Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:33 07/02/2018
43. CẦM CÁI CHAI MÀ ĂN
Có một “con sâu rượu”, ông ta đã có lần lên buôn bán ở kinh thành. Một hôm, đột nhiên gặp lại người bạn cũ, ông ta phấn khởi nói:
- “Đi, đi đến phủ của anh nói chuyện, tôi bây giờ vừa khô cổ vừa buồn phiền, có thể xin anh một li rượu uống cái đã”.
Người bạn cũ là một người rất là keo kiết, nói:
- “Nhà tôi cách đây rất xa, không dám làm phiền anh đi đường xa như thế”.
Con sâu rượu nói:
- “Nhiều nhất là khoảng hai, ba mươi cây số là cùng chứ gì, không sao cả”.
Người bạn cũ nói:
- “Nhà ở của tôi rất là nhỏ hẹp, sợ rằng anh nổi cáu lên mà chửi mắng”.
Con sâu rượu nói:
- “Không sao, không sao, chỉ cần có thể vào là được rồi”.
Ngừơi bạn nói:
- “Nhà tôi không có ly uống rượu, không có dĩa bát, làm sao đây ?”
Con sâu rượu nói:
- “Tôi và anh là bạn tri kỷ, đừng nói chuyện lịch sự với không lịch sự, cùng lắm thì cầm cái chai mà uống cũng là tốt rồi vậy !”
(Hoa Diên Thú Lạc Đàm Tiếu Tửu Lệnh)
Suy tư 43:
Người nghiện rượu ngửi được mùi rượu thì bước không rời, người nghiện thuốc ngửi được mùi thuốc lá thì đi không nổi, người mê gái thấy gái đẹp thì như mèo thấy mỡ, người mê cờ bạc thì bán vợ đợ con cũng không tiếc...
Đã mê thì lú, tức là trí óc không còn được sáng suốt, đã nghiện thì phải ghiền, tức là trở nên khờ dại...
Người Ki-tô hữu là người sáng suốt hơn những người khác bởi vì họ là con cái của sự sáng, bởi vì họ là môn đệ của Đức Chúa Giê-su cho nên họ có đủ khôn ngoan để phân biệt được rằng, mùi vị của tội lỗi và hương thơm của thánh thiện thì không giống nhau, mùi vị của tội lỗi thì đưa đến sự chết, hương thơm của thánh thiện thì đưa đến sự sống đời đời.
Mùi vị của tội lỗi là chơi với bạn xấu, là ăn nhậu không điều độ, là những hình ảnh khoả thân, là sách báo và những mạng internet dâm ô đồi truỵ, là nơi trai gái tự do luyến ái mà không bị cấm.v.v... những mùi vị tội lỗi này sẽ làm cho chúng ta lú lẫn đến nghiện ngập và dần dần đi đến tội và mất linh hồn.
Người đã nghiện mùi vị của tội lỗi thì luôn có nhiều lý do để biện minh cho cái ghiện của mình, họ nói : “Cùng lắm thì đi xưng tội chứ gì !!!”
Đúng là họ đã lú lẫn rồi vậy...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Có một “con sâu rượu”, ông ta đã có lần lên buôn bán ở kinh thành. Một hôm, đột nhiên gặp lại người bạn cũ, ông ta phấn khởi nói:
- “Đi, đi đến phủ của anh nói chuyện, tôi bây giờ vừa khô cổ vừa buồn phiền, có thể xin anh một li rượu uống cái đã”.
Người bạn cũ là một người rất là keo kiết, nói:
- “Nhà tôi cách đây rất xa, không dám làm phiền anh đi đường xa như thế”.
Con sâu rượu nói:
- “Nhiều nhất là khoảng hai, ba mươi cây số là cùng chứ gì, không sao cả”.
Người bạn cũ nói:
- “Nhà ở của tôi rất là nhỏ hẹp, sợ rằng anh nổi cáu lên mà chửi mắng”.
Con sâu rượu nói:
- “Không sao, không sao, chỉ cần có thể vào là được rồi”.
Ngừơi bạn nói:
- “Nhà tôi không có ly uống rượu, không có dĩa bát, làm sao đây ?”
Con sâu rượu nói:
- “Tôi và anh là bạn tri kỷ, đừng nói chuyện lịch sự với không lịch sự, cùng lắm thì cầm cái chai mà uống cũng là tốt rồi vậy !”
(Hoa Diên Thú Lạc Đàm Tiếu Tửu Lệnh)
Suy tư 43:
Người nghiện rượu ngửi được mùi rượu thì bước không rời, người nghiện thuốc ngửi được mùi thuốc lá thì đi không nổi, người mê gái thấy gái đẹp thì như mèo thấy mỡ, người mê cờ bạc thì bán vợ đợ con cũng không tiếc...
Đã mê thì lú, tức là trí óc không còn được sáng suốt, đã nghiện thì phải ghiền, tức là trở nên khờ dại...
Người Ki-tô hữu là người sáng suốt hơn những người khác bởi vì họ là con cái của sự sáng, bởi vì họ là môn đệ của Đức Chúa Giê-su cho nên họ có đủ khôn ngoan để phân biệt được rằng, mùi vị của tội lỗi và hương thơm của thánh thiện thì không giống nhau, mùi vị của tội lỗi thì đưa đến sự chết, hương thơm của thánh thiện thì đưa đến sự sống đời đời.
Mùi vị của tội lỗi là chơi với bạn xấu, là ăn nhậu không điều độ, là những hình ảnh khoả thân, là sách báo và những mạng internet dâm ô đồi truỵ, là nơi trai gái tự do luyến ái mà không bị cấm.v.v... những mùi vị tội lỗi này sẽ làm cho chúng ta lú lẫn đến nghiện ngập và dần dần đi đến tội và mất linh hồn.
Người đã nghiện mùi vị của tội lỗi thì luôn có nhiều lý do để biện minh cho cái ghiện của mình, họ nói : “Cùng lắm thì đi xưng tội chứ gì !!!”
Đúng là họ đã lú lẫn rồi vậy...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:40 07/02/2018
34. Sức mạnh của cầu nguyện không hệ tại lời nói, nhưng hệ tại sự thành khẩn của tâm hồn, suốt đời tránh ác hành thiện. (Thánh Basil tiến sĩ)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Rất Cần Sự Cảm Thông
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
22:38 07/02/2018
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật VI Năm – B
(Mc 1, 40 - 45)
Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46).
Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống "phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại"(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”.
Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực lòng.
Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.
Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người.
Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại "Người cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng.
Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Mc 1, 40 - 45)
Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46).
Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống "phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại"(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”.
Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực lòng.
Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.
Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người.
Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại "Người cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng.
Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật 6 Mùa Quanh Năm B. 11.2.2018
Lm Francis Lý văn Ca
14:57 07/02/2018
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Lúc còn sinh thời Đức Kitô luôn chứng minh cho nhân loại niềm khát vọng của Ngài là mang đến cho thế gian niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Qua câu chuyện Chúa chữa người cùi trong Phúc Âm hôm nay, chứng minh quyền lực của vị Thiên Chúa. Ngài đã đến giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và quyền lực của ma quỷ. Chúng ta cầu xin Chúa ban chúng ta ơn sức mạnh để có thể chiến đấu và chiến thắng những cơn cám dỗ của ma quỹ trong thế giới hôm nay.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Người cùi ngày nay được gìn giữ ở những nơi hẻo lánh xa xôi, chúng ta khó có thể biết họ ở đâu. Tuy nhiên, trong cuộc sống, nghĩa bóng của bịnh cùi là những hình thức khinh khi những người bệnh tật, mất trí... đây là những chứng bệnh cùi của thời đại mà người ta đang gặp phải.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô khuyên: làm thế nào để cho Thiên Chúa được vinh danh qua tinh thần phục vụ của chúng ta. Trong cuộc sống bon chen, chúng ta đã chôn vùi tài năng của mình, tránh né những sự dấn thân và phục vụ.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Điều kiện để được chữa lành, Chúa đòi hỏi người cùi là anh có tin không? Trong cuộc sống, đôi lúc gặp những điều không may xảy ra, chúng ta cầu khẩn Chúa. Lúc vui sướng, chúng ta lại quên tạ ơn Ngài.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta hướng về Chúa với lòng thành và tin tưởng xin Ngài những nhu cầu sau đây:
1. Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Xin cho sứ giả hoà bình là Đức Thánh Cha Phanxicô, qua những chuyến tông du mục vụ của Ngài, sẽ mang đến cho thế giới sự hoà bình mà nhân loại đang khao khát. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ai đã và đang phục vụ âm thầm nơi các trại cùi, họ sống với những người bị xã hội hay chính gia đình bỏ rơi hay lánh xa. Xin Chúa trả công cho những hy sinh cao quý nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Trong thực tế, chúng ta không nhìn thấy những người cùi, nhưng trong cuộc sống, chúng ta đã có những cử chỉ và hành động khinh khi tha nhân, những kẻ thấp bé nghèo hèn. Đây là những hình thức của bệnh cùi thời đại, xin Chúa giúp chúng ta xa tránh những chứng bệnh thời đại nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Trong những ngày đầu năm âm lịch Mậu Tuất, chúng ta hướng về quê hương xứ sở. Cầu xin Chúa ban muôn ơn lành cho Giáo Hội và bà con thân thuộc nơi quê nhà. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin ban ơn yên nghỉ cho những người thân đã ra đi trước chúng ta. Đặc biệt những linh hồn đã qua đời trong năm vừa qua. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha, xin chữa lành nơi chúng con những căn bệnh của thời đại như: tính ích kỷ và chia rẽ. Với tâm hồn vị tha, chúng con sẽ giúp đỡ được anh chị em của chúng con dưới nhiều cách thức khác nhau. Và qua sự đoàn kết, chúng con sẽ hàn gắn những vết thương huynh đệ giữa cộng đoàn-xứ đạo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Lúc còn sinh thời Đức Kitô luôn chứng minh cho nhân loại niềm khát vọng của Ngài là mang đến cho thế gian niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Qua câu chuyện Chúa chữa người cùi trong Phúc Âm hôm nay, chứng minh quyền lực của vị Thiên Chúa. Ngài đã đến giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và quyền lực của ma quỷ. Chúng ta cầu xin Chúa ban chúng ta ơn sức mạnh để có thể chiến đấu và chiến thắng những cơn cám dỗ của ma quỹ trong thế giới hôm nay.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Người cùi ngày nay được gìn giữ ở những nơi hẻo lánh xa xôi, chúng ta khó có thể biết họ ở đâu. Tuy nhiên, trong cuộc sống, nghĩa bóng của bịnh cùi là những hình thức khinh khi những người bệnh tật, mất trí... đây là những chứng bệnh cùi của thời đại mà người ta đang gặp phải.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô khuyên: làm thế nào để cho Thiên Chúa được vinh danh qua tinh thần phục vụ của chúng ta. Trong cuộc sống bon chen, chúng ta đã chôn vùi tài năng của mình, tránh né những sự dấn thân và phục vụ.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Điều kiện để được chữa lành, Chúa đòi hỏi người cùi là anh có tin không? Trong cuộc sống, đôi lúc gặp những điều không may xảy ra, chúng ta cầu khẩn Chúa. Lúc vui sướng, chúng ta lại quên tạ ơn Ngài.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta hướng về Chúa với lòng thành và tin tưởng xin Ngài những nhu cầu sau đây:
1. Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Xin cho sứ giả hoà bình là Đức Thánh Cha Phanxicô, qua những chuyến tông du mục vụ của Ngài, sẽ mang đến cho thế giới sự hoà bình mà nhân loại đang khao khát. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ai đã và đang phục vụ âm thầm nơi các trại cùi, họ sống với những người bị xã hội hay chính gia đình bỏ rơi hay lánh xa. Xin Chúa trả công cho những hy sinh cao quý nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Trong thực tế, chúng ta không nhìn thấy những người cùi, nhưng trong cuộc sống, chúng ta đã có những cử chỉ và hành động khinh khi tha nhân, những kẻ thấp bé nghèo hèn. Đây là những hình thức của bệnh cùi thời đại, xin Chúa giúp chúng ta xa tránh những chứng bệnh thời đại nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Trong những ngày đầu năm âm lịch Mậu Tuất, chúng ta hướng về quê hương xứ sở. Cầu xin Chúa ban muôn ơn lành cho Giáo Hội và bà con thân thuộc nơi quê nhà. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin ban ơn yên nghỉ cho những người thân đã ra đi trước chúng ta. Đặc biệt những linh hồn đã qua đời trong năm vừa qua. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha, xin chữa lành nơi chúng con những căn bệnh của thời đại như: tính ích kỷ và chia rẽ. Với tâm hồn vị tha, chúng con sẽ giúp đỡ được anh chị em của chúng con dưới nhiều cách thức khác nhau. Và qua sự đoàn kết, chúng con sẽ hàn gắn những vết thương huynh đệ giữa cộng đoàn-xứ đạo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một người duy nữ tại Giáo Triều Rôma
Vũ Văn An
19:19 07/02/2018
Marta Rodriguez vừa được một công việc mới hồi tháng Năm, 2017, có lẽ là một công việc bà không bao giờ mong có được, ở một chỗ bà không bao giờ ngờ mình được làm việc.
Marta, một phụ nữ tận hiến thuộc Hội Dòng Regnum Christi, là tân giám đốc (thực sự, đầu tiên) của sở các vấn đề phụ nữ tại Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống của Tòa Thánh. Đây là Thánh Bộ mới do Đức Phanxicô thiết lập năm 2016, và vị bộ trưởng của nó là Đức Hồng Y Kevin Farrell. Nhiệm vụ của Marta là giúp Giáo Hội hiểu phụ nữ và sự đóng góp thích đáng của họ cho thế giới, làm phụ nữ có nghĩa gì trong thế giới ngày nay, và phụ nữ đang đi về đâu trong tương lai.
Đây là một nhiệm vụ to lớn, nhưng Marta nhận công việc mới này sau khi đã làm giám đốc Viện Cao Học Phụ Nữ (Istituto di StudiSuperiorisulla Donna) của Giáo Hoàng Học Viện Regina Apostolorum ở Rôma. Chắc chắn bà là một nhà tranh đấu cho phụ nữ, nhưng không phải như thứ duy nữ người ta vốn hiểu: biểu tình ngoài đường, ném gạch ném đá và hô hoán những câu khó nghe. Không, Marta Rodriguez là một nhà duy nữ trong lòng Giáo Hội, với một trái tim như Đức Maria.
Bà cho hay: “việc cử nhiệm này cho thấy lời mời gọi của Giáo Hội, mà đối với tôi, là lời mời gọi của Thiên Chúa. Tôi cảm thấy rất nhỏ bé đối với sứ mệnh này, nhưng tôi cảm thấy một sự chắc chắn trong lòng rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị lòng tôi cho việc phục vụ mà Người vừa mời gọi tôi bước vào này. Từ năm 2000, tôi đã liên tục làm việc trong các vấn đề về phụ nữ, cả trong nghiên cứu lẫn trong hành động về một số dự án; một trong các dự án quan trọng nhất là giúp thành lập Viện Cao Học Phụ Nữ năm 2003. Viện này ra đời nhằm cổ vũ thiên tài nữ giới, một điều được Đức Gioan Phaolô II yêu cầu.
“Tôi tin rằng một trong các thách đố lớn lao đối với phụ nữ hiện đại là khám phá ra ý nghĩa của việc làm một người đàn bà. Một khi người đàn bà khám phá ra nàng là ai, thì cuối cùng nàng sẽ khám phá ra sự phong phú của nữ tính; nàng sẽ có thể đóng góp cho thế giới văn hóa và thế giới giáo hội một cách tận tụy hơn, mạnh dạn hơn, tự do hơn.”
Sau mấy tháng đảm nhiệm công việc mới, Marta được Hãng Tin Zenit phỏng vấn. Trong cuộc phỏng vấn này, Marta cho biết tháng 2 năm 2016, Đức Hồng Y Kevin Farrell yêu cầu bà đảm nhận nhiệm vụ này, một nhiệm vụ, bà không thể từ chối vì tận thâm tâm, bà cảm thấy chính Thiên Chúa kêu gọi bà làm việc ở đây. Bà nói với Đức Hồng Y như thế. Chứ không hẳn vì tài cán, khả năng… những điều không bao giở đủ cho một nhiệm vụ như thế này. Bà cảm thấy được kêu gọi lãnh nhận nhiệm vụ này với trái tim của Đức Mẹ. Có lẽ đó là sự đóng góp lớn nhất của bà. Bà yêu cầu được duy trì việc điều khiển Viện Cao Học thêm hai năm nữa để có đủ thì giờ huấn luyện vị tân giám đốc của Viện. Lời yêu cầu của bà được chấp thuận. Vả lại bà còn muốn tiếp tục việc học vì năm ngoái, bà bắt đầu dọn thi tiến sĩ triết tại Đại Học Gregorian.
Theo Marta, Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống vẫn còn đang thành lập đội ngũ làm việc. Nhiều chức vụ vẫn còn để trống, như các chức vụ phó tổng thư ký chẳng hạn. Vị tổng thư ký mới nhậm chức hồi tháng Chín vừa qua. Thành thử hiện nay Bộ vẫn còn trong giai đoạn “an cư” chưa hẳn “lạc nghiệp”. Cuối tháng Mười vừa qua, Đức Phanxicô tới thăm Bộ. Ngài khuyến khích các nhân viên làm việc với một não trạng mới, mở rộng các chân trời và lắng nghe các nhịp đập đương thời của thế giới, để có thể rao giảng về Chúa Kitô một cách nới mẻ. Marta nghĩ đó chính là bầu khí và ý hướng của toàn thể Bộ này.
Theo bà, được mở rộng chân trời là điều rất vui. Vì cho tới nay, bà chỉ quanh quẩn với quan điểm và não trạng Âu Châu. Nay được dịp lắng nghe nhu cầu và yêu cầu từ Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ. Đó là một kích thích vĩ đại và làm bà hết sức phong phú.
Bà rất thích học hỏi, nhất là gặp gỡ người ta. Bà cho biết bà học hỏi từ người ta nhiều hơn từ sách vở. Nhiệm vụ mới sẽ tạo cho bà chiếc cửa sổ kỳ diệu để nhìn ra thế giới, và rất nhiều dịp để học hỏi.
Được hỏi về cơ hội và thách đố, bà cho rằng phải tách khỏi đại học và những người ở đó là một điều khó khăn đối với bà. Đại học giống như một gia đình đối với bà, Bà từng nhận được nhiều linh hứng và động viên từ Đức Mẹ. Ngài trở thành Mẹ Giáo Hội khi chỉ có mỗi gia bảo là cõi lòng mình. Marta cảm thấy 1 điều tương tự khi bắt đầu làm việc tại Bộ. Bà được kêu gọi mang hoa trái từ Cõi Lòng Giáo Hội, và dòng đời trôi qua việc dâng hiến cõi lòng nhỏ bé của bà.
Bà cũng vật lộn với nhịp độ và thời gian. Đời sống ở Tòa Thánh có một nhịp độ khác với ở bên ngoài. Mọi sự đều cần phải suy nghĩ và phân tích rất lung. Nay bà chỉ là Marta, nhưng bà đại diện cho Tòa Thánh. Điều ấy đòi phải khôn ngoan, và các quyết định đòi nhiều thì giờ hơn. Bà chưa quen với đòi hỏi ấy và thấy thiếu kiên nhẫn, muốn sự việc diễn tiến nhanh hơn. Bà còn nhiều điều phải học.
Nói về các việc làm trước đây trong lãnh vực phụ nữ, Marta cho hay bà bắt đầu các buổi thuyết trình về nữ tính cho các phụ nữ lập gia đình, giải thích nữ tính từ thân xác họ. Bà rất có ấn tượng khi họ được đánh động trên bình diện hiện sinh. Bà hiểu ra rằng ngày nay, phụ nữ chưa hiểu hết ý nghĩa của việc là một người đàn bà. Đây là một vấn đề về bản sắc. Thành thử bà đã khai triển một khóa học và trình bầy khóa học này dưới nhiều hình thức cho các sinh viên đại học, nữ tu, phụ nữ tận hiến. Việc này dẫn bà đến việc khai triển ý niệm về tầm quan trọng phải tích nhập các khía cạnh tính dục và xúc cảm vào đời tận hiến, và trong hai năm qua, bà đã giảng 7 khóa thâm cứu về chủ đề này cho các nhóm tu trì khác nhau. Đó quả là một trải nghiệm tươi đẹp về Chúa Thánh Thần. Luận đề của bà là: tận hiến phải là một cách chu toàn và làm triển nở trọn bộ nữ tính của ta. Khi ta “ít đàn bà” hơn là chúng ta chưa tận hiến trọn vẹn. Trong các giảng khóa này, bà thấy Chúa Thánh Thần hoạt động một cách sâu sắc trong tâm hồn các chị em của bà, biến mọi sự ra mới mẻ.
Như một hệ quả, bà đã khai triển khóa học này để áp dụng cho các linh mục và chủng sinh và đã tổ chức nhiều buổi thuyết trình và học tập cho các nhóm này.
Được hỏi bà có phải là một nhà duy nữ hay không, bà cho hay: có rất nhiều kiểu duy nữ; trong đó, bà nhận diện bà ở một số và không nhận diện ở một số khác. Bà là duy nữ theo nghĩa tin tưởng sâu sắc vào tính thiên tài của nữ giới và thiên tài này được cần đến xiết bao trong gia đình, trong văn hóa, trong chính trị, khoa học. Nhưng bà không thích nói nhiều về phụ nữ, hay chỉ nói với phụ nữ. Bà nghĩ nay là lúc để suy nghĩ về việc là một người đàn bà và một người đàn ông có nghĩa gì, nhưng phải suy nghĩ với nhau. Bà thích các nhóm hỗn hợp thay vì các nhóm chỉ có đàn ông hay chỉ có đàn bà. Bà nghĩ văn hóa và việc làm cần sự đóng góp của cả hai với nhau, sự hợp động (synergy) của cả hai. Nhìn nhận việc này thì dễ, nhưng có khá nhiều cản trở ngăn chặn sự hợp động này. Bà đồng ý phải loại bỏ các trở ngại này, cả trong lẫn ngoài Giáo Hội, nhưng bà không đồng ý đối với việc giải thích chúng một cách theo biện chứng, một giải thích vốn kết luận rằng đàn ông tự nhiên là nguồn gây bạo lực và tùng phục. Theo bà, ta tìm thấy bản sắc mình trong cuộc gặp gỡ người khác, và chỉ cùng nhau, ta mới thực sự có óc sáng tạo.
Theo bà, trong lịch sử, có lúc Giáo Hội coi người đàn bà như công dân hạng nhì. Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhưng Giáo Hội cũng là một định chế của con người. Nó lệ thuộc nền văn hóa nơi nó sống. Thời ta, bà cho hay, trong tư cách một định chế, Giáo Hội nhìn nhận phẩm giá phụ nữ, không hề coi họ như công dân hạng nhì. Lướt qua giáo huấn của 4 vị giáo hoàng gần đây nhất cũng đủ chứng mình điều này.
Nhưng một điều là lý thuyết và một điều là đời thực. Vẫn còn khá nhiều rào cản và sợ sệt về văn hóa. Bà nghĩ hiện chúng ta đang có trước mắt một thách đố quan yếu về giáo dục. Đây là một điểm bà coi thuộc sứ mệnh của bà, tức cổ vũ sự hợp tác đàn ông đàn bà bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Để làm việc này, ta cần giáo dục cả các linh mục, tu sĩ và giáo dân về mối liên hệ thích đáng.
Được hỏi đâu là vai trò sinh tử của phụ nữ trong Giáo Hội, bà cho biết: mỗi người chúng ta đều là thành viên sinh tử của nhiệm thể Chúa Kitô. Đúng, người đàn bà đem đến thiên tài nữ giới và chức phận làm mẹ thiêng liêng. Nên, thay vì coi vai trò sinh tử của phụ nữ như những công việc, tước hiệu hay chức vụ đặc biệt, bà tin rằng vai trò thực sự sinh tử của họ là thực sự làm người đàn bà giữa lòng Giáo Hội, dưỡng nuôi, yêu thương, dẫn dắt, theo dõi, như Đức Maria từng làm.
Marta, một phụ nữ tận hiến thuộc Hội Dòng Regnum Christi, là tân giám đốc (thực sự, đầu tiên) của sở các vấn đề phụ nữ tại Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống của Tòa Thánh. Đây là Thánh Bộ mới do Đức Phanxicô thiết lập năm 2016, và vị bộ trưởng của nó là Đức Hồng Y Kevin Farrell. Nhiệm vụ của Marta là giúp Giáo Hội hiểu phụ nữ và sự đóng góp thích đáng của họ cho thế giới, làm phụ nữ có nghĩa gì trong thế giới ngày nay, và phụ nữ đang đi về đâu trong tương lai.
Đây là một nhiệm vụ to lớn, nhưng Marta nhận công việc mới này sau khi đã làm giám đốc Viện Cao Học Phụ Nữ (Istituto di StudiSuperiorisulla Donna) của Giáo Hoàng Học Viện Regina Apostolorum ở Rôma. Chắc chắn bà là một nhà tranh đấu cho phụ nữ, nhưng không phải như thứ duy nữ người ta vốn hiểu: biểu tình ngoài đường, ném gạch ném đá và hô hoán những câu khó nghe. Không, Marta Rodriguez là một nhà duy nữ trong lòng Giáo Hội, với một trái tim như Đức Maria.
Bà cho hay: “việc cử nhiệm này cho thấy lời mời gọi của Giáo Hội, mà đối với tôi, là lời mời gọi của Thiên Chúa. Tôi cảm thấy rất nhỏ bé đối với sứ mệnh này, nhưng tôi cảm thấy một sự chắc chắn trong lòng rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị lòng tôi cho việc phục vụ mà Người vừa mời gọi tôi bước vào này. Từ năm 2000, tôi đã liên tục làm việc trong các vấn đề về phụ nữ, cả trong nghiên cứu lẫn trong hành động về một số dự án; một trong các dự án quan trọng nhất là giúp thành lập Viện Cao Học Phụ Nữ năm 2003. Viện này ra đời nhằm cổ vũ thiên tài nữ giới, một điều được Đức Gioan Phaolô II yêu cầu.
“Tôi tin rằng một trong các thách đố lớn lao đối với phụ nữ hiện đại là khám phá ra ý nghĩa của việc làm một người đàn bà. Một khi người đàn bà khám phá ra nàng là ai, thì cuối cùng nàng sẽ khám phá ra sự phong phú của nữ tính; nàng sẽ có thể đóng góp cho thế giới văn hóa và thế giới giáo hội một cách tận tụy hơn, mạnh dạn hơn, tự do hơn.”
Sau mấy tháng đảm nhiệm công việc mới, Marta được Hãng Tin Zenit phỏng vấn. Trong cuộc phỏng vấn này, Marta cho biết tháng 2 năm 2016, Đức Hồng Y Kevin Farrell yêu cầu bà đảm nhận nhiệm vụ này, một nhiệm vụ, bà không thể từ chối vì tận thâm tâm, bà cảm thấy chính Thiên Chúa kêu gọi bà làm việc ở đây. Bà nói với Đức Hồng Y như thế. Chứ không hẳn vì tài cán, khả năng… những điều không bao giở đủ cho một nhiệm vụ như thế này. Bà cảm thấy được kêu gọi lãnh nhận nhiệm vụ này với trái tim của Đức Mẹ. Có lẽ đó là sự đóng góp lớn nhất của bà. Bà yêu cầu được duy trì việc điều khiển Viện Cao Học thêm hai năm nữa để có đủ thì giờ huấn luyện vị tân giám đốc của Viện. Lời yêu cầu của bà được chấp thuận. Vả lại bà còn muốn tiếp tục việc học vì năm ngoái, bà bắt đầu dọn thi tiến sĩ triết tại Đại Học Gregorian.
Theo Marta, Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống vẫn còn đang thành lập đội ngũ làm việc. Nhiều chức vụ vẫn còn để trống, như các chức vụ phó tổng thư ký chẳng hạn. Vị tổng thư ký mới nhậm chức hồi tháng Chín vừa qua. Thành thử hiện nay Bộ vẫn còn trong giai đoạn “an cư” chưa hẳn “lạc nghiệp”. Cuối tháng Mười vừa qua, Đức Phanxicô tới thăm Bộ. Ngài khuyến khích các nhân viên làm việc với một não trạng mới, mở rộng các chân trời và lắng nghe các nhịp đập đương thời của thế giới, để có thể rao giảng về Chúa Kitô một cách nới mẻ. Marta nghĩ đó chính là bầu khí và ý hướng của toàn thể Bộ này.
Theo bà, được mở rộng chân trời là điều rất vui. Vì cho tới nay, bà chỉ quanh quẩn với quan điểm và não trạng Âu Châu. Nay được dịp lắng nghe nhu cầu và yêu cầu từ Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ. Đó là một kích thích vĩ đại và làm bà hết sức phong phú.
Bà rất thích học hỏi, nhất là gặp gỡ người ta. Bà cho biết bà học hỏi từ người ta nhiều hơn từ sách vở. Nhiệm vụ mới sẽ tạo cho bà chiếc cửa sổ kỳ diệu để nhìn ra thế giới, và rất nhiều dịp để học hỏi.
Được hỏi về cơ hội và thách đố, bà cho rằng phải tách khỏi đại học và những người ở đó là một điều khó khăn đối với bà. Đại học giống như một gia đình đối với bà, Bà từng nhận được nhiều linh hứng và động viên từ Đức Mẹ. Ngài trở thành Mẹ Giáo Hội khi chỉ có mỗi gia bảo là cõi lòng mình. Marta cảm thấy 1 điều tương tự khi bắt đầu làm việc tại Bộ. Bà được kêu gọi mang hoa trái từ Cõi Lòng Giáo Hội, và dòng đời trôi qua việc dâng hiến cõi lòng nhỏ bé của bà.
Bà cũng vật lộn với nhịp độ và thời gian. Đời sống ở Tòa Thánh có một nhịp độ khác với ở bên ngoài. Mọi sự đều cần phải suy nghĩ và phân tích rất lung. Nay bà chỉ là Marta, nhưng bà đại diện cho Tòa Thánh. Điều ấy đòi phải khôn ngoan, và các quyết định đòi nhiều thì giờ hơn. Bà chưa quen với đòi hỏi ấy và thấy thiếu kiên nhẫn, muốn sự việc diễn tiến nhanh hơn. Bà còn nhiều điều phải học.
Nói về các việc làm trước đây trong lãnh vực phụ nữ, Marta cho hay bà bắt đầu các buổi thuyết trình về nữ tính cho các phụ nữ lập gia đình, giải thích nữ tính từ thân xác họ. Bà rất có ấn tượng khi họ được đánh động trên bình diện hiện sinh. Bà hiểu ra rằng ngày nay, phụ nữ chưa hiểu hết ý nghĩa của việc là một người đàn bà. Đây là một vấn đề về bản sắc. Thành thử bà đã khai triển một khóa học và trình bầy khóa học này dưới nhiều hình thức cho các sinh viên đại học, nữ tu, phụ nữ tận hiến. Việc này dẫn bà đến việc khai triển ý niệm về tầm quan trọng phải tích nhập các khía cạnh tính dục và xúc cảm vào đời tận hiến, và trong hai năm qua, bà đã giảng 7 khóa thâm cứu về chủ đề này cho các nhóm tu trì khác nhau. Đó quả là một trải nghiệm tươi đẹp về Chúa Thánh Thần. Luận đề của bà là: tận hiến phải là một cách chu toàn và làm triển nở trọn bộ nữ tính của ta. Khi ta “ít đàn bà” hơn là chúng ta chưa tận hiến trọn vẹn. Trong các giảng khóa này, bà thấy Chúa Thánh Thần hoạt động một cách sâu sắc trong tâm hồn các chị em của bà, biến mọi sự ra mới mẻ.
Như một hệ quả, bà đã khai triển khóa học này để áp dụng cho các linh mục và chủng sinh và đã tổ chức nhiều buổi thuyết trình và học tập cho các nhóm này.
Được hỏi bà có phải là một nhà duy nữ hay không, bà cho hay: có rất nhiều kiểu duy nữ; trong đó, bà nhận diện bà ở một số và không nhận diện ở một số khác. Bà là duy nữ theo nghĩa tin tưởng sâu sắc vào tính thiên tài của nữ giới và thiên tài này được cần đến xiết bao trong gia đình, trong văn hóa, trong chính trị, khoa học. Nhưng bà không thích nói nhiều về phụ nữ, hay chỉ nói với phụ nữ. Bà nghĩ nay là lúc để suy nghĩ về việc là một người đàn bà và một người đàn ông có nghĩa gì, nhưng phải suy nghĩ với nhau. Bà thích các nhóm hỗn hợp thay vì các nhóm chỉ có đàn ông hay chỉ có đàn bà. Bà nghĩ văn hóa và việc làm cần sự đóng góp của cả hai với nhau, sự hợp động (synergy) của cả hai. Nhìn nhận việc này thì dễ, nhưng có khá nhiều cản trở ngăn chặn sự hợp động này. Bà đồng ý phải loại bỏ các trở ngại này, cả trong lẫn ngoài Giáo Hội, nhưng bà không đồng ý đối với việc giải thích chúng một cách theo biện chứng, một giải thích vốn kết luận rằng đàn ông tự nhiên là nguồn gây bạo lực và tùng phục. Theo bà, ta tìm thấy bản sắc mình trong cuộc gặp gỡ người khác, và chỉ cùng nhau, ta mới thực sự có óc sáng tạo.
Theo bà, trong lịch sử, có lúc Giáo Hội coi người đàn bà như công dân hạng nhì. Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhưng Giáo Hội cũng là một định chế của con người. Nó lệ thuộc nền văn hóa nơi nó sống. Thời ta, bà cho hay, trong tư cách một định chế, Giáo Hội nhìn nhận phẩm giá phụ nữ, không hề coi họ như công dân hạng nhì. Lướt qua giáo huấn của 4 vị giáo hoàng gần đây nhất cũng đủ chứng mình điều này.
Nhưng một điều là lý thuyết và một điều là đời thực. Vẫn còn khá nhiều rào cản và sợ sệt về văn hóa. Bà nghĩ hiện chúng ta đang có trước mắt một thách đố quan yếu về giáo dục. Đây là một điểm bà coi thuộc sứ mệnh của bà, tức cổ vũ sự hợp tác đàn ông đàn bà bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Để làm việc này, ta cần giáo dục cả các linh mục, tu sĩ và giáo dân về mối liên hệ thích đáng.
Được hỏi đâu là vai trò sinh tử của phụ nữ trong Giáo Hội, bà cho biết: mỗi người chúng ta đều là thành viên sinh tử của nhiệm thể Chúa Kitô. Đúng, người đàn bà đem đến thiên tài nữ giới và chức phận làm mẹ thiêng liêng. Nên, thay vì coi vai trò sinh tử của phụ nữ như những công việc, tước hiệu hay chức vụ đặc biệt, bà tin rằng vai trò thực sự sinh tử của họ là thực sự làm người đàn bà giữa lòng Giáo Hội, dưỡng nuôi, yêu thương, dẫn dắt, theo dõi, như Đức Maria từng làm.
Kết quả thống kê ơn gọi tu trì ở Hoa kỳ
Hồng Thủy
21:03 07/02/2018
Trong tiến trình điều tra, một số tu sĩ nam nữ khấn trọn đời trong năm 2017 và 768 bề trên cao cấp đã được phỏng vấn. Khoảng một nửa trong số 216 tu sĩ nam nữ đã khấn trọn đời được phỏng vấn cho biết họ đã theo học trường Công Giáo trước khi quyết định đi tu.
Trung bình các tu sĩ phải gia nhập dòng chậm khoảng 4 năm vì tiền học phí cao và họ phải làm việc để trả nợ ngân hàng.
Một chi tiết lý thú là các tu sĩ nhận được sự khuyến khích và đồng hành nhiều nhất là từ các bạn khi quyết định đi tu, sau đó đến các cha xứ và cuối cùng là những người trong cùng hội dòng.
46% các tân Linh mục đến từ các gia đình đông con, có hơn 4 anh em; 62% đã có kinh nghiệm làm việc. Ngoài các nước Mỹ Latinh, nhiều Linh mục trẻ là người Việt nam.
Tuổi trung bình của những người tuyên khấn là trên 41, nhưng cách chung, các nữ tu tuyên khấn trẻ hơn, dù chỉ có 24% nữ tu trẻ hơn 29 tuổi.
Trong năm 2017, 80% các dòng được phỏng vấn không có tu sĩ khấn trọn.
Nhận xét về kết quả điều tra, Đức Hồng Y Tobin “cám ơn Chúa về quà tặng đời sống thánh hiến dành cho các người nam nữ thánh hiến, là chứng nhân của Chúa Giêsu trong thế giới thường bị bao phủ bởi bóng tối.” Ngài xin cầu nguyện cho sự kiên trì trong ơn gọi và để Chúa tiếp tục làm cho Giáo hội nên phong phú với món quà duy nhất của ơn gọi.” (REI 06/02/2018)
Hồng Thủy
ĐGH kêu gọi cùng hành động chống lại tệ nạn buôn người.
Giuse Thẩm Nguyễn
22:35 07/02/2018
(Radio Vatican) Lên tiếng trước Ngày Cầu Nguyện và Nâng Cao Nhận Thức chống lại tệ buôn người, ĐGH đã kêu gọi các tổ chức xã hội và tôn giáo hãy có những hành động cụ thể để bảo vệ những nạn nhân của tệ buôn người và loại trừ tai họa khủng khiếp này, một tệ nạn đã gây đau khổ đến quá nhiều người bị cưỡng bức di dân và tỵ nạn.
ĐGH Phanxicô đã kêu gọi hành động cụ thể nhằm chống lại nạn buôn người khi chúng ta chuẩn bị đánh dấu Ngày Cầu Nguyện và Nhận Thức chống lại tai họa khủng khiếp này.
ĐGH đã nói trong cuộc Tiếp Kiến Chung hằng tuần tại Vatican rằng “Cha mời gọi các con, những công dân và các tổ chức xã hội, cùng phối hợp chung các lực lượng để ngăn ngừa việc buôn bán nô lệ này và để bảo đảm việc bảo vệ và giúp đỡ những nạn nhân.”
Ngài cũng nhắc nhở những người hiện diện vào ngày mai, mồng tám tháng Hai, ngày lễ kính Thánh Josephine Bakhita, một cơ hội để mọi người hiệp lời cầu nguyện và hành động chống lại nạn buôn người này.
Nhắn đến chủ đề của Ngày Cầu Nguyện và Nhận Thức trong năm 2018 – “Di Dân chứ không phải buôn bán. Nói CÓ với Tự Do và nói KHÔNG với nô lệ” – ĐGH lưu ý rằng nhiều di dân bị bắt buộc phải chọn con đường di dân bất hợp pháp, nơi đó họ bị “lạm dụng dưới nhiều hình thức, bị bóc lột và bị làm nô lệ.”
ĐGH lưu ý rằng những tổ chức tội phạm tham gia việc buôn người, lợi dụng đường dây di dân để trà trộn những nạn nhân của chúng trong số những di dân và tỵ nạn.
ĐGH cũng kêu gọi thêm lời cầu nguyện để “Thiên Chúa biến đổi lòng trí của những kẻ buôn người và ban niềm hy vọng cho những nạn nhân đau khổ do tai họa đáng xấu hổ này để họ có thể sớm tìm được sự tự do.”
Ngày mồng tám tháng Hai là lễ kính Thánh Josephine Bakhita, một nữ tu người Sadan, đã kinh qua đau khổ cùng cực khi nữ tu là nạn nhân của tệ buôn người lúc còn nhỏ.
Nhân dịp này, nhiều tổ chức tôn giáo trên khắp thế giới đã tổ chức mừng lễ và cầu nguyện vào ngày lễ của Thánh Nữ để đánh dấu cơ hội này và nâng cao nhận thức chống lại tệ buôn người.
Giuse Thẩm Nguyễn
ĐGH Phanxicô đã kêu gọi hành động cụ thể nhằm chống lại nạn buôn người khi chúng ta chuẩn bị đánh dấu Ngày Cầu Nguyện và Nhận Thức chống lại tai họa khủng khiếp này.
ĐGH đã nói trong cuộc Tiếp Kiến Chung hằng tuần tại Vatican rằng “Cha mời gọi các con, những công dân và các tổ chức xã hội, cùng phối hợp chung các lực lượng để ngăn ngừa việc buôn bán nô lệ này và để bảo đảm việc bảo vệ và giúp đỡ những nạn nhân.”
Ngài cũng nhắc nhở những người hiện diện vào ngày mai, mồng tám tháng Hai, ngày lễ kính Thánh Josephine Bakhita, một cơ hội để mọi người hiệp lời cầu nguyện và hành động chống lại nạn buôn người này.
Nhắn đến chủ đề của Ngày Cầu Nguyện và Nhận Thức trong năm 2018 – “Di Dân chứ không phải buôn bán. Nói CÓ với Tự Do và nói KHÔNG với nô lệ” – ĐGH lưu ý rằng nhiều di dân bị bắt buộc phải chọn con đường di dân bất hợp pháp, nơi đó họ bị “lạm dụng dưới nhiều hình thức, bị bóc lột và bị làm nô lệ.”
ĐGH lưu ý rằng những tổ chức tội phạm tham gia việc buôn người, lợi dụng đường dây di dân để trà trộn những nạn nhân của chúng trong số những di dân và tỵ nạn.
ĐGH cũng kêu gọi thêm lời cầu nguyện để “Thiên Chúa biến đổi lòng trí của những kẻ buôn người và ban niềm hy vọng cho những nạn nhân đau khổ do tai họa đáng xấu hổ này để họ có thể sớm tìm được sự tự do.”
Ngày mồng tám tháng Hai là lễ kính Thánh Josephine Bakhita, một nữ tu người Sadan, đã kinh qua đau khổ cùng cực khi nữ tu là nạn nhân của tệ buôn người lúc còn nhỏ.
Nhân dịp này, nhiều tổ chức tôn giáo trên khắp thế giới đã tổ chức mừng lễ và cầu nguyện vào ngày lễ của Thánh Nữ để đánh dấu cơ hội này và nâng cao nhận thức chống lại tệ buôn người.
Giuse Thẩm Nguyễn
Đức nguyên GH Biển đức XVI: Trong nội tâm tôi đang hành hương về Nhà
Hồng Thủy
11:30 07/02/2018
Trong một thư tay gửi tiến sĩ Massimo Franco, nhà báo của báo Người Đưa Tin Chiều của Italia, Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI đã trả lời cho nhiều độc giả của báo muốn biết về sức khỏe của ngài.
Thư của Đức nguyên Giáo hoàng gửi cho Tiến sĩ Massimo Franco được gửi từ đan viện Mẹ Giáo hội ở nội thành Vatican và đã đến trụ sở báo ở Roma sáng hôm qua, 06/02/2018. Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI viết:
Tiến sĩ Franco thân mến,
Tôi cảm động khi nhiều độc giả của quý báo muốn biết những ngày cuối đời tôi diễn ra thế nào. Tôi chỉ có thể nói về điều này là, khi sức khỏe thể lý đang dần suy giảm đi, thì trong nội tâm, tôi đang trong cuộc hành hương tiến về Nhà.
Thật là một ân phúc đối với tôi, trong đoạn đường cuối này, có khi hơi mệt mỏi, được bao bọc bởi một tình yêu và lòng tốt mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng.
Theo nghĩa này, tôi xem câu hỏi của các độc giả của quý báo như là một sự đồng hành. Vì điều này, tôi không thể làm gì hơn là cám ơn và về phần tôi, tôi đoan chắc là cầu nguyện cho tất cả các bạn.
Trân trọng kính chào.
Biển Đức XVI
Tiến sĩ Massimo Franco đã nói về lá thư ngắn của Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức: tuy ít lời nhưng nó thật sự chuyển trao một sự sâu sắc tuyệt vời. Nhà báo Franco cũng nhấn mạnh đến sự nhận thức một thái độ gương mẫu giữa Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức và Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong 5 năm nay. Một sự chung sống không được hướng dẫn bởi các luật lệ. Ông nói: “Không thể chối bỏ rằng hai “Giáo hoàng” ở Vatican có thể giữ nguyên tính cách của mình cách rõ ràng mà không chồng chéo lên nhau, hay tệ hơn nữa là tạo nên những chia rẽ. Nếu tình cờ có những khác biệt thì những điều này vẫn là một thảo luận kín giữa các ngài … một dấu chỉ của sức mạnh thiêng liêng và sự khiêm nhường, điều được thấy rõ khi Đức nguyên Giáo hoàng chào những người vẫn tiếp tục quan tâm đến ngài với một giọng văn quen thuộc: ‘Tôi không thể làm gì khác hơn là cám ơn.’” (REI 07/02/2018)
Thư của Đức nguyên Giáo hoàng gửi cho Tiến sĩ Massimo Franco được gửi từ đan viện Mẹ Giáo hội ở nội thành Vatican và đã đến trụ sở báo ở Roma sáng hôm qua, 06/02/2018. Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI viết:
Tôi cảm động khi nhiều độc giả của quý báo muốn biết những ngày cuối đời tôi diễn ra thế nào. Tôi chỉ có thể nói về điều này là, khi sức khỏe thể lý đang dần suy giảm đi, thì trong nội tâm, tôi đang trong cuộc hành hương tiến về Nhà.
Thật là một ân phúc đối với tôi, trong đoạn đường cuối này, có khi hơi mệt mỏi, được bao bọc bởi một tình yêu và lòng tốt mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng.
Theo nghĩa này, tôi xem câu hỏi của các độc giả của quý báo như là một sự đồng hành. Vì điều này, tôi không thể làm gì hơn là cám ơn và về phần tôi, tôi đoan chắc là cầu nguyện cho tất cả các bạn.
Trân trọng kính chào.
Biển Đức XVI
Tiến sĩ Massimo Franco đã nói về lá thư ngắn của Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức: tuy ít lời nhưng nó thật sự chuyển trao một sự sâu sắc tuyệt vời. Nhà báo Franco cũng nhấn mạnh đến sự nhận thức một thái độ gương mẫu giữa Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức và Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong 5 năm nay. Một sự chung sống không được hướng dẫn bởi các luật lệ. Ông nói: “Không thể chối bỏ rằng hai “Giáo hoàng” ở Vatican có thể giữ nguyên tính cách của mình cách rõ ràng mà không chồng chéo lên nhau, hay tệ hơn nữa là tạo nên những chia rẽ. Nếu tình cờ có những khác biệt thì những điều này vẫn là một thảo luận kín giữa các ngài … một dấu chỉ của sức mạnh thiêng liêng và sự khiêm nhường, điều được thấy rõ khi Đức nguyên Giáo hoàng chào những người vẫn tiếp tục quan tâm đến ngài với một giọng văn quen thuộc: ‘Tôi không thể làm gì khác hơn là cám ơn.’” (REI 07/02/2018)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Có nêu tên người rước lễ khi cho rước lễ không? Việc tự rước lễ được hiểu thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
08:25 07/02/2018
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Con là một phó tế [vĩnh viễn] và đã được thông báo rằng có một thủ tục gây tranh cãi về việc nêu tên người rước lễ khi cho người ấy rước lễ, chẳng hạn “Maria, đây là Mình Thánh Chúa Kitô!". Cha xứ của con thường xuyên làm như vậy. Thưa cha, điều này là đúng và hợp pháp chăng? - R. J., Allentown, Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Đáp: Trong khi tôi không biết có các lệnh cấm rõ ràng nào, sự thực hành ấy là không tương hợp với nghi thức đúng, vốn là đơn giản và rõ ràng như được mô tả trong Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (GIRM):
“161. Nếu chỉ cho rước lễ dưới hình bánh, vị tư tế đưa Mình Thánh lên cao một chút trước mặt mỗi người và nói: "Mình Thánh Chúa Kitô". Người rước lễ thưa "A-men", rồi rước lễ, bằng miệng, hoặc, nơi nào cho phép, bằng tay. Sau khi nhận lấy bánh thánh, người rước lễ rước hết ngay.
Về việc rước lễ dưới hai hình, thì giữ nghi thức mô tả dưới đây (x. các số 284-287).
“286. Nếu rước Máu Thánh bằng cách uống chén thánh, người rước lễ sau khi đã chịu Mình Thánh, đi sang thừa tác viên cầm chén và đứng trước mặt. Thừa tác viên nói: "Máu Thánh Chúa Kitô"? người rước đáp: "A-men", và thừa tác viên đưa chén, người rước cầm chén bằng hai tay đưa lên miệng. Người rước uống một chút, trả lại chén cho thừa tác viên rồi lui gót; thừa tác viên dùng khăn lau miệng chén.
“287. Nếu rước chén thánh bằng cách chấm, người rước cầm đĩa dưới miệng, tiến đến vị tư tế cầm chén thánh và bên cạnh ngài có thừa tác viên cầm bình Mình Thánh. Vị tư tế lấy bánh thánh, nhúng một phần vào chén, rồi đưa cho vừa nói: "Mình và Máu Chúa Kitô", người rước nhận lấy bằng miệng, rồi lui gó” (Bản dịch Việt ngữ của Linh mục Phanxicô Xavier Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang),
Trong hình thức ngoại thường, công thức là dài hơn nhưng cũng không nêu tên người rước lễ: “Xin Mình Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta giữ linh hồn con an toàn cho sự sống đời đời”.
Do đó, việc nêu tên ngưởi rước lễ không phải là một phần của truyền thống nghi lễ Rôma, và như vậy không phải là một thực hành hợp pháp. Mặc dù xem ra nó có thể là một cử chỉ rất mục vụ, nhưng một số người có thể thấy rằng việc nêu tên cá nhân người rước lễ làm suy yếu việc tuyên xưng đức tin, vốn có trong cuộc đối thoại này.
Khi cầm Mình Thánh và nói: "Mình Thánh Chúa Kitô", linh mục, thầy phó tế hay một thừa tác viên khác cho rước lễ, vừa nhắc đến một sự việc và vừa đòi hỏi một sự ưng thuận. Vào thời điểm đó, ngài hành xử như là vị đại diện của Hội Thánh, để cho người rước lễ, với lời "Amen" của mình, khẳng định đức tin của Hội Thánh, không chỉ vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô, mà còn trong tất cả những gì mà Thánh Lễ đòi hỏi.
Yếu tố của mối quan hệ cá nhân được giới thiệu, bằng cách nêu tên người rước lễ, có thể được diễn giải như là làm giảm sự tuyên xưng đức tin trong đối thoại thành một cấp độ con người hơn.
Cũng có thể vô tình gây ra sự chia rẽ, vì thừa tác viên không thể biết tên của mọi người rước lễ, và việc không nêu tên một số người có thể gây xúc phạm. Do đó việc yêu cầu nêu tên mỗi người rước lễ có thể gây trở ngại cho các nghi thức Rôma.
Đồng thời, cần phải nhìn nhận rằng một số truyền thống phụng vụ đã nêu tên người rước lễ. Trong phụng vụ Byzantine, người rước lễ từng người một đến gần linh mục. Khi linh mục trao Mình Thánh cho, ngài nói: “N., tôi tớ của Thiên Chúa, được trao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta, để tha tội cho con và ban cho con sự sống đời đời”.
Công thức tỉ mỉ này nằm trong bối cảnh của truyền thống Byzantine, mà trong đó việc rước lễ là ít thường xuyên hơn so với trong nghi lễ Rôma, và đôi khi chỉ có vài thành viên của cộng đoàn lên rước lễ. Thật vậy, một nghi thức đặc biệt được thêm vào Thánh Lễ, khi các người rước lễ và vị linh mục cùng đọc một kinh nguyện chuẩn bị dài, vốn bao gồm lời tuyên xưng đức tin vào Thánh Thể, trước khi các tín hửu tiến đến gần bàn thờ.
Không có mâu thuẫn gỉ trong các sự khác biệt này, vì mỗi sự thực hành là rất hợp với nghi lễ của nó.
Sau khi tôi trả lời như trên đây, một bạn đọc thuộc truyền thống Byzantine đã nêu ra (ngày 30-8) một số tiêu điểm, mà tôi tin là giúp chúng ta hiểu rõ hơn bối cảnh của sự thực hành của họ:
“Là một phó tế [người Công Giáo Hi lạp Ruthenian Byzantine], tôi có thể đưa thêm một vài soi sáng vào việc truyền thống Byzantine nêu tên người rước lễ. Trước hết, mỗi bí tích được coi là cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu của chúng ta, vì vậy mỗi người đều được nêu tên khi lãnh bí tích, “N, tôi tớ của Thiên Chúa, được rửa tội", “N, tôi tớ của Thiên Chúa, được kết hôn trong hôn nhân với...", "Tôi tớ của Thiên Chúa, thầy phó tế N, được truyền chức …”, vv ... Việc nêu tên như thế là rất quan trọng, đến nỗi khi một người lên rước lễ mà linh mục không biết tên, người ấy nhắc tên mình cho linh mục, để linh mục có thể nêu tên mình khi cho rước lễ (số phận xấu nhất có thể cho một con người là Thiên Chúa quên người ấy, đó là lý do tại sao khi chúng ta cầu nguyện cho người chết, chúng ta cầu nguyện không chỉ cho họ nghỉ yên, mà còn cho họ được muôn đời ghi nhớ. Chữ muôn đời là không theo nghĩa hiểu của con người, nhưng là được Chúa nhớ mãi). Tiếc thay, người Công Giáo của truyền thống Byzantine là không thường xuyên rước lễ, không giống với tập tục của người Công Giáo theo truyền thống Rôma. Việc rước lễ không thường xuyên là sự thực hành thông thường nơi người Chính Thống Giáo, chứ không như người Công Giáo".
Tôi cảm ơn bạn đọc này nhiều vì đóng ý xây dựng và hữu ích.
Liên quan đến việc Rước Lễ, một bạn đọc ở Vermont Hoa Kỳ đã nêu câu hỏi: "Gần đây, cha xứ chúng con đã thông báo cho các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, rằng họ có thể cho giáo dân rước lễ khi vắng mặt ngài. Ngài bảo họ tự rước lễ trước khi cho giáo dân rước lễ. Con nói với ngài rằng con đã học biết rằng các thừa tác viên như thế không tự rước lễ và không được rước lễ, trừ khi có một thừa tác viên ngoại thường khác có mặt để làm việc này. "Thông tin" của con cũng chỉ là truyền miệng mà thôi. Xin cha giúp con tìm ở đâu các thủ tục chính xác".
Các thủ tục chính xác, như thường lệ, được tìm thấy trong các sách nghi lễ chính thức của Giáo hội. “Sách Hướng dẫn cử hành ngày Chúa Nhật khi vắng Linh mục” (the Directory for the Celebration of Sunday in the Absence of a Priest), và sách “Nghi thức cho rước lễ ngoài Thánh Lễ” (the Rite of Distributing Holy Communion Outside of Mass), tiên liệu khả năng của thừa tác viên, dù là phó tế hay một thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, về tự rước lễ.
Chữ đỏ của nghi thức nói trên miêu tả thừa tác viên đặt bình thánh hoặc hộp đựng Mình Thánh (pyx) trên bàn thờ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha và có thể đọc lời chúc bình an. Sau đó chữ đỏ tiếp tục: "Thừa tác viên quỳ gối. Cầm Mình Thánh, thừa tác viên nâng cao Mình Thánh một chút trên bình thánh hoặc hộp đựng Mình Thánh, và trước mặt cộng đoàn, nói: “Đây Chiên Thiên Chúa ..." Sau khi tất cả mọi ngưởi đã đáp lại với câu "lạy Chúa, con chẳng đáng ..." chữ đó tiếp tục:" Nếu thừa tác viên rước lễ, thì rước lễ lặng lẽ: “Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời”. Thừa tác viên kính cẩn rước Mình Thánh Chúa Kitô”.
Bởi vì các nghi thức kết thúc ngay sau đó có các nghi thức thay thế cho một thừa tác viên có chức thánh và một thừa tác viên giáo dân, chưa có sự phân biệt rõ ràng về cách thức rước lễ của thừa tác viên ngoại thưởng.
Quy định trong chữ đỏ "Nếu thừa tác viên rước lễ" không bao hàm một sự cấm đoán. Dường như chữ đỏ tính đến việc thừa tác viên có thể không rước lễ vào lúc này, bởi vì thừa tác viên ấy đã rước lễ trong một lễ trước đó trong cùng một ngày.
"Thông tin" mà bạn đọc của chúng ta nhận được có thể xuất phát từ một sự mở rộng không đáng có của việc Tòa Thánh không tán thành sự lạm dụng việc thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ đã tự rước lễ trong Thánh lễ. Sự không tán thành như thế có thể đã mở rộng cách không đúng cho các hoàn cảnh khác nhau của một thừa tác viên ngoại thường, khi hướng dẫn cử hành phụng vụ Lời Chúa với phần cho rước lễ khi vắng linh mục.
Một số độc giả khác yêu cầu làm rõ thêm về việc tự rước lễ.
Một bạn đọc hỏi: "Đối với cuộc thảo luận thú vị liên quan đến việc tự rước lễ trong Thánh Lễ của thừa tác viên ngoại thường, mà con hiểu (từ bài trả lời của cha trên ZENIT) là bị cấm, con xin hỏi liệu việc cấm này cũng liên quan đến các thừa tác viên ngoại thường, khi họ cho giáo dân rước Máu Thánh trong lễ ngày thường chăng. Trong Thánh Lễ Chúa Nhật, với nhiều thừa tác viên ngoại thường tham gia, các thừa tác viên ngoại thường tạo thành một vòng tròn cầu nguyện sau Thánh lễ, và truyền chén thánh cho nhau, họ rước Máu Thánh với sự kính cẩn hợp lý, dường như tuân theo các hướng dẫn của Tòa Thánh. Tuy nhiên, sự thực hành của chúng con trong các ngày lễ trong tuần lại là rất khác. Thông thường chỉ có hai thừa tác viên ngoại thường cho rước Máu Thánh. Nếu Máu Thánh không được rước hết, thì lối thực hành của chúng con là rằng mỗi thừa tác viên ngoại thường rước hết Máu Thánh còn lại trong chén thánh, khi đưa chén thánh đến bàn cạnh. Liệu việc tự rước lễ như thế là không chính đáng sao? Nếu là không chính đáng, người ta có thể sửa điều này bằng cách có hai thừa tác viên trao cho nhau rước Máu Thánh còn lại. Nhưng con tự hỏi sự thực hành sẽ là gì, nếu vì một lý do nào đó, chỉ có một thừa tác viên ngoại thường cho rước Máu Thánh mà thôi?
"Trong một vấn đề liên quan, khi con đi tới nhà riêng cho người ta rước lễ, và thấy rằng vì một lý do nào đó con không thể cho họ rước lễ được, con luôn đọc một kinh và rước lễ luôn. Cha xứ chúng con đã cho phép điều này, như một sự thay thế cho việc đưa Mình Thánh trở về nhà thờ. Có lẽ người ta sẽ đưa Mình Thánh trở về nhà thờ, trong trường hợp còn dư nhiều Bánh Thánh, nhưng phần con, con chưa hề gặp tình trạng đặc biệt này".
Theo quy định của Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ về việc cho rước lễ dưới hai hình”:
"52. Khi Máu Thánh còn dư lại nhiều hơn là cho rước lễ, và nếu Giám mục hoặc linh mục cử hành không rước hết, ‘thầy phó tế ngay lập tức kính cẩn rước hết Máu Thánh còn lại; thầy có thể được trợ giúp, nếu cần, bởi các phó tế và linh mục khác'. Khi có các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ ở đó, họ có thể rước hết Máu Thánh từ chén thánh với sự cho phép của Giám mục giáo phận”.
Trước hết, giả định trong trường hợp này là các thừa tác viên ngoại thường đã rước Máu Thánh lần đầu từ một thừa tác viên khác trước khi đi cho rước lễ. Đó là lý do tại sao việc rước lễ lần thứ hai của họ không được xem là tự rước lễ.
Nếu chỉ có một thừa tác viên ngoại thưởng, thì linh mục và/hoặc phó tế sẽ rước Máu Thánh còn dư lại. Vì số lượng người tham dự Thánh lễ hàng ngày là ít thay đổi, nên khá dễ tính được số lượng Máu Thánh cần thiết cho việc rước lễ. Thừa tác viên ngoại thường chỉ rước hết Máu Thánh, chỉ trong trường hợp linh mục chủ lễ không thể rước hết vì lý do chính đáng nào đó.
Thật là không đúng khi rước Máu Thánh sau Thánh lễ. Nếu các thừa tác viên ngoại thường đã có sự cho phép cần thiết từ Giám mục, họ nên rước hết Máu Thánh sau phần rước lễ. Có thể sự thực hành này dựa trên một hiểu lầm về quy định vốn cho phép tráng chén sau Thánh lễ.
Liên quan đến trường hợp khi thừa tác viên ngoại thường không thể cho người bệnh rước lễ, tôi có thể nói rằng trong trường hợp việc thừa tác viên rước Mình Thánh là hợp pháp. Nếu có thể được, tốt hơn nên cho người cuối cùng rước hai Bánh Thánh, nhưng các tình huống này không phải lúc nào cũng có thể lường trước được.
Một độc giả người Anh yêu cầu làm rõ về vấn đề rằng thừa tác viên không nên rước lễ hai lần. Ông viết: "Theo con, các thừa tác viên, và thực sự tất cả mọi người, có thể được phép Rước lễ lần thứ hai trong một ngày, miễn là họ "tham dự" buổi cử hành, nhưng cha lại nói hơi khác. Xin cha làm rõ điểm này, và có lẽ nên mở rộng về những đặc tính của việc ‘tham dự trong các trường hơp như thế’.
Dường như có sự hiểu nhầm về luật trong vấn đề này. Đã có thời có sự nghi ngờ về ý nghĩa của từ iterum (có thể có nghĩa là "nữa" hay "lần thứ hai, một lần nữa") trong điều 917 của Bộ Giáo luật. Cơ quan phụ trách giải thích luật của Tòa Thánh đã quyết định rằng nó có nghĩa là "lần thứ hai, một lần nữa". Do đó, ngoại trừ trong trường hợp của ăn đàng cho người hấp hối, việc rước lễ lần thứ hai chỉ được phép trong Thánh lễ, chứ không phải ở bất cứ buổi cử hành bí tích nào. Việc rước lễ ngoài Thánh Lễ không phải, nói cho chính xác, là một bí tích. Thuật ngữ này chỉ áp dụng cho cử hành Thánh Thể mà thôi. (Zenit.org 30-8, 13-9 và 27-9-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Hỏi: Con là một phó tế [vĩnh viễn] và đã được thông báo rằng có một thủ tục gây tranh cãi về việc nêu tên người rước lễ khi cho người ấy rước lễ, chẳng hạn “Maria, đây là Mình Thánh Chúa Kitô!". Cha xứ của con thường xuyên làm như vậy. Thưa cha, điều này là đúng và hợp pháp chăng? - R. J., Allentown, Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Đáp: Trong khi tôi không biết có các lệnh cấm rõ ràng nào, sự thực hành ấy là không tương hợp với nghi thức đúng, vốn là đơn giản và rõ ràng như được mô tả trong Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (GIRM):
“161. Nếu chỉ cho rước lễ dưới hình bánh, vị tư tế đưa Mình Thánh lên cao một chút trước mặt mỗi người và nói: "Mình Thánh Chúa Kitô". Người rước lễ thưa "A-men", rồi rước lễ, bằng miệng, hoặc, nơi nào cho phép, bằng tay. Sau khi nhận lấy bánh thánh, người rước lễ rước hết ngay.
Về việc rước lễ dưới hai hình, thì giữ nghi thức mô tả dưới đây (x. các số 284-287).
“286. Nếu rước Máu Thánh bằng cách uống chén thánh, người rước lễ sau khi đã chịu Mình Thánh, đi sang thừa tác viên cầm chén và đứng trước mặt. Thừa tác viên nói: "Máu Thánh Chúa Kitô"? người rước đáp: "A-men", và thừa tác viên đưa chén, người rước cầm chén bằng hai tay đưa lên miệng. Người rước uống một chút, trả lại chén cho thừa tác viên rồi lui gót; thừa tác viên dùng khăn lau miệng chén.
“287. Nếu rước chén thánh bằng cách chấm, người rước cầm đĩa dưới miệng, tiến đến vị tư tế cầm chén thánh và bên cạnh ngài có thừa tác viên cầm bình Mình Thánh. Vị tư tế lấy bánh thánh, nhúng một phần vào chén, rồi đưa cho vừa nói: "Mình và Máu Chúa Kitô", người rước nhận lấy bằng miệng, rồi lui gó” (Bản dịch Việt ngữ của Linh mục Phanxicô Xavier Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang),
Trong hình thức ngoại thường, công thức là dài hơn nhưng cũng không nêu tên người rước lễ: “Xin Mình Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta giữ linh hồn con an toàn cho sự sống đời đời”.
Do đó, việc nêu tên ngưởi rước lễ không phải là một phần của truyền thống nghi lễ Rôma, và như vậy không phải là một thực hành hợp pháp. Mặc dù xem ra nó có thể là một cử chỉ rất mục vụ, nhưng một số người có thể thấy rằng việc nêu tên cá nhân người rước lễ làm suy yếu việc tuyên xưng đức tin, vốn có trong cuộc đối thoại này.
Khi cầm Mình Thánh và nói: "Mình Thánh Chúa Kitô", linh mục, thầy phó tế hay một thừa tác viên khác cho rước lễ, vừa nhắc đến một sự việc và vừa đòi hỏi một sự ưng thuận. Vào thời điểm đó, ngài hành xử như là vị đại diện của Hội Thánh, để cho người rước lễ, với lời "Amen" của mình, khẳng định đức tin của Hội Thánh, không chỉ vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô, mà còn trong tất cả những gì mà Thánh Lễ đòi hỏi.
Yếu tố của mối quan hệ cá nhân được giới thiệu, bằng cách nêu tên người rước lễ, có thể được diễn giải như là làm giảm sự tuyên xưng đức tin trong đối thoại thành một cấp độ con người hơn.
Cũng có thể vô tình gây ra sự chia rẽ, vì thừa tác viên không thể biết tên của mọi người rước lễ, và việc không nêu tên một số người có thể gây xúc phạm. Do đó việc yêu cầu nêu tên mỗi người rước lễ có thể gây trở ngại cho các nghi thức Rôma.
Đồng thời, cần phải nhìn nhận rằng một số truyền thống phụng vụ đã nêu tên người rước lễ. Trong phụng vụ Byzantine, người rước lễ từng người một đến gần linh mục. Khi linh mục trao Mình Thánh cho, ngài nói: “N., tôi tớ của Thiên Chúa, được trao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta, để tha tội cho con và ban cho con sự sống đời đời”.
Công thức tỉ mỉ này nằm trong bối cảnh của truyền thống Byzantine, mà trong đó việc rước lễ là ít thường xuyên hơn so với trong nghi lễ Rôma, và đôi khi chỉ có vài thành viên của cộng đoàn lên rước lễ. Thật vậy, một nghi thức đặc biệt được thêm vào Thánh Lễ, khi các người rước lễ và vị linh mục cùng đọc một kinh nguyện chuẩn bị dài, vốn bao gồm lời tuyên xưng đức tin vào Thánh Thể, trước khi các tín hửu tiến đến gần bàn thờ.
Không có mâu thuẫn gỉ trong các sự khác biệt này, vì mỗi sự thực hành là rất hợp với nghi lễ của nó.
Sau khi tôi trả lời như trên đây, một bạn đọc thuộc truyền thống Byzantine đã nêu ra (ngày 30-8) một số tiêu điểm, mà tôi tin là giúp chúng ta hiểu rõ hơn bối cảnh của sự thực hành của họ:
“Là một phó tế [người Công Giáo Hi lạp Ruthenian Byzantine], tôi có thể đưa thêm một vài soi sáng vào việc truyền thống Byzantine nêu tên người rước lễ. Trước hết, mỗi bí tích được coi là cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu của chúng ta, vì vậy mỗi người đều được nêu tên khi lãnh bí tích, “N, tôi tớ của Thiên Chúa, được rửa tội", “N, tôi tớ của Thiên Chúa, được kết hôn trong hôn nhân với...", "Tôi tớ của Thiên Chúa, thầy phó tế N, được truyền chức …”, vv ... Việc nêu tên như thế là rất quan trọng, đến nỗi khi một người lên rước lễ mà linh mục không biết tên, người ấy nhắc tên mình cho linh mục, để linh mục có thể nêu tên mình khi cho rước lễ (số phận xấu nhất có thể cho một con người là Thiên Chúa quên người ấy, đó là lý do tại sao khi chúng ta cầu nguyện cho người chết, chúng ta cầu nguyện không chỉ cho họ nghỉ yên, mà còn cho họ được muôn đời ghi nhớ. Chữ muôn đời là không theo nghĩa hiểu của con người, nhưng là được Chúa nhớ mãi). Tiếc thay, người Công Giáo của truyền thống Byzantine là không thường xuyên rước lễ, không giống với tập tục của người Công Giáo theo truyền thống Rôma. Việc rước lễ không thường xuyên là sự thực hành thông thường nơi người Chính Thống Giáo, chứ không như người Công Giáo".
Tôi cảm ơn bạn đọc này nhiều vì đóng ý xây dựng và hữu ích.
Liên quan đến việc Rước Lễ, một bạn đọc ở Vermont Hoa Kỳ đã nêu câu hỏi: "Gần đây, cha xứ chúng con đã thông báo cho các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, rằng họ có thể cho giáo dân rước lễ khi vắng mặt ngài. Ngài bảo họ tự rước lễ trước khi cho giáo dân rước lễ. Con nói với ngài rằng con đã học biết rằng các thừa tác viên như thế không tự rước lễ và không được rước lễ, trừ khi có một thừa tác viên ngoại thường khác có mặt để làm việc này. "Thông tin" của con cũng chỉ là truyền miệng mà thôi. Xin cha giúp con tìm ở đâu các thủ tục chính xác".
Các thủ tục chính xác, như thường lệ, được tìm thấy trong các sách nghi lễ chính thức của Giáo hội. “Sách Hướng dẫn cử hành ngày Chúa Nhật khi vắng Linh mục” (the Directory for the Celebration of Sunday in the Absence of a Priest), và sách “Nghi thức cho rước lễ ngoài Thánh Lễ” (the Rite of Distributing Holy Communion Outside of Mass), tiên liệu khả năng của thừa tác viên, dù là phó tế hay một thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, về tự rước lễ.
Chữ đỏ của nghi thức nói trên miêu tả thừa tác viên đặt bình thánh hoặc hộp đựng Mình Thánh (pyx) trên bàn thờ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha và có thể đọc lời chúc bình an. Sau đó chữ đỏ tiếp tục: "Thừa tác viên quỳ gối. Cầm Mình Thánh, thừa tác viên nâng cao Mình Thánh một chút trên bình thánh hoặc hộp đựng Mình Thánh, và trước mặt cộng đoàn, nói: “Đây Chiên Thiên Chúa ..." Sau khi tất cả mọi ngưởi đã đáp lại với câu "lạy Chúa, con chẳng đáng ..." chữ đó tiếp tục:" Nếu thừa tác viên rước lễ, thì rước lễ lặng lẽ: “Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời”. Thừa tác viên kính cẩn rước Mình Thánh Chúa Kitô”.
Bởi vì các nghi thức kết thúc ngay sau đó có các nghi thức thay thế cho một thừa tác viên có chức thánh và một thừa tác viên giáo dân, chưa có sự phân biệt rõ ràng về cách thức rước lễ của thừa tác viên ngoại thưởng.
Quy định trong chữ đỏ "Nếu thừa tác viên rước lễ" không bao hàm một sự cấm đoán. Dường như chữ đỏ tính đến việc thừa tác viên có thể không rước lễ vào lúc này, bởi vì thừa tác viên ấy đã rước lễ trong một lễ trước đó trong cùng một ngày.
"Thông tin" mà bạn đọc của chúng ta nhận được có thể xuất phát từ một sự mở rộng không đáng có của việc Tòa Thánh không tán thành sự lạm dụng việc thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ đã tự rước lễ trong Thánh lễ. Sự không tán thành như thế có thể đã mở rộng cách không đúng cho các hoàn cảnh khác nhau của một thừa tác viên ngoại thường, khi hướng dẫn cử hành phụng vụ Lời Chúa với phần cho rước lễ khi vắng linh mục.
Một số độc giả khác yêu cầu làm rõ thêm về việc tự rước lễ.
Một bạn đọc hỏi: "Đối với cuộc thảo luận thú vị liên quan đến việc tự rước lễ trong Thánh Lễ của thừa tác viên ngoại thường, mà con hiểu (từ bài trả lời của cha trên ZENIT) là bị cấm, con xin hỏi liệu việc cấm này cũng liên quan đến các thừa tác viên ngoại thường, khi họ cho giáo dân rước Máu Thánh trong lễ ngày thường chăng. Trong Thánh Lễ Chúa Nhật, với nhiều thừa tác viên ngoại thường tham gia, các thừa tác viên ngoại thường tạo thành một vòng tròn cầu nguyện sau Thánh lễ, và truyền chén thánh cho nhau, họ rước Máu Thánh với sự kính cẩn hợp lý, dường như tuân theo các hướng dẫn của Tòa Thánh. Tuy nhiên, sự thực hành của chúng con trong các ngày lễ trong tuần lại là rất khác. Thông thường chỉ có hai thừa tác viên ngoại thường cho rước Máu Thánh. Nếu Máu Thánh không được rước hết, thì lối thực hành của chúng con là rằng mỗi thừa tác viên ngoại thường rước hết Máu Thánh còn lại trong chén thánh, khi đưa chén thánh đến bàn cạnh. Liệu việc tự rước lễ như thế là không chính đáng sao? Nếu là không chính đáng, người ta có thể sửa điều này bằng cách có hai thừa tác viên trao cho nhau rước Máu Thánh còn lại. Nhưng con tự hỏi sự thực hành sẽ là gì, nếu vì một lý do nào đó, chỉ có một thừa tác viên ngoại thường cho rước Máu Thánh mà thôi?
"Trong một vấn đề liên quan, khi con đi tới nhà riêng cho người ta rước lễ, và thấy rằng vì một lý do nào đó con không thể cho họ rước lễ được, con luôn đọc một kinh và rước lễ luôn. Cha xứ chúng con đã cho phép điều này, như một sự thay thế cho việc đưa Mình Thánh trở về nhà thờ. Có lẽ người ta sẽ đưa Mình Thánh trở về nhà thờ, trong trường hợp còn dư nhiều Bánh Thánh, nhưng phần con, con chưa hề gặp tình trạng đặc biệt này".
Theo quy định của Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ về việc cho rước lễ dưới hai hình”:
"52. Khi Máu Thánh còn dư lại nhiều hơn là cho rước lễ, và nếu Giám mục hoặc linh mục cử hành không rước hết, ‘thầy phó tế ngay lập tức kính cẩn rước hết Máu Thánh còn lại; thầy có thể được trợ giúp, nếu cần, bởi các phó tế và linh mục khác'. Khi có các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ ở đó, họ có thể rước hết Máu Thánh từ chén thánh với sự cho phép của Giám mục giáo phận”.
Trước hết, giả định trong trường hợp này là các thừa tác viên ngoại thường đã rước Máu Thánh lần đầu từ một thừa tác viên khác trước khi đi cho rước lễ. Đó là lý do tại sao việc rước lễ lần thứ hai của họ không được xem là tự rước lễ.
Nếu chỉ có một thừa tác viên ngoại thưởng, thì linh mục và/hoặc phó tế sẽ rước Máu Thánh còn dư lại. Vì số lượng người tham dự Thánh lễ hàng ngày là ít thay đổi, nên khá dễ tính được số lượng Máu Thánh cần thiết cho việc rước lễ. Thừa tác viên ngoại thường chỉ rước hết Máu Thánh, chỉ trong trường hợp linh mục chủ lễ không thể rước hết vì lý do chính đáng nào đó.
Thật là không đúng khi rước Máu Thánh sau Thánh lễ. Nếu các thừa tác viên ngoại thường đã có sự cho phép cần thiết từ Giám mục, họ nên rước hết Máu Thánh sau phần rước lễ. Có thể sự thực hành này dựa trên một hiểu lầm về quy định vốn cho phép tráng chén sau Thánh lễ.
Liên quan đến trường hợp khi thừa tác viên ngoại thường không thể cho người bệnh rước lễ, tôi có thể nói rằng trong trường hợp việc thừa tác viên rước Mình Thánh là hợp pháp. Nếu có thể được, tốt hơn nên cho người cuối cùng rước hai Bánh Thánh, nhưng các tình huống này không phải lúc nào cũng có thể lường trước được.
Một độc giả người Anh yêu cầu làm rõ về vấn đề rằng thừa tác viên không nên rước lễ hai lần. Ông viết: "Theo con, các thừa tác viên, và thực sự tất cả mọi người, có thể được phép Rước lễ lần thứ hai trong một ngày, miễn là họ "tham dự" buổi cử hành, nhưng cha lại nói hơi khác. Xin cha làm rõ điểm này, và có lẽ nên mở rộng về những đặc tính của việc ‘tham dự trong các trường hơp như thế’.
Dường như có sự hiểu nhầm về luật trong vấn đề này. Đã có thời có sự nghi ngờ về ý nghĩa của từ iterum (có thể có nghĩa là "nữa" hay "lần thứ hai, một lần nữa") trong điều 917 của Bộ Giáo luật. Cơ quan phụ trách giải thích luật của Tòa Thánh đã quyết định rằng nó có nghĩa là "lần thứ hai, một lần nữa". Do đó, ngoại trừ trong trường hợp của ăn đàng cho người hấp hối, việc rước lễ lần thứ hai chỉ được phép trong Thánh lễ, chứ không phải ở bất cứ buổi cử hành bí tích nào. Việc rước lễ ngoài Thánh Lễ không phải, nói cho chính xác, là một bí tích. Thuật ngữ này chỉ áp dụng cho cử hành Thánh Thể mà thôi. (Zenit.org 30-8, 13-9 và 27-9-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật C hiêm/Niệm/Thiền: Thuyền Côi
Nguyễn Trung Tây Lm
09:11 07/02/2018
Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
Lênh đênh một mảnh thuyền côi!
Bơ vơ lạc lõng trên con đường trần!
Bao giờ ghé bến bình an?
Thuyền côi đỗ bến, vui an trong Ngài!
(NTT)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 06/02/2018: ĐTC khẳng định cho vay ăn lời cắt cổ là một tội nghiêm trọng
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:20 07/02/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Theo thông báo của Văn Phòng Các Nghi Lễ Phụng Vụ của Đức Giáo Hoàng, Mùa Chay tại Vatican sẽ bắt đầu với cuộc rước kiệu sám hối vào ngày Thứ Tư Lễ Tro 14 tháng Hai.
Lúc 4:30 chiều, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự cuộc rước kiệu sám hối từ nhà thờ thánh Anselmo của dòng Biển Đức tới đền thờ thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh.
Đi trong đoàn rước với Đức Thánh Cha, sẽ có đông đảo các Hồng Y và Giám Mục trong giáo triều Rôma, các tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh. Trên quãng đường dài 500 mét, các vị sẽ vừa đi vừa hát kinh cầu các thánh, và thánh ca thống hối.
Tại Vương cung Thánh Đường thánh nữ Sabina, có từ thế kỷ thứ Năm, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế với các Hồng Y và Giám Mục, trước sự tham dự của linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Chiều Chúa Nhật 18 tháng 2, Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh sẽ rời Vatican đi tĩnh tâm mùa chay cho đến sáng thứ sáu, 23 tháng 2.
Giống như các năm trước, các vị dùng xe bus để tới trung tâm “Nhà Thầy Chí Thánh” (Casa Divin Maestro) của tu đoàn thánh Phaolo ở Ariccia, cách Roma khoảng 30 cây số về hướng nam.
Tuần tĩnh tâm bắt đầu lúc 6 giờ chiều với buổi Chầu Mình Thánh Chúa và kinh chiều. Những ngày sau đó có kinh sáng lúc 7 giờ rưỡi, tiếp đến là bài suy niệm thứ I lúc 9 giờ rưỡi, rồi thánh lễ đồng tế.
Ban chiều lúc 6 giờ có bài suy niệm thứ II, tiếp đến là Chầu Thánh Thể và kinh chiều.
Sáng thứ Sáu 23 tháng 2, sẽ có thánh lễ lúc 7 giờ rưỡi và một bài kết thúc lúc 9 giờ rưỡi.
Tuần tĩnh tâm của giáo triều Rôma đã được khởi xuớng từ năm 1929 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI. Trong thời gian đầu giáo triều dự tĩnh tâm vào Mùa Vọng. Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã đổi sang tĩnh tâm vào tuần thứ nhất Mùa Chay.
2. Lễ tuyên phong Chân Phước cho anh Teresio Olivelli, giáo dân bị giết trong trại tập trung Đức Quốc Xã
Một giáo dân người Ý, là anh Teresio Olivelli, bị giết chết trong một trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi Thế chiến II vì đức tin, đã được phong Chân Phước vào ngày thứ Bẩy 3 tháng 2 tại Vigevano, Italia.
Anh Teresio Olivelli, sinh ngày 7 tháng Giêng 1916. Anh đã từng tham gia trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha vào năm 1936 để bênh vực Giáo Hội và sau đó chiến đấu chống phát xít Ý và Đức Quốc Xã tại Nga. Năm 1943, anh bị trục xuất từ Nga sang Áo và trốn thoát được về Milan thành lập một tờ báo Công Giáo bí mật ở thành phố này. Anh bị bắt ngày 27 tháng Tư 1944. Anh bị hành hạ dã man nhưng không khai ra những người trong tổ chức kháng chiến của mình nên bị đưa vào danh sách tử hình vào tháng 7, 1944. Anh trốn thoát được nhưng vài ngày sau lại bị bắt.
Teresio Olivelli bị trục xuất sang Đức vào tháng 8, năm 1944 và qua đời ở thành phố Hersbruck, ở tuổi 29, vào ngày 12 tháng Giêng năm 1945 sau khi cố gắng bảo vệ một tù nhân trẻ người Ukraine bị đánh đập tàn nhẫn.
Lễ phong Chân Phước cho anh đã diễn ra tại Cung Thể thao Vigevano, do Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng Trưởng Bộ Tuyên Thánh chủ sự.
Trong bài giảng thánh lễ Đức Hồng Y Amato nói:
“Nói về Teresio Olivelli, là nói về một thanh niên trẻ tuổi nhiệt tình đối với đức tin và là một người yêu mến thiết tha tổ quốc mình ... Trong khi tham chiến ở mặt trận bên Nga và cả trong các trại tập trung, sự thanh khiết của đức tin đơn sơ của anh, đầy thuyết phục và làm cảm động nhiều người. Anh yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội, yêu mến Đức Giáo Hoàng, và yêu thương những người khác với một lòng bác ái như Chúa Giêsu đã từng dạy. Lòng bác ái là cấu trúc hình thành nên cuộc đời anh”
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã vinh danh Teresio trong huấn từ của ngài trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 4 tháng Hai. Ngài nói:
“Vị tân Chân phước đã làm chứng cho Chúa Kitô qua tình yêu thương dành cho những người yếu thế, và ngài kết hiệp với hàng ngũ đông đảo các vị tử đạo trong thế kỷ vừa qua. Cầu xin cho sự hy sinh anh dũng của ngài là hạt giống cho hy vọng và tình huynh đệ nhất là cho những người trẻ.”
3. Bối cảnh Hội Nghị: “Đương đầu với bạo lực nhân danh tôn giáo”
Tháng 10 năm 2016, quân Iraq mở cuộc tấn công vào vùng bình nguyên Ninivê. Đầu tháng Giêng 2017, bọn khủng bố Hồi Giáo IS bị vây chặt trong thành Mosul. Những biến chuyển ấy khiến nhiều người lạc quan tin rằng làn sóng bách hại các Kitô hữu trên thế giới sẽ phải chậm lại. Nhưng không, tổ chức Open Doors vừa công bố một báo cáo cho thấy 3,066 Kitô hữu đã bị giết vì niềm tin Kitô của mình trong năm ngoái 2017, nhiều gấp hai lần năm 2016.
Tất cả 11 nước vẫn thường được xem là bạc đãi các Kitô hữu nhất giờ đây đều được coi là những nơi bách hại dã man hơn bao giờ hết trong 26 năm theo dõi của Open Doors. Dựa trên các dữ liệu về năm lĩnh vực của cuộc sống - cuộc sống riêng tư, gia đình, cộng đồng, quốc gia và Giáo Hội, Open Doors khẳng định rằng trên toàn thế giới có đến 50 quốc gia nơi sự bách hại các tín hữu Kitô đã lên đến mức cực đoan một cách đáng báo động.
Bắc Triều Tiên vẫn giữ vị trí số một trong việc khủng bố các Kitô hữu, theo sau là Afghanistan và Somalia, nơi mà các Kitô hữu thường xuyên phải gánh chịu những hình thái bạo lực của người Hồi giáo.
Báo cáo mới nhất của Open Doors nêu bật những mức độ bức hại chưa từng thấy ở Ai Cập, là nơi năm ngoái có hơn 200 Kitô hữu bị đuổi ra khỏi nhà và 128 người bị giết vì đức tin của họ. Ai Cập là nơi sinh sống của cộng đồng Coptic lớn nhất ở Trung Đông, phần lớn là người theo Chính Thống Giáo. Trong ngày Giáng sinh vừa qua, các Kitô hữu đã tham dự các nghi lễ cùng với những người lính giữa các hàng rào an ninh nghiêm nhặt. Lễ Phục Sinh năm ngoái hai vụ đánh bom nhà thờ đã giết chết 49 người.
Theo những tác giả của báo cáo này, việc bọn khủng bố Hồi giáo bị đẩy lùi khỏi Iraq và Syria đã góp phần làm gia tăng mức độ bạo lực ở các nước xung quanh.
Cựu Giám đốc điều hành của Open Doors tại Vương quốc Anh và Ái Nhĩ Lan là bà Lisa Pearce nói: “Kitô hữu ở Ai Cập đang phải đối mặt với một sự phân biệt và đe dọa nặng nề, nhưng họ quyết liệt không chối bỏ niềm tin của mình. Chúng ta những người sống ở Anh và Ái Nhĩ Lan khó tưởng tượng hết nổi những khía cạnh đau thương mà họ phải gánh chịu.”
Bà nói rằng các hình thức phân biệt đối xử bao gồm việc không có việc làm, bị từ chối giấy phép quy hoạch gia cư và là mục tiêu của các cuộc tấn công khi họ đi nhà thờ.
Danh sách của Open Doors cũng nhấn mạnh đến trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, là nước trong ba năm gần đây đã tăng đều đặn lên đến hạng 31 trong năm nay.
Các khu vực đáng quan tâm khác là chủ nghĩa cực đoan Hindu ở Ấn Độ và Nepal, cũng như xu hướng bách hại đang nổi lên ở Đông Nam Á, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo ở Malaysia.
Theo báo cáo, cuộc bách hại tiếp tục gia tăng trên khắp châu Phi, với Sudan, Somalia, Eritrea và Libya là những quốc gia trong số 11 nước tồi tệ nhất.
4. Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô với các tham dự viên Hội Nghị: “Đương đầu với bạo lực nhân danh tôn giáo”
Lúc 9 giờ 30 sáng thứ Sáu 2 tháng 2, tại Hội trường Clêmentê của dinh Tông Tòa Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ với các tham dự viên của Hội nghị “Đương đầu với bạo lực nhân danh tôn giáo”.
Trong diễn từ với những người hiện diện, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
Tôi chào đón nồng nhiệt và tôi cảm ơn sự hiện diện của anh chị em. Điều rất quan trọng là các nhà chức trách dân sự và các nhà lãnh đạo tôn giáo có thể gặp nhau để thảo luận làm thế nào để đối phó với các hành vi bạo lực đã và đang được thực hiện dưới danh nghĩa tôn giáo.
Tôi sẽ bắt đầu bằng cách lặp lại những gì tôi thường nói, và đặc biệt là điều tôi đã nói trong chuyến viếng thăm của tôi đến Ai Cập: “Thiên Chúa, Đấng yêu mến sự sống, không ngừng yêu thương con người, và vì thế Người khuyên chúng ta nên từ khước con đường bạo lực như là điều kiện cần thiết cho mọi ‘giao ước’ trần thế. Trên tất cả và đặc biệt trong thời của chúng ta, các tôn giáo được kêu gọi tôn trọng mệnh lệnh này, bởi vì, trước tất cả ước vọng của chúng ta về Đấng Tuyệt đối, điều thiết yếu là chúng ta từ chối bất kỳ ‘sự tuyệt đối hóa’ nào có thể biện minh cho bạo lực. Vì bạo lực là sự phủ nhận của mọi biểu hiện tôn giáo đích thực. Chúng ta có nghĩa vụ tố cáo những vi phạm nhân phẩm và nhân quyền, vạch trần những nỗ lực nhằm biện minh cho mọi hình thức hận thù nhân danh tôn giáo, và lên án những nỗ lực đó như những bức biếm hoạ bôi bác Thiên Chúa” (Diễn từ tại Hội nghị Hoà bình Quốc tế, Trung tâm Hội nghị Al-Azhar, Cairo, ngày 28 tháng 4 năm 2017).
Bạo lực được cổ vũ và được thực hiện nhân danh tôn giáo chỉ có thể làm mất uy tín của chính tôn giáo ấy. Do đó, những thứ bạo lực như thế phải được tất cả mọi người lên án, và nhất là bởi những người có niềm tin tôn giáo thực sự, là những người biết rằng Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, yêu thương và từ bi, và trong Người không có chỗ cho hận thù, oán giận hoặc trả thù trả oán. Người có niềm tin tôn giáo biết rằng trong số những lời báng bổ khốn nạn nhất chống lại Thiên Chúa có tội kêu cầu danh Chúa để biện minh cho tội lỗi và tội ác của mình, kêu cầu Ngài để biện minh cho việc giết người, thảm sát hàng loạt, nô dịch, bóc lột bằng bất cứ hình thức nào, áp bức và bách hại cá nhân hay toàn thể dân chúng.
Người có niềm tin tôn giáo biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh, và rằng không ai có thể viện đến danh Ngài để làm điều ác. Mỗi nhà lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi để lột mặt nạ bất kỳ nỗ lực nào lợi dụng danh Thiên Chúa cho những mục đích không liên quan gì đến Ngài hay vinh quang của Ngài. Chúng ta cần phải chứng tỏ với những nỗ lực không ngừng nghỉ rằng mọi cuộc sống con người đều là thánh thiêng, xứng đáng được tôn trọng, yêu mến, trắc ẩn và liên đới, bất kể sắc tộc, tôn giáo, văn hoá, hoặc ý thức hệ hay xác tín chính trị của người đó.
Việc theo một tôn giáo nào đó không trao thêm phẩm giá hay quyền hành trên các cá nhân nhân khác, và việc không theo một tôn giáo nào cũng không thể vì thế mà bị tước mất hay giảm thiểu phẩm giá và quyền lợi.
Do đó, cần có một cam kết chung của các nhà chức trách dân sự, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các thầy cô giáo và những ai làm việc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và thông tin liên lạc, là phải cảnh báo tất cả những người bị cám dỗ bởi những hình thức tín ngưỡng sai lạc rằng những hình thức bạo lực không thể được xem là việc tuyên xưng một niềm tin tôn giáo đúng với ý nghĩa của danh xưng này.
Điều này sẽ giúp tất cả những người có thiện chí đang tìm kiếm Thiên Chúa có thể gặp gỡ Chúa trong sự thật, gặp gỡ Đấng giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi, hận thù và bạo lực, và gặp gỡ với Đấng muốn sử dụng khả năng sáng tạo và năng lực của mỗi người để truyền bá kế hoạch yêu thương và hòa bình của Ngài, được ban cho tất cả mọi người.
Thưa quý vị, tôi xin lặp lại nơi đây lời cảm ơn của tôi trước sự sẵn sàng tham gia vào việc suy tư và đối thoại về một chủ đề rất quan trọng này, và sự đóng góp các kinh nghiệm chuyên môn cho sự phát triển của nền văn hoá hòa bình luôn đặt nền tảng trên sự thật và tình yêu. Xin Thiên Chúa ban phép lành cho anh chị em và công việc của anh chị em. Cảm ơn anh chị em.
5. Đức Thánh Cha Phanxicô lên án nạn cho vay ăn lời cắt cổ tại Ý
Sáng thứ Bẩy 2 tháng 2, phát biểu với các thành viên của Hiệp Hội Toàn Quốc Chống Cho Vay Ăn Lời Cắt Cổ Italia, Đức Thánh Cha đã lên án việc khai thác tài chính và kêu gọi một nền giáo dục đối phó với nạn cho vay nặng lãi và tham nhũng.
Hiệp Hội “Gioan Phaolô II” Chống Cho Vay Ăn Lời Cắt Cổ của Italia là tổ chức cung cấp các trợ giúp cho các nạn nhân của các hình thức khai thác tài chính.
Cho vay ăn lời cắt cổ là làm nhục và giết người
Đức Thánh Cha nói: “Cho vay ăn lời cắt cổ là làm nhục và giết người. Cho vay nặng lãi là một tội trọng. Nó giết chết cuộc sống, chà đạp nhân phẩm, thúc đẩy tham nhũng, và gây ra những trở ngại cho thiện ích chung.”
Đức Thánh Cha nhận xét rằng loại hình khai thác tài chính này - bao gồm việc cho vay tiền với lãi suất cao một cách bất hợp lý - là một tội ác đã có từ xa xưa và phải được ngăn chặn thông qua giáo dục.
Nhu cầu giáo dục tài chính
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chúng ta cần dạy cho mọi người biết sống một lối sống giản dị, “biết cách phân biệt giữa những gì không cần thiết và những gì cần thiết” là bước đầu tiên để ngăn ngừa sự ác này.
Ngài nói thêm rằng giáo dục tài chính phải làm cho mọi người biết chịu trách nhiệm về hành động của mình và giúp họ đừng mắc nợ vào thân chỉ vì muốn mua sắm những thứ không cần thiết, những thứ mà người ta có thể sống được dễ dàng mà không cần có những thứ ấy.
Đức Thánh Cha nói: “nhân đức khó nghèo và hy sinh” cần phải được tái khám phá vì sự thanh bần giúp ta tránh được tình cảnh làm “nô lệ cho mọi thứ”, trong khi sự hy sinh giải thoát chúng ta khỏi lòng ao ước chiếm hữu được mọi sự trong cuộc sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nói rằng giáo dục chống lại việc cho vay ăn lời cắt cổ phải bao gồm việc thấm nhuần một tư duy trung thực và hợp pháp, cùng với lòng mong muốn giúp đỡ những người túng quẫn thông qua các công việc thiện nguyện.
Lòng biết ơn đối với dịch vụ do Hiệp hội cung cấp
Đức Giáo Hoàng cảm ơn Hiệp Hội Toàn Quốc Chống Cho Vay Ăn Lời Cắt Cổ Italia vì đã phục vụ suốt 26 năm qua trong việc chống lại việc khai thác tài chính.
Ngài nói những nỗ lực của họ đã cứu được hơn 25,000 gia đình và các doanh nghiệp nhỏ khỏi những món nợ nặng lãi và giúp họ khôi phục được nhân phẩm.
“Bằng cách chống lại nạn cho vay nặng lãi và tham nhũng, anh chị em đã có thể truyền tải hy vọng và sức mạnh cho các nạn nhân, để họ có thể phục hồi sự tự tin và thoát ra được tình trạng túng thiếu”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi “một chủ nghĩa nhân bản kinh tế mới,” chấm dứt nền kinh tế bất hợp lý và bất công “giết chết” và làm hạ giá con người đến mức chỉ còn là “các công cụ của một nền văn hoá lãng phí”.
6. Nữ tu bị bắt cóc tại Mali khẩn khoản xin Đức Thánh Cha can thiệp
“Chúng tôi đã xem video và chúng tôi rất vui khi biết sơ ấy còn sống và điều này thúc đẩy chúng tôi tiếp tục những lời cầu nguyện và những nỗ lực của mình để sơ ấy được thả ra”, Đức Cha Jean-Baptiste Tiama, Giám mục giáo phận Sikasso, ở Mali, cho thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc biết như trên sau khi khủng bố Hồi Giáo tung lên Net một video về nữ tu Gloria Cecilia Narvaez Argoti.
Sơ Gloria là nữ tu người Colombia thuộc dòng Thánh Phanxicô của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên tội. Sơ bị bắt cóc vào ngày 8 tháng 2 năm 2017 tại Karangasso ở phía Nam Mali.
Đức Cha Toma nhấn mạnh rằng: “Điều an ủi chúng tôi là thấy rằng sơ Gloria xuất hiện trong tình trạng sức khoẻ tốt và thực tế là sơ ấy đã đề cập đến chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng đến Chí Lợi và Peru làm cho chúng tôi nghĩ rằng video này mới được thu hình gần đây thôi. Và điều này mang lại cho chúng tôi nhiều hy vọng”.
Đức Giám Mục cho biết thêm “vào tuần tới, một năm sau khi sơ Gloria bị bắt cóc, chúng tôi sẽ tổ chức các buổi cầu nguyện. Toàn thể cộng đồng giáo phận sẽ đi đến chỗ sơ bị bắt cóc để cầu nguyện và yêu cầu trả tự do cho sơ”
Tháng 7 năm 2017, nhóm “Ủng hộ Hồi giáo và các tín hữu Hồi” liên kết với Al Qaida cũng đã tung ra một video về nữ tu Gloria.
Trong video mới kéo dài 4 phút 44 giây, nữ tu Gloria đã đề cập đến Đức Thánh Cha Phanxicô và khẩn khoản xin ngài can thiệp để sơ được trả tự do.
7. Vatican cấm cửa nguyên tổng thống Ái Nhĩ Lan
Cựu tổng thống Ái Nhĩ Lan Mary McAleese đã bị cấm không được tham dự một cuộc họp phụ nữ tại Vatican. Để đối phó các nhà tổ chức chuyển cuộc họp này sang một địa điểm khác.
Chantal Götz, giám đốc điều hành Voices of Faith, cho biết nguyên tổng thống McAleese đã không nhận được sự chấp thuận của Đức Hồng Y Kevin Farrell, một người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, là Tổng Trưởng Bộ Gia đình và Cuộc sống.
Chantal Götz nói với tờ Irish Times: “Đức Hồng Y Farrell gửi lại cho tôi danh sách những người mà ngài cho phép. Mary McAleese và hai người khác đã không được tham dự. Chúng tôi đã thuyết phục ngài nhưng thật không may, những nỗ lực của chúng tôi đã không khiến cho Đức Hồng Y đổi ý.”
Một trong những người bị cấm khác là Ssenfuka Joanita Warry, một nhà hoạt động đồng tính người Uganda.
Thay vì loại bỏ các diễn giả, các nhà tổ chức đã chuyển cuộc họp tới trụ sở của Dòng Tên ở ngay bên ngoài Vatican.
Một phát ngôn viên của bà McAleese nói với tờ Crux rằng bà cựu tổng thống đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng về vấn đề này và hiện đang chờ câu trả lời, và trong lúc này bà sẽ không đưa ra bất kỳ bình luận nào thêm.
Cựu tổng thống Ái Nhĩ Lan Mary McAleese, năm nay 66 tuổi, là tổng thống thứ 8 của Cộng Hoà Ái Nhĩ Lan trong nhiệm kỳ 1997 – 2011. Tuy là người Công Giáo, bà thường xuyên chế nhạo các giáo huấn của Công Giáo về hôn nhân đồng tính, an tử và trợ tử.
8. Hội Đồng Giám Mục Colombia lên tiếng về nền hòa bình mong manh của quốc gia này
Chỉ chưa đầy 24 giờ, các phiến quân cộng sản đã mở 3 cuộc tấn công vào 3 trạm cảnh sát trên bờ biển Caribê của Colombia.
“Các sự kiện như thế không thể đe dọa chúng tôi, họ không thể làm cho chúng tôi rơi vào thất vọng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi sống chung với nhau, như những anh chị em và chúng ta phải tôn trọng lẫn nhau và đánh giá cao mạng sống của mọi người”, Đức Cha Pablo Emiro Salas Anteliz, Tổng giám mục Barranquilla, nói trong một tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Colombia, được gửi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.
Vụ tấn công đầu tiên xảy ra vào những giờ sáng sớm thứ Bảy, 27 Tháng Giêng. Du kích cộng sản của cái gọi là Quân Đội Giải Phóng Quốc Gia, viết tắt là ELN đã tấn công dữ dội vào đồn cảnh sát San Jose ở phía nam Barranquilla, giết chết 5 cảnh sát viên và làm bị thương 41 người khác, nhiều người trong số này đang trong tình trạng nghiêm trọng.
Tối hôm đó, một cuộc tấn công khác xảy ra tại trạm biến áp Buenavista ở Santa Rosa, phía Nam Bolivar, làm 2 cảnh sát viên thiệt mạng.
Mờ sáng ngày 28 tháng Giêng, một vụ tấn công thứ ba diễn ra tại đồn cảnh sát của thành phố Soledad, Atlántico, gây thương tích cho 7 người.
“Chúng ta đặt tất cả các nạn nhân của những vụ tấn công này trong tay Chúa.” Đức Tổng Giám Mục Anteliz nói. Ngài nói thêm rằng các Giám Mục Colombia “khuyến khích tất cả mọi người bình tĩnh đừng để những sự kiện này ảnh hưởng đến con đường hòa bình.”
Đầu tháng 9 năm ngoái 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tông du nước này và cố gắng thuyết phục dân chúng Colombia chấp nhận một thoả hiệp ngừng bắn với lực lượng du kích FARC. ELN là nhóm du kích cộng sản lớn thứ hai sau FARC. Đến nay, chính quyền nước này vẫn chưa đạt được một thoả thuận hòa bình với nhóm ELN.
Trước khi giã từ Colombia, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em thân mến, tôi muốn để lại cho anh chị em một từ cuối cùng. Chúng ta không hài lòng với ‘bước đầu tiên’. Thay vào đó, chúng ta hãy tiếp tục cuộc hành trình mới mỗi ngày, đi gặp người khác và khuyến khích sự hòa hợp và tình huynh đệ. Chúng ta không thể đứng yên.
Anh chị em thân mến, Colombia cần đến anh chị em. Hãy tiến ra ngoài để gặp gỡ họ. Dẫn dắt họ đến việc chấp nhận hòa bình, không bạo lực. Hãy là ‘những nô lệ của hòa bình, mãi mãi’. Hãy là ‘NHỮNG NÔ LỆ CỦA HÒA BÌNH, MÃI MÃI’”
9. Các Giám Mục El Salavador đến Hoa Kỳ để tìm cách giúp các di dân bất hợp pháp
Một phái đoàn gồm bốn giám mục của El Salavador sẽ đến Hoa Kỳ để gặp các Giám mục Mỹ, với mục đích phối hợp các hành động nhằm giúp giải quyết tình trạng di dân của những người Salvador đang ở trong tình trạng được bảo vệ tạm thời (TPS). TPS là một chính sách của Hoa Kỳ nhằm giúp công dân các quốc gia bị ảnh hưởng bởi thiên tai hoặc các vấn đề nội bộ khác.
Hội Đồng Giám Mục Salvador đã công bố như trên vào lúc kết thúc hội nghị khoáng đại thường niên hôm 27 tháng Giêng.
Thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết tình trạng pháp lý của những người nhập cư Salvador ở Hoa Kỳ và những cuộc bầu cử vào tháng 3 năm tới là hai vấn đề chính trị và xã hội quan trọng nhất mà các Giám mục đã thảo luận.
Hôm 8 tháng Giêng, Hoa Kỳ tuyên bố rằng có 195,000 người Salvador được bảo vệ theo luật TPS. Họ sẽ có thời gian cho đến tháng 9 năm 2019 để rời khỏi Hoa Kỳ hoặc hợp thức hóa tình trạng của họ. Tuy nhiên, theo các cuộc khảo sát gần đây, 2 triệu người Salvador đang sống bất hợp pháp trên đất Mỹ.
Đức Tổng Giám Mục José Luis Escobar Alas của thủ đô San Salvador nói:
“Cùng với các Giám mục Hoa Kỳ, những người đã ủng hộ chúng tôi rất nhiều, chúng tôi muốn cố gắng tạo một ảnh hưởng nào đó với các quan chức dân sự, để tìm ra giải pháp phù hợp với các anh chị em Salvador của chúng tôi”.
10. Cộng đoàn Thánh Edigio mở trường cho các thiếu nhi Rohingya tị nạn
Người Rohingya sống trong những chòi tre nhỏ bé làm bằng tre nứa và những miếng vải nhựa trong các trại tị nạn; nước uống và thực phẩm vẫn còn rất khan hiếm. Có hơn 500,000 trẻ em đang khao khát một tương lai không hề tồn tại. Tôi vừa mới đến thăm các trại tị nạn Rohingya ở Bangladesh: gần một triệu người đã trốn khỏi Miến Điện để thoát chết. Để đáp lại nhu cầu lớn lao của trẻ em, chiếm hơn một nửa số người Rohingya trong các trại, cộng đoàn Thánh Egidio đã mở một trường học cho 300 trẻ em trong trại tị nạn Jamtholi”. Ông Alberto Quattrucci, một phái viên của cộng đoàn Thánh Egidio ở Bangladeh, đã cho thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, biết như trên sau chuyến viếng thăm các trại tị nạn dành cho những người Rohingya trốn khỏi Miến Điện.
Ông Quattrucci nói tiếp: “Những người lính Miến Điện đã phá hủy các ngôi làng của người Rohingya, đốt nhà cửa của họ, tra tấn những người đàn ông và hãm hiếp phụ nữ, giết chết hơn 7,000 người chỉ trong năm ngoái mà thôi. Vì vậy, người Rohingya phải bỏ trốn mang theo gia đình hoặc những gì còn sót lại với họ. Đây là những người không có quốc tịch đông nhất trên thế giới. Đó là những người không tồn tại về mặt pháp lý và do đó không có bất kỳ quyền lợi nào. Chúng ta đang nói về chính sách thanh lọc sắc tộc bi đát nhất trong thế kỷ của chúng ta”.
Một hạt giống hy vọng, trong tình huống bi thảm này, là một trường mới vừa được khởi động ở trại tị nạn Jamtholi. Nhà trường mở cửa sáu ngày một tuần, từ thứ Bảy đến thứ Năm, nghỉ ngày thứ Sáu, từ 9 giờ đến 3 giờ chiều, gồm ba ca, mỗi ca dành cho 100 đứa trẻ. Khác với các Kitô hữu, người Hồi Giáo nghỉ vào ngày thứ Sáu thay vì Chúa Nhật.
Ông Quattrucci giải thích rằng các giáo viên là bốn người tị nạn Rohingya. Họ là những giáo viên ở bang Rakhine Miến Điện trước khi trốn sang Bangladesh. Các lớp học đang được tổ chức tại một túp lều tạm thời, trong khi chờ đợi ngày khởi công xây dựng một ngôi trường rộng rãi và ổn định hơn trên một mảnh đất đã được chính quyền cho phép.
11. Ba Lan thông qua dự luật về Holocaust gây khó chịu cho Do Thái
Các nhà lập pháp Ba Lan đã thông qua một dự luật vào hôm thứ Năm 1 tháng Hai theo đó chính quyền sẽ áp đặt lệnh bắt giam với những ai cho rằng Ba Lan đã đồng lõa với Đức Quốc Xã trong cuộc tàn sát người Do Thái. Diễn biến này thu hút sự quan tâm của Hoa Kỳ và sự phẫn nộ từ Israel với những cáo buộc cho rằng Ba Lan đang cố gắng “thay đổi chân lý lịch sử”.
Đảng Pháp Luật và Công Lý là đảng đang cầm quyền tại Ba Lan cho biết dự luật này là cần thiết để bảo vệ danh tiếng của Ba Lan và bảo đảm rằng các nhà sử học nhận ra rằng không chỉ có người Do Thái mà rất đông người Ba Lan cũng đã bị giết hại dưới thời Đức Quốc xã.
Thượng viện đã bỏ phiếu cho dự luật vào những giờ đầu của ngày thứ Năm và sẽ được gửi đến Tổng thống Andrzej Duda, để ký ban hành luật này trong vòng 21 ngày.
Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki cho biết: “Cái chết và những đau khổ ở các trại tập trung Đức Quốc xã là một kinh nghiệm được chia sẻ giữa người Do Thái, Ba Lan và nhiều quốc gia khác, và thêm rằng Ba Lan sẽ không bao giờ giới hạn cuộc tranh luận về cuộc diệt chủng người Do Thái, hay thường được gọi là Holocaust.
Phó Thủ tướng Beata Szydlo cho biết hôm thứ Tư trước cuộc bỏ phiếu rằng “Tất cả người dân Ba Lan đều có nghĩa vụ bảo vệ danh tiếng của đất nước”.
Tổng thống Andrzej Duda chưa cho biết liệu ông sẽ ký vào dự luật này hay không, nhưng ông đã gợi ý rằng ông có thiện cảm với mục đích của dự luật này. Ông nói với truyền hình nhà nước vào hôm thứ Hai: “Vấn đề cần được giải thích một cách bình tĩnh, nhưng chúng ta hoàn toàn không thể quay trở lại.”
Dự luật này sẽ áp dụng hình phạt tù ba năm với bất cứ ai sống trên lãnh thổ Ba Lan đề cập đến cụm từ “trại tử thần Ba Lan”, mặc dù dự luật bảo đảm rằng các nghiên cứu khoa học về chiến tranh thế giới thứ hai sẽ không bị hạn chế.
Bộ Ngoại giao Israel hôm thứ Năm cho biết Israel “cương quyết phản đối” dự luật này.
12. Dịch cúm lan rộng khiến nhiều giáo phận Hoa Kỳ yêu cầu các tín hữu đừng bắt tay trao bình an, gật đầu thôi là đủ
Sự bùng phát dịch cúm ở Hoa Kỳ đã thúc đẩy các giáo phận phải thực hiện các bước cần thiết trong đó có việc đình chỉ các nghi thức truyền thống nhằm ngăn chặn sự lan truyền của vi khuẩn càng nhiều càng tốt.
Nhiều giáo phận Mỹ khuyến khích anh chị em giáo dân đừng bắt tay khi trao bình an, nhưng chỉ đơn giản là gật đầu hoặc nở một nụ cười thôi là đủ. Nhiều giáo phận còn làm cạn các bình nước thánh trước tình trạng bệnh cúm lan truyền khắp hầu hết mọi miền đất nước một cách tồi tệ nhất trong gần một thập niên qua.
Các trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh cúm cho biết đông đảo người Mỹ đang bị nhiễm vi khuẩn cúm B, hoặc H3N2. Hàng chục ngàn người đã phải vào bệnh viện từ ngày 1 tháng 10 năm ngoái, khi bắt đầu mùa cúm.
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã dành hẳn một trang trên trang web của mình để hướng dẫn về những liên quan giữa phụng vụ và bệnh cúm. Trang web này cung cấp thông tin về bệnh cúm cũng như cách ngăn ngừa sự lây lan của căn bệnh này trong các buổi cử hành phụng vụ.
Đức Giám Mục Edward Malesic của Greensburg, Pennsylvania, đã khuyên các giáo dân đừng bắt tay nhau khi trao đổi bình an và ngừng sử dụng rượu thánh khi Rước Lễ.
Tại giáo phận El Paso, Texas, phát ngôn viên Patricia Fierro đã gửi một bản ghi nhớ cho tất cả các giáo xứ để các giáo sĩ và anh chị em giáo dân thực hành các biện pháp vệ sinh trong mùa cúm. Đặc biệt, giáo phận yêu cầu anh chị em giáo dân bị bệnh cúm đừng rước Máu Thánh Chúa trong các thánh lễ.
Bà Patricia nói:
“Khi bạn rước lễ, bạn sẽ đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, ngay cả khi bạn chỉ rước Mình Thánh Chúa mà thôi”.
13. Đức Giám Mục giáo phận Saginaw cho biết ngài bị ung thư phổi và xin anh chị em giáo dân cầu nguyện
Đức Cha Joseph Cistone là Giám Mục Saginaw, bang Michigan, Hoa Kỳ đã xin anh chị em giáo dân cầu nguyện cho ngài và thông cảm cho việc thực thi các kế hoạch mục vụ đã được đề ra sau khi các bác sĩ chẩn đoán ngài bị ung thư phổi.
Trong một bức thư gửi các linh mục và các nhà lãnh đạo giáo phận ngày thứ Năm 1 tháng 2, Đức Cha Saginaw nói rằng báo cáo chẩn đoán của ngài được đưa ra sau một loạt các cuộc kiểm tra, sau những cơn ho dai dẳng và tình trạng khó thở kéo dài không dứt từ tháng 9 năm ngoái.
“Trong hai tháng qua, tôi đã trải qua một loạt các xét nghiệm và bây giờ đã được báo cho biết rằng tôi bị ung thư phổi”. Ngài nói thêm: “Tin tốt lành là, vì tôi chưa bao giờ hút thuốc nên nó là một dạng ung thư phổi có thể điều trị được và có khả năng chữa khỏi.”
Đức Cha Cistone là giám mục thứ sáu của giáo phận Saginaw, và được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 bổ nhiệm vào năm 2009. Trước đó, ngài là Giám Mục Phụ Tá Pennsylvania. Ngài được thụ phong linh mục tại Tổng Giáo phận Philadelphia năm 1975, và được bổ nhiệm Giám Mục Phụ Tá vào năm 2004.
Vì phải theo một khóa điều trị kéo dài sáu tuần bao gồm hóa trị và xạ trị, Đức Cha Cistone nói ngài có thể cần phải bỏ qua những sự kiện đã được lên kế hoạch, nhưng ngài có kế hoạch duy trì các trách nhiệm hành chính và sự tham gia của mình vào các mối quan tâm mục vụ “hết khả năng” của ngài.
Ngài cũng lưu ý các giáo xứ không nên thay đổi lịch trình các cuộc thăm viếng của ngài trừ khi họ nhận được những chỉ dẫn trực tiếp từ tòa giám mục.
Đức Cha Cistone được các bác sĩ cho biết rằng những triệu chứng như ho và khó thở sẽ bớt đi trong hai tuần đầu tiên được điều trị. Dự kiến khóa điều trị kéo dài sáu tuần sẽ được hoàn thành trước Lễ Phục Sinh.
Trong thư gởi cho linh mục giáo phận, Đức Cha viết:
“Với ơn Chúa, cầu xin cho chúng ta có thể cùng nhau cử hành Thánh Lễ Dầu với những lời cầu nguyện xuất phát từ lòng biết ơn. Trong khi chờ đợi, tôi cầu xin những lời cầu nguyện của anh em và những giáo dân của anh em, tôi bảo đảm với anh em những lời cầu nguyện của tôi dành cho anh em và những người được ủy thác cho anh em chăm sóc”.
14. Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tháng Hai: Hãy nói “Không” với tham nhũng
Hôm thứ Năm 1 tháng 2, Hội Cầu Nguyện Toàn Cầu Theo Ý Đức Thánh Cha - The Pope’s Worldwide Prayer Network - đã công bố một đoạn băng video trình bày các ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong tháng 2 năm 2018.
Chủ đề của tháng này là “Nói 'Không' với tham nhũng”, và xin cho những người có quyền lực vật chất, chính trị hoặc tinh thần biết chống lại những cám dỗ tham nhũng.
Trong video, Đức Thánh Cha nói:
Đâu là căn cội của chế độ nô lệ, của tình trạng thất nghiệp và sự thiếu quan tâm đến thiên nhiên cũng như sự lơ là với công ích? Đó chính là tham nhũng. Tham nhũng là một quá trình chết chóc, là điều nuôi dưỡng nền văn hóa sự chết.
Bởi vì lòng khao khát quyền lực và của cải thì bất tận.
Không thể chống lại tham nhũng bằng sự im lặng.
Chúng ta phải nói về nó, tố cáo những điều xấu xa của nó, và cố gắng hiểu nó để thể hiện quyết tâm của chúng ta là làm cho lòng thương xót thống trị trên sự bất công, và vẻ đẹp chiến thắng sự trống rỗng.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người có quyền lực vật chất, chính trị hoặc tinh thần biết chống lại những cám dỗ tham nhũng.
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Năm 8/2/2018
VietCatholic Network
20:12 07/02/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria.
Kính thưa quý vị và anh chị em, trước thềm năm mới Mậu Tuất 2018, các anh chị em chương trình Video Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay xin kính chúc đến quý Hồng Y, quý Đức Cha, quý Linh Mục, quý Tu sĩ và quý khán thính giả một năm mới an khang thịnh vượng, tài đức và bình an. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính sau đây:
1- Tiếp Kiến Chung với Đức Thánh Cha, thứ Tư ngày 7 tháng 2 năm 2018.
2- Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi chúng ta ngay từ bây giờ hãy học để làm gì trên thiên đàng: Thờ Lạy!
3- Đức Thánh Cha kêu gọi ngày 23 tháng 2 là ngày cầu nguyện và ăn chay cho Hòa bình.
4- Luật giữ chay và kiêng thịt ngày Thứ Tư Lễ Tro và Tết năm nay.
5- Sau hơn nửa thế kỷ, Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ gặp Đức Giáo Hoàng tại Vatican.
6- Thượng viện Hoa kỳ bác bỏ luật mới về việc cấm phá thai sau 20 tuần.
7- Trung quốc áp dụng luật mới hạn chế các hoạt động tôn giáo.
8- Liên đoàn Công Giáo Việt Nam miền Tây Nam Hoa Kỳ mời tham dự mừng Tết Mậu Tuất 2018.
9- Giới thiệu bài hát về Xuân: Xuân Đã Về.
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết:
Sứ điệp Mùa Chay 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:14 07/02/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là một câu trích từ Tin Mừng theo thánh Mathêu: “Vì sự ác lan tràn, nên lòng mến của nhiều người sẽ ra nguội lạnh” (Mt 24,12).
Chúa Giêsu nói điều này khi trả lời các câu hỏi của các môn đệ. Ngài cảnh báo rằng đứng trước những thử thách đau thương, các tiên tri giả sẽ dẫn dắt nhiều người lầm đường lạc lối; và lòng mến, là cốt lõi của Tin Mừng, sẽ trở nên giá băng trong tâm hồn của nhiều người.
Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ toàn văn Sứ điệp Mùa Chay 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô
“Vì sự ác lan tràn, nên lòng mến của nhiều người sẽ ra nguội lạnh.” (Mt 24:12)
Anh chị em thân mến,
Một lần nữa, lễ Vượt Qua của Chúa đang đến gần! Trong hành trình chuẩn bị cho Lễ Phục Sinh, Thiên Chúa, với sự quan phòng của Ngài, ban cho chúng ta mỗi năm một mùa Mùa Chay như một “dấu chỉ bí tích sự hoán cải của chúng ta”. [1] Mùa Chay thôi thúc chúng ta, và cho chúng ta cơ hội trở về với Chúa hết lòng và trong mọi khía cạnh của cuộc đời chúng ta.
Với sứ điệp này, năm nay tôi muốn một lần nữa giúp toàn thể Giáo Hội trải nghiệm thời gian ân sủng này một cách mới mẻ, với niềm vui và trong chân lý. Tôi sẽ lấy ý từ những lời của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Matthêu: “Vì sự ác lan tràn, nên lòng mến của nhiều người sẽ ra nguội lạnh” Mt (24:12).
Những lời này xuất hiện trong lời giảng của Đức Kitô về ngày thế mạt. Ngài đã nói những lời này tại Giêrusalem, trên Núi Ô-liu, nơi cuộc thương khó của Chúa sẽ bắt đầu. Đáp lại câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu đã tiên báo một đại nạn và mô tả về một tình huống trong đó cộng đồng các tín hữu có thể thấy rõ: đó là đứng trước những thử thách đau thương, các tiên tri giả sẽ dẫn dắt nhiều người lầm đường lạc lối; và lòng mến, là cốt lõi của Tin Mừng, trở nên giá băng trong tâm hồn của nhiều người.
Các tiên tri giả
Chúng ta hãy lắng nghe đoạn Phúc Âm này và cố gắng hiểu chiêu thức mà các tiên tri giả này có thể tung ra.
Họ có thể xuất hiện như “những kẻ thổi kèn dụ rắn”, những người thao túng cảm xúc con người để bắt những người khác làm nô lệ và dẫn dắt người ta đến những nơi mình muốn. Có bao nhiêu con cái của Thiên Chúa bị mê hoặc bởi những thú vui tạm thời, nhầm tưởng những thứ ấy là hạnh phúc thật sự! Có bao nhiêu cuộc đời của những người nam nữ bị hớp hồn bởi ước mơ giàu có, mà chung cuộc chỉ là làm nô lệ cho những lợi nhuận và những ham muốn nhỏ nhen! Có bao nhiêu người trong cuộc đời tin rằng mình có đủ mọi thứ, nhưng cuối cùng chỉ chìm đắm trong cô đơn!
Các tiên tri giả cũng có thể là “những lang băm”, những người đưa ra các giải pháp dễ dàng và tức khắc cho những đau khổ, nhưng những thứ giải pháp ấy chỉ sớm cho thấy chúng cực kỳ vô ích. Có bao nhiêu người trẻ bị mê hoặc bởi những thứ thuốc chữa bách bệnh, bởi các mối quan hệ qua đường, và những lợi ích dễ dàng nhưng không trung thực! Có bao nhiêu người chìm đắm trong một cuộc sống hoàn toàn là “ảo”, với những mối quan hệ xem ra chóng vánh và đơn giản, nhưng chung cuộc chỉ là vô nghĩa! Những kẻ lừa đảo này, khi bán rong những thứ không có giá trị thực sự, đang cướp đi tất cả những gì quý giá nhất như phẩm giá, tự do và khả năng yêu thương. Họ thu hút thói phù hoa của chúng ta, lòng tin tưởng của chúng ta vào vẻ bề ngoài, nhưng cuối cùng họ chỉ lừa đảo chúng ta. Chúng ta cũng không nên ngạc nhiên. Để làm ngỡ ngàng tâm hồn con người, ma quỷ là “đứa quỷ quyệt và là cha của những lời dối trá” (Ga 8:44), đã luôn luôn ngụy trang điều ác như là sự thiện, và điều giả dối như là chân lý. Đó là lý do tại sao mỗi người trong chúng ta đều được kêu gọi để nhìn vào con tim của mình để xem liệu chúng ta có phải đang là con mồi của những lời giả trá của các nhà tiên tri giả này hay không. Chúng ta phải học cách nhìn cho kỹ, bên dưới bề mặt, và học cách nhận ra những gì để lại một dấu vết tốt đẹp và lâu dài trong trái tim chúng ta, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự vì lợi ích của chúng ta.
Một trái tim lạnh lùng
Trong mô tả về địa ngục của mình, Dante Alighieri hình dung ma quỷ ngồi trên một chiếc ngai làm bằng băng đá, [2] trong sự cô lập lạnh lùng và không có tình yêu. Chúng ta cũng có thể tự hỏi chính mình lòng mến có thể băng giá trong tâm hồn chúng ta như thế nào. Những dấu hiệu nào cho thấy rằng lòng mến của chúng ta đang bắt đầu nguội lạnh?
Hơn bất cứ điều nào khác, lòng tham lam tiền của, là “cội rễ của mọi điều ác” (1 Tim 6:10), giết chết lòng mến trong ta. Sự chối bỏ Thiên Chúa và sự bình an của Người là nguyên nhân thứ hai; chúng ta thích sự cô đơn của chúng ta hơn là niềm ủi an được tìm thấy trong lời Ngài và các bí tích. [3] Tất cả những điều này dẫn đến bạo lực chống lại bất cứ ai chúng ta nghĩ là mối đe dọa cho “sự chắc chắn” của chúng ta chẳng hạn như các thai nhi chưa chào đời, những người cao niên và những người đau ốm, những người di cư, những ngoại kiều sống giữa chúng ta, và cả những người hàng xóm của chúng ta nhưng không sống theo những mong đợi của chúng ta.
Chính thiên nhiên cũng trở thành một chứng tá im lặng cho sự băng giá lòng mến này. Trái đất bị đầu độc bởi rác rưởi người ta loại ra vì xem thường hoặc vì tư lợi cá nhân. Các vùng biển, chính chúng cũng bị ô nhiễm, vùi chôn thi hài của cơ man các nạn nhân bị đắm tàu do nạn di cư cưỡng bách. Thiên đàng trần thế, theo kế hoạch của Thiên Chúa, được tạo ra để hát vang những lời tán tụng Ngài, lại bị gầm rú bởi các động cơ đang đổ xuống như mưa các khí cụ của sự chết.
Lòng mến cũng có thể trở nên băng giá trong cộng đồng của chúng ta. Trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, tôi đã tìm cách mô tả những dấu chỉ hiển nhiên nhất về tình trạng thiếu lòng mến này: đó là thói ích kỷ và sự lười biếng tinh thần, chủ nghĩa bi quan vô sinh, cám dỗ tự quy chiếu, chiến tranh không dứt giữa chúng ta và cái não trạng trần tục khiến chúng ta chỉ quan tâm đến vẻ bề ngoài, và do đó giảm bớt nhiệt tình truyền giáo của chúng ta. [4]
Chúng ta phải làm gì?
Có lẽ chúng ta nhìn thấy, thẳm sâu trong chính chúng ta và toàn bộ chúng ta, những dấu chỉ tôi vừa mô tả. Nhưng Giáo Hội, là Mẹ và là Thầy của chúng ta, cùng với phương dược thường khi rất là cay đắng của sự thật, đem đến cho chúng ta trong Mùa Chay này những phương thuốc chữa lành trong lời cầu nguyện, bố thí và chay tịnh.
Bằng cách dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện, chúng ta có thể nhổ tận gốc khỏi con tim mình những lời dối trá bí ẩn và những hình thức tự lừa dối, [5] và rồi tìm thấy niềm an ủi mà Chúa mang đến cho chúng ta. Ngài là Cha của chúng ta và Ngài muốn chúng ta sống tốt đẹp.
Sự bố thí giải thoát chúng ta khỏi lòng tham và giúp chúng ta xem người hàng xóm là anh chị em với mình. Những gì tôi sở hữu không bao giờ là của tôi mà thôi. Tôi muốn bố thí trở thành một phong cách sống chân thực của mỗi người chúng ta biết là ngần nào! Tôi mơ ước biết bao là chúng ta, trong tư cách là các Kitô hữu, noi theo gương của các Tông Đồ và coi việc chia sẻ của cải như một chứng tá hữu hình về sự hiệp thông trong Giáo Hội! Vì lý do này, tôi nhắc lại lời mời gọi của Thánh Phaolô gởi đến dân thành Côrintô để quyên góp cho cộng đồng Giêrusalem như một điều gì đó mà họ sẽ được hưởng lợi (xem 2Cor 8:10). Điều này phù hợp hơn trong Mùa Chay, khi có nhiều nhóm quyên góp để trợ giúp các Giáo Hội và những người có nhu cầu. Tuy nhiên, tôi cũng hy vọng rằng, ngay cả trong những cuộc gặp gỡ hàng ngày của chúng ta với những người cầu xin sự trợ giúp của chúng ta, chúng ta sẽ xem những thỉnh cầu như thế đến từ chính Thiên Chúa. Khi chúng ta bố thí, chúng ta chia sẻ sự quan tâm chăm sóc của Chúa cho mỗi con cái của Ngài. Nếu thông qua tôi, Chúa giúp ai đó ngày hôm nay, chẳng lẽ mai kia Ngài lại không ban cho tôi những thứ tôi cần sao? Vì không ai rộng lượng hơn Thiên Chúa. [6]
Chay tịnh làm yếu đi xu hướng bạo lực của chúng ta; nó giải giới chúng ta và trở thành một cơ hội quan trọng cho sự tăng trưởng. Một mặt, chay tịnh cho phép chúng ta trải nghiệm những gì mà người nghèo khó và đói khát phải chịu đựng. Mặt khác, chay tịnh thể hiện sự đói khát thiêng liêng của chúng ta và lòng khao khát cuộc sống trong Chúa. Chay tịnh thức tỉnh chúng ta. Nó làm cho chúng ta chú ý hơn đến Thiên Chúa và người láng giềng của mình. Chay tịnh làm sống lại trong ta mong muốn vâng lời Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn cơn đói của chúng ta.
Tôi cũng muốn đưa ra lời mời gọi của mình vượt ra ngoài giới hạn của Giáo Hội Công Giáo, để đến với tất cả các bạn, những người nam nữ thiện chí, những người sẵn lòng lắng nghe tiếng Chúa. Có lẽ, như chúng tôi, bạn cũng đang hoang mang trước sự lây lan của sự ác trên thế giới, bạn quan tâm đến sự băng giá đang làm tê liệt những con trái tim và các hành động, và bạn cảm thấy ý thức của chúng ta như là thành viên của cùng một gia đình nhân loại đang yếu dần đi. Vậy, hãy hiệp cùng với chúng tôi dâng lời cầu khẩn lên cùng Thiên Chúa, chay tịnh, và trao ban bất cứ điều gì bạn có thể cho những anh chị em chúng ta đang cần đến!
Lửa Phục Sinh
Trên hết, tôi thúc giục các thành viên của Giáo Hội hãy thực hiện hành trình Mùa Chay với nhiệt tình, được duy trì bởi bố thí, chay tịnh và cầu nguyện. Nếu, đôi khi, lửa mến dường như tắt lịm trong trái tim chúng ta, anh chị em hãy biết rằng điều đó không bao giờ xảy ra trong thánh tâm Thiên Chúa! Ngài liên tục ban cho chúng ta một cơ hội để tái yêu thương lại một cách mới mẻ.
Một trong những khoảnh khắc của ân sủng đó lại một lần nữa xảy đến trong năm nay là sáng kiến “24 Giờ cho Chúa”, trong đó mời gọi toàn thể cộng đồng Hội Thánh hãy cử hành bí tích Hòa Giải trong bối cảnh tôn thờ Thánh Thể. Trong năm 2018 này, lấy cảm hứng từ những lời của Thánh Vịnh 130 câu 4, “Nơi Chúa có ơn tha thứ”, biến cố này sẽ diễn ra từ Thứ Sáu, 9 Tháng 3 đến Thứ Bẩy, 10 Tháng 3. Trong mỗi giáo phận, ít nhất có một nhà thờ mở cửa liên tục trong hai mươi bốn tiếng, để tạo cơ hội cho cả việc tôn thờ Thánh Thể lẫn bí tích Hoà Giải.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta sẽ kỷ niệm một lần nữa nghi thức cảm động rước ánh sáng cây nến Phục Sinh. Được lấy từ “ngọn lửa mới”, ánh sáng này sẽ dần dần xua tan bóng tối và chiếu sáng huy hoàng cộng đoàn phụng vụ. “Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô phục sinh trong vinh quang xua tan bóng tối trong con tim và tâm trí chúng ta”, [7] và cho phép tất cả chúng ta hồi tưởng lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmaus. Bằng cách lắng nghe Lời Chúa và kín múc lương thực từ bàn tiệc Thánh Thể, xin cho lòng chúng ta ngày càng hăng hái trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Với lòng ưu ái và lời hứa cầu nguyện cho tất cả anh chị em, tôi ban phép lành cho anh chị em. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Từ Vatican, ngày 1 tháng 11 năm 2017
Lễ các thánh nam nữ
+ Đức Thánh Cha Phanxicô
[1] Sách Lễ Rôma, Lời nguyện đầu lễ Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay (tiếng Ý).
[2] Tác phẩm Inferno của Dante Alighieri XXXIV, 28-29.
[3] “Thật đáng ngạc nhiên, nhưng nhiều lần chúng ta sợ sự an ủi, sợ được ủi an. Hay đúng hơn, chúng ta cảm thấy an toàn hơn trong nỗi buồn và sự cô đơn của mình. Anh chị em có biết tại sao không? Bởi vì trong nỗi buồn chúng ta cảm thấy mình gần như là nhân vật chính. Tuy nhiên, trong sự ủi an, Chúa Thánh Thần là nhân vật chính! “(Huấn từ trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, 7 tháng 12 năm 2014).
[4] Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 76-109.
[5] Xc. BENEDICT XVI, Thông điệp Spe Salvi (Được cứu rỗi trong Hy vọng), 33.
[6] Xc. PIUS XII, Thông Điệp Fidei Donum (Hồng ân Đức tin), III.
[7] Sách Lễ Rôma (Third Edition), Lễ Phục Sinh, Lucernarium.