Phụng Vụ - Mục Vụ
Ai không lỗi lầm?
LM Nguyễn Trung Tây, SVD
01:44 19/02/2008
Ai không lỗi lầm?
Lối về, Ảnh Nguyễn Trung Tây |
Mùa Chay Bắc Bán Cầu kéo về với mùa xuân. Mùa Xuân, thiên nhiên chuyển mình thay mầu áo xám. Nắng xuân phủ kín mặt quả địa cầu. Xuân tới nhắc nhớ câu chuyện của người xưa.
Cũng khá lâu rồi, vào một ngày kia, có người được mời tới nhà ăn cơm. Trong khi chủ khách đang trò chuyện bên bàn tiệc, bất chợt có một cô thiếu nữ tiến bước vào nhà. Chủ nhà, người khách, và mọi người bên bàn ăn đều ngưng câu chuyện. Mọi người yên lặng nhìn người thiếu nữ không được mời. Người con gái thoạt tiên đứng yên lặng sau lưng người khách. Sau cùng, cô nhẹ nhàng ngồi xuống bên chân của người khách. Bất chợt những giọt nước mắt bật ra tràn đầy hai khóe mắt. Và rồi những hạt nước long lanh bắt đầu tuôn rơi trên hai gò má. Từng giọt rồi từng giọt nước mắt tuôn chảy xuống hai bàn chân của ông khách. Trong nhà, mọi người vẫn đang thinh lặng. Trong thinh lặng chợt nghe như có tiếng thánh thót của những giọt nước mắt rơi nhanh xuống hai bàn chân gầy gò xanh xao của người khách. Trong thinh lặng, người thiếu nữ nhẹ nhàng ôm lấy làn tóc dài óng ả, thướt tha của mình lau khô những giọt nước mắt trên hai bàn chân bám bụi đường của người đàn ông. Từng lọn tóc dài mượt mà thay nhau phủ che lấp kín hai bàn chân của người khách. Sau cùng, trong cẩn trọng, cô ta lấy ra bình nước hoa, đổ hết lên chân của người đàn ông.
Trong thinh lặng ông chủ nhà tên Simon bâng quơ cất tiếng nói,
— Không biết ông khách có biết người đàn bà này thuộc loại người nào trong xã hội hay không?
Người thiếu nữ vẫn yên lặng, vẫn lắng nghe, vẫn không nói một lời. Mùi nước hoa quý giá từ đôi chân người khách bay ngập tràn căn phòng.
Không ai biết người thiếu nữ năm xưa tên gì? Không ai biết cô ta có một quá khứ như thế nào? Nhưng rất may cho người con gái, cô đã gặp một người đàn ông với một tâm hồn bao la rộng lượng hơn cả ngũ đại dương. Suốt từ đầu đến cuối câu chuyện, cô ta không hề nói một lời, không một lời than van! Chỉ có những giọt nước mắt tuôn rơi! Và thế là những lỗi lầm của cô đều được quên đi và xóa nhòa. Khi cô ngồi xuống khóc, một quá khứ nặng nề đè chặt lên bờ vai của người con gái. Khi cô đứng dậy, một trang sách mới được lật lên. Khi cô bước ra khỏi căn nhà, một bầu trời đang chờ đợi trước mặt.
Ai trong cuộc đời đã dám chắc là mình chưa bao giờ có những giây phút hay một quãng đời ngắn ngủi lỗi lầm?
Phêrô và Giuđa, hai nhân vật này và cả cô gái vô danh trong câu chuyện của ngày xưa, có lẽ, đã có những lần tố ẩu, tố liều và tố cạn láng vào trong canh bạc đời, để rồi khi đứng dậy, tay trắng lại hoàn trắng tay! Nhưng rồi, cô gái đã gặp người khách lạ, cô khóc và những lỗi lầm của người con gái đã được quên đi, đã được xóa nhòa! Phêrô và Giuđa cũng vậy. Cả hai đều có những lỗi lầm. Cả hai đều tưởng rằng những lỗi lầm của mình sẽ không bao giờ có thể tha thứ, bỏ qua.
Thật sự ra, Phêrô và Giuđa có một điểm giống nhau và một điểm không giống nhau. Đặc biệt nhất, điểm không giống nhau đã dẫn hai người vào hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Điểm giống nhau giữa Phêrô và Giuđa là cả hai đều đã bị ngã, té ngã khá nặng! Điểm khác nhau giữa cả hai liên quan đến khái niệm chấp nhận.
Trước tiên, Phêrô chấp nhận rằng mình đã lầm lỗi. Thứ hai Phêrô đã chấp nhận tha thứ cho chính mình. Thứ ba, sau khi đã chấp nhận tha cho mình, Phêrô bắt đầu tiến lên một bước nữa, lần này Phêrô chấp nhận dù sao đi nữa. Thiên Chúa nhân từ đã hoàn toàn tha thứ cho lỗi lầm của chính mình, ngay cả trước khi ông ta mở miệng xin lỗi. Thứ tư, Phêrô chấp nhận đóng lại một trang sách cũ, mỡ ra một trang sách mới.
Giuđa thì không, theo như trong câu chuyện của ngày xưa, ông đã quay lại đền thờ gặp những thầy tư tế, quẳng trả lại 30 đồng bạc. Qua hành động này, Giuđa đã nói lên một điều, đó là, ông chấp nhận rằng ông đã lỗi lầm khi bán đứng sư phụ của mình. Nhưng Giuđa không tiến nổi tới bước thứ hai của khái niệm Chấp Nhận. Đó là ông không tha thứ được cho chính ông ta. Và bởi không tha được cho chính mình, Giuđa cũng không bao giờ tin rằng Thiên Chúa nhân từ đã hoàn toàn tha thứ cho ông ta. Bởi thế, không bao giờ Giuđa bước được tới giai đoạn cuối cùng của quan niệm Chấp Nhận, đó là, chấp nhận đóng lại trang sách cũ và mở ra một trang sách mới như Phêrô.
Phêrô đã hoàn toàn bước qua luôn cả 4 giai đoạn của khái niệm Chấp Nhận. Và Phêrô đã trở thành vị Giáo hoàng đầu tiên của giáo hội. Giuđa thì ngược lại, “Trăm năm bia đá thì mòn, ‘Hai ngàn’ năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Bởi thế, một cành cây bên vệ đường là nơi anh ta đã tìm đến. Một sợi dây treo lên, một mạng người rớt xuống!
Một cách tương tự, người thiếu nữ của ngày xưa đã chấp nhận tha thứ cho chính mình. Những lỗi lầm chi? Không ai biết bởi trong câu chuyện, tác giả Luca, chương 7:36-50, không nói tới. Và sau đó, cô ta can đảm tiến tới nhà ông Biệt Phái Simon, tìm kiếm người khách lạ, tìm kiếm sự tha thứ và bình an. Người con gái không nói một lời, dù là than van hay trách móc bất cứ lẫn ai. Nhưng cô khóc! Những giọt nước mắt đã đổ ra trên hai bàn chân của người khách lạ, và vết thương trong tâm hồn của cô hoàn toàn tan biến vào hư không. Khi người con gái bước ra khỏi căn nhà của ông Biệt Phái Simon, cô đã hoàn toàn chấp nhận đóng lại một trang sách cũ. Giờ này chỉ còn lại những trang sách mới, những trang sách mới của mùa xuân. Người tác giả của câu chuyện xưa đã quên không ghi lại lời tạ ơn của người con gái. Có lẽ, cô đã nói một lời tạ ơn ngắn. Và sau đó, đời sống còn lại của cô gái là một chương sách của những lời tạ ơn thật dài. Và sau đó, đời sống của cô gái và Phêrô là một bản trường ca bất tận của mùa xuân.
www.nguyentrungtay.com
Vợ chồng dấn thân hoạt động tông đồ
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
13:37 19/02/2008
VỢ CHỒNG DẤN THÂN HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ
Ông Louis và bà Nadette Joly là thành viên ”Gia Đình Cha Jules Chevalier” (1824-1907). Với sự đồng thuận của hiền thê, ông Louis bỏ hẳn nghề nghiệp dành trọn thời giờ phục vụ cộng đoàn ”Giáo Dân Thừa Sai Thánh Tâm” ở Miribel, gần Lyon, miền Trung nước Pháp. Sau đây là chứng từ của ông bà Joly.
Cho đến năm 1975 cuộc sống lứa đôi của chúng tôi chỉ biết có nghề nghiệp - giám đốc xí nghiệp - và giải trí, mà không phải bận tâm tới vấn đề tài chánh. Bởi vì gia đình chúng tôi thật sung túc. Dĩ nhiên trong cuộc sống vật chất tiện nghi như thế, chúng tôi ”dại dột” quên bẵng THIÊN CHÚA! THIÊN CHÚA không hề có chỗ đứng trong gia đình chúng tôi.
Tháng 9 năm 1975, một biến cố đau thương xảy đến, làm thức tỉnh lương tâm khiến chúng tôi ngỡ ngàng đặt nghi vấn:
- Cuộc sống chúng ta ra sao? Tại sao chúng ta lại sống như thế?
Thế là Nadette - hiền thê tôi - rút ra khỏi xí nghiệp ở nhà chăm sóc gia đình chồng con. Chúng tôi có hai con, một trai và một gái. Năm ấy, cả hai con đều còn nhỏ tuổi. Vì không phải đi làm nên Nadette có nhiều thời giờ rãnh rỗi hơn. Nàng có thể tham gia công tác bác ái các hội từ thiện như ”Secours Catholique” hoặc ”Trung Tâm Xã Hội” của thành phố. Ngoài ra nàng giúp dạy giáo lý trong giáo xứ. Tất cả hoạt động vừa nói tạo cơ hội thuận tiện để Nadette gặp gỡ tha nhân, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi nhiều điều tốt lành.
6 năm sau - 1981 - THIÊN CHÚA Quan Phòng đưa đẩy vợ chồng tôi gặp Cha Émilien Tardiff, Linh Mục Thừa Sai Thánh Tâm. Cuộc gặp gỡ gây ảnh hưởng lớn nơi nội tâm tôi. Một niềm an bình sâu xa chế ngự trong tôi, và không bao giờ rời tôi nữa. Từ biến cố phúc lành này, nẩy sinh nơi chúng tôi niềm ước muốn tái khám phá Đức Tin Công Giáo, trở về với cuộc sống cầu nguyện, học hỏi và lắng nghe Lời Chúa. Sau cùng, chúng tôi dốc lòng nhận lãnh thường xuyên các Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể. Chúng tôi quyết định gia nhập nhóm cầu nguyện do các Cha Thừa Sai Thánh Tâm điều động và tham dự tuần tĩnh tâm dành cho các cặp vợ chồng.
Nhờ tham dự các buổi cầu nguyện và huấn luyện, chúng tôi bắt đầu hiểu được phần nào sứ điệp Tình Yêu của Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Sứ điệp chính là câu giải đáp cho tất cả nghi vấn, khốn khổ mà chúng tôi phải đương đầu trong thế giới hiện nay. Từ đó chúng tôi cảm thấy được kêu mời dấn thân hơn nữa trong nhóm Các Giáo Dân thuộc Gia Đình Cha Jules Chevalier với sứ mệnh đặc thù là xây dựng hòa bình, hòa giải, bất bạo động đúng theo tinh thần Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Chúng tôi cũng thay đổi nhãn quan hạn hẹp về thế giới, về vũ trụ, về THIÊN CHÚA và cách thức chúng tôi sống Tin Mừng trong lãnh vực nghề nghiệp.
Với sự đồng thuận hoàn toàn của Nadette vợ tôi, ngày 30-6-1990, tôi từ chức giám đốc xí nghiệp. 3 tháng sau, ngày 30-9, chúng tôi gia nhập Gia Đình Cha Jules Chevalier với nghi thức Tận hiến cho Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Sứ mệnh đặc thù của chúng tôi là quan tâm bảo vệ người bé nhỏ, kẻ vô phương thế tự vệ trước các bất công và các bạo hành.
Chính Đức Bà Thánh Tâm cầm tay dẫn dắt chúng tôi, dẫn dắt hết mọi người đến với suối nước hằng sống chảy ra từ Trái Tim Đức Chúa GIÊSU Con Mẹ.
... ”Muôn dân hỡi, lắng nghe lời THIÊN CHÚA và loan đi các đảo xa vời, rằng Đấng đã phân tán Israel, cũng chính Người sẽ thâu tập lại, canh giữ họ như mục tử canh giữ đàn chiên. Vì THIÊN CHÚA đã cứu chuộc nhà Giacóp, giải thoát họ khỏi tay kẻ mạnh hơn nhiều. Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Sion, lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc THIÊN CHÚA. Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thỏa thuê như vườn cây tưới nước, họ chẳng còn mỏi mệt héo hon. Thiếu nữ bấy giờ vui nhảy múa, trẻ già cùng mở hội tưng bừng. Tang tóc họ, Ta biến thành hoan hỷ, và sau cảnh sầu thương, sẽ cho họ được an ủi vui mừng. Thức ăn ngon ta đãi hàng tư tế, và dân Ta hưởng ân lộc dư đầy, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA” (Giêrêmia 31,10-14).
(”Annales d'Issoudun”, Mai/1999, trang 42-43)
Ông Louis và bà Nadette Joly là thành viên ”Gia Đình Cha Jules Chevalier” (1824-1907). Với sự đồng thuận của hiền thê, ông Louis bỏ hẳn nghề nghiệp dành trọn thời giờ phục vụ cộng đoàn ”Giáo Dân Thừa Sai Thánh Tâm” ở Miribel, gần Lyon, miền Trung nước Pháp. Sau đây là chứng từ của ông bà Joly.
Cho đến năm 1975 cuộc sống lứa đôi của chúng tôi chỉ biết có nghề nghiệp - giám đốc xí nghiệp - và giải trí, mà không phải bận tâm tới vấn đề tài chánh. Bởi vì gia đình chúng tôi thật sung túc. Dĩ nhiên trong cuộc sống vật chất tiện nghi như thế, chúng tôi ”dại dột” quên bẵng THIÊN CHÚA! THIÊN CHÚA không hề có chỗ đứng trong gia đình chúng tôi.
Tháng 9 năm 1975, một biến cố đau thương xảy đến, làm thức tỉnh lương tâm khiến chúng tôi ngỡ ngàng đặt nghi vấn:
- Cuộc sống chúng ta ra sao? Tại sao chúng ta lại sống như thế?
Thế là Nadette - hiền thê tôi - rút ra khỏi xí nghiệp ở nhà chăm sóc gia đình chồng con. Chúng tôi có hai con, một trai và một gái. Năm ấy, cả hai con đều còn nhỏ tuổi. Vì không phải đi làm nên Nadette có nhiều thời giờ rãnh rỗi hơn. Nàng có thể tham gia công tác bác ái các hội từ thiện như ”Secours Catholique” hoặc ”Trung Tâm Xã Hội” của thành phố. Ngoài ra nàng giúp dạy giáo lý trong giáo xứ. Tất cả hoạt động vừa nói tạo cơ hội thuận tiện để Nadette gặp gỡ tha nhân, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi nhiều điều tốt lành.
6 năm sau - 1981 - THIÊN CHÚA Quan Phòng đưa đẩy vợ chồng tôi gặp Cha Émilien Tardiff, Linh Mục Thừa Sai Thánh Tâm. Cuộc gặp gỡ gây ảnh hưởng lớn nơi nội tâm tôi. Một niềm an bình sâu xa chế ngự trong tôi, và không bao giờ rời tôi nữa. Từ biến cố phúc lành này, nẩy sinh nơi chúng tôi niềm ước muốn tái khám phá Đức Tin Công Giáo, trở về với cuộc sống cầu nguyện, học hỏi và lắng nghe Lời Chúa. Sau cùng, chúng tôi dốc lòng nhận lãnh thường xuyên các Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể. Chúng tôi quyết định gia nhập nhóm cầu nguyện do các Cha Thừa Sai Thánh Tâm điều động và tham dự tuần tĩnh tâm dành cho các cặp vợ chồng.
Nhờ tham dự các buổi cầu nguyện và huấn luyện, chúng tôi bắt đầu hiểu được phần nào sứ điệp Tình Yêu của Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Sứ điệp chính là câu giải đáp cho tất cả nghi vấn, khốn khổ mà chúng tôi phải đương đầu trong thế giới hiện nay. Từ đó chúng tôi cảm thấy được kêu mời dấn thân hơn nữa trong nhóm Các Giáo Dân thuộc Gia Đình Cha Jules Chevalier với sứ mệnh đặc thù là xây dựng hòa bình, hòa giải, bất bạo động đúng theo tinh thần Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Chúng tôi cũng thay đổi nhãn quan hạn hẹp về thế giới, về vũ trụ, về THIÊN CHÚA và cách thức chúng tôi sống Tin Mừng trong lãnh vực nghề nghiệp.
Với sự đồng thuận hoàn toàn của Nadette vợ tôi, ngày 30-6-1990, tôi từ chức giám đốc xí nghiệp. 3 tháng sau, ngày 30-9, chúng tôi gia nhập Gia Đình Cha Jules Chevalier với nghi thức Tận hiến cho Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Sứ mệnh đặc thù của chúng tôi là quan tâm bảo vệ người bé nhỏ, kẻ vô phương thế tự vệ trước các bất công và các bạo hành.
Chính Đức Bà Thánh Tâm cầm tay dẫn dắt chúng tôi, dẫn dắt hết mọi người đến với suối nước hằng sống chảy ra từ Trái Tim Đức Chúa GIÊSU Con Mẹ.
... ”Muôn dân hỡi, lắng nghe lời THIÊN CHÚA và loan đi các đảo xa vời, rằng Đấng đã phân tán Israel, cũng chính Người sẽ thâu tập lại, canh giữ họ như mục tử canh giữ đàn chiên. Vì THIÊN CHÚA đã cứu chuộc nhà Giacóp, giải thoát họ khỏi tay kẻ mạnh hơn nhiều. Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Sion, lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc THIÊN CHÚA. Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thỏa thuê như vườn cây tưới nước, họ chẳng còn mỏi mệt héo hon. Thiếu nữ bấy giờ vui nhảy múa, trẻ già cùng mở hội tưng bừng. Tang tóc họ, Ta biến thành hoan hỷ, và sau cảnh sầu thương, sẽ cho họ được an ủi vui mừng. Thức ăn ngon ta đãi hàng tư tế, và dân Ta hưởng ân lộc dư đầy, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA” (Giêrêmia 31,10-14).
(”Annales d'Issoudun”, Mai/1999, trang 42-43)
Đấng Chuộc Tội
LM Giuse Ngô Quang Trung
17:32 19/02/2008
ĐẤNG CHUỘC TỘI
“Tên Người là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21)
Tội là căn nguyên mọi nỗi bất hạnh của con người. Tội thách thức Thiên Chúa và khiêu khích sự thịnh nộ của Người. Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện, Người gớm ghiếc tội và thẳng tay khử trừ tội ác khỏi con người (x. Đnl 27, 26; Gr 44, 4; Rm 1, 18). Chính để tẩy trừ tội mà Thiên Chúa sai Con của Người, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian, chịu chết trên thập giá (x. Gl 2, 4; Ep 5, 25- 27; 1 Pr 2, 24; 1 Ga 3, 3, 8).
Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi tội. Người không chỉ cứu thoát chúng ta khỏi án phạt, khỏi cơn giận dữ và sự công thẳng, khỏi sự lo phiền và khiếp sợ, mà Người còn giải cứu chúng ta thoát khỏi chính tội lỗi (x. Gr 27, 9; 1 Pr 1, 15- 16; 1 Ga 3, 8). Do đó chúng ta phải xác tín rằng Chúa Giêsu xuống trần gian là để chuộc tội chúng ta. Hãy đặt để niềm xác tín này vào tận đáy lòng chúng ta. Càng thâm hiểu chân lí này, chúng ta càng biết cậy trông, tin tưởng và an bình. Không phải mọi người đều hiểu được điều ấy, bởi vì họ chỉ cố loay hoay làm sao tránh phải đền phạt, khỏi phải sợ hãi, ưu phiền (x. St 27, 34; Is 58, 5- 6; Ga 6, 26; Gc 4, 3). Và bởi đó, họ chưa trọn vẹn đón nhận ơn cứu chuộc. Họ cần phải chân nhận rằng được cứu chuộc nghĩa là được cứu thoát khỏi tội. Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nhận lấy tội của chúng ta. Chúng ta cùng suy nghĩ hai điều.
Trước hết, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu bằng tất cả con người tội lụy của mình. Hãy buông mình vào vòng tay của Chúa mà đừng ngã lòng, thất vọng vì các tội còn đeo bám và khống chế chúng ta. Đừng cố chống chọi và tự hoá giải chỉ bằng sức riêng. Hãy đem từng tội một đến với Chúa. Người là Đấng Cứu Chuộc, Người sẽ nhận lấy tất cả tội vạ của chúng ta. Người hủy tội ra không nhờ hi tế thập giá và Người bẻ gẫy mọi quyền lực thống trị của tội. Công trình cứu chuộc của Người, Người mong muốn thực hiện là giải thoát chúng ta khỏi tội. Hãy luôn học đến với Chúa và xưng thú mọi tội với Người. Người ta nhắc đến một giai thoại về thánh Giêrônimô: vị thánh uyên thâm Kinh Thánh này có lần kể lể dâng cho Chúa tất cả những thứ mình có. Nhưng cuối cùng Chúa nhắc cho ngài biết còn một thứ mà ngài chưa dâng cho Chúa, đó là tội lỗi. Tội là kẻ thù hiểm độc của chúng ta, nếu chúng ta tóm bắt và mang lại cho Chúa, Người sẽ tiêu diệt nó.
Điều thứ hai, phải luôn vững tin và sống niềm xác tín này: Chúa Giêsu là Đấng Chuộc Tội. Không phải chúng ta chiến thắng tội nhờ sự trợ giúp của Chúa, mà chính Chúa Giêsu trong chúng ta toàn thắng tội lỗi. Vậy nếu nhờ thế mà ta được thoát ách tội lỗi thì chúng ta phải luôn sống kết hợp với Người. Không phải cứ đợi cho đến lúc ta bị cám dỗ mới xin Người trợ giúp. Mà trái lại, đời sống của chúng ta phải luôn tháp nhập vào sự sống của Chúa. Sống thân mật với Chúa phải là điều ước muốn duy nhất của chúng ta. Chúa giải thoát chúng ta khỏi tội, và có Chúa chúng ta mới được ơn cứu chuộc. Đón nhận ơn hoà giải không phải là chuyện “năm thì mười hoạ” cho con người hay sa ngã phạm tội, nhưng đó là ơn phúc mãi mãi được ban cho nhân loại trong con người Chúa Giêsu. Khi Chúa hoàn toàn chiếm hữu ta, tội không thể nào cầm buộc chúng ta được. “Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội” (1 Ga 3, 6).
Vâng, tội được quét sạch và được cách li khỏi chúng ta nhờ Chúa sống trong chúng ta. Chính nhờ thập giá Chúa Giêsu và nhờ Người ở lại trong chúng ta mà chúng ta nhận được ơn chuộc tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu yêu mến, xin chiếu tỏa ánh sáng của Ngài trên con. Hãy để cho ánh sáng ấy xuyên thấu tâm hồn con để con có thể nhận ra Chúa là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Có Chúa ở trong con và cùng với Chúa con có thể tránh xa tội lỗi. Xin dạy con biết đem mọi tội đến cho Chúa. Và làm sao để mỗi tội con đã trót phạm giúp con biết kết hợp với Chúa mật thiết hơn! Nguyện cho danh Chúa thật sự trở thành tên gọi Đấng Chuộc Tội.- Amen.
“Tên Người là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21)
Tội là căn nguyên mọi nỗi bất hạnh của con người. Tội thách thức Thiên Chúa và khiêu khích sự thịnh nộ của Người. Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện, Người gớm ghiếc tội và thẳng tay khử trừ tội ác khỏi con người (x. Đnl 27, 26; Gr 44, 4; Rm 1, 18). Chính để tẩy trừ tội mà Thiên Chúa sai Con của Người, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian, chịu chết trên thập giá (x. Gl 2, 4; Ep 5, 25- 27; 1 Pr 2, 24; 1 Ga 3, 3, 8).
Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi tội. Người không chỉ cứu thoát chúng ta khỏi án phạt, khỏi cơn giận dữ và sự công thẳng, khỏi sự lo phiền và khiếp sợ, mà Người còn giải cứu chúng ta thoát khỏi chính tội lỗi (x. Gr 27, 9; 1 Pr 1, 15- 16; 1 Ga 3, 8). Do đó chúng ta phải xác tín rằng Chúa Giêsu xuống trần gian là để chuộc tội chúng ta. Hãy đặt để niềm xác tín này vào tận đáy lòng chúng ta. Càng thâm hiểu chân lí này, chúng ta càng biết cậy trông, tin tưởng và an bình. Không phải mọi người đều hiểu được điều ấy, bởi vì họ chỉ cố loay hoay làm sao tránh phải đền phạt, khỏi phải sợ hãi, ưu phiền (x. St 27, 34; Is 58, 5- 6; Ga 6, 26; Gc 4, 3). Và bởi đó, họ chưa trọn vẹn đón nhận ơn cứu chuộc. Họ cần phải chân nhận rằng được cứu chuộc nghĩa là được cứu thoát khỏi tội. Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nhận lấy tội của chúng ta. Chúng ta cùng suy nghĩ hai điều.
Trước hết, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu bằng tất cả con người tội lụy của mình. Hãy buông mình vào vòng tay của Chúa mà đừng ngã lòng, thất vọng vì các tội còn đeo bám và khống chế chúng ta. Đừng cố chống chọi và tự hoá giải chỉ bằng sức riêng. Hãy đem từng tội một đến với Chúa. Người là Đấng Cứu Chuộc, Người sẽ nhận lấy tất cả tội vạ của chúng ta. Người hủy tội ra không nhờ hi tế thập giá và Người bẻ gẫy mọi quyền lực thống trị của tội. Công trình cứu chuộc của Người, Người mong muốn thực hiện là giải thoát chúng ta khỏi tội. Hãy luôn học đến với Chúa và xưng thú mọi tội với Người. Người ta nhắc đến một giai thoại về thánh Giêrônimô: vị thánh uyên thâm Kinh Thánh này có lần kể lể dâng cho Chúa tất cả những thứ mình có. Nhưng cuối cùng Chúa nhắc cho ngài biết còn một thứ mà ngài chưa dâng cho Chúa, đó là tội lỗi. Tội là kẻ thù hiểm độc của chúng ta, nếu chúng ta tóm bắt và mang lại cho Chúa, Người sẽ tiêu diệt nó.
Điều thứ hai, phải luôn vững tin và sống niềm xác tín này: Chúa Giêsu là Đấng Chuộc Tội. Không phải chúng ta chiến thắng tội nhờ sự trợ giúp của Chúa, mà chính Chúa Giêsu trong chúng ta toàn thắng tội lỗi. Vậy nếu nhờ thế mà ta được thoát ách tội lỗi thì chúng ta phải luôn sống kết hợp với Người. Không phải cứ đợi cho đến lúc ta bị cám dỗ mới xin Người trợ giúp. Mà trái lại, đời sống của chúng ta phải luôn tháp nhập vào sự sống của Chúa. Sống thân mật với Chúa phải là điều ước muốn duy nhất của chúng ta. Chúa giải thoát chúng ta khỏi tội, và có Chúa chúng ta mới được ơn cứu chuộc. Đón nhận ơn hoà giải không phải là chuyện “năm thì mười hoạ” cho con người hay sa ngã phạm tội, nhưng đó là ơn phúc mãi mãi được ban cho nhân loại trong con người Chúa Giêsu. Khi Chúa hoàn toàn chiếm hữu ta, tội không thể nào cầm buộc chúng ta được. “Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội” (1 Ga 3, 6).
Vâng, tội được quét sạch và được cách li khỏi chúng ta nhờ Chúa sống trong chúng ta. Chính nhờ thập giá Chúa Giêsu và nhờ Người ở lại trong chúng ta mà chúng ta nhận được ơn chuộc tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu yêu mến, xin chiếu tỏa ánh sáng của Ngài trên con. Hãy để cho ánh sáng ấy xuyên thấu tâm hồn con để con có thể nhận ra Chúa là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Có Chúa ở trong con và cùng với Chúa con có thể tránh xa tội lỗi. Xin dạy con biết đem mọi tội đến cho Chúa. Và làm sao để mỗi tội con đã trót phạm giúp con biết kết hợp với Chúa mật thiết hơn! Nguyện cho danh Chúa thật sự trở thành tên gọi Đấng Chuộc Tội.- Amen.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:04 19/02/2008
BÀNG KÍNH TRIỆU CÔNG ĐẠI PHU
Thời xưa, tiểu quan chuyên coi sóc chợ búa thì gọi là thị giả, mà quan phụ trách cấp trên của thị giả gọi là công đại phu. Khi Bàng Kinh làm huyện lịnh, một hôm sai phái công đại phu dẫn đầu thị giả đến chợ để thi hành công vụ.
Họ, một đoàn vừa rời khỏi nha huyện không bao lâu thì tùy tùng của Bàng Kinh vội vàng chạy đến mời công đại phu trở về, nói rằng huyện lịnh có lời muốn nói. Công đại phu lại trở về để gặp Bàng Kính, nhưng tuyệt đối không nghe ông ta nói gì cả, chỉ đứng một bên rồi lại được phái lên đường.
Các thị giả đứng đợi trên đường cho rằng huyện lịnh nói với công đại phu những gì, nên rất đề phòng ông ta, khi thi hành công vụ cũng không dám dục nước béo cò, tham ô mưu lợi riêng.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng-Thất thuật)
Suy tư:
Tham nhũng và hối lộ thì thời nào cũng có, làm quan nhỏ thì hối lộ tham nhũng nhỏ, làm quan càng lớn thì tham nhũng hối lộ càng lớn hơn, thế mới biết câu nói “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan” thật là đúng, gian nan ở đây chính là phải chịu phán xét cách nặng nề trước mặt Thiên Chúa, về mọi hành vi của mình đã làm trong chức vụ được giáo phó...
Sách nhiễu đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu nhiều nhất là ma quỷ và các đệ tử của chúng nó: nó đem tiền bạc đến cám dỗ người Ki-tô hữu bỏ bê không tham dự các ngày lễ chủ nhật và lễ trọng; đem gái đẹp đến để lối kéo người Ki-tô hữu hưởng thú vui nhục dục mà không màng đến các điều răn của Thiên Chúa và những hậu quả của nó; đem danh vọng đến để chia rẽ những người Ki-tô hữu với nhau. Cho nên, Chúa Giê-su đã khôn ngoan trù liệu trước cho các môn đệ của Ngài, Ngài đã lập ra các bí tích để các tín hữu dùng chống lại các cám dỗ của ma quỷ, Ngài đã nhờ mẹ của Ngài là Đức Mẹ Maria –Đấng đồng công cứu chuộc- nhiều lần hiện ra nhắc nhở các tín hữu hảy luôn quan tâm đến phần rỗi đời đời bằng cách thay đổi cuộc sống, lần hạt mân côi và cầu nguyện luôn.
Rồi sẽ có một ngày, Thiên Chúa sẽ kêu chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài, không phải để hứa ban ơn hay trợ giúp gì nữa, nhưng là để phán xét. Ngài sẽ phán xét gì ? Thưa, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta có làm tròn trách nhiệm và bổn phận đã được giao phó cho mình hay không...
N2T |
Thời xưa, tiểu quan chuyên coi sóc chợ búa thì gọi là thị giả, mà quan phụ trách cấp trên của thị giả gọi là công đại phu. Khi Bàng Kinh làm huyện lịnh, một hôm sai phái công đại phu dẫn đầu thị giả đến chợ để thi hành công vụ.
Họ, một đoàn vừa rời khỏi nha huyện không bao lâu thì tùy tùng của Bàng Kinh vội vàng chạy đến mời công đại phu trở về, nói rằng huyện lịnh có lời muốn nói. Công đại phu lại trở về để gặp Bàng Kính, nhưng tuyệt đối không nghe ông ta nói gì cả, chỉ đứng một bên rồi lại được phái lên đường.
Các thị giả đứng đợi trên đường cho rằng huyện lịnh nói với công đại phu những gì, nên rất đề phòng ông ta, khi thi hành công vụ cũng không dám dục nước béo cò, tham ô mưu lợi riêng.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng-Thất thuật)
Suy tư:
Tham nhũng và hối lộ thì thời nào cũng có, làm quan nhỏ thì hối lộ tham nhũng nhỏ, làm quan càng lớn thì tham nhũng hối lộ càng lớn hơn, thế mới biết câu nói “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan” thật là đúng, gian nan ở đây chính là phải chịu phán xét cách nặng nề trước mặt Thiên Chúa, về mọi hành vi của mình đã làm trong chức vụ được giáo phó...
Sách nhiễu đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu nhiều nhất là ma quỷ và các đệ tử của chúng nó: nó đem tiền bạc đến cám dỗ người Ki-tô hữu bỏ bê không tham dự các ngày lễ chủ nhật và lễ trọng; đem gái đẹp đến để lối kéo người Ki-tô hữu hưởng thú vui nhục dục mà không màng đến các điều răn của Thiên Chúa và những hậu quả của nó; đem danh vọng đến để chia rẽ những người Ki-tô hữu với nhau. Cho nên, Chúa Giê-su đã khôn ngoan trù liệu trước cho các môn đệ của Ngài, Ngài đã lập ra các bí tích để các tín hữu dùng chống lại các cám dỗ của ma quỷ, Ngài đã nhờ mẹ của Ngài là Đức Mẹ Maria –Đấng đồng công cứu chuộc- nhiều lần hiện ra nhắc nhở các tín hữu hảy luôn quan tâm đến phần rỗi đời đời bằng cách thay đổi cuộc sống, lần hạt mân côi và cầu nguyện luôn.
Rồi sẽ có một ngày, Thiên Chúa sẽ kêu chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài, không phải để hứa ban ơn hay trợ giúp gì nữa, nhưng là để phán xét. Ngài sẽ phán xét gì ? Thưa, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta có làm tròn trách nhiệm và bổn phận đã được giao phó cho mình hay không...
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:05 19/02/2008
N2T |
4. Mặc dù Chúa Giê-su chỉ vì yêu chúng ta mà đem mình trao cho chúng ta, như vậy khi rước lễ, thì cũng phải vì yêu mà rước lễ.
(Thánh Francis de Sales)Lời thì thầm của tâm hồn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:07 19/02/2008
LỜI THÌ THẦM CỦA TÂM HỒN
Dùng thời gian để suy tư, đó là ngọn nguồn của sức mạnh.
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là chỗ dựa của tinh thần.
Dùng thời gian để mĩm cười, đó là âm nhạc của linh hồn.
Dùng thời gian để chơi đùa, đó là bí quyết của thanh xuân.
Dùng thời gian để yêu người, đó là đặc ân của Thiên Chúa.
Dùng thời gian để xem đọc, đó chính là nguồn gốc của trí huệ.
Dùng thời gian để khơi thông, đó chính là đạo lớn của vui sướng.
Dùng thời gian để làm việc, đó chính là bước mở đầu của thành công.
Dùng thời gian để làm việc thiện, đó là vé vào cửa thiên quốc.
------------------------
(Trung tâm văn hóa giáo dục Joan of Arc, giáo phận Hoa Liên, Đài Loan)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa.
-----------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Dùng thời gian để suy tư, đó là ngọn nguồn của sức mạnh.
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là chỗ dựa của tinh thần.
Dùng thời gian để mĩm cười, đó là âm nhạc của linh hồn.
Dùng thời gian để chơi đùa, đó là bí quyết của thanh xuân.
Dùng thời gian để yêu người, đó là đặc ân của Thiên Chúa.
Dùng thời gian để xem đọc, đó chính là nguồn gốc của trí huệ.
Dùng thời gian để khơi thông, đó chính là đạo lớn của vui sướng.
Dùng thời gian để làm việc, đó chính là bước mở đầu của thành công.
Dùng thời gian để làm việc thiện, đó là vé vào cửa thiên quốc.
------------------------
(Trung tâm văn hóa giáo dục Joan of Arc, giáo phận Hoa Liên, Đài Loan)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa.
-----------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chiến dịch Mùa Chay trợ giúp Phi châu của Giáo Hội Italia
Linh Tiến Khải
10:22 19/02/2008
Chiến dịch Mùa Chay trợ giúp Phi châu của Giáo Hội Italia
Phỏng vấn Linh Mục Giovanni Attilio Cesena, tân giám đốc văn phòng cộng tác truyền giáo của Hội Đồng Giám Mục Italia về công tác trợ giúp Phi châu
Mùa Chay Thánh đã bắt đầu được hai tuần nay. Trong Mùa Chay Giáo Hội khuyến khích tín hữu hoán cải tâm lòng, gia tăng cầu nguyện, hy sinh hãm mình và đặc biệt là liên đới chia sẻ cụ thể với các anh chị em nghèo túng, qua các sinh hoạt bác ái từ thiện, thăm viếng ủy lạo trợ giúp các bệnh nhân, trẻ mồ côi, người già nua, neo đơn, tàn tật, các người tù vv... Tại Italia năm nay chiến dịch liên đới mùa Chay hướng tới các thừa sai nam nữ đang sống tại các quốc gia Phi châu, và qua các vị hướng tới các anh chị em di cư nạn nhân của chiến tranh và xung khắc tại Phi châu.
Trong vùng Emilia Romagna chiến dịch quyên góp mùa Chay cho các cứ điểm truyền giáo tại Etiopia, Trung và Nam Phi cũng như Rumania và Thổ Nhĩ Kỳ, do các cha dòng Capucino trông coi, năm nay có khẩu hiệu là ”Kart in love”. Chiến dịch này do trung tâm cộng tác truyền giáo của các tu sĩ dòng Capucino phát động với sự cộng tác của trung tâm sản xuất chân tay giả INAIL Budrio. Thầy Adriano Parenti thuộc tu viện San Marino in Rio cho biết nhiều dự án của dòng liên quan tới việc dậy chữ và giáo dục, cũng như trợ giúp trẻ em và các gia đình, hay thăng tiến phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, các dịch vụ y tế, săn sóc và phòng ngừa bệnh liệt kháng cho trẻ em. Tại Ravenna chiến dịch bao gồm cả các buổi thi đua thể thao thể dục, văn nghệ và giáo dục, với sự tham dự của nhiều kịch sĩ, các tay hề chuyên nghiệp, các lực sĩ và một vài bệnh nhân. Một vài lực sĩ là những người đã bị giải phẫu và được hồi phục.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Giovanni Attilio Cesena, tân giám đốc văn phòng cộng tác truyền giáo của Hội Đồng Giám Mục Italia về công tác trợ giúp Phi châu. Cha Giovanni Attilio Cesena người Milano năm nay 51 tuổi, mới được Hội Đồng Giám Mục Italia chỉ định giữ chức vụ này hồi đầu tháng 2 vừa qua.
Trong chiến dịch mùa Chay năm nay cha kêu gọi các giáo xứ toàn nước Italia chú ý đến nhu cầu của các anh chị em di cư tị nạn, đang phải khổ đau tại các nước như Ciad, Kenya, Somalia và Sudan, là những nơi đang có nội chiến. Ciad và Kenya mới rơi vào cảnh nội chiến từ vài tháng nay trong khi Somalia và Sudan đã chịu cảnh nội chiến từ nhiều năm nay.
Hỏi: Thưa cha, chiến dịch mùa Chay mà cha phát động có các mục đích cụ thể nào?
Đáp: Mục đích chính yếu của chiến dịch mùa Chay năm nay trước hết là tỏ tình liên đới với các dân tộc đang phải sống trong khổ đau, thiếu thốn bất ổn, nhưng đồng thời cũng là để tỏ lộ tình liên đới với các thừa sai đang làm việc tại chỗ trong các công tác trợ giúp các dân tộc này. Nó cũng là lời mời gọi mọi Kitô hữu và cộng đoàn xã hội dân sự toàn nước Italia chú ý tới các anh chị em này. Ngoài ra chiến dịch mùa Chay năm nay cũng cố ý giữ cho các ngọn đèn pha chiếu sáng trên các thực tại thê thảm của các nước như Somalia, Sudan, Ciad và Kenya. Một cách chung là chiếu sáng trên Phi châu trong lúc này đây, vì nhiều thường dân và các gia đình của đại lục này đang phải khổ đau khôn tả.
Hỏi: Như thế có nghĩa là các tình trạng thê thảm của Phi châu bị các phương tiện truyền thông Tây Âu và thế giới lãng quên hay sao thưa cha?
Đáp: Dư luận và các phương tiện truyền thông cũng có chú ý, nhưng mà chút ít thôi chứ không chú ý nhiều lắm. Vì thế cần phải nhấn mạnh cho mọi người biết rằng có rất nhiều thừa sai Italia gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ đang sống và làm việc trong các vùng truyền giáo Phi châu, hay ước mong đến làm việc trong các vùng truyền giáo tại các nước này hoặc đến để nghiên cứu và sống một thời gian. Nghĩa là qua các vị, có sự hiện diện của Giáo Hội Italia tại những nơi khổ đau đó.
Hỏi: Tại Italia có các phong trào hay hiệp hội nào chú ý tới sự kiện này không thưa cha?
Đáp: Có cả một mạng lưới liên lạc được thành lập và phát triển trong Giáo Hội Italia, và mạng lưới này có đặc thái là rất chú ý theo dõi tình hình và cũng rất bình dân, nghĩa là được dân chúng biết tới và tham gia.
Văn phòng của chúng tôi hoạt động trên bình diện toàn quốc và cùng với các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo chúng tôi có nhiệm vụ nhắc nhở cho tin hữu biết các tình hình này và làm cho các thừa sai cảm nhận được sự gần gũi của chúng tôi. Chẳng hạn qua lời cầu nguyện liên lỉ cho các vị và cho dân chúng, mà các vị đang trợ giúp. Trong số rất nhiều sáng kiến có sáng kiến của giáo phận Novarra. Giáo phận này gửi nhiều linh mục gọi là các ”linh mục hồng ân đức tin” sang làm việc tại Ciad. Chúa Nhật mùng 10-2-2008 mọi giáo xứ trong giáo phận đã được mời gọi cầu nguyện cho hòa bình mau trở lại với nhân dân Ciad, đang lâm vào tình trạng nội chiến, và cầu chuyện cho tất cả những ai bị liên lụy trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn này.
Hỏi: Thưa cha, trên bình diện tinh thần văn phòng của Hội Đồng Giám Mục Italia do cha làm giám đốc, có đưa ra chương trình gây ý thức nào trên bình diện toàn quốc và cổ võ tình liên đới hay không?
Đáp: Cbúng tôi có nhiều phương thế khác nhau, chứ không chỉ có một sáng kiến mà thôi. Đối với những đơn xin trợ giúp chúng tôi hướng tới Caritas Italia. Đồng thời các giáo phận và các dòng tu có nhân lực hoạt động tại các vùng truyền giáo cũng tự tổ chức quyên góp, nhờ các hiểu biết trực tiếp và các phương tiện liên lạc tức thì với nhân lực của mình. Theo tôi điều quan trọng đó là ý thức được rằng miền Trung và Đông Phi châu đang trải qua một giai đoạn căng thẳng ảnh hưởng trên cuộc sống của người dân toàn vùng.
Cách đây mấy năm tôi đã viếng thăm Ciad và Kenya, và tôi đã chứng kiến nhiều khía cạnh tích cực nơi dân chúng: họ muốn vươn lên, ho muốn hiểu biết, họ muốn trở thành những tác nhân có trách nhiệm đối với tương lai của họ. Nhưng tình hình chính trị địa lý xảy ra hiện nay đang dập tắt các niềm hy vọng ấy của dân chúng. Các lộ trình thăng tiến cuộc sống và tiếng nói bênh vực phầm giá và nhân quyền, mà các thừa sai đã giúp họ xây dựng, giờ đây bị bạo lực và các tranh giành quyền bính bóp nghẹt.
Hỏi: Trước tình trạng này các cộng đoàn công giáo Italia phải làm gì thưa cha?
Đáp: Bình thường người ta chỉ bật sáng các ngọn đèn pha trong những trường hợp khẩn cấp như bạo lực chống lại con người hay chống lại thiên nhiên. Trái lại chúng ta phải liên lỉ bật sáng lên các ngọn đèn pha ấy, để cho mọi người đều trông thấy các thảm cảnh người dân Phi châu đang phải sống. Đặc biệt là phải duy trì mối dây liên lạc thường xuyên với các vùng đất thống khổ này. Thách đố không phải là cho chạy một hàng tít lớn trên nhật báo trong một ngày, mà là liên lỉ gây ý thức đối với lộ trình cuộc sống của các dân tộc này.
Hỏi: Thưa cha, trong các giáo xứ Italia càng ngày càng có nhiều linh mục tu sĩ hay giáo dân từ các nước Phi châu tới làm việc. Cha đánh giá sự phong phú này như thế nào?
Đáp: Nếu chúng ta nghĩ tới các anh chị em giáo dân, hay các linh mục tu sĩ là những người đến từ các nước châu Mỹ Latinh hay Phi châu, họ đã thường nắm giữ các trách nhiệm trong các giáo xứ hay giáo phận, mà chúng ta không thể tiếp đón hay thừa nhận, thì việc dấn thân sống chiều kích ”công giáo”, tức chiều kích đại đồng của Giáo Hội là điều hay cần phải thực hành.
Hỏi: Trong mùa Chay chúng ta được mời gọi sống đơn sơ thanh đạm, cả trong việc cho đi nữa, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Chắc chắn rồi, nhưng đây không phải chỉ là việc gửi các đồ cứu trợ mà thôi. Các thừa sai, mà chúng tôi trợ giúp, không chỉ sống trong một biên giới có tính cách xã hội hay giáo dục. Họ đang linh hoạt một cộng đoàn lòng tin mà chúng ta cũng phải lưu tâm và giữ cho ánh sáng đèn pha chiếu vào thực tại của họ, không chỉ vì số lượng tín hữu đông đảo. Nhưng cũng vì phẩm chất lòng tin của họ mời gọi chúng ta nữa. Họ sống trong các tình trạng khó khăn hơn chúng ta rất nhiều, nhưng vẫn sốt sắng, trung thực, đáng nêu gương sáng cho chúng ta, và cung cách sống lòng tin của họ dậy dỗ chúng ta rất nhiều điều.
(Avvenire 10-2-2008)
Phỏng vấn Linh Mục Giovanni Attilio Cesena, tân giám đốc văn phòng cộng tác truyền giáo của Hội Đồng Giám Mục Italia về công tác trợ giúp Phi châu
Mùa Chay Thánh đã bắt đầu được hai tuần nay. Trong Mùa Chay Giáo Hội khuyến khích tín hữu hoán cải tâm lòng, gia tăng cầu nguyện, hy sinh hãm mình và đặc biệt là liên đới chia sẻ cụ thể với các anh chị em nghèo túng, qua các sinh hoạt bác ái từ thiện, thăm viếng ủy lạo trợ giúp các bệnh nhân, trẻ mồ côi, người già nua, neo đơn, tàn tật, các người tù vv... Tại Italia năm nay chiến dịch liên đới mùa Chay hướng tới các thừa sai nam nữ đang sống tại các quốc gia Phi châu, và qua các vị hướng tới các anh chị em di cư nạn nhân của chiến tranh và xung khắc tại Phi châu.
Trong vùng Emilia Romagna chiến dịch quyên góp mùa Chay cho các cứ điểm truyền giáo tại Etiopia, Trung và Nam Phi cũng như Rumania và Thổ Nhĩ Kỳ, do các cha dòng Capucino trông coi, năm nay có khẩu hiệu là ”Kart in love”. Chiến dịch này do trung tâm cộng tác truyền giáo của các tu sĩ dòng Capucino phát động với sự cộng tác của trung tâm sản xuất chân tay giả INAIL Budrio. Thầy Adriano Parenti thuộc tu viện San Marino in Rio cho biết nhiều dự án của dòng liên quan tới việc dậy chữ và giáo dục, cũng như trợ giúp trẻ em và các gia đình, hay thăng tiến phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, các dịch vụ y tế, săn sóc và phòng ngừa bệnh liệt kháng cho trẻ em. Tại Ravenna chiến dịch bao gồm cả các buổi thi đua thể thao thể dục, văn nghệ và giáo dục, với sự tham dự của nhiều kịch sĩ, các tay hề chuyên nghiệp, các lực sĩ và một vài bệnh nhân. Một vài lực sĩ là những người đã bị giải phẫu và được hồi phục.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Giovanni Attilio Cesena, tân giám đốc văn phòng cộng tác truyền giáo của Hội Đồng Giám Mục Italia về công tác trợ giúp Phi châu. Cha Giovanni Attilio Cesena người Milano năm nay 51 tuổi, mới được Hội Đồng Giám Mục Italia chỉ định giữ chức vụ này hồi đầu tháng 2 vừa qua.
Trong chiến dịch mùa Chay năm nay cha kêu gọi các giáo xứ toàn nước Italia chú ý đến nhu cầu của các anh chị em di cư tị nạn, đang phải khổ đau tại các nước như Ciad, Kenya, Somalia và Sudan, là những nơi đang có nội chiến. Ciad và Kenya mới rơi vào cảnh nội chiến từ vài tháng nay trong khi Somalia và Sudan đã chịu cảnh nội chiến từ nhiều năm nay.
Hỏi: Thưa cha, chiến dịch mùa Chay mà cha phát động có các mục đích cụ thể nào?
Đáp: Mục đích chính yếu của chiến dịch mùa Chay năm nay trước hết là tỏ tình liên đới với các dân tộc đang phải sống trong khổ đau, thiếu thốn bất ổn, nhưng đồng thời cũng là để tỏ lộ tình liên đới với các thừa sai đang làm việc tại chỗ trong các công tác trợ giúp các dân tộc này. Nó cũng là lời mời gọi mọi Kitô hữu và cộng đoàn xã hội dân sự toàn nước Italia chú ý tới các anh chị em này. Ngoài ra chiến dịch mùa Chay năm nay cũng cố ý giữ cho các ngọn đèn pha chiếu sáng trên các thực tại thê thảm của các nước như Somalia, Sudan, Ciad và Kenya. Một cách chung là chiếu sáng trên Phi châu trong lúc này đây, vì nhiều thường dân và các gia đình của đại lục này đang phải khổ đau khôn tả.
Hỏi: Như thế có nghĩa là các tình trạng thê thảm của Phi châu bị các phương tiện truyền thông Tây Âu và thế giới lãng quên hay sao thưa cha?
Đáp: Dư luận và các phương tiện truyền thông cũng có chú ý, nhưng mà chút ít thôi chứ không chú ý nhiều lắm. Vì thế cần phải nhấn mạnh cho mọi người biết rằng có rất nhiều thừa sai Italia gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ đang sống và làm việc trong các vùng truyền giáo Phi châu, hay ước mong đến làm việc trong các vùng truyền giáo tại các nước này hoặc đến để nghiên cứu và sống một thời gian. Nghĩa là qua các vị, có sự hiện diện của Giáo Hội Italia tại những nơi khổ đau đó.
Hỏi: Tại Italia có các phong trào hay hiệp hội nào chú ý tới sự kiện này không thưa cha?
Đáp: Có cả một mạng lưới liên lạc được thành lập và phát triển trong Giáo Hội Italia, và mạng lưới này có đặc thái là rất chú ý theo dõi tình hình và cũng rất bình dân, nghĩa là được dân chúng biết tới và tham gia.
Văn phòng của chúng tôi hoạt động trên bình diện toàn quốc và cùng với các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo chúng tôi có nhiệm vụ nhắc nhở cho tin hữu biết các tình hình này và làm cho các thừa sai cảm nhận được sự gần gũi của chúng tôi. Chẳng hạn qua lời cầu nguyện liên lỉ cho các vị và cho dân chúng, mà các vị đang trợ giúp. Trong số rất nhiều sáng kiến có sáng kiến của giáo phận Novarra. Giáo phận này gửi nhiều linh mục gọi là các ”linh mục hồng ân đức tin” sang làm việc tại Ciad. Chúa Nhật mùng 10-2-2008 mọi giáo xứ trong giáo phận đã được mời gọi cầu nguyện cho hòa bình mau trở lại với nhân dân Ciad, đang lâm vào tình trạng nội chiến, và cầu chuyện cho tất cả những ai bị liên lụy trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn này.
Hỏi: Thưa cha, trên bình diện tinh thần văn phòng của Hội Đồng Giám Mục Italia do cha làm giám đốc, có đưa ra chương trình gây ý thức nào trên bình diện toàn quốc và cổ võ tình liên đới hay không?
Đáp: Cbúng tôi có nhiều phương thế khác nhau, chứ không chỉ có một sáng kiến mà thôi. Đối với những đơn xin trợ giúp chúng tôi hướng tới Caritas Italia. Đồng thời các giáo phận và các dòng tu có nhân lực hoạt động tại các vùng truyền giáo cũng tự tổ chức quyên góp, nhờ các hiểu biết trực tiếp và các phương tiện liên lạc tức thì với nhân lực của mình. Theo tôi điều quan trọng đó là ý thức được rằng miền Trung và Đông Phi châu đang trải qua một giai đoạn căng thẳng ảnh hưởng trên cuộc sống của người dân toàn vùng.
Cách đây mấy năm tôi đã viếng thăm Ciad và Kenya, và tôi đã chứng kiến nhiều khía cạnh tích cực nơi dân chúng: họ muốn vươn lên, ho muốn hiểu biết, họ muốn trở thành những tác nhân có trách nhiệm đối với tương lai của họ. Nhưng tình hình chính trị địa lý xảy ra hiện nay đang dập tắt các niềm hy vọng ấy của dân chúng. Các lộ trình thăng tiến cuộc sống và tiếng nói bênh vực phầm giá và nhân quyền, mà các thừa sai đã giúp họ xây dựng, giờ đây bị bạo lực và các tranh giành quyền bính bóp nghẹt.
Hỏi: Trước tình trạng này các cộng đoàn công giáo Italia phải làm gì thưa cha?
Đáp: Bình thường người ta chỉ bật sáng các ngọn đèn pha trong những trường hợp khẩn cấp như bạo lực chống lại con người hay chống lại thiên nhiên. Trái lại chúng ta phải liên lỉ bật sáng lên các ngọn đèn pha ấy, để cho mọi người đều trông thấy các thảm cảnh người dân Phi châu đang phải sống. Đặc biệt là phải duy trì mối dây liên lạc thường xuyên với các vùng đất thống khổ này. Thách đố không phải là cho chạy một hàng tít lớn trên nhật báo trong một ngày, mà là liên lỉ gây ý thức đối với lộ trình cuộc sống của các dân tộc này.
Hỏi: Thưa cha, trong các giáo xứ Italia càng ngày càng có nhiều linh mục tu sĩ hay giáo dân từ các nước Phi châu tới làm việc. Cha đánh giá sự phong phú này như thế nào?
Đáp: Nếu chúng ta nghĩ tới các anh chị em giáo dân, hay các linh mục tu sĩ là những người đến từ các nước châu Mỹ Latinh hay Phi châu, họ đã thường nắm giữ các trách nhiệm trong các giáo xứ hay giáo phận, mà chúng ta không thể tiếp đón hay thừa nhận, thì việc dấn thân sống chiều kích ”công giáo”, tức chiều kích đại đồng của Giáo Hội là điều hay cần phải thực hành.
Hỏi: Trong mùa Chay chúng ta được mời gọi sống đơn sơ thanh đạm, cả trong việc cho đi nữa, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Chắc chắn rồi, nhưng đây không phải chỉ là việc gửi các đồ cứu trợ mà thôi. Các thừa sai, mà chúng tôi trợ giúp, không chỉ sống trong một biên giới có tính cách xã hội hay giáo dục. Họ đang linh hoạt một cộng đoàn lòng tin mà chúng ta cũng phải lưu tâm và giữ cho ánh sáng đèn pha chiếu vào thực tại của họ, không chỉ vì số lượng tín hữu đông đảo. Nhưng cũng vì phẩm chất lòng tin của họ mời gọi chúng ta nữa. Họ sống trong các tình trạng khó khăn hơn chúng ta rất nhiều, nhưng vẫn sốt sắng, trung thực, đáng nêu gương sáng cho chúng ta, và cung cách sống lòng tin của họ dậy dỗ chúng ta rất nhiều điều.
(Avvenire 10-2-2008)
Giáo Phận Hồng Kông “bận rộn” nhất
Nguyễn Long Thao
10:36 19/02/2008
HỒNG KÔNG 18/02/08 -Trả lời cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nishika Patel của tờ Standard, Linh Mục Lawrence Lee, Chưởng Ấn Giáo Phận Hồng Kông cho biết các Linh Mục tại Hồng Kông bị áp lực nặng vì phải đối diện với một lượng công việc lớn trong một giáo phận bận rộn nhất thế giới.
Cha Chưởng Ấn cũng cho biết vì tình trạng thiếu Linh Mục cộng với lượng công việc gia tăng đã làm cho tình thần hàng giáo sĩ căng thẳng.
Cha Lee nói hiện nay giáo phận có 300 Linh Mục trên tổng số 250,000 ngưòi Công Giáo, và mỗi năm tăng thêm khoảng 2500 người. Trong số này có 30 Linh Mục đảm trách chủng viện và các công tác của 24 Ủy Ban địa phận. Như vậy trung bình một linh mục ở Hồng Kông phải đảm trách ít nhất 1000 giáo dân. Thông thường các Linh Mục phải làm việc với giáo dân đến 11 giờ đêm. Giáo Phận Hồng Kông là Giáo Phận bận rộn nhất vì là trung tâm tài chánh và là nơi kế cận Trung Hoa lục địa. Nhiều doanh gian đến Hồng Kông và sau đó đi vào Trung Quốc nên giáo phận cũng phải lo mục vụ cho những người này.
Sinh hoạt hằng ngày của một Linh Mục ở Hồng Kông là cử hành thánh lễ vào lúc 7 giờ sáng, sau đó làm các công tác mục vụ ỏ trường học, bệnh viện, cử hành tang lễ, thăm các gia đình. Vì là trung tâm thương mại nên các hoạt động của giáo xứ thường diễn ra vào buổi chiều tối. Sau khi đi làm về, tối đến, giáo dân mới đến nhà thờ hay gặp cha xứ. Các cuộc họp của giáo dân thường diễn ra sau 8 giờ tối và đến 11 giờ đêm cha xứ vẫn phải tiếp điện thoại của giáo dân. Tình trạng này thường hay xảy ra tại các giáo xứ trong các khu vực nghèo.
"Trong khi số linh mục thiếu thì tuổi trung bình của các linh mục tại Hồng Kông khá cao là 60 tuổi, nhưng các Ngài vẫn phải tiếp tục trông coi giáo xứ. Trong 7 năm qua, giáo phận chỉ có thêm 10 linh mục trong đó 4 người là từ Hồng Kông.
Linh Mục Benedict Lam, Phó Giám Đốc Chủng Viện Chúa Thánh Thần ở Hồng Kông đồng ý với những nhận định của cha Lawrence Lee. Cha Lee nói vì xã hội ngày càng tục hóa và gia đình ngày càng nhỏ bé nên ít có người đi tu.
Ngài kết luận:“ Bây giờ con người nhìn về đời sống đã khác biệt, họ có những giá trị khác với những giá trị thời xưa”
Cha Chưởng Ấn cũng cho biết vì tình trạng thiếu Linh Mục cộng với lượng công việc gia tăng đã làm cho tình thần hàng giáo sĩ căng thẳng.
Cha Lee nói hiện nay giáo phận có 300 Linh Mục trên tổng số 250,000 ngưòi Công Giáo, và mỗi năm tăng thêm khoảng 2500 người. Trong số này có 30 Linh Mục đảm trách chủng viện và các công tác của 24 Ủy Ban địa phận. Như vậy trung bình một linh mục ở Hồng Kông phải đảm trách ít nhất 1000 giáo dân. Thông thường các Linh Mục phải làm việc với giáo dân đến 11 giờ đêm. Giáo Phận Hồng Kông là Giáo Phận bận rộn nhất vì là trung tâm tài chánh và là nơi kế cận Trung Hoa lục địa. Nhiều doanh gian đến Hồng Kông và sau đó đi vào Trung Quốc nên giáo phận cũng phải lo mục vụ cho những người này.
Sinh hoạt hằng ngày của một Linh Mục ở Hồng Kông là cử hành thánh lễ vào lúc 7 giờ sáng, sau đó làm các công tác mục vụ ỏ trường học, bệnh viện, cử hành tang lễ, thăm các gia đình. Vì là trung tâm thương mại nên các hoạt động của giáo xứ thường diễn ra vào buổi chiều tối. Sau khi đi làm về, tối đến, giáo dân mới đến nhà thờ hay gặp cha xứ. Các cuộc họp của giáo dân thường diễn ra sau 8 giờ tối và đến 11 giờ đêm cha xứ vẫn phải tiếp điện thoại của giáo dân. Tình trạng này thường hay xảy ra tại các giáo xứ trong các khu vực nghèo.
"Trong khi số linh mục thiếu thì tuổi trung bình của các linh mục tại Hồng Kông khá cao là 60 tuổi, nhưng các Ngài vẫn phải tiếp tục trông coi giáo xứ. Trong 7 năm qua, giáo phận chỉ có thêm 10 linh mục trong đó 4 người là từ Hồng Kông.
Linh Mục Benedict Lam, Phó Giám Đốc Chủng Viện Chúa Thánh Thần ở Hồng Kông đồng ý với những nhận định của cha Lawrence Lee. Cha Lee nói vì xã hội ngày càng tục hóa và gia đình ngày càng nhỏ bé nên ít có người đi tu.
Ngài kết luận:“ Bây giờ con người nhìn về đời sống đã khác biệt, họ có những giá trị khác với những giá trị thời xưa”
Cơ sở Khâm Sứ Tòa Thánh tại Venezuela bị đặt bom
Nguyễn Long Thao
11:48 19/02/2008
CARACAS, Venezuela, 18/02/08. -Các Đức Giám Mục Venezuela đã lên tiếng yêu cầu chính quyền nước này phải có biện pháp bảo vệ tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại Caracas sau khi có vụ bom nổ bên ngoài tòa Khâm Sứ vào ngày Thứ Năm tuần qua.
Vụ bom nổ tuy không gây cho ai bị thương nhưng mặt tiền của tòa Khâm Sứ đã bị thiệt hại nhẹ và trên tường thấy viết nhựng câu có ý nghĩa chính trị
Trong bản tuyên cáo, Hội Đồng Giám Mục không những bày tỏ mối quan tâm về vụ tấn công bằng bom này mà còn nêu ra những vụ bạo động chính trị xảy ra nhiều nơi. Các đức Giám Mục đã kêu gọi mọi người bình tĩnh, thận trọng, tôn trọng quyền và tự do quy định trong hiến pháp
Bản tuyên cáo có đoạn viết: “Chúng tôi kêu gọi nhà chức trách phải thực hiện các cuộc điều tra thích ứng để trừng phạt những người đã dùng các hành vi bạo động. Chúng tôi cũng yêu cầu chính quyền quốc gia phảỉ làm đưa ra các biện pháp để bảo vệ cơ sở của Tòa Thánh, của cả người Công Giáo Venezuela, và là nhà của Đức Thánh Cha tại Venezuela”
Các Đức Giám Mục cũng bày tỏ sự ủng hộ đến đức TGM Giacinto Berloco, Khâm Sứ Tòa Thánh tại Venezuela, và hứa sẽ cầu nguyện cho mục đích và sự thành công của Ngài trong việc phát triển công việc ngoại giap và mục vụ”
Tưởng cũng nên nhắc lại từ khi Tổng Thống Hugo Chavez lên cầm quyền, ông đã áp dụng chính sách độc tài, phát xít, tước đoạt nhiều quyền tự do của con người, ban hành những đạo luật đi ngược với giáo huấn của Giáo Hội. Do vậy chính quyền của ông thường bị các ĐGM lên án. Hành động đặt bom trước cửa tòa Khâm Sứ được coi như là một thái độ của nhà cầm quyền phản đối chính sách của Giáo Hội Venezuela.
Vụ bom nổ tuy không gây cho ai bị thương nhưng mặt tiền của tòa Khâm Sứ đã bị thiệt hại nhẹ và trên tường thấy viết nhựng câu có ý nghĩa chính trị
Trong bản tuyên cáo, Hội Đồng Giám Mục không những bày tỏ mối quan tâm về vụ tấn công bằng bom này mà còn nêu ra những vụ bạo động chính trị xảy ra nhiều nơi. Các đức Giám Mục đã kêu gọi mọi người bình tĩnh, thận trọng, tôn trọng quyền và tự do quy định trong hiến pháp
Bản tuyên cáo có đoạn viết: “Chúng tôi kêu gọi nhà chức trách phải thực hiện các cuộc điều tra thích ứng để trừng phạt những người đã dùng các hành vi bạo động. Chúng tôi cũng yêu cầu chính quyền quốc gia phảỉ làm đưa ra các biện pháp để bảo vệ cơ sở của Tòa Thánh, của cả người Công Giáo Venezuela, và là nhà của Đức Thánh Cha tại Venezuela”
Các Đức Giám Mục cũng bày tỏ sự ủng hộ đến đức TGM Giacinto Berloco, Khâm Sứ Tòa Thánh tại Venezuela, và hứa sẽ cầu nguyện cho mục đích và sự thành công của Ngài trong việc phát triển công việc ngoại giap và mục vụ”
Tưởng cũng nên nhắc lại từ khi Tổng Thống Hugo Chavez lên cầm quyền, ông đã áp dụng chính sách độc tài, phát xít, tước đoạt nhiều quyền tự do của con người, ban hành những đạo luật đi ngược với giáo huấn của Giáo Hội. Do vậy chính quyền của ông thường bị các ĐGM lên án. Hành động đặt bom trước cửa tòa Khâm Sứ được coi như là một thái độ của nhà cầm quyền phản đối chính sách của Giáo Hội Venezuela.
Trung quốc “ăn năn” và tìm cách đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với Tòa thánh
Phụng Nghi
13:48 19/02/2008
Bắc Kinh (Sunday Times) - Bị cám dỗ bởi phần thưởng là một cuộc viếng thăm lịch sử của Đức giáo hoàng Bênêđictô 16 đến Trung quốc, các nhà lãnh đạo quốc gia này đã cho phép đổi mới một lần nữa nỗ lực trong các cuộc thảo luận kín đáo với Tòa thánh Vatican để hàn gắn vết rạn nứt và thiết lập các mối liên lạc ngoại giao.
Các cuộc thương thảo đã gia tăng trong những tháng vừa qua, khiến cho các quan sát viên ngoại giao tại Bắc kinh tin rằng Trung quốc đang cố tìm cách loan báo thành quả trước khi Thế vận hội khai diễn vào tháng tám năm nay.
Lưu Bái Niên, người cầm đầu trên thực tế giáo hội Yêu nước chính thức của Bắc kinh, trong nhiều dịp đã nói rằng ông ta muốn được đón tiếp Đức giáo hoàng tới Trung quốc một khi đã đạt được thỏa hiệp.
Trong lúc Tòa thánh Vatican nói rằng Tòa thánh chưa nhận được lời mời chính thức nào, thì các quan sát viên nói rằng những phát biểu của Lưu Bái Niên chắc hẳn phải được cấp thẩm quyền cao nhất của Trung quốc cho phép.
Lời tuyên bố công nhận nhau và cuộc viếng thăm của Đức giáo hoàng sẽ là cơ hội tuyên truyền lớn lao cho Trung quốc. Đó sẽ là phản ứng chống lại các quảng bá tiêu cực làm choáng váng Bắc kinh mới đây, cao điểm là việc nhà đạo diễn điện ảnh Steven Spiel-berg quyết định chấm dứt quan hệ chặt chẽ của ông với Thế vận hội, vì các chính sách của Trung quốc tại Sudan.
Một viên chức thâm niên của Vatican nói: “Các cuộc tiếp xúc đang tiến triển và chúng tôi có phần nào lạc quan.”
Cả hai phía đều giữ thận trọng tuyệt đối, tuy nhiên những nguồn tin thân cận với các cuộc thảo luận, diễn ra tại cơ sở của chính quyền tại Bắc kinh, nói rằng đã đạt đến giai đoạn chi tiết và có hiệu quả.
Một viên chức cao cấp của Tòa thánh Vatican nói rằng bất cứ ý kiến nào về cuộc viếng thăm (Trung quốc) của Đức thánh cha trước lễ khai mạc Thế vận hội vào tháng 8 này “là điều rất không tưởng”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao nói rằng chỉ nguyên một lời tuyên bố về thoả thuận giữa đôi bên và về một cuộc viếng thăm (của Đức thánh cha) trong tương lai cũng đủ làm một món quà ngoại giao tặng cho các nhà lãnh đạo Trung quốc.
Bối cảnh cho một cuộc hòa giải có thể xảy ra, giữa giáo hội Công giáo Roma và quốc gia vô thần chính thức rộng lớn nhất thế giới này, đã được tạo nên do một loạt những bước tiến được chuẩn bị chu đáo.
Tại Trung quốc có ít nhất 10 triệu người Công giáo, nhưng giáo dân bị phân rẽ giữa một bên chính thức là Hội Yêu nước và một bên là giáo hội chui, trong đó các thành viên phải kinh qua những cuộc tử đạo và giam cầm từ khi có cuộc cách mạng của cộng sản năm 1949.
Tháng 6 năm rồi Đức giáo hoàng có gửi một lá thư cho người Công giáo Trung quốc trong đó ngài khen ngợi lòng sùng đạo của giáo hội chui nhưng cũng khuyến khích sự hòa giải và hiệp nhất của mọi tín đồ Thiên Chúa giáo.
Lá thư lặp lại nhu cầu phải tuân phục Tòa thánh Vatican. Điều này khiến cho một số viên chức tại Bắc kinh giải thích một cách thuận lợi, cho đó là dấu hiệu cho biết Đức giáo hoàng muốn đem các giáo sĩ chui đặt vào hàng ngũ để thay đổi chính sách.
Vào tháng chín năm rồi, Vatican và Trung quốc có vẻ như đã đồng ý việc bổ nhiệm một giám mục mới cho Bắc kinh là Lý Sơn. Việc phong chức này là dấu hiệu cho biết có thể đạt được một sự thích nghi trong vấn đề khó khăn nhất giữa Rome và Bắc kinh, đó là quyền bổ nhiệm hàng giáo sĩ.
Năm 1951, ủy ban trung ương đảng Cộng sản Trung quốc lấy việc kiểm soát giáo hội làm chủ nghĩa cơ bản trong chính sách cai trị, tuyên bố rằng “thực dân và gián điệp ngoại quốc trong hàng ngũ tôn giáo cần phải được tiêu diệt tận gốc rễ”
Ngày 18 tháng 12 năm 2007 bộ chính trị họp để bàn về những điều mà các nhà sử học cộng sản gọi đây là phiên họp khoáng đại đầu tiên nhằm thảo luận tập thể về tôn giáo. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và các vị có uy quyền nhất nước Trung quốc ngồi suốt hai buổi nghe trình bày của các chuyên gia giải thích về Kitô giáo và các tín ngưỡng truyền thống Trung hoa.
Bản tin trong ấn bản tiếng Trung quốc của Tân Hoa xã, cơ quan thông tấn của nhà nước, đã tường thuật vô tư các diễn tiến mà không có những kiểu nói quen thuộc coi tôn giáo là tàn tích của chế độ phong kiến hoặc là thuốc phiện của nhân dân. Đồng thời một điều cũng không được tiên liệu là phát biểu riêng của chính Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp, mà các nhà ngoại giao nói rằng có lẽ có chủ đích để được Vatican nghiên cứu kỹ lưỡng.
Ông nói: “Đảng và nhà nước sẽ tìm đến những tín đồ đang gặp khó khăn và giúp đỡ họ khắc phục. Chúng tôi sẽ tìm hiểu đầy đủ các vấn đề và các thử thách mới trong việc điều hành những công việc về tôn giáo để chúng tôi có thể thi hành đúng đắn.”
Chủ tịch công nhận rằng các tôn giáo đã liên tục tồn tại trong đất nước và ông khen ngợi vai trò của các tôn giáo này trong sự nghiệp ổn định và hài hòa xã hội.
Bước tiến đã nhanh hơn từ hồi cuối tháng giêng năm nay khi người phát ngôn của bộ ngoại giao là Liu Jianchao nói: “Trung quốc liên tục suy tư về việc cải tiến quan hệ với Vatican. Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều và chúng tôi muốn duy trì sự tiếp xúc, thương thảo với Vatican và tích cực tìm kiếm những bước tiến nhằm cải thiện các mối liên hệ.”
Cũng có các dấu hiệu im lặng từ phía Vatican. Tòa thánh cho biết hồng y Joseph Zen (Trần Nhật Quân), giáo phận Hong Kong, đã từ lâu gay gắt chỉ trích giáo hội chính thức tại Hoa lục và thường lớn tiếng đòi dân chủ và tự do, sẽ về hưu vào năm tới.
Nguồn tin giáo hội tại Hong Kong cho biết hồng y Zen đã tranh luận vấn đề phải cực kỳ cẩn trọng và không thể vội vã trong việc thương thảo với Trung quốc. Nhưng một số người tại Vatican lại thấy đây là cơ hội lớn lao nhất để đem đạo Chúa vào Trung quốc kể từ ngày các nhà truyền giáo dòng Tên đầu tiên đến đất nước này nhiều thế kỷ trước.
Các nhà ngoại giao của Đức giáo hoàng cũng minh định rằng có thể giải quyết được một trở ngại chính khác trong việc công nhận hai bên, đó là mối quan hệ giữa Vatican và Đài loan.
Vatican đang sửa soạn chuyển toà đại sứ từ Đài bắc sang Bắc kinh, như một phần trong tiến trình thương lượng. Điều này làm cho nhiều tín hữu Công giáo Trung hoa bất mãn.
Một viên chức thâm niên của Vatican nói: “Không có vấn đề cắt đứt liên hệ với Đài loan, và chúng tôi vui mừng vì không can thiệp (vào nội bộ Trung quốc), nhưng chúng tôi có bổn phận phải truyền bá các giá trị của Tin Mừng.”
-----------------------------
Những niên đại quan trọng trong lịch sử Đạo Chúa tại Trung quốc:
Năm 1692: Hoàng đế Khang Hi ban hành sắc chỉ khoan dung cho các Kitô hữu, các thừa sai có thể lưu lại Trung quốc nếu họ tuân phục uy quyền của hoàng đế.
Năm 1951: Chính phủ cách mạng của Mao Trạch Đông kiểm soát giáo hội; trục xuất hàng giáo sĩ ngoại quốc.
Năm 1989: Các lãnh tụ Trung quốc tố cáo vai trò của giáo hội Ba lan trong việc làm sụp đổ chế độ cộng sản; xiết chặt các hạn chế về tôn giáo.
Năm 2005: ĐGH Bênêđictô 16 kế vị Gioan Phaolô II, cuộc đối thoại với Trung quốc khai diễn lần đầu.
Các cuộc thương thảo đã gia tăng trong những tháng vừa qua, khiến cho các quan sát viên ngoại giao tại Bắc kinh tin rằng Trung quốc đang cố tìm cách loan báo thành quả trước khi Thế vận hội khai diễn vào tháng tám năm nay.
Lưu Bái Niên, người cầm đầu trên thực tế giáo hội Yêu nước chính thức của Bắc kinh, trong nhiều dịp đã nói rằng ông ta muốn được đón tiếp Đức giáo hoàng tới Trung quốc một khi đã đạt được thỏa hiệp.
Trong lúc Tòa thánh Vatican nói rằng Tòa thánh chưa nhận được lời mời chính thức nào, thì các quan sát viên nói rằng những phát biểu của Lưu Bái Niên chắc hẳn phải được cấp thẩm quyền cao nhất của Trung quốc cho phép.
Lời tuyên bố công nhận nhau và cuộc viếng thăm của Đức giáo hoàng sẽ là cơ hội tuyên truyền lớn lao cho Trung quốc. Đó sẽ là phản ứng chống lại các quảng bá tiêu cực làm choáng váng Bắc kinh mới đây, cao điểm là việc nhà đạo diễn điện ảnh Steven Spiel-berg quyết định chấm dứt quan hệ chặt chẽ của ông với Thế vận hội, vì các chính sách của Trung quốc tại Sudan.
Một viên chức thâm niên của Vatican nói: “Các cuộc tiếp xúc đang tiến triển và chúng tôi có phần nào lạc quan.”
Cả hai phía đều giữ thận trọng tuyệt đối, tuy nhiên những nguồn tin thân cận với các cuộc thảo luận, diễn ra tại cơ sở của chính quyền tại Bắc kinh, nói rằng đã đạt đến giai đoạn chi tiết và có hiệu quả.
Một viên chức cao cấp của Tòa thánh Vatican nói rằng bất cứ ý kiến nào về cuộc viếng thăm (Trung quốc) của Đức thánh cha trước lễ khai mạc Thế vận hội vào tháng 8 này “là điều rất không tưởng”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao nói rằng chỉ nguyên một lời tuyên bố về thoả thuận giữa đôi bên và về một cuộc viếng thăm (của Đức thánh cha) trong tương lai cũng đủ làm một món quà ngoại giao tặng cho các nhà lãnh đạo Trung quốc.
Bối cảnh cho một cuộc hòa giải có thể xảy ra, giữa giáo hội Công giáo Roma và quốc gia vô thần chính thức rộng lớn nhất thế giới này, đã được tạo nên do một loạt những bước tiến được chuẩn bị chu đáo.
Tại Trung quốc có ít nhất 10 triệu người Công giáo, nhưng giáo dân bị phân rẽ giữa một bên chính thức là Hội Yêu nước và một bên là giáo hội chui, trong đó các thành viên phải kinh qua những cuộc tử đạo và giam cầm từ khi có cuộc cách mạng của cộng sản năm 1949.
Tháng 6 năm rồi Đức giáo hoàng có gửi một lá thư cho người Công giáo Trung quốc trong đó ngài khen ngợi lòng sùng đạo của giáo hội chui nhưng cũng khuyến khích sự hòa giải và hiệp nhất của mọi tín đồ Thiên Chúa giáo.
Lá thư lặp lại nhu cầu phải tuân phục Tòa thánh Vatican. Điều này khiến cho một số viên chức tại Bắc kinh giải thích một cách thuận lợi, cho đó là dấu hiệu cho biết Đức giáo hoàng muốn đem các giáo sĩ chui đặt vào hàng ngũ để thay đổi chính sách.
Vào tháng chín năm rồi, Vatican và Trung quốc có vẻ như đã đồng ý việc bổ nhiệm một giám mục mới cho Bắc kinh là Lý Sơn. Việc phong chức này là dấu hiệu cho biết có thể đạt được một sự thích nghi trong vấn đề khó khăn nhất giữa Rome và Bắc kinh, đó là quyền bổ nhiệm hàng giáo sĩ.
Năm 1951, ủy ban trung ương đảng Cộng sản Trung quốc lấy việc kiểm soát giáo hội làm chủ nghĩa cơ bản trong chính sách cai trị, tuyên bố rằng “thực dân và gián điệp ngoại quốc trong hàng ngũ tôn giáo cần phải được tiêu diệt tận gốc rễ”
Ngày 18 tháng 12 năm 2007 bộ chính trị họp để bàn về những điều mà các nhà sử học cộng sản gọi đây là phiên họp khoáng đại đầu tiên nhằm thảo luận tập thể về tôn giáo. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và các vị có uy quyền nhất nước Trung quốc ngồi suốt hai buổi nghe trình bày của các chuyên gia giải thích về Kitô giáo và các tín ngưỡng truyền thống Trung hoa.
Bản tin trong ấn bản tiếng Trung quốc của Tân Hoa xã, cơ quan thông tấn của nhà nước, đã tường thuật vô tư các diễn tiến mà không có những kiểu nói quen thuộc coi tôn giáo là tàn tích của chế độ phong kiến hoặc là thuốc phiện của nhân dân. Đồng thời một điều cũng không được tiên liệu là phát biểu riêng của chính Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp, mà các nhà ngoại giao nói rằng có lẽ có chủ đích để được Vatican nghiên cứu kỹ lưỡng.
Ông nói: “Đảng và nhà nước sẽ tìm đến những tín đồ đang gặp khó khăn và giúp đỡ họ khắc phục. Chúng tôi sẽ tìm hiểu đầy đủ các vấn đề và các thử thách mới trong việc điều hành những công việc về tôn giáo để chúng tôi có thể thi hành đúng đắn.”
Chủ tịch công nhận rằng các tôn giáo đã liên tục tồn tại trong đất nước và ông khen ngợi vai trò của các tôn giáo này trong sự nghiệp ổn định và hài hòa xã hội.
Bước tiến đã nhanh hơn từ hồi cuối tháng giêng năm nay khi người phát ngôn của bộ ngoại giao là Liu Jianchao nói: “Trung quốc liên tục suy tư về việc cải tiến quan hệ với Vatican. Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều và chúng tôi muốn duy trì sự tiếp xúc, thương thảo với Vatican và tích cực tìm kiếm những bước tiến nhằm cải thiện các mối liên hệ.”
Cũng có các dấu hiệu im lặng từ phía Vatican. Tòa thánh cho biết hồng y Joseph Zen (Trần Nhật Quân), giáo phận Hong Kong, đã từ lâu gay gắt chỉ trích giáo hội chính thức tại Hoa lục và thường lớn tiếng đòi dân chủ và tự do, sẽ về hưu vào năm tới.
Nguồn tin giáo hội tại Hong Kong cho biết hồng y Zen đã tranh luận vấn đề phải cực kỳ cẩn trọng và không thể vội vã trong việc thương thảo với Trung quốc. Nhưng một số người tại Vatican lại thấy đây là cơ hội lớn lao nhất để đem đạo Chúa vào Trung quốc kể từ ngày các nhà truyền giáo dòng Tên đầu tiên đến đất nước này nhiều thế kỷ trước.
Các nhà ngoại giao của Đức giáo hoàng cũng minh định rằng có thể giải quyết được một trở ngại chính khác trong việc công nhận hai bên, đó là mối quan hệ giữa Vatican và Đài loan.
Vatican đang sửa soạn chuyển toà đại sứ từ Đài bắc sang Bắc kinh, như một phần trong tiến trình thương lượng. Điều này làm cho nhiều tín hữu Công giáo Trung hoa bất mãn.
Một viên chức thâm niên của Vatican nói: “Không có vấn đề cắt đứt liên hệ với Đài loan, và chúng tôi vui mừng vì không can thiệp (vào nội bộ Trung quốc), nhưng chúng tôi có bổn phận phải truyền bá các giá trị của Tin Mừng.”
-----------------------------
Những niên đại quan trọng trong lịch sử Đạo Chúa tại Trung quốc:
Năm 1692: Hoàng đế Khang Hi ban hành sắc chỉ khoan dung cho các Kitô hữu, các thừa sai có thể lưu lại Trung quốc nếu họ tuân phục uy quyền của hoàng đế.
Năm 1951: Chính phủ cách mạng của Mao Trạch Đông kiểm soát giáo hội; trục xuất hàng giáo sĩ ngoại quốc.
Năm 1989: Các lãnh tụ Trung quốc tố cáo vai trò của giáo hội Ba lan trong việc làm sụp đổ chế độ cộng sản; xiết chặt các hạn chế về tôn giáo.
Năm 2005: ĐGH Bênêđictô 16 kế vị Gioan Phaolô II, cuộc đối thoại với Trung quốc khai diễn lần đầu.
ĐTC khuyến khích các Hội Dòng tìm lại Đoàn Sủng nguyên thủy và đề nghị vượt qua khó khăn về Ơn Gọi
Bùi Hữu Thư
21:27 19/02/2008
Đức Thánh Cha Khuyến Khích Các Hội dòng Tìm Lại Đoàn Sủng Nguyên Thủy Và Đề Nghị Bí Quyết Để Vượt Qua Được Khó Khăn Về Ơn Gọi
VATICAN (19/2/08) Đức Thánh Cha Benedict XVI nói: “Bí quyết cho các hội dòng, và các tu hội để vượt qua được cơn khủng hoảng về ơn gọi là họ cần phải sống tình yêu Đức Kitô vô điều kiện và tái tìm kiếm đoàn sủng nguyên thủy của đấng sáng lập.”
Đây là lời khuyên của Đức Thánh Cha ngày Thứ Hai vừa qua cho uỷ ban điều hành của Hiệp Hội Quốc tế Các Bề Trên Tổng Quyền, đang họp tại Vatican để suy niệm về “vài khía cạnh đặc biệt liên hệ và quan trọng của đời sống tận hiến.”
Trong bài nói chuyện của ngài được Vatican phổ biến hôm nay, Đức Thánh Cha nói, “Tất cả chúng ta đều biết rằng trong xã hội hoàn vũ tân tiến, càng ngày càng khó loan báo và làm nhân chứng Phúc Âm. Phương thức tục hóa đang lan tràn trong văn hóa hiện hành, và cũng không tha cả các cộng đoàn tu trì.”
Ngài tiếp, “Tuy nhiên, chúng ta không được nản lòng, vì - như đã được nói - nhiều đám mây đang bao phủ chân trời của đời sống tu trì hiện nay, nhưng cũng vẫn có - những dấu hiệu đang ngày càng gia tăng của một sự thức dậy thiêng liêng khiến cho chúng ta được an ủi và hy vọng.”
Đức Thánh Cha tiếp: “Thánh Thần thổi mạnh trên khắp Giáo Hội, tạo nên một sư cam kết trung thành, cả trong các cộng đoàn có truyền thống lịch sử, lẫn các hình thức mới về đời sống tận hiến đang phản ảnh nhu cầu của thời đại.”
"Những đặc điểm của các hình thức mới về đời sống tận hiến là một ước vọng chung để có một hình thức triệt để về sự nghèo nàn của Phúc Âm, về tình yêu Giáo Hội trung thành, và về sự cống hiến quảng đại cho người nghèo khó với một chú tâm đặc biệt đến sự nghèo nàn về tâm linh, đang ghi dấu đặc biệt trên thời đại tân tiến hiện nay.”
Các Cộng Đoàn Già Nua
Đức Thánh Cha Benedict XVI tiếp đó nói đến "các hội dòng và tu hội có truyền thống lâu đời trong Giáo Hội,” và ghi nhận rằng họ đã trải qua “một cuộc khủng hoảng khó khăn vì tuổi già của các thành viên, vì một sự thoái hóa ít nhiều về ơn gọi, và đôi khi, “một sự mệt mỏi” về tâm linh và đoàn sủng.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ngày nay, nhiều người trẻ nam và nữ “có cảm nhận mạnh mẽ về đời tu và cuộc sống tâm linh, nhưng chỉ muốn nghe và bước theo những ai là nhân chứng rõ ràng cho việc họ gắn bó với Chúa Kitô.”
Ngài nói, “Điều đáng chú ý là những hội dòng đã duy trì được và đã chọn một đời sống thông thường khổ hạnh và trung thành với Phúc Âm, lại đang có rất nhiều ơn gọi.”
Đức Thánh Cha nói thêm, “Ngày nay, cũng như trong tất cả mọi thời đại, không thiếu các linh hồn quảng đại sẵn sàng từ bỏ mọi người và mọi sự để ôm trọn Chúa Kitô và Phúc Âm của Chúa, tận hiến cuộc đời để phục vụ bên trong các cộng đoàn một cách hăng hái, quảng đại và hân hoan.”
Mặc dầu mô tả cuộc khủng hoảng này là “đáng lo ngại”, Đức Thánh Cha Benedict XVI đề cao một vài dấu hiệu tích cực, “nhất là khi các cộng đoàn đã chọn lựa việc trở về với nguồn gốc và sống theo đường lối gần sát với tinh thần của đấng sáng lập hơn. Trong hầu hết các hội nghị khoáng đại của các hội dòng, chủ đề thường được đưa ra chính là sự tái khám phá đoàn sủng nguyên thủy, để rồi tái hội nhập và canh tân đoàn sủng ấy trong hiện tại.”
Đức Thánh Cha nói, “Một sự tái khám phá như vậy giúp cho các hội dòng có một sự thúc đẩy mới về hình thức khổ hạnh, tông đồ và truyền giáo. Chúng ta phải tiếp tục tiến bước trên con đường này, và cầu nguyện với Thiên Chúa để mang lại thành quả mỹ mãn cho công trình Người đã khởi sự.”
Top Stories
Vietnam - Les jeunes catholiques du Vietnam du Nord placent leur congrès annuel sous le signe de l’évangélisation
Eglises D'Asie
18:12 19/02/2008
VIETNAM - Les jeunes catholiques du Vietnam du Nord placent leur congrès annuel sous le signe de l’évangélisation
Bulletin EDA n° 473 du 16/11/2007
Le Congrès de la jeunesse catholique des diocèses du Vietnam du Nord, qui a eu lieu les 8 et 9 novembre derniers à Hai Phong, constitue, selon les commentateurs vietnamiens, un événement dans l’histoire de l’Eglise du Vietnam à plusieurs égards. En premier lieu sans doute, bien que ce ne soit pas la première fois, le rassemblement de la jeunesse catholique de la moitié du pays reste un phénomène étonnant dans un pays où jusqu’ici, seuls les mouvements de jeunesse contrôlés par l’Etat et le Parti pouvaient se manifester sur le plan national. Par ailleurs, cet événement ecclésial s’est déroulé, pour la première fois, dans la partie Nord du Vietnam, dans des bâtiments publics, à savoir le Centre international des foires et des expositions de la ville de Hai Phong, qui a ouvert ses cinq hectares aux activités des jeunes catholiques des dix diocèses du Nord. Le Congrès de la jeunesse catholique s’est donc déroulé dans un lieu consacré ordinairement aux activités économiques d’un pays aujourd’hui en pleine croissance. Certains y ont vu la récompense des efforts persévérants de l’Eglise catholique au Vietnam pour rejoindre le cœur de la société civile, dont elle a été longtemps éloignée.
Comme c’est l’habitude depuis maintenant cinq années, chacun des diocèses de la partie Nord du Vietnam avait envoyé son contingent de jeunes catholiques à Hai Phong. Le nombre de participants appartenant au diocèse lui-même était évidemment le plus élevé. Mais le groupe de 1 220 jeunes venus du diocèse de Thanh Hoa suivait de près. Même les diocèses des régions montagneuses et isolées de Lang Son et de Hung Hoa avaient respectivement envoyé une cinquantaine de délégués. Au total, pour l’eucharistie du deuxième jour, sommet de la célébration, on a compté 13 000 participants. En dehors des prêtres et des évêques du pays, venus nombreux pour accompagner les jeunes, présider et animer les célébrations, étaient aussi présents des groupes étrangers: une délégation de jeunes Coréens, un représentant de la communauté de Taizé, un groupe de jeunes prêtres originaires de Hai Phong et exerçant leur ministère aux Etats-Unis.
Le thème choisi pour ce congrès était la phrase du Christ: « Suivez-moi ! » (Mc 11,17). Il était illustré par un logo représentant la barque de l’Eglise surmontée d’un mât en forme de croix et s’avançant vers le large. Dans le ciel, dix oiseaux de mer, représentant les dix diocèses du Nord, volaient en direction de la croix. Ce thème de l’évangélisation fut repris ensuite lors des diverses prédications, ou encore lors du concours d’instruction religieuse du premier jour, portant sur les chapitres 4 à 9 de l’Evangile de Luc. On le vit encore réapparaître le matin du jour suivant, lorsque que des jeunes de chaque diocèse présent vinrent témoigner publiquement d’une expérience chrétienne personnelle, en relation avec le contrôle des naissances, la drogue, la maladie de la lèpre, la vie conjugale et bien d’autres sujets. L’évangélisation fut encore le thème principal de l’eucharistie de clôture, présidée par l’archevêque de Hanoi, qui s’acheva par la remise de la croix à chacun des participants.
Les congrès de la jeunesse catholique au Vietnam ont commencé à être organisés sur le plan diocésain à la suite et sur le modèle des Journées mondiales de la jeunesse. A l’heure actuelle, la plupart des diocèses du Vietnam organisent ce type de rassemblement annuel à l’échelle du diocèse. C’est l’évêque de Thai Binh, Mgr François Nguyên Van Sang, qui, en 2002, eut l’idée d’organiser ce rassemblement pour l’ensemble des diocèses du Nord. L’initiative fut reprise l’année suivante par le diocèse de Phat Diêm, puis successivement par Hanoi, Thanh Hoa, Vinh et enfin Hai Phong.
Bulletin EDA n° 473 du 16/11/2007
Le Congrès de la jeunesse catholique des diocèses du Vietnam du Nord, qui a eu lieu les 8 et 9 novembre derniers à Hai Phong, constitue, selon les commentateurs vietnamiens, un événement dans l’histoire de l’Eglise du Vietnam à plusieurs égards. En premier lieu sans doute, bien que ce ne soit pas la première fois, le rassemblement de la jeunesse catholique de la moitié du pays reste un phénomène étonnant dans un pays où jusqu’ici, seuls les mouvements de jeunesse contrôlés par l’Etat et le Parti pouvaient se manifester sur le plan national. Par ailleurs, cet événement ecclésial s’est déroulé, pour la première fois, dans la partie Nord du Vietnam, dans des bâtiments publics, à savoir le Centre international des foires et des expositions de la ville de Hai Phong, qui a ouvert ses cinq hectares aux activités des jeunes catholiques des dix diocèses du Nord. Le Congrès de la jeunesse catholique s’est donc déroulé dans un lieu consacré ordinairement aux activités économiques d’un pays aujourd’hui en pleine croissance. Certains y ont vu la récompense des efforts persévérants de l’Eglise catholique au Vietnam pour rejoindre le cœur de la société civile, dont elle a été longtemps éloignée.
Comme c’est l’habitude depuis maintenant cinq années, chacun des diocèses de la partie Nord du Vietnam avait envoyé son contingent de jeunes catholiques à Hai Phong. Le nombre de participants appartenant au diocèse lui-même était évidemment le plus élevé. Mais le groupe de 1 220 jeunes venus du diocèse de Thanh Hoa suivait de près. Même les diocèses des régions montagneuses et isolées de Lang Son et de Hung Hoa avaient respectivement envoyé une cinquantaine de délégués. Au total, pour l’eucharistie du deuxième jour, sommet de la célébration, on a compté 13 000 participants. En dehors des prêtres et des évêques du pays, venus nombreux pour accompagner les jeunes, présider et animer les célébrations, étaient aussi présents des groupes étrangers: une délégation de jeunes Coréens, un représentant de la communauté de Taizé, un groupe de jeunes prêtres originaires de Hai Phong et exerçant leur ministère aux Etats-Unis.
Le thème choisi pour ce congrès était la phrase du Christ: « Suivez-moi ! » (Mc 11,17). Il était illustré par un logo représentant la barque de l’Eglise surmontée d’un mât en forme de croix et s’avançant vers le large. Dans le ciel, dix oiseaux de mer, représentant les dix diocèses du Nord, volaient en direction de la croix. Ce thème de l’évangélisation fut repris ensuite lors des diverses prédications, ou encore lors du concours d’instruction religieuse du premier jour, portant sur les chapitres 4 à 9 de l’Evangile de Luc. On le vit encore réapparaître le matin du jour suivant, lorsque que des jeunes de chaque diocèse présent vinrent témoigner publiquement d’une expérience chrétienne personnelle, en relation avec le contrôle des naissances, la drogue, la maladie de la lèpre, la vie conjugale et bien d’autres sujets. L’évangélisation fut encore le thème principal de l’eucharistie de clôture, présidée par l’archevêque de Hanoi, qui s’acheva par la remise de la croix à chacun des participants.
Les congrès de la jeunesse catholique au Vietnam ont commencé à être organisés sur le plan diocésain à la suite et sur le modèle des Journées mondiales de la jeunesse. A l’heure actuelle, la plupart des diocèses du Vietnam organisent ce type de rassemblement annuel à l’échelle du diocèse. C’est l’évêque de Thai Binh, Mgr François Nguyên Van Sang, qui, en 2002, eut l’idée d’organiser ce rassemblement pour l’ensemble des diocèses du Nord. L’initiative fut reprise l’année suivante par le diocèse de Phat Diêm, puis successivement par Hanoi, Thanh Hoa, Vinh et enfin Hai Phong.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại lễ kính Thánh Phêrô Hoàng Khanh tại GP. Vinh
Antôn Hoàng Trung Hoa
11:04 19/02/2008
Đại lễ kính Thánh Phêrô Hoàng Khanh
Trong một thập niên trở lại đây, từ ngày Đền thờ Thánh Phêrô Hoàng Khanh được xây dựng tại giáo họ Trung Hậu, thuộc giáo xứ chính tòa Xã Đoài, mỗi năm khi đến ngày lễ kính thánh nhân, hàng ngàn tín hữu trong giáo phận và cả nhiều người lương dân trong tỉnh Nghệ An hành hương về nơi đây để tham dự thánh lễ tạ ơn và cầu khấn với ngài. Thánh lễ kính ngài năm nay vào lúc 8h30’ do Đức cha Phaolô Maria chủ tế, hơn 40 linh mục đồng tế, có đông đảo tu sĩ nam nữ, chủng sinh ĐCV và khoảng 8.000 người tham dự.
Sở dĩ, hằng năm vào ngày lễ kính thánh Phêrô Hoàng Khanh có nhiều người tham dự như vậy, trước hết vì ngài là linh mục Giáo phận Vinh; kế đến, do ngày lễ kính 18-02 thường là còn nằm trong những ngày đầu Xuân.
1. Đôi nét tiểu sử Thánh Phêrô Hoàng Khanh (1780-1842)
Cuộc đời thánh Phêrô Hoàng Khanh gợi lên cho chúng ta một mùa gặt phong phú. Một người đổ mồ hôi gieo giống trên nương đồng, đến ngày thu hoạch thì vui ca, tay ôm bó lúa chín vàng lựng hương (Tv 125). Vì giữa những ngày bị bách hại đen tối, khi chủng viện chính thức bị giải tán, cha Hoàng Khanh là người đã đào tạo được 40 chủng sinh, trong số đó thành đạt tám linh mục.
Phêrô Hoàng Khanh sinh khoảng năm 1780 tại làng Nguyên Kiệt, xã Hòa Duyệt, tỉnh Nghệ An, sau theo cha mẹ lên Lương Khế (nay là xứ Trung Hòa). Ngay từ nhỏ, cha mẹ đã gửi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy giảng. vì thiệt thành với giáo hội và thấy rõ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin phép và được bề trên chấp nhận cho học thêm để trở thành linh mục. Tới năm 22 tuổi, theo giúp cha già Đại. Nếu ngày xưa thánh Ignatiô đã ngoài 30 tuổi còn cắp sách đến trường thì thầy Khanh năm 25 tuổi mới bắt đầu vật lộn với những mẫu chia danh từ Latinh đầu tiên. Suốt 14 năm liền, thầy kiên trì tự học, tìm các linh mục để hỏi thêm và cuối cùng thầy được toại nguyện, được vào Chủng viện Vĩnh Trị. Năm 1819, khi đã 39 tuổi, thầy thụ phong linh mục tại Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) do Ðức Cha phó Guérard Ðoan.
Như một nhà thám hiểm leo núi, khi đã tới đỉnh núi, nhìn thấy cả một bầu trời rộng lớn bao la thì muốn mời gọi nhiều người cùng lên cao với mình. Cha Khanh sau khi đã lãnh sứ vụ linh mục, nhìn thấy rõ hơn cánh đồng Việt Nam bát ngát còn thiếu thợ gặt, biết bao tín hữu cần người săn sóc rao giảng Tin Mừng cứu độ. Cha thấy rõ số thừa sai và linh mục bạn nằm xuống trong cuộc bách hại, việc truyền giáo cần những bàn tay kế thừa và phát triển. do đó, tuy bận rộn với việc mục vụ, cha đầu tư mọi khả năng của mình đào tạo linh mục tương lại.
Theo sự điều động của giáo phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: phụ trách xứ Trại Lê (7 năm), Quỳnh Lưu (14 năm), rồi sau đến các xứ Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) (1 năm), Làng Truông (1 năm), Ngàn Sâu. Nhưng bất cứ ở nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha nuôi một số thiếu niên nam, dạy giáo lý, hướng dẫn và gợi lên trong các em nhiệt tâm tông đồ. Với tình yêu của người cha, với sự thận trọng tinh tế của một nghệ sĩ, cha chú tâm vào việc đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai trong Giáo hội.
Bên cạnh những bài học và lời giáo huấn, chính đời sống cha là một gương sống động cho họ, khi cha dâng lễ, mọi người như gặp gỡ được Thiên Chúa. Khi cha giảng, mọi người đều thấy sốt sắng thêm lên. Không bao giờ cha ngại ngùng với bất cứ điều gì. Vì ích lợi các linh hồn, cha vui vẻ chu toàn các công tác không một lời ta thán. Giữa đêm khuya, nếu có ai gọi đi giúp bệnh nhân, sẽ thấy cha nhanh nhẹn thế nào.
Trong một giai đoạn lịch sử khó khăn, việc đào tạo phải thực hiện cách lén lút và riêng tư từng người một thì con số 40 chủng sinh, tám linh mục, quả là con số đáng kể với 22 năm linh mục của cha, quả là bó lúa vàng nặng trĩu hạt mà cha đóng góp được cho Giáo hội Việt Nam.
Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, tình hình Giáo hội có vẻ tự do hơn, cha Khanh càng an tâm và hăng say với sứ vụ tông đồ hơn trước. Nào ngờ cuối tháng 1.1842, khi tháp tùng cha Masson, phụ tá giám quản đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị quân lính chặn lại khám xét và bắt giam.
Mới vào tù được ít bữa, cha đã được mọi người kể cả lính canh ngục quí mến vì tính vui vẻ và hòa nhã. Uy tín của cha gia tăng nhờ tài năng y sỹ, nhất là sau một lần chữa bệnh nổi tiếng. Viên cai ngục ở Hã Tĩnh có một cô tình nhân đang mang thai lại mắc bệnh, cô đã chạy nhiều thầy thuốc nhưng vẫn chưa khỏi. Nghe lời đồn đãi, ông cai đến nhờ cha Khanh chữa trị, và đích thân đưa cha đến phòng bệnh nhân.
Sau khi chẩn bệnh, cha kê cho ông một toa thuốc nam gồm năm loại dược thảo để sắc lên cho bệnh nhân uống. Sáng hôm sau, một gia nhân của ông cai đến lạy cha ba lạy để báo tin bệnh đã thuyên giảm. Cha hỏi lại bệnh đã giảm thật chưa, rồi cho thêm một ngày nữa, đến ngày thứ ba bệnh khỏi hẳn. Từ đó, khắp miền Hà Tĩnh đều biết tiếng và ca tụng người tù nhân là thầy thuốc “mát tay”. Nhưng điều cha vui mừng thực sự không phải vì tiếng đồn cho bằng việc có nhiều người đến xin học đạo, trong đó có song thân của quan án. Ngay cả cô gái đã được cha chữa trị, sau khi sinh con trai, cũng đến xin cha rửa tội cho mình và con.
Vì mến phục vị chứng nhân đức tin, các quan tỉnh tìm cách cứu cha khỏi chết. Các ông đề nghị cha giấu chức vụ linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang thì họ tìm cách xin ân xá. Nhưng cha Khanh không chấp nhận đề nghị phải nói dối ấy. Thế là bản án của cha được gởi về Huế để vua Thiệu Trị ký duyệt. Ngày 11.7.1842, bản án được gửi lại Hà Tỉnh kết án cha là “một kẻ điên rồ”, mù quáng và dốt nát đáng chém đầu.
Ngay sáng hôm sau, 12.7.1842, bản án được thi hành, chấm dứt năm tháng rưỡi ngục tù và 62 năm sống trên dương thế của vị chứng nhân đức tin. Thi thể vị tử đạo được đưa về Kẻ Gốm, cha Masson cử hành tang lễ cách trọng thể với sự tham dự đông đảo của các tín hữu. Ngày 18/2/1996, khánh thành Nhà thờ mới Trung Hậu, thi hài Ngài được cất giữ trong một Ðền thánh riêng, gần cung thánh, vì vậy lễ kính ngài được cử hành vào ngày 18/2 hằng năm.
Ngày 02.5.1909, Đức Giáo hoàng Piô X suy tôn cha Phêrô Hoàng Khanh lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
2. Phụng vụ trong màu sắc lễ hội
Như đã nói trên đây, ngày lễ kính thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh 18-2 thường nhằm những ngày đầu Xuân, nên bầu không khí mừng kính ngài xen lẫn giữa lễ nghi tôn giáo và lễ hội dân tộc.
Không phải chỉ vào ngày chính lễ, mà ngay cả những ngày trước đó, nhiều tín hữu và bà con lương dân trong khi đi vui Xuân mừng Tết cũng đã ghé vào Đền Thánh để cầu khấn với thánh Phêrô Hoàng Khanh. Rồi ngay đêm trước ngày lễ, giáo họ Trung Hậu cũng đã tổ chức đêm canh thức đượm màu dân tộc để suy tôn và cầu nguyện cùng thánh nhân. Nhất là vào ngày chính lễ, ngay từ sáng sớm, nhiều người từ xa đã bất chấp giá lạnh, tìm về với Đền Thánh để tham dự thánh lễ và để được chia sẻ niềm vui của ngày đại lễ đầu năm. Thêm vào đó, có nhiều người lương dân cũng đã tham dự trọn vẹn thánh lễ và sau đó mang hoa hương đèn nến vào dâng kính thánh nhân khiến ngày lễ thực sự trở nên như lễ hội cho mọi người.
Chính vì như một lễ hội, nên ngay cả những trung tâm đào tạo như Dòng tu, Đại Chủng Viện Vinh Thanh, Tiền Chủng viện Vinh đều được nghỉ học để các tu sĩ, chủng sinh được hòa mình trong bầu không khí vui tươi, thánh thiêng này.
Trước đông đảo người tham dự như vậy, trong bài giảng lễ, sau khi lược qua cuộc đời của thánh nhân, Đức cha Phaolô Maria đã nói: “Quả thật, chúng ta phải cảm phục trước sự hy sinh anh dũng của Phêrô Hoàng Khanh. Nhưng phải nói rằng, cơ hội để được tử đạo như ngài cũng không phải là dễ: phải có môi trường để đổ máu vì Chúa. Nói như thế, không có nghĩa là ngày nay chúng ta không có dịp tử đạo như thánh nhân. Theo nguyên ngữ: tử đạo là làm chứng cho Chúa. Như thế, tử đạo không nằm ở giây phút chấm dứt sự sống thể chất vì Chúa, mà còn có thể bằng sự hy sinh mến yêu từng giây phút trong cuộc đời. Khi ta nỗ lực để chiến thắng những cám dỗ, tội lỗi, ích kỷ, thù hận; khi ta can đảm chống lại bất công, bênh vực những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng; khi ta dám dấn thân để phục vụ cho những lợi ích của xã hội, của mọi người, sống tử tế với tha nhân, thành thật với chính mình đó là lúc ta đang tử đạo.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải liên lỉ bước theo Chúa trong hành trình vượt qua. Hãy can trường lên, vì có qua thập giá mới được cứu độ, qua đau khổ mới được vinh quang! Hạt lúa cuộc đời ta có mục nát đi mới đơm bông trổ hạt.”
Hẳn là mọi người đến đây, ngoài việc chung lời tạ ơn Thiên Chúa, cầu xin những phúc lành cho năm mới, gặp gỡ nhau đầu năm, mọi người còn muốn cất lên lời khấn nguyện như Đức cha: “Lạy thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh là cha, là anh chúng con. Xin cầu cho mỗi người chúng con cũng biết sẵn sàng sống cho Chúa và cho anh em, để sau khi đi hết hành trình trần thế này, chúng con được đoàn tụ cùng cha trong gia đình Thiên Chúa, được hưởng mùa xuân không bao giờ tàn úa trên quê trời”.
Trong một thập niên trở lại đây, từ ngày Đền thờ Thánh Phêrô Hoàng Khanh được xây dựng tại giáo họ Trung Hậu, thuộc giáo xứ chính tòa Xã Đoài, mỗi năm khi đến ngày lễ kính thánh nhân, hàng ngàn tín hữu trong giáo phận và cả nhiều người lương dân trong tỉnh Nghệ An hành hương về nơi đây để tham dự thánh lễ tạ ơn và cầu khấn với ngài. Thánh lễ kính ngài năm nay vào lúc 8h30’ do Đức cha Phaolô Maria chủ tế, hơn 40 linh mục đồng tế, có đông đảo tu sĩ nam nữ, chủng sinh ĐCV và khoảng 8.000 người tham dự.
Sở dĩ, hằng năm vào ngày lễ kính thánh Phêrô Hoàng Khanh có nhiều người tham dự như vậy, trước hết vì ngài là linh mục Giáo phận Vinh; kế đến, do ngày lễ kính 18-02 thường là còn nằm trong những ngày đầu Xuân.
1. Đôi nét tiểu sử Thánh Phêrô Hoàng Khanh (1780-1842)
Cuộc đời thánh Phêrô Hoàng Khanh gợi lên cho chúng ta một mùa gặt phong phú. Một người đổ mồ hôi gieo giống trên nương đồng, đến ngày thu hoạch thì vui ca, tay ôm bó lúa chín vàng lựng hương (Tv 125). Vì giữa những ngày bị bách hại đen tối, khi chủng viện chính thức bị giải tán, cha Hoàng Khanh là người đã đào tạo được 40 chủng sinh, trong số đó thành đạt tám linh mục.
Phêrô Hoàng Khanh sinh khoảng năm 1780 tại làng Nguyên Kiệt, xã Hòa Duyệt, tỉnh Nghệ An, sau theo cha mẹ lên Lương Khế (nay là xứ Trung Hòa). Ngay từ nhỏ, cha mẹ đã gửi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy giảng. vì thiệt thành với giáo hội và thấy rõ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin phép và được bề trên chấp nhận cho học thêm để trở thành linh mục. Tới năm 22 tuổi, theo giúp cha già Đại. Nếu ngày xưa thánh Ignatiô đã ngoài 30 tuổi còn cắp sách đến trường thì thầy Khanh năm 25 tuổi mới bắt đầu vật lộn với những mẫu chia danh từ Latinh đầu tiên. Suốt 14 năm liền, thầy kiên trì tự học, tìm các linh mục để hỏi thêm và cuối cùng thầy được toại nguyện, được vào Chủng viện Vĩnh Trị. Năm 1819, khi đã 39 tuổi, thầy thụ phong linh mục tại Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) do Ðức Cha phó Guérard Ðoan.
Như một nhà thám hiểm leo núi, khi đã tới đỉnh núi, nhìn thấy cả một bầu trời rộng lớn bao la thì muốn mời gọi nhiều người cùng lên cao với mình. Cha Khanh sau khi đã lãnh sứ vụ linh mục, nhìn thấy rõ hơn cánh đồng Việt Nam bát ngát còn thiếu thợ gặt, biết bao tín hữu cần người săn sóc rao giảng Tin Mừng cứu độ. Cha thấy rõ số thừa sai và linh mục bạn nằm xuống trong cuộc bách hại, việc truyền giáo cần những bàn tay kế thừa và phát triển. do đó, tuy bận rộn với việc mục vụ, cha đầu tư mọi khả năng của mình đào tạo linh mục tương lại.
Theo sự điều động của giáo phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: phụ trách xứ Trại Lê (7 năm), Quỳnh Lưu (14 năm), rồi sau đến các xứ Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) (1 năm), Làng Truông (1 năm), Ngàn Sâu. Nhưng bất cứ ở nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha nuôi một số thiếu niên nam, dạy giáo lý, hướng dẫn và gợi lên trong các em nhiệt tâm tông đồ. Với tình yêu của người cha, với sự thận trọng tinh tế của một nghệ sĩ, cha chú tâm vào việc đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai trong Giáo hội.
Bên cạnh những bài học và lời giáo huấn, chính đời sống cha là một gương sống động cho họ, khi cha dâng lễ, mọi người như gặp gỡ được Thiên Chúa. Khi cha giảng, mọi người đều thấy sốt sắng thêm lên. Không bao giờ cha ngại ngùng với bất cứ điều gì. Vì ích lợi các linh hồn, cha vui vẻ chu toàn các công tác không một lời ta thán. Giữa đêm khuya, nếu có ai gọi đi giúp bệnh nhân, sẽ thấy cha nhanh nhẹn thế nào.
Trong một giai đoạn lịch sử khó khăn, việc đào tạo phải thực hiện cách lén lút và riêng tư từng người một thì con số 40 chủng sinh, tám linh mục, quả là con số đáng kể với 22 năm linh mục của cha, quả là bó lúa vàng nặng trĩu hạt mà cha đóng góp được cho Giáo hội Việt Nam.
Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, tình hình Giáo hội có vẻ tự do hơn, cha Khanh càng an tâm và hăng say với sứ vụ tông đồ hơn trước. Nào ngờ cuối tháng 1.1842, khi tháp tùng cha Masson, phụ tá giám quản đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị quân lính chặn lại khám xét và bắt giam.
Mới vào tù được ít bữa, cha đã được mọi người kể cả lính canh ngục quí mến vì tính vui vẻ và hòa nhã. Uy tín của cha gia tăng nhờ tài năng y sỹ, nhất là sau một lần chữa bệnh nổi tiếng. Viên cai ngục ở Hã Tĩnh có một cô tình nhân đang mang thai lại mắc bệnh, cô đã chạy nhiều thầy thuốc nhưng vẫn chưa khỏi. Nghe lời đồn đãi, ông cai đến nhờ cha Khanh chữa trị, và đích thân đưa cha đến phòng bệnh nhân.
Sau khi chẩn bệnh, cha kê cho ông một toa thuốc nam gồm năm loại dược thảo để sắc lên cho bệnh nhân uống. Sáng hôm sau, một gia nhân của ông cai đến lạy cha ba lạy để báo tin bệnh đã thuyên giảm. Cha hỏi lại bệnh đã giảm thật chưa, rồi cho thêm một ngày nữa, đến ngày thứ ba bệnh khỏi hẳn. Từ đó, khắp miền Hà Tĩnh đều biết tiếng và ca tụng người tù nhân là thầy thuốc “mát tay”. Nhưng điều cha vui mừng thực sự không phải vì tiếng đồn cho bằng việc có nhiều người đến xin học đạo, trong đó có song thân của quan án. Ngay cả cô gái đã được cha chữa trị, sau khi sinh con trai, cũng đến xin cha rửa tội cho mình và con.
Vì mến phục vị chứng nhân đức tin, các quan tỉnh tìm cách cứu cha khỏi chết. Các ông đề nghị cha giấu chức vụ linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang thì họ tìm cách xin ân xá. Nhưng cha Khanh không chấp nhận đề nghị phải nói dối ấy. Thế là bản án của cha được gởi về Huế để vua Thiệu Trị ký duyệt. Ngày 11.7.1842, bản án được gửi lại Hà Tỉnh kết án cha là “một kẻ điên rồ”, mù quáng và dốt nát đáng chém đầu.
Ngay sáng hôm sau, 12.7.1842, bản án được thi hành, chấm dứt năm tháng rưỡi ngục tù và 62 năm sống trên dương thế của vị chứng nhân đức tin. Thi thể vị tử đạo được đưa về Kẻ Gốm, cha Masson cử hành tang lễ cách trọng thể với sự tham dự đông đảo của các tín hữu. Ngày 18/2/1996, khánh thành Nhà thờ mới Trung Hậu, thi hài Ngài được cất giữ trong một Ðền thánh riêng, gần cung thánh, vì vậy lễ kính ngài được cử hành vào ngày 18/2 hằng năm.
Ngày 02.5.1909, Đức Giáo hoàng Piô X suy tôn cha Phêrô Hoàng Khanh lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
2. Phụng vụ trong màu sắc lễ hội
Như đã nói trên đây, ngày lễ kính thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh 18-2 thường nhằm những ngày đầu Xuân, nên bầu không khí mừng kính ngài xen lẫn giữa lễ nghi tôn giáo và lễ hội dân tộc.
Không phải chỉ vào ngày chính lễ, mà ngay cả những ngày trước đó, nhiều tín hữu và bà con lương dân trong khi đi vui Xuân mừng Tết cũng đã ghé vào Đền Thánh để cầu khấn với thánh Phêrô Hoàng Khanh. Rồi ngay đêm trước ngày lễ, giáo họ Trung Hậu cũng đã tổ chức đêm canh thức đượm màu dân tộc để suy tôn và cầu nguyện cùng thánh nhân. Nhất là vào ngày chính lễ, ngay từ sáng sớm, nhiều người từ xa đã bất chấp giá lạnh, tìm về với Đền Thánh để tham dự thánh lễ và để được chia sẻ niềm vui của ngày đại lễ đầu năm. Thêm vào đó, có nhiều người lương dân cũng đã tham dự trọn vẹn thánh lễ và sau đó mang hoa hương đèn nến vào dâng kính thánh nhân khiến ngày lễ thực sự trở nên như lễ hội cho mọi người.
Chính vì như một lễ hội, nên ngay cả những trung tâm đào tạo như Dòng tu, Đại Chủng Viện Vinh Thanh, Tiền Chủng viện Vinh đều được nghỉ học để các tu sĩ, chủng sinh được hòa mình trong bầu không khí vui tươi, thánh thiêng này.
Trước đông đảo người tham dự như vậy, trong bài giảng lễ, sau khi lược qua cuộc đời của thánh nhân, Đức cha Phaolô Maria đã nói: “Quả thật, chúng ta phải cảm phục trước sự hy sinh anh dũng của Phêrô Hoàng Khanh. Nhưng phải nói rằng, cơ hội để được tử đạo như ngài cũng không phải là dễ: phải có môi trường để đổ máu vì Chúa. Nói như thế, không có nghĩa là ngày nay chúng ta không có dịp tử đạo như thánh nhân. Theo nguyên ngữ: tử đạo là làm chứng cho Chúa. Như thế, tử đạo không nằm ở giây phút chấm dứt sự sống thể chất vì Chúa, mà còn có thể bằng sự hy sinh mến yêu từng giây phút trong cuộc đời. Khi ta nỗ lực để chiến thắng những cám dỗ, tội lỗi, ích kỷ, thù hận; khi ta can đảm chống lại bất công, bênh vực những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng; khi ta dám dấn thân để phục vụ cho những lợi ích của xã hội, của mọi người, sống tử tế với tha nhân, thành thật với chính mình đó là lúc ta đang tử đạo.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải liên lỉ bước theo Chúa trong hành trình vượt qua. Hãy can trường lên, vì có qua thập giá mới được cứu độ, qua đau khổ mới được vinh quang! Hạt lúa cuộc đời ta có mục nát đi mới đơm bông trổ hạt.”
Hẳn là mọi người đến đây, ngoài việc chung lời tạ ơn Thiên Chúa, cầu xin những phúc lành cho năm mới, gặp gỡ nhau đầu năm, mọi người còn muốn cất lên lời khấn nguyện như Đức cha: “Lạy thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh là cha, là anh chúng con. Xin cầu cho mỗi người chúng con cũng biết sẵn sàng sống cho Chúa và cho anh em, để sau khi đi hết hành trình trần thế này, chúng con được đoàn tụ cùng cha trong gia đình Thiên Chúa, được hưởng mùa xuân không bao giờ tàn úa trên quê trời”.
Học Thánh Kinh áp dụng Phương pháp ''Muối Đất''
Tôma Hoàng Kim Khánh
12:00 19/02/2008
HUẾ, Việt Nam: "Muối Đất, một phương pháp học Thánh Kinh mới, lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam". Đức Giám Mục Phụ tá Tổng Giáo phận Huế Phan-xi-cô Xa-vi-ê Lê Văn Hồng đã nói với các tham dự viên khi Ngài khai mạc Lớp Học Thánh Kinh tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận Huế, lúc 8 giờ ngày 16-02-2008.
Khác với các phương pháp dạy và học Thánh Kinh hiện hành, phương pháp Muối Đất: Phát huy vai trò chủ động, và sự tự khám phá kho tàng Thánh Kinh của người học nhưng việc hiểu đúng Thánh kinh là quan trọng vì thế việc chia sẻ kết quả của việc học tập cá nhân với các học viên khác cùng lớp là khâu chủ yếu trong tiến trình tiếp thu bài học. Phương pháp Muối Đất đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hành Lời Chúa trong phục vụ cộng đồng. Phương pháp này không phủ nhận giá trị của các phương pháp khác nhưng biết kết hợp với chúng khi cần thiết và thích hợp.
Phương pháp Muối Đất được nghiên cứu từ cách đây 20 năm và đang được áp dụng có hiệu quả ở các cộng đoàn, đặc biệt là các cộng đoàn Công giáo người Việt tại giáo phận Seattle, Hoa Kỳ.
Trước thực trạng ngày càng nhiều người Kitô hữu không ham thích, chán ngán việc học hỏi Lời Chúa vì nhiều lí do nhưng nguyên nhân chính do không biết phương pháp, hoặc lựa chọn phương pháp học thiếu phù hợp. Việc Đức Giám Mục Phụ tá đã mau mắn cho phép áp dụng phương pháp Muối Đất trong việc học hỏi Lời Chúa tại Tổng Giáo phận Huế như là một trong những nỗ lực tìm cách giải quyết vấn nạn trên.
Ngài tin tưởng giới thiệu với các học viên: " Muối Đất dịch nghĩa của từ SALT, những chữ đầu của cụm từ Scipture Leadership training mang ý của câu "Chính anh em là Muối cho đời" (Mt 5,13). Tôi tin rằng từ việc học Thánh Kinh bằng phương pháp Muối Đất, anh chị em sẽ yêu mến, sống kết hiệp mật thiết với Chúa để "lãnh đạo" theo nghĩa là người phục vụ anh em. Anh chị em sẽ là muối mặn tình Chúa và mặn tình người".
Cha Joankim Lê Thanh Hoàng, Đặc trách Giáo dân Giáo phận Huế cho biết: Vào thời điểm này, Ban Giáo Dân tổ chức 2 lớp, một lớp học Xuất Hành, một lớp học Mát-cô. Chương trình gồm 12 buổi học, do yêu cầu học viên phải có thời gian tự nghiên cứu, và làm bài tập, … nên cứ 2 tuần tập trung học trọn 1 ngày. Ngài cho biết thêm mỗi lớp chỉ nhận 20 học viên, ưu tiên cho những giáo dân nòng cốt, còn lại dành cho Linh mục, Tu sĩ nam nữ của các Hội Dòng trong Giáo phận.
Trong số những học viên học lớp Xuất Hành, Nữ tu Ma-ri-a Nguyễn Thị Thu Thủy, thuộc Dòng Con Đức Mẹ Di Viếng, khiêm tốn chia sẻ: "Mặc dầu đã được học Thánh Kinh, nhưng nhận thấy chưa đủ, chưa thấm vào đâu nên được học thêm, và bằng phương pháp mới là điều hữu ích và thích thú".
Cha Phan-xi-cô Xa-vi-ê Lê Văn Cao, đã nghỉ hưu nhưng vẫn nhiệt tình, hăng hái theo học, Ngài nói: "Tôi mới bán hưu thôi, vì hiện còn Đặc trách Gia Đình và Tân Dự Tòng của giáo phận, phải đi học cho có bài bản để giúp nhiều hơn cho giáo dân".
Chị Ma-đa-lê-na Nguyễn Thị Lợi giáo xứ Phường Đúc, anh An-rê Trần Văn Đông giáo xứ Ngọc Hồ, chị An-nê Nguyễn Thị Kim Chúc giáo xứ Phú Hậu, … là những Tác Viên Tin Mừng của Giáo phận, chân thành chia sẻ "họ phải học Thánh Kinh để rao giảng Thánh Kinh".
Hai lớp học Xuất Hành, và Mát-cô đều do ông Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội, một trong những thành viên của nhóm nghiên cứu phương pháp Muối Đất, trực tiếp hướng dẫn.
Khác với các phương pháp dạy và học Thánh Kinh hiện hành, phương pháp Muối Đất: Phát huy vai trò chủ động, và sự tự khám phá kho tàng Thánh Kinh của người học nhưng việc hiểu đúng Thánh kinh là quan trọng vì thế việc chia sẻ kết quả của việc học tập cá nhân với các học viên khác cùng lớp là khâu chủ yếu trong tiến trình tiếp thu bài học. Phương pháp Muối Đất đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hành Lời Chúa trong phục vụ cộng đồng. Phương pháp này không phủ nhận giá trị của các phương pháp khác nhưng biết kết hợp với chúng khi cần thiết và thích hợp.
Phương pháp Muối Đất được nghiên cứu từ cách đây 20 năm và đang được áp dụng có hiệu quả ở các cộng đoàn, đặc biệt là các cộng đoàn Công giáo người Việt tại giáo phận Seattle, Hoa Kỳ.
Trước thực trạng ngày càng nhiều người Kitô hữu không ham thích, chán ngán việc học hỏi Lời Chúa vì nhiều lí do nhưng nguyên nhân chính do không biết phương pháp, hoặc lựa chọn phương pháp học thiếu phù hợp. Việc Đức Giám Mục Phụ tá đã mau mắn cho phép áp dụng phương pháp Muối Đất trong việc học hỏi Lời Chúa tại Tổng Giáo phận Huế như là một trong những nỗ lực tìm cách giải quyết vấn nạn trên.
Ngài tin tưởng giới thiệu với các học viên: " Muối Đất dịch nghĩa của từ SALT, những chữ đầu của cụm từ Scipture Leadership training mang ý của câu "Chính anh em là Muối cho đời" (Mt 5,13). Tôi tin rằng từ việc học Thánh Kinh bằng phương pháp Muối Đất, anh chị em sẽ yêu mến, sống kết hiệp mật thiết với Chúa để "lãnh đạo" theo nghĩa là người phục vụ anh em. Anh chị em sẽ là muối mặn tình Chúa và mặn tình người".
Cha Joankim Lê Thanh Hoàng, Đặc trách Giáo dân Giáo phận Huế cho biết: Vào thời điểm này, Ban Giáo Dân tổ chức 2 lớp, một lớp học Xuất Hành, một lớp học Mát-cô. Chương trình gồm 12 buổi học, do yêu cầu học viên phải có thời gian tự nghiên cứu, và làm bài tập, … nên cứ 2 tuần tập trung học trọn 1 ngày. Ngài cho biết thêm mỗi lớp chỉ nhận 20 học viên, ưu tiên cho những giáo dân nòng cốt, còn lại dành cho Linh mục, Tu sĩ nam nữ của các Hội Dòng trong Giáo phận.
Trong số những học viên học lớp Xuất Hành, Nữ tu Ma-ri-a Nguyễn Thị Thu Thủy, thuộc Dòng Con Đức Mẹ Di Viếng, khiêm tốn chia sẻ: "Mặc dầu đã được học Thánh Kinh, nhưng nhận thấy chưa đủ, chưa thấm vào đâu nên được học thêm, và bằng phương pháp mới là điều hữu ích và thích thú".
Cha Phan-xi-cô Xa-vi-ê Lê Văn Cao, đã nghỉ hưu nhưng vẫn nhiệt tình, hăng hái theo học, Ngài nói: "Tôi mới bán hưu thôi, vì hiện còn Đặc trách Gia Đình và Tân Dự Tòng của giáo phận, phải đi học cho có bài bản để giúp nhiều hơn cho giáo dân".
Chị Ma-đa-lê-na Nguyễn Thị Lợi giáo xứ Phường Đúc, anh An-rê Trần Văn Đông giáo xứ Ngọc Hồ, chị An-nê Nguyễn Thị Kim Chúc giáo xứ Phú Hậu, … là những Tác Viên Tin Mừng của Giáo phận, chân thành chia sẻ "họ phải học Thánh Kinh để rao giảng Thánh Kinh".
Hai lớp học Xuất Hành, và Mát-cô đều do ông Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội, một trong những thành viên của nhóm nghiên cứu phương pháp Muối Đất, trực tiếp hướng dẫn.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bài hát: Tại sao Mẹ không về
Trở lại đất giáo xứ Hà Đông: Văn thư UBND thành phố Hà Đông trả lời
chủ tịch UBND
10:56 19/02/2008
Trở lại đất giáo xứ Hà Đông: Thư phản bác cùa LM chánh xứ Hà Đông trả lời Văn thư UBND
LM Nguyễn Ngọc Hinh
10:59 19/02/2008
Trở lại giáo xứ Hà Đông: Nỗi buồn của đoàn con và đoàn cháu
Nguyễn Tiến Đạt
11:13 19/02/2008
HÀ ĐÔNG -- Là người Công giáo Việt nam, mỗi khi trong gia đình có người thân qua đời, chúng ta vẫn nhớ để xin lễ đọc kinh vào các dịp 50 ngày, 100 ngày. Cũng vậy, dịp 100 năm của giáo xứ Hà Đông, nhất là ngày mùng hai Tết chúng ta là con là cháu càng có dịp để kính nhớ ông bà tổ tiên đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta, nhất là các ngài đã dày công xây dựng nhà thờ, nhà xứ, nghĩa trang của giáo xứ Hà Đông.
Còn gì gần gũi và linh thiêng giữa người sống và người chết cho bằng ngay tại những nơi ghi dấu của người quá cố để lại là nhà thờ, nhà xứ, nghĩa trang nơi các ngài an nghỉ.
Nhưng thương ôi! những gia sản ấy chỉ còn duy nhất ngôi nhà thờ là còn nguyên vẹn. còn nhà xứ, nghĩa trang mà tổ tiên để lại đã bị người ta “mượn” mất rồi.
Nhà xứ người ta dùng làm UBND, còn nghĩa trang nơi các cụ an giấc ngàn thu cũng bị người ta san bằng, mất hết cả mồ mả để xây nhà, làm bãi xe, và nhất là sắp được chia năm xẻ bảy để buôn bán qua tay người này người khác.
Còn nỗi buồn nào khi đàn con cháu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên mình phải đứng ngoài cổng hướng vào chính ngôi nhà mà ông bà tổ tiên đã để lại cho đàn con cháu từ bao đời nay. Gần đấy sao mà xa cách thế? Ở bên kia thế giới chắc các cụ cũng buồn. Nhưng nỗi buồn của các cụ có lẽ chưa bằng những người con và cháu đã và đang còn sống trong giáo xứ Hà Đông này, chết không biết sẽ được chôn ở đâu?
Nghĩa trang không còn nên mỗi khi có người con của giáo xứ qua đời phải đi chôn nhờ ở trọ với biết bao thủ tục phiền hà, thật cơ cực biết bao.
Ở bên kia thế giới, xin các cụ cầu bầu cùng Chúa cho đoàn con cháu được sớm được gọi tên ngôi nhà xứ mà các cụ đã dày công xây đắp mà UBND đang sử dụng là nhà xứ Hà Đông, và nhất là chết được nằm bên các cụ nơi mộ phần. Có như vậy nỗi buồn của đoàn con cháu mới thành niềm vui và hạnh phúc ngay tại thế này.
Trong suốt cả năm nay giáo dân giáo xứ chúng tôi vẫn thường tụ họp trước văn phòng UBND (tức là giáo xứ cũ của chúng tôi), nhất là vào những dịp lễ trọng, hay có khi vài tuần 1 lần, có khi 1 tuần 1 lần, để cầu nguyện và nói lên nguyện vọng của giáo dân giáo xứ muốn đòi lại cơ sở này của giáo xứ. Gần đây nhất và vào dịp Tết năm nay. Chúng tôi cầu xin Chúa thay lòng đổi tâm những người đang cầm đầu thành phố Hà đông biết tôn trọng công lý và lẽ phải để trả lại giáo xứ cho chúng tôi.
Còn gì gần gũi và linh thiêng giữa người sống và người chết cho bằng ngay tại những nơi ghi dấu của người quá cố để lại là nhà thờ, nhà xứ, nghĩa trang nơi các ngài an nghỉ.
Nhưng thương ôi! những gia sản ấy chỉ còn duy nhất ngôi nhà thờ là còn nguyên vẹn. còn nhà xứ, nghĩa trang mà tổ tiên để lại đã bị người ta “mượn” mất rồi.
Nhà xứ người ta dùng làm UBND, còn nghĩa trang nơi các cụ an giấc ngàn thu cũng bị người ta san bằng, mất hết cả mồ mả để xây nhà, làm bãi xe, và nhất là sắp được chia năm xẻ bảy để buôn bán qua tay người này người khác.
Còn nỗi buồn nào khi đàn con cháu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên mình phải đứng ngoài cổng hướng vào chính ngôi nhà mà ông bà tổ tiên đã để lại cho đàn con cháu từ bao đời nay. Gần đấy sao mà xa cách thế? Ở bên kia thế giới chắc các cụ cũng buồn. Nhưng nỗi buồn của các cụ có lẽ chưa bằng những người con và cháu đã và đang còn sống trong giáo xứ Hà Đông này, chết không biết sẽ được chôn ở đâu?
Nghĩa trang không còn nên mỗi khi có người con của giáo xứ qua đời phải đi chôn nhờ ở trọ với biết bao thủ tục phiền hà, thật cơ cực biết bao.
Ở bên kia thế giới, xin các cụ cầu bầu cùng Chúa cho đoàn con cháu được sớm được gọi tên ngôi nhà xứ mà các cụ đã dày công xây đắp mà UBND đang sử dụng là nhà xứ Hà Đông, và nhất là chết được nằm bên các cụ nơi mộ phần. Có như vậy nỗi buồn của đoàn con cháu mới thành niềm vui và hạnh phúc ngay tại thế này.
Trong suốt cả năm nay giáo dân giáo xứ chúng tôi vẫn thường tụ họp trước văn phòng UBND (tức là giáo xứ cũ của chúng tôi), nhất là vào những dịp lễ trọng, hay có khi vài tuần 1 lần, có khi 1 tuần 1 lần, để cầu nguyện và nói lên nguyện vọng của giáo dân giáo xứ muốn đòi lại cơ sở này của giáo xứ. Gần đây nhất và vào dịp Tết năm nay. Chúng tôi cầu xin Chúa thay lòng đổi tâm những người đang cầm đầu thành phố Hà đông biết tôn trọng công lý và lẽ phải để trả lại giáo xứ cho chúng tôi.
Tài liệu lịch sử về Gốc tích những thửa đất của Nhà Chung Hà Nội: đất hợp pháp Tổ Tiên để lại
Lê Thiện
20:44 19/02/2008
Gốc tích những thửa đất của Nhà Chung Hà Nội: mảnh đất của Tổ Tiên để lại
Đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt và Đức Giám mục Thái Bình Nguyễn Văn Sang cùng chung ý kiến: “Đất bên Tòa Khâm Sứ cũ vẫn là đất của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ mấy trăm năm nay. Hang đá Đức Mẹ được dựng trên đất đó như một chứng nhân lịch sử đã phù hộ đoàn con tới kính viếng cũng trên trăm năm. Giáo dân tới cầu nguyện từ đó, đã cầu nguyện, đang cầu nguyện và sẽ cầu nguyện trên mảnh đất của ông cha tiên tổ mình để lại thật là hợp tình hợp lý…” trích bài “Bước đầu Hòa giải... đã sớm thất bại” (VietCatholic News ngày Thứ Năm 17/01/2008).
Nhận định ấy hoàn toàn chính xác. Đích thực đó là mảnh đất của Tổ Tiên đã để lại cho người giáo dân Hà Nội.
Thừa sai Joseph Villebonnet (sinh ngày 16-3-1883 tại Sury-le-Comtal - Loire, qua đời ngày 23-4-1945 tại Hà nội, nguyên Giám đốc Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên và Chánh xứ giáo xứ Chánh Tòa Hà nội ) đã viết một thiên khảo cứu nhan đề: “Hanoi Chrétien (1627-1931)” gồm có 6 bài liên tục đăng trên báo Bulletin des Missions Etrangères năm 1932, nội dung nói về lịch sử Giáo phận Hà Nội.
Chúng tôi xin nêu ra một số trích đoạn dưới đây (lấy ra trong bài thứ 5, từ trang 651 đến trang 664, với nhan đề: Mgr Puginier, évêque de Mauricastre) đề cập đến gốc tích những thửa đất của Nhà Chung Hà Nội.
Nguyên văn một số trích đoạn:
En 1868 une bonne nouvelle vint donner un peu de joie à ces pauvres gens qui en étaient sevrés depuis si longtemps: ils avaient un nouveau pasteur. Le 26 janvier, dans la chapelle du séminaire de Hoàng Nguyên, Mgr Puginier (1) était sacré évêque de Mauricastre …
Năm 1868, một tin tốt lành đã đem lại một ít vui mừng cho đám người khốn khổ này, như đám trẻ vốn từ lâu khát sữa mẹ: họ đã có một mục tử mới. Ngày 26 tháng 1, trong nhà nguyện chủng viện Hoàng Nguyên, Đức Cha Puginier (1) đã được tấn phong giám mục hiệu tòa Mauricastre…
---
A cette époque la ville comptait pourtant deux chapelles et un oratoire. La plus considérable se trouvait à côté de la Sainte Enfance (rue de la Mission), elle était loin d’avoir les proportions d’un monument. De style annamite, soutenue par des colonnes en bois de fer, elle fournissait une salle suffisamment vaste pour recevoir tous les fidèles. Le dimanche, 60 à 80 personnes formaient toute l’assistance et, quand le prêtre de Sở Hạ ne pouvait venir procurer aux fidèles les secours de la religion, c’était la Supérieure de la Sainte Enfance qui présidait la prière, faisait la lecture. On dit même que si elle n’allait pas jusqu’à la prédication, elle donnait pourtant de forts bons avis et qu’on se trouvait bien de suivre ses conseils!
Pour atteindre l’autre chapelle située rue des Radeaux, il fallait parcourir les ruelles de la ville jusqu’au nord du petit lac. Là et rue des bambous, un second groupe de chrétiens vivotait tant bien que mal.
Vào thời kỳ đó, thành phố Hà Nội đã có hai nhà nguyện và một nguyện đường. Nhà nguyện lớn nhất nằm cạnh khu Thánh Nhi (phố Nhà Chung), kích thước không lớn bao nhiêu. Với kiểu dáng nhà người Việt, cột gỗ lim, nhà nguyện nầy có một căn phòng đủ chỗ cho tất cả giáo dân. Ngày chủ nhật, có từ 60 đến 80 người tham dự phụng vụ. và hôm nào linh mục xứ Sở Hạ không thể đến giúp đở việc thiêng liêng cho giáo dân, thì Nữ tu Bề trên khu Thánh Nhi chủ sự buổi cầu nguyện, đọc sách. Người ta nói rằng dù không giảng, bà cũng nhắc nhở họ những điều hay lẽ phải và người ta thường thích thú nghe theo các lời khuyên bảo của bà.
Để đi đến nhà nguyện kia tọa lac tại phố Hàng Bè, phải đi qua nhiều con dường nhỏ của thành phố cho đến tận phía bắc hồ Hoàn Kiếm. Tại đó và tại phố Hàng Cót, có một nhóm giáo dân tứ hai sống lây lất…
---
Pour achever la description de la chrétienté de Hanoi à cette époque, il nous faut encore mentionner un petit groupe de 10 familles qui se blottissaient près du blockaus nord; là il n’y avait pas de chapelle et la maison du chrétien le plus aisé servait d’oratoire. C’étaient de pauvres gens pour la plupart et, là aussi, la rigueur de la persécution avait causé d’assez nombreuses apostasies.
Để kết thúc việc mô tả cộng đoàn giáo dân Hà nội trong thời kỳ nầy, cần kể thêm một nhóm nhỏ 10 gia đình đang ẩn náu gần lô cốt Bắc, tại đó họ không có nhà nguyện, và ngôi nhà của người giáo dân khá giả nhất được sử dụng làm nguyện đường. Đa số họ là những người nghèo khổ, và đó cũng là nơi mà sự khắc nghiệt của cuộc bách hại đã gây nên khá nhiều vụ bội giáo.
---
J’ai déjà noté que la paroisse de Hanoi avait, sous l’impulsion du Père Landais (2), une vie toujours plus active. Le Père Bonfils (3), nouveau curé, augmenta encore ce mouvement et le jour vint où les pauvres bâtiments de la Sainte Enfance furent tout à fait insuffisants pour abriter la mission renaissante. Mgr Puginier jeta alors son dévolu sur tous les terrains qui s’étendaient entre le camp des lettrés au sud et la pagode de Bao Thiên Tu (4), dédiée à Kông Lô, située au nord.
Tôi đã ghi nhận rằng, nhờ sự thúc đẩy của Cha Landais (2), giáo xứ Hà nội có được một cuộc sống ngày càng sinh động. Cha Bonfils (3), vị tân Chánh xứ, tiếp tục gia tăng thêm điều ấy, và đã đến lúc những ngôi nhà của khu Thánh Nhi trở nên không còn đủ chỗ dung nạp cho giáo đoàn đang hồi sinh.
Đức Cha Puginier đã chọn các thửa đất nằm giữa Trường Thi ở phía Nam và ngôi chùa Bảo Thiên Tự (4) dành để thờ Khổng Lộ (?) ở phía Bắc.
---
De prévoyants achats étendirent encore ce domaine et c’est là que s’édifiera, peu à peu, le nouvel enclos de la mission. Les constructions commencèrent en 1876 et, tout doucement, sous la direction des Pères Bonfils et Landais, s’élevèrent les bâtiments qui abritèrent jusqu’à ces derniers temps des générations de missionnaires, de prêtres indigènes et de catéchistes. (5)
Nhờ khéo léo tiên liệu tậu mua đất đai, nên cơ ngơi ngày càng mở rộng, và dần dà khu vực nhà chung được hình thành. Các công trình bắt đầu xây dựng vào năm 1876, và từ từ, dưới sự chỉ đạo của các Cha Bonfils và Landais, các khu nhà được xây cất dùng làm nơi ở cho các thừa sai, các linh mục Việt Nam và các thầy giảng cho đến tận sau nầy. (5)
---
Deux pavillons en briques furent d’abord construits qui, avec leurs fenêtres en ogive et leurs toits recourbés, avaient fort bon air pour l’époque. Bien plus tard, un vaste rez-de-chaussée … reliera harmonieusement le tout. Quelques flamboyants jetteront sur cet ensemble la tache sanglante de leurs fleurs pourpres et un vaste jardin viendra donner à l’établissement la note de recueillement qui sied bien à une demeure épiscopale.
Hai cánh bằng gạch của ngôi nhà được xây trước tiên, với những cửa sổ hình cung nhọn và các mái cong, có dáng vẻ khá đẹp vào thời buổi ấy. Nhiều năm sau, một tầng trệt rộng rải.. nối liền một cách hài hòa tất cả công trình. Một vài cây phượng vĩ điểm xuyết vào tổng thể nầy nét sặc sỡ của những chùm hoa đỏ tía, và một khu vườn rộng lớn sẽ đem đến cho ngôi nhà một nét trầm mặc rất thích hợp cho nơi ở của vị giám mục.
---
Il aurait fallu à pareille résidence une église d’une autre envergure que la pauvre chapelle paroissiale, mais les temps n’étaient pas encore assez sûrs pour entreprendre un pareil ouvrage et ce fut à Kẻ Sở que s’éleva de 1877 à 1882 la cathédrale, première-née des nombreux édifices religieux qui fleuriront un jour le sol du Tonkin. Kẻ Sở d’ailleurs restait le centre de la mission et Hanoi ne pouvait pas encore se parer du titre de ville épiscopale. De sombres jours se préparaient pour elle; ravagée par le typhon de 1881, la ville voyait encore son horizon politique se charger de noirs nuages précurseurs de la tempête.
Để xứng hợp với một khu nhà như thế, đáng lẽ cần có một thánh đường quy mô hơn là ngôi nhà nguyện nghèo hèn của xứ đạo, nhưng thời cuộc chưa đủ ổn định để bắt tay thực hiện một công trình như vậy, cho nên, từ năm 1877 đến năm 1882 nhà thờ chánh tòa được xây dựng tại Kẻ Sở, đây là tòa nhà đầu tiên trong nhiều cơ sở tôn giáo sẽ bùng nở về sau tại Bắc Kỳ. Vả lại,khi ấy Kẻ Sở vẫn còn là trung tâm của giáo phận, và Hà Nội chưa thể mang danh là thành phố có tòa giám mục. Những ngày u ám sắp sửa ập xuống Hà Nội; bị tàn phá bởi trận bảo năm 1881, thành phố lại thấy chân trời chính trị mang đầy những đám mây đen tiên báo cho cơn bão tố (binh lửa) sắp tới.
---
Il restait à relever les ruines; la mission fut vite remise en état mais une paillote un peu vaste dut servir longtemps d’église épiscopale
(Sau khi tình hình Hà Nội trở lại bình an) Phải vực dậy những đổ nát; tình trạng nhà chung mau chóng được phục hồi, nhưng một ngôi nhà tranh khá rộng phải đành sử dụng làm nhà thờ cho vị giám mục trong một thời gian dàì.
---
Les ressources étaient nulles, les chrétiens ruinés, tout cela ne fit pas reculer cet homme à la foi ardente: Dieu et Saint Joseph, le futur patron de la future cathédrale, y pourvoiraient!
Các nguồn thu chẳng có tý gì, giáo dân thì bị tàn phá sạt nghiệp, nhưng tất cả những điều đó không làm chùn bước con người có niềm tin cháy bỏng ấy: Thiên Chúa và Thánh Giuse, Đấng bổn mạng của nhà thờ chánh tòa tương lai, sẽ ban cho.
---
Un terrain avait attiré l’attention du vigilant pasteur, ou plutôt le terrain d’une pagode située au nord de la mission. C’était la pagode Bao Thiên Tu.
Voici comment le résident de France, M. Bonnal, raconte cet intéressant épisode: “Démolir la pagode et s’emparer du terrain, rien n’était en apparence plus facile dans la période de conquête que nous traversions, mais j’avais, comme de juste, une certaine répugnance à commettre un abus de pouvoir de cette sorte et je préférai m’adresser au Tông Đốc Nguyên Hữu Độ (6). Celui-ci était en fort bons termes avec l’évêque et, comme moi, désirait lui être agréable; voici comment il tourna la difficulté. Il fit d’abord rechercher s’il restait encore quelque descendant du fondateur de la pagode, mort depuis plus de deux siècles, et naturellement n’en trouva pas. Il ordonna ensuite aux notables du quartier, choisis, comme par hasard, parmi les indigènes chrétiens de vérifier la solidité de l’édifice et ceux-ci n’hésitèrent pas à déclarer que, menaçant ruine, il pourrait, en s’écroulant, compromettre la sécurité des passants. Maintenant tout était en règle. Faire démolir la pagode, en confisquer le terrain sans maître… étaient, suivant la coutume annamite, des mesures justifiées ne pouvant soulever aucune protestation; c’est ce que fit le Tông Đốc. Il prit encore la responsabilité de concéder gratuitement à la mission catholique le terrain confisqué et j’eus la satisfaction de remettre à l’évêque l’acte authentique lui en faisant remise en toute propriété”. (Masson-Hanoi). (7)
Một thửa đất đã gây sự chú ý của vị mục tử năng động, đúng hơn là khu đất của một ngôi chùa nằm ở phía bắc nhà chung. Đó là chùa Báo Thiên Tự.
Ông Bonnal, công sứ Pháp tại Hà Nội kể lại câu chuyện thú vị ấy thế này: “Phá hủy ngôi chùa và chiếm lấy miếng đất, việc đó xem ra chẳng có gì dễ dàng hơn trong thời điểm chinh phục mà chúng ta đang tiến hành, nhưng bản thân tôi, đúng theo lẽ, e ngại phạm sự lạm quyền khi làm như vậy, và tôi chọn giải pháp thỉnh ý ông Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ (6). Ông nầy rất có thiện cảm với vị giám mục, cũng như tôi, ông muốn làm cho ngài hài lòng; sau đây là cách thức ông gỡ mối khó khăn. Trước hết ông cho truy tìm xem còn có kẻ hậu duệ nào của người tạo dựng ngôi chùa đã qua đời trước đó hai thế kỷ không, và dĩ nhiên chẳng tìm được ai.
Tiếp theo, ông chỉ thị cho các thân hào trong khu vực, được chọn, như thể tình cờ, trong các giáo dân bản xứ, để xét xem mức độ chắc chắn của ngôi chùa thế nào, và các ông nầy chẳng ngần ngại gì mà tuyên bố rằng: do hư nát, ngôi chùa khi sụp đổ có thể gây nguy hại cho những ai đi ngang qua. Vậy là, bây giờ mọi việc đều đã đúng luật lệ. Cho phá hủy ngôi chùa, sung công thửa đất vô chủ... theo tập quán Việt Nam, là những biện pháp chính đáng, không thể gây nên một sự phản đối nào. Ông Tổng đốc đã xử lý theo cách đó. Ông còn nhận trách nhiệm nhượng lại miễn phí cho nhà chung công giáo thửa đất đã sung công, và tôi đã vui lòng trao cho vị giám mục văn bản chính thức chuyển giao cho ngài quyền sở hữu trọn vẹn”. ( Masson-Hanoi )(7).
Chú thích:
(1) Đức cha Paul Francois Puginier (tên Việt là Phước), sinh ngày 04-7-1835 tại Saix (Tarn). Gia nhập Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris ngày 01-7-1854. Thụ phong linh mục ngày 29-5-1858, và cùng năm ấy được chỉ định đến truyền giáo tại giáo phận Tây Đàng Ngoài. Vì chiến tranh, nên sau khi tạm phục vụ tại Sài gòn hơn 2 năm, mãi đến tháng 8.1862 mới có mặt tại Hà Nội. Tuần tự làm chánh xứ Kẻ Lôi, giám đốc chủng viện Phúc Nhạc, Tổng đại diện giáo phận, Sau khi thụ phong giám mục, ngài chính thức kế nhiệm Đức cha Theurel vào tháng 11-1868 trong trách nhiệm Đại Diện Tông Tòa coi sóc Giáo phận Tây Đàng Ngoài cho đến ngày từ trần 25-4-1892.
Có nhiều ý kiến bình luận về cuộc đời và sự nghiệp của Đức cha Puginier: thương có, ghét có, cảm phục có, lên án có…Riêng học giả Nguyễn Khắc Xuyên, ông có những nhận định khá khách quan: “ Kể ra ngài mất quá sớm, mới 57 tuổi thọ, sau 34 năm làm việc truyền giáo. Sống ở vào thời đại chiến tranh, đứng giữa một thế trận khó xử, ngài đã làm những việc coi như phải làm để giúp ích cho đôi bên. Ngài giao thiệp và viết nhiều thư cho nhiều cơ quan, nhiều nhân vật quan trọng trong chính giới và giáo giới. Trách nhiệm của ngài, một mình ngài phải nhận trước lịch sử và Giáo Hội. Nhưng thực ra ngài chỉ cầu mong cho dân được an cư lạc nghiệp. Bánh xe lịch sử đã quay, tình thế vẫn thế, không làm sao chuyển hướng được. Nước Pháp đã đặt quyền đô hộ trên xứ nầy, đất nước nầy, và như chúng tôi đã nói: không có cái sỉ nhục nào lớn hơn sỉ nhục mất nước,không có tai họa nào lớn hơn tai họa mất tự do, độc lập. Theo các sử gia đúng đắn và có uy tín thì trách nhiệm chính yếu ở về phía nhà cầm quyền và lãnh đạo không thức thời, không biết cách cầm vận mệnh quốc gia trong một thời thế rất nguy cấp. Ngoài ra mỗi cá nhân có trách nhiệm của mình. Riêng phần chúng tôi, chúng tôi thấy giáo dân Việt Nam trong toàn thể rất xứng đáng. Họ đều là những người thuộc giai cấp nông dân, hiền lành, nhẫn nhục, dốt nát là lẽ dĩ nhiên, nghèo nàn là chắc chắn. Họ chỉ chịu tang tóc, tù đày, giết chóc mà không phản ứng, không nổi dậy. Họ bị phân sáp, bị ép khóa quá, bị thép sắt nung ép vào má hai chữ “tả đạo”, nhưng họ chịu chết vì đạo mà không vùng dậy làm loạn chống đối. Cho nên, khách quan mà nói, giáo dân, giáo đoàn rất xứng đáng làm làm con dân của Đất Nước, của Giáo Hội, trừ một vài, một ít cá nhân nếu có bằng chứng cụ thể. Việc đàn áp, bắt bớ đạo là một thất sách lớn, theo các sử gia chân chính, mà các vua quan thời xưa đã lỗi phạm. Nhưng mưu đồ cướp nước đặt nền thống trị bảo hộ là một lỗi phạm tầy đình không thể chấp nhận được. (Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên - Lược Sử Địa Phận Hà Nội 1626-1945. trang 367-368).
(2) Lm Joseph-Michel Landais. (17.7.1839 – 31.8.1885).
Sinh quán tại Courbeveille, tỉnh Mayenne. Pháp. Ngài được thụ phong linh mục năm 1864. Sau khi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài, học xong tiếng Việt, Cha được cử đến phục vụ tại các cộng đoàn người Mường tại Ninh Bình, nhiễm bệnh sốt rét. Năm 1866, được cử làm hạt trưởng Kim Sơn, rồi phụ trách một giáo hạt khác gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Tuyên Quang và Hưng Hóa.Trong sàu năm trời, ngài liên tục đi lại thăm viếng các giáo xứ thuộc quyền, được các vị linh mục Việt Nam và giáo dân sở tại hết sức yêu mến cảm phục. Đến cuối năm 1873 phải tạm rời nhiệm sở về Hà Nội, vì loạn Cờ Đen. Năm 1876 lại trở lên đó tổ chức lại các cộng đoàn đã bị tan tác.
Vào đầu năm 1878, sau khi Cha André Bonfils qua đời, ngài được cử làm chánh xứ Hà Nội. Trong suốt gần tám năm trời, ngài đã hết sức phục vụ giáo xứ trong tư thái và nhiệt tâm của một nhà truyền giáo đích thực: luôn nghiêm túc sốt sắng trong các nghi lễ phụng vụ, có đời sống rất đạo đức, luôn hiền hậu, vui tươi nhưng rất thẳng thắn,sẳn sàng giúp đở người nghèo khổ bất phân lương giáo, không bao giờ nề hà một khó khăn nào trong khi thi hành mục vụ. Do đức tính khôn ngoan, linh hoạt, chân thành và hiếu khách, nên cha được mọi người kính nể, tin cậy. Cha không bao giờ phân biệt kẻ sang người hèn trong liên hệ giao tế hằng ngày, ai ai cũng đều được cha trân trọng như nhau: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, quan chức, lương dân, thân hào, cùng đinh, người lớn tuổi cũng như thanh niên, trẻ nhỏ. Vào hai năm cuối đời: 1884 và 1885, ngài luôn bị suy yếu vì phục vụ quá độ tại giáo xứ Hà Nội và tại bệnh viện.
Cuối cùng, ngài bị trở bệnh nặng và qua đời tại chủng viện Hoàng Nguyên ngày 31.8.1885 một cách thánh thiện, với nụ cười trên môi, như một người đi vào giấc ngủ bình an.
(3) Lm André Bonfils (10.11.1843 - 30.12.1877).
Theo tài liệu lưu trử tại Văn khố Hội Truyển giáo Hải ngoại Paris (Archives des MEP) thì sau khi cha Bofils qua đời vào cuối năm 1877, Cha Landais mới được cử làm Chánh xứ Hà Nội vào đầu năm 1878. Bởi vậy, nên nói đến Cha Bonfils trước Cha Landais thì hợp lý hơn.
Sinh tại Saint-Marcellin (giáo phận Lyon), ngài được thụ phong linh mục ngày 22.5.1869, và ngày 06.6.1869 lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam. Trong tám năm phục vụ tại Hà nội, cha đã thể hiện một đời sống tông đồ mẫu mực, hoàn toàn quên mình trong việc phục vụ Giáo Hội và tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật. Ngoài trách nhiệm chánh xứ Hà nội, cha còn trực tiếp phụ trách một cô nhi viện tại khu Thánh Nhi của nhà chung. Hằng ngày, cha đều sắp xếp thì giờ đến đó để thăm nom săn sóc các em. Cuối năm 1877, nhiều cô nhi bị bệnh đậu mùa (petite vérole). Vì gần gủi các em, nên cha bị lây nhiễm, bệnh trở nên ngày càng trầm trọng, và cha đã từ trần vào ngày 30.12.1877.
Cha Joseph-Michel Landais kế tục ngài trong chức vụ chánh xứ Hà Nội vào đầu năm 1878.
(4) Vua Lý Thánh Tông (1023-1072), vị vua thứ ba triều Lý, đã cho dựng chùa Báo Thiên vào năm Bính Thân 1056, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông. Năm Đinh Dậu 1057, mùa Xuân, tháng Giêng, vua tự tay viết bài minh văn, đồng thời cho xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng, 12 tầng, tức tháp Báo Thiên. Qua nhiều năm tháng, chùa Báo Thiên trở nên hư nát, hoang phế, không người trông coi. Riêng bảo tháp, nhiều lần bị sét đánh, đỉnh tháp rơi gãy… và đến năm Đinh Mùi 1547 thì tháp bị sập. (Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ).
(5) Năm 1872 người Pháp chiếm thành Hànội lần thứ nhất rồi sau đó trao trả lại cho Triều đình Huế làm chủ như củ. Năm 1883 người Pháp mới đánh chiếm Hà nội lần thứ hai và giữ luôn. Và đến năm 1888 Hànội trở thành nhượng địa của Pháp. Đất đai nhà chung Hà Nội (chủ yếu là khu đất của Tòa Tổng Giám mục, Đại Chủng viện và Tòa Khâm sứ ) đã được tậu mua và nới rộng dần dần ngay trong thời gian Hà Nội còn hoàn toàn ở dưới quyền của vua quan Việt Nam.
(6) Tháng 11 âm lịch năm Nhâm Ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882), quan Thị Lang sung Phó sứ Tỉnh Biên là Nguyễn Hữu Độ được Triều đình Huế bổ làm hộ Tổng Đốc Hà Ninh (Theo Đại Nam Thực Lục, đệ tứ kỷ, quyển LXVIII).
(7) Đoạn nầy Cha J.Villebonnet trích từ sách: “ Hanoi pendant la période héroique. 1873-1888 ” trang 125, của tác giả André Masson. Librairie Orientaliste Paul Genthner. 13 rue Jacob (VIe). 1929’
Đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt và Đức Giám mục Thái Bình Nguyễn Văn Sang cùng chung ý kiến: “Đất bên Tòa Khâm Sứ cũ vẫn là đất của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ mấy trăm năm nay. Hang đá Đức Mẹ được dựng trên đất đó như một chứng nhân lịch sử đã phù hộ đoàn con tới kính viếng cũng trên trăm năm. Giáo dân tới cầu nguyện từ đó, đã cầu nguyện, đang cầu nguyện và sẽ cầu nguyện trên mảnh đất của ông cha tiên tổ mình để lại thật là hợp tình hợp lý…” trích bài “Bước đầu Hòa giải... đã sớm thất bại” (VietCatholic News ngày Thứ Năm 17/01/2008).
Nhận định ấy hoàn toàn chính xác. Đích thực đó là mảnh đất của Tổ Tiên đã để lại cho người giáo dân Hà Nội.
Thừa sai Joseph Villebonnet (sinh ngày 16-3-1883 tại Sury-le-Comtal - Loire, qua đời ngày 23-4-1945 tại Hà nội, nguyên Giám đốc Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên và Chánh xứ giáo xứ Chánh Tòa Hà nội ) đã viết một thiên khảo cứu nhan đề: “Hanoi Chrétien (1627-1931)” gồm có 6 bài liên tục đăng trên báo Bulletin des Missions Etrangères năm 1932, nội dung nói về lịch sử Giáo phận Hà Nội.
Chúng tôi xin nêu ra một số trích đoạn dưới đây (lấy ra trong bài thứ 5, từ trang 651 đến trang 664, với nhan đề: Mgr Puginier, évêque de Mauricastre) đề cập đến gốc tích những thửa đất của Nhà Chung Hà Nội.
Nguyên văn một số trích đoạn:
En 1868 une bonne nouvelle vint donner un peu de joie à ces pauvres gens qui en étaient sevrés depuis si longtemps: ils avaient un nouveau pasteur. Le 26 janvier, dans la chapelle du séminaire de Hoàng Nguyên, Mgr Puginier (1) était sacré évêque de Mauricastre …
Năm 1868, một tin tốt lành đã đem lại một ít vui mừng cho đám người khốn khổ này, như đám trẻ vốn từ lâu khát sữa mẹ: họ đã có một mục tử mới. Ngày 26 tháng 1, trong nhà nguyện chủng viện Hoàng Nguyên, Đức Cha Puginier (1) đã được tấn phong giám mục hiệu tòa Mauricastre…
---
A cette époque la ville comptait pourtant deux chapelles et un oratoire. La plus considérable se trouvait à côté de la Sainte Enfance (rue de la Mission), elle était loin d’avoir les proportions d’un monument. De style annamite, soutenue par des colonnes en bois de fer, elle fournissait une salle suffisamment vaste pour recevoir tous les fidèles. Le dimanche, 60 à 80 personnes formaient toute l’assistance et, quand le prêtre de Sở Hạ ne pouvait venir procurer aux fidèles les secours de la religion, c’était la Supérieure de la Sainte Enfance qui présidait la prière, faisait la lecture. On dit même que si elle n’allait pas jusqu’à la prédication, elle donnait pourtant de forts bons avis et qu’on se trouvait bien de suivre ses conseils!
Pour atteindre l’autre chapelle située rue des Radeaux, il fallait parcourir les ruelles de la ville jusqu’au nord du petit lac. Là et rue des bambous, un second groupe de chrétiens vivotait tant bien que mal.
Vào thời kỳ đó, thành phố Hà Nội đã có hai nhà nguyện và một nguyện đường. Nhà nguyện lớn nhất nằm cạnh khu Thánh Nhi (phố Nhà Chung), kích thước không lớn bao nhiêu. Với kiểu dáng nhà người Việt, cột gỗ lim, nhà nguyện nầy có một căn phòng đủ chỗ cho tất cả giáo dân. Ngày chủ nhật, có từ 60 đến 80 người tham dự phụng vụ. và hôm nào linh mục xứ Sở Hạ không thể đến giúp đở việc thiêng liêng cho giáo dân, thì Nữ tu Bề trên khu Thánh Nhi chủ sự buổi cầu nguyện, đọc sách. Người ta nói rằng dù không giảng, bà cũng nhắc nhở họ những điều hay lẽ phải và người ta thường thích thú nghe theo các lời khuyên bảo của bà.
Để đi đến nhà nguyện kia tọa lac tại phố Hàng Bè, phải đi qua nhiều con dường nhỏ của thành phố cho đến tận phía bắc hồ Hoàn Kiếm. Tại đó và tại phố Hàng Cót, có một nhóm giáo dân tứ hai sống lây lất…
---
Pour achever la description de la chrétienté de Hanoi à cette époque, il nous faut encore mentionner un petit groupe de 10 familles qui se blottissaient près du blockaus nord; là il n’y avait pas de chapelle et la maison du chrétien le plus aisé servait d’oratoire. C’étaient de pauvres gens pour la plupart et, là aussi, la rigueur de la persécution avait causé d’assez nombreuses apostasies.
Để kết thúc việc mô tả cộng đoàn giáo dân Hà nội trong thời kỳ nầy, cần kể thêm một nhóm nhỏ 10 gia đình đang ẩn náu gần lô cốt Bắc, tại đó họ không có nhà nguyện, và ngôi nhà của người giáo dân khá giả nhất được sử dụng làm nguyện đường. Đa số họ là những người nghèo khổ, và đó cũng là nơi mà sự khắc nghiệt của cuộc bách hại đã gây nên khá nhiều vụ bội giáo.
---
J’ai déjà noté que la paroisse de Hanoi avait, sous l’impulsion du Père Landais (2), une vie toujours plus active. Le Père Bonfils (3), nouveau curé, augmenta encore ce mouvement et le jour vint où les pauvres bâtiments de la Sainte Enfance furent tout à fait insuffisants pour abriter la mission renaissante. Mgr Puginier jeta alors son dévolu sur tous les terrains qui s’étendaient entre le camp des lettrés au sud et la pagode de Bao Thiên Tu (4), dédiée à Kông Lô, située au nord.
Tôi đã ghi nhận rằng, nhờ sự thúc đẩy của Cha Landais (2), giáo xứ Hà nội có được một cuộc sống ngày càng sinh động. Cha Bonfils (3), vị tân Chánh xứ, tiếp tục gia tăng thêm điều ấy, và đã đến lúc những ngôi nhà của khu Thánh Nhi trở nên không còn đủ chỗ dung nạp cho giáo đoàn đang hồi sinh.
Đức Cha Puginier đã chọn các thửa đất nằm giữa Trường Thi ở phía Nam và ngôi chùa Bảo Thiên Tự (4) dành để thờ Khổng Lộ (?) ở phía Bắc.
---
De prévoyants achats étendirent encore ce domaine et c’est là que s’édifiera, peu à peu, le nouvel enclos de la mission. Les constructions commencèrent en 1876 et, tout doucement, sous la direction des Pères Bonfils et Landais, s’élevèrent les bâtiments qui abritèrent jusqu’à ces derniers temps des générations de missionnaires, de prêtres indigènes et de catéchistes. (5)
Nhờ khéo léo tiên liệu tậu mua đất đai, nên cơ ngơi ngày càng mở rộng, và dần dà khu vực nhà chung được hình thành. Các công trình bắt đầu xây dựng vào năm 1876, và từ từ, dưới sự chỉ đạo của các Cha Bonfils và Landais, các khu nhà được xây cất dùng làm nơi ở cho các thừa sai, các linh mục Việt Nam và các thầy giảng cho đến tận sau nầy. (5)
---
Deux pavillons en briques furent d’abord construits qui, avec leurs fenêtres en ogive et leurs toits recourbés, avaient fort bon air pour l’époque. Bien plus tard, un vaste rez-de-chaussée … reliera harmonieusement le tout. Quelques flamboyants jetteront sur cet ensemble la tache sanglante de leurs fleurs pourpres et un vaste jardin viendra donner à l’établissement la note de recueillement qui sied bien à une demeure épiscopale.
Hai cánh bằng gạch của ngôi nhà được xây trước tiên, với những cửa sổ hình cung nhọn và các mái cong, có dáng vẻ khá đẹp vào thời buổi ấy. Nhiều năm sau, một tầng trệt rộng rải.. nối liền một cách hài hòa tất cả công trình. Một vài cây phượng vĩ điểm xuyết vào tổng thể nầy nét sặc sỡ của những chùm hoa đỏ tía, và một khu vườn rộng lớn sẽ đem đến cho ngôi nhà một nét trầm mặc rất thích hợp cho nơi ở của vị giám mục.
---
Il aurait fallu à pareille résidence une église d’une autre envergure que la pauvre chapelle paroissiale, mais les temps n’étaient pas encore assez sûrs pour entreprendre un pareil ouvrage et ce fut à Kẻ Sở que s’éleva de 1877 à 1882 la cathédrale, première-née des nombreux édifices religieux qui fleuriront un jour le sol du Tonkin. Kẻ Sở d’ailleurs restait le centre de la mission et Hanoi ne pouvait pas encore se parer du titre de ville épiscopale. De sombres jours se préparaient pour elle; ravagée par le typhon de 1881, la ville voyait encore son horizon politique se charger de noirs nuages précurseurs de la tempête.
Để xứng hợp với một khu nhà như thế, đáng lẽ cần có một thánh đường quy mô hơn là ngôi nhà nguyện nghèo hèn của xứ đạo, nhưng thời cuộc chưa đủ ổn định để bắt tay thực hiện một công trình như vậy, cho nên, từ năm 1877 đến năm 1882 nhà thờ chánh tòa được xây dựng tại Kẻ Sở, đây là tòa nhà đầu tiên trong nhiều cơ sở tôn giáo sẽ bùng nở về sau tại Bắc Kỳ. Vả lại,khi ấy Kẻ Sở vẫn còn là trung tâm của giáo phận, và Hà Nội chưa thể mang danh là thành phố có tòa giám mục. Những ngày u ám sắp sửa ập xuống Hà Nội; bị tàn phá bởi trận bảo năm 1881, thành phố lại thấy chân trời chính trị mang đầy những đám mây đen tiên báo cho cơn bão tố (binh lửa) sắp tới.
---
Il restait à relever les ruines; la mission fut vite remise en état mais une paillote un peu vaste dut servir longtemps d’église épiscopale
(Sau khi tình hình Hà Nội trở lại bình an) Phải vực dậy những đổ nát; tình trạng nhà chung mau chóng được phục hồi, nhưng một ngôi nhà tranh khá rộng phải đành sử dụng làm nhà thờ cho vị giám mục trong một thời gian dàì.
---
Les ressources étaient nulles, les chrétiens ruinés, tout cela ne fit pas reculer cet homme à la foi ardente: Dieu et Saint Joseph, le futur patron de la future cathédrale, y pourvoiraient!
Các nguồn thu chẳng có tý gì, giáo dân thì bị tàn phá sạt nghiệp, nhưng tất cả những điều đó không làm chùn bước con người có niềm tin cháy bỏng ấy: Thiên Chúa và Thánh Giuse, Đấng bổn mạng của nhà thờ chánh tòa tương lai, sẽ ban cho.
---
Un terrain avait attiré l’attention du vigilant pasteur, ou plutôt le terrain d’une pagode située au nord de la mission. C’était la pagode Bao Thiên Tu.
Voici comment le résident de France, M. Bonnal, raconte cet intéressant épisode: “Démolir la pagode et s’emparer du terrain, rien n’était en apparence plus facile dans la période de conquête que nous traversions, mais j’avais, comme de juste, une certaine répugnance à commettre un abus de pouvoir de cette sorte et je préférai m’adresser au Tông Đốc Nguyên Hữu Độ (6). Celui-ci était en fort bons termes avec l’évêque et, comme moi, désirait lui être agréable; voici comment il tourna la difficulté. Il fit d’abord rechercher s’il restait encore quelque descendant du fondateur de la pagode, mort depuis plus de deux siècles, et naturellement n’en trouva pas. Il ordonna ensuite aux notables du quartier, choisis, comme par hasard, parmi les indigènes chrétiens de vérifier la solidité de l’édifice et ceux-ci n’hésitèrent pas à déclarer que, menaçant ruine, il pourrait, en s’écroulant, compromettre la sécurité des passants. Maintenant tout était en règle. Faire démolir la pagode, en confisquer le terrain sans maître… étaient, suivant la coutume annamite, des mesures justifiées ne pouvant soulever aucune protestation; c’est ce que fit le Tông Đốc. Il prit encore la responsabilité de concéder gratuitement à la mission catholique le terrain confisqué et j’eus la satisfaction de remettre à l’évêque l’acte authentique lui en faisant remise en toute propriété”. (Masson-Hanoi). (7)
Một thửa đất đã gây sự chú ý của vị mục tử năng động, đúng hơn là khu đất của một ngôi chùa nằm ở phía bắc nhà chung. Đó là chùa Báo Thiên Tự.
Ông Bonnal, công sứ Pháp tại Hà Nội kể lại câu chuyện thú vị ấy thế này: “Phá hủy ngôi chùa và chiếm lấy miếng đất, việc đó xem ra chẳng có gì dễ dàng hơn trong thời điểm chinh phục mà chúng ta đang tiến hành, nhưng bản thân tôi, đúng theo lẽ, e ngại phạm sự lạm quyền khi làm như vậy, và tôi chọn giải pháp thỉnh ý ông Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ (6). Ông nầy rất có thiện cảm với vị giám mục, cũng như tôi, ông muốn làm cho ngài hài lòng; sau đây là cách thức ông gỡ mối khó khăn. Trước hết ông cho truy tìm xem còn có kẻ hậu duệ nào của người tạo dựng ngôi chùa đã qua đời trước đó hai thế kỷ không, và dĩ nhiên chẳng tìm được ai.
Tiếp theo, ông chỉ thị cho các thân hào trong khu vực, được chọn, như thể tình cờ, trong các giáo dân bản xứ, để xét xem mức độ chắc chắn của ngôi chùa thế nào, và các ông nầy chẳng ngần ngại gì mà tuyên bố rằng: do hư nát, ngôi chùa khi sụp đổ có thể gây nguy hại cho những ai đi ngang qua. Vậy là, bây giờ mọi việc đều đã đúng luật lệ. Cho phá hủy ngôi chùa, sung công thửa đất vô chủ... theo tập quán Việt Nam, là những biện pháp chính đáng, không thể gây nên một sự phản đối nào. Ông Tổng đốc đã xử lý theo cách đó. Ông còn nhận trách nhiệm nhượng lại miễn phí cho nhà chung công giáo thửa đất đã sung công, và tôi đã vui lòng trao cho vị giám mục văn bản chính thức chuyển giao cho ngài quyền sở hữu trọn vẹn”. ( Masson-Hanoi )(7).
Chú thích:
(1) Đức cha Paul Francois Puginier (tên Việt là Phước), sinh ngày 04-7-1835 tại Saix (Tarn). Gia nhập Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris ngày 01-7-1854. Thụ phong linh mục ngày 29-5-1858, và cùng năm ấy được chỉ định đến truyền giáo tại giáo phận Tây Đàng Ngoài. Vì chiến tranh, nên sau khi tạm phục vụ tại Sài gòn hơn 2 năm, mãi đến tháng 8.1862 mới có mặt tại Hà Nội. Tuần tự làm chánh xứ Kẻ Lôi, giám đốc chủng viện Phúc Nhạc, Tổng đại diện giáo phận, Sau khi thụ phong giám mục, ngài chính thức kế nhiệm Đức cha Theurel vào tháng 11-1868 trong trách nhiệm Đại Diện Tông Tòa coi sóc Giáo phận Tây Đàng Ngoài cho đến ngày từ trần 25-4-1892.
Có nhiều ý kiến bình luận về cuộc đời và sự nghiệp của Đức cha Puginier: thương có, ghét có, cảm phục có, lên án có…Riêng học giả Nguyễn Khắc Xuyên, ông có những nhận định khá khách quan: “ Kể ra ngài mất quá sớm, mới 57 tuổi thọ, sau 34 năm làm việc truyền giáo. Sống ở vào thời đại chiến tranh, đứng giữa một thế trận khó xử, ngài đã làm những việc coi như phải làm để giúp ích cho đôi bên. Ngài giao thiệp và viết nhiều thư cho nhiều cơ quan, nhiều nhân vật quan trọng trong chính giới và giáo giới. Trách nhiệm của ngài, một mình ngài phải nhận trước lịch sử và Giáo Hội. Nhưng thực ra ngài chỉ cầu mong cho dân được an cư lạc nghiệp. Bánh xe lịch sử đã quay, tình thế vẫn thế, không làm sao chuyển hướng được. Nước Pháp đã đặt quyền đô hộ trên xứ nầy, đất nước nầy, và như chúng tôi đã nói: không có cái sỉ nhục nào lớn hơn sỉ nhục mất nước,không có tai họa nào lớn hơn tai họa mất tự do, độc lập. Theo các sử gia đúng đắn và có uy tín thì trách nhiệm chính yếu ở về phía nhà cầm quyền và lãnh đạo không thức thời, không biết cách cầm vận mệnh quốc gia trong một thời thế rất nguy cấp. Ngoài ra mỗi cá nhân có trách nhiệm của mình. Riêng phần chúng tôi, chúng tôi thấy giáo dân Việt Nam trong toàn thể rất xứng đáng. Họ đều là những người thuộc giai cấp nông dân, hiền lành, nhẫn nhục, dốt nát là lẽ dĩ nhiên, nghèo nàn là chắc chắn. Họ chỉ chịu tang tóc, tù đày, giết chóc mà không phản ứng, không nổi dậy. Họ bị phân sáp, bị ép khóa quá, bị thép sắt nung ép vào má hai chữ “tả đạo”, nhưng họ chịu chết vì đạo mà không vùng dậy làm loạn chống đối. Cho nên, khách quan mà nói, giáo dân, giáo đoàn rất xứng đáng làm làm con dân của Đất Nước, của Giáo Hội, trừ một vài, một ít cá nhân nếu có bằng chứng cụ thể. Việc đàn áp, bắt bớ đạo là một thất sách lớn, theo các sử gia chân chính, mà các vua quan thời xưa đã lỗi phạm. Nhưng mưu đồ cướp nước đặt nền thống trị bảo hộ là một lỗi phạm tầy đình không thể chấp nhận được. (Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên - Lược Sử Địa Phận Hà Nội 1626-1945. trang 367-368).
(2) Lm Joseph-Michel Landais. (17.7.1839 – 31.8.1885).
Sinh quán tại Courbeveille, tỉnh Mayenne. Pháp. Ngài được thụ phong linh mục năm 1864. Sau khi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài, học xong tiếng Việt, Cha được cử đến phục vụ tại các cộng đoàn người Mường tại Ninh Bình, nhiễm bệnh sốt rét. Năm 1866, được cử làm hạt trưởng Kim Sơn, rồi phụ trách một giáo hạt khác gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Tuyên Quang và Hưng Hóa.Trong sàu năm trời, ngài liên tục đi lại thăm viếng các giáo xứ thuộc quyền, được các vị linh mục Việt Nam và giáo dân sở tại hết sức yêu mến cảm phục. Đến cuối năm 1873 phải tạm rời nhiệm sở về Hà Nội, vì loạn Cờ Đen. Năm 1876 lại trở lên đó tổ chức lại các cộng đoàn đã bị tan tác.
Vào đầu năm 1878, sau khi Cha André Bonfils qua đời, ngài được cử làm chánh xứ Hà Nội. Trong suốt gần tám năm trời, ngài đã hết sức phục vụ giáo xứ trong tư thái và nhiệt tâm của một nhà truyền giáo đích thực: luôn nghiêm túc sốt sắng trong các nghi lễ phụng vụ, có đời sống rất đạo đức, luôn hiền hậu, vui tươi nhưng rất thẳng thắn,sẳn sàng giúp đở người nghèo khổ bất phân lương giáo, không bao giờ nề hà một khó khăn nào trong khi thi hành mục vụ. Do đức tính khôn ngoan, linh hoạt, chân thành và hiếu khách, nên cha được mọi người kính nể, tin cậy. Cha không bao giờ phân biệt kẻ sang người hèn trong liên hệ giao tế hằng ngày, ai ai cũng đều được cha trân trọng như nhau: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, quan chức, lương dân, thân hào, cùng đinh, người lớn tuổi cũng như thanh niên, trẻ nhỏ. Vào hai năm cuối đời: 1884 và 1885, ngài luôn bị suy yếu vì phục vụ quá độ tại giáo xứ Hà Nội và tại bệnh viện.
Cuối cùng, ngài bị trở bệnh nặng và qua đời tại chủng viện Hoàng Nguyên ngày 31.8.1885 một cách thánh thiện, với nụ cười trên môi, như một người đi vào giấc ngủ bình an.
(3) Lm André Bonfils (10.11.1843 - 30.12.1877).
Theo tài liệu lưu trử tại Văn khố Hội Truyển giáo Hải ngoại Paris (Archives des MEP) thì sau khi cha Bofils qua đời vào cuối năm 1877, Cha Landais mới được cử làm Chánh xứ Hà Nội vào đầu năm 1878. Bởi vậy, nên nói đến Cha Bonfils trước Cha Landais thì hợp lý hơn.
Sinh tại Saint-Marcellin (giáo phận Lyon), ngài được thụ phong linh mục ngày 22.5.1869, và ngày 06.6.1869 lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam. Trong tám năm phục vụ tại Hà nội, cha đã thể hiện một đời sống tông đồ mẫu mực, hoàn toàn quên mình trong việc phục vụ Giáo Hội và tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật. Ngoài trách nhiệm chánh xứ Hà nội, cha còn trực tiếp phụ trách một cô nhi viện tại khu Thánh Nhi của nhà chung. Hằng ngày, cha đều sắp xếp thì giờ đến đó để thăm nom săn sóc các em. Cuối năm 1877, nhiều cô nhi bị bệnh đậu mùa (petite vérole). Vì gần gủi các em, nên cha bị lây nhiễm, bệnh trở nên ngày càng trầm trọng, và cha đã từ trần vào ngày 30.12.1877.
Cha Joseph-Michel Landais kế tục ngài trong chức vụ chánh xứ Hà Nội vào đầu năm 1878.
(4) Vua Lý Thánh Tông (1023-1072), vị vua thứ ba triều Lý, đã cho dựng chùa Báo Thiên vào năm Bính Thân 1056, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông. Năm Đinh Dậu 1057, mùa Xuân, tháng Giêng, vua tự tay viết bài minh văn, đồng thời cho xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng, 12 tầng, tức tháp Báo Thiên. Qua nhiều năm tháng, chùa Báo Thiên trở nên hư nát, hoang phế, không người trông coi. Riêng bảo tháp, nhiều lần bị sét đánh, đỉnh tháp rơi gãy… và đến năm Đinh Mùi 1547 thì tháp bị sập. (Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ).
(5) Năm 1872 người Pháp chiếm thành Hànội lần thứ nhất rồi sau đó trao trả lại cho Triều đình Huế làm chủ như củ. Năm 1883 người Pháp mới đánh chiếm Hà nội lần thứ hai và giữ luôn. Và đến năm 1888 Hànội trở thành nhượng địa của Pháp. Đất đai nhà chung Hà Nội (chủ yếu là khu đất của Tòa Tổng Giám mục, Đại Chủng viện và Tòa Khâm sứ ) đã được tậu mua và nới rộng dần dần ngay trong thời gian Hà Nội còn hoàn toàn ở dưới quyền của vua quan Việt Nam.
(6) Tháng 11 âm lịch năm Nhâm Ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882), quan Thị Lang sung Phó sứ Tỉnh Biên là Nguyễn Hữu Độ được Triều đình Huế bổ làm hộ Tổng Đốc Hà Ninh (Theo Đại Nam Thực Lục, đệ tứ kỷ, quyển LXVIII).
(7) Đoạn nầy Cha J.Villebonnet trích từ sách: “ Hanoi pendant la période héroique. 1873-1888 ” trang 125, của tác giả André Masson. Librairie Orientaliste Paul Genthner. 13 rue Jacob (VIe). 1929’
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Bước Vô Thường
Lm. Tâm Duy
11:56 19/02/2008
BƯỚC VÔ THƯỜNG
Ảnh của Lm. Tâm Duy
vạn dặm xa xôi
Tới nơi
bởi bước chân đầu nhỏ nhoi.
“A journey of a thousand miles begins with a single step”
(Trích tục ngữ Trung Hoa, nđc phóng ngữ)