa được lập lại. Nhưng nhìn vào Thăng Long với hai mươi vạn quân thiện chiến rợp bóng kinh thành, tự nhiên, thật tình mà nói…
Cụ Nghè giọng nhỏ lại, gần như thì thầm,
— Tôi lại nghĩ tới quân Ó…
Bên ngoài tối đen. Một vài tiếng pháo chuột nổ đì đùng xa xa. Than hồng bám tro tàn ngủ quên trong lò. Bóng của hai người lu mờ câm lặng trên vách tường nhà. Trống điểm canh buồn rầu vang dội đêm đen. Giờ này giờ Hợi.
Tiễn bước người bạn vong niên ra khỏi cửa ngõ, cụ Nguyễn quay vào nhà. Tiếng chó sủa vang đầu ngõ khiến cụ nhíu mày ngạc nhiên, bầy chó trong nhà không lạ gì cụ Nghè Văn Tiên. Bước vào căn phòng khách, cụ giật mình. Trong làn ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn dầu, cụ Nguyễn nhận ra một người lạ mặt mặc quần áo dạ hành đen tuyền bó sát người, lưng quay lại cánh cửa, mặt hướng lên bàn thờ nhìn bức hoành sơn đỏ thêu chữ Lê đại tự kim tuyến và linh bài có khắc chữ Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn. Biết cụ bước vào, người lạ mặt chậm rãi xoay ngang, cất tiếng chào, âm giọng trầm, tiếng ngân vang,
— Kính chào Nguyễn tiên sinh.
Cụ Nguyễn khơi cao ngọn đèn, người lạ mặt hiện ra rõ từng nét. Dáng cao, hai bờ vai rộng, nước da đen sậm, mắt sáng long lanh trong đêm tối. Giọng người khách nghe lạ không phải của Bắc Hà,
— Xin lỗi, tôi ghé nhà hơi đường đột. Nghe danh La Sơn Phu Tử nổi tiếng một vùng. Đã hai lần có công chuyện đi ngang qua, tôi đều muốn ghé vào thăm hỏi. Nhưng cả hai lần đều lỡ dịp. Nay tôi quyết định gác qua mọi chuyện, ghé vào thăm hỏi tiên sinh, sau có một vài tâm ý muốn xin được chỉ giáo.
Cụ Nguyễn giơ tay,
— Mời đại nhân.
Người khách ngồi xuống. Cụ Nguyễn đưa tay nhấc ấm trà, ấm trà nhẹ tênh. Nhìn quanh, cụ lưỡng lự đứng dậy, rồi lại ngồi xuống nhìn người đối diện. Người khách lạ nhìn lên bàn thờ, rồi lại nhìn quanh căn phòng khách, ánh mắt dừng lại nơi có bản đồ kinh thành Thăng Long được đánh dấu với chi chít những khoanh tròn màu mực đỏ những cửa ải chiến lược. Nhìn theo người khách, cụ Nguyễn nhíu mày, cất giọng khô khốc,
— Cám ơn cho những lời quá khen. Lần trước ngài ra Bắc chấm dứt cơ nghiệp trăm năm của Chúa Trịnh, lần thứ hai ngài lại ra Bắc Hà bắt sống Vũ văn Nhậm, đã hai lần đại nhân đi ngang qua đây, cả hai lần tôi đều lỡ dịp được hầu tiếp ngài.
Cụ Nguyễn đứng dậy, cổ bật ra những tiếng ho khan,
— Xin lỗi đại nhân. Trời cuối năm lạnh se da thịt. Tôi thì lại đã có tuổi. Mấy năm nay thường hay đau yếu…
Cụ Nguyễn hạ khung cửa sổ xuống. Chậm rãi quay lại tủ gỗ cẩm xà cừ, cụ lấy ra lọ thuốc hồng ngọc Hồng Huyết Lan. Mở nắp lư hương, cụ Nguyễn rắc nhè nhẹ hương trầm Hồng Huyết Lan lên than hồng. Đụng lửa, khói trắng bốc cao tỏa hương thơm ngào ngạt dầy đặc không gian nhỏ bé của căn phòng khách. Cụ Nguyễn bỏ về ghế, ngồi xuống. Người khách lạ nhìn cụ Nguyễn, khẽ cười, bắt đầu nói,
— Tôi xuất thân từ chốn quê mùa, ngưu ẩm, không biết đốt hương trầm, không biết gẩy đàn, không biết nhiều chữ thánh hiền, nhưng cũng được một vài dịp đi tới lui. Tôi nhớ có nhiều lần ghé vào kinh thành, gặp người Mãn Châu. Người Thanh cụ biết thuộc phương Bắc, to cao lực lưỡng, lấn chiếm xuống Trung Nguyên chấm dứt nhà Minh. Tới thời Khang Hy, tiêu diệt Thiên Địa Hội, chấn chỉnh lại nhà Đại Thanh. Tới thời Càn Long, hùng khí vươn cao.
Người khách lạ dừng lại, giọng trầm buồn,
— Từ bao lâu nay phương Bắc vẫn ỷ lớn coi thường người phương Nam. Người nước Nam, rất tiếc, thời của Lý Đại Tướng với Bắc đánh Tống Nam bình Chiêm, thời của Trần Đại Tướng chỉ sông Hóa thề không trở về nếu không dẹp tan giặc Mông Cổ, thời của Lê Thái Tổ mười năm nằm gai nếm mật tại Lam Sơn đã qua. Hai trăm năm rồi, hai phủ Chúa dùng danh hiệu Thái Tổ hiệu lệnh thiên hạ. Hai trăm năm rồi, Bắc Hà và Nam Hà đoạn giao, coi nhau là thù địch. Người Bắc Hà coi người nằm sau dòng sông Gianh là ngoại tộc, man di mọi rợ. Người Nam Hà coi người nằm trên dòng sông Gianh là hủ nho, cổ hũ, không thức thời. Cũng là người Việt, thế mà anh em trong nhà quay sang chống đối, hận thù, giết nhau, gây ra bẩy lần cảnh nồi da xáo thịt.
Nhìn ấm trà nguội lạnh nằm giữa bàn, người khách lạ yên lặng trong giây phút, rồi lại tiếp tục,
— Tôi nhớ có lần ra tới Thăng Long, đi ngang qua chợ tôi gặp những người Mãn Châu đầu thắt bím, quần áo xuề xòa, dáng vẻ thương buôn, dạo chơi kinh thành. Vừa đi họ vừa nhổ xoèn xoẹt xuống mặt đường. Những người này tới đâu, dân Thăng Long nhìn theo với ánh mắt sợ hãi, chiêm ngưỡng. Có hai ba người học trò, và cả những người con gái nhoẻn miệng cười duyên dáng, mở miệng bập bẹ một vài tiếng Mãn Châu với người Thanh. Nhưng người Mãn Châu nói tiếng Hán, tủm tỉm cười với nhau, không thèm trả lời, bỏ đi thẳng một nước.
Người khách lạ mặt lạnh như tiền,
— Về phòng trọ, tối hôm đó tôi trằn trọc cả đêm.
Tiếp tục nhìn ấm trà nguội lạnh nằm giữa bàn, người khách lạ cười khẩy,
— Có một thời tiên sinh ở kinh thành, tôi tin ngài cũng đã nhìn thấy hàng tơ lụa của người phương Bắc tràn ngập Thăng Long. Người Bắc Hà ghé vào xem, trầm trồ khen ngợi. Bắc Hà cũng như Nam Hà, người ta hát nhạc Mãn Châu. Gần đây tôi thấy có người bắt đầu cạo đầu thắt bím, mặc quần áo Mãn Châu. Dân kinh thành đua nhau học tiếng Mãn. Người người đọc sách nhà Thanh.
Nhìn khung cửa sổ đóng kín rồi nhìn khói của hương trầm thơm ngát trong bầu không khí, người khách tiếp tục,
— Có hai ba lần, tôi gặp những người tuổi trẻ của Bắc Hà và cả Nam Hà. Tôi hỏi họ về Gia Huấn Ca của Vương Hầu Nguyễn Trãi, không mấy người biết. Tôi hỏi họ về sự tích Trầu Cau, chẳng ai hay. Tôi kể chuyện tổ tiên Hùng Vương Mười Tám đời, họ tưởng đó là chuyện của ai. Chuyện tích về nguồn gốc dân tộc, người tuổi trẻ của song Hà đều không hay không biết. Nhưng hỏi họ về nguồn gốc của người Thanh, của nhà Minh, của nhà Hán, hay của thời Ðường không ai không biết. Thơ Lý Bạch, thơ Thôi Hộ, người tuổi trẻ của song Hà đều thuộc nằm lòng. Tôi ngạc nhiên, nhói đau.
Người khách lạ dừng lại nhìn người đối diện,
— Tôi nhớ hai ba lần ghé qua bên Xiêm. Xiêm La theo chế độ cưỡng bách giáo dục, tất cả trẻ em đều phải cắp sách đến trường. Mười tám tuổi, thanh niên vô chùa tu học hai năm. Chùa chiền và trường học xuất hiện khắp nơi trong nước. Cứ khoảng một dãy phố lại thấy một sân trường và một cảnh chùa. Ghé vào những khu vực san sát nhà cửa, lâu đài mọc cao như nấm, ngựa xe tấp nập trong kinh thành Vọng Các, tôi ngạc nhiên nhận ra đó là khu vực của người Đại Việt. Hỏi ra mới biết những người này trước đó ở bên nước ta họ không có một tấc đất để cắm dùi. Nhưng một lần bỏ quê cha đất tổ, đời sống họ thay đổi. Họ trắng da thắm thịt. Tôi cũng gặp rất nhiều thanh niên của Bắc Hà và Nam Hà thông minh tráng kiện làm việc trong triều đình vua Xiêm. Nhìn họ cao lớn, tưởng người Xiêm. Có người dậy học cho những hoàng tử Xiêm. Hỏi chuyện tôi mới biết khi còn ở bên nước Nam ta, họ là những trẻ mục đồng, không biết mặt chữ nhất. Tôi bàng hoàng không tin vào con mắt của mình trừng trừng mở lớn.
Người khách lạ khẽ thở dài, nhìn lên hoành sơn có chữ Lê,
— Tôi vẫn còn nhớ vào thời Ức Trai tiên sinh, ngài viết trong bản Bình Ngô Đại Cáo, “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”. Chuyện thời Ức Trai, thời của Lê Thái Tổ, chuyện lâu rồi mà cũng còn như mới. Thời của mười năm liền đất nước Văn Lang mở ngõ cho giặc Minh phá bỏ. Thời của người nước Nam bị đày xuống biển mò ngọc trai, lên rừng kiếm ngà voi cho giặc Minh. Hào khí của người Lạc Việt xuống thấp. Nhiều người bỏ sang Vạn Tượng, Nam Vang, Vọng Các sống một đời tha hương. Nhờ vượng khí nước Nam, nhà Lê nổi lên từ Lam Sơn với mười năm nằm gai nếm mật. Cuối cùng Liễu Thăng đầu rụng tại Chi Lăng, Vương Thông đầu hàng tại Đông Quan. Kinh thành Thăng Long vươn mình bước vào vận hội mới.
Dừng lại trong một thoáng, đôi mắt người khách lạ long lanh màu của lửa,
— Bây giờ Càn Long dựa vào Hoàng tôn Lê Duy Kỳ, sai Tôn Sĩ Nghị đưa hai mươi vạn quân tiến vào Thăng Long. Kinh thành hiện giờ đang ngập bóng người thắt bím. Hoàng tôn Lê Duy Kỳ xưng làm vua, làm cha mẹ của dân. Nhưng thay vì lo đến tương lai của con cái, chỉ vì tư lợi riêng tư, Chiêu Thống dám hy sinh vận mạng của cả một đất nước, của một dân tộc, cõng rắn cắn gà nhà, tạo thêm một cơ hội ngàn vàng cho ngoại bang dầy xéo người nước Nam ta.
Nhìn thẳng vào người đối diện, người khách lạ nói chậm nhưng rõ,
— Tiên sinh là người thông thiên bác học của Bắc Hà. Xin được tiên sinh chỉ giáo cho những điều tâm huyết mà tôi vừa trình bày…
Bên ngoài gió lạnh cuối năm buồn rầu than thở qua khe hở của khung cửa. Trong chiếc áo bông dầy cộm, cụ Nguyễn yên lặng cúi nhìn đất đen, không nói chi. Gió lạnh tiếp tục xào xạc bên ngoài khung cửa, cụ Nguyễn nhìn lên làn khói trắng thơm ngào ngạt quyện bay trong bầu không khí. Cụ nghĩ ngợi. Cụ đứng dậy mở toang khung cửa sổ liếp tre. Gió lạnh ngập tràn bầu không khí thơm ngát trầm hương Hồng Huyết Lan. Sương lạnh bên ngoài thổi hắt vào mặt bật ra những tiếng ho húng hắng nơi cổ họng của cụ Nguyễn. Người khách lạ nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt thoáng ngạc nhiên. Cụ Nguyễn miệng húng hắng ho,
— Xin lỗi đại nhân! Tôi lỡ tay đốt nhiều trầm quá, khói bay xông xốc vào cổ họng, ngứa ran cả cổ, muốn ho. Mở cửa sổ ra thì tốt hơn. Sương có lạnh một chút nhưng không khí trong lành không vương khói trầm hương.
Chậm rãi bước tới tủ gỗ cẩm xà, cụ Nguyễn cất giọng thân tình,
— Tôi có một loại trà quý của Nam Hà. Những lúc tối trời giá lạnh, hay pha uống. Trà đặc sánh màu vàng tương tự mật ong. Uống vào, vị đắng, nhưng xuống tới cổ đổi sang dịu ngọt. Trong trà có linh dược giúp người bệnh hồi phục nhanh chóng không kém gì nhân sâm.
Người khách lạ cười,
— Cụ muốn nói tới Thanh Hỏa Trà được trồng trên vùng cao nguyên đất đỏ, khí hậu quanh năm sương mù giá rét của Nam Hà?
— Ðúng, Thanh Hỏa Trà của người nước Nam. Ngài vó ngựa vạn dậm từ Nam Hà kéo tới đây. Chắc là mệt mỏi lắm rồi. Mời ngài chung ẩm với tôi một ấm trà nóng…
Cụ Nguyễn đặt chung trà nhỏ màu nâu đỏ trước mặt người khách lạ. Cụ Nguyễn cất giọng,
— Kính mời ngài.
Một vài tiếng pháo cối nổ vang dội đêm đen. Bóng của cả hai người một già một trẻ lung linh nhảy múa trên vách tường nhà. Than hồng cháy đỏ tươi vui tiếp tục tí tách trong đêm đen. Trời đã khuya lắm rồi. Trống điểm sang canh, giờ này giờ Tý. Lắng nghe tiếng pháo nổ xa xa, lắng nghe tiếng mõ điểm canh, người khách lạ cất tiếng hỏi,
— Nay quân Mãn Thanh kéo quân sang đây, thế giặc mạnh như chém sắt chẻ tre. Thầy, thầy nghĩ chúng ta phải làm sao?
Cụ Nguyễn đứng lên, ngón tay chỉ vào bản đồ kinh thành Thăng Long dán trên vách tường,
— Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh tất chiến thắng…
Mùa Xuân Nhâm Tý 1792, trong khi đang tiến đánh Nguyễn Ánh tại thành Gia Định, vua Quang Trung tự dưng quỵ ngã, rồi dần dần thiếp đi trong hôn mê, sau cùng băng hà tại điện Trung Hòa vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý, thọ bốn mươi tuổi, ở ngôi hoàng đế được năm năm. Không ai rõ lý do và nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của đại hoàng đế nước Nam. Có người suy đoán nói hoàng đế Quang Trung, do làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều, bị cao huyết áp, đứt mạch máu não mà chết. Có người nghi vấn đặt vấn đề có thể hoàng đế bị đầu độc hoặc đã từng bị đầu độc trong quá khứ. Nếu đúng là như vậy, ai là người có khả năng đến gần long thể để đầu độc được hoàng đế nước Nam?
www.nguyentrungtay.com
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Lẻ Bạn
Lê Trị
23:10 02/02/2010
LẺ BẠN
Ảnh của Lê Trị
Tình bạn lâu dài, bỗng gặp ngang trái
Kẻ vô tình đành nỡ hái một đi
Chỉ còn một là không còn gì hết
Đời buồn đơn lẻ, liễu kết bơ vơ!
(Lê Trị)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền