Phụng Vụ - Mục Vụ
Chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng
Lm Đan Vinh
05:48 02/02/2018
CN 5 THƯỜNG NIÊN B
G 7,1-4.6-7 ; 1 Cr 9,16-19.22-23 ; Mc 1,29-39
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,29-39
(29) Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê, có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. Ý CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21) ; Chữa một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28) ; Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh và đi khắp miền Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
3. CHÚ THÍCH:
- C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây ra và là dấu chỉ sự trừng phạt tội nhân của Đức Chúa (x. Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy triều đại Thiên Sai được ngôn sứ I-sai-a loan báo đã bắt đầu (x. Is 29,18).
- C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giê-su thường làm khi phục sinh kẻ chết (x. Mc 5,41), hay chữa lành kẻ bị quỉ ám (x. Mc 9,27). + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giê-su và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu năng lãnh nhận các bí tích, sẽ được Chúa ban sức khỏe để phục vụ tha nhân (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần.
- C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giê-su đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giê-su cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.
- C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21) ; Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12) ; Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên núi (x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)...
- C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giê-su. + “Mọi người đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng được rao giảng không chỉ cho một ít người hay cho dân Do thái... nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19 ; Cv 1,8).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao Đức Giê-su lại cấm ma quỉ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Mô-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập khi xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo ý Chúa Cha không chỉ nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất công... một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để ma quỷ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai trong khi dân chúng chưa hiểu rõ sứ mệnh Thiên Sai thì họ sẽ bắt Người tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e ngại này có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy đền thờ, tàn sát quân lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp thế giới. Tai họa này đã được Đức Giê-su tiên báo cho các môn đệ biết và dùng nó để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn đệ phải ứng xử thế nào để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai tính: Một là tính Thiên Chúa, hai là tính loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ. (Mc 1,35.39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA MỘT LỜI CẦU NGUYỆN CHÂN THÀNH:
FRE-DE-RIC O-ZA-NAM, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc đang còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên chợt nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Am-pe. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Này anh bạn. Tôi có thể giúp gì cho anh ? Giải một bài toán vật lý chăng ?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:
- Thưa giáo sư, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt về khoa học lắm. Tôi chỉ xin ông hỏi một số vấn đề về đức tin.
Nhà bác học liền mỉm cười và khiêm tốn đáp:
- Đức tin là môn mà tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được điều gì thì tôi xin sẵn sàng.
- Thưa ông, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, lại vừa là một tín hữu chân thành cầu nguyện không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh sinh viên. Nhưng rồi ông cũng trả lời :
- Này anh bạn trẻ. Chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi cầu nguyện chân thành mà thôi.
Câu chuyện nói trên cho thấy không có sự mâu thuẫn giữa khoa học và đức tin chân chính.
2) TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”:
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác... Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc làm ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như giúp cho mọi người có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng với nhân phẩm hơn...
3) DỤ NGÔN VỀ CÂY VIẾT CHÌ :
Sau khi sáng chế ra cây viết chì, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Ta muốn anh bạn phải nhớ đến bốn ý nghĩa như sau:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở trong con người của bạn.
2. Bạn sẽ cần phải được vót nhọn, phải được gọt dũa để nên hữu hiệu trong cuộc sống.
3. Bạn cần được ai đó sử dụng như công cụ. Nếu không, bạn sẽ chẳng làm được gì!
4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại một dấu vết nào đó.
Đời sống mỗi người chúng ta cũng giống như một cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba qua câu nói: “Tôi chỉ là một cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”. Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, áp dụng trường hợp thứ hai của dụ ngôn này trong thánh lễ trên đài phát thanh dành cho những người ốm đau : Người đau bệnh cũng phải được vót nhọn bởi những khổ đau gặp phải trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị gọt dũa sẽ không thể sinh ích lợi cho người khác được.
4) MỌI NGƯỜI ĐỀU CHỊU ĐAU KHỔ:
Người Trung Hoa có câu chuyện về một người đàn bà có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong lúc đau thương buồn khổ, bà mẹ đến năn nỉ với một vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những câu thần chú nào làm cho con trai của con sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng, vị thánh hiền nói: “Bà hãy đi tìm mang về đây một hạt rau cải của một gia đình chưa từng buồn khổ. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc để cho con bà được sống lại”.
Người đàn bà bắt đầu đi khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài sang trọng: “Tôi đang tìm một nhà chưa biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không?” Chủ nhà trả lời: “Thưa bà. Chắc là bà đã lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường. Con trai tôi đã bỏ nhà đi hai hôm nay. Tôi sợ rằng sau này tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!” Nghe xong bà tình nguyện ở lại một ngày để an ủi chủ nhà, rồi mới tiếp tục đi tìm một nhà khác chưa bao giờ bị buồn khổ. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có hay nhà tranh vách đất, đâu đâu bà cũng nghe chủ nhà kể ra những nỗi buồn khổ bất hạnh. Mỗi nơi bà đều phải nói lời khuyên răn, an ủi và khích lệ, đến nỗi bà dần dần trở nên một chuyên viên an ủi những người buồn khổ. Rồi dần dần bà đã quên mục đích đi tìm hạt cải kỳ diệu để làm thuốc cứu chữa cho con trai bà sống lại.
Khi gặp đau khổ, bạn cũng đừng chán nản tuyệt vọng... hãy nhớ rằng: Chúa Giêsu đang ở với bạn cũng như Thiên Chúa luôn ở bên ông Gióp; Nhớ rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi bạn vì bạn đang được Chúa yêu thương. Hãy tin tưởng hy vọng và đừng quên sứ mạng phục vụ người bất hạnh.
Khi bạn đau ốm thể xác hay tinh thần hoặc bị đau khổ vì chuyện tình yêu, bạn hãy cởi mở tâm hồn với Chúa Giêsu. Ngài sẽ an ủi chữa lành cho bạn, sẽ nắm tay bạn và cho đứng dậy, như đã chữa lành bệnh sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô. Hãy mau đáp lại tiếng Chúa mời gọi, để đi theo Ngài và luôn khiêm nhường phục vụ tha nhân, vì Chúa sẽ luôn ở bên đồng hành và nâng đỡ bạn.
3. THẢO LUẬN: Để góp phần cải thiện môi trường xã hội được an toàn sạch đẹp, công bình và nhân ái hơn... chúng ta cần phải bắt đầu từ đâu và làm bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với các việc cầu nguyện, rao giảng và chữa lành bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn của con người.
1) Cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha:
“Sáng sớm, Đức Giê-su tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao công việc, giao tiếp với đủ hạng người, Đức Giê-su đã dành buổi sáng tinh sương để tâm sự với Chúa Cha. Người cần sống một mình bên Cha, tâm sự về các công việc, về nỗi đau khổ gặp phải... Người cầu nguyện vì lòng yêu mến Cha, muốn được kết hiệp với Cha, để đón nhận từ nơi Cha sức mạnh rất cần cho công việc loan báo Tin Mừng.
2) Loan báo Tin Mừng Nước Trời:
Việc quan trọng thứ hai Đức Giê-su làm là đi loan báo Tin mừng: “Ngày Sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường giảng dạy” (Mc 1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (x. Mc 1,22).
3) Chữa lành các bệnh tật về thể xác và tâm hồn:
Lời giảng dạy kèm theo việc chữa lành nhiều bệnh nhân: “Ra khỏi hội đường, Đức Giê-su vào nhà ông Si-mon… Bà nhạc của ông Si-mon đang bị sốt. Đức Giê-su đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt liền dứt ngay và bà đã trỗi dậy làm bữa phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (Mc 1,32). Tất cả đều được Người chữa lành.
4) Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Chúa? :
Cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải trải qua những lúc bệnh hoạn khổ đau. Đau khổ do phải lao động làm ăn vất vả, do bị bệnh tật hay bị tai ương chết chóc… chính là hậu quả tai hại của tội Nguyên Tổ. Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã chấp nhận nên “giống chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi”. Noi gương Đức Giê-su, Hội Thánh cũng luôn giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật và bất hạnh khắp nơi. Ngoài việc xây dựng trường học, xưởng dạy nghề để mở mang kiến thức và huấn nghệ cho người ta, Hội Thánh còn mở ra các trại phong, nhà thương, viện dưỡng lão, trại nuôi trẻ mồ côi v.v…
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những ai đang chịu đau khổ ở khắp nơi: đau khổ về tinh thần hay thể xác, đau khổ vì chiến tranh, thiên tai, do già yếu bệnh tật... Cũng xin Chúa ban cho chúng ta khi bị đau khổ bệnh tật tai nạn, biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, để vui lòng chấp nhận mà đền tội mình, đồng thời biết an ủi nâng đỡ những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh, góp phần xóa bỏ các bất công, xóa đói giảm nghèo và biến đổi môi trường đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, trở nên Trời Mới Đất Mới theo thánh ý Chúa.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết giữ thinh lặng để gặp được Chúa, để lắng nghe được những Lời Chúa dạy và được tâm sự với Chúa.
Xin dạy chúng con giữ thinh lặng con mắt, để biết nhắm lại trước những sai lỗi của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội làm cho lòng chúng con bị xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng đôi tai, để mở ra trước những tiếng kêu cứu của người nghèo khổ, nhưng biết khép lại trước những cám dỗ của thế gian và ma quỷ.
Xin dạy chúng con biết thinh lặng miệng lưỡi, để biết mở ra ca tụng tình thương của Chúa và nói lời mang lại niềm vui cho mọi người, tránh những lời nói gây chia rẽ bất hạnh cho người khác.
Xin dạy chúng con thinh lặng trong lòng trí, để tiếp nhận sự thật và khép lại trước sự dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con biết thinh lặng quả tim, để tránh mọi tình cảm ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, nhưng biết ước ao đón nhận Tình Yêu của Chúa mọi lúc mọi nơi. (Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta)
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
G 7,1-4.6-7 ; 1 Cr 9,16-19.22-23 ; Mc 1,29-39
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,29-39
(29) Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê, có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. Ý CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21) ; Chữa một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28) ; Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh và đi khắp miền Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
3. CHÚ THÍCH:
- C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây ra và là dấu chỉ sự trừng phạt tội nhân của Đức Chúa (x. Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy triều đại Thiên Sai được ngôn sứ I-sai-a loan báo đã bắt đầu (x. Is 29,18).
- C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giê-su thường làm khi phục sinh kẻ chết (x. Mc 5,41), hay chữa lành kẻ bị quỉ ám (x. Mc 9,27). + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giê-su và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu năng lãnh nhận các bí tích, sẽ được Chúa ban sức khỏe để phục vụ tha nhân (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần.
- C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giê-su đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giê-su cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.
- C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21) ; Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12) ; Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên núi (x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)...
- C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giê-su. + “Mọi người đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng được rao giảng không chỉ cho một ít người hay cho dân Do thái... nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19 ; Cv 1,8).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao Đức Giê-su lại cấm ma quỉ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Mô-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập khi xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo ý Chúa Cha không chỉ nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất công... một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để ma quỷ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai trong khi dân chúng chưa hiểu rõ sứ mệnh Thiên Sai thì họ sẽ bắt Người tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e ngại này có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy đền thờ, tàn sát quân lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp thế giới. Tai họa này đã được Đức Giê-su tiên báo cho các môn đệ biết và dùng nó để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn đệ phải ứng xử thế nào để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai tính: Một là tính Thiên Chúa, hai là tính loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ. (Mc 1,35.39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA MỘT LỜI CẦU NGUYỆN CHÂN THÀNH:
FRE-DE-RIC O-ZA-NAM, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc đang còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên chợt nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Am-pe. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Này anh bạn. Tôi có thể giúp gì cho anh ? Giải một bài toán vật lý chăng ?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:
- Thưa giáo sư, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt về khoa học lắm. Tôi chỉ xin ông hỏi một số vấn đề về đức tin.
Nhà bác học liền mỉm cười và khiêm tốn đáp:
- Đức tin là môn mà tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được điều gì thì tôi xin sẵn sàng.
- Thưa ông, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, lại vừa là một tín hữu chân thành cầu nguyện không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh sinh viên. Nhưng rồi ông cũng trả lời :
- Này anh bạn trẻ. Chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi cầu nguyện chân thành mà thôi.
Câu chuyện nói trên cho thấy không có sự mâu thuẫn giữa khoa học và đức tin chân chính.
2) TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”:
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác... Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc làm ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như giúp cho mọi người có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng với nhân phẩm hơn...
3) DỤ NGÔN VỀ CÂY VIẾT CHÌ :
Sau khi sáng chế ra cây viết chì, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Ta muốn anh bạn phải nhớ đến bốn ý nghĩa như sau:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở trong con người của bạn.
2. Bạn sẽ cần phải được vót nhọn, phải được gọt dũa để nên hữu hiệu trong cuộc sống.
3. Bạn cần được ai đó sử dụng như công cụ. Nếu không, bạn sẽ chẳng làm được gì!
4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại một dấu vết nào đó.
Đời sống mỗi người chúng ta cũng giống như một cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba qua câu nói: “Tôi chỉ là một cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”. Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, áp dụng trường hợp thứ hai của dụ ngôn này trong thánh lễ trên đài phát thanh dành cho những người ốm đau : Người đau bệnh cũng phải được vót nhọn bởi những khổ đau gặp phải trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị gọt dũa sẽ không thể sinh ích lợi cho người khác được.
4) MỌI NGƯỜI ĐỀU CHỊU ĐAU KHỔ:
Người Trung Hoa có câu chuyện về một người đàn bà có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong lúc đau thương buồn khổ, bà mẹ đến năn nỉ với một vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những câu thần chú nào làm cho con trai của con sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng, vị thánh hiền nói: “Bà hãy đi tìm mang về đây một hạt rau cải của một gia đình chưa từng buồn khổ. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc để cho con bà được sống lại”.
Người đàn bà bắt đầu đi khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài sang trọng: “Tôi đang tìm một nhà chưa biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không?” Chủ nhà trả lời: “Thưa bà. Chắc là bà đã lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường. Con trai tôi đã bỏ nhà đi hai hôm nay. Tôi sợ rằng sau này tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!” Nghe xong bà tình nguyện ở lại một ngày để an ủi chủ nhà, rồi mới tiếp tục đi tìm một nhà khác chưa bao giờ bị buồn khổ. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có hay nhà tranh vách đất, đâu đâu bà cũng nghe chủ nhà kể ra những nỗi buồn khổ bất hạnh. Mỗi nơi bà đều phải nói lời khuyên răn, an ủi và khích lệ, đến nỗi bà dần dần trở nên một chuyên viên an ủi những người buồn khổ. Rồi dần dần bà đã quên mục đích đi tìm hạt cải kỳ diệu để làm thuốc cứu chữa cho con trai bà sống lại.
Khi gặp đau khổ, bạn cũng đừng chán nản tuyệt vọng... hãy nhớ rằng: Chúa Giêsu đang ở với bạn cũng như Thiên Chúa luôn ở bên ông Gióp; Nhớ rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi bạn vì bạn đang được Chúa yêu thương. Hãy tin tưởng hy vọng và đừng quên sứ mạng phục vụ người bất hạnh.
Khi bạn đau ốm thể xác hay tinh thần hoặc bị đau khổ vì chuyện tình yêu, bạn hãy cởi mở tâm hồn với Chúa Giêsu. Ngài sẽ an ủi chữa lành cho bạn, sẽ nắm tay bạn và cho đứng dậy, như đã chữa lành bệnh sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô. Hãy mau đáp lại tiếng Chúa mời gọi, để đi theo Ngài và luôn khiêm nhường phục vụ tha nhân, vì Chúa sẽ luôn ở bên đồng hành và nâng đỡ bạn.
3. THẢO LUẬN: Để góp phần cải thiện môi trường xã hội được an toàn sạch đẹp, công bình và nhân ái hơn... chúng ta cần phải bắt đầu từ đâu và làm bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với các việc cầu nguyện, rao giảng và chữa lành bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn của con người.
1) Cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha:
“Sáng sớm, Đức Giê-su tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao công việc, giao tiếp với đủ hạng người, Đức Giê-su đã dành buổi sáng tinh sương để tâm sự với Chúa Cha. Người cần sống một mình bên Cha, tâm sự về các công việc, về nỗi đau khổ gặp phải... Người cầu nguyện vì lòng yêu mến Cha, muốn được kết hiệp với Cha, để đón nhận từ nơi Cha sức mạnh rất cần cho công việc loan báo Tin Mừng.
2) Loan báo Tin Mừng Nước Trời:
Việc quan trọng thứ hai Đức Giê-su làm là đi loan báo Tin mừng: “Ngày Sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường giảng dạy” (Mc 1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (x. Mc 1,22).
3) Chữa lành các bệnh tật về thể xác và tâm hồn:
Lời giảng dạy kèm theo việc chữa lành nhiều bệnh nhân: “Ra khỏi hội đường, Đức Giê-su vào nhà ông Si-mon… Bà nhạc của ông Si-mon đang bị sốt. Đức Giê-su đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt liền dứt ngay và bà đã trỗi dậy làm bữa phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (Mc 1,32). Tất cả đều được Người chữa lành.
4) Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Chúa? :
Cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải trải qua những lúc bệnh hoạn khổ đau. Đau khổ do phải lao động làm ăn vất vả, do bị bệnh tật hay bị tai ương chết chóc… chính là hậu quả tai hại của tội Nguyên Tổ. Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã chấp nhận nên “giống chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi”. Noi gương Đức Giê-su, Hội Thánh cũng luôn giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật và bất hạnh khắp nơi. Ngoài việc xây dựng trường học, xưởng dạy nghề để mở mang kiến thức và huấn nghệ cho người ta, Hội Thánh còn mở ra các trại phong, nhà thương, viện dưỡng lão, trại nuôi trẻ mồ côi v.v…
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những ai đang chịu đau khổ ở khắp nơi: đau khổ về tinh thần hay thể xác, đau khổ vì chiến tranh, thiên tai, do già yếu bệnh tật... Cũng xin Chúa ban cho chúng ta khi bị đau khổ bệnh tật tai nạn, biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, để vui lòng chấp nhận mà đền tội mình, đồng thời biết an ủi nâng đỡ những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh, góp phần xóa bỏ các bất công, xóa đói giảm nghèo và biến đổi môi trường đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, trở nên Trời Mới Đất Mới theo thánh ý Chúa.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết giữ thinh lặng để gặp được Chúa, để lắng nghe được những Lời Chúa dạy và được tâm sự với Chúa.
Xin dạy chúng con giữ thinh lặng con mắt, để biết nhắm lại trước những sai lỗi của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội làm cho lòng chúng con bị xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng đôi tai, để mở ra trước những tiếng kêu cứu của người nghèo khổ, nhưng biết khép lại trước những cám dỗ của thế gian và ma quỷ.
Xin dạy chúng con biết thinh lặng miệng lưỡi, để biết mở ra ca tụng tình thương của Chúa và nói lời mang lại niềm vui cho mọi người, tránh những lời nói gây chia rẽ bất hạnh cho người khác.
Xin dạy chúng con thinh lặng trong lòng trí, để tiếp nhận sự thật và khép lại trước sự dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con biết thinh lặng quả tim, để tránh mọi tình cảm ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, nhưng biết ước ao đón nhận Tình Yêu của Chúa mọi lúc mọi nơi. (Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta)
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Tránh Nhưng Không Trốn Sự Khổ Đau
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
11:21 02/02/2018
Tránh Nhưng Không Trốn Sự Khổ Đau
Ông Gióp than thở: “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?…Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.” (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả và mạn bàn. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ tuy nhiên cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì “chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này đó là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn “nhổ cỏ tận gốc”, tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái “dục” của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra đó là “diệt dục”. Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời “sinh - lão - bệnh - tử” là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù “thoặt sinh ra thì đà khóc choé”? Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình “muốn” được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình một cách nào đó theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Công Trứ:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau. Một giải thích ngắn gọn đó là vì họ không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh…thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự “tri kiến”. Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu “hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình”, thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi”.
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh, nhưng không trốn sự đau khổ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột
Ông Gióp than thở: “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?…Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.” (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả và mạn bàn. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ tuy nhiên cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì “chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này đó là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn “nhổ cỏ tận gốc”, tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái “dục” của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra đó là “diệt dục”. Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời “sinh - lão - bệnh - tử” là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù “thoặt sinh ra thì đà khóc choé”? Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình “muốn” được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình một cách nào đó theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Công Trứ:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau. Một giải thích ngắn gọn đó là vì họ không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh…thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự “tri kiến”. Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu “hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình”, thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi”.
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh, nhưng không trốn sự đau khổ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột
Nghĩ về sự chết giúp thoát khỏi ảo tưởng làm chủ thời gian
Tứ Quyết SJ
15:48 02/02/2018
Khi nghĩ về sự chết, chúng ta sẽ được thoát khỏi ảo tưởng rằng mình có thể làm chủ thời gian. Chúng ta không bất tử hoặc bất diệt. Chúng ta là những con người sống trong thời gian có khởi đầu và có kết thúc. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.
Cái chết là một thực tế
Lời Chúa hôm nay kể về giây phút cuối đời của vua Đavit. Cái chết đến với tất cả mọi người, ảnh hưởng trên mọi người. Với từng người, dù sớm hay muộn thì cái chết cũng sẽ đến.
Nhưng mà luôn có cám dỗ níu kéo cuộc sống trong sự lòng vòng của mê cung ích kỷ, mà không nhìn tới tương lai. Không, cuộc sống này sẽ kết thúc, sẽ có cái chết, tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Và vì thế, Giáo Hội luôn cố gắng giúp chúng ta suy nghĩ phản tỉnh về cái chết, về giây phút cuối đời của mỗi người chúng ta.
Cái chết là một di sản
Tôi không phải là chủ của thời gian. Bạn cũng thế. Suy tư về cái chết sẽ giúp chúng ta thoát khỏi ảo tưởng làm chủ thời gian, giúp chúng ta thoát khỏi kiểu cuộc sống với những chuỗi dài vô nghĩa. Tôi đang tiến bước và tôi phải nhìn tới phía trước, phải suy xét về tương lai, về cái chết. Cái chết cũng là một thứ di sản, không phải là di sản vật chất nhưng là chứng từ cuộc sống.
Chúng ta có thể tự hỏi lòng mình rằng: Nếu hôm nay Chúa gọi tôi, thì tôi sẽ để lại di sản gì đây? Lúc ấy tôi sẽ để lại gì, sẽ để lại chứng từ cuộc sống nào, sẽ để lại gì cho cuộc đời này? Đó là câu hỏi rất hay để tự chất vấn lòng mình. Và như thế, tất cả chúng ta biết cách chuẩn bị chính mình. Chẳng ai trong chúng ta sẽ còn lại giống như những di tích. Không, tất cả chúng ta rồi sẽ chết.
Cái chết là một ký ức
Cái chết cũng là một loại ký ức, là một thứ để chúng ta luôn nhớ tới, để suy nghĩ để phản tỉnh, để rọi ngược trở lại giây phút hiện tại. Nếu hôm nay tôi chết, thì tôi thích làm gì, sẽ làm gì, sẽ quyết định gì, sẽ sống lối sống nào? Khi suy nghĩ như thế, suy tư về điều ấy, cuộc sống hiện tại của chúng ta sẽ sáng tỏ. Chúng ta sẽ tỉnh ngộ, sẽ bừng tỉnh, sẽ khôn ngoan với những quyết định trong cuộc sống từng ngày. Cảm thấy rằng, cảm nhận rằng, biết rằng mình đang tiến về cái chết, điều ấy rất tốt cho mỗi người chúng ta.
Cái chết là một thực tế
Lời Chúa hôm nay kể về giây phút cuối đời của vua Đavit. Cái chết đến với tất cả mọi người, ảnh hưởng trên mọi người. Với từng người, dù sớm hay muộn thì cái chết cũng sẽ đến.
Nhưng mà luôn có cám dỗ níu kéo cuộc sống trong sự lòng vòng của mê cung ích kỷ, mà không nhìn tới tương lai. Không, cuộc sống này sẽ kết thúc, sẽ có cái chết, tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Và vì thế, Giáo Hội luôn cố gắng giúp chúng ta suy nghĩ phản tỉnh về cái chết, về giây phút cuối đời của mỗi người chúng ta.
Cái chết là một di sản
Tôi không phải là chủ của thời gian. Bạn cũng thế. Suy tư về cái chết sẽ giúp chúng ta thoát khỏi ảo tưởng làm chủ thời gian, giúp chúng ta thoát khỏi kiểu cuộc sống với những chuỗi dài vô nghĩa. Tôi đang tiến bước và tôi phải nhìn tới phía trước, phải suy xét về tương lai, về cái chết. Cái chết cũng là một thứ di sản, không phải là di sản vật chất nhưng là chứng từ cuộc sống.
Chúng ta có thể tự hỏi lòng mình rằng: Nếu hôm nay Chúa gọi tôi, thì tôi sẽ để lại di sản gì đây? Lúc ấy tôi sẽ để lại gì, sẽ để lại chứng từ cuộc sống nào, sẽ để lại gì cho cuộc đời này? Đó là câu hỏi rất hay để tự chất vấn lòng mình. Và như thế, tất cả chúng ta biết cách chuẩn bị chính mình. Chẳng ai trong chúng ta sẽ còn lại giống như những di tích. Không, tất cả chúng ta rồi sẽ chết.
Cái chết là một ký ức
Cái chết cũng là một loại ký ức, là một thứ để chúng ta luôn nhớ tới, để suy nghĩ để phản tỉnh, để rọi ngược trở lại giây phút hiện tại. Nếu hôm nay tôi chết, thì tôi thích làm gì, sẽ làm gì, sẽ quyết định gì, sẽ sống lối sống nào? Khi suy nghĩ như thế, suy tư về điều ấy, cuộc sống hiện tại của chúng ta sẽ sáng tỏ. Chúng ta sẽ tỉnh ngộ, sẽ bừng tỉnh, sẽ khôn ngoan với những quyết định trong cuộc sống từng ngày. Cảm thấy rằng, cảm nhận rằng, biết rằng mình đang tiến về cái chết, điều ấy rất tốt cho mỗi người chúng ta.
Chúa chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
19:56 02/02/2018
Chúa chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
Chúa Nhật V THƯỜNG NIÊN B - G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
Đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm trong Chúa Nhật này mang lại cho chúng ta một bản tường trình trung thực về một ngày sống kiểu mẫu của Chúa Giêsu. Theo đó, thánh Máccô cho biết: Khi rời khỏi hội đường, trước hết Chúa Giêsu đến thăm nhà ông Simon Phêrô, ở đó Người chữa lành cho mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Vào buổi chiều, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho người. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Sáng sớm, lúc trời con tối mịt, Người đã dậy và đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện; sau đó Người rời bỏ nơi đó và đi rao giảng Nước Trời cho những thành khác (Mc 1,29-39).
Từ trình thuật này chúng ta có thể tóm tắt một ngày sống của Chúa Giêsu là sự kết hợp của việc chữa bệnh, cầu nguyện và loan báo Nước Trời. Hôm nay, chúng ta hãy dành suy tư của chúng ta về lòng yêu mến của Chúa Giêsu đối với những người bệnh, bởi vì trong ít ngày nữa, phụng vụ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại Lộc Đức vào ngày 11 tháng 2, cũng là ngày Quốc Tế Bệnh Nhân mà chúng ta sẽ cử hành để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ.
1- Bệnh tật, nỗi đau của con người
Quả thế, những thành tựu của khoa học và y khoa trong thời đại chúng ta đã thay đổi sâu xa điều kiện của người bệnh. Trong nhiều trường hợp bệnh như lao phổi, phong cùi, cả ung thư… khoa học và y khoa hôm nay mang lại những hy vọng đáng tin cậy cho việc chữa lành cho những bệnh nan y này, hay ít ra cũng kéo dài nhiều thời gian sống của người bệnh hoặc hạn chế sự phát triển của chúng nơi bệnh nhân. Tuy nhiên, bệnh tật và cái chết thì vẫn chưa và sẽ không bao giờ được giải quyết và khuất phục một cách hoàn toàn. Nó là một phần của điều kiện con người. Sinh bệnh lão tử là quy luật tất yếu của con người. Khoa học dù có phát triển đến mức nào đi chăng nữa, cũng không thể xóa bỏ được bệnh tật và sự chết.
Niềm tin Kitô giáo có thể xoa dịu tình trạng này và đồng thời mang lại ý nghĩa và giá trị của bệnh tật, đau khổ và sự chết. Bởi thế, thật là cần thiết để trình bày hai lối tiếp cận: một là đối với chính người bệnh và thứ đến là đối với những ai chăm sóc người bệnh.
Quả thế, trước khi Đức Kitô đến, bệnh tật được coi là sự liên hệ chặt chẽ với tội lỗi. Nói cách khác, con người đã tin chắc rằng bệnh tật là hậu quả của một số tội riêng mà một người đã phạm nên nó phải bị Thiên Chúa phạt bằng chính hậu quả bệnh tật. Nên những ai bị bệnh như bệnh phong cùi phải chịu cảnh bị mọi người xa lánh, bị loại trừ khỏi cộng đoàn và xã hội. Họ thuộc hàng ô uế.
2- Ý nghĩa của bệnh tật và đau khổ
Với Chúa Giêsu và những phép lạ của Người làm, thái độ này đã thay đổi rất nhiều: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Trên thập giá, Người đã mang lại ý nghĩa cho đau khổ của con người, bao gồm cả bệnh tật: Bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết chúng ta nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa.
Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị tấn công tại quảng trường thánh Phêrô bởi tay súng Ali Aka. Suốt dọc đường tới bệnh viện Girelli, Đức Giáo Hoàng thì thầm tên Mẹ Maria bằng tiếng Ba Lan. Đức Gioan Phaolô II được phẫu thuật hơn bốn giờ. Cùng thời gian đó, hàng triệu tín hữu từ Ba Lan và khắp nơi trên thế giới, đều cầu nguyện. Bốn ngày sau cuộc mưu sát, Đức Giáo Hoàng phát biểu lần đầu tiên từ giường bệnh: “Cha cám ơn các con đã cầu nguyện nhiều cho Cha và chúc lành cho hết mọi người (…) Cha cầu nguyện cho người anh em đã bắn Cha và chân thành tha thứ cho anh. Lạy Mẹ Maria, con xin lặp lại: Totus tuus ego sum, con hoàn toàn thuộc về Mẹ.” Đức Thánh Cha đã thoát nạn và không ngần ngại quả quyết rằng chính bàn tay Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Fatima, đã đánh lạc đường bay của viên đạn định mệnh. Một năm sau, ngày 13.5.1982, Đức Gioan Phaolô II đến thánh đường Đức Mẹ Fatima để tạ ơn Mẹ.
Sau những kinh nghiệm từ bệnh tật và đau khổ của mình, Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã viết một lại thư nói về đau khổ, trong đó ngài nói: “Đau khổ mang lại ý nghĩa giúp chúng ta đặc biệt trở nên nhạy cảm, nhất là biết mở ra với hoạt động của những sức mạnh cứu độ từ Thiên Chúa, ý nghĩa và sức mạnh đó được ban cho nhân loại trong Đức Kitô” (x. Salvifici Doloris, no. 23).
Như thế, bệnh tật và đau khổ mở ra cho chúng ta và cho Chúa Giêsu trên thập giáo một kênh rất đặc biệt để thông truyền. Người bệnh tật không phải là những thành phần thụ động của Giáo Hội, nhưng là những thành phần năng động nhất, quý giá nhất. Trong cặp mắt của Thiên Chúa, một giờ chịu đau khổ, được đón nhận và chịu đựng với sự kiên nhẫn và lòng yêu mến Chúa, có thể xứng đáng hơn nhiều những hoạt động khác của thế giới, nếu chúng được thực hiện chỉ cho chính mình.
3- Hãy mang niềm hy vọng và sự an ủi cho người bệnh tật
Giờ đây chúng ta dành một ít lời cho những người đang chăm sóc bệnh nhân, tại tư gia hay trong những trung tâm y tế và bệnh viện. Người bệnh chắc chắn cần đến sự chăm sóc, khả năng chuyên môn khoa học, nhưng họ cũng rất cần đến niềm hy vọng và sự an ủi của chúng ta. Không có liều thuốc nào có thể xoa dịu nổi đau của người bệnh cho bằng việc họ được nghe bác sĩ nói: “Tôi có những hy vọng tích cực cho anh… Mọi sự sẻ tốt hơn và hy vọng với cách này anh sẻ khỏe lại…” Khi có thể, chúng ta hãy nói như thế với bệnh nhân với lòng chân thành không hề dối trá. Hãy luôn mang lại cho họ niềm hy vọng, lời nói tích cực để an ủi, thay vì những lời nói gây sốc, tiêu cực, làm cho họ tuyệt vọng và đau khổ chồng đau khổ! Bởi lẽ, niềm hy vọng là “bình ôxy tốt nhất” cho một người bệnh. Không nên để người bệnh ở một mình cô đơn, cô độc trong trên giường bệnh của họ. Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng một trong những việc của lòng thương xót là thăm viếng người bệnh tật. Chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta rằng một trong những tiêu chuẩn mà Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta trong ngày chung thẩm là: ‘Khi ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng... Khi ta bệnh tật, các ngươi đã không thăm viếng” (Mt 25,36.43).
Có điều nữa chúng ta có thể làm cho những người bệnh tật đó là cầu nguyện cho họ. Hầu hết những bệnh nhân của Tin Mừng được chữa lành nhờ một ai đó đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu và nhờ đó Người đã chữa lành họ. Những lời cầu nguyện đơn sơ cho các bệnh nhân là những lời cầu nguyện rất đẹp lòng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước hai chị em nhà Mátta và Maria đã cầu nguyện với Chúa Giêsu khi người em trai của họ bị bệnh nặng: “Thưa Thầy, người mà Thầy yêu mến đang bị bệnh” (Ga 11,3). Chúng ta hãy nói với Chúa lời đó khi thấy ai đó bị bệnh nặng. Lạy Chúa, người mà Chúa yêu mến đang bị bệnh, xin Chúa đến cứu chữa họ. Amen!
Chúa Nhật V THƯỜNG NIÊN B - G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
Đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm trong Chúa Nhật này mang lại cho chúng ta một bản tường trình trung thực về một ngày sống kiểu mẫu của Chúa Giêsu. Theo đó, thánh Máccô cho biết: Khi rời khỏi hội đường, trước hết Chúa Giêsu đến thăm nhà ông Simon Phêrô, ở đó Người chữa lành cho mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Vào buổi chiều, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho người. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Sáng sớm, lúc trời con tối mịt, Người đã dậy và đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện; sau đó Người rời bỏ nơi đó và đi rao giảng Nước Trời cho những thành khác (Mc 1,29-39).
Từ trình thuật này chúng ta có thể tóm tắt một ngày sống của Chúa Giêsu là sự kết hợp của việc chữa bệnh, cầu nguyện và loan báo Nước Trời. Hôm nay, chúng ta hãy dành suy tư của chúng ta về lòng yêu mến của Chúa Giêsu đối với những người bệnh, bởi vì trong ít ngày nữa, phụng vụ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại Lộc Đức vào ngày 11 tháng 2, cũng là ngày Quốc Tế Bệnh Nhân mà chúng ta sẽ cử hành để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ.
1- Bệnh tật, nỗi đau của con người
Quả thế, những thành tựu của khoa học và y khoa trong thời đại chúng ta đã thay đổi sâu xa điều kiện của người bệnh. Trong nhiều trường hợp bệnh như lao phổi, phong cùi, cả ung thư… khoa học và y khoa hôm nay mang lại những hy vọng đáng tin cậy cho việc chữa lành cho những bệnh nan y này, hay ít ra cũng kéo dài nhiều thời gian sống của người bệnh hoặc hạn chế sự phát triển của chúng nơi bệnh nhân. Tuy nhiên, bệnh tật và cái chết thì vẫn chưa và sẽ không bao giờ được giải quyết và khuất phục một cách hoàn toàn. Nó là một phần của điều kiện con người. Sinh bệnh lão tử là quy luật tất yếu của con người. Khoa học dù có phát triển đến mức nào đi chăng nữa, cũng không thể xóa bỏ được bệnh tật và sự chết.
Niềm tin Kitô giáo có thể xoa dịu tình trạng này và đồng thời mang lại ý nghĩa và giá trị của bệnh tật, đau khổ và sự chết. Bởi thế, thật là cần thiết để trình bày hai lối tiếp cận: một là đối với chính người bệnh và thứ đến là đối với những ai chăm sóc người bệnh.
Quả thế, trước khi Đức Kitô đến, bệnh tật được coi là sự liên hệ chặt chẽ với tội lỗi. Nói cách khác, con người đã tin chắc rằng bệnh tật là hậu quả của một số tội riêng mà một người đã phạm nên nó phải bị Thiên Chúa phạt bằng chính hậu quả bệnh tật. Nên những ai bị bệnh như bệnh phong cùi phải chịu cảnh bị mọi người xa lánh, bị loại trừ khỏi cộng đoàn và xã hội. Họ thuộc hàng ô uế.
2- Ý nghĩa của bệnh tật và đau khổ
Với Chúa Giêsu và những phép lạ của Người làm, thái độ này đã thay đổi rất nhiều: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Trên thập giá, Người đã mang lại ý nghĩa cho đau khổ của con người, bao gồm cả bệnh tật: Bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết chúng ta nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa.
Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị tấn công tại quảng trường thánh Phêrô bởi tay súng Ali Aka. Suốt dọc đường tới bệnh viện Girelli, Đức Giáo Hoàng thì thầm tên Mẹ Maria bằng tiếng Ba Lan. Đức Gioan Phaolô II được phẫu thuật hơn bốn giờ. Cùng thời gian đó, hàng triệu tín hữu từ Ba Lan và khắp nơi trên thế giới, đều cầu nguyện. Bốn ngày sau cuộc mưu sát, Đức Giáo Hoàng phát biểu lần đầu tiên từ giường bệnh: “Cha cám ơn các con đã cầu nguyện nhiều cho Cha và chúc lành cho hết mọi người (…) Cha cầu nguyện cho người anh em đã bắn Cha và chân thành tha thứ cho anh. Lạy Mẹ Maria, con xin lặp lại: Totus tuus ego sum, con hoàn toàn thuộc về Mẹ.” Đức Thánh Cha đã thoát nạn và không ngần ngại quả quyết rằng chính bàn tay Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Fatima, đã đánh lạc đường bay của viên đạn định mệnh. Một năm sau, ngày 13.5.1982, Đức Gioan Phaolô II đến thánh đường Đức Mẹ Fatima để tạ ơn Mẹ.
Sau những kinh nghiệm từ bệnh tật và đau khổ của mình, Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã viết một lại thư nói về đau khổ, trong đó ngài nói: “Đau khổ mang lại ý nghĩa giúp chúng ta đặc biệt trở nên nhạy cảm, nhất là biết mở ra với hoạt động của những sức mạnh cứu độ từ Thiên Chúa, ý nghĩa và sức mạnh đó được ban cho nhân loại trong Đức Kitô” (x. Salvifici Doloris, no. 23).
Như thế, bệnh tật và đau khổ mở ra cho chúng ta và cho Chúa Giêsu trên thập giáo một kênh rất đặc biệt để thông truyền. Người bệnh tật không phải là những thành phần thụ động của Giáo Hội, nhưng là những thành phần năng động nhất, quý giá nhất. Trong cặp mắt của Thiên Chúa, một giờ chịu đau khổ, được đón nhận và chịu đựng với sự kiên nhẫn và lòng yêu mến Chúa, có thể xứng đáng hơn nhiều những hoạt động khác của thế giới, nếu chúng được thực hiện chỉ cho chính mình.
3- Hãy mang niềm hy vọng và sự an ủi cho người bệnh tật
Giờ đây chúng ta dành một ít lời cho những người đang chăm sóc bệnh nhân, tại tư gia hay trong những trung tâm y tế và bệnh viện. Người bệnh chắc chắn cần đến sự chăm sóc, khả năng chuyên môn khoa học, nhưng họ cũng rất cần đến niềm hy vọng và sự an ủi của chúng ta. Không có liều thuốc nào có thể xoa dịu nổi đau của người bệnh cho bằng việc họ được nghe bác sĩ nói: “Tôi có những hy vọng tích cực cho anh… Mọi sự sẻ tốt hơn và hy vọng với cách này anh sẻ khỏe lại…” Khi có thể, chúng ta hãy nói như thế với bệnh nhân với lòng chân thành không hề dối trá. Hãy luôn mang lại cho họ niềm hy vọng, lời nói tích cực để an ủi, thay vì những lời nói gây sốc, tiêu cực, làm cho họ tuyệt vọng và đau khổ chồng đau khổ! Bởi lẽ, niềm hy vọng là “bình ôxy tốt nhất” cho một người bệnh. Không nên để người bệnh ở một mình cô đơn, cô độc trong trên giường bệnh của họ. Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng một trong những việc của lòng thương xót là thăm viếng người bệnh tật. Chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta rằng một trong những tiêu chuẩn mà Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta trong ngày chung thẩm là: ‘Khi ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng... Khi ta bệnh tật, các ngươi đã không thăm viếng” (Mt 25,36.43).
Có điều nữa chúng ta có thể làm cho những người bệnh tật đó là cầu nguyện cho họ. Hầu hết những bệnh nhân của Tin Mừng được chữa lành nhờ một ai đó đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu và nhờ đó Người đã chữa lành họ. Những lời cầu nguyện đơn sơ cho các bệnh nhân là những lời cầu nguyện rất đẹp lòng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước hai chị em nhà Mátta và Maria đã cầu nguyện với Chúa Giêsu khi người em trai của họ bị bệnh nặng: “Thưa Thầy, người mà Thầy yêu mến đang bị bệnh” (Ga 11,3). Chúng ta hãy nói với Chúa lời đó khi thấy ai đó bị bệnh nặng. Lạy Chúa, người mà Chúa yêu mến đang bị bệnh, xin Chúa đến cứu chữa họ. Amen!
Phép lạ chữa nhạc mẫu Phêrô nói gì với ta về ba con người.
LM Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
21:28 02/02/2018
Cá-phác-na-um, thành phố mà ngày nay ai đến viếng thăm, cũng ngạc nhiên vì thấy dòng chữ bằng tiếng Anh: Capharnaum, the town of Jesus. “Thành của Giêsu,” nhưng Giêsu lại không có nhà riêng tại thành của mình, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.(*) Và Chúa đã cầm tay nâng mẹ vợ của Phêrô dậy.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba con người: Giêsu, các môn đệ của Giêsu, và mẹ vợ của Phêrô.
1. Phép lạ này cho chúng ta biết đôi điều về Chúa Giêsu .
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng. Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như đã chữa bệnh giữa đám đông trong nhà hội. Hôm nay, và tuần trước, bài Tin Mừng mô tả về một ngày của Chúa: ngày Sabbat lẽ ra nghỉ ngơi, nhưng Chúa làm việc liên tục: Sáng, Chúa Giêsu đến hội đường Capharnaum lắng nghe và giảng dạy, nơi đó Ngài đuổi quỉ ô uế, trên đường rời Hội Đường, Chúa chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô, người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.
Bác sỹ Paul Tournier có viết: “Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: ‘chúng tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều bệnh nhân nói.’ Tôi đáp : ‘Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm’ ” (kiên nhẫn thì thường phải cố gắng, còn “quan tâm” thì tự nhiên nó đến). Nơi Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín. Giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về môn đệ của Chúa Giêsu.
Bốn môn đệ của Chúa Giêsu chưa biết nhiều về Thầy của mình, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, và các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe. Đó có lẽ là điều tự nhiên nhất trên đời.
Bác sĩ Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông bác sĩ ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Bác sĩ hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Cầu nguyện mà giống hệt như tiếp tục cuộc trò chuyện đang có với Chúa Giêsu (tức là mục sư nói chuyện với bác sĩ, cũng chính là nói với Chúa, rồi đứng dậy cầu nguyện, cũng chính là tiếp tục câu chuyện, chứ không phải “bước sang” một lãnh vực khác).
Bác sỹ Tournier viết tiếp : “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Chúa Giêsu trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người bệnh ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người bệnh ấy”.
Mấy lời trên đây là con đường của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về nhạc mẫu của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào ?
Nhà văn Oscar Wilde viết “Chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi “Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn”? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: “Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?” Chàng đáp: “Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?” Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: “Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?”
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Còn bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể (Phêrô) như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa ; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”.(1Pr 4,10-11).
Bài giảng của cha Hàm, Anphong edit và đưa lên mạng.
LM Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
_____________
(*) Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Cá-phác-na-um và vùng cạnh hồ Galilê là điạ bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân. Chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba con người: Giêsu, các môn đệ của Giêsu, và mẹ vợ của Phêrô.
1. Phép lạ này cho chúng ta biết đôi điều về Chúa Giêsu .
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng. Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như đã chữa bệnh giữa đám đông trong nhà hội. Hôm nay, và tuần trước, bài Tin Mừng mô tả về một ngày của Chúa: ngày Sabbat lẽ ra nghỉ ngơi, nhưng Chúa làm việc liên tục: Sáng, Chúa Giêsu đến hội đường Capharnaum lắng nghe và giảng dạy, nơi đó Ngài đuổi quỉ ô uế, trên đường rời Hội Đường, Chúa chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô, người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.
Bác sỹ Paul Tournier có viết: “Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: ‘chúng tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều bệnh nhân nói.’ Tôi đáp : ‘Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm’ ” (kiên nhẫn thì thường phải cố gắng, còn “quan tâm” thì tự nhiên nó đến). Nơi Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín. Giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về môn đệ của Chúa Giêsu.
Bốn môn đệ của Chúa Giêsu chưa biết nhiều về Thầy của mình, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, và các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe. Đó có lẽ là điều tự nhiên nhất trên đời.
Bác sĩ Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông bác sĩ ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Bác sĩ hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Cầu nguyện mà giống hệt như tiếp tục cuộc trò chuyện đang có với Chúa Giêsu (tức là mục sư nói chuyện với bác sĩ, cũng chính là nói với Chúa, rồi đứng dậy cầu nguyện, cũng chính là tiếp tục câu chuyện, chứ không phải “bước sang” một lãnh vực khác).
Bác sỹ Tournier viết tiếp : “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Chúa Giêsu trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người bệnh ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người bệnh ấy”.
Mấy lời trên đây là con đường của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về nhạc mẫu của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào ?
Nhà văn Oscar Wilde viết “Chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi “Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn”? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: “Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?” Chàng đáp: “Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?” Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: “Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?”
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Còn bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể (Phêrô) như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa ; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”.(1Pr 4,10-11).
Bài giảng của cha Hàm, Anphong edit và đưa lên mạng.
LM Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
_____________
(*) Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Cá-phác-na-um và vùng cạnh hồ Galilê là điạ bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân. Chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đại diện Tòa Thánh Vatican lần đầu tiên tham dự khóa họp của Tổ chức Olympic Quồc tế
Dominic David Trần
11:29 02/02/2018
Đại diện Tòa Thánh Vatican lần đầu tiên tham dự khóa họp của Tổ chức Olympic Quốc tế
Vatican City: Sáng Thứ Sáu ngày 02/02/2018 Nhật báo The Vatican Newspaper L’Osservatore Romano tường trình rằng Đức Ông Melchor Sanchez De Toca Y Alameda thuộc Hội Đồng Giáo Hoàng đặc trách về Văn Hóa của Tòa Thánh sẽ dẫn đầu một Đoàn Đại biểu của Tòa Thánh đến tham dự Khóa Họp Đại Hội Đồng Olympic Thể Vận Quốc Tế, nơi sẽ có hàng loạt các phiên họp quyết định về các chính sách của Tổ chức Olympic Quốc Tế gọi tắt International Olympic Committee là IOC.
Cũng trong tinh thần hữu nghị Đức Ông Melchor Sanchez De Toca Y Amadela, Đại diện của Tòa Thánh Vatican nhân dịp này đã trao tặng các bộ áo thể thao màu đỏ tươi - là đồng phục chính thức của Đội tuyển Lực sĩ và Thể thao từ các nhân viên Tòa Thánh Vatican - cho ông Chủ tịch IOC Thomas Bach, và các đại diện Olympic của cả Nam Hàn và Bắc Hàn.
Thông Tấn xã AP cho biết đây là lần đầu tiên trong lịch sử của Tổ chức Olympic Quốc tế đã mời Đại diện của Tòa Thánh Vatican trong vai trò và tư cách Quan Sát Viên tham dự khóa họp vào tuần tới trước khi Đại hội Olympic diễn ra tại Pyeongchang, Nam Hàn.
Đoàn Đại diện của Tòa Thánh Vatican cũng sẽ tham dự Lễ Khai mạc Thế Vận Hội Olympic 2018 tại Nam Hàn, tương tự như tại Thế Vận Hội 2016 tại Rio de Janeiro, Ba Tây.
Đức Ông Sanchez ghi nhận rằng việc mời Đoàn Thể thao Bắc Hàn gồm 22 lực sĩ đến Nam Hàn tranh tài trong một số bộ môn thi đấu trong giữa lúc quan hệ Nam-Bắc Hàn đã căng thẳng ngày một tăng lên – đã chỉ cho thấy là “ sự hưu chiến để thi đấu trong Thế Vận Hội Olympic cho phép chúng ta tiếp tục hy vọng về một thế giới không có chiến tranh.”
Nhật báo L’Observatore bình luận thêm; “ Ngay cả sự kiện ‘ không có khả thể trực tiếp tham dự thi đua tranh tài trong Thế Vận Hội Olympic của các lực sĩ hay nhà thể thao của Tòa Thánh ’ “ thì các mối quan hệ liên lạc của Tòa Thánh Vatican với IOC sẽ vẫn tăng lên và tiếp tục với sự tham dự ở Thế Vận Hội Olympic Thanh Niên Mùa Hè sẽ được tổ chức trong tháng Mười năm nay tại thủ đô Buenos Aires, nước Á Căn Đình – là thành phố và là quê hương của chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Cũng trong tinh thần hữu nghị Đức Ông Melchor Sanchez De Toca Y Amadela, Đại diện của Tòa Thánh Vatican nhân dịp này đã trao tặng các bộ áo thể thao màu đỏ tươi - là đồng phục chính thức của Đội tuyển Lực sĩ và Thể thao từ các nhân viên Tòa Thánh Vatican - cho ông Chủ tịch IOC Thomas Bach, và các đại diện Olympic của cả Nam Hàn và Bắc Hàn.
Thông Tấn xã AP cho biết đây là lần đầu tiên trong lịch sử của Tổ chức Olympic Quốc tế đã mời Đại diện của Tòa Thánh Vatican trong vai trò và tư cách Quan Sát Viên tham dự khóa họp vào tuần tới trước khi Đại hội Olympic diễn ra tại Pyeongchang, Nam Hàn.
Đoàn Đại diện của Tòa Thánh Vatican cũng sẽ tham dự Lễ Khai mạc Thế Vận Hội Olympic 2018 tại Nam Hàn, tương tự như tại Thế Vận Hội 2016 tại Rio de Janeiro, Ba Tây.
Đức Ông Sanchez ghi nhận rằng việc mời Đoàn Thể thao Bắc Hàn gồm 22 lực sĩ đến Nam Hàn tranh tài trong một số bộ môn thi đấu trong giữa lúc quan hệ Nam-Bắc Hàn đã căng thẳng ngày một tăng lên – đã chỉ cho thấy là “ sự hưu chiến để thi đấu trong Thế Vận Hội Olympic cho phép chúng ta tiếp tục hy vọng về một thế giới không có chiến tranh.”
Nhật báo L’Observatore bình luận thêm; “ Ngay cả sự kiện ‘ không có khả thể trực tiếp tham dự thi đua tranh tài trong Thế Vận Hội Olympic của các lực sĩ hay nhà thể thao của Tòa Thánh ’ “ thì các mối quan hệ liên lạc của Tòa Thánh Vatican với IOC sẽ vẫn tăng lên và tiếp tục với sự tham dự ở Thế Vận Hội Olympic Thanh Niên Mùa Hè sẽ được tổ chức trong tháng Mười năm nay tại thủ đô Buenos Aires, nước Á Căn Đình – là thành phố và là quê hương của chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Đức Thánh Cha chủ sự Ngày Đời Sống Thánh Hiến lần thứ 22
LM. Trần Đức Anh OP
13:12 02/02/2018
VATICAN. Chiều 2-2-2018, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh và cũng là Ngày Thế giới về đời sống thánh hiến lần thứ 22, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ lúc 5 giờ 30, có ĐHY João Aviz de Braz, người Brazil, Tổng Trưởng Bộ các dòng tu, Đức TGM Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, dòng Phanxicô Tây Ban Nha, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các LM dòng, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.
Trong bài giảng, ĐTC nhắc nhở các tu sĩ cảnh giác trước cuộc sống nhộn nhịp dồn dập ngày nay, nó làm cho chúng ta khép kín bao nhiêu cánh cửa gặp gỡ, thường vì sợ hãi tha nhân. Ngài nói: ”Trong đời sống thánh hiến không được như vậy; người anh, người chị mà Thiên Chúa ban cho tôi, chính là thành phần lịch sử của tôi, là những hồng ân cần gìn giữ. Đừng nhìn màn hình điện thoại di động hơn là đôi mắt của người anh em, hoặc cắm nhìn vào các chương trình của chúng ta hơn là vào Chúa. Vì khi những dự án, kỹ thuật và các cơ cấu được đặt ở trung tâm, thì đời sống thánh hiến sẽ không còn thu hút và không thông truyền nữa; nó không triển nở vì quên đi cội rễ của nó”.
ĐTC cũng nhắc nhở rằng đời sống thánh hiến nảy sinh và tái nảy sinh từ cuộc gặp gỡ và noi gương Chúa Giêsu thanh bần, khiết tịnh và vâng phục: Trong khi cuộc sống thế giới tìm cách chiếm hữu, thì đời sống thánh hiến từ bỏ giàu sang của cải chóng qua để ôm lấy Đấng trường tồn. Đời sống trần thế theo đuổi khoái lạc và ước muốn của cái tôi, đời sống thánh hiến giải thlai tình cảm khỏi mọi chiếm hữu để yêu mến trọn vẹn Thiên Chúa và tha nhân. Cuộc sống trần thế bị thúc đẩy làm những gì nó muốn, còn đời sống thánh hiến chọn vâng phục khiêm hạ như tự do lớn hơn. Trong khi cuộc sống trần thế sớm để cho đôi tay và con tim chúng ta trống rỗng, thì đời sống theo Chúa Giêsu làm đầy an bình cho đến cùng, như trong Tin Mừng, nơi những người già hạnh phúc đi tới cuối đời với Chúa, giữa những bàn tay và niềm vui của con tim.” (Rei 2-2-2018)
Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.
Trong bài giảng, ĐTC nhắc nhở các tu sĩ cảnh giác trước cuộc sống nhộn nhịp dồn dập ngày nay, nó làm cho chúng ta khép kín bao nhiêu cánh cửa gặp gỡ, thường vì sợ hãi tha nhân. Ngài nói: ”Trong đời sống thánh hiến không được như vậy; người anh, người chị mà Thiên Chúa ban cho tôi, chính là thành phần lịch sử của tôi, là những hồng ân cần gìn giữ. Đừng nhìn màn hình điện thoại di động hơn là đôi mắt của người anh em, hoặc cắm nhìn vào các chương trình của chúng ta hơn là vào Chúa. Vì khi những dự án, kỹ thuật và các cơ cấu được đặt ở trung tâm, thì đời sống thánh hiến sẽ không còn thu hút và không thông truyền nữa; nó không triển nở vì quên đi cội rễ của nó”.
ĐTC cũng nhắc nhở rằng đời sống thánh hiến nảy sinh và tái nảy sinh từ cuộc gặp gỡ và noi gương Chúa Giêsu thanh bần, khiết tịnh và vâng phục: Trong khi cuộc sống thế giới tìm cách chiếm hữu, thì đời sống thánh hiến từ bỏ giàu sang của cải chóng qua để ôm lấy Đấng trường tồn. Đời sống trần thế theo đuổi khoái lạc và ước muốn của cái tôi, đời sống thánh hiến giải thlai tình cảm khỏi mọi chiếm hữu để yêu mến trọn vẹn Thiên Chúa và tha nhân. Cuộc sống trần thế bị thúc đẩy làm những gì nó muốn, còn đời sống thánh hiến chọn vâng phục khiêm hạ như tự do lớn hơn. Trong khi cuộc sống trần thế sớm để cho đôi tay và con tim chúng ta trống rỗng, thì đời sống theo Chúa Giêsu làm đầy an bình cho đến cùng, như trong Tin Mừng, nơi những người già hạnh phúc đi tới cuối đời với Chúa, giữa những bàn tay và niềm vui của con tim.” (Rei 2-2-2018)
Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin lên tiếng về cuộc đối thoại Vatican - Trung Hoa
Vũ Văn An
16:39 02/02/2018
Như đã loan tin, tạp chí Vatican Insider, một tạp chí do tờ báo kỳ cựu nhất của Ý, theo khuynh hướng trung dung (centrist) là tờ La Stampa, sở hữu vừa phỏng vấn Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin về cuộc đối thoại của Tòa Thánh với chính phủ Cộng Sản Trung Hoa. Mục tiêu của cuộc phỏng vấn này, theo Vatican Insider, là như sau: “một vài dấu hiệu (bao gồm những hoạt động mờ mờ ảo ảo, những thao túng chính trị thực sự, và thậm chí phá hoại ngầm) cho thấy các phát triển quan trọng có thể diễn ra giữa Tòa Thánh và Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Thời gian quả thích đáng để lắng nghe lời nói có thẩm quyền, sẽ giúp ta nắm được điều Đức Giáo Hoàng và Tòa Thánh thực sự ấp ủ trong lòng. Và với các anh chị em Trung Hoa trong tâm trí, giúp ta đánh tan ngờ vực và những làn khói giả tạo, nhìn thẳng vào tâm điểm toàn bộ vấn đề theo Giáo Hội, bên ngoài các trình thuật bị chính trị hóa. Vì lý do này, Vatican Insider đã phỏng vấn Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.”
Thưa Đức Hồng Y, ngài có thể nói gì về cuộc đối thoại giữa Toà thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa?
Như mọi người đã biết, với sự xuất hiện của" Trung Hoa Mới ", đối với đời sống của Giáo hội ở đất nước vĩ đại đó, có những giờ phút tương phản nghiêm trọng và những đau khổ trầm trọng. Tuy nhiên, kể từ thập niên tám mươi, đã có những cuộc tiếp xúc giữa các đại diện của Toà thánh và của Trung Hoa Nhân Dân, những người hiểu biết các mùa khác nhau và các biến cố thay thế cho nhau. Tòa Thánh đã luôn luôn duy trì phương thức mục vụ, cố gắng vượt qua các tương phản và sẵn sàng tham dự một cuộc đối thoại tôn trọng nhau và có tính xây dựng với các nhà cầm quyền dân sự. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã trình bầy rõ tinh thần của cuộc đối thoại này trong Bức Thư năm 2007 của ngài gửi người Công Giáo Trung Hoa, "giải pháp cho các vấn đề hiện hữu không thể được theo đuổi thông qua một xung đột liên tục với các nhà cầm quyền dân sự hợp pháp" (số 4). Dưới triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, các cuộc đàm phán liên tục cũng đang đi theo cùng những đường lối này: sự cởi mở một cách xây dựng đối với việc đối thoại và trung thành với Truyền Thống chân chính của Giáo Hội ".
Các mong đợi cụ thể của Tòa Thánh trong cuộc đối thoại này là gì?
Trước hết, tôi muốn đưa ra tiền đề này: ở Trung Hoa, có lẽ hơn những nơi khác, mặc dù có rất nhiều khó khăn và đau khổ, người Công Giáo đã có thể bảo tồn kho tàng đức tin chân chính, giữ vững mối dây hiệp thông phẩm trật giữa các giám mục và người kế vị Thánh Phêrô, như một sự bảo đảm hữu hình của chính đức tin.Trên thực tế, sự hiệp thông giữa Giám mục Rôma và tất cả các Giám mục Công Giáo đụng đến tâm điểm của sự hiệp nhất của Giáo Hội: đây không phải là vấn đề tư riêng giữa Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục Trung Hoa hay giữa Tông Tòa và các nhà cầm quyền dân sự. Nói như thế rồi, mục đích chính của Tòa Thánh trong cuộc đối thoại đang diễn ra chính là bảo vệ sự hiệp thông trong Giáo Hội, theo truyền thống chân chính và kỷ luật liên tục của Giáo hội. Ông thấy đó, ở Trung Hoa, không phải là hai Giáo hội, nhưng là hai cộng đồng tín hữu được kêu gọi theo đuổi con đường hòa giải từng bước hướng tới sự hợp nhất. Do đó, đây không phải là vấn đề duy trì một cuộc xung đột kéo dài giữa các nguyên tắc và cơ cấu chống chọi nhau, nhưng tìm ra các giải pháp mục vụ thực tiễn cho phép người Công Giáo sống đức tin của mình và cùng nhau tiếp tục công việc rao giảng phúc âm trong bối cảnh chuyên biệt của Trung Hoa ".
Sự hiệp thông mà ông đã nói đến đòi phải đặt câu hỏi cho vấn đề tế nhị là việc bổ nhiệm các giám mục, một điều đang gây ra nhiều tranh cãi.
Liệu một thỏa thuận khả hữu về vấn đề này có thể thành công trong việc giải quyết các vấn đề của Giáo hội ở Trung Hoa một cách công bằng hay không?
Tòa thánh thấy và chia sẻ các đau khổ trầm trọng mà nhiều người Công Giáo ở Trung Hoa phải chịu đựng và sự làm chứng đầy quảng đại của họ đối với Tin Mừng. Tòa Thánh biết rằng có rất nhiều vấn đề đối với đời sống của Giáo Hội và không thể giải quyết mọi vấn đề này cùng với nhau được. Nhưng, trong bối cảnh này, vấn đề bổ nhiệm các giám mục là chủ yếu. Mặt khác, chúng ta không thể quên rằng tự do của Giáo hội và việc bổ nhiệm các giám mục luôn luôn là những chủ đề được lặp đi lặp lại trong các mối liên hệ giữa Toà Thánh và các quốc gia. Chắc chắn, con đường bắt đầu với Trung Hoa thông qua các tiếp xúc hiện nay đang có tính tiệm tiến và vẫn còn phải đối diện với nhiều biến cố không lường trước được, cũng như nhiều trường hợp khẩn cấp mới có thể xảy ra. Không ai có thể nói trong lương tâm rằng họ có giải pháp hoàn hảo cho mọi vấn đề. Thời gian và kiên nhẫn là những điều cần thiết để chữa lành nhiều vết thương bản thân gây ra cho nhau trong các cộng đồng. Thật không may, điều chắc chắn là vẫn còn những hiểu lầm, mệt mỏi và đau khổ phải đối diện với. Nhưng tất cả chúng ta đều tin tưởng rằng một khi vấn đề cử nhiệm các Giám mục đã được xem xét thỏa đáng, các khó khăn tồn đọng không còn đến nỗi có thể ngăn cản người Công Giáo Trung Hoa sống hiệp thông với nhau và với Đức Giáo Hoàng nữa. Đây là điều quan trọng, hằng được chờ đợi và mong ước từ lâu bởi Thánh Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI và ngày nay được Đức Giáo Hoàng Phanxicô theo đuổi với một tầm nhìn xa ".
Thế nào là thái độ đích thực của Tòa Thánh đối với nhà cầm quyền Trung Hoa?
Điều quan trọng là phải nhắc lại điều này: trong cuộc đối thoại với Trung Hoa, Tòa Thánh theo đuổi một mục đích thiêng liêng: được hiện hữu và cảm thấy mình hoàn toàn là người Công Giáo, và, đồng thời là người Trung Hoa chân chính. Với sự trung thực và tính hiện thực, Giáo Hội không yêu cầu điều gì mà chỉ yêu cầu được tuyên xưng đức tin một cách thanh thản hơn, dứt khoát chấm dứt thời kỳ tương phản lâu dài, ngõ hầu dành nhiều chỗ cho sự tín thác lớn hơn và cung hiến sự đóng góp tích cực của người Công Giáo cho lợi ích của xã hội Trung Hoa như một toàn thể. Dĩ nhiên, ngày nay, nhiều vết thương vẫn còn toang hóac. Muốn chữa lành chúng, ta cần sử dụng dầu thơm thương xót. Nếu ai đó được yêu cầu làm một hy sinh, nhỏ hay lớn, thì mọi người nên hiểu rõ ràng rằng đây không phải là giá của một cuộc trao đổi chính trị, nhưng nằm trong quan điểm phúc âm để đạt lợi ích lớn hơn, đó là lợi ích của Giáo Hội Chúa Kitô. Hy vọng rằng khi Chúa muốn điều ấy, thì chúng ta không cần nói đến các giám mục "hợp pháp" và "bất hợp pháp", "bí mật" và "chính thức" trong Giáo hội ở Trung Hoa, nhưng nói đến cuộc gặp gỡ giữa các anh chị em, học lại ngôn ngữ hợp tác và hiệp thông. Không có cảm nghiệm này, làm sao Giáo Hội ở Trung Hoa có thể tái phát động cuộc hành trình loan báo Tin Mừng và mang lại cho người khác niềm an ủi của Chúa? Nếu ông không sẵn sàng tha thứ, thì bất hạnh thay, điều này có nghĩa: có những lợi ích khác để bảo vệ: nhưng đây không phải là quan điểm Tin Mừng.
Nếu đây là thái độ, há không có nguy cơ xóa bỏ các đau khổ của quá khứ và hiện tại bằng cách xóa bàn làm lại đấy ư?
Ngược lại mới đúng, nhiều Kitô hữu Trung Hoa, khi cử hành các vị tử đạo của họ, từng chịu nhiều thử thách và bách hại bất công, họ nhớ rằng họ có thể trông cậy vào Thiên Chúa, ngay trong thân phận nhân bản mong manh của họ. Ngày nay, cách tốt nhất để tôn vinh chứng từ đó và làm cho nó sinh hoa trái trong hiện tại, là trao phó đời sống hiện tại của các cộng đồng Công Giáo ở Trung Hoa cho Chúa Giêsu. Nhưng không thể thực hiện điều này một cách duy linh và phi thân xác được. Nó phải được thực hiện bằng cách chọn lòng trung thành với Người Kế vị Thánh Phêrô, với tinh thần vâng lời con thảo, ngay cả khi mọi chuyện xem ra không rõ ràng và dễ hiểu ngay lập tức. Về câu hỏi của ông, không phải là xóa bàn làm lại, bỏ qua hoặc, gần như xóa bỏ một cách ma thuật con đường đau đớn của rất nhiều tín hữu và mục tử, mà là đầu tư vốn liếng nhân bản và thiêng liêng của rất nhiều thử thách để xây dựng một tương lai thanh thản và huynh đệ hơn, với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, Đấng từ trước đến nay đã bảo vệ đức tin của người Công Giáo Trung Hoa cũng là một Chúa Thánh Thần, Đấng hỗ trợ họ ngày nay trên con đường mới mà họ đã bước chân vào".
Có một lời khuyên nào đó, một yêu cầu đặc biệt mà Tông Tòa có thể ngỏ với các tín hữu Trung Hoa vào lúc này? Đối với những người vui với những phát triển khả hữu mới mẻ, nhưng cả đối với những người đang mơ hồ lẫn lộn hoặc có phản đối không?
Tôi muốn nói một cách hết sức đơn giản và rõ ràng rằng Giáo Hội sẽ không bao giờ quên những thử thách và đau khổ của người Công Giáo Trung Hoa trong quá khứ và hiện tại. Tất cả những điều này là một kho báu lớn cho Giáo hội phổ quát. Do đó, đối với người Công Giáo Trung Hoa, tôi xin nói với tình huynh đệ lớn lao rằng: chúng tôi gần gũi với anh chị em, không những qua cầu nguyện, mà còn qua cam kết hàng ngày của chúng tôi sẽ cùng đi và hỗ trợ anh chị em trên con đường hiệp thông trọn vẹn. Vì thế, chúng tôi xin anh chị em đừng ai nên bám vào tinh thần phản đối để lên án anh em mình hay sử dụng quá khứ như một cái cớ để khuấy động những sự căm phẫn và tỏa cảng mới. Trái lại, chúng tôi hy vọng rằng mỗi người sẽ nhìn một cách tin tưởng vào tương lai của Giáo Hội, vượt quá bất cứ giới hạn nào của con người.
Thưa Đức Hồng Y, ngài có thực sự tin rằng điều đó có thể không? Niềm tin của ngài dựa trên điều gì?
Tôi xác tín một điều. Tin tưởng không phải là kết quả của sức mạnh ngoại giao hay đàm phán. Tin tưởng dựa vào Chúa là Đấng hướng dẫn lịch sử. Chúng tôi tin tưởng rằng các tín hữu Trung Hoa, nhờ cảm thức đức tin của họ, sẽ biết làm thế nào để nhận ra rằng hành động của Tòa Thánh được tạo sinh lực bởi niềm tin này, một niềm tin không tương ứng với luận lý học thế gian. Đặc biệt tùy ở các mục tử trong việc giúp các tín hữu, trong sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng, họ nhận ra điểm qui chiếu chắc chắn để nắm vững kế hoạch của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh hiện tại.
Đức Giáo Hoàng có được thông báo những gì các cộng sự viên của ngài làm trong các tiếp xúc của họ với chính phủ Trung Hoa không?
Có, Đức Thánh Cha đích thân theo dõi các cuộc tiếp xúc với các nhà cầm quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tất cả các cộng sự viên của ngài đều nhất trí với ngài. Không ai có sáng kiến riêng. Thành thật mà nói, bất kỳ thứ lý luận nào khác, với tôi, xem ra đều không đúng chỗ.
Trong ít thời gian gần đây, nhiều phát biểu phê phán đã xuất hiện, ngay trong Giáo hội, về cách tiếp cận được Toà Thánh chấp nhận trong cuộc đối thoại với các nhà cầm quyền Trung Hoa, bị một số người phán đo án là "đầu hàng thật sự" vì các lý do chính trị. Ngài nghĩ sao?
Trước tiên tôi nghĩ rằng trong Giáo hội, người ta có toàn quyền không đồng ý và nói ra các lời chỉ trích của mình, và Toà Thánh có bổn phận tinh thần lắng nghe các chỉ trích này và đánh giá chúng một cách cẩn thận. Tôi cũng xác tín rằng, giữa các Kitô hữu, lời chỉ trích nên được hướng về việc xây dựng hiệp thông, chứ không phải làm khuấy động các chia rẽ. Một cách thẳng thắn, tôi xin nói với ông: Tôi cũng xác tín rằng một phần đau khổ mà Giáo Hội ở Trung Hoa đã trải qua không phải là do ý muốn của các cá nhân cho bằng do sự phức tạp khách quan của tình hình. Vì vậy, điều hợp pháp là có những quan điểm khác nhau về những cách đáp ứng thích hợp nhất đối với các vấn đề trong quá khứ và hiện tại. Đó là điều hoàn toàn hợp lý. Sau khi đã nói như vậy, tôi vẫn nghĩ rằng không một quan điểm cá nhân nào có thể được coi như người giải thích độc quyền về việc điều gì tốt đối với người Công Giáo Trung Hoa. Do đó, Tòa Thánh hướng cố gắng tìm ra một tổng hợp của sự thật và một cách thực tế để có thể đáp ứng các kỳ vọng chính đáng của các tín hữu, bên trong và bên ngoài Trung Hoa. Phải có sự khiêm tốn và tinh thần đức tin cao hơn để cùng nhau khám phá ra kế hoạch của Thiên Chúa cho Giáo Hội ở Trung Hoa. Mọi người phải thận trọng và ôn hòa hơn để không rơi vào những cuộc tranh cãi vô bổ làm tổn thương sự hiệp thông và lấy mất niềm hy vọng của chúng ta về một tương lai tốt đẹp hơn.
Ý ngài muốn nói gì?
Tôi muốn nói rằng tất cả chúng ta đều được kêu gọi biết phân biệt chiều kích thiêng liêng và mục vụ khỏi chiều kích chính trị một cách thích đáng hơn. Chẳng hạn, ta hãy bắt đầu với các từ ngữ ta dùng hàng ngày. Các cách phát biểu như quyền lực, phản bội, kháng cự, đầu hàng, đối đầu, thất bại, thỏa hiệp, nên nhường chỗ cho những cách phát biểu khác, như phục vụ, đối thoại, thương xót, tha thứ, hòa giải, hợp tác, hiệp thông. Nếu ông không sẵn sàng thay đổi cách tiếp cận này, thì sẽ có vấn đề trầm trọng: đó là vấn đề chỉ suy nghĩ và hành động vì chính trị mà thôi. Về mặt này, Tòa Thánh hy vọng mọi người có được một sự hồi tâm chân thành về mục vụ, lấy cảm hứng từ Tin Mừng thương xót, để học cách chào đón lẫn nhau giữa các anh chị em, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường kêu gọi.
Ngài sẽ nói gì với các nhà lãnh đạo Trung Hoa ngày hôm nay?
Về điểm này, tôi muốn nhắc lại những lời của Đức Bênêđictô XVI trong Thư gửi tín hữu Công Giáo Trung Hoa: Ngài dạy rằng sứ mệnh đúng đắn của Giáo Hội không phải là thay đổi cơ cấu hay việc cai trị của Nhà nước, mà là loan báo cho nhân loại Chúa Kitô, Đấng Cứu Rỗi của thế giới, cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Giáo hội ở Trung Hoa không muốn thay thế nhà nước, nhưng muốn đóng góp tích cực và thanh thản vào lợi ích của mọi người. Do đó, sứ điệp của Tòa Thánh là sứ điệp thiện chí, với hy vọng tiếp tục cuộc đối thoại đã bắt đầu ngõ hầu góp phần vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa, vào lợi ích của nhân dân Trung Hoa và vào hòa bình thế giới.
Thưa Đức Hồng Y, ngài có thể nói gì về cuộc đối thoại giữa Toà thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa?
Như mọi người đã biết, với sự xuất hiện của" Trung Hoa Mới ", đối với đời sống của Giáo hội ở đất nước vĩ đại đó, có những giờ phút tương phản nghiêm trọng và những đau khổ trầm trọng. Tuy nhiên, kể từ thập niên tám mươi, đã có những cuộc tiếp xúc giữa các đại diện của Toà thánh và của Trung Hoa Nhân Dân, những người hiểu biết các mùa khác nhau và các biến cố thay thế cho nhau. Tòa Thánh đã luôn luôn duy trì phương thức mục vụ, cố gắng vượt qua các tương phản và sẵn sàng tham dự một cuộc đối thoại tôn trọng nhau và có tính xây dựng với các nhà cầm quyền dân sự. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã trình bầy rõ tinh thần của cuộc đối thoại này trong Bức Thư năm 2007 của ngài gửi người Công Giáo Trung Hoa, "giải pháp cho các vấn đề hiện hữu không thể được theo đuổi thông qua một xung đột liên tục với các nhà cầm quyền dân sự hợp pháp" (số 4). Dưới triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, các cuộc đàm phán liên tục cũng đang đi theo cùng những đường lối này: sự cởi mở một cách xây dựng đối với việc đối thoại và trung thành với Truyền Thống chân chính của Giáo Hội ".
Các mong đợi cụ thể của Tòa Thánh trong cuộc đối thoại này là gì?
Trước hết, tôi muốn đưa ra tiền đề này: ở Trung Hoa, có lẽ hơn những nơi khác, mặc dù có rất nhiều khó khăn và đau khổ, người Công Giáo đã có thể bảo tồn kho tàng đức tin chân chính, giữ vững mối dây hiệp thông phẩm trật giữa các giám mục và người kế vị Thánh Phêrô, như một sự bảo đảm hữu hình của chính đức tin.Trên thực tế, sự hiệp thông giữa Giám mục Rôma và tất cả các Giám mục Công Giáo đụng đến tâm điểm của sự hiệp nhất của Giáo Hội: đây không phải là vấn đề tư riêng giữa Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục Trung Hoa hay giữa Tông Tòa và các nhà cầm quyền dân sự. Nói như thế rồi, mục đích chính của Tòa Thánh trong cuộc đối thoại đang diễn ra chính là bảo vệ sự hiệp thông trong Giáo Hội, theo truyền thống chân chính và kỷ luật liên tục của Giáo hội. Ông thấy đó, ở Trung Hoa, không phải là hai Giáo hội, nhưng là hai cộng đồng tín hữu được kêu gọi theo đuổi con đường hòa giải từng bước hướng tới sự hợp nhất. Do đó, đây không phải là vấn đề duy trì một cuộc xung đột kéo dài giữa các nguyên tắc và cơ cấu chống chọi nhau, nhưng tìm ra các giải pháp mục vụ thực tiễn cho phép người Công Giáo sống đức tin của mình và cùng nhau tiếp tục công việc rao giảng phúc âm trong bối cảnh chuyên biệt của Trung Hoa ".
Sự hiệp thông mà ông đã nói đến đòi phải đặt câu hỏi cho vấn đề tế nhị là việc bổ nhiệm các giám mục, một điều đang gây ra nhiều tranh cãi.
Liệu một thỏa thuận khả hữu về vấn đề này có thể thành công trong việc giải quyết các vấn đề của Giáo hội ở Trung Hoa một cách công bằng hay không?
Tòa thánh thấy và chia sẻ các đau khổ trầm trọng mà nhiều người Công Giáo ở Trung Hoa phải chịu đựng và sự làm chứng đầy quảng đại của họ đối với Tin Mừng. Tòa Thánh biết rằng có rất nhiều vấn đề đối với đời sống của Giáo Hội và không thể giải quyết mọi vấn đề này cùng với nhau được. Nhưng, trong bối cảnh này, vấn đề bổ nhiệm các giám mục là chủ yếu. Mặt khác, chúng ta không thể quên rằng tự do của Giáo hội và việc bổ nhiệm các giám mục luôn luôn là những chủ đề được lặp đi lặp lại trong các mối liên hệ giữa Toà Thánh và các quốc gia. Chắc chắn, con đường bắt đầu với Trung Hoa thông qua các tiếp xúc hiện nay đang có tính tiệm tiến và vẫn còn phải đối diện với nhiều biến cố không lường trước được, cũng như nhiều trường hợp khẩn cấp mới có thể xảy ra. Không ai có thể nói trong lương tâm rằng họ có giải pháp hoàn hảo cho mọi vấn đề. Thời gian và kiên nhẫn là những điều cần thiết để chữa lành nhiều vết thương bản thân gây ra cho nhau trong các cộng đồng. Thật không may, điều chắc chắn là vẫn còn những hiểu lầm, mệt mỏi và đau khổ phải đối diện với. Nhưng tất cả chúng ta đều tin tưởng rằng một khi vấn đề cử nhiệm các Giám mục đã được xem xét thỏa đáng, các khó khăn tồn đọng không còn đến nỗi có thể ngăn cản người Công Giáo Trung Hoa sống hiệp thông với nhau và với Đức Giáo Hoàng nữa. Đây là điều quan trọng, hằng được chờ đợi và mong ước từ lâu bởi Thánh Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI và ngày nay được Đức Giáo Hoàng Phanxicô theo đuổi với một tầm nhìn xa ".
Thế nào là thái độ đích thực của Tòa Thánh đối với nhà cầm quyền Trung Hoa?
Điều quan trọng là phải nhắc lại điều này: trong cuộc đối thoại với Trung Hoa, Tòa Thánh theo đuổi một mục đích thiêng liêng: được hiện hữu và cảm thấy mình hoàn toàn là người Công Giáo, và, đồng thời là người Trung Hoa chân chính. Với sự trung thực và tính hiện thực, Giáo Hội không yêu cầu điều gì mà chỉ yêu cầu được tuyên xưng đức tin một cách thanh thản hơn, dứt khoát chấm dứt thời kỳ tương phản lâu dài, ngõ hầu dành nhiều chỗ cho sự tín thác lớn hơn và cung hiến sự đóng góp tích cực của người Công Giáo cho lợi ích của xã hội Trung Hoa như một toàn thể. Dĩ nhiên, ngày nay, nhiều vết thương vẫn còn toang hóac. Muốn chữa lành chúng, ta cần sử dụng dầu thơm thương xót. Nếu ai đó được yêu cầu làm một hy sinh, nhỏ hay lớn, thì mọi người nên hiểu rõ ràng rằng đây không phải là giá của một cuộc trao đổi chính trị, nhưng nằm trong quan điểm phúc âm để đạt lợi ích lớn hơn, đó là lợi ích của Giáo Hội Chúa Kitô. Hy vọng rằng khi Chúa muốn điều ấy, thì chúng ta không cần nói đến các giám mục "hợp pháp" và "bất hợp pháp", "bí mật" và "chính thức" trong Giáo hội ở Trung Hoa, nhưng nói đến cuộc gặp gỡ giữa các anh chị em, học lại ngôn ngữ hợp tác và hiệp thông. Không có cảm nghiệm này, làm sao Giáo Hội ở Trung Hoa có thể tái phát động cuộc hành trình loan báo Tin Mừng và mang lại cho người khác niềm an ủi của Chúa? Nếu ông không sẵn sàng tha thứ, thì bất hạnh thay, điều này có nghĩa: có những lợi ích khác để bảo vệ: nhưng đây không phải là quan điểm Tin Mừng.
Nếu đây là thái độ, há không có nguy cơ xóa bỏ các đau khổ của quá khứ và hiện tại bằng cách xóa bàn làm lại đấy ư?
Ngược lại mới đúng, nhiều Kitô hữu Trung Hoa, khi cử hành các vị tử đạo của họ, từng chịu nhiều thử thách và bách hại bất công, họ nhớ rằng họ có thể trông cậy vào Thiên Chúa, ngay trong thân phận nhân bản mong manh của họ. Ngày nay, cách tốt nhất để tôn vinh chứng từ đó và làm cho nó sinh hoa trái trong hiện tại, là trao phó đời sống hiện tại của các cộng đồng Công Giáo ở Trung Hoa cho Chúa Giêsu. Nhưng không thể thực hiện điều này một cách duy linh và phi thân xác được. Nó phải được thực hiện bằng cách chọn lòng trung thành với Người Kế vị Thánh Phêrô, với tinh thần vâng lời con thảo, ngay cả khi mọi chuyện xem ra không rõ ràng và dễ hiểu ngay lập tức. Về câu hỏi của ông, không phải là xóa bàn làm lại, bỏ qua hoặc, gần như xóa bỏ một cách ma thuật con đường đau đớn của rất nhiều tín hữu và mục tử, mà là đầu tư vốn liếng nhân bản và thiêng liêng của rất nhiều thử thách để xây dựng một tương lai thanh thản và huynh đệ hơn, với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, Đấng từ trước đến nay đã bảo vệ đức tin của người Công Giáo Trung Hoa cũng là một Chúa Thánh Thần, Đấng hỗ trợ họ ngày nay trên con đường mới mà họ đã bước chân vào".
Có một lời khuyên nào đó, một yêu cầu đặc biệt mà Tông Tòa có thể ngỏ với các tín hữu Trung Hoa vào lúc này? Đối với những người vui với những phát triển khả hữu mới mẻ, nhưng cả đối với những người đang mơ hồ lẫn lộn hoặc có phản đối không?
Tôi muốn nói một cách hết sức đơn giản và rõ ràng rằng Giáo Hội sẽ không bao giờ quên những thử thách và đau khổ của người Công Giáo Trung Hoa trong quá khứ và hiện tại. Tất cả những điều này là một kho báu lớn cho Giáo hội phổ quát. Do đó, đối với người Công Giáo Trung Hoa, tôi xin nói với tình huynh đệ lớn lao rằng: chúng tôi gần gũi với anh chị em, không những qua cầu nguyện, mà còn qua cam kết hàng ngày của chúng tôi sẽ cùng đi và hỗ trợ anh chị em trên con đường hiệp thông trọn vẹn. Vì thế, chúng tôi xin anh chị em đừng ai nên bám vào tinh thần phản đối để lên án anh em mình hay sử dụng quá khứ như một cái cớ để khuấy động những sự căm phẫn và tỏa cảng mới. Trái lại, chúng tôi hy vọng rằng mỗi người sẽ nhìn một cách tin tưởng vào tương lai của Giáo Hội, vượt quá bất cứ giới hạn nào của con người.
Thưa Đức Hồng Y, ngài có thực sự tin rằng điều đó có thể không? Niềm tin của ngài dựa trên điều gì?
Tôi xác tín một điều. Tin tưởng không phải là kết quả của sức mạnh ngoại giao hay đàm phán. Tin tưởng dựa vào Chúa là Đấng hướng dẫn lịch sử. Chúng tôi tin tưởng rằng các tín hữu Trung Hoa, nhờ cảm thức đức tin của họ, sẽ biết làm thế nào để nhận ra rằng hành động của Tòa Thánh được tạo sinh lực bởi niềm tin này, một niềm tin không tương ứng với luận lý học thế gian. Đặc biệt tùy ở các mục tử trong việc giúp các tín hữu, trong sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng, họ nhận ra điểm qui chiếu chắc chắn để nắm vững kế hoạch của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh hiện tại.
Đức Giáo Hoàng có được thông báo những gì các cộng sự viên của ngài làm trong các tiếp xúc của họ với chính phủ Trung Hoa không?
Có, Đức Thánh Cha đích thân theo dõi các cuộc tiếp xúc với các nhà cầm quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tất cả các cộng sự viên của ngài đều nhất trí với ngài. Không ai có sáng kiến riêng. Thành thật mà nói, bất kỳ thứ lý luận nào khác, với tôi, xem ra đều không đúng chỗ.
Trong ít thời gian gần đây, nhiều phát biểu phê phán đã xuất hiện, ngay trong Giáo hội, về cách tiếp cận được Toà Thánh chấp nhận trong cuộc đối thoại với các nhà cầm quyền Trung Hoa, bị một số người phán đo án là "đầu hàng thật sự" vì các lý do chính trị. Ngài nghĩ sao?
Trước tiên tôi nghĩ rằng trong Giáo hội, người ta có toàn quyền không đồng ý và nói ra các lời chỉ trích của mình, và Toà Thánh có bổn phận tinh thần lắng nghe các chỉ trích này và đánh giá chúng một cách cẩn thận. Tôi cũng xác tín rằng, giữa các Kitô hữu, lời chỉ trích nên được hướng về việc xây dựng hiệp thông, chứ không phải làm khuấy động các chia rẽ. Một cách thẳng thắn, tôi xin nói với ông: Tôi cũng xác tín rằng một phần đau khổ mà Giáo Hội ở Trung Hoa đã trải qua không phải là do ý muốn của các cá nhân cho bằng do sự phức tạp khách quan của tình hình. Vì vậy, điều hợp pháp là có những quan điểm khác nhau về những cách đáp ứng thích hợp nhất đối với các vấn đề trong quá khứ và hiện tại. Đó là điều hoàn toàn hợp lý. Sau khi đã nói như vậy, tôi vẫn nghĩ rằng không một quan điểm cá nhân nào có thể được coi như người giải thích độc quyền về việc điều gì tốt đối với người Công Giáo Trung Hoa. Do đó, Tòa Thánh hướng cố gắng tìm ra một tổng hợp của sự thật và một cách thực tế để có thể đáp ứng các kỳ vọng chính đáng của các tín hữu, bên trong và bên ngoài Trung Hoa. Phải có sự khiêm tốn và tinh thần đức tin cao hơn để cùng nhau khám phá ra kế hoạch của Thiên Chúa cho Giáo Hội ở Trung Hoa. Mọi người phải thận trọng và ôn hòa hơn để không rơi vào những cuộc tranh cãi vô bổ làm tổn thương sự hiệp thông và lấy mất niềm hy vọng của chúng ta về một tương lai tốt đẹp hơn.
Ý ngài muốn nói gì?
Tôi muốn nói rằng tất cả chúng ta đều được kêu gọi biết phân biệt chiều kích thiêng liêng và mục vụ khỏi chiều kích chính trị một cách thích đáng hơn. Chẳng hạn, ta hãy bắt đầu với các từ ngữ ta dùng hàng ngày. Các cách phát biểu như quyền lực, phản bội, kháng cự, đầu hàng, đối đầu, thất bại, thỏa hiệp, nên nhường chỗ cho những cách phát biểu khác, như phục vụ, đối thoại, thương xót, tha thứ, hòa giải, hợp tác, hiệp thông. Nếu ông không sẵn sàng thay đổi cách tiếp cận này, thì sẽ có vấn đề trầm trọng: đó là vấn đề chỉ suy nghĩ và hành động vì chính trị mà thôi. Về mặt này, Tòa Thánh hy vọng mọi người có được một sự hồi tâm chân thành về mục vụ, lấy cảm hứng từ Tin Mừng thương xót, để học cách chào đón lẫn nhau giữa các anh chị em, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường kêu gọi.
Ngài sẽ nói gì với các nhà lãnh đạo Trung Hoa ngày hôm nay?
Về điểm này, tôi muốn nhắc lại những lời của Đức Bênêđictô XVI trong Thư gửi tín hữu Công Giáo Trung Hoa: Ngài dạy rằng sứ mệnh đúng đắn của Giáo Hội không phải là thay đổi cơ cấu hay việc cai trị của Nhà nước, mà là loan báo cho nhân loại Chúa Kitô, Đấng Cứu Rỗi của thế giới, cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Giáo hội ở Trung Hoa không muốn thay thế nhà nước, nhưng muốn đóng góp tích cực và thanh thản vào lợi ích của mọi người. Do đó, sứ điệp của Tòa Thánh là sứ điệp thiện chí, với hy vọng tiếp tục cuộc đối thoại đã bắt đầu ngõ hầu góp phần vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa, vào lợi ích của nhân dân Trung Hoa và vào hòa bình thế giới.
Tòa Thánh đạt thoả hiệp với Bắc Kinh để thiết lập quan hệ ngoai giao
Nguyễn Long Thao
18:27 02/02/2018
Trích nguồn tin Reuters, trang Tin Tức Công Giáo Thế Giới Catholic World News loan tin trong tương lai gần, Tòa Thánh Vatican sẽ ký một thoả ước lịch sử với chính quyền Trung Quốc, theo đó Toà Thánh sẽ thừa nhận các Giám Mục do chính quyền Trung Quốc tấn phong
Cơ quan thông tấn Reuters khẳng định là các nhà thương thuyết Tòa Thánh Vatican đã đồng ý thay thế hai vị Giám Mục “hầm trú” từng trung thành với Tòa Thánh Vatican bằng các giám mục do nhà nước tấn phong Hãng thông tấn Công Giáo Á Châu AsiaNews nói Tòa Thánh đề nghị hai vị Giám Mục hầm trú (Đó là Đức GM Zhuang năm nay đã 88 tuổi quá tuổi hồi hưu theo luật định và một vị giám mục khác năm nay 70 tuổi) nghỉ hưu để mở đường cho việc bổ nhiệm Giám Mục thay thế.
Trước tin của Reuters, Tòa Thánh không đưa ra lời bình luận chính thức nào.
Hãng tin Reuters nói thoả ước này giữa Vatican và Bắc Kinh sẽ mở đường cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Vatican và Bắc Kinh, sẽ được công bố trong vòng vài tháng tới.
Theo những điều khoản trong thoả ước này, Tòa Thánh Vatican vẫn còn kiểm soát việc bổ nhiệm tân Giám Mục. Tuy nhiên, Tổ Chức Công Giáo Yêu Nước của chính quyền Trung Quốc cũng sẽ có vai trò quan trọng trong việc bổ nhiệm tân Giám Mục.Nguồn tin không cho biết chi tiết Tổ Chức Công Giáo Yêu Nước sẽ đưa ra những điều kiện gì trong việc bổ nhiệm Giám Mục
Theo tin của tờ Wall Street Journal thì Tòa Thánh sẽ công nhận 7 Giám Mục do nhà nước tấn phong trước đây. Tin của Wall Street Journal cho biết ĐGH sẽ tha vạ tuyệt thông cho 7 vị Giám Mục này
Tưởng cũng nên nhắc lại trong tuầnlễ trước đây, Đức Hồng Y Trần Nhật Quân, nguyên Giám Mục Hồng Kông đã khẩn khoản xin ĐTC cứu xét lại thoả ước giữa Vatican và Bắc Kinh.
Thay mặt cho các tín hữu Công Giáo trung thành với Vatican, ĐHY nói thoả ước sẽ cho chính quyền Bắc Kinh kiểm soát cả Giáo Hội Công Giáo và Ngài cũng nhấn mạnh rằng chính quyền Bắc Kinh chưa bao giờ tỏ ra là tôn trọng tự do tôn giáo ở trung Quốc.
Trước thoả hiệp Vatican và Bắc Kinh, giới bình luận tin tức đặt vấn đề liệu chính quyền Việt Nam có theo chân Trung Quốc trong việc bổ nhiệm Giám Mục không, và Toà Thánh sẽ phải đối phó như thế nào.?
Cơ quan thông tấn Reuters khẳng định là các nhà thương thuyết Tòa Thánh Vatican đã đồng ý thay thế hai vị Giám Mục “hầm trú” từng trung thành với Tòa Thánh Vatican bằng các giám mục do nhà nước tấn phong Hãng thông tấn Công Giáo Á Châu AsiaNews nói Tòa Thánh đề nghị hai vị Giám Mục hầm trú (Đó là Đức GM Zhuang năm nay đã 88 tuổi quá tuổi hồi hưu theo luật định và một vị giám mục khác năm nay 70 tuổi) nghỉ hưu để mở đường cho việc bổ nhiệm Giám Mục thay thế.
Trước tin của Reuters, Tòa Thánh không đưa ra lời bình luận chính thức nào.
Hãng tin Reuters nói thoả ước này giữa Vatican và Bắc Kinh sẽ mở đường cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Vatican và Bắc Kinh, sẽ được công bố trong vòng vài tháng tới.
Theo những điều khoản trong thoả ước này, Tòa Thánh Vatican vẫn còn kiểm soát việc bổ nhiệm tân Giám Mục. Tuy nhiên, Tổ Chức Công Giáo Yêu Nước của chính quyền Trung Quốc cũng sẽ có vai trò quan trọng trong việc bổ nhiệm tân Giám Mục.Nguồn tin không cho biết chi tiết Tổ Chức Công Giáo Yêu Nước sẽ đưa ra những điều kiện gì trong việc bổ nhiệm Giám Mục
Theo tin của tờ Wall Street Journal thì Tòa Thánh sẽ công nhận 7 Giám Mục do nhà nước tấn phong trước đây. Tin của Wall Street Journal cho biết ĐGH sẽ tha vạ tuyệt thông cho 7 vị Giám Mục này
Tưởng cũng nên nhắc lại trong tuầnlễ trước đây, Đức Hồng Y Trần Nhật Quân, nguyên Giám Mục Hồng Kông đã khẩn khoản xin ĐTC cứu xét lại thoả ước giữa Vatican và Bắc Kinh.
Thay mặt cho các tín hữu Công Giáo trung thành với Vatican, ĐHY nói thoả ước sẽ cho chính quyền Bắc Kinh kiểm soát cả Giáo Hội Công Giáo và Ngài cũng nhấn mạnh rằng chính quyền Bắc Kinh chưa bao giờ tỏ ra là tôn trọng tự do tôn giáo ở trung Quốc.
Trước thoả hiệp Vatican và Bắc Kinh, giới bình luận tin tức đặt vấn đề liệu chính quyền Việt Nam có theo chân Trung Quốc trong việc bổ nhiệm Giám Mục không, và Toà Thánh sẽ phải đối phó như thế nào.?
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới lần thứ 22 2/2/2018
J.B. Đặng Minh An dịch
19:20 02/02/2018
Ngày 2 tháng 2 là Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới lần thứ 22. Đây là ngày kỷ niệm đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết định vào năm 1997.
Trong thông điệp Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới lần thứ nhất, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích rằng ngày này có ba mục đích:
Trước hết, đó là cơ hội để chúng ta ngợi khen Chúa một cách trang trọng và cám tạ Ngài vì hồng ân lớn lao của cuộc sống thánh hiến đã và đang làm phong phú cũng như linh hoạt các cộng đoàn Kitô với vô số đặc sủng và các hoa trái của rất nhiều cuộc sống hoàn toàn được tận hiến cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Thứ hai, ngày này nhằm mục đích quảng bá các kiến thức về đời sống tận hiến và lòng yêu mến cuộc sống thánh hiến trong toàn thể dân Chúa.
Lý do thứ ba liên quan trực tiếp đến những người tận hiến. Các vị được mời gọi cử hành cùng nhau một cách long trọng những điều kỳ diệu mà Chúa đã thực hiện trong họ, khám phá ra những tia sáng từ tôn nhan Thiên Chúa đang dõi chiếu đường đời của họ và có một ý thức sinh động hơn về sứ mệnh không thể thay thế của họ trong Giáo Hội và trên thế giới. Trong một thế giới thường bị kích động và mất tập trung, những người tận hiến cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến để trở lại nguồn mạch ơn gọi của họ, và để tái khẳng định cam kết hiến dâng cuộc sống cho Chúa.
Theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong năm Phụng Vụ, không có ngày lễ nào thích hợp hơn để cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới cho bằng ngày Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh. Ngài nhận xét rằng “Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh là một biểu tượng hùng hồn cho sự hiến dâng trọn vẹn cuộc sống của tất cả những ai được kêu gọi để trình bày trong Giáo Hội và trước thế giới các nét đặc trưng của Chúa Giêsu – đó là trong sạch, khó nghèo và vâng phục.”
Trong bối cảnh đó, lúc 5 giờ 30 chiều thứ Sáu 2 tháng 2, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đồng tế với Đức Thánh Cha trong thánh lễ, có Đức Hồng Y João Aviz de Braz, người Ba Tây, Tổng Trưởng Bộ các Dòng Tu, Đức Tổng Giám Mục Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các linh mục dòng, trước sự hiện diện của 9000 tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và một cuộc rước tiến lên bàn thờ do 50 tu sĩ nam nữ đại diện cho các hình thái đời sống Thánh Hiến khác nhau.
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, chúng ta cử hành lễ Chúa, là Đấng đến viếng thăm dân Người, được Đức Mẹ dâng vào Đền Thánh. Kitô Giáo Đông phương gọi lễ này “Lễ Gặp Gỡ”: đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa, Đấng đã trở nên một hài nhi để mang lại sự mới mẻ cho thế giới của chúng ta, và cho một nhân loại đầy kỳ vọng ở tương lai, được đại diện bởi một người nam và một người nữ cao niên trong Đền Thờ.
Trong Đền thờ này, cũng có một cuộc gặp gỡ khác giữa cặp vợ chồng trẻ là Đức Mẹ và Thánh Giuse, với hai người già là ông Simeon và bà Anna. Người già đón nhận người trẻ, trong khi người trẻ kín múc [sự khôn ngoan] từ người già. Trong Đền thờ, Mẹ Maria và Thánh Giuse tìm thấy căn cội dân tộc của các ngài. Điều này rất quan trọng, bởi vì lời hứa của Thiên Chúa không chỉ đơn thuần hoàn thành nơi những cá nhân, một lần duy nhất, nhưng được hoàn thành trong một cộng đồng và xuyên suốt lịch sử. Nơi Đền Thờ này, Đức Maria và Thánh Giuse cũng tìm thấy căn cội đức tin của mình, vì đức tin không phải là điều học hỏi từ sách vở, nhưng từ nghệ thuật sống với Thiên Chúa, và từ kinh nghiệm của những người đã đi trước chúng ta. Hai người trẻ tuổi, gặp gỡ hai người lớn tuổi, qua đó tìm thấy chính mình. Và hai người lớn tuổi, gần đến ngày cuối cùng của cuộc đời mình, được đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ý nghĩa cuộc sống của họ. Sự kiện này ứng nghiệm lời tiên báo của tiên tri Giôen: “Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.” (Go 2:28). Trong cuộc gặp gỡ này, những người trẻ nhận ra sứ mệnh của họ và những người cao niên thấy được ước mơ của họ. Tất cả bởi vì, ở trung tâm cuộc gặp gỡ, là Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống của chúng ta, anh chị em sống đời thánh hiến thân mến. Mọi thứ bắt đầu với cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc hành trình thánh hiến của chúng ta được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ và một lời mời gọi. Chúng ta cần ghi khắc trong trí nhớ điều này. Và nếu chúng ta nhớ rõ, chúng ta sẽ nhận ra rằng trong cuộc gặp gỡ đó, chúng ta không chỉ một mình với Chúa Giêsu; nhưng còn có dân Chúa, là Giáo Hội, những người già và những người trẻ, như trong Tin Mừng hôm nay. Một điều đáng chú ý khác là Tin Mừng nói với chúng ta đến bốn lần rằng hai vợ chồng trẻ Maria và Thánh Giuse trung thành tuân theo Luật dạy, trong khi hai người là ông Simeon và bà Anna chạy đến nói tiên tri. Có vẻ như điều ngược lại mới là đúng. Thông thường những người trẻ nhiệt tình nói về tương lai, trong khi người già lo bảo vệ quá khứ. Trong Tin Mừng, điều ngược lại xảy ra, bởi vì khi chúng ta gặp nhau trong Chúa, những bất ngờ của Thiên Chúa ngay lập tức diễn ra.
Để điều này xảy ra trong cuộc sống thánh hiến, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta không thể nào làm mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa mà không có người khác; chúng ta không bao giờ có thể để lại những người khác phía sau, không bao giờ bỏ qua các thế hệ, nhưng phải đi cùng nhau hàng ngày, giữ Chúa luôn ở vị trí trung tâm. Vì nếu người trẻ được kêu gọi mở ra những cửa mới, thì những người già là những người giữ các chìa khóa. Một cơ chế vẫn còn giữ được sự trẻ trung của mình khi quay lại nguồn gốc, bằng cách lắng nghe các thành viên lớn tuổi của mình. Không có tương lai nếu không có sự gặp gỡ này giữa người già và người trẻ. Không có sự phát triển nếu không có gốc rễ và sẽ chẳng có hoa nếu không có những chồi non. Không có lời tiên tri nếu không có ký ức, và cũng chẳng có ký ức nếu không có những lời tiên tri và sự gặp gỡ liên tục.
Tốc độ điên cuồng ngày nay dẫn chúng ta đến việc đóng lại nhiều cánh cửa gặp gỡ, thường là vì lo sợ người khác. Chỉ có các trung tâm mua sắm và các kết nối internet là luôn rộng mở. Tuy nhiên, đó không phải là cách sống cuộc đời thánh hiến: những anh chị em mà Chúa đã ban cho tôi là một phần của lịch sử đời tôi, là những món quà đáng được trân trọng. Cầu xin cho chúng ta đừng bao giờ nhìn vào màn hình điện thoại di động của chúng ta nhiều hơn là nhìn vào mắt của anh chị em mình, xin cho chúng ta tập trung vào Chúa chứ đừng quá tập trung vào các nhu liệu điện toán của mình. Vì bất cứ khi nào chúng ta đặt các dự án, phương pháp và tổ chức của mình vào vị trí trung tâm, đời sống tận hiến không còn hấp dẫn nữa; không còn những cuộc nói chuyện với người khác nữa; không còn triển nở nữa vì nó đã quên đi nền tảng, và căn cội của nó.
Cuộc sống thánh hiến được sinh ra và được tái sinh bởi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu như Ngài là: nghèo khó, thanh sạch và vâng phục. Chúng ta đi dọc theo một con đường hai lối: một bên là sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa, từ đó tất cả mọi thứ bắt đầu và đó là nơi chúng ta phải luôn luôn quay trở lại; một bên là phản ứng của chính chúng ta, thật sự có lòng yêu thương khi nó không đi kèm theo những tiếng “nếu như” và những tiếng “nhưng mà”, nhưng bắt chước Chúa Giêsu khó nghèo, thanh sạch và vâng phục. Trong khi cuộc sống của thế giới này cố gắng nắm bắt chúng ta, cuộc sống thánh hiến hướng chúng ta quay lưng lại với những sa hoa trần thế ngõ hầu chiếm được Đấng tồn tại mãi mãi. Cuộc sống của thế giới này theo đuổi những lạc thú và những ham muốn ích kỷ; còn cuộc sống thánh hiến giải phóng tình cảm của chúng ta khỏi mọi ham muốn chiếm đoạt để yêu Chúa và yêu người. Cuộc sống thế gian hướng đến ham muốn làm bất cứ điều gì chúng ta thích; còn cuộc sống thánh hiến chọn việc tuân phục khiêm tốn như là một sự tự do lớn hơn. Và trong khi đời sống thế gian sớm làm chúng ta trắng tay và làm con tim chúng ta trống rỗng, cuộc sống trong Chúa Giêsu tràn ngập chúng ta với một sự an bình đến tận cùng, như trong Tin Mừng, khi ông Simeon và bà Anna an vui trong buổi hoàng hôn đời mình với Chúa trong tay và niềm vui trong trái tim của họ.
Thật là tốt biết bao nếu chúng ta có thể giữ được Chúa “trong tay chúng ta” (Lc 2,28), như ông Simeon. Không chỉ trong đầu chúng ta và trong trái tim của chúng ta, mà còn “trong tay chúng ta”, trong tất cả những gì chúng ta làm: trong lời cầu nguyện, nơi làm việc, ở bàn ăn, trên đường điện thoại, nơi trường học, với người nghèo, ở mọi nơi. Có Chúa trong tay chúng ta là một liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa huyền bí ẩn dật và chủ nghĩa hoạt động điên cuồng, vì một cuộc gặp gỡ chân chính với Chúa Giêsu sửa lại cả lòng đạo đức ủy mị lẫn sự hiếu động thái quá. Trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cũng là phương thuốc cho sự tê liệt của thói quen, vì nó mở ra cho chúng ta “sự thiêu đốt” hàng ngày của ân sủng. Bí quyết để làm bùng phát ngọn lửa nhiệt thành trong đời sống tinh thần của chúng ta là thái độ sẵn sàng cho phép chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu và mong muốn được gặp Ngài; nếu không chúng ta rơi vào một cuộc sống tê liệt, trong đó sự bất mãn, cay đắng và những thất vọng không thể tránh khỏi sẽ thắng thế. Bí quyết ấy giúp chúng ta gặp nhau trong Chúa Giêsu như anh chị em với nhau, như những người già trẻ, và từ đó thoát khỏi những luận điệu vô ích về “những ngày xưa tốt lành” - là một nỗi hoài cổ giết chết linh hồn – cũng như làm câm nín những người nghĩ rằng “mọi thứ đang tan rã”. Nếu chúng ta gặp Chúa Giêsu và anh chị em của chúng ta trong những biến cố hằng ngày của cuộc đời chúng ta, trái tim chúng ta sẽ không còn bị đặt vào quá khứ hay tương lai, nhưng sẽ trải nghiệm “ngày hôm nay của Thiên Chúa” trong bình an với mọi người.
Vào cuối những sách Phúc Âm, có một cuộc gặp gỡ khác với Chúa Giêsu có thể gây cảm hứng cho đời sống tận hiến. Đó là cuộc gặp gỡ của những phụ nữ trước ngôi mộ. Họ đã đi để gặp người chết; cuộc hành trình của họ dường như vô nghĩa. Anh chị em cũng đang hành trình ngược dòng: cuộc sống thế gian dễ dàng khước từ nghèo đói, thanh khiết và vâng phục. Nhưng giống như những phụ nữ đó, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước, mà không phải lo lắng về những tảng đá nặng nề cần được loại bỏ (xem Mc 16: 3). Và như những người phụ nữ đó, chúng ta hãy là những người đầu tiên gặp Chúa, Đấng đã sống lại và đang sống. Hãy bám lấy Người (xem Mt 28: 9) và đi ra ngay lập tức để nói với các anh chị em của mình, với ánh mắt tràn đầy niềm vui (xem câu 8). Như thế, anh chị em sẽ là bình minh không bao giờ tắt của Giáo hội.
Anh chị em những người thánh hiến của Giáo Hội thân mến! Tôi xin anh chị em làm mới lại vào chính ngày hôm nay đây cuộc gặp gỡ của anh chị em với Chúa Giêsu, để chúng ta cùng đồng hành hướng về Người. Và điều này sẽ mang lại ánh sáng cho đôi mắt và sức mạnh cho các bước chân của anh chị em.
Source: Libreria Editrice Vaticana FEAST OF THE PRESENTATION OF THE LORD 22nd WORLD DAY FOR CONSECRATED LIFE EUCHARISTIC CONCELEBRATION HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Friday, 2 February 2018
Trong thông điệp Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới lần thứ nhất, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích rằng ngày này có ba mục đích:
Trước hết, đó là cơ hội để chúng ta ngợi khen Chúa một cách trang trọng và cám tạ Ngài vì hồng ân lớn lao của cuộc sống thánh hiến đã và đang làm phong phú cũng như linh hoạt các cộng đoàn Kitô với vô số đặc sủng và các hoa trái của rất nhiều cuộc sống hoàn toàn được tận hiến cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Thứ hai, ngày này nhằm mục đích quảng bá các kiến thức về đời sống tận hiến và lòng yêu mến cuộc sống thánh hiến trong toàn thể dân Chúa.
Lý do thứ ba liên quan trực tiếp đến những người tận hiến. Các vị được mời gọi cử hành cùng nhau một cách long trọng những điều kỳ diệu mà Chúa đã thực hiện trong họ, khám phá ra những tia sáng từ tôn nhan Thiên Chúa đang dõi chiếu đường đời của họ và có một ý thức sinh động hơn về sứ mệnh không thể thay thế của họ trong Giáo Hội và trên thế giới. Trong một thế giới thường bị kích động và mất tập trung, những người tận hiến cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến để trở lại nguồn mạch ơn gọi của họ, và để tái khẳng định cam kết hiến dâng cuộc sống cho Chúa.
Theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong năm Phụng Vụ, không có ngày lễ nào thích hợp hơn để cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới cho bằng ngày Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh. Ngài nhận xét rằng “Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh là một biểu tượng hùng hồn cho sự hiến dâng trọn vẹn cuộc sống của tất cả những ai được kêu gọi để trình bày trong Giáo Hội và trước thế giới các nét đặc trưng của Chúa Giêsu – đó là trong sạch, khó nghèo và vâng phục.”
Trong bối cảnh đó, lúc 5 giờ 30 chiều thứ Sáu 2 tháng 2, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đồng tế với Đức Thánh Cha trong thánh lễ, có Đức Hồng Y João Aviz de Braz, người Ba Tây, Tổng Trưởng Bộ các Dòng Tu, Đức Tổng Giám Mục Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các linh mục dòng, trước sự hiện diện của 9000 tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và một cuộc rước tiến lên bàn thờ do 50 tu sĩ nam nữ đại diện cho các hình thái đời sống Thánh Hiến khác nhau.
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, chúng ta cử hành lễ Chúa, là Đấng đến viếng thăm dân Người, được Đức Mẹ dâng vào Đền Thánh. Kitô Giáo Đông phương gọi lễ này “Lễ Gặp Gỡ”: đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa, Đấng đã trở nên một hài nhi để mang lại sự mới mẻ cho thế giới của chúng ta, và cho một nhân loại đầy kỳ vọng ở tương lai, được đại diện bởi một người nam và một người nữ cao niên trong Đền Thờ.
Trong Đền thờ này, cũng có một cuộc gặp gỡ khác giữa cặp vợ chồng trẻ là Đức Mẹ và Thánh Giuse, với hai người già là ông Simeon và bà Anna. Người già đón nhận người trẻ, trong khi người trẻ kín múc [sự khôn ngoan] từ người già. Trong Đền thờ, Mẹ Maria và Thánh Giuse tìm thấy căn cội dân tộc của các ngài. Điều này rất quan trọng, bởi vì lời hứa của Thiên Chúa không chỉ đơn thuần hoàn thành nơi những cá nhân, một lần duy nhất, nhưng được hoàn thành trong một cộng đồng và xuyên suốt lịch sử. Nơi Đền Thờ này, Đức Maria và Thánh Giuse cũng tìm thấy căn cội đức tin của mình, vì đức tin không phải là điều học hỏi từ sách vở, nhưng từ nghệ thuật sống với Thiên Chúa, và từ kinh nghiệm của những người đã đi trước chúng ta. Hai người trẻ tuổi, gặp gỡ hai người lớn tuổi, qua đó tìm thấy chính mình. Và hai người lớn tuổi, gần đến ngày cuối cùng của cuộc đời mình, được đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ý nghĩa cuộc sống của họ. Sự kiện này ứng nghiệm lời tiên báo của tiên tri Giôen: “Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.” (Go 2:28). Trong cuộc gặp gỡ này, những người trẻ nhận ra sứ mệnh của họ và những người cao niên thấy được ước mơ của họ. Tất cả bởi vì, ở trung tâm cuộc gặp gỡ, là Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống của chúng ta, anh chị em sống đời thánh hiến thân mến. Mọi thứ bắt đầu với cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc hành trình thánh hiến của chúng ta được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ và một lời mời gọi. Chúng ta cần ghi khắc trong trí nhớ điều này. Và nếu chúng ta nhớ rõ, chúng ta sẽ nhận ra rằng trong cuộc gặp gỡ đó, chúng ta không chỉ một mình với Chúa Giêsu; nhưng còn có dân Chúa, là Giáo Hội, những người già và những người trẻ, như trong Tin Mừng hôm nay. Một điều đáng chú ý khác là Tin Mừng nói với chúng ta đến bốn lần rằng hai vợ chồng trẻ Maria và Thánh Giuse trung thành tuân theo Luật dạy, trong khi hai người là ông Simeon và bà Anna chạy đến nói tiên tri. Có vẻ như điều ngược lại mới là đúng. Thông thường những người trẻ nhiệt tình nói về tương lai, trong khi người già lo bảo vệ quá khứ. Trong Tin Mừng, điều ngược lại xảy ra, bởi vì khi chúng ta gặp nhau trong Chúa, những bất ngờ của Thiên Chúa ngay lập tức diễn ra.
Để điều này xảy ra trong cuộc sống thánh hiến, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta không thể nào làm mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa mà không có người khác; chúng ta không bao giờ có thể để lại những người khác phía sau, không bao giờ bỏ qua các thế hệ, nhưng phải đi cùng nhau hàng ngày, giữ Chúa luôn ở vị trí trung tâm. Vì nếu người trẻ được kêu gọi mở ra những cửa mới, thì những người già là những người giữ các chìa khóa. Một cơ chế vẫn còn giữ được sự trẻ trung của mình khi quay lại nguồn gốc, bằng cách lắng nghe các thành viên lớn tuổi của mình. Không có tương lai nếu không có sự gặp gỡ này giữa người già và người trẻ. Không có sự phát triển nếu không có gốc rễ và sẽ chẳng có hoa nếu không có những chồi non. Không có lời tiên tri nếu không có ký ức, và cũng chẳng có ký ức nếu không có những lời tiên tri và sự gặp gỡ liên tục.
Tốc độ điên cuồng ngày nay dẫn chúng ta đến việc đóng lại nhiều cánh cửa gặp gỡ, thường là vì lo sợ người khác. Chỉ có các trung tâm mua sắm và các kết nối internet là luôn rộng mở. Tuy nhiên, đó không phải là cách sống cuộc đời thánh hiến: những anh chị em mà Chúa đã ban cho tôi là một phần của lịch sử đời tôi, là những món quà đáng được trân trọng. Cầu xin cho chúng ta đừng bao giờ nhìn vào màn hình điện thoại di động của chúng ta nhiều hơn là nhìn vào mắt của anh chị em mình, xin cho chúng ta tập trung vào Chúa chứ đừng quá tập trung vào các nhu liệu điện toán của mình. Vì bất cứ khi nào chúng ta đặt các dự án, phương pháp và tổ chức của mình vào vị trí trung tâm, đời sống tận hiến không còn hấp dẫn nữa; không còn những cuộc nói chuyện với người khác nữa; không còn triển nở nữa vì nó đã quên đi nền tảng, và căn cội của nó.
Cuộc sống thánh hiến được sinh ra và được tái sinh bởi một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu như Ngài là: nghèo khó, thanh sạch và vâng phục. Chúng ta đi dọc theo một con đường hai lối: một bên là sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa, từ đó tất cả mọi thứ bắt đầu và đó là nơi chúng ta phải luôn luôn quay trở lại; một bên là phản ứng của chính chúng ta, thật sự có lòng yêu thương khi nó không đi kèm theo những tiếng “nếu như” và những tiếng “nhưng mà”, nhưng bắt chước Chúa Giêsu khó nghèo, thanh sạch và vâng phục. Trong khi cuộc sống của thế giới này cố gắng nắm bắt chúng ta, cuộc sống thánh hiến hướng chúng ta quay lưng lại với những sa hoa trần thế ngõ hầu chiếm được Đấng tồn tại mãi mãi. Cuộc sống của thế giới này theo đuổi những lạc thú và những ham muốn ích kỷ; còn cuộc sống thánh hiến giải phóng tình cảm của chúng ta khỏi mọi ham muốn chiếm đoạt để yêu Chúa và yêu người. Cuộc sống thế gian hướng đến ham muốn làm bất cứ điều gì chúng ta thích; còn cuộc sống thánh hiến chọn việc tuân phục khiêm tốn như là một sự tự do lớn hơn. Và trong khi đời sống thế gian sớm làm chúng ta trắng tay và làm con tim chúng ta trống rỗng, cuộc sống trong Chúa Giêsu tràn ngập chúng ta với một sự an bình đến tận cùng, như trong Tin Mừng, khi ông Simeon và bà Anna an vui trong buổi hoàng hôn đời mình với Chúa trong tay và niềm vui trong trái tim của họ.
Thật là tốt biết bao nếu chúng ta có thể giữ được Chúa “trong tay chúng ta” (Lc 2,28), như ông Simeon. Không chỉ trong đầu chúng ta và trong trái tim của chúng ta, mà còn “trong tay chúng ta”, trong tất cả những gì chúng ta làm: trong lời cầu nguyện, nơi làm việc, ở bàn ăn, trên đường điện thoại, nơi trường học, với người nghèo, ở mọi nơi. Có Chúa trong tay chúng ta là một liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa huyền bí ẩn dật và chủ nghĩa hoạt động điên cuồng, vì một cuộc gặp gỡ chân chính với Chúa Giêsu sửa lại cả lòng đạo đức ủy mị lẫn sự hiếu động thái quá. Trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cũng là phương thuốc cho sự tê liệt của thói quen, vì nó mở ra cho chúng ta “sự thiêu đốt” hàng ngày của ân sủng. Bí quyết để làm bùng phát ngọn lửa nhiệt thành trong đời sống tinh thần của chúng ta là thái độ sẵn sàng cho phép chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu và mong muốn được gặp Ngài; nếu không chúng ta rơi vào một cuộc sống tê liệt, trong đó sự bất mãn, cay đắng và những thất vọng không thể tránh khỏi sẽ thắng thế. Bí quyết ấy giúp chúng ta gặp nhau trong Chúa Giêsu như anh chị em với nhau, như những người già trẻ, và từ đó thoát khỏi những luận điệu vô ích về “những ngày xưa tốt lành” - là một nỗi hoài cổ giết chết linh hồn – cũng như làm câm nín những người nghĩ rằng “mọi thứ đang tan rã”. Nếu chúng ta gặp Chúa Giêsu và anh chị em của chúng ta trong những biến cố hằng ngày của cuộc đời chúng ta, trái tim chúng ta sẽ không còn bị đặt vào quá khứ hay tương lai, nhưng sẽ trải nghiệm “ngày hôm nay của Thiên Chúa” trong bình an với mọi người.
Vào cuối những sách Phúc Âm, có một cuộc gặp gỡ khác với Chúa Giêsu có thể gây cảm hứng cho đời sống tận hiến. Đó là cuộc gặp gỡ của những phụ nữ trước ngôi mộ. Họ đã đi để gặp người chết; cuộc hành trình của họ dường như vô nghĩa. Anh chị em cũng đang hành trình ngược dòng: cuộc sống thế gian dễ dàng khước từ nghèo đói, thanh khiết và vâng phục. Nhưng giống như những phụ nữ đó, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước, mà không phải lo lắng về những tảng đá nặng nề cần được loại bỏ (xem Mc 16: 3). Và như những người phụ nữ đó, chúng ta hãy là những người đầu tiên gặp Chúa, Đấng đã sống lại và đang sống. Hãy bám lấy Người (xem Mt 28: 9) và đi ra ngay lập tức để nói với các anh chị em của mình, với ánh mắt tràn đầy niềm vui (xem câu 8). Như thế, anh chị em sẽ là bình minh không bao giờ tắt của Giáo hội.
Anh chị em những người thánh hiến của Giáo Hội thân mến! Tôi xin anh chị em làm mới lại vào chính ngày hôm nay đây cuộc gặp gỡ của anh chị em với Chúa Giêsu, để chúng ta cùng đồng hành hướng về Người. Và điều này sẽ mang lại ánh sáng cho đôi mắt và sức mạnh cho các bước chân của anh chị em.
Source: Libreria Editrice Vaticana FEAST OF THE PRESENTATION OF THE LORD 22nd WORLD DAY FOR CONSECRATED LIFE EUCHARISTIC CONCELEBRATION HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS Vatican Basilica Friday, 2 February 2018
Đức Hồng Y João Aviz de Braz: Lịch sử nhân loại hiện đại đang cần một ý nghĩa ơn gọi trong cuộc sống
Đặng Tự Do
20:52 02/02/2018
Nhân dịp Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới lần thứ 22, Đức Hồng Y João Aviz de Braz, người Ba Tây, Tổng Trưởng Bộ các Dòng Tu đã gởi thư cho các dòng tu, và các hiệp hội đời sống thánh hiến.
Trong thư Đức Hồng Y khẳng định rằng: “Lịch sử nhân loại hiện đại đang cần một ý nghĩa ơn gọi trong cuộc sống. Chúng ta cần phải có một dự án, một nguồn mạch đem lại ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình, đầy niềm vui và hy vọng. Là những người tận hiến, qua Bí Tích Rửa Tội, và qua việc trở thành một phần của cuộc sống Thiên Chúa và của gia đình mình, là Giáo Hội, chúng ta là những người kế thừa di sản ơn gọi và đặc sủng của Giáo Hội, và chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi sống đời thánh hiến và có nghĩa vụ bảo vệ và quảng bá lối sống này.
Việc cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới là một dịp lễ hội, và cũng là một dịp để tái cam kết dấn thân sống đời tận hiến, cũng như để cầu nguyện xin Chúa ban cho Giáo Hội những ơn gọi mới, để canh tân khuôn mặt Giáo Hội và thế giới bằng cách loan báo niềm vui của Tin Mừng và tình yêu của Thiên Chúa, là những điều mang lại ý nghĩa cho sự hiện hữu của chúng ta.
Source: International Union Superiors General - XXII WORLD DAY OF CONSECRATED LIFE
Trong thư Đức Hồng Y khẳng định rằng: “Lịch sử nhân loại hiện đại đang cần một ý nghĩa ơn gọi trong cuộc sống. Chúng ta cần phải có một dự án, một nguồn mạch đem lại ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình, đầy niềm vui và hy vọng. Là những người tận hiến, qua Bí Tích Rửa Tội, và qua việc trở thành một phần của cuộc sống Thiên Chúa và của gia đình mình, là Giáo Hội, chúng ta là những người kế thừa di sản ơn gọi và đặc sủng của Giáo Hội, và chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi sống đời thánh hiến và có nghĩa vụ bảo vệ và quảng bá lối sống này.
Việc cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến Thế Giới là một dịp lễ hội, và cũng là một dịp để tái cam kết dấn thân sống đời tận hiến, cũng như để cầu nguyện xin Chúa ban cho Giáo Hội những ơn gọi mới, để canh tân khuôn mặt Giáo Hội và thế giới bằng cách loan báo niềm vui của Tin Mừng và tình yêu của Thiên Chúa, là những điều mang lại ý nghĩa cho sự hiện hữu của chúng ta.
Source: International Union Superiors General - XXII WORLD DAY OF CONSECRATED LIFE
Tin Giáo Hội Việt Nam
Bài chia sẻ trong ngày cử hành Năm Thánh cho giới Tu sĩ trong giáo phận Quy Nhơn
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
11:03 02/02/2018
ĐÃ TRỞ THÀNH NĂM CŨ RỒI SAO ?
Bài chia sẻ trong ngày cử hành Năm Thánh cho giới Tu sĩ trong giáo phận Quy Nhơn
02/02/2018
Thế là Năm Thánh Hồng Ân của Giáo phận Qui Nhơn chúng ta đã trôi qua được hơn 6 tháng (Khai mạc ngày 26.7.2017) !
Đối với người không có đức tin, hay những người “vốn có đức tin nhưng sống khô khan nguội lạnh…”, thì Năm Thánh, năm Toàn Xá, Năm …cũng chẳng ăn thua gì, chả cần thiết gì, không ảnh hưởng gì !
Nhưng với chúng ta, những người mà đời sống mang “thương hiệu Thánh Hiến”, thì khác. Bởi vì, đời sống nầy, như cách đánh giá của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trong Tông Huấn Đời Thánh Hiến, có một vai trò và vị trí đặc biệt làm nên chính đời sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Hội Thánh : “đời sống thánh hiến không chỉ đóng vai trò trợ giúp và nâng đỡ Giáo Hội trong quá khứ, nhưng còn là một ân huệ quý báu và cần thiết cho hiện tại và tương lai của Dân Thiên Chúa, bởi vì đời sống này là một phần sâu xa của nếp sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Dân Thiên Chúa.”
Theo như nội dung ý nghĩa đó của ĐTC, thì có thể nói một cách cường điệu thế nầy : Cứ nhìn các tu sĩ sống và thực hành Năm Thánh như thế nào thì biết được tình trạng sống Năm Thánh của dân Chúa giáo phận như thế !
Vì thế, cho dù có khô khan nguội lạnh hay trễ nải thờ ơ, thì chúng ta không thể để thời gian Năm Thánh nầy qua đi mà không nhận được gì, mà không chuyển biến gì. Cho nên, cuộc họp mặt để cử hành Năm thánh hôm nay thật là thích hợp, thật quý báu, để cùng nhau soi lại đời mình, cuộc sống mình và cam kết thánh hiến của mình trong “bối cảnh Năm Thánh”.
Để khơi gợi một đôi ý tưởng nhằm giúp quý anh chị em suy nghĩ và cầu nguyện trong dịp đặc biệt nầy, trước hết tôi xin giới thiệu một vài ý nghĩa cơ bản của Năm Thánh.
Chúng ta biết rằng: Năm Thánh hay Năm Tòan Xá bắt nguồn từ truyền thống Thánh Kinh khi dân Ít-ra-en đã được chính Thiên Chúa chỉ thị tổ chức thực hiện :
“Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng. Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình.” (Lv 25,10-13).
Ý nghĩa “Năm Toàn Xá” đầu tiên mà đoạn sách Lê-vi nhấn mạnh đó chính là “Trở về phần sở hữu của mình”. Ngoài ý nghĩa không gian mang chiều kích địa lý, tự nhiên, chúng ta có thể hiểu “trở về phần sở hữu của mình” đó chính là trờ về với căn tính, với con người đích thực, với ơn gọi và sứ mệnh đặc thù của mình.
1. Năm Thánh : Thời gian để trở về “căn tính đời tu” :
Khi nói tới “căn tính” đời tu người ta hay dùng 2 thuật ngữ : đó là “bước theo Chúa Kitô” (Sequela Christi) và “họa lại hình ảnh Đức Kitô” (Alter Christus). Nói cách khác đó là “tự do thanh thoát bước theo Chúa Kitô, trung thành theo mẫu gương đời sống của Ngài qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm (Khiết tịnh, Khó nghèo, Vâng phục) và tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa”.
Được gợi hứng từ trình thuật “viễn cảnh Biến Hình”, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã cắt nghĩa rõ hơn “nội dung căn tính” nầy trong Tông huấn “Đời sống thánh hiến”. Xin trích :
“Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Ki-tô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình" (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, bằng một cuộc gắn bó triệt để, báo trước sự hoàn thiện cánh chung, tuỳ theo các đoàn sủng khác nhau và trong mức độ có thể đạt được trong thời gian…”
Về đoàn sủng khác nhau thì ở đây, thì xin được dành riêng cho mỗi Hội Dòng, Tu đoàn.
Như vậy, chuyện xem ra chẳng có gì mới. Không có Năm Thánh thì tu sĩ buộc phải như thế mà. Nhưng, chúng ta hãy nhớ lại lời cảnh báo của sách Khải Huyền :
“Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì Danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều nầy : ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu.” (Kh 2, 2-5).
Nhưng chắc có người lại mặc cảm tự ty : “Giáo dân, giáo phận có liên quan gì tới cuộc sống tu trì của chúng tôi đâu !”. Có đấy. Chính Tông thư “Xuất phát lại từ Đức Kitô”, Thánh bộ Đời sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Tông Đồ đã khẳng định :
“Chính trong cuộc sống đơn sơ từng ngày mà đời sống thánh hiến dần dần chín muồi để trở thành lời loan báo về một lối sống khác với lối sống của thế giới và nền văn hoá thống trị. Căn cứ trên lối sống đó và nỗ lực tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, đời sống thánh hiến đề nghị một phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại trong thời đại. Như thế, đời sống thánh hiến là một phúc lành và lý do để hy vọng trong lòng Giáo hội, cho đời sống con người và cho chính đời sống Giáo hội.”
Tôi chỉ xin nhắc lại hai điểm nhấn về sự tác động của đời sống thánh hiến trên dân Chúa, (cách riêng, trong Năm Thánh nầy, với giáo phận Qui Nhơn) : “phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại” và “một phúc lành và lý do để hy vọng”.
Phải chăng, cũng chính vì tầm quan trọng của ý nghĩa và mục tiêu nầy đối với các tu sĩ nam nữ trong Năm Thánh giáo phận, nên Ý cầu nguyện về truyền giáo trong Lịch Phụng giáo phận 2018 đã ghi rõ : “Với tấm lòng tưởng nhở nhớ công ơn các tiên nhân, xin cho mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn, nhất là tu sĩ nam nữ, biết ý thức và sống đúng căn tính của mình”.
2. Thời khắc để “mảnh đất tâm hồn nghỉ ngơi” : Canh tân đời sống nội tâm – Cầu nguyện.
“Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng”
Nếu Năm Thánh của dân Ít-ra-en đó là thời kỳ “cần lao gác lại, đất đai được nghỉ ngơi”, thì hôm nay, Năm Thánh đối với giáo phận cũng chính là thời điểm thích hợp để mọi thành phần dân Chúa trong đó có chúng ta phải để cho “mảnh đất tâm hồn mình được nghỉ ngơi”. Đó là cuộc nghỉ ngơi theo đúng chỉ thị của Đức Kitô dành cho cho các môn sinh : “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng …” (Mc 6, 31), cuộc nghỉ ngơi khỏi những lo toan, bận rộn đời thường, những “lo ra chia trí vì những nhu cầu “cơm áo gạo tiền”, những tranh chấp hơn thua, những lỗ lời mặc cả…
Nói cách khác, thời gian Năm Thánh chắc chắn là thích hợp nhất để mọi người “sắp đặt lại đời sống nội tâm của chính mình”, củng cố những rạn nứt, hong khô những ướt át, đốt nóng những nguội lạnh, nghiêm lại những nhếch nhác biếng lười…
Có rất nhiều “địa chỉ” để chúng ta “hoán cải nội tâm” và “canh tân việc cầu nguyện” :
- Tham dự Thánh lễ hằng ngày đã thật sốt sắng như một lần gặp gỡ Chúa Kitô trong bàn tiệc ?
- Giờ kinh Phụng Vụ là những lời ca kinh tuyệt vời được cất lên trong niềm vui và hạnh phúc ?
- Mỗi lần quỳ xuống nơi Tòa Giải Tội luôn mang tâm tình của một “Người con hoang trong vòng tay Cha” ?
- Những lời kinh Mân Côi, những trang Lời Chúa, những câu nguyện tắt…không lẽ đã “xưa rồi diễm ơi?”….
Chính khi chúng ta “kiện toàn đời sống thiêng liêng, đời sống cầu nguyện…của chính mình” chúng ta sẽ mang lại một trợ giúp cần thiết, một điểm tựa quý báu cho cộng đoàn dân Chúa, như khẳng định của Tông thư “Xuất phát lại từ Đức Kitô” :
“Sự cống hiến của những người thánh hiến nhằm phục vụ phẩm chất đời sống theo Tin Mừng đóng góp vào việc giữ cho sống động, bằng nhiều cách thức, những việc thực hành thiêng liêng trong Dân Thiên Chúa. Các cộng đoàn tu trì luôn tìm cách trở nên những nơi chốn để lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa, cử hành phụng vụ, huấn luyện cầu nguyện và đồng hành qua việc linh hướng. Vì thế, dù không nhận thức rõ, sự trợ giúp đó cũng mang lại lợi ích hỗ tương.”
Hy vọng trong Năm Thánh nầy, nơi nào có sự hiện diện của cộng đoàn tu trì hay được tiếp cận thường xuyên với những người tu sĩ, mọi sự sẽ khá hơn, đạo đức hơn, hiệp nhất hơn, …!
3. Thời khắc để “canh tân các mối tương quan”.
Tuyền thống Năm Thánh của dân Ít-ra-en còn nhấn mạnh khía cạnh “chuộc đất, chuộc nhà, giải phóng nô lệ” :
“đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình…(…) Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ ; nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá ; khi đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình, sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó. Quả thế, chúng là tôi tớ của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ. (Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi.” (Lv 25,23-43).
Như vậy, dịp Năm Thánh nầy là thời gian thích hợp và cần thiết nhất để chúng ta cùng “tính sổ” với chính lương tâm mình, cuộc “tính sổ” về các mối tương quan, tính sổ lòng bác ái, tính sổ luật yêu thương để can đảm gác lại mọi mối tị hiềm, mọi lòng đố kỵ, mọi cái nhìn khe khắt, thiên kiến với đôi kính đen ngòm của tự ái, sĩ diện…
Càng vứt đi cái “bị” hận thù, ganh ghét, thì hành trang Năm Thánh trên đôi vai chúng ta càng nhẹ nhõm, cõi lòng càng thanh thản, và dĩ nhiên, đó là điều kiện thích hợp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, đón nhận hồng ân.
Hãy thành thật với chính lương tâm mình, con tim mình và soi xét cho thật kỷ : biết đâu ở trong một góc nhỏ nào đó vẫn thấp thoáng một hình bóng, vẫn lợn cợn một gương mặt, vẫn chênh vênh một con người, một ai đó…mà mình chưa bắt lại nhịp cầu, chưa khiêm nhượng đủ để nhận lỗi và không đủ bao dung để thứ tha…!
Năm Thánh mà ! Hẹp hòi làm chi, cố chấp làm gì ! Cay đắng có được gì đâu.
4. Thời khắc để “xức dầu thơm lên giáo phận”.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi…công bố một năm hồng ân của Chúa”. (Lc 4,18-19).
Với Đức Kitô thì rõ ràng, việc “công bố Năm Hồng Ân” gắn liền với việc “Xức Dầu của Thần Khí”. Nói cách khác, Năm Thánh, Năm Hồng ân, sẽ là thời khắc đặc biệt để “Dầu Thần Khí tuôn tràn trên dân Chúa” (qua Đấng được xức dầu).
Chúng ta thử nghe Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngỏ lời với chính chúng ta về việc “xức dầu” nầy, từ gợi ý của việc “xức dầu” tại Bêtania :
“…Dầu thơm quí giá được đổ ra như một tác động hoàn toàn vì tình yêu, và như thế vượt ra ngoài mọi tính toán "vụ lợi", là dấu chỉ của một sự nhưng không tràn đầy biểu lộ qua một đời sống được tiêu hao đi để yêu mến và phục vụ Chúa, để hiến thân cho Người và cho Nhiệm thể Người. Đời sống "được đổ tràn ra" không tính toán đó lan toả hương thơm khắp cả nhà. Cũng như xưa, ngôi nhà của Thiên Chúa là Giáo Hội được trang điểm và nên giàu có nhờ sự hiện diện của đời thánh hiến. Đối với con người bị vẽ đẹp và sự tốt lành của Chúa chinh phục từ thâm tâm, thì điều có thể xem là một lãng phí trước mắt loài người, lại là một lời đáp rõ ràng của tình yêu…”
Vâng, chỉ khi nào chúng ta cảm nhận thật sự và xác tín thường xuyên về căn tính ơn gọi, sự chọn lựa đi con đường Thập Giá là một hồng ân cao quý, một hạnh phúc tuyệt vời mà cái giá chúng ta phải trả là chính “bình dầu cuộc đời mình” lại chắng sá kể gì, chẳng thấm vào đâu, thì chúng ta mới thật sự hạnh phúc.
Mà không phải chỉ cho chúng ta thôi đâu. “Bình dầu thơm được đập bể để xức chân Chúa” như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, sẽ “lan toả hương thơm khắp cả nhà”, sẽ làm “bừng nở hoa hồng tình yêu” cho những cuộc đời băng giá (chuyện chim họa mi và cây hoa hồng của Oscar Wilde – 1854-1900), sẽ thắp sáng lên những ngọn đèn leo lắt tối tăm nơi những căn hộ hẩm hiu cô độc (cây đèn mẹ Thánh Têrêsa Calcutta thắp cho một cụ già), sẽ làm nên “những con đường đầy hoa” nối liền những “ốc đảo” xa xôi cách biệt để mở ra những gặp gỡ, yêu thương, bao dung, đón nhận (con đường nối liền hai cái hang của 2 tên cướp)…
Dầu quảng đại, dầu chia sẻ, dầu hy sinh quên mình, dầu thuộc về Chúa Kitô, dầu phục vụ yêu thương con người…quý hóa làm sao !
Riêng tôi, tôi đọc thấy “bình đầu thơm của cô Maria đó” hiển hiện thật rõ nét nơi 3 cuộc đời của 3 vị nữ tu mà đã khiến làn truyền thông của thế giới và của Giáo Hội tốn rất nhiều giấy mực. Đó là 3 cuộc đời thánh hiến với 3 nét đặc trưng :
- Sắc đẹp của nữ tu Dolores Hart (Sinh năm 1938, người Mỹ). Là diễn viên điện ảnh tiếng tăm của Hollywood với 10 bộ phim ăn khách, năm 1963 đã bỏ lại tất cả để dấn thân sống đời thánh hiến trong tu viên Regina Laudis thuộc thị trấn Bethlehem bang Connecticut.
- Giọng ca của nữ tu Cristiana Scuccia. (Sinh năm 1988, Người Sicile, Ý). Đã có một thời tuổi trẻ xa lìa đức tin Công Giáo. Với niềm đam mê ca vũ, sau vai diễn nữ tu Rosa trong vỡ nhạc kịch của các nữ tu Dòng Ursuline kỷ niệm 100 năm, đã trở lại và nhập dòng. Năm 2014, đã chiếm giải quán quân trong chương trình âm nhạc The Voice Italia 2014. Chính trên sân khấu truyền hình, nữ tu Cristiana đã làm chứng về việc “loan báo Tin Mừng cho những vùng ngoại vi theo tinh thần “đi ra” của ĐTC Phanxico.
- Nụ cười của nữ tu Cecilia. (Người Argentina). Cách đây gần một năm, vào ngày thứ ba 28/6/2016, trên trang mạng Vnexpress đã đăng một bản tin cùng với bức hình nữ tu Cecilia người Argentine vừa mới qua đời với nụ cười rạng rỡ. Bản tin có tựa đề : Nụ cười phút lâm chung của một nữ tu bị ung thư phổi ; và sau đó đã mở đầu bằng những dòng: “Cái chết là bi kịch với nhân loại song lại là hạnh phúc rực rỡ trong tâm trí sơ Cecilia, người có niềm tin vào cõi vĩnh hằng và vòng tay Đức Chúa Trời.”
Sở dĩ tôi muốn đưa ra 3 hình ảnh nữ tu nầy trong nội dung chia sẻ cuối cùng nầy, bởi vì tôi nhận ra nơi 3 cuộc đời của 3 nữ tu đó bao gồm cả chiều dài của một cuộc đời theo Chúa của tất cả chúng ta.
Vâng, chúng ta đều đã có một thời xuân sắc, tuổi trẻ, sắc đẹp, mộng ước và cả tình yêu…Nhưng rồi đã nghe tiếng Chúa gọi mời và đã bỏ lại tất cả như nữ tu “diễn viên điện ảnh Dolores” để tận hiến cuộc đời phục vụ lý tưởng “tình yêu dâng hiến”.
Và rồi, trong cuộc đời thánh hiến đã đi qua và cho đến hôm nay, anh chị em chúng ta đã cất lên “tiếng hát của đời mình” để phục vụ và loan truyền Lời Chúa qua bao nhiêu “sân khấu cuộc đời” như tiếng hát của nữ tu Cristiana.
Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ trở về nơi nhà hưu hay âm thầm trên giường bệnh để đợi chờ giây phút “gặp gỡ Đấng tình quân Giêsu” trong nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc của nữ tu Cecilia…!
Vâng, ngôi nhà của Hội Thánh, của giáo phận, và của thế giới nầy luôn cần “những hương thơm” từ những “bình dầu thơm sẵn sàng bị đập bể của “những cô Maria Bêtania.”
Lời sau cùng xin được nhắn gởi : Mỗi ngày chúng ta có thể tự đặt câu hỏi cho riêng mình: “Không lẽ Năm Thánh giáo phận đã trở thành năm cũ rồi sao ?”.
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Bài chia sẻ trong ngày cử hành Năm Thánh cho giới Tu sĩ trong giáo phận Quy Nhơn
02/02/2018
Thế là Năm Thánh Hồng Ân của Giáo phận Qui Nhơn chúng ta đã trôi qua được hơn 6 tháng (Khai mạc ngày 26.7.2017) !
Đối với người không có đức tin, hay những người “vốn có đức tin nhưng sống khô khan nguội lạnh…”, thì Năm Thánh, năm Toàn Xá, Năm …cũng chẳng ăn thua gì, chả cần thiết gì, không ảnh hưởng gì !
Nhưng với chúng ta, những người mà đời sống mang “thương hiệu Thánh Hiến”, thì khác. Bởi vì, đời sống nầy, như cách đánh giá của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trong Tông Huấn Đời Thánh Hiến, có một vai trò và vị trí đặc biệt làm nên chính đời sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Hội Thánh : “đời sống thánh hiến không chỉ đóng vai trò trợ giúp và nâng đỡ Giáo Hội trong quá khứ, nhưng còn là một ân huệ quý báu và cần thiết cho hiện tại và tương lai của Dân Thiên Chúa, bởi vì đời sống này là một phần sâu xa của nếp sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Dân Thiên Chúa.”
Theo như nội dung ý nghĩa đó của ĐTC, thì có thể nói một cách cường điệu thế nầy : Cứ nhìn các tu sĩ sống và thực hành Năm Thánh như thế nào thì biết được tình trạng sống Năm Thánh của dân Chúa giáo phận như thế !
Vì thế, cho dù có khô khan nguội lạnh hay trễ nải thờ ơ, thì chúng ta không thể để thời gian Năm Thánh nầy qua đi mà không nhận được gì, mà không chuyển biến gì. Cho nên, cuộc họp mặt để cử hành Năm thánh hôm nay thật là thích hợp, thật quý báu, để cùng nhau soi lại đời mình, cuộc sống mình và cam kết thánh hiến của mình trong “bối cảnh Năm Thánh”.
Để khơi gợi một đôi ý tưởng nhằm giúp quý anh chị em suy nghĩ và cầu nguyện trong dịp đặc biệt nầy, trước hết tôi xin giới thiệu một vài ý nghĩa cơ bản của Năm Thánh.
Chúng ta biết rằng: Năm Thánh hay Năm Tòan Xá bắt nguồn từ truyền thống Thánh Kinh khi dân Ít-ra-en đã được chính Thiên Chúa chỉ thị tổ chức thực hiện :
“Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng. Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình.” (Lv 25,10-13).
Ý nghĩa “Năm Toàn Xá” đầu tiên mà đoạn sách Lê-vi nhấn mạnh đó chính là “Trở về phần sở hữu của mình”. Ngoài ý nghĩa không gian mang chiều kích địa lý, tự nhiên, chúng ta có thể hiểu “trở về phần sở hữu của mình” đó chính là trờ về với căn tính, với con người đích thực, với ơn gọi và sứ mệnh đặc thù của mình.
1. Năm Thánh : Thời gian để trở về “căn tính đời tu” :
Khi nói tới “căn tính” đời tu người ta hay dùng 2 thuật ngữ : đó là “bước theo Chúa Kitô” (Sequela Christi) và “họa lại hình ảnh Đức Kitô” (Alter Christus). Nói cách khác đó là “tự do thanh thoát bước theo Chúa Kitô, trung thành theo mẫu gương đời sống của Ngài qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm (Khiết tịnh, Khó nghèo, Vâng phục) và tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa”.
Được gợi hứng từ trình thuật “viễn cảnh Biến Hình”, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã cắt nghĩa rõ hơn “nội dung căn tính” nầy trong Tông huấn “Đời sống thánh hiến”. Xin trích :
“Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Ki-tô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình" (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, bằng một cuộc gắn bó triệt để, báo trước sự hoàn thiện cánh chung, tuỳ theo các đoàn sủng khác nhau và trong mức độ có thể đạt được trong thời gian…”
Về đoàn sủng khác nhau thì ở đây, thì xin được dành riêng cho mỗi Hội Dòng, Tu đoàn.
Như vậy, chuyện xem ra chẳng có gì mới. Không có Năm Thánh thì tu sĩ buộc phải như thế mà. Nhưng, chúng ta hãy nhớ lại lời cảnh báo của sách Khải Huyền :
“Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì Danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều nầy : ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu.” (Kh 2, 2-5).
Nhưng chắc có người lại mặc cảm tự ty : “Giáo dân, giáo phận có liên quan gì tới cuộc sống tu trì của chúng tôi đâu !”. Có đấy. Chính Tông thư “Xuất phát lại từ Đức Kitô”, Thánh bộ Đời sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Tông Đồ đã khẳng định :
“Chính trong cuộc sống đơn sơ từng ngày mà đời sống thánh hiến dần dần chín muồi để trở thành lời loan báo về một lối sống khác với lối sống của thế giới và nền văn hoá thống trị. Căn cứ trên lối sống đó và nỗ lực tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, đời sống thánh hiến đề nghị một phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại trong thời đại. Như thế, đời sống thánh hiến là một phúc lành và lý do để hy vọng trong lòng Giáo hội, cho đời sống con người và cho chính đời sống Giáo hội.”
Tôi chỉ xin nhắc lại hai điểm nhấn về sự tác động của đời sống thánh hiến trên dân Chúa, (cách riêng, trong Năm Thánh nầy, với giáo phận Qui Nhơn) : “phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại” và “một phúc lành và lý do để hy vọng”.
Phải chăng, cũng chính vì tầm quan trọng của ý nghĩa và mục tiêu nầy đối với các tu sĩ nam nữ trong Năm Thánh giáo phận, nên Ý cầu nguyện về truyền giáo trong Lịch Phụng giáo phận 2018 đã ghi rõ : “Với tấm lòng tưởng nhở nhớ công ơn các tiên nhân, xin cho mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn, nhất là tu sĩ nam nữ, biết ý thức và sống đúng căn tính của mình”.
2. Thời khắc để “mảnh đất tâm hồn nghỉ ngơi” : Canh tân đời sống nội tâm – Cầu nguyện.
“Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng”
Nếu Năm Thánh của dân Ít-ra-en đó là thời kỳ “cần lao gác lại, đất đai được nghỉ ngơi”, thì hôm nay, Năm Thánh đối với giáo phận cũng chính là thời điểm thích hợp để mọi thành phần dân Chúa trong đó có chúng ta phải để cho “mảnh đất tâm hồn mình được nghỉ ngơi”. Đó là cuộc nghỉ ngơi theo đúng chỉ thị của Đức Kitô dành cho cho các môn sinh : “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng …” (Mc 6, 31), cuộc nghỉ ngơi khỏi những lo toan, bận rộn đời thường, những “lo ra chia trí vì những nhu cầu “cơm áo gạo tiền”, những tranh chấp hơn thua, những lỗ lời mặc cả…
Nói cách khác, thời gian Năm Thánh chắc chắn là thích hợp nhất để mọi người “sắp đặt lại đời sống nội tâm của chính mình”, củng cố những rạn nứt, hong khô những ướt át, đốt nóng những nguội lạnh, nghiêm lại những nhếch nhác biếng lười…
Có rất nhiều “địa chỉ” để chúng ta “hoán cải nội tâm” và “canh tân việc cầu nguyện” :
- Tham dự Thánh lễ hằng ngày đã thật sốt sắng như một lần gặp gỡ Chúa Kitô trong bàn tiệc ?
- Giờ kinh Phụng Vụ là những lời ca kinh tuyệt vời được cất lên trong niềm vui và hạnh phúc ?
- Mỗi lần quỳ xuống nơi Tòa Giải Tội luôn mang tâm tình của một “Người con hoang trong vòng tay Cha” ?
- Những lời kinh Mân Côi, những trang Lời Chúa, những câu nguyện tắt…không lẽ đã “xưa rồi diễm ơi?”….
Chính khi chúng ta “kiện toàn đời sống thiêng liêng, đời sống cầu nguyện…của chính mình” chúng ta sẽ mang lại một trợ giúp cần thiết, một điểm tựa quý báu cho cộng đoàn dân Chúa, như khẳng định của Tông thư “Xuất phát lại từ Đức Kitô” :
“Sự cống hiến của những người thánh hiến nhằm phục vụ phẩm chất đời sống theo Tin Mừng đóng góp vào việc giữ cho sống động, bằng nhiều cách thức, những việc thực hành thiêng liêng trong Dân Thiên Chúa. Các cộng đoàn tu trì luôn tìm cách trở nên những nơi chốn để lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa, cử hành phụng vụ, huấn luyện cầu nguyện và đồng hành qua việc linh hướng. Vì thế, dù không nhận thức rõ, sự trợ giúp đó cũng mang lại lợi ích hỗ tương.”
Hy vọng trong Năm Thánh nầy, nơi nào có sự hiện diện của cộng đoàn tu trì hay được tiếp cận thường xuyên với những người tu sĩ, mọi sự sẽ khá hơn, đạo đức hơn, hiệp nhất hơn, …!
3. Thời khắc để “canh tân các mối tương quan”.
Tuyền thống Năm Thánh của dân Ít-ra-en còn nhấn mạnh khía cạnh “chuộc đất, chuộc nhà, giải phóng nô lệ” :
“đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình…(…) Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ ; nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá ; khi đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình, sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó. Quả thế, chúng là tôi tớ của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ. (Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi.” (Lv 25,23-43).
Như vậy, dịp Năm Thánh nầy là thời gian thích hợp và cần thiết nhất để chúng ta cùng “tính sổ” với chính lương tâm mình, cuộc “tính sổ” về các mối tương quan, tính sổ lòng bác ái, tính sổ luật yêu thương để can đảm gác lại mọi mối tị hiềm, mọi lòng đố kỵ, mọi cái nhìn khe khắt, thiên kiến với đôi kính đen ngòm của tự ái, sĩ diện…
Càng vứt đi cái “bị” hận thù, ganh ghét, thì hành trang Năm Thánh trên đôi vai chúng ta càng nhẹ nhõm, cõi lòng càng thanh thản, và dĩ nhiên, đó là điều kiện thích hợp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, đón nhận hồng ân.
Hãy thành thật với chính lương tâm mình, con tim mình và soi xét cho thật kỷ : biết đâu ở trong một góc nhỏ nào đó vẫn thấp thoáng một hình bóng, vẫn lợn cợn một gương mặt, vẫn chênh vênh một con người, một ai đó…mà mình chưa bắt lại nhịp cầu, chưa khiêm nhượng đủ để nhận lỗi và không đủ bao dung để thứ tha…!
Năm Thánh mà ! Hẹp hòi làm chi, cố chấp làm gì ! Cay đắng có được gì đâu.
4. Thời khắc để “xức dầu thơm lên giáo phận”.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi…công bố một năm hồng ân của Chúa”. (Lc 4,18-19).
Với Đức Kitô thì rõ ràng, việc “công bố Năm Hồng Ân” gắn liền với việc “Xức Dầu của Thần Khí”. Nói cách khác, Năm Thánh, Năm Hồng ân, sẽ là thời khắc đặc biệt để “Dầu Thần Khí tuôn tràn trên dân Chúa” (qua Đấng được xức dầu).
Chúng ta thử nghe Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngỏ lời với chính chúng ta về việc “xức dầu” nầy, từ gợi ý của việc “xức dầu” tại Bêtania :
“…Dầu thơm quí giá được đổ ra như một tác động hoàn toàn vì tình yêu, và như thế vượt ra ngoài mọi tính toán "vụ lợi", là dấu chỉ của một sự nhưng không tràn đầy biểu lộ qua một đời sống được tiêu hao đi để yêu mến và phục vụ Chúa, để hiến thân cho Người và cho Nhiệm thể Người. Đời sống "được đổ tràn ra" không tính toán đó lan toả hương thơm khắp cả nhà. Cũng như xưa, ngôi nhà của Thiên Chúa là Giáo Hội được trang điểm và nên giàu có nhờ sự hiện diện của đời thánh hiến. Đối với con người bị vẽ đẹp và sự tốt lành của Chúa chinh phục từ thâm tâm, thì điều có thể xem là một lãng phí trước mắt loài người, lại là một lời đáp rõ ràng của tình yêu…”
Vâng, chỉ khi nào chúng ta cảm nhận thật sự và xác tín thường xuyên về căn tính ơn gọi, sự chọn lựa đi con đường Thập Giá là một hồng ân cao quý, một hạnh phúc tuyệt vời mà cái giá chúng ta phải trả là chính “bình dầu cuộc đời mình” lại chắng sá kể gì, chẳng thấm vào đâu, thì chúng ta mới thật sự hạnh phúc.
Mà không phải chỉ cho chúng ta thôi đâu. “Bình dầu thơm được đập bể để xức chân Chúa” như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, sẽ “lan toả hương thơm khắp cả nhà”, sẽ làm “bừng nở hoa hồng tình yêu” cho những cuộc đời băng giá (chuyện chim họa mi và cây hoa hồng của Oscar Wilde – 1854-1900), sẽ thắp sáng lên những ngọn đèn leo lắt tối tăm nơi những căn hộ hẩm hiu cô độc (cây đèn mẹ Thánh Têrêsa Calcutta thắp cho một cụ già), sẽ làm nên “những con đường đầy hoa” nối liền những “ốc đảo” xa xôi cách biệt để mở ra những gặp gỡ, yêu thương, bao dung, đón nhận (con đường nối liền hai cái hang của 2 tên cướp)…
Dầu quảng đại, dầu chia sẻ, dầu hy sinh quên mình, dầu thuộc về Chúa Kitô, dầu phục vụ yêu thương con người…quý hóa làm sao !
Riêng tôi, tôi đọc thấy “bình đầu thơm của cô Maria đó” hiển hiện thật rõ nét nơi 3 cuộc đời của 3 vị nữ tu mà đã khiến làn truyền thông của thế giới và của Giáo Hội tốn rất nhiều giấy mực. Đó là 3 cuộc đời thánh hiến với 3 nét đặc trưng :
- Sắc đẹp của nữ tu Dolores Hart (Sinh năm 1938, người Mỹ). Là diễn viên điện ảnh tiếng tăm của Hollywood với 10 bộ phim ăn khách, năm 1963 đã bỏ lại tất cả để dấn thân sống đời thánh hiến trong tu viên Regina Laudis thuộc thị trấn Bethlehem bang Connecticut.
- Giọng ca của nữ tu Cristiana Scuccia. (Sinh năm 1988, Người Sicile, Ý). Đã có một thời tuổi trẻ xa lìa đức tin Công Giáo. Với niềm đam mê ca vũ, sau vai diễn nữ tu Rosa trong vỡ nhạc kịch của các nữ tu Dòng Ursuline kỷ niệm 100 năm, đã trở lại và nhập dòng. Năm 2014, đã chiếm giải quán quân trong chương trình âm nhạc The Voice Italia 2014. Chính trên sân khấu truyền hình, nữ tu Cristiana đã làm chứng về việc “loan báo Tin Mừng cho những vùng ngoại vi theo tinh thần “đi ra” của ĐTC Phanxico.
- Nụ cười của nữ tu Cecilia. (Người Argentina). Cách đây gần một năm, vào ngày thứ ba 28/6/2016, trên trang mạng Vnexpress đã đăng một bản tin cùng với bức hình nữ tu Cecilia người Argentine vừa mới qua đời với nụ cười rạng rỡ. Bản tin có tựa đề : Nụ cười phút lâm chung của một nữ tu bị ung thư phổi ; và sau đó đã mở đầu bằng những dòng: “Cái chết là bi kịch với nhân loại song lại là hạnh phúc rực rỡ trong tâm trí sơ Cecilia, người có niềm tin vào cõi vĩnh hằng và vòng tay Đức Chúa Trời.”
Sở dĩ tôi muốn đưa ra 3 hình ảnh nữ tu nầy trong nội dung chia sẻ cuối cùng nầy, bởi vì tôi nhận ra nơi 3 cuộc đời của 3 nữ tu đó bao gồm cả chiều dài của một cuộc đời theo Chúa của tất cả chúng ta.
Vâng, chúng ta đều đã có một thời xuân sắc, tuổi trẻ, sắc đẹp, mộng ước và cả tình yêu…Nhưng rồi đã nghe tiếng Chúa gọi mời và đã bỏ lại tất cả như nữ tu “diễn viên điện ảnh Dolores” để tận hiến cuộc đời phục vụ lý tưởng “tình yêu dâng hiến”.
Và rồi, trong cuộc đời thánh hiến đã đi qua và cho đến hôm nay, anh chị em chúng ta đã cất lên “tiếng hát của đời mình” để phục vụ và loan truyền Lời Chúa qua bao nhiêu “sân khấu cuộc đời” như tiếng hát của nữ tu Cristiana.
Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ trở về nơi nhà hưu hay âm thầm trên giường bệnh để đợi chờ giây phút “gặp gỡ Đấng tình quân Giêsu” trong nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc của nữ tu Cecilia…!
Vâng, ngôi nhà của Hội Thánh, của giáo phận, và của thế giới nầy luôn cần “những hương thơm” từ những “bình dầu thơm sẵn sàng bị đập bể của “những cô Maria Bêtania.”
Lời sau cùng xin được nhắn gởi : Mỗi ngày chúng ta có thể tự đặt câu hỏi cho riêng mình: “Không lẽ Năm Thánh giáo phận đã trở thành năm cũ rồi sao ?”.
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Thánh Lễ Tạ Ơn Kết Thúc Thời Gian Thánh Của Giáo Xứ Tuyên Quang GP Hưng Hóa
BTT giáo hạt Hà Tuyên Hùng
11:54 02/02/2018
Ngày 01.02.2018, giáo xứ Tuyên Quang hân hoan tổ chức Thánh lễ tạ ơn kết thúc thời gian thánh nhân dịp kỷ niệm 120 năm thành lập giáo xứ và xây dựng nhà thờ. Thánh lễ tạ ơn do Đức cha Gioan Maria Vũ Tất chủ sự. Đồng tế trong Thánh lễ có cha Tổng đại diện Phêrô Phùng Văn Tôn, cha quản hạt Giuse Nguyễn Thái Hà và quý cha trong và ngoài giáo phận. Tham dự Thánh lễ có quý thầy, quý dì, quý khách cùng toàn thể cộng đoàn dân Chúa.
Xem Hình
Đúng 9g30, Đức cha Gioan Maria chủ sự nghi thức bế mạc thời gian thánh tại tiền sảnh nhà Mục vụ của giáo xứ Tuyên Quang. Sau nghi thức bế mạc, Đức cha, quý cha tiến về lễ đài để cử hành Thánh lễ tạ ơn.
Ngay đầu Thánh lễ, cha quản hạt và cũng là cha chính xứ Tuyên Quang đã ngỏ lời với Đức cha, quý cha và cộng đoàn về thời gian thánh. Với 42 ngày thánh đã trôi qua, giáo xứ Tuyên Quang đã đón tiếp 5.634 lượt người hành hương, sửa 10 đôi hôn nhân và 02 người xin gia nhập đạo cùng muôn vàn ơn lành khác. Vì thế, giáo xứ Tuyên Quang đã tổ chức Thánh lễ tạ ơn để tri ân Thiên Chúa vì những ân huệ mà Ngài đã ban xuống cho giáo xứ trong thời gian qua.
Chia sẻ trong Thánh lễ, Đức cha Gioan Maria đã nhấn mạnh về những ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho con người, cũng như chính những gì mà giáo xứ Tuyên Quang đã lãnh nhận được trong suốt 120 năm qua, cách riêng trong thời gian 42 ngày thánh. Đồng thời, Đức cha cũng cho thấy các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh. Đồng thời, Đức cha cắt nghĩa từ Bí tích Rửa Tội cho đến Bí tích Xức Dầu đề mọi người thấy được những ân huệ mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người cách nhưng không. Qua đó, Đức cha hướng mọi người hiệp lòng với tâm tình của Mẹ Maria, để cả cuộc đời cất lên cùng mẹ qua lời kinh Magnificat.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một vị đại diện Hội đồng giáo xứ Tuyên Quang dâng lời tri ân và chúc tết Đức cha, quý cha, quý thầy, quý dì, quý khách đã đến tham dự Thánh lễ tạ ơn hôm nay, và dâng lên Đức cha bó hoa tươi thắm với tấm lòng tri ân.
Thánh lễ tạ ơn bế mạc thời gian thánh của giáo xứ Tuyên Quang được kết thúc trong bữa cơm Tất Niên thân thiện tại sân nhà mục vụ của giáo xứ.
BTT giáo hạt Hà Tuyên Hùng
Xem Hình
Đúng 9g30, Đức cha Gioan Maria chủ sự nghi thức bế mạc thời gian thánh tại tiền sảnh nhà Mục vụ của giáo xứ Tuyên Quang. Sau nghi thức bế mạc, Đức cha, quý cha tiến về lễ đài để cử hành Thánh lễ tạ ơn.
Ngay đầu Thánh lễ, cha quản hạt và cũng là cha chính xứ Tuyên Quang đã ngỏ lời với Đức cha, quý cha và cộng đoàn về thời gian thánh. Với 42 ngày thánh đã trôi qua, giáo xứ Tuyên Quang đã đón tiếp 5.634 lượt người hành hương, sửa 10 đôi hôn nhân và 02 người xin gia nhập đạo cùng muôn vàn ơn lành khác. Vì thế, giáo xứ Tuyên Quang đã tổ chức Thánh lễ tạ ơn để tri ân Thiên Chúa vì những ân huệ mà Ngài đã ban xuống cho giáo xứ trong thời gian qua.
Chia sẻ trong Thánh lễ, Đức cha Gioan Maria đã nhấn mạnh về những ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho con người, cũng như chính những gì mà giáo xứ Tuyên Quang đã lãnh nhận được trong suốt 120 năm qua, cách riêng trong thời gian 42 ngày thánh. Đồng thời, Đức cha cũng cho thấy các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh. Đồng thời, Đức cha cắt nghĩa từ Bí tích Rửa Tội cho đến Bí tích Xức Dầu đề mọi người thấy được những ân huệ mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người cách nhưng không. Qua đó, Đức cha hướng mọi người hiệp lòng với tâm tình của Mẹ Maria, để cả cuộc đời cất lên cùng mẹ qua lời kinh Magnificat.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một vị đại diện Hội đồng giáo xứ Tuyên Quang dâng lời tri ân và chúc tết Đức cha, quý cha, quý thầy, quý dì, quý khách đã đến tham dự Thánh lễ tạ ơn hôm nay, và dâng lên Đức cha bó hoa tươi thắm với tấm lòng tri ân.
Thánh lễ tạ ơn bế mạc thời gian thánh của giáo xứ Tuyên Quang được kết thúc trong bữa cơm Tất Niên thân thiện tại sân nhà mục vụ của giáo xứ.
BTT giáo hạt Hà Tuyên Hùng
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bài Giáo Lý Thứ 8 của Đức Thánh Cha Phanxicô về Thánh Lễ: Phụng Vụ Lời Chúa
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
10:54 02/02/2018
“Phụng vụ Lời Chúa là một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài”.
Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ tám của ĐTC Phanxicô về Thánh Lễ, được ban hành ngày 31 tháng 1, 2018 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Hôm nay ĐTC giải thích về Phụng Vụ Lời Chúa:
“Trong Hội Thánh khi Thánh Kinh được đọc, thì Chính Thiên Chúa nói với dân Ngài, và Đức Kitô, hiện diện trong Lời, công bố Tin Mừng…
Chúng ta lắng nghe Lời ấy bằng tai của mình và chuyển Lời ấy sang tâm hồn mình; Lời ấy không ở lại trong tai, mà phải đi vào tâm hồn; và từ tâm hồn Lời ấy chuyền sang đôi tay, để làm việc lành.”.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta tiếp tục loạt bài giáo lý về Thánh Lễ. Sau khi bàn về nghi thức đầu lễ, giờ đây chúng ta hãy xét đến Phụng Vụ Lời Chúa, là một phần cấu thành [của Thánh Lễ] bởi vì chúng ta tụ họp để lắng nghe những gì Thiên Chúa đã làm và vẫn còn có ý định làm cho chúng ta.
Đó là một kinh nghiệm “trực tiếp” chứ không phải do được nghe nói đến, bởi vì “trong Hội Thánh khi Thánh Kinh được đọc, thì Chính Thiên Chúa nói với dân Ngài, và Đức Kitô, hiện diện trong Lời, công bố Tin Mừng” (Quy Chế Tổng Quát về Sách Lễ Roma (QCTQSLR), 29, xem Hiến Chế Phụng Vụ Thánh (SC), 7; 33).
Và biết bao lần, trong khi Lời Chúa được đọc, người ta lại bảo nhau:
"Hãy nhìn ông này ..., hãy nhìn bà kia ..., hãy nhìn cái mũ bà ta đang đội: thật nực cười ...".
Và họ bắt đầu nói chuyện. Có đúng không?
Có nên nói chuyện trong khi đọc Lời Chúa không? [dân chúng trả lời: "Không!"].
Không, bởi vì nếu chúng ta nói chuyện với những người khác thì chúng ta không lắng nghe Lời Chúa. Khi chúng ta đọc Lời Chúa trong Thánh Kinh - Bài Đọc Thứ Nhất, Thứ Hai, Thánh Vịnh đáp ca và Tin Mừng - chúng ta phải lắng nghe, mở lòng ra, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng nói với chúng ta, và đừng nghĩ về những điều khác hay nói về những điều khác. Hiểu chưa? ... Tôi sẽ giải thích cho anh chị em về việc gì xảy ra trong Phụng Vụ Lời Chúa.
Các trang Thánh Kinh không còn là một bài viết mà trở thành Lời sống động được Thiên Chúa công bố. Chính Thiên Chúa là Đấng, qua người đọc, nói với chúng ta và thách đố chúng ta, là những người nghe với đức tin. Chúa Thánh Thần, Đấng “đã dùng các tiên tri mà phán dạy" (Kinh Tin Kính) và đã linh hứng các thánh ký, làm cho "Lời Chúa thực sự tác động trong tâm hồn điều mà Ngài làm cho vang lên trong tai" (Sách Bài Đọc, Dẫn Nhập, 9).
Nhưng để lắng nghe Lời Chúa thì cần phải mở lòng ra mà đón nhận các Lời ấy vào lòng.
Thiên Chúa nói và chúng ta lắng nghe Ngài, rồi sau đó thực hành những gì chúng ta đã nghe.
Điều rất quan trọng là lắng nghe.
Đôi khi chúng ta có thể không hiểu tại sao lại có một số bài đọc hơi khó hiểu. Nhưng Thiên Chúa nói cùng Lời ấy với chúng ta bằng một cách khác, trong thầm lặng và lắng nghe Lời Chúa. Đừng quên điều này. Trong Thánh Lễ, khi các Bài Đọc bắt đầu, chúng ta lắng nghe Lời Chúa.
Chúng ta cần lắng nghe Ngài! Thực ra, đó là một vấn đề sự sống, như một diễn tả sâu sắc rằng, "người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4:4). Sự sống mà Lời Thiên Chúa ban cho chúng ta. Theo nghĩa này, chúng ta nói về Phụng Vụ Lời Chúa như "bàn tiệc" mà Chúa dọn ra để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Đó là một bán tiệc tràn đầy của phụng vụ, rút ra rộng rãi từ kho tàng Thánh Kinh (x SC, 51), cả Cựu lẫn Tân Ước, bởi vì trong cả hai giao ước, Hội Thánh công bố cùng một một mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô (x Sách Bài Đọc, dẫn nhâp, 5). Chúng ta nghĩ về sự phong phú của các bài đọc Thánh Kinh được ba chu kỳ Chúa Nhật cung cấp mà, theo ánh sáng của các Tin Mừng Nhất Lãm, đồng hành với chúng ta trong suốt Năm Phụng Vụ: một sự phong phú dồi dào. Tôi cũng muốn đề cập đến ở đây tầm quan trọng của Thánh Vịnh đáp ca, có chức năng nuôi dưỡng việc suy niệm về điều đã được nghe trong bài đọc trước đó. Tốt hơn là bài Thánh Vịnh được củng cố bằng bài hát, ít là trong điệp khúc (xem QCTQSLR, 61, Sách Bài Đọc, Dẫn Nhập, 19-22).
Việc công bố phụng vụ cũng những Bài Đọc ấy, với những bài hát được rút ra từ Thánh Kinh, bày tỏ và nuôi dưỡng sự hiệp thông của Hội Thánh, đồng hành với cuộc hành trình của mỗi người chúng ta. Cho nên, chúng ta có thể hiểu được tại sao một số chọn lựa chủ quan, như bỏ các Bài Đọc hay thay thế chúng bằng các bản văn ngoài Thánh Kinh, đều bị cấm. Tôi nghe nói có người, đọc báo nếu có tin tức, bởi vì đó là tin tức trong ngày. Không! Lời Chúa là Lời của Thiên Chúa! Chúng ta có thể đọc báo sau. Nhưng ở đây chúng ta đọc Lời của Thiên Chúa, Đấng nói với chúng ta. Thay thế Lời ấy bằng những điều khác làm cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong cầu nguyện bị nghèo nàn và tổn thương. Đàng khác, việc tôn trọng toà giảng và việc sử dụng Sách Bài Đọc, việc có sẵn những người đọc và những người hát Thánh Vịnh tốt [là điều bắt buộc]. Nhưng chúng ta phải tìm những người đọc tốt, những người có thể đọc, chứ không phải những người đọc [sai các lời] khiến cho người ta chẳng hiểu gì cả. Giống như thế này. Những người đọc tốt. Họ phải chuẩn bị và thử trước Thánh Lễ để đọc cho tốt. Và điều này tạo ra một bầu không khí đón nhận im lặng [1].
Chúng ta biết rằng Lời Chúa là một sự trợ giúp để mình không bị lạc đường, cũng như tác giả Thánh Vịnh hướng lên Chúa mà thú nhận rằng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi bước chân con, là ánh sáng soi đường con đi" (Tv 119:105). Làm sao chúng ta có thể đương đầu với cuộc lữ hành trần thế của mình, với những khó nhọc và thử thách của nó, mà không thường xuyên được nuôi dưỡng và soi sáng bởi Lời Chúa, là Lời vang lên trong Phụng Vụ?
Chắc chắn rằng chỉ nghe bằng tai, mà không đón nhận hạt giống Lời Chúa vào tâm hồn mình và để cho hạt giống ấy sinh hoa trái, thì chưa đủ. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn người gieo giống và các kết quả khác nhau tuỳ theo các loại đất khác nhau (xem Mc 4: 14-20). Tác động của Chúa Thánh Thần, là điều làm cho sự đáp trả có hiệu quả, cần những tâm hồn để cho mình được Ngài làm việc và vun xới, ngõ hầu những gì được nghe trong Thánh Lễ chuyển sang cuộc sống hằng ngày, theo lời khuyên của Thánh Tông Đồ Giacôbê:
"Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ không phải chỉ là những người nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1:22).
Lời Chúa hành trình trong chúng ta. Chúng ta lắng nghe Lời ấy bằng tai của mình và chuyển Lời ấy sang tâm hồn mình; Lời ấy không ở lại trong tai, mà phải đi vào tâm hồn; và từ tâm hồn Lời ấy chuyền sang đôi tay, để làm việc lành. Đây là con đường mà Lời Chúa đi theo: từ tai đến tâm hồn và đôi tay. Chúng ta hãy học những điều này. Cảm ơn anh chị em!
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2018/documents/papa-francesco_20180131_udienza-generale.html
[1] "Phụng vụ Lời Chúa phải được cử hành cách nào để thúc đẩy việc suy niệm. Vì vậy, cần phải tránh tất cả các hình thức vội vã làm cản trở việc hồi tâm. Cũng có trong đó cơ hội cho những giây phút im lặng ngắn, phù hợp với buổi quy tụ, qua đó, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được nghe thấy trong lòng và lời đáp trả được chuẩn bị bằng cầu nguyện "(QCTQSLR, 56).
Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ tám của ĐTC Phanxicô về Thánh Lễ, được ban hành ngày 31 tháng 1, 2018 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Hôm nay ĐTC giải thích về Phụng Vụ Lời Chúa:
“Trong Hội Thánh khi Thánh Kinh được đọc, thì Chính Thiên Chúa nói với dân Ngài, và Đức Kitô, hiện diện trong Lời, công bố Tin Mừng…
Chúng ta lắng nghe Lời ấy bằng tai của mình và chuyển Lời ấy sang tâm hồn mình; Lời ấy không ở lại trong tai, mà phải đi vào tâm hồn; và từ tâm hồn Lời ấy chuyền sang đôi tay, để làm việc lành.”.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta tiếp tục loạt bài giáo lý về Thánh Lễ. Sau khi bàn về nghi thức đầu lễ, giờ đây chúng ta hãy xét đến Phụng Vụ Lời Chúa, là một phần cấu thành [của Thánh Lễ] bởi vì chúng ta tụ họp để lắng nghe những gì Thiên Chúa đã làm và vẫn còn có ý định làm cho chúng ta.
Đó là một kinh nghiệm “trực tiếp” chứ không phải do được nghe nói đến, bởi vì “trong Hội Thánh khi Thánh Kinh được đọc, thì Chính Thiên Chúa nói với dân Ngài, và Đức Kitô, hiện diện trong Lời, công bố Tin Mừng” (Quy Chế Tổng Quát về Sách Lễ Roma (QCTQSLR), 29, xem Hiến Chế Phụng Vụ Thánh (SC), 7; 33).
Và biết bao lần, trong khi Lời Chúa được đọc, người ta lại bảo nhau:
"Hãy nhìn ông này ..., hãy nhìn bà kia ..., hãy nhìn cái mũ bà ta đang đội: thật nực cười ...".
Và họ bắt đầu nói chuyện. Có đúng không?
Có nên nói chuyện trong khi đọc Lời Chúa không? [dân chúng trả lời: "Không!"].
Không, bởi vì nếu chúng ta nói chuyện với những người khác thì chúng ta không lắng nghe Lời Chúa. Khi chúng ta đọc Lời Chúa trong Thánh Kinh - Bài Đọc Thứ Nhất, Thứ Hai, Thánh Vịnh đáp ca và Tin Mừng - chúng ta phải lắng nghe, mở lòng ra, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng nói với chúng ta, và đừng nghĩ về những điều khác hay nói về những điều khác. Hiểu chưa? ... Tôi sẽ giải thích cho anh chị em về việc gì xảy ra trong Phụng Vụ Lời Chúa.
Các trang Thánh Kinh không còn là một bài viết mà trở thành Lời sống động được Thiên Chúa công bố. Chính Thiên Chúa là Đấng, qua người đọc, nói với chúng ta và thách đố chúng ta, là những người nghe với đức tin. Chúa Thánh Thần, Đấng “đã dùng các tiên tri mà phán dạy" (Kinh Tin Kính) và đã linh hứng các thánh ký, làm cho "Lời Chúa thực sự tác động trong tâm hồn điều mà Ngài làm cho vang lên trong tai" (Sách Bài Đọc, Dẫn Nhập, 9).
Nhưng để lắng nghe Lời Chúa thì cần phải mở lòng ra mà đón nhận các Lời ấy vào lòng.
Thiên Chúa nói và chúng ta lắng nghe Ngài, rồi sau đó thực hành những gì chúng ta đã nghe.
Điều rất quan trọng là lắng nghe.
Đôi khi chúng ta có thể không hiểu tại sao lại có một số bài đọc hơi khó hiểu. Nhưng Thiên Chúa nói cùng Lời ấy với chúng ta bằng một cách khác, trong thầm lặng và lắng nghe Lời Chúa. Đừng quên điều này. Trong Thánh Lễ, khi các Bài Đọc bắt đầu, chúng ta lắng nghe Lời Chúa.
Chúng ta cần lắng nghe Ngài! Thực ra, đó là một vấn đề sự sống, như một diễn tả sâu sắc rằng, "người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4:4). Sự sống mà Lời Thiên Chúa ban cho chúng ta. Theo nghĩa này, chúng ta nói về Phụng Vụ Lời Chúa như "bàn tiệc" mà Chúa dọn ra để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Đó là một bán tiệc tràn đầy của phụng vụ, rút ra rộng rãi từ kho tàng Thánh Kinh (x SC, 51), cả Cựu lẫn Tân Ước, bởi vì trong cả hai giao ước, Hội Thánh công bố cùng một một mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô (x Sách Bài Đọc, dẫn nhâp, 5). Chúng ta nghĩ về sự phong phú của các bài đọc Thánh Kinh được ba chu kỳ Chúa Nhật cung cấp mà, theo ánh sáng của các Tin Mừng Nhất Lãm, đồng hành với chúng ta trong suốt Năm Phụng Vụ: một sự phong phú dồi dào. Tôi cũng muốn đề cập đến ở đây tầm quan trọng của Thánh Vịnh đáp ca, có chức năng nuôi dưỡng việc suy niệm về điều đã được nghe trong bài đọc trước đó. Tốt hơn là bài Thánh Vịnh được củng cố bằng bài hát, ít là trong điệp khúc (xem QCTQSLR, 61, Sách Bài Đọc, Dẫn Nhập, 19-22).
Việc công bố phụng vụ cũng những Bài Đọc ấy, với những bài hát được rút ra từ Thánh Kinh, bày tỏ và nuôi dưỡng sự hiệp thông của Hội Thánh, đồng hành với cuộc hành trình của mỗi người chúng ta. Cho nên, chúng ta có thể hiểu được tại sao một số chọn lựa chủ quan, như bỏ các Bài Đọc hay thay thế chúng bằng các bản văn ngoài Thánh Kinh, đều bị cấm. Tôi nghe nói có người, đọc báo nếu có tin tức, bởi vì đó là tin tức trong ngày. Không! Lời Chúa là Lời của Thiên Chúa! Chúng ta có thể đọc báo sau. Nhưng ở đây chúng ta đọc Lời của Thiên Chúa, Đấng nói với chúng ta. Thay thế Lời ấy bằng những điều khác làm cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong cầu nguyện bị nghèo nàn và tổn thương. Đàng khác, việc tôn trọng toà giảng và việc sử dụng Sách Bài Đọc, việc có sẵn những người đọc và những người hát Thánh Vịnh tốt [là điều bắt buộc]. Nhưng chúng ta phải tìm những người đọc tốt, những người có thể đọc, chứ không phải những người đọc [sai các lời] khiến cho người ta chẳng hiểu gì cả. Giống như thế này. Những người đọc tốt. Họ phải chuẩn bị và thử trước Thánh Lễ để đọc cho tốt. Và điều này tạo ra một bầu không khí đón nhận im lặng [1].
Chúng ta biết rằng Lời Chúa là một sự trợ giúp để mình không bị lạc đường, cũng như tác giả Thánh Vịnh hướng lên Chúa mà thú nhận rằng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi bước chân con, là ánh sáng soi đường con đi" (Tv 119:105). Làm sao chúng ta có thể đương đầu với cuộc lữ hành trần thế của mình, với những khó nhọc và thử thách của nó, mà không thường xuyên được nuôi dưỡng và soi sáng bởi Lời Chúa, là Lời vang lên trong Phụng Vụ?
Chắc chắn rằng chỉ nghe bằng tai, mà không đón nhận hạt giống Lời Chúa vào tâm hồn mình và để cho hạt giống ấy sinh hoa trái, thì chưa đủ. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn người gieo giống và các kết quả khác nhau tuỳ theo các loại đất khác nhau (xem Mc 4: 14-20). Tác động của Chúa Thánh Thần, là điều làm cho sự đáp trả có hiệu quả, cần những tâm hồn để cho mình được Ngài làm việc và vun xới, ngõ hầu những gì được nghe trong Thánh Lễ chuyển sang cuộc sống hằng ngày, theo lời khuyên của Thánh Tông Đồ Giacôbê:
"Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ không phải chỉ là những người nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1:22).
Lời Chúa hành trình trong chúng ta. Chúng ta lắng nghe Lời ấy bằng tai của mình và chuyển Lời ấy sang tâm hồn mình; Lời ấy không ở lại trong tai, mà phải đi vào tâm hồn; và từ tâm hồn Lời ấy chuyền sang đôi tay, để làm việc lành. Đây là con đường mà Lời Chúa đi theo: từ tai đến tâm hồn và đôi tay. Chúng ta hãy học những điều này. Cảm ơn anh chị em!
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2018/documents/papa-francesco_20180131_udienza-generale.html
[1] "Phụng vụ Lời Chúa phải được cử hành cách nào để thúc đẩy việc suy niệm. Vì vậy, cần phải tránh tất cả các hình thức vội vã làm cản trở việc hồi tâm. Cũng có trong đó cơ hội cho những giây phút im lặng ngắn, phù hợp với buổi quy tụ, qua đó, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được nghe thấy trong lòng và lời đáp trả được chuẩn bị bằng cầu nguyện "(QCTQSLR, 56).
Phép lành Thánh Blasius.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
10:59 02/02/2018
Hằng năm ngày 3. Tháng Hai là ngày lễ kính nhớ Thánh Blasius. Theo tập tục đạo đức bên Âu Châu vào ngày lễ kính Thánh Blasius có ban phép lành Blasius cuối lễ cho từng người.
Đâu là nguồn gốc và ý nghĩa đạo đức của phép lành Blasius?
Blasius theo truyền thuyết để lại là một Y Sỹ sống vào nửa cuối thế kỷ thứ 3. sau Chúa giáng sinh ở vùng thành phố Sebaste trong đế quốc Roma, nay là vùng Silvas bên nước Thổ nhĩ Kỳ.
Blasius là một thầy thuốc chữa trị bệnh có lòng khoan dung nhân hậu luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người bất kể lương giáo. Cũng theo truyền thuyết để lại, vì nhân đức sáng chói như thế, nên ông được bầu chọn làm Giám mục thành Sebaste.
Giám mục Blasius chết tử vì đạo dưới thời hoàng đế Diokletian của đế quốc Roma, thời bách hại các Kitô hữu vào khoảng năm 316.
Về cuộc đời Thánh Blasius có nhiều truyền thuyết kể lại về việc ông chữa lành bệnh. Khi bị bắt giam trong tù của quân Roma ông đã chữa cho một thanh niên bị hóc xương cá ở cổ họng hầu như không thở được lành bệnh trở lại. Từ thế kỷ 16. khi bị đau cổ họng người ta có tập tục kêu cầu khấn nguyện xin Thánh Blasius chữa lành.
Khi Blasius bị ném xuống hồ, ông giơ tay làm phép vẽ hình thập gía trên mặt hồ, nước liền rút cạn. Sau đó ông bị xử trảm chém đầu, vì lòng trung tín vững đức tin vào Thiên Chúa, chứ không theo Hoàng đế.
Trước khi qua đời Blasius cầu nguyện xin cho những ai bị bệnh đau nơi cổ họng , và những ai kêu cầu xin cho được khoẻ mạnh nhân danh Blasius , sẽ được nhận lời.
Dĩ nhiên, ngày nay khi có đau bệnh, có phương thuốc trị liệu phục hồi cho khỏi khoẻ mạnh trở lại. Nhưng nhu cầu xin ơn, xin phép lành cho được khoẻ mạnh vẫn luôn là nhu cầu của con người, nhất là khi bị lâm bệnh hiểm nghèo, lúc buồn phiền lo âu sợ hãi.
Phép lành Thánh Blasius xin gìn giữ và chữa lành bệnh đau cổ họng. Cổ họng con người là phần rất nhậy cảm. Khi bị cảm, cổ họng thường hay bị xưng, nóng đỏ, nuốt nước bọt, uống nước khó khăn, đau rất khó chịu, có thể tiếng nói bị khàn hay phát ra không thành tiếng nữa.
Khi lâm vào tình huống sợ hãi quá độ, cũng khiến cổ họng thành cứng không nói được. Hay khi phải nuốt hận qúa nhiều, như có cái gì như sự buồn phiền, sự tức giận chặn chắn nơi cổ cổ họng, làm cho khó thở, khó nuốt.
Khi bị vướng vào hoàn cảnh nguy nan như thế, chúng ta chạy đến cùng Thiên Chúa cầu xin ơn giải thoát chữa lành nhờ lời bầu cử của Thánh Blasius. Vì tin rằng, Thiên Chúa không chỉ chăm sóc phần linh hồn tinh thần mình, nhưng còn cả phần thể xác nữa. Xin Ngài cứu giúp dẫn đưa ta thóat khỏi vòng bị ràng buộc vì sợ hãi đau đớn, để cho được hít thở tự do thanh thản.
Khi ban phép lành Blasius, linh mục đeo giây Stola mầu đỏ để nhớ đến sự tử đạo của Thánh Blasius, tay cầm hai cây nến cháy sáng đan chéo hình chữ thập, hay chập hai cây nến lại thành hình chữ u, đặt giương cao trước mặt gần sát cổ họng người lãnh nhận và đọc lời cầu xin chúc lành:
„ Nhờ lời bầu cửa của Thánh Blasius, xin Thiên Chúa chúc lành gìn giữ con khỏi đau cổ họng và nhất là khỏi những sự dữ. + Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen „
Phép lành Thánh Blasius từ thời Trung cổ là một tập tục đạo đức trong Giáo Hội Công Giáo. Phép lành Blasius được ban sau Thánh lễ vào ngày 2.2., và ngày kính nhớ Thánh Blasius 3.2.
Không có luật buộc phải nhận phép lành Blasius. Nhưng phép lành của Thiên Chúa qua lời bầu cử của Thánh Blasius xin ban cho được bằng an khoẻ mạnh cả thể xác lẫn tinh thần là điều cao qúi thánh đức, cùng cần thiết cho đời sống con người.
Vì thế không nên coi thường bỏ qua.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đâu là nguồn gốc và ý nghĩa đạo đức của phép lành Blasius?
Blasius theo truyền thuyết để lại là một Y Sỹ sống vào nửa cuối thế kỷ thứ 3. sau Chúa giáng sinh ở vùng thành phố Sebaste trong đế quốc Roma, nay là vùng Silvas bên nước Thổ nhĩ Kỳ.
Blasius là một thầy thuốc chữa trị bệnh có lòng khoan dung nhân hậu luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người bất kể lương giáo. Cũng theo truyền thuyết để lại, vì nhân đức sáng chói như thế, nên ông được bầu chọn làm Giám mục thành Sebaste.
Giám mục Blasius chết tử vì đạo dưới thời hoàng đế Diokletian của đế quốc Roma, thời bách hại các Kitô hữu vào khoảng năm 316.
Về cuộc đời Thánh Blasius có nhiều truyền thuyết kể lại về việc ông chữa lành bệnh. Khi bị bắt giam trong tù của quân Roma ông đã chữa cho một thanh niên bị hóc xương cá ở cổ họng hầu như không thở được lành bệnh trở lại. Từ thế kỷ 16. khi bị đau cổ họng người ta có tập tục kêu cầu khấn nguyện xin Thánh Blasius chữa lành.
Khi Blasius bị ném xuống hồ, ông giơ tay làm phép vẽ hình thập gía trên mặt hồ, nước liền rút cạn. Sau đó ông bị xử trảm chém đầu, vì lòng trung tín vững đức tin vào Thiên Chúa, chứ không theo Hoàng đế.
Trước khi qua đời Blasius cầu nguyện xin cho những ai bị bệnh đau nơi cổ họng , và những ai kêu cầu xin cho được khoẻ mạnh nhân danh Blasius , sẽ được nhận lời.
Dĩ nhiên, ngày nay khi có đau bệnh, có phương thuốc trị liệu phục hồi cho khỏi khoẻ mạnh trở lại. Nhưng nhu cầu xin ơn, xin phép lành cho được khoẻ mạnh vẫn luôn là nhu cầu của con người, nhất là khi bị lâm bệnh hiểm nghèo, lúc buồn phiền lo âu sợ hãi.
Phép lành Thánh Blasius xin gìn giữ và chữa lành bệnh đau cổ họng. Cổ họng con người là phần rất nhậy cảm. Khi bị cảm, cổ họng thường hay bị xưng, nóng đỏ, nuốt nước bọt, uống nước khó khăn, đau rất khó chịu, có thể tiếng nói bị khàn hay phát ra không thành tiếng nữa.
Khi lâm vào tình huống sợ hãi quá độ, cũng khiến cổ họng thành cứng không nói được. Hay khi phải nuốt hận qúa nhiều, như có cái gì như sự buồn phiền, sự tức giận chặn chắn nơi cổ cổ họng, làm cho khó thở, khó nuốt.
Khi bị vướng vào hoàn cảnh nguy nan như thế, chúng ta chạy đến cùng Thiên Chúa cầu xin ơn giải thoát chữa lành nhờ lời bầu cử của Thánh Blasius. Vì tin rằng, Thiên Chúa không chỉ chăm sóc phần linh hồn tinh thần mình, nhưng còn cả phần thể xác nữa. Xin Ngài cứu giúp dẫn đưa ta thóat khỏi vòng bị ràng buộc vì sợ hãi đau đớn, để cho được hít thở tự do thanh thản.
Khi ban phép lành Blasius, linh mục đeo giây Stola mầu đỏ để nhớ đến sự tử đạo của Thánh Blasius, tay cầm hai cây nến cháy sáng đan chéo hình chữ thập, hay chập hai cây nến lại thành hình chữ u, đặt giương cao trước mặt gần sát cổ họng người lãnh nhận và đọc lời cầu xin chúc lành:
„ Nhờ lời bầu cửa của Thánh Blasius, xin Thiên Chúa chúc lành gìn giữ con khỏi đau cổ họng và nhất là khỏi những sự dữ. + Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen „
Phép lành Thánh Blasius từ thời Trung cổ là một tập tục đạo đức trong Giáo Hội Công Giáo. Phép lành Blasius được ban sau Thánh lễ vào ngày 2.2., và ngày kính nhớ Thánh Blasius 3.2.
Không có luật buộc phải nhận phép lành Blasius. Nhưng phép lành của Thiên Chúa qua lời bầu cử của Thánh Blasius xin ban cho được bằng an khoẻ mạnh cả thể xác lẫn tinh thần là điều cao qúi thánh đức, cùng cần thiết cho đời sống con người.
Vì thế không nên coi thường bỏ qua.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Văn Hóa
Xuân đã về - Nhạc: Minh Kỳ - Ca sĩ Thanh Lan
VietCatholic Network
09:24 02/02/2018
Xuân đã về, xuân đã về ! Kìa bao ánh xuân về tràn lan mênh mông
Trên cánh đồng, chim hót mừng, đang thướt tha từng đàn tung bay vui say
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn hoa hé môi cười vui đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang lên câu ca mừng chào xuân
ĐK:
Ngoài trời bao la xinh tươi bao cô gái đẹp cười trông xinh như hoa
Lập lòe tà áo xanh xanh chen bông tím vàng đẹp hơn tiên nga
Vài bầy em bé rúc rích, khúc khích tiếng cười rủ nhau vui ca
Từng đàn chim non xinh xinh tung bay khắp trời cùng ríu rít ca
Một bài ca đón chào mừng hòa theo tiếng pháo đì đùng
Mừng xuân nay đã về rồi và đông đã vượt qua
Ngập trời bao tiếng chào mừng, nàng xuân duyên dáng về rồi
Về gieo bao thắm tươi vui lòng ta thấy yêu đời
Xuân đã về, xuân đã về ! Kìa bao ánh xuân về tràn lan mênh mông
Xuân đã về, trên cánh đồng, bao bác nông ngưng cày ruộng vui say xuân
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn cô gái quê cười tươi đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang chào mừng xuân sang, xuân sang
Xuân đã về, xuân đã về ! Kìa bao ánh xuân về tràn lan mênh mông
Xuân đã về, trên cánh đồng, bao bác nông ngưng cày ruộng vui say xuân
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn cô gái quê cười tươi đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang chào mừng xuân sang, xuân sang...
Trên cánh đồng, chim hót mừng, đang thướt tha từng đàn tung bay vui say
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn hoa hé môi cười vui đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang lên câu ca mừng chào xuân
ĐK:
Ngoài trời bao la xinh tươi bao cô gái đẹp cười trông xinh như hoa
Lập lòe tà áo xanh xanh chen bông tím vàng đẹp hơn tiên nga
Vài bầy em bé rúc rích, khúc khích tiếng cười rủ nhau vui ca
Từng đàn chim non xinh xinh tung bay khắp trời cùng ríu rít ca
Một bài ca đón chào mừng hòa theo tiếng pháo đì đùng
Mừng xuân nay đã về rồi và đông đã vượt qua
Ngập trời bao tiếng chào mừng, nàng xuân duyên dáng về rồi
Về gieo bao thắm tươi vui lòng ta thấy yêu đời
Xuân đã về, xuân đã về ! Kìa bao ánh xuân về tràn lan mênh mông
Xuân đã về, trên cánh đồng, bao bác nông ngưng cày ruộng vui say xuân
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn cô gái quê cười tươi đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang chào mừng xuân sang, xuân sang
Xuân đã về, xuân đã về ! Kìa bao ánh xuân về tràn lan mênh mông
Xuân đã về, trên cánh đồng, bao bác nông ngưng cày ruộng vui say xuân
Xuân đã về, xuân đã về ! Ngàn cô gái quê cười tươi đón gió mới
Xuân đã về, xuân đã về ! Ta hát vang chào mừng xuân sang, xuân sang...
Đám Cưới Đầu Xuân - Nhạc: Trần Thiện Thanh - Trình bày: Ca sĩ Thanh Lan
VietCatholic Network
15:05 02/02/2018
Ngày xưa ngày xưa đôi ta chung nón đôi ta chung đường.
Lên sáu lên năm đôi ta cùng sách đôi ta cùng trường.
Đường qua nhà em nghiêng nghiêng sân nắng,
nghiêng nghiêng mây hồng.
Chiều nao đuổi bướm, bướm bay vô vườn
mà nước mắt rưng rưng.. .
Rồi một ngày kia em khoe áo mới xanh hơn mây trời.
Hai đứa chung vui khi Xuân vừa tới thơ ngây cuộc đời.
Trò chơi trẻ con em cô dâu mới chưa nghe nặng sầu.
Chú rể ngẩn ngơ ra hái hoa cà làm quà cưới cô dâu.
Mười mấy năm qua khi hoa vừa hé nhụy
thì đời trai vui chinh chiến
Anh xuôi miền xa bao lần đếm bước Xuân qua
Em ơi kỷ niệm xưa anh còn giữ mãi trong lòng
Em biết không em, Xuân nay lại trở về,
đường rừng hành quân sương xuống.
Thương sao là thương trong màu tím sắc hoa sim.
Dĩ vãng đâu trôi về nhắc anh ngày thơ.
Chuyện xưa chuyện xưa,
chuyện từ Xuân trước Xuân nay chưa nhòa
Anh nói em nghe, thương em từ lúc hoa chưa mặn mà
Cầu cho mùa Xuân nồng nàn trên má em tôi đợi chờ
Giữa lòng chiều hoang nâng cánh sim rừng
Ngỡ màu tím hoa xưa
Tác giả: Trần Thiện Thanh