Ngày 16-03-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa Nhật V Mùa Chay B
Lm Đan Vinh
00:56 16/03/2018
Gr 31,31-34 ; Dt 5,7-9 ; Ga 12,20-33

CON ĐƯỜNG TỰ HỦY CỦA ĐỨC GIÊ-SU LÀ QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 12,20-33

(20) (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

2. Ý CHÍNH:

Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là được vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa chỉ phát sinh được nhiều hạt lúa khác sau khi trải qua một quá trình tự hủy trong ruồng đất. Đức Giê-su qua cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, để ban ơn cứu độ cho loài người, và đến ngày tận thế Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét và tiêu trừ ma quỷ cùng những kẻ theo chúng vào hỏa ngục đời đời.

3) CHÚ THÍCH:

- C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
- C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và ngày một phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này...: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).
- C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy.
- C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”... “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gì ? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
- C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải đi theo con đường tự hủy là bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là chấp nhận cùng uống chén đắng với Người (x. Mt 20,23).

4. CÂU HỎI:

1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt?
2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần?
3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì?
4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì?
5) Tại sao Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến bất an trước giờ tử nạn?
6) Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha thế nào ?
7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào?
8) Muốn được Chúa ban ơn cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người đời đời thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CHA KÔN-BÊ ĐÃ TỰ HỦY KHI CHẾT THAY CHO MỘT BẠN TÙ:

Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!

Người tù nhờ Cha Kôn-bê được thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck). Về sau ông đã kể lại sự biến đổi của nhà tù đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay cho tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam đã biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh giành thực phẩm được người thân tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, sẵn sàng nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã có tinh thần tự hủy khi sẵn sàng hy sinh chết thay cho một người không quen biết.

2) MẦU NHIỆM TỰ HỦY CỦA THÁNH GIÁ LÀ ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG:

Phi trường quốc tế Pen-syl-va-ni-a là một trong những sân bay lớn nhất và hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay của phi đạo đón nhiều chuyến bay nhất của phi trường.

Do sợ tháp chuông nhà thờ có thể gây nguy hiểm cho các máy bay khi đáp xuống phi đạo, cộng đoàn giáo dân nhà thờ đã gắn trên đỉnh tháp chuông một cây thánh giá bằng đèn nê-ông. Từ đó, mỗi lần đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các viên phi công đều lấy cây thánh giá nê-ông này làm chuẩn để đáp máy bay xuống phi đạo. Cây thánh giá trên nóc nhà thờ được sử dụng như ngọn đèn hải đăng giúp cho tầu thuyền từ ngoài khơi có thể cập bến an toàn.

Cũng vậy, con đường bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa Giê-su cũng chính là đường duy nhất dẫn đưa ta lên trời với Chúa Cha.

3) GIÁ ĐẮT CHO THÁI ĐỘ BẤT NHÂN VÔ CẢM TRƯỚC NỖI ĐAU CỦA THA NHÂN:

Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.

Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.

Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình... Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!". Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"

Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy." Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực sâu như tên bắn.

Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu bên sườn núi. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã bật khóc khi đọc được bản tin này!

4) NHỮNG CÁI CHẾT TỰ HỦY MANG LẠI HÒA BÌNH CHO NHÂN LOẠI:

Ngày 3/11/1995 Cái chết của Thủ Tướng Ít-raen là YITZHAK RABIN, đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích đã giết ông, vì họ không chấp nhận con đường mà ông đang thực hiện mang lại nền hòa bình giữa dân Ít-ra-en với dân Palestine và các nước vùng Trung Đông.

Cái chết của Thủ tướng Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của MAHATMA GANDHI 50 năm trước: một thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh ta không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy người Ấn giáo tha thứ cho người Hồi Giáo.

Người ta cũng không thể không nhắc đến cái chết vào năm 1968 của MARTIN LUTHER KING, vị mục sư da đen người Mỹ, khi ông đang hăng say đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.

Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Cách đây hơn 2000 năm, cái chết của Đức Giê-su chính là khởi điểm cho những cái chết của các vĩ nhân đã hy sinh tự hủy chịu chết để đấu tranh cho nhân loại được sống an vui hạnh phúc hơn.

3. SUY NIỆM:

1) Mầu nhiệm tự hủy trong thiên nhiên:

Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”

Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!

Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!

Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

2) Con đường tự hủy của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Qua đau khổ vào trong vinh quang”.

Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm tự hủy của Đức Giê-su qua ba giai đoạn như sau:

+ Mầu nhiệm Nhập Thể: "Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2,6-7). Người giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất.
+ Mầu nhiệm Tử Nạn: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,8). Đức Giê-su chấp nhận chịu chết đau thương trên cây thập giá giống như hạt lúa phải chịu mục nát đi.
+ Mầu nhiệm Phục Sinh: "Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Pl 2,9-11). Đức Giê-su đã từ cõi chết trỗi dậy giống như từ hạt lúa bị mục nát đã trồi lên một mầm xanh là cây lúa và đến mùa cây lúa sẽ trổ sinh ra nhiều bông hạt khác.

Tin Mừng Mát-thêu đã trình bày quá trình tự hủy của Đức Giê-su như sau: "Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).

3) Con đường tự hủy của các môn đệ Đức Giê-su.

Đức Giê-su đã mời gọi các môn đệ đi theo con đường thập giá của Người: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận con đường tự hủy của Đức Giê-su như tông đồ Phao-lô đã chia sẻ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: "Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv 20,22-23).

Sau các Tông đồ, đến lượt các tín hữu cũng chọn đi con đường tự hủy là chấp nhận chịu chết vì danh Chúa, nhờ đó Hội Thánh mới có điều kiện để ngày càng phát triển như lời Téc-tu-li-a-nô đã tiên báo: "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".

4) Con đường tự hủy của các tín hữu hôm nay.

Để đi con đường tự hủy qua cuộc tử nạn vào trong vinh quang phục sinh của Đức Giê-su, các tín hữu cần phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta hãy chuyên cần cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để đón nhận được ơn Thánh Thần hầu được biến đổi nên người mới.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm tự hủy bằng việc thực hành các nhân đức đối lập với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”:

- Mỗi ngày ta quyết tâm thực hành một việc tốt như sau:

Để loại trừ thói ích kỷ lười biếng, chúng ta sẽ xếp gọn đồ đạc và quét nhà lau nhà mỗi ngày.
Để làm chủ thói xấu vô cảm, chúng ta sẽ lên tiếng bênh vực người thân cô thế cô thay vì im lặng.
Để loại trừ thói kiêu ngạo tự mãn, chúng ta sẽ năng khen ngợi tha nhân cách thành thật.
Để loại trừ thói ganh ghét đố kỵ, chúng ta sẽ bào chữa lỗi lầm thay vì phê phán người vắng mặt.
Để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, chúng ta sẽ mỉm cười thân thiện và mở lời chào hỏi làm quen với người mới gặp. Tránh sự to tiếng la mắng người khác.
Để “thêm bạn bớt thù”, chúng ta sẽ mở rộng vòng tay để kết thân với người bên cạnh. Mỗi gia đình Công Giáo sẽ quan tâm cầu nguyện và đi bước trước đến chào hỏi gia đình mới đến khu xóm để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng.

4. THẢO LUẬN:

Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để sống mầu nhiệm tự hủy noi gương Đức Giê-su?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng mình đã hoàn toàn chiến thắng Chúa. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều bông hạt mới, thì nhờ cái chết thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh cho sống lại và đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh về sau cũng noi gương Chúa chấp nhận bị Đế quốc Rô-ma bách hại, và cuối cùng đã được tôn vinh, khi chinh phục cả Đế quốc Rô-ma tin Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.

- Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con vui lòng đón nhận những đau khổ gặp phải trong cuộc sống, với niềm tin yêu hy vọng. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường tự hủy Chúa Giê-su đã chọn để làm theo thánh ý Chúa Cha. Nhờ đó chúng con sẽ ngày nên hoàn thiện, hy vọng sau này sẽ được Chúa Cha tôn vinh trên Thiên Đàng.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 
Vinh Danh
Lm Vũdình Tường
03:43 16/03/2018
Vinh Danh Chúa bằng cách ca tụng tình Chúa vô biên, một mình Ngài đáng tôn vinh, ca tụng, phụng thờ. Hai cách ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Thứ nhất, ngoài Thiên Chúa ra không còn thần thánh, vị nào nào khác đáng được chúc tụng, tôn vinh. Thứ hai, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe, thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Đây chính là điều Chúa Cha nhiều lần phán bảo lắng nghe tiếng Chúa Con.

Đây là Con Ta hằng yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Ngài. Mt 3,13; Lk 3,22

Chính Đức Kitô cũng kêu gọi lắng nghe tiếng Ngài là dấu chỉ bề ngoài cho biết người đó yêu mến Đức Kitô. Yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống theo giáo huấn của Đức Kitô. Yêu mến Đức Kitô trở thành môn đệ Đức Kitô và nhận ra Đức Kitô nơi các anh chị em khác.

Ai yêu mến Ta thì giữ điều răn của Ta Gn 14,15

Kitô hữu Vinh Danh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe tiếng Chúa với tâm tình tạ ơn, phó thác xuất phát tự tâm hồn. Kitô hữu chân chính là người có đời sống, lời nói và hành động trong cuộc sống luôn chung đôi với nhau, nghĩ sao nói thế, nói sao làm thế, làm cho tình yêu Chúa sống động trong cuộc sống. Khi lời nói hành động được hướng dẫn bởi tình yêu và ân sủng Chúa đời sống nội tâm người đó được đong đầy tình yêu và họ tiến trên đường thánh thiện. Là Kitô hữu tất cả đều cần tình yêu và ân sủng Chúa bởi ngoài Chúa ra không còn chúa nào khác có khả năng giúp Kitô hữu sống thánh thiện. Đức Kitô là Đấng duy nhất chúng ta tôn thờ; Ngài là Con Thiên Chúa, nơi Ngài là nguồn ân sủng vô biên, tình yêu bất tận và giáo huấn Ngài cao sánh, khôn lường. Ngài đến trần gian mặc khải cho nhân loại biết tình yêu Chúa Cha, làm Sáng Danh Chúa Cha và Chúa Cha làm Sáng Danh Chúa Con.

Lậy Cha xin làm Sáng Danh Cha và có tiếng từ trời phán ra Ta đã làm Sáng Danh Ta và còn tiếp tục làm Sáng Danh Ta Gn 12, 28

Đức Kitô làm Sáng Danh Chúa Cha

1. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết tình yêu và ân sủng Chúa. Tình yêu đó được thể hiện qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa xuống trần gian vác thập giá cứu chuộc nhân loại khỏi án phạt vì tội bất trung, giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Lúc rao giảng Đức Kitô cho người ta biết Thiên Chúa có quyền tha tội, mở mắt người mù từ lúc mới sinh, người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại Gn 5,3

2. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách dùng miệng con người dâng lời chúc tụng vì nghe lời giảng của Đức Kitô tâm hồn họ mở ra, tim họ rực sáng và lòng họ đầy hoan lạc họ lớn tiếng ca ngợi, tôn vinh, chúc tụng

Dân chúng sửng sốt về lời Người giảng dậy vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền Mat 7,29

3. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách tuyên chiến với ma quỷ, tử thần. Đức Kitô xua đuổi ma quỷ, bắt chúng vâng phục lời Người phán bảo. Ma quỷ run sợ trước lời của Đức Kitô chúng than
Ông Giêsu, chuyện chúng tôi, can gì đến ông. Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đức Kitô quát mắng chúng: Câm đi hãy xuất khỏi người này. Lc 4,34. Ma quỷ phải nghe lời Ngài, không dám làm hại anh ta.

4. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết mối liên hệ thắm thiết vể cả lời nói lẫn hành động và quyền năng giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

Chúa Cha yêu thương Chúa Con và trao mọi sự trong tay Người Gn 3,35

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất Mt 28,18

5. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách vâng lời Chúa Cha. Ngài đến trần gian không phải để làm theo í riêng mà chính là làm cho í Chúa Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Tôi tự trời xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi Gn 6,38

Chúng ta cầu xin được kết hợp với Đức Kitô bằng cách sống trung thành với giáo huấn của Ngài để trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa

Ai thi hành í muốn của Cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Ta Mt 13,50

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
 
Học Yêu
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:47 16/03/2018
Chúa Nhật V Mùa Chay B

“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).

Một trong những khao khát đượm tính hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa lẫn nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.

Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.

Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.

Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.

Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.

Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bất kể luật mới, các quán rượu ở Ái Nhĩ Lan sẽ đóng cửa vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
Đặng Tự Do
00:02 16/03/2018
Các quán rượu ở Ái Nhĩ Lan sẽ được mở và phục vụ rượu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 30 tháng 3 tới đây, lần đầu tiên trong 91 năm. Nhưng một số chủ quán rượu đã thề sẽ đóng cửa để giữ truyền thống tốt đẹp ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

Tổng thống Michael D. Higgins đã ký quyết định thay đổi luật có hiệu lực trước kỳ nghỉ lễ Phục sinh năm nay sau khi ông nhận được sự ủng hộ của Quốc Hội.

Lệnh cấm uống rượu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đã được áp dụng từ năm 1927, khi các nhà lập pháp quyết định rằng ý nghĩa của ngày ăn chay và kiêng thịt này đã được công chúng chấp nhận. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các chủ quán rượu đã phàn nàn rằng lệnh cấm đã có một ảnh hưởng bất lợi đối với ngành du lịch khi các du khách đến thăm Ái Nhĩ Lan vào dịp Lễ Phục Sinh.

Tuy nhiên, bất kể luật mới chủ nhân tại ít nhất hai thị trấn nói rằng họ sẽ đóng cửa như mọi năm. Tại Drumconrath, thuộc quận Meath - ở phía bắc Dublin - ba chủ quán rượu địa phương cũng đã cho biết họ giữ truyền thống ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Source: Catholic Herald Despite new law, some Irish pubs will remain closed on Good Friday
 
Stephen Hawking là thành viên lâu đời của Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Khoa Học
Vũ Văn An
00:41 16/03/2018
Nhà vật lý học nổi danh người Anh, Stephen Hawking, vừa qua đời ngày 14 tháng Ba năm 2018, thọ 76 tuổi, để lại 3 con đã trưởng thành. Ông là nhà vật lý học lý thuyết, vũ trụ học, tác giả và Giám Đốc Nghiên Cứu tại Trung Tâm Vũ Trụ Học Lý Thuyết của Đại Học Cambridge. Tên ông được dùng đặt tên cho 1 loại phóng xạ “lý thuyết” do “các lỗ hổng đen” tạo ra: phóng xạ Hawking.



Cuộc đời ông có nhiều trùng hợp kỳ lạ: Ông sinh ra đúng vào lễ kỷ niệm 300 năm ngày qua đời của Galileo. Và ngày ông chết, 14 tháng Ba, là ngày kỷ niệm Einstein sinh ra đời cách nay 134 năm, người mà từ lúc học trung học, ông đã được ví với. Và năm 1978, ông được lãnh Huy Chương Albert Einstein.

Trước đó 3 năm, ông lãnh huy chương “lạ” Pius XI Gold Medal. Điều này càng lạ hơn, khi năm 1981, tại 1 hội nghị tại Vatican, ông trình bầy công trình nghiên cứu của ông cho rằng vũ trụ không có biên giới, vô thủy vô chung, vì trước Big Bang, thời gian chưa có và ý niệm vũ trụ khởi đầu hoàn toàn vô nghĩa.

Người vô thần

Tính đơn nhất khởi thủy của mô thức Big Bang cổ điển được thay thế bởi một vùng giống như Bắc Cực. Người ta không thể đến bắc của Bắc Cực, nhưng không hề có biên giới ở đó, nó chỉ là điểm nơi mọi đường chạy dọc lên bắc gặp nhau và kết thúc. Thoạt đầu, đề xuất vô biên giới tiên đoán một vũ trụ khép kín, việc này có những hệ luận đối với sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chính Hawking nói như sau: “nếu vũ trụ không có biên giới mà là có đủ mọi thứ (self-contained)... thì Thiên Chúa sẽ không còn một chút tự do nào trong việc quyết định vũ trụ phải khởi đầu ra sao”.

Hawking chưa hẳn bác bỏ sự hiện hữu của 1 Đấng Tạo Hóa. Trong các công trình ở buổi đầu, Hawking nói về Thiên Chúa theo nghĩa ẩn dụ. Trong A Brief History of Time, ông viết: “nếu chúng ta khám phá ra một lý thuyết đầy đủ, thì đây hẳn là chiến thắng tối hậu của lý trí con người, vì lúc ấy, ta có thể biết được cả tâm trí của Thiên Chúa”. Cũng trong tác phẩm này, ông cho rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa không cần thiết để giải thích nguồn gốc của Vũ Trụ.

Quan điểm trên đây đã khiến nhiều người cho rằng ông chủ trương không có Thiên Chúa, như một số đài truyền hình hôm qua cho thấy. Và dù sao, quan điểm nói chung của ông về tôn giáo cũng đã làm gia tăng các căng thẳng giữa ông và người vợ đầu tiên, Jane Hawking, người đã sinh cho ông ba đứa con, nhưng sau đó, đã bỏ ông đi theo “tiếng gọi con tim”.

Nói chung, Hawking tuyên bố ông “không phải là người tôn giáo theo nghĩa thông thường” và ông tin rằng “vũ trụ được cai trị bằng các định luật khoa học”.

Ông quả quyết: “có một sự khác biệt nền tảng giữa tôn giáo, đặt căn bản trên thẩm quyền, [và] khoa học, đặt căn bản trên nhận xét và lý lẽ. Khoa học sẽ thắng vì hữu hiệu”.

Năm 2008, Hawking tuyên bố rằng “Các định luật có thể do Thiên Chúa ban bố, nhưng Thiên Chúa không can thiệp để đánh đổ chúng”. Trong một cuộc phỏng vấn do tờ The Guardian công bố, Hawking coi “bộ óc như một máy vi tính sẽ ngưng làm việc khi các thành phần tạo ra nó hết hoạt động”; Ông coi ý niệm thiên đàng như một huyền thoại vì tin rằng “không có hỏa ngục hay đời sau” và ý niệm này chỉ là “câu truyện thần tiên cho những ai sợ bóng tối”. Năm 2011, khi thuyết minh tình tiết đầu tiên trong loạt truyền hình Curiosity trên Đài Discovery, Hoa Kỳ, Ông tuyên bố: “mỗi người chúng ta được tự do tin điều mình muốn và tôi cho rằng giải thích đơn giản nhất là không có Thiên Chúa. Không ai đã tạo ra vũ trụ này và không ai điều hướng số phận của nó. Điều này dẫn tôi tới một hiểu biết sâu xa. Có lẽ không có thiên đàng, và cũng không có đời sau. Chúng ta chỉ có đời này để trân quí kế sách vĩ đại của vũ trụ, và tôi cực kỳ biết ơn về việc này”.

Tháng Chín năm 2014, ông tham dự Lễ Hội Starmus trong tư cách diễn giả chính và tự tuyên bố mình là người vô thần. Trong một cuộc phỏng vấn của El Mundo, ông nhận định: “Trước khi hiểu khoa học, điều tự nhiên là ta tin rằng Thiên Chúa tạo ra vũ trụ. Nhưng nay, khoa học đã cung ứng lời giải thích thuyết phục hơn. Điều tôi muốn nói qua kiểu nói ‘chúng ta sẽ biết tâm trí của Thiên Chúa là ta sẽ biết mọi điều Thiên Chúa biết, nếu có một Thiên Chúa, một điều vốn không có. Tôi là một người vô thần”.

Thành viên Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Khoa Học



Thế nhưng, ông vốn là một thành viên lâu đời của Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Khoa Học. Chính trong tư cách đó, ông đã lãnh giải Pius XI Gold Medal và phát biểu tại một hội nghị tại Vatican như đã nói trên đây.

Thực thế, năm 1968, Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI đã bổ nhiệm Hawking làm thành viên của Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện. Và năm 1975, ngài đã trao tặng khoa học gia 33 tuổi này huy chương vàng Pius XI, vị giáo hoàng đã thiết lập Hàn Lâm Viện năm 1847. Hình ảnh của văn khố Hàn Lâm Viện cho thấy Đức Phaolô VI qùy gối trước Hawking đang ngồi trong một chiếc xe lăn để trao huy chương.

Chính vì thế, khi nghe tin ông qua đời, Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện đã “tweet” như sau: “chúng tôi hết sức đau buồn về việc ra đi của hàn lâm sĩ nổi tiếng Stephen # Hawking của chúng tôi, người hết sức trung thành với Hàn Lâm Viện của chúng tôi... Chúng tôi cầu xin Chúa nghinh đón ông vào Vinh Quang của Người”.

Đài Thiên Văn Vatican cũng ngỏ lời chia buồn với gia đình ông: “Chúng tôi trân quí sự đóng góp khoa học lớn lao ông đã làm cho khoa vũ trụ học lượng tử và sự can đảm của ông khi đối mặt với bệnh tật".

Đức Phaolô VI, khi bổ nhiệm Hawking, cho hay: thành viên của Hàn Lâm Viện được chọn dựa trên các thành tích học thuật và chuyên môn nghề nghiệp, chứ không phải dựa trên các niềm tin tôn giáo của Họ. Đó cũng là lý do của việc trao Huy Chương Vàng Pius XI năm 1975.

Và theo Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện, ông luôn cổ vũ một cuộc đối thọai hữu ích giữa khoa học và tôn giáo. Trong lời chia buồn của mình, Hàn Lâm Viện cũng xác nhận rằng “ông từng nói với 4 vị giáo hoàng ông gặp rằng ông muốn phát huy mối liên hệ giữa Đức Tin và Lý Lẽ Khoa Học”

Vị giáo hoàng cuối cùng Hawking gặp chính là Đức Đương Kim Giáo Hoàng Phanxicô khi ông trình bầy “Nguồn Gốc của Vũ Trụ” tại phiên họp toàn thể của Hàn Lâm Viện năm 2016.

Như trên đã rõ, ông quả quyết Thiên Chúa không có vai trò gì trong việc tạo ra vũ trụ. Nhưng chủ nghĩa vô thần đã không ngăn cản ông đối thoại và tranh luận với Giáo Hội như việc làm và sự đóng góp của ông vào Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện đã chứng tỏ.

Ông cũng đã từng tranh luận trên chương trình Larry King Live của đài CNN năm 2010 với linh mục Dòng Tên Robert Spitzer, một triết gia và là 1 nhà giáo dục, về nền móng khoa học của khởi thủy vũ trụ và luận điểm thần học về sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Vả lại, cũng trong năm 2010, nhà thiên văn học của Tòa Thánh, Tu Sĩ Dòng Tên Guy Consolmagno, người nghiên cứu cả vật lý lẫn triết lý, nói với Catholic News Service rằng “‘thiên chúa’ mà Stephen Hawking không tin cũng là một với vị thiên chúa mà tôi không tin. Thiên Chúa không phải chỉ là một sức mạnh khác trong vũ trụ, song song với trọng lực hay điện lực. Thiên Chúa là lý do tại sao chính hiện hữu đã hiện hữu. Thiên Chúa là lý do tại sao không gian và thời gian và các định luật của thiên nhiên có thể có đó để các lực hoạt động mà Stephen Hawking đang nói đến”.

Hơn nữa Giáo Hội tin rằng sự thật sẽ giải thoát con người. Mọi tìm kiếm khoa học đều nhằm tìm ra sự thật và cuối cùng nó sẽ dẫn con người tới chỗ tìm ra không phải là các lý thuyết mà là sự thật tối hậu vốn là một ngôi vị, đó là Thiên Chúa, Thiên Chúa của Thầy Consolmagno chứ không phải “thiên chúa” của Hawking.

Ta có quyền hy vọng như thế vì như Vatican News đã thuật lại chính Hawking có lần nói rằng “Hãy nhớ nhìn lên các vì sao chứ đừng nhìn xuống bàn chân bạn. Hãy ráng làm cho có nghĩa những điều bạn thấy và thắc mắc điều gì làm vũ trụ hiện hữu. Hãy tò mò. Và dù đời sống có khó khăn bao nhiêu đi nữa, luôn có một điều gì đó bạn có thể làm và thành công. Điều quan trọng là bạn đừng bỏ cuộc”.
 
ĐTC: Kinh Lậy Cha và nghi thức Bẻ Bánh
Khải Tiến Linh
16:33 16/03/2018
Trước khi hiệp lễ cộng đoàn cùng nhau đọc Kinh Lậy Cha xin cho các nhu cầu cuộc sống. Rồi vị linh mục đọc lời nguyện xin Chúa giải thoát tín hữu khỏi mọi sự dữ trước khi mọi người trao bình an cho nhau. Sự bình an của Chúa Kitô không thể đâm rễ sâu trong môt con tim không có khả năng sống tình huynh đệ và tái lập nó sau khi đã đả thương nó.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích phần ba của Phụng vụ thánh thể là Kinh Lậy Cha và nghi thức bẻ Bánh. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Trong Bữa Tiệc Cuối Cùng chúng ta biết rằng Chúa Giêsu “bẻ bánh” sau khi cầm lấy bánh và chén rượu tạ ơn Thiên Chúa Cha. Trong phụng vụ thánh thể của Thánh Lễ việc bẻ bánh tương ứng với hành động này được đi trước bởi lời kinh mà Chúa đã dậy cho chúng ta, nghĩa là Kinh Lậy Cha.

Các nghi thức Hiệp lễ bắt đầu như thế, bằng cách kéo dài lời chúc tụng và khẩn nài của Lời Nguyện Thánh Thể với việc cùng nhau đọc Kinh Lậy Cha. Đây không phải là một trong các lời kinh kitô, mà là lời kinh của Con Thiên Chúa: đó là lời kinh vĩ đại Chúa Giêsu đã dậy chúng ta. Thật vậy, được trao cho chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội Kinh Lậy Cha làm vang vọng lên trong chúng ta cùng các tâm tình của Chúa Kitô Giêsu. Khi chúng ta cầu nguyện với Kinh Lậy Cha, chúng ta cầu nguyện như Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Đó là lời kinh Chúa Giêsu đã đọc và đã dậy chúng ta. Khi các môn đệ xin với Chúa: “Lậy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyên như Thầy cầu nguyện”, Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế. Thật đẹp biết bao cầu nguyện như Chúa Giêsu!

** Theo các lời Người dậy chúng ta dám hướng tới Thiên Chúa Cha và gọi Người là “Cha”, bởi vì chúng ta đã được tái sinh như con cái của Người qua nước và Thánh Thần (x. Ep 1,5) Thật thế không ai có thể gọi Người một cách thân tình là “Abba” Cha, nếu đã không được Thiên Chúa sinh ra, nếu không có linh hứng của Chúa Thánh Thần như thánh Phaolô đã dậy (x. Rm 8,15). Chúng ta phải suy nghĩ: không ai có thể gọi Ngài là Cha, mà không có sự linh hứng của Thần Khí. Biết bao nhiêu lần có người nói “Lậy Cha chúng con” mà không biết điều mình nói. Bởi vì đúng, Ngài là Cha, nhưng bạn có cảm thấy rằng khi bạn nói “Cha” Ngài là Cha, Cha của bạn, Cha của nhân loại, Cha của Đức

Giêsu Kitô không? Bạn có một tương quan vói người Cha này hay không? Khi chúng ta cầu nguyện “Lậy Cha chúng con” chúng ta nối liền với Thiên Chúa Cha, là Đấng yêu thương chúng ta, nhưng Thần Khí ban cho chúng ta sự nối kết ấy, tâm tình là con cái của Thiên Chúa ấy.

Có lời kinh nào tốt đẹp hơn là lời kinh được Chúa Giêsu dậy có thể chuẩn bị chúng ta cho việc hiệp thông bí tích với Ngài? Ngoài Thánh Lễ ra Kinh Lậy Cha còn được đọc ban sáng và ban chiều, trong Kinh Sáng và Kinh Chiều. Như thế thái độ con thảo đối với Thiên Chúa và tình huynh đệ đối với tha nhân góp phần vào việc trao ban cho các ngày sống của chúng ta hình thái kitô.

Trong Kinh của Chúa, trong Kinh Lậy Cha chúng ta xin “ lương thực hằng ngày”, trong đó chúng ta cần để sống như con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cũng khẩn nài ơn tha các tội lỗi của chúng ta, và để xứng đáng nhận ơn tha tội của Thiên Chúa chúng ta dấn thân tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta. Và điều này không dễ. Tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta không dễ: đó là một ơn mà chúng ta phải xin: “Lậy Chúa, xin dậy con tha thứ như Chúa đã tha thứ cho con”. Đó là một ơn. Với các sức lực của mình chúng ta không thể: tha thứ là một ơn của Chúa Thánh Thần. Như vậy, trong khi mở rộng con tim của chúng ta cho Thiên Chúa Kinh Lậy Cha chuẩn bị chúng ta cho tình yêu thương huynh đệ. Sau cùng chúng ta còn xin Thiên Chúa “giải thoát chúng ta khỏi sự dữ” làm cho chúng ta xa cách Ngài và chia rẽ chúng ta tới các anh em khác. Chúng ta hiểu rõ rằng đó là các lời xin rất thích hợp để chuẩn bị chúng ta cho việc Hiệp Lễ thánh (TTCSLR, 81).

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Thật vậy, nhũng gì chúng ta xin trong Kinh Lậy Cha được kéo dài bởi lời cầu của vị linh mục nhân danh mọi người khẩn nài như sau: “Lậy Chúa xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban bình an cho các ngày sống của chúng con”. Và rồi nó nhận được một loại dấu ấn trong nghi thức trao ban bình an: điều đầu tiên chúng ta xin nơi Chúa Kitô là ơn của sự bình an – rất khác với sự bình an của trần gian – làm cho Giáo Hội lớn lên trong sự hiệp nhất và trong bình an, theo ý muốn của Ngài. Rồi với cử chỉ cụ thể trao đổi với nhau chúng ta diễn tả sự hiệp thông giáo hội và tình yêu thương đối với nhau trước khi rước lễ (TTCSLR 82). ĐTC giải thích thêm cử chỉ trao ban bình an như sau:

** Trong lễ nghi Latinh việc trao đổi dấu chỉ của sự bình an từ thời xa xưa được đặt trước khi hiệp lễ nhắm tới việc hiệp thông thánh thể. Theo lời cảnh cáo của thánh Phaolô không thể hiệp thông vào Bánh duy nhất khiến cho chúng ta thành một Thân Thể duy nhất trong Chúa Kitô, mà không thừa nhận nhau được hoà giải bởi tình huynh đệ (x 1 Cr 10,16-17); 11,29) Hoà bình của Chúa Kitô không thể đâm rễ sâu trong một con tim không có khả năng sống tình huynh đệ và tái lập nó sau khi đã làm cho nó bị thương. Hoà bình chính Chúa ban cho: Ngài ban cho chúng ta ơn tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta.

Cử chỉ hoà bình được theo sau bởi việc Bẻ Bánh ngay từ thời các tông đồ đã trao ban tên gọi cho toàn việc cử hành thánh thể (TTCSLR, 83; GLGHCG 1329). Được Chúa Giêsu hoàn thành trong Bữa Tiệc Ly việc bẻ Bánh và cử chỉ mạc khải đã cho phép các môn đệ nhận ra Chúa sau khi Ngài sống lại. Chúng ta hãy nhớ tới hai môn đệ trên đường về làng Emmaus, khi nói về cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh, họ kể lại “họ đã nhận ra Ngài trong việc bẻ bánh như thế nào” (x. Lc 24,30-31.35).

Việc Bẻ Bánh thánh thể được kèm theo bởi lời khẩn nài “Lậy Chiên Thiên Chúa”, là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả đã dùng để chỉ nơi Chúa Giêsu “Đấng lấy đi tội lỗi của trần gian” (Ga 1,29) Hình ảnh kinh thánh chiên con nói về ơn cứu độ (x. Xh 12,1-14; Is 53,7; 1 Pr 1,19; Kh 7,14). Trong Bánh Thánh Thể bị bẻ ra cho sự sống của thế giới, cộng đoàn cầu nguyện nhận biết Chiên Con đích thật của Thiên Chúa, nghĩa là Đức Kitô Cứu Thế, và khẩn nài Ngài: “Xin thương xót chúng con… xin ban bình an cho chúng con”.

“Xin thương xót chúng con” “xin ban bình an cho chúng con” là các lời khẩn nài từ Kinh Lậy Cha cho tới việc bẻ Bánh, giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn tham dự vào tiệc thánh thể, là suối nguồn của sự hiệp thông với Thiên Chúa và với các anh em khác. Chúng ta đừng quên lời cầu vĩ đại này, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu dã dậy chúng ta, và nó là lời mà Ngài đã cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Và lời cầu nguyện này chuẩn bị cho chúng ta Hiệp Lễ.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp và Thụy Sĩ, đặc biệt các thành viên cộng đoàn đại kết Taizé, giới trẻ các trường cao học Pháp và các nhóm tín hữu của các giáo phận Angers và Puy. Ngài mời gọi họ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Phục Sinh bằng cách củng cố niềm an binh của Chúa Kitô trong con tim, sống tình huynh đệ và chữa lành nó khi nó bị thương tích.

Chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Ailen, Na Uy, Australia, Trung Quốc, Indonesia và Hoa Kỳ ngài cầu mong mùa Chay là thời gian ơn thánh và canh tân tinh thần cho họ và gia đình họ. Trong các nhóm Đức ngài đặc biệt chào cộng đoàn trường huấn nghệ Friedrich List Hamm.

Trong các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngài chào thành viên hiệp hội “Lãnh đạo toàn cầu cho việc đào tạo các chính quyền địa phương” các tín hữu Lages di Pico và Coimbra. Ngài cầu mong con đường chuẩn bị của Mùa Chay mang lại nhiều hoa trái cho các quyết tâm dấn thân quảng đại trong cuộc sống kitô và giúp canh tân các cộng đoàn trong nỗ lực diễn tả lòng thương xót và hoà bình.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc cho biết những người mắc tội trọng không được lên rước lễ nếu trước đó đã không được tha tội trong bí tích Hoà Giải. Muà Chay là dịp đến lãnh bí tích này.

Chào các tín hữu vùng Trung Đông ngài mời gọi họ để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong nỗ lực hoán cải cuộc sống, được thanh tẩy khỏi tội lỗi để phục vụ Chúa và tha nhân theo khả năng và vai trò riêng của từng người.

Trong các nhóm Ý ĐTC chào các nhóm giáo xứ, cách riêng tín hữu vùng Castellaneta do ĐGM Claudio Maniago hướng dẫn, các sinh viên học sinh và cựu học sinh Salesien tỉnh Livorno, ngài cầu mong cuộc hành hương củng cố lòng tin của từng người, giúp họ lớn lên trong tình bác ái và dấn thân phục vụ công ích.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc họ đừng quên lời Chúa Giêsu hứa luôn ở cùng các môn đệ mọi ngày và hiện diện trong nhiều cách thế khác nhau. Mỗi người hãy ý thức trách nhiệm của mình và không mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của Chúa khắp mọi nơi.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
 
Sự vâng phục gắn bó đời sống của các Kitô hữu lại với nhau.
Giuse Thẩm Nguyễn
16:54 16/03/2018
(Vatican News) Trong phần suy niệm vào ngày thứ Sáu, tuần thứ bốn Mùa Chay tại giáo đô Vatican, cha Raniero Cantalmessa nhấn mạnh đến vai trò của sự vâng phục trong đời sống người Kitô hữu, một đề tài trong thư của Thánh Phao-lô gởi tín hữu Roma “mỗi người phải vâng phục nhà cầm quyền.”

Vâng phục Thiên Chúa

Thánh Phao-lô và các môn đệ khác của Chúa Giê-su đã bước vào đời với một ý thức rằng mình đi theo một Đấng mà “nước tôi không thuộc về thế gian này.” Các ngài cũng bắt đầu hiểu rằng “vâng phục nhà cầm quyền là môt kết quả và là một khía cạnh quan trọng hơn và toàn diện hơn của sự vâng phục mà thánh nhân gọi là “vâng phục Thiên Chúa.” Bất cứ sự vâng phục nào của người Kitô hữu cũng phải bắt nguồn tứ ý thức không phải là vâng phục con người, nhưng vâng phục Thiên Chúa.

Cha Cantalamessa đưa hình ảnh một màng nhện. Con nhện nhả ra những sợi tơ chính để làm nên màng nhện và khi đã hoàn tất “màng nhện được đan kết lại với nhau nhờ vào sợi tơ chính; nếu không có sợi tơ chính này thì màng nhện sẽ tan rã. Nếu có sợi tơ phụ nào bị đứt, con nhện vẫn có thể sửa lại màng nhện. Nhưng sợi tơ chính mà bị đứt, thì con nhện sẽ bỏ cái màng nhện ấy để bắt đầu dệt cái màng nhện khác. Đó chính là sự vâng phục trong bất cứ tổ chức trần thế nào, kể cả Giáo Hội.

Sự vâng phục của Chúa Kitô

Sau đó cha Cantaamessa mời gọi chúng ta hướng về Chúa Giê-su, Đấng đã được mô tả trong Thánh Kinh như là “người vâng phục.” Theo Thánh Phao-lô, chính nhờ sự vâng phục của Ngài mà chúng ta được nên công chính. Chúa Giê-su “đã vâng phục cho đến chết” (Pl 2:8) và “đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5:8). Chúng ta cũng phải hiểu “bản chất của hành động vâng phục này”, nó “hoàn toàn ngược lại với sự bất tuân của A-dong… Tất cả mọi bất tuân đều bắt nguồn từ bất tuân Thiên Chúa và tất cả mọi vâng phục đều bắt nguồn từ vâng phục Thiên Chúa.”

Đức Kitô, “Đấng Vâng Phục” là đầu của những ai chọn “vâng phục, đối nghịch với A-dong là đầu của những kẻ bất tuân”. Thánh Phao-lô đã viết rằng người Kitô đã tự dâng hiến đời mình cho Đức Kitô vào ngày chịu phép Rửa Tội, do đó “qua phép rửa, có một sự thay đổi những chủ nhân, thay đổi vương quốc: Từ tội lỗi qua công chính, từ bất tuân qua vâng phục, từ A-dong qua Chúa Kitô.”

Sự tuân phục trong đời sống mỗi ngày

Sự vâng phục là yếu tố cần thiết của đời sống Kitô hữu. Một cách cụ thể, chúng ta có thể tiếp cận mỗi ngày như lời trong Thánh Vịnh 40. Tác giả Thư Do Thái đã mượn lời của Thánh Vịnh nói thay Chúa Giê-su rằng,“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.”(Dt 10:7).

Cha Cantalamessa kết thúc bài chia sẻ “Bây giờ đến lược chúng ta, mỗi ngày qua đi sẽ được hướng dẫn bởi những lời này, ‘Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa!’ Buổi sáng, bắt đầu một ngày mới với những công việc thường ngày, trước khi làm việc hãy nói rằng “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa!”

Giuse Thẩm Nguyễn
 
Bộ Giáo Lý Đức Tin ra thông cáo tước bỏ chức vụ của Tổng Giám Mục Anthony Apuron
Đặng Tự Do
17:30 16/03/2018
Tổng Giám mục Anthony Apuron của tổng giáo phận Guam, đã bị Tòa án Vatican buộc tội lạm dụng tình dục và tước bỏ chức vụ của mình. Quyết định của Bộ Giáo Lý Đức Tin đã được đưa ra hôm thứ Sáu 16 tháng Ba, 2018.

Vị Tổng Giám Mục bị buộc tội được tường thuật rằng đã kháng cáo phán quyết này.

Tổng Giám mục Apuron đã bị tạm đình chỉ các nhiệm vụ mục vụ của mình vào tháng 6 năm 2106, và bị triệu hồi về Vatican, sau một loạt các phàn nàn rằng ông đã lạm dụng tình dục các thanh niên trẻ. Một trong những người tố cáo ông lại chính là người cháu ruột của ông. Vatican đã bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Michael Byrnes, làm Tổng Giám Mục Phó của tổng giáo phận Guam, với các năng quyền đặc biệt để điều hành tổng giáo phận cho đến khi các cáo buộc chống lại Tổng giám mục Apuron được giải quyết. Trong khi đó Tổng giám mục Apuron vẫn ở Rôma.

Vào tháng 10 năm 2017, Đức Cha Byrnes thông báo rằng một Tòa án Vatican đã xử những cáo buộc lạm dụng tình dục này và đã đạt đến một phán quyết. Nhưng vài tháng đã trôi qua trước khi phán quyết đó được chính thức thông báo vào ngày 16 tháng 3 năm 2018. Không có lời giải thích nào về sự trì hoãn này. Tháng Hai vừa qua, Tổng Giám mục Apuron có cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau buổi triều yết chung hàng tuần, có lẽ để tìm kiếm một sự can thiệp vào phút chót.

Phiên xử về giáo luật Tổng giám mục đã được thực hiện bởi một ủy ban gồm năm thẩm phán, dưới sự chủ tọa của Bộ Giáo lý Đức tin. Tòa án đã áp đặt các hình phạt “tước bỏ các chức vụ và cấm cư trú trong Tổng Giáo phận Guam”. Tuy nhiên, vì Tổng giám mục Apuron kháng cáo nên các hình phạt được công bố hôm thứ Sáu 16 tháng Ba sẽ bị tạm thời đình chỉ.

Trừ khi bản án của ông bị đảo ngược trong phiên tòa sắp tới, Tổng Giám mục Apuron sẽ là vị tổng giám mục thứ hai bị tước danh hiệu giáo sĩ của mình sau một phiên toà giáo luật về tội lạm dụng. Vào năm 2014, Tổng Giám mục Jozef Wesolowski, người đã là từng là sứ thần Tòa thánh ở Cộng hòa Dominican, đã bị tước bỏ chức vụ của mình và bị cho hồi tục. Theo dự trù, vị giám chức Ba Lan này cũng phải đối mặt với một vụ xét xử hình sự, về cáo buộc lạm dụng tình dục, nhưng ông đã chết đột ngột trước khi phiên xử bắt đầu.

Ở Guam, một số thanh niên đã nộp đơn kiện chống lại Tổng giám mục Apuron. Năm ngoái, luật sư của vị giám chức nói rằng Apuron sẽ không đàm phán các tranh chấp cho đến khi kết thúc phiên tòa giáo luật tại Vatican. Nếu tòa án Vatican bác bỏ kháng cáo của Tổng giám mục Apuron, sau khi hồi tục, ông sẽ phải đối diện với các phiên tòa dân sự và phải bồi thường cho các thanh niên này.
Source: Catholic World News Vatican tribunal finds Guam archbishop guilty of sexual abuse
 
Các Giám Mục Ba Lan tiếp tục bác bỏ khả thể cho người ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ
Đặng Tự Do
18:04 16/03/2018
Hội nghị toàn thể của Hội Đồng Giám Mục Ba Lan được tổ chức nhân kỷ niệm năm thứ 5 cuộc bầu cử Đức Phanxicô vào ngôi Giáo Hoàng vừa kết thúc

Kỷ niệm 100 năm ngày độc lập của Ba Lan, Thượng Hội đồng về Giới trẻ và Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, hôn nhân và gia đình, dự án “Chặn đứng phá thai”, quan hệ Ba Lan -Do Thái và kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Cơ quan Thông tin Công Giáo Ba Lan (KAI) là chủ đề của Đại hội toàn thể lần thứ 378 của Hội đồng Giám mục Ba Lan ở Warsaw, diễn ra trong hai ngày 13 và 14 tháng 3 vừa qua.

Hội nghị khoáng đại đã do Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Gadecki, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, chủ tọa. Hiện diện trong hội nghị này còn có Đức Tổng Giám Mục Salvatore Pennacchio, Sứ thần Tòa Thánh tại Ba Lan, và các đại diện của các Hội Đồng Giám Mục từ Belarus, Cộng Hòa Tiệp, Kazakhstan, Latvia, Moldova, Đức, Scandinavia, Ukraine, Hung Gia Lợi, và Italy.

Hội nghị toàn thể Hội Đồng Giám mục Ba Lan đã được triệu tập vào dịp kỷ niệm 5 năm cuộc bầu cử Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Nhân dịp này, các giám mục Ba Lan đã cử hành Thánh Lễ cầu nguyện cho Đức Thánh Cha tại Đền Thờ Chúa Quan Phòng tại Warsaw, do Đức Tổng Giám Mục Salvatore Pennacchio chủ sự, với sự tham dự của đại diện các cơ quan nhà nước, các cơ quan ngoại giao và đông đảo các tín hữu. Các Đức Giám Mục đã bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha vì sự quan tâm liên tục của ngài đối với Giáo Hội tại Ba Lan, việc phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II, và chuyến tông du Ba Lan nhân Ngày Giới trẻ Thế giới tại Krakow và các giáo huấn mục vụ.

Về lễ kỷ niệm 100 năm giành lại độc lập của Ba Lan, các Giám Mục đã suy tư về vai trò của Giáo Hội trong sự phát triển tinh thần của người dân Ba Lan và trong việc phát triển căn tính quốc gia “Ba Lan” trong thời kỳ nước này bị sống trong tình trạng nô lệ ngoại bang. Các Giám Mục đã chú ý tới tầm quan trọng của Giáo Hội Công Giáo trong việc giữ gìn các giá trị quốc gia trong thời kỳ nô lệ và đánh giá cao lòng sùng kính của người Ba Lan.

Các Giám mục cũng thảo luận các sáng kiến mục vụ liên quan đến Thượng Hội Đồng về Thanh Niên và tình hình chuẩn bị cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Panama. Trong các cuộc tranh luận, các ngài cũng đã thảo luận cách sâu sắc về các hình thức chăm sóc hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng của Tông Huấn Amoris Laetitia. Các Giám Mục tái khẳng định một lần nữa quyết tâm của các ngài giữ gìn giáo huấn truyền thống của Giáo Hội, bác bỏ khả thể cho những người ly hôn và tái hôn dân sự được rước lễ, trừ phi họ sống với người phối ngẫu mới một cách khiết tịnh. Tuy nhiên, các Giám mục kêu gọi các linh mục đồng hành và quan tâm nhiều hơn đến các trường hợp khó khăn trong hôn nhân, cả trên con đường trung thành với các bí tích của họ và trong sự phân định các tình huống bất thường của họ. Nhắc lại sự cần thiết phải tôn trọng vô điều kiện sự sống con người trong tất cả các khoảnh khắc của cuộc đời, các Giám mục kêu gọi các nhà lập pháp tiến hành ngay dự án “Chặn đứng phá thai”.

Liên quan đến vấn đề về quan hệ Ba Lan-Do Thái, các Giám mục nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục đối thoại dựa trên sự thật, sự tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Các ngài nhấn mạnh rằng tất cả các hình thức bài Do Thái là mâu thuẫn với các nguyên tắc yêu mến người lân cận của Kitô giáo. Các ngài cũng chỉ ra thái độ anh hùng của những người Ba Lan, có nguy cơ mất mạng sống, trong khi giúp những người Do Thái bị khủng bố trong Thế chiến thứ Hai.

Hội Đồng Giám mục Ba Lan cũng bày tỏ lòng biết ơn Cơ quan Thông tin Công Giáo Ba lan (KAI) trong 25 năm hoạt động vừa qua. Cuối cùng, các giám mục đã cảm ơn các linh mục vì sự phục vụ quảng đại của các ngài trong Mùa Chay và mong muốn tất cả các tín hữu cảm thấy hạnh phúc trong thời gian này. Đối với Lễ Phục Sinh sắp tới, các ngài cầu chúc các tín hữu qua việc cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô sẽ được tràn đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Source: Zenit Poland: Bishops Conclude Plenary Session
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Một lưu niệm đạo đức quý giá giữa Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc và VietCatholic
Đặng Tự Do
06:47 16/03/2018
Ở Hoa Kỳ, Úc Châu và nhiều nước khác trên thế giới, anh chị em tín hữu Công Giáo thường lần chuỗi Mân Côi khác với người Việt chúng ta ở quê nhà. Trước mỗi kinh Kính Mừng, họ thêm vào một câu Kinh Thánh để suy niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm đang nguyện ngắm.

Vào năm Đại Thánh 2000, trong một dịp may, chúng tôi gặp được Đức Cha Đọc, lúc ấy là Giám Mục Mỹ Tho, chúng tôi trao đổi với ngài. Ngài chăm chú lắng nghe và nhiệt tình nhận lời soạn giúp cho VietCatholic chương trình Kinh Thánh với Tràng hạt Mân Côi.

Ngài làm cấp tốc giúp chúng tôi để kịp ra đời trong Năm Đại Thánh. Lúc chúng tôi bàn với ngài là tháng 7/2000 đến tháng 9 thì xong Năm Sự Vui, Năm Sự Mừng và Năm Sự Thương.

Trong thời gian đó, chúng tôi lại bàn với tiến sĩ Trần An Bài, giám đốc chương trình Tiếng Vọng Tình Thương ở San Jose, California, Hoa Kỳ. Anh Bài cũng thấy ý tưởng này là hay nên anh bỏ hết mọi việc làm gấp rút cho xong chương trình này.

Đức Cha viết đến đâu, anh Bài làm thành audio đến đó. Đến tháng 10 năm ấy thì xong mọi sự. Anh Bài làm rất công phu, hay lắm. Anh còn làm thành dĩa CD và băng cassette tặng cho những người neo đơn, sống xa các cộng đoàn Việt Nam, và đặc biệt là những bệnh nhân trong các nhà thương. Chắc chắn rất nhiều người được ơn chết lành nhờ nỗ lực đạo đức này.

Ngày 16/10/2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố Tông Thư Kinh Mân Côi và thêm vào mầu nhiệm Năm Sự Sáng. Đồng thời, ngài cũng công bố năm 2002 là năm Mân Côi. Chúng tôi lại liên lạc với Đức Cha Đọc, ngài lại nhiệt tình soạn giúp nên chỉ một tháng sau là chúng tôi hoàn thành thêm Năm Sự Sáng.

Quý vị và anh chị em có thể đọc các bài viết về đề tải này của Đức Cha Đọc tại đây:

Ngày 29 tháng 11, 2002: Kinh Thánh với Tràng Hạt Mân Côi: Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc bổ sung năm mầu nhiệm ánh sáng

Ngày 07 tháng 12, 2002: Kinh Thánh với Tràng Hạt Mân Côi (toàn bộ) do Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc soạn

Muốn nghe audio:

Năm Sự Vui

Năm Sự Thương

Năm Sự Mừng

Năm Sự Sáng
 
Giáo xứ Lộc Lâm, Xuân Lộc cung nghinh Đức Mẹ Fatima
Giuse Nguyễn Trường Kỳ
09:17 16/03/2018
Hòa cùng niềm vui chung với toàn thể Giáo Phận Xuân Lộc nhân dịp đón Đức Mẹ Fatima Thánh Du viếng thăm từng Giáo xứ. Vào lúc 15 giờ 30 chiều ngày 12-03-2018, Cha phó Giuse cùng cộng đoàn dân Chúa Giáo xứ Lộc Lâm, Giáo hạt Hố Nai đã đến Giáo xứ Hòa Hiệp để dâng Thánh lễ và đón Đức Mẹ về.

Xem Hình

Trong bầu khí hân hoan và vui mừng của cộng đoàn, mọi người đều ngỡ rằng “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm”. Cuộc rước Đức Mẹ thật trang nghiêm và long trọng khi đoàn người rất đông, trê tay cầm hoa nến sắp dài hai bên đường đón Đức Mẹ từ cổng chính ngoài quốc lộ cho tới nhà thờ.

Với tâm tình tạ ơn, Cha xứ, Cha phó, Ban hành giáo và đại diện các Ban nghành đoàn thể cùng tiến hoa dâng kính và chào đón Mẹ. Sau đó cộng đoàn tiếp tục kiệu Đức Mẹ đi bộ theo những con đường mòn để đến với từng giáo họ trong xứ, đặc biệt hơn nữa khi đoàn rước đi qua khu Đất Thánh, Đức Mẹ cũng đã dừng lại để thăm viếng những con chiên của giáo xứ đã qua đời đang mong mỏi được nhờ lời chuyển cầu của Mẹ.

Kết thức chặng đường đến với các giáo họ, kiệu Đức Mẹ được đặt tại gian Cung Thánh nhà thờ để cộng đoàn canh thức và cầu nguyện với Mẹ suốt đêm cho đến sáng, và sau Thánh lễ lúc 4 giờ 30 sáng, các hội đoàn tiếp tục các giờ chầu bên Mẹ.

Vào lúc 18 giờ chiều ngày 13-03-2018, Cha phó Giuse dâng thánh lễ tạ ơn cùng với Cha xứ và cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Gia Cốc đã đến để đón Đức Mẹ về giáo xứ của mình. Trong giây phút chia tay đầy vương vấn khi phải xa Mẹ, mỗi người con dân trong giáo xứ Lộc Lâm đều cảm nhận được những ơn lành mà Mẹ đã ban cho từng người, từng gia đính và cho giáo xứ, đều cảm thấy trong lòng nỗi ngậm ngùi khi cất lên lời ca “AVE MARIA con dâng lời chào Mẹ, AVE MARIA con dâng lời chào Mẹ, khi tàn mầu nắng chiều, và khi sương đêm nặng gieo, con say sưa lời ca chào Ave Maria…”

Giuse Nguyễn Trường Kỳ

Truyền Thông Giáo Xứ Lộc Lâm.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Lời Quốc Trưởng Tòa Thánh
Hà Minh Thảo
16:59 16/03/2018
Lời Quốc Trưởng Tòa Thánh

Lúc 10 giờ 30 ngày 08.01.2018, Ðức Thánh Cha Phanxicô, trong tư cách Quốc Trưởng Tòa Thánh, đã tiếp ngoại giao đoàn với sự hiện diện các đại diện của 183 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ với Tòa Thánh, đến chúc mừng Ngài nhân dịp đầu Tân Niên.

Công Giáo, tôn giáo duy nhất, vừa là Giáo hội với 1,3 tỷ tín hữu vừa là một quốc gia. Do đó, Thẩm quyền Ðức Thánh Cha được hành xử để lãnh đạo và điều khiển:

a) Giáo Hội Công Giáo, được thành lập từ ngày Ðức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 33, tiếp nối Sứ Vụ từ Thánh Phêrô, Tông đồ trưởng, ủy nhiệm bởi Dức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài thi hành Sứ Vụ với sự cộng tác của Giám mục đoàn, tiếp nối các Tông đồ khác, cai quản các Giáo phận hay Tổng Giáo phận, Giáo Hội Công Giáo địa phương. Ðây là một tương quan tinh thần giữa những tín hữu cùng một Tôn giáo. Bởi thế, việc bổ nhiệm các Giám mục, cộng tác viên của Ðức Thánh Cha, do Ngài quyết định là điều thật chính đáng.

b) Quốc gia Tòa Thánh (Holy See, tiếng Anh, và Saint Siège, tiếng Pháp) là một nước với Quốc trưởng do Ðức Thánh Cha kiêm nhiệm, được sự cộng tác của Giáo triều. Với Vatican là Thủ đô, Tòa Thánh góp mặt với Thế giới từ ngày 07.06.1929. Diện tích : 440.000 m2. Dân số : lối 400 người có quốc tịch Tòa Thánh. An ninh được bảo vệ bởi 120 hiến binh và 110 vệ binh Thụy sĩ. Là một quốc gia độc lập và có chủ quyền, hiện nay, Tòa Thánh có quan hệ ngoại giao với 183 quốc gia và tổ chức quốc tế.}

Ðây cũng là cơ hội để Ðức Phanxicô kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự. Do đó, sau lời chúc Năm Mới và ước nguyện Ngài thành công trong việc Phúc Âm hóa, Ðại sứ Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, nước Angola, Niên trưởng ngoại giao đoàn, Ngài đã đáp lời chào thăm và chúc mừng Tân Niên tới các Ðại sứ và cám ơn vị Niên trưởng. Ngài nhắc đến những chuyến viếng thăm đã thực hiện trong năm qua tại Ai Cập, Bồ Ðào Nha, Colombia, Myanmar và Bangladesh.

I.- SÁNG KIẾN ÐỂ CÓ HÒA BÌNH THẾ GIỚI.

A./ Chiến tranh và Hòa bình.

Trong diễn văn tương đối dài so với những năm trước, Quốc Trưởng Jorge Mario Bergoglio nhắc : « Năm nay, chúng ta mừng 70 năm bản Tuyên ngôn Nhân Quyền 1948 và kỷ niệm 100 năm kết thúc Thế chiến thứ nhất. Từ đống tro tàn của mâu thuẫn, thế giới đã được định hình lại, Ngài đưa ra hai cảnh báo: ‘Chiến thắng không bao giờ cho phép làm nhục phe thất trận’, bằng chứng là Thế chiến thứ hai, sau khi các nước tái võ trang. Sau Ðại chiến hai, Hoà bình được tái lập và củng cố khi các quốc gia đã đối xử với nhau trong một bầu không khí bình đẳng. Ðó là những căn bản của một nền ngoại giao đa phương đã được thực hiện theo tinh thần này, với điều kiện cơ bản: ‘công nhận phẩm giá mỗi người’. Sự công nhận này là ‘nền tảng của Tự do, Công bằng và Hòa bình thế giới’, đã được khẳng định trong Tuyên ngôn Thế giới Nhân Quyền’». Ðối với Tòa Thánh, Nhân Quyền có nghĩa trên hết được đề nghị là Phẩm giá của Con Người ‘theo như nó được Thiên Chúa yêu thương và tạo ra theo hình ảnh của Người’.

B./ Bảo vệ quyền sống.

Những quyền này được tuyên bố là ‘để đập tan những bức tường ngăn cách chia rẽ gia đình nhân loại và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người’, Ðức Thánh Cha đã nhận thấy có một loạt những sự nguy hiểm (écueils, cạm bẫy). Chúng tạo nên sự mất cân bằng đầu tiên do sự ra đời của ‘các quyền mới’, tiếp sau những biến động xã hội vào năm 1968. ‘Người ta đã thiết lập những ‘thứ quyền’ hiện đại nhờ sự chiếm đoạt (colonisation) ý thức hệ bởi những kẻ giàu mạnh nhất để gây bất lợi cho những người nghèo yếu nhất’. Sau đó, nhiều quyền trong số những quyền đã được minh định vào năm 1948 ngày nay vẫn ‘bị vi phạm’, bắt đầu với quyền sống, tự do và bất khả xâm phạm của mỗi người. Ngài đề cập đến trẻ em bị khước từ sự sống trước khi được sinh, người già bị coi gánh nặng, phụ nữ bị ngược đãi, nạn nhân buôn người. Ngài nhấn mạnh để bảo vệ quyền sống có nghĩa là thúc đẩy quyền được chăm sóc sức khoẻ. Ngài muốn ‘hành động để thúc đẩy sự tiếp cận dễ dàng cho tất cả mọi người để được chăm sóc’, với giá cả phải chăng.

C./ Thúc đẩy giải trừ vũ khí nguyên tử.

Đương nhiên, bảo vệ quyền sống cũng là hoạt động tích cực cho Hoà bình, chống bất công, diệt trừ bạo lực là những nguyên nhân của sự bất đồng ý và để tự giải giới, vì ‘sự gia tăng vũ trang rõ ràng làm trầm trọng thêm tình huống xung đột’. Ngài khuyến khích một cuộc hội thảo bình tĩnh và đầy đủ về vần đề này và hoan nghênh việc ký Hiệp ước về Ngăn cấm Vũ khí nguyên tử, bao gồm cả Tòa Thánh. ‘Chúng ta phải đặt nền tảng cho mối quan hệ giữa nhân loại và các dân tộc với tình thương chứ không phải do sợ hãi’, Ngài trích dẫn Thông điệp ‘Hòa bình trong Thế giới’ (Pacem in Terris) của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII.

Theo quan điểm này, Ðức Phanxicô cho rằng ‘cần thiết phải nỗ lực để đối thoại về vấn đề bán đảo Triều Tiên’. Ngài cũng khuyến khích các sáng kiến hòa bình nhằm giúp Syria xây dựng lại các tòa nhà, đặc biệt là nơi trái tim. Do đó, cần phải kiện toàn các điều kiện pháp lý, chính trị và an ninh để nối lại cuộc sống xã hội của mọi công dân, chăm sóc bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số. Ngài hy vọng rằng những người tị nạn, bắt đầu từ những người ở Liban, sẽ có thể trở về nhà mình ở Syria. Ngài hy vọng sẽ tìm thấy những con đường hòa giải ở Irak và những nơi khác như tại Jérusalem, Venezuela, Nam Sudan, Nigeria, Cộng hòa Dân chủ Congo, Somalia hoặc Cộng hòa Trung Phi. Việc khai thác tài nguyên, sự gia tăng các nhóm vũ trang và chủ nghĩa khủng bố đe dọa quyền sống mà theo Ngài ‘là không đủ khi chỉ biết bất bình’, chúng ta phải hành động.

D./ Sự khẩn cấp cần có một chính sách hỗ trợ thực sự các gia đình.

Ngoài các quyền sống, Ðức Thánh Cha đề xuất một ý nghĩ đặc biệt cho quyền lập một gia đình, như được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948. Nhưng thời gian gần đây, ‘chúng tôi biết làm thế nào, đặc biệt tại Tây phương, gia đình bị coi là một định chế đã lỗi thời’. Không may, theo ý Ngài, ‘chúng tôi thích các mối liên kết với sự ổn định của một dự án nhất định’.

Ngài cho là ‘khẩn cấp’ cần có các chính sách hỗ trợ thật sự các gia đình, chỉ tùy thuộc vào tương lai và sự phát triển của các quốc gia, để thực hiện. Từ nay, Ngài lưu ýù, chúng ta đang chứng kiến ‘một mùa đông thật sự về nhân khẩu học’, ‘dấu hiệu của xã hội đang gặp khó khăn để đối đầu với các thách thức hiện tại và, do đó, luôn trở nên sợ hãi hơn bao giờ hết khi đối mặt với tương lai, cuối cùng họ phải rút lui về bản thân mình’.

Ngài cũng nghĩ đến các gia đình bị tan vỡ vì chiến tranh, trẻ vị thành niên phải vượt biên một mình. Liên tưởng đến người di cư, Ngài nhắc nhở sự tự do di chuyển, rời đất nước mình hoặc trở về đóù, là một phần của các quyền cơ bản. Ðối phó với những người chống lại, Ngài nhắc rằng quá trình di chuyển đã luôn tồn tại ‘lịch sử sự cứu rỗi là một lịch sử của sự di chuyển’.

Ð./ Chào đón, bảo vệ, khuyến khích và hội nhập.

Tuy có những người di cư vớiù ý định xấu, nhưng đa số họ muốn ở lại đất nước mới đến bằng cách thực hành sự khôn ngoan, các vị cầm quyền nên chào đón họ, quảng bá, bảo vệ và hòa nhập. Họ có trách nhiệm, sẽ biết làm thế nào để đạt điều đó. Ðức Thánh Cha hoan nghênh nỗ lực của Bangladesh dành cho người Rohingya. Ngài cũng cảm ơn Ý, Hy Lạp, Đức. Người di cư tìm kiếm hòa bình và an ninh, kết quả của một hành trình dài như tiền nhân đã làm. Ngài khuyến khích Âu châu tự hào về di sản này được thành lập bởi các nguyên tắc và tầm nhìn của con người lao vào những nền tảng của lịch sử ngàn năm, cảm hứng từ quan niệm Thiên Chúa giáo về nhân loại. Sự xuất hiện của người nhập cư phải đẩy chúng ta đến sự khám phá lại di sản văn hoá và tôn giáo mình.

Để đáp ứng các phong trào di cư, các cuộc đàm phán quốc tế sẽ sớm được mở ra. Tòa Thánh hy vọng kết quả xứng đáng với một cộng đồng thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Nó không can thiệp vào các quyết định của các quốc gia mà coi là cần thiết để đóng một vai trò trong việc thu hồi các nguyên tắc của nhân loại và tình huynh đệ. Các cộng đồng tôn giáo có thể ‘đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố’ trong việc trợ giúp, hòa giải hoặc bình định.
Việc xây dựng một xã hội hòa nhập đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về con người, điều đó phải được chấp nhận trong tất cả các khía cạnh của nó, kể cả tôn giáo. Ðức Phanxicô muốn nhấn mạnh thực tế rằng tự do tôn giáo thường bị vi phạm.

E./ Quyền làm việc.

Quyền làm việc, cần thiết cho hòa bình, cho phát triển, để mọi người cùng cộng tác xây dựng công ích thông qua công việc của họ, nhưng hiện thiếu vì chu kỳ kinh tế hay bị thay thế bởi máy móc. Có một sự phân phối không công bằng việc cung (offres) hàng hóa, đồng thời, các nhịp điệu làm việc ngày càng khẩn trương hơn cho những người có việc làm.

Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng ca tụng ‘Trong sự liên tục giữa công việc và nghỉ ngơi, con người tham gia vào việc ‘thánh hóa thời gian’ do Thiên Chúa thực hiện và làm phong phú công việc của mình’. Về vấn đề này, Ngài lại tố cáo việc bóc lột trẻ là ‘tai họa’ cần loại bỏ.

Ê./ Bảo vệ Trái Đất

Ðức Thánh Cha cầu xin cho việc bảo vệ trái đất, ‘đất của chúng ta’. Thiên nhiên có thể tự gây hại cho bản thân, nhưng chúng ta không thể quên rằng mình cũng có một trách nhiệm quan trọng khi cùng nhau tác động với thiên nhiên. Do đó, cần thiết phải nỗ lực chung cho các thế hệ mai sau.

II.- XIN GÓP Ý.

A./ Liên Hiệp Quốc.

Sau đệ Nhị Thế chiến, Tổ chức quốc tế này được thành lập ngày 24.10.1945, hiện có 193 quốc gia thành viên, nhằm mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.

1.- Ngăn chặn chiến tranh.

a. Thế nào là Hòa bình?

Ðể tuyên bố năm 1969 là Năm Ðức Tin của Giáo phận Nha Trang, Hồng Y Ðáng Kính Phanxicơ Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘Vững mạnh trong Ðức Tin? Tiến lên trong An Bình’, đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công Giáo : « Người Công Giáo yêu chuộng Hòa bình, nhưng người Công Giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công Giáo rất thận trọng:

- Hòa bình không có nghĩa là không chiến tranh.
- Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.
- Hòa bình chân chính không phải là Hòa bình chiến lược.
- Hòa bình là con đường duy nhất đi đến tiến bộ nhân loại.
- Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Chân lý, Công bằng, Tự do và Bác ái.
- Hòa bình phải được xây dựng trên tinh thần mới: Kích động đời sống cộng đồng các dân tộc.
- Hòa bình phải được xây dựng trên não trạng mới: Tôn trọng mối bang giao giữa các quốc gia, quí trọng tình huynh đệ giữa các dân tộc, cộng tác giữa các sắc tộc vì tiến bộ chung; nhìn nhận và tin tưởng các tổ chức Hòa bình quốc tế.
- Hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng và nhìn nhận những quyền lợi của con người và nền độc lập của mỗi quốc gia. »

Ðọc định nghĩa của vị cố Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hoà bình và như thực tế chứng minh thì Liên Hiệp Quốc thất bại trong nhiệm vụ ‘Ngăn chặn chiến tranh’ và Việt Nam không xứng đáng là thành viên của tổ chức vì không là một nước độc lập (nhà nước này nhận chỉ thị không những của Trung cộng mà còn từ Formosa) và không có Hòa bình (cộng quân đàn áp đồng bào miền Trung theo lệnh của Formosa).

{Xin lưu ý : Tòa Thánh chỉ là Quan sát viên Liên Hiệp Quốc. Việt Nam Cộng hòa cũng là Quan sát viên vì bị Liên xô dùng quyền phủ quyết. Năm 1963, khi bị cho là đàn áp Phật giáo, Tổng thống Ngô Ðình Diệm mời Phái đoàn Ðiều tra Liên Hiệp Quốc đến Việt Nam để tìm Sự thật. Sự thật được báo cáo là chỉ có những va chạm ở làng xóm, chứ không là chủ trương của một Chính phủ gồm đa số các công chức chức cao cấp và tướng lãnh Phật giáo. Báo cáo bị ‘cường quyền’ đảng Dân chủ cản trở công bố vì ông Diệm đã bị bọn tướng được thuê để giết, nhưng, cuối cùng, báo cáo cũng được đưa ra ánh sáng.}

b. Nhiệm vụ này được trao cho Hội đồng Bảo an.

Từ 25.04 đến 26.06.1945, đại diện 50 quốc gia đã họp tại San Francisco (California, Hoa Kỳ) đã thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. ‘Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Thiên Chúa toàn năng...’ Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã phát biểu như thế về thành tựu của hội nghị này. Tuyên bố này đã đại diện cho hàng triệu người, những người tin tưởng Tổ chức Quốc tế mới này sẽ làm cho các cuộc chiến tranh lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa bản Hiến chương nêu rõ mục đích của : ‘Chúng tôi, những dân tộc Liên Hiệp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh...’. Hiến chương dành quyền ‘định chung thẩm’ cho Hội đồng Bảo an (Conseil de Sécurité) có trách nhiệm chính về việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Các nghị quyết do Hội đồng này thông qua, phù hợp với Hiến chương thì các nước hội viên phải thi hành bắt buộc.

Ðể làm thí dụ, chúng ta nhắc lại 2 cuộc chiến do Hoa kỳ lãnh đạo để ‘trừng trị’chế độ độc tài Saddam Hussein (Iraq) :
- Lần đầu năm 1991. Ngày 02.08.1990, quân đội Iraq xâm lăng và chiếm đóng Koweit và, sau đó, chúng bắt các công dân những nước Tây phương để làm con tin… Ngày 29.11.1990, Hội đồng Bảo an thông qua nghị quyết 678 hợp thức hóa việc sử dụng võ lực chống lại Irak và ấn định thời hạn chót, ngày 15.01.1991, lúc 24 giờ, để quân lực nước này phải rút khỏi Koweit. Ngày 16.01.1991, 19 giờ sau hạn định, chiến dịch Bão tố Sa mạc (Desert Storm) khởi đầu với cả ngàn chiến đấu cơ, chục ngàn tấn bom đạn và nhiều tỷ mỹ kim thiết bị điện tử để trừng trị Irak. Kết quả : Ngày 22.02.1991, Iraq chấp nhận đình chiến, nhưng Ðồng minh từ chối với bảo đảm quân lực Irak rút lui không bị tấn công và có 24 giờ để rút khỏi Koweit. Ngày 20.01.1993, Saddam Hussein vẫn còn tại chức trong khi Tổng thống Mỹ George H. W. Bush (cha) phải rời nhiệm sở.
- Lần sau năm 2003. Ngày 20.01.2001, George Walker Bush (Bush con) nhận nhiệm vụ Tổng thống. Ngày 12.09.2002, tại Hội đồng Bảo an, Hoa kỳ buộc tội Irak vi phạm nghiêm trọng và có hệ thống 16 nghị quyết của Hội đồng và sở hữu những võ khí nguyên tử và hóa học… nhưng Pháp, Ðức và Nga không đồng ý. Do đó, không có nghị quyết nào được thông qua. Ngày 20.03.2003, Hoa kỳ và các đồng minh Anh, Tây ban nha tấn công Iraq và lật đỗ chế độ Saddam Hussein. Bị bắt cuối năm 2003, ông bị án tử hình và bị treo cổ năm 2006. Tháng 05.2003, Tổng thống Bush tuyên bố kết quả đã hoàn thành. Nhưng hậu quả vẫn còn đến nay vì cuộc chiến không có mục đích chính đáng, tức không đúng Sự Thật), nên chưa chưa mang lại Hòa bình cho người dân nước này.

{* Khi Liên hiệp quốc được thành lập năm 1945, Trung hoa Dân quốc là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an. Năm 1949, Trung cộng đuổi chính phủ này đến Ðài Loan (nên có tên này từ đó) để thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Tháng 08/1950, Hội đồng Bảo an từ chối đề nghị của Liên xô nhằm thay thế Trung hoa Dân quốc. Ngày 25.10.1971, Dự án nghị quyết 2758 được Ðại hội đồng thông qua, sau khi Hoa kỳ với Nixon – Kissinger muốn ‘đi đêm’ với Tàu cộng nên đã không phủ quyết để Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ngồi vào ghế Trung hoa Dân quốc. Từ đó, có thêm một thành viên thường trực cộng sản, Hội đồng này đã gặp thêm khó khăn trong việc hành động. Ngày nay, cả 5 nước đều là những kẻ đang tranh nhau để bán. Do đó, xin đừng lấy làm lạ khi ông Trump không nói gì về nhân quyêàn với Việt cộng là vì ông muốn chúng mua võ khí Mỹ thay vì mua võ khí Nga mà chúng đang là khách hàng đứng thứ 3}.

Nội chiến tại Syria. Bắt đầu từ ngày 26.01.2011 với các cuộc biểu tình chống Tổng thống Bashar al-Assad. Nhà độc tài này, nhờ võ khí mua của Nga, đàn áp không nương tay đồng bào và tàn phá các thành phố. Các nghị quyết LHQ về Syria nào được thông qua, đều do Nga và Tàu phủ quyết. Sau hơn 7 năm nội chiến, ngót nửa triệu người chết, ngày 24.02.2018, sau nhiều lần trì hoãn bỏ phiếu, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cuối cùng đã thông qua nghị quyết yêu cầu lệnh ngừng bắn kéo dài 30 ngày tại Syria, để cho phép hoạt động vận chuyển hàng nhân đạo và sơ tán y tế ở khu vực Đông Ghouta. Nghị quyết này luôn bị nhà nước Irak chà đạp, không thi hành.

Binh lính Liên Hiệp Quốc hiếp dâm. Tin tức Dòng Chúa Cứu thế Việt Nam ngày 15.03.2018 tường thuật Ðức cha Juan Aguirre Munoz, Giám mục Giáo phận Bangassou (Cộng hòa Trung Phi) cáo buộc các lực lượng lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc về tội hiếp dâm và lạm dụng tính dục. ‘Việc một số phụ nữ, thậm chí là các cô gái, đã bị làm cho mang thai bởi các binh lính Liên Hiệp Quốc chính là một tội ác chống lại loài người’, Đài phát thanh quốc tế Pháp báo cáo hôm 12.03.2018 rằng Gabon đã rút 450 nhân viên gìn giữ hòa bình sau những cáo buộc lạm dụng,

2.- Mục tiêu Nhân quyền.

Sự tàn bạo của Thế Chiến hai và nạn diệt chủng dẫn tới một kết luận chung dành cho Liên Hiệp Quốc trách vụ ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai bằng, trước nhất, tạo ra một khung pháp lý để xem xét và hành động trước những vi phạm Nhân Quyền. Hiến chương bắt buộc các quốc gia thành viên phải khuyến khích ‘sự tôn trọng toàn diện và sự tuân thủ nhân quyền’ và tiến hành ‘các hành động chung hay riêng rẽ’ cho mục tiêu đó. Tuyên bố Chung về Nhân quyền đã được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Các Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn đề nhân quyền, nhưng nói là để có nói, cho hết giờ và lãnh lương mà thôi… Kết quả có đạt được thì tốt, mà không có thì cũng tốt.

B./ Thời điểm 1968.

Năm 1968, cách đây dúng 50 năm, người Việt chúng tôi :

- đã sống qua cuộc Tổng Tấn công cộng sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Tại Sài Gòn, chúng đã đánh phá hai đợt vào những ngày Têát Nguyên Ðán và tháng 05. Tại Huế, cộng quân đã chiếm cố đô và giết hại đồng bào bằng bị đập đầu và chôn sống. Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã đẩy lui các đợt công kích. Vừa qua, các bài nhận định cho thấy cộng sản Hà nội tổn thất nặng nề và tư bản Hoa thạnh đốn sợ quá nên phải ngồi vào bàn Hội nghị Paris từ tháng 05/1968 để Ðại sứ Mỹ phải cuốn cờ chạy vào ngày khỏi Sài Gòn ngày 30.04.1975.

- qua các hệ thống truyền thông, chúng tôi có cơ hội để theo dõi các diễn biến sự kiện tháng 05 và 06/1968, khởi đầu với những cuộc biểu tình sinh viên và lan sang giới thợ thuyền.

Sau Thế chiến 2, người Pháp, nhờ sự giúp đở từ các nước đồng minh, đã tái thiết đất nước, phát triển kinh tế và làm giàu. Do đó, giới trẻ, với sinh viên Paris đi đầu, chủ trương duy vật và tiêu thụ. Họ từ bỏ trật tự cổ tục đối với chính quyền (Tổng thống Charles De Gaulle), gia đình (đòi ‘tự do luyến ái’) và tôn giáo (đạo đức), chống chiến tranh và tư bản Mỹ. Từ nước Pháp, trào lưu này phát triển nhanh sang các nước tiền tiến khác Âu và Mỹ châu, với hai ‘nhân quyền’ mới :
1.- Phá thai.
Sự sung sướng và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban thưởng cho các đôi vợ chồng khi làm tình vì họ thừa lịnh Ngài trong việc phát triển nhân loại. Nếu ai đó lạm dụng hành vi đó để hưởng sung sướng thì cần phải biết trách nhiệm bằng nhờ đến những biện pháp ngừa thai, thiên nhiên hay nhân tạo (tại Pháp, luật Neuwirth ngày 19.12.1967 cho phép).
Luật cho phép phá thai tại Pháp mang số 75-17 ngày 17.01.1975, được ban hành kỷ lục ngày 18.01.1975 và có hiệu lực lập tức ngày hôm sau. Tại sao phải khẩn cấp như vậy khi Dự luật chỉ được nộp tại Quốc hội ngày 26.11.1974, vì nhân quyền cho người mẹ ? Vậy, nhân quyền nào cho thai nhi (một em bé sẽ được sinh ra, chứ không là một ‘chó con’). Tự do của người này phải biết dừng khi tới giới hạn tự do của người khác, nếu muốn có Hòa bình.
Cuối nhiệm kỳ, Tổng thống Valery Giscard d'Estaing đã tái ứng cử, nhưng đã thất cử.
2.- Ðám cưới đồng tính.

Tổ tiên dạy ‘Thương người như thể thương thân’ và Tin Mừng Chúa Giêsu khuyên chúng ta : « Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Hẳn không có giới răn nào khác lớn hơn các điều ấy. » (Marcô 12, 31). Như vậy, truyền thống dân tộc Việt cũng như Tin Mừng Thiên Chúa đều khuyên chúng ta ‘thương người như thương chính mình’, tức đừng kỳ thị những người đồng tính, lưỡng tính hay chuyển giới. Đĩ là chân lý ngàn năm bất di dịch. Tuy nhiên, không phải vì thế, mà chúng ta chấp nhận sự không tôn trọng Sự Thật và Công Bình (hai trong bốn điều kiện để có Hòa Bình, điều mà mọi người trong chúng ta đều yêu chuộng).

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là văn kiện long trọng đưa ra một quan điểm về các quyền con người căn bản gồm quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm,... Tuyên ngôn này đã được Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10.12.1948. Trong đó, Ðiều 16 ghi:
« Nam hay nữ đến tuổi thành niên đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất cứ một hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong cuộc sống vợ chồng và lúc ly hôn.
Việc kết hôn chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên.
Gia đình là một đơn vị tự nhiên và cơ bản của xã hội và được xã hội và nhà nước bảo vệ. »
Do đó, ‘Ðám cưới đồng tính’ đặt ra 2 vấn đề :

a. Hôn nhân hay Ðám cưới.

Chúng tôi đọc được bài ‘Ðặc tính hôn nhân dưới góc nhìn nhân học’ tại :
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2014/02/19/dac-tnh-cua-hn-nhn-duoi-gc-nhn-nhn-hoc/
và xin phép chia sẻ :

« Trong tiếng Việt, Hôn nhân được ghép bởi hai từ gốc Hán là hôn và nhân: Hôn ((婚) là bố mẹ cô dâu (khác với hôn “昏” là buổi chiều, không có bộ nữ “女”), nhân ((姻) là bố mẹ chú rể. Hôn nhân là việc cha mẹ đôi bên lấy vợ gả chồng cho con. [Ðòan Văn Chúc, 2004, 185-186]. »

Hôn nhân là biến cố đánh dấu khởi đầu tiến trình xây dựng, củng cố và phát triển gia đình, vừa liên quan chặt chẽ tới toàn bộ hệ thống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến cuộc sống mỗi cá nhân, vừa biểu hiện sinh động sắc thái văn hóa dân tộc. Do đó, nó không chỉ là sự thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa văn hóa-xã hội khác.

Hôn nhân là một hành động được pháp luật quy định khi thành lập gia đình để đáp ứng một trong những yêu cầu cơ bản của nhân lọai là tái sản xuất con người. Theo luật tự nhiên, con người khi cơ thể trưởng thành, bản năng tình dục thúc dục hai người có giới tính khác nhau phối hợp để sinh sản, bảo tồn nòi giống và, đương nhiên, tạo thành mối giây tử hệ (filiation) mà trong đó con cháu được thừa hưởng (di truyền) di sản sinh lý của cả cha và mẹ, tức quan hệ giới tính (mating) để sinh sản con người theo nghĩa sinh vật thì không cần có hôn nhân cũng vẫn thực hiện được. Hôn nhân giới hạn chỉ người nam và người nữ nào được quyền phối hợp để sinh sản. Như vậy, hôn nhân là tiếng nói văn hóa của con người can thiệp vào tự nhiên. Ngoài ra, hôn nhân đem lại những quyền lợi và trách nhiệm quan trọng cho những người đã trở thành vợ hay chồng của nhau.

Bởi thế, những nước như Pháp quốc, đã có Pacte civil de Solidatité (PACS, Thỏa ước Dân sự Tương trợ) tại sao còn đòi phải có luật ‘Hôn nhân cho mọi người’ (Mariage pour Tous) cho thêm chia rẽ trong xã hội và phí tiền vô ích, thay gì dùng tiền đó để tạo thêm công ăn việc làm khiến cuối nhiệm kỳ, Tổng thống Francois Hollande từ chối ứng cử nhiệm kỳ hai và chính phủ tan rã. Ngoài ra, chính phủ xã hội này cũng buộc Quỹ Bảo hiểm bịnh phải hoàn trả 100% chi phí phá thai dù phai thai không phải là bệnh.

b. Tôn trọng Công bằng.

Trợ cấp Gia đình để giúp tài chính cho các gia đình có sinh sản, nuôi nấng và giáo dục con, nhất là các gia đình nghèo, vì họ góp phần đào tạo thế hệ mới cho quốc gia, Dân tộc. Ðó là sự Công bằng cần được tôn trọng để có Hòa bình trong xã hội. Những hiện tượng không phù hợp với Luật Thiên nhiên luôn bị tranh luận.

Hà Minh Thảo

 
VietCatholic TV
Videos 14 chặng Đàng Thánh Giá Mùa Chay
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:20 16/03/2018
Văn Phòng Các Nghi Lễ Phụng Vụ
Của Đức Thánh Cha
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA
Đàng Thánh Giá Do Đức Thánh Cha Chủ Sự
COLOSSEUM
ROME, 14 THÁNG TƯ 2017
NHỮNG SUY NIỆM
bởi
Anne-Marie Pelletier
Bản dịch Việt ngữ
J.B. Đặng Minh An

DẪN NHẬP




Download pdf version

Giờ đã đến. Cuộc lữ hành của Chúa Giêsu trên những nẻo đường bụi bặm của Galilê và Giuđêa, một cuộc gặp gỡ bất tận với những thân xác và con tim đang đau khổ, một cuộc hành trình được thúc đẩy bởi nhu cầu cấp bách của Ngài là công bố Nước Trời, kết thúc ở đây, hôm nay. Trên đồi Golgotha này. Hôm nay thập giá đặt dấu chấm hết. Chúa Giêsu sẽ không đi xa nữa.

Ngài không thể đi xa nữa!

Ở đây, tình yêu của Thiên Chúa cho thấy chiều kích đầy đủ của tình Ngài, vượt quá khả năng đo lường.

Hôm nay, tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn tất cả mọi người được cứu rỗi nơi Con của Người, đi đến tận cùng, nơi mọi từ ngữ đều lời thất bại, nơi mà chúng con cảm thấy ngỡ ngàng, lòng kính mến của chúng con choáng ngợp trước sự hào phóng trong những ý tưởng và kế hoạch của Thiên Chúa.

Trên đồi Golgotha này, trái với tất cả vẻ bề ngoài, điều nổi bật lên là sự sống, ân sủng và hòa bình. Ở đây điều đáng kể không phải là vương quốc của cái ác, mà chúng con tất cả đều biết rất rõ, nhưng là chiến thắng của tình yêu.

Bên dưới thập giá cũng thế, nổi bật lên là thế giới của chúng con với tất cả những thất bại và đau khổ, những thỉnh cầu và phản đối, tất cả những tiếng kêu của chúng con ngày nay kêu thấu đến Thiên Chúa từ những vùng đất nghèo khó và chiến tranh, từ những con thuyền tràn ngập người di cư...

Biết bao những giọt nước mắt, những đau khổ trong chén mà Chúa Con phải uống vì chúng con.

Biết bao những giọt nước mắt, bao nhiêu những đau khổ, nhưng chẳng có gì trong số đó sẽ bị mai một đi trong biển cả thời gian. Thay vào đó, Ngài sẽ đón nhận, và biến đổi trong mầu nhiệm của một tình yêu chiến thắng cái ác.

Đồi Golgotha nói với chúng con về lòng trung thành không lay chuyển của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng con.

Một sự sống mới ra đời ở đó!

Chúng con cần can đảm để nói rằng tất cả điều này là niềm vui của Tin Mừng!

Trừ khi chúng con nhận ra sự thật này, chúng con vẫn còn bị mắc kẹt trong nỗi đau khổ và cái chết. Và chúng con không để cho cuộc thương khó của Đức Kitô sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng con.

Lời nguyện

Lạy Chúa, tầm nhìn của chúng con bị lu mờ. Làm sao chúng con có thể đi xa như thế với Chúa?

“Lòng Thương Xót” là tên của Chúa. Nhưng tên này là một điều điên rồ.

Xin cho những chiếc bầu da cũ kỹ của trái tim chúng con vỡ tung ra!

Xin soi sáng tầm nhìn của chúng con bằng tin mừng trong Phúc Âm, trong giờ phút chúng con đứng dưới chân cây thánh giá của Con Chúa.

Để rồi chúng con có thể cử mừng “chiều rộng, chiều dài và chiều sâu” (Eph 3:18) trong tình yêu của Chúa Kitô, với trái tim được an ủi và ngập tràn ánh sáng.

CHẶNG THỨ NHẤT
Chúa Giêsu bị kết án tử hình


Phúc Âm theo thánh Luca

Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng (22: 66)

Phúc Âm theo thánh Máccô

Tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: “Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi. (64-65)

SUY NIỆM

Các thành viên của Hội Đồng Công Tọa không cần thảo luận dài dòng mới đưa ra quyết định. Vấn đề đã được giải quyết từ lâu. Chúa Giêsu phải chết!

Đó cũng là những suy nghĩ của những người đã từng muốn xô Chúa Giêsu từ ngọn đồi ngày hôm đó, ở hội đường Nagiarét, khi Ngài mở sách và áp dụng những lời của tiên tri Isaiah vào chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4: 18-19).

Khi Chúa Giêsu chữa lành cho người bại liệt ở hồ Bethzatha và khai mạc ngày Sa-bát của Thiên Chúa, là ngày đem lại tự do cho mọi hình thức nô lệ, thì những tiếng lẩm bẩm và đe doạ mạng sống của Ngài đã bắt đầu nổi lên. (xem Ga 5: 1-18).

Ở cuối con đường này, khi Ngài lên Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua, cái bẫy giờ đây đã được giăng ra. Ngài không còn thoát được những kẻ thù của mình nữa (xem Ga 11: 45-57).

Nhưng sự hồi tưởng của chúng con phải quay trở lại xa hơn. Bắt đầu ở Bếtlêhem, vào lúc Chúa Giêsu chào đời, khi vua Hêrôđê lên án tử cho Chúa. Những tay sai của vua đã dùng gươm giáo tước mất mạng sống của các con trẻ thành Bếtlêhem. Lần đó Chúa Giêsu đã chạy thoát được cơn giận của họ. Nhưng chỉ trong một thời gian. Mạng sống của Ngài đã như chỉ mành treo chuông. Trong tiếng khóc nức nở của bà Rachel thương tiếc những đứa con mình nay không còn nữa, chúng con nghe một lời tiên tri về nỗi buồn mà ông Simêôn đã báo trước cho Đức Mẹ (xem Mt 2: 16-18; Lc 2: 34-35).

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Chúa đã đến cùng chúng con, làm những điều thiện giữa chúng con và dẫn dắt về ánh sáng của sự sống những kẻ nằm trong miền thâm u của sự chết. Chúa nhìn thấu những vực thẳm trong trái tim chúng con.

Chúng con nói mình đứng về phía sự thiện và mong muốn sự sống. Nhưng chúng con lại là những kẻ tội lỗi và những kẻ đồng loã với cái chết.

Chúng con xưng mình là môn đồ của Chúa, nhưng chúng con lại chọn những con đường lìa xa tư tưởng, công lý và lòng thương xót của Chúa.

Xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con trong những cách thế bạo lực của chúng con.

Xin đừng mất kiên nhẫn với chúng con.

Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ!

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

“Dân ta ơi, ta đã làm gì cho ngươi? Hay ta đã làm phiền chi ngươi? Hãy trả lời ta đi.

CHẶNG THỨ HAI
Ông Phêrô chối Chúa


Phúc Âm theo thánh Luca

Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê.” Nhưng ông Phê-rô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. (22:59-62)

SUY NIỆM

Ngồi quanh đống lửa, trong sân của Hội Đồng Công Tọa, ông Phêrô và một vài người khác sưởi ấm trong những giờ lạnh lẽo đó, giữa những ông đi qua và bà đi lại. Bên trong, số mệnh của Chúa Giêsu sắp được quyết định khi Ngài đối mặt với những kẻ cáo gian Người. Họ sẽ đòi Ngài phải chết.

Giống như một dòng nước thủy triều, sự thù hằn ngày càng dâng cao. Giống như dầu đổ vào lửa, hận thù bùng phát và lan rộng. Chẳng bao lâu đám đông thét lên và đòi Philatô tha tội cho Barabbas và lên án Chúa Giêsu.

Thật là lạnh xương sống khi dám xưng mình là bạn của một người đang bị kết án tử hình. Cho nên, sự trung thành dũng cảm của Phêrô đã thất bại trước câu hỏi nghi ngờ của một người tớ gái, là người đang đứng giữ cửa.

Dám xưng mình là một môn đệ của vị thầy Galilê nghĩa là đặt lòng trung thành với Chúa Giêsu lên trên cả cái mạng của mình! Khi yêu cầu lòng can đảm như thế, chân lý khó tìm được các nhân chứng... Đó là phương cách của chúng con. Nhiều người trong chúng con thích dối trá hơn sự thật. Phêrô là một người như chúng con. Ba lần ông phản bội Chúa. Rồi ông gặp ánh mắt của Chúa Giêsu. Và nước mắt của ông trào ra, cay đắng, như làn nước làm trôi đi một vết bẩn.

Chẳng bao lâu, trong một vài ngày nữa, xung quanh một ngọn lửa khác, trên bờ hồ, Phêrô sẽ nhận ra Chúa Phục Sinh của mình, là Đấng sẽ ủy thác cho ông việc chăm sóc các con chiên của Ngài. Phêrô sẽ biết đến những lời tha thứ của Chúa Phục Sinh trên tất cả những phản bội của chúng con là vô biên đến dường nào. Và từ lúc đó trở đi, ông sẽ có một lòng trung tín với Chúa khiến ông có thể chấp nhận cái chết của mình như là một của lễ kết hiệp với cái chết của Chúa Kitô.

Lời nguyện

Lạy Chúa, là Thiên Chúa của con, Chúa đã chọn Phêrô, là người môn đệ đã chối Chúa và đã đón nhận sự tha thứ của Chúa, làm người hướng dẫn đoàn chiên của Chúa.

Xin hãy đong đầy trái tim của chúng con với niềm tin và niềm vui khi biết rằng, trong Chúa, chúng con có thể vượt qua những rào cản của sợ hãi và bất trung.

Khi được dạy dỗ bởi Phêrô, xin cho tất cả các môn đệ của Chúa có thể làm chứng về đường lối của Chúa đối với tội lỗi của chúng con. Nguyện xin những khoảnh khắc nghiệt ngã và thất vọng trong đời chúng con không bao giờ có thể làm cho sự Phục sinh của Con Chúa trở nên vô nghĩa!

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,

Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,

Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.

CHẶNG THỨ BA
Chúa Giêsu và Philatô


Phúc Âm theo thánh Máccô

Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội. Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá. (15:1.3.15)

Phúc Âm theo thánh Mátthêu

Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (27:24)

Trích sách tiên tri Isaia

Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta.(53: 6)

SUY NIỆM

Rôma của Caesar Augústô, biểu tượng của văn minh, có những quân đoàn được cho là có sứ mạng mang đến cho các dân tộc đã bị chinh phục những lợi ích của trật tự công bình của nó.

Rôma cũng có mặt trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, trong con người của Philatô, là đại diện của Hoàng đế, là người bảo đảm cho luật pháp và công lý ở hải ngoại.

Tuy nhiên, cũng cùng một Philatô là người đã tuyên bố rằng mình không thấy Chúa Giêsu có tội gì, chính Philatô ấy là người đã lên án án tử hình cho Chúa Giêsu. Trên tòa cao, nơi Chúa Giêsu bị xét xử, sự thật trở nên quá rõ ràng. Công lý của dân ngoại cũng chẳng tốt hơn thứ công lý của Hội Đồng Công Tọa Do Thái!

Chúa Giêsu, Đấng Công Chính đón nhận một cách mầu nhiệm những ý nghĩ khát máu của trái tim con người, đang đánh đồng cả người Do Thái lẫn người ngoại giáo. Trong thời điểm này, Ngài đánh đồng họ bằng cách làm cho họ đồng trách nhiệm như nhau trong cái chết của Ngài. Tuy nhiên, thời gian sắp đến và đã gần kề, khi Đấng Công Chính sẽ đánh đồng họ theo một cách khác, qua thập giá của Người và với ơn tha thứ được ban cho tất cả mọi người, những người Do Thái và những người ngoại giáo, bằng cách đó cả hai sẽ được chữa lành khỏi sự gian ác và được giải phóng khỏi những cách thế bạo lực của họ.

Chỉ có một điều kiện để nhận được ơn sủng này. Đó là thừa nhận sự vô tội của Đấng thực sự vô tội, là Chiên Con của Thiên Chúa đã hy sinh vì tội lỗi của thế gian. Đó là từ bỏ cái giả định bên trong đang lẩm bẩm: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này”. Đó là thú nhận tội lỗi trong niềm tin rằng một tình yêu vô tận đang bao trùm tất cả mọi người, Do Thái cũng như dân ngoại, và Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người trở thành con cái của Người.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, khi nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đã bị nộp và bị kết án cho đến chết, chúng con chỉ cố biện minh cho mình và buộc tội người khác. Trong suốt một thời gian quá dài, các Kitô hữu chúng con đã đổ lỗi việc lên án Chúa trên vai dân Do Thái. Trong một thời gian dài, chúng con đã không nhận thức chúng con cũng phải nhìn nhận sự đồng lõa của chính chúng con trong tội lỗi này, để chúng con có thể được cứu rỗi nhờ máu của Chúa Giêsu bị đóng đinh.

Xin cho chúng con nhận biết nơi Con Chúa một Đấng Vô Tội, Đấng vô tội duy nhất trong lịch sử. Vì Ngài đã chấp nhận “thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (xem 2 Cor 5:21), để nhờ Ngài mà Chúa có thể gặp lại chúng con một lần nữa, phục hồi sự tinh tuyền Chúa đã dựng nên và làm cho chúng con là con cái Chúa.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, sao Chúa nỡ bỏ con?


CHẶNG THỨ TƯ
Chúa Giêsu, Vua Vinh Quang


Phúc Âm theo thánh Máccô

Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do-thái!”

Trích sách tiên tri Isaia

Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. (53: 2-4)

SUY NIỆM

Sự chua chát của cái ác. Có bao nhiêu người nam nữ và thậm chí cả trẻ em là nạn nhân của bạo lực, lạm dụng, tra tấn và giết chóc, ở mọi thời điểm và mọi nơi.

Chúa Giêsu không tìm chỗ ẩn náu trong thần tính của Người. Người trở thành một phần trong cơn lũ những đau khổ khủng khiếp mà con người gây ra trên con người. Ngài cảm nhận nỗi cô đơn của những người bị bỏ rơi và những người bị gạt hoàn toàn ra ngoài lề.

Liệu những đau khổ của thêm một người vô tội nữa có thể giúp gì cho chúng con?

Chúa Giêsu là một người trong chúng con, nhưng trước hết, Người là Con yêu dấu của Cha, Đấng đã đến để làm trọn hảo toàn bộ sự công chính bởi sự vâng phục của Người.

Đột nhiên mọi sự lật ngược lại. Sự khinh miệt và xỉ nhục mà những kẻ tra tấn Chúa Giêsu đã cho chúng con thấy - theo một cách thế hoàn toàn ngược lại - một sự thật sâu sắc về vương quyền độc nhất của Người, được thể hiện như một tình yêu chỉ tìm kiếm thánh ý của Cha mình với ước muốn là tất cả chúng con được cứu rỗi. “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; con liền thưa: “Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý.” (Tv 40: 7-9).

Đó là thông điệp của giờ này trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Chỉ có một vinh quang trong cõi đời này và trong tương lai: vinh quang nhận biết và làm theo thánh ý Chúa Cha. Không ai trong chúng con có thể nhắm đến một phẩm giá cao hơn là phẩm giá được làm con cái trong Chúa Con, Đấng đã vâng phục vì chúng con, cho đến chết trên cây thập tự.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, vào ngày thánh thiện đem sự mặc khải của Chúa đến mức viên mãn này, chúng con xin Chúa lật nhào mọi thứ ngẫu tượng trong chúng con và trong thế giới của chúng con. Chúa biết sự lạc lối mà chúng tạo ra trong tâm trí và trái tim chúng con. Xin Chúa hãy lật nhào trong chúng con mọi ảo tưởng lừa dối về thành công và vinh quang.

Xin Chúa hãy lật nhào trong chúng con những hình ảnh liên tục về một Thiên Chúa do chính chúng con vẽ nên theo ý thích mình, một Thiên Chúa xa xôi, không giống như thiên nhan được mạc khải trong giao ước và được thể hiện ngày hôm nay trong Chúa Giêsu.

Người là Thiên Chúa vượt quá mọi hy vọng và kỳ vọng của chúng con. Xin cho chúng con tuyên xưng rằng trong Chúa Giêsu chúng con thấy “sự rạng ngời vinh quang của Chúa” (xem Do Thái 1: 3).

Xin cho chúng con được bước vào niềm vui vĩnh cửu khiến chúng con có thể chúc tụng Chúa Giêsu, Đấng đang mặc áo màu tím và đội mão gai, là vua của vinh quang. Vì trong Người mà Thánh Vịnh đã hát mừng: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào” (24: 9).

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa,

hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào


CHẶNG THỨ NĂM
Chúa Giêsu vác thánh giá


Trích sách Ai Ca

“Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem: Có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ Đức Chúa giáng trên tôi, khi Người nổi trận lôi đình mà trừng phạt.” (1:12)

Thánh Vịnh 146

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ (5.7.8.9)

SUY NIỆM

Dọc theo lối đá lên đồi Golgotha, Chúa Giêsu đã không vác thập giá như cầm một chiếc cúp! Người hoàn toàn không giống như những anh hùng trong trí tưởng tượng của chúng con, đang vinh thắng trước những kẻ thù xấu xa của họ.

Lê từng bước một, chậm chạp, Người lết đi, cơ thể Người quằn xuống, thâm tím và chân Người run rẩy dưới sức nặng của cây thập tự.

Hết thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, Giáo Hội đã suy gẫm con đường này, giữa những gập ghềnh và những cái té ngã.

Chúa Giêsu ngã xuống, Người đứng dậy, rồi lại ngã. Người tiếp tục cuộc hành trình mệt nhọc, hầu chắc là dưới roi đòn của đám lính bên cạnh Người, như cách thức những người bị kết án trong thế giới này vẫn thường bị đối xử và ngược đãi.

Chúa, Đấng đã nâng người bệnh dậy, đã chữa lành cho người phụ nữ bị tê liệt, cứu sống cô con gái của ông Giairô đã chết trên giường bệnh, cho người què được đi, giờ đây đang nằm phủ phục trong cát bụi.

Đấng Tối Cao đã ngã xuống đất.

Xin cho chúng con dán mắt vào Chúa Giêsu. Qua Người, Đấng Tối Cao dạy chúng con trong một cách thế không thể tin nổi rằng Ngài cũng đồng thời là người thấp hèn nhất, để sẵn sàng đến với chúng con, và hạ xuống thấp hơn nữa, nếu cần, để không ai bị lạc lối trong chiều sâu của khổ đau.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Chúa bước xuống tận những chiều sâu thẳm trong đêm tối của chúng con, hạ mình đến tận cùng, vì đó là cách thế Chúa xuống với cuộc đời của chúng con, là những kẻ quá thường khi vô ơn và đôi khi còn băng hoại.

Xin Chúa cho Giáo Hội của Chúa biết làm chứng rằng Đấng Tối Cao và Đấng Thấp Hèn Nhất, trong Chúa, là một khuôn mặt duy nhất. Xin cho Giáo Hội có thể mang lại cho tất cả những người rốt cùng niềm vui của Tin Mừng rằng không có sa ngã nào mà lòng thương xót của Chúa không thể chạm đến; không có sự lạc lối nào hay những vực thẳm nào là quá sâu và quá xa đến mức Chúa không thể tìm thấy những ai đã lạc bước sa chân.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Lạy Chúa, này con xin đến để làm theo thánh ý Chúa.


CHẶNG THỨ SÁU
Chúa Giêsu và ông Simôn người xứ Kyrênê


Phúc Âm theo thánh Luca

Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu.

Phúc Âm theo thánh Mátthêu

Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?”

SUY NIỆM

Chúa Giêsu đang vấp ngã trên đường đi, lưng Người oằn xuống dưới sức nặng của thập giá. Tuy nhiên, Người không được dừng lại nhưng phải tiếp tục đi, đến Golgotha, “Núi Sọ” khủng khiếp, bên ngoài bức tường của thành phố, là điểm đến mà quân lính đang thúc giục Người.

Một người đàn ông mạnh khoẻ đi qua vào lúc đó. Anh ta dường như không liên quan gì đến những chuyện đang xảy ra. Anh đang trên đường trở về nhà mình, hoàn toàn không ý thức gì về các sự kiện xung quanh Chúa Giêsu, khi quân lính buộc anh phải vác thập giá giúp Người.

Anh ta có thể biết gì về người bị kết án đang bị đám lính xua đi đến chỗ hành hình? Anh có thể biết gì về con người mà vẻ bề ngoài “quá thê thảm, không còn hình tượng người ta”, giống như người đầy tớ đau khổ của Isaia?

Chúng con không được nghe kể về sự ngạc nhiên của Simêon, và lúc đầu anh ấy có từ chối không, hay có thương hại Chúa mà vác thập giá giúp Người hay không. Tin Mừng chỉ đề cập đến tên của anh ta: ông Simôn người xứ Kyrênê. Tuy nhiên, Tin Mừng đã giữ cho sống động danh tính của người Libya này và cử chỉ giúp đỡ đơn sơ của anh, để dạy chúng con rằng, khi giảm bớt nỗi đau của ai đó bị kết án, Simôn đã làm giảm nhẹ nỗi đau của Chúa Giêsu, của Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu, đã đi ngang qua con đường của Simôn dưới hình dạng của một người nô lệ, vì chúng con, vì ông Simôn, vì phần rỗi của thế giới. Cho dù anh ta có biết điều đó hay không.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Chúa đã mạc khải cho chúng con rằng trong mỗi người nghèo khổ, trần truồng, bị giam giữ, đói khát, chính là Chúa đang đứng trước chúng con, chính là Chúa mà chúng con chào đón, thăm viếng, cho mặc và ăn uống. “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 35-36). Mầu nhiệm thay cuộc gặp gỡ của Chúa với nhân loại chúng con! Không ai bị loại trừ khỏi cuộc gặp gỡ này, nếu người ấy tỏ lòng trắc ẩn.

Chúng con xin dâng lên Chúa như một của lễ thiêng liêng, tất cả những hành động từ bi, đón nhận, dấn thân, được thực hiện hằng ngày trên thế giới này. Xin Chúa rủ lòng thương xem những hành động ấy như là sự thật của nhân loại chúng con, đang nói to hơn tất cả các hành động từ chối và hận thù. Xin Chúa rủ lòng thương chúc phúc cho những người nam nữ từ bi đã làm rạng danh Chúa, dù cho họ chưa biết Chúa.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,

Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,

Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.


CHẶNG THỨ BẨY
Chúa Giêsu và những người phụ nữ thành Giêrusalem


Phúc Âm theo thánh Luca

Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu... Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (23: 27-28.31)

SUY NIỆM

Những giọt nước mắt dành cho Chúa Giêsu của những người phụ nữ như một hành động từ bi, những giọt nước mắt của phụ nữ ấy luôn hiện diện trong thế giới này.

Chúng lặng lẽ rơi trên má họ. Và chắc chắn, thậm chí còn thường xuyên hơn, họ rơi lệ trong trái tim mình, giống như những giọt nước mắt bằng máu đã được thánh Catherine thành Siena đề cập đến.

Không phải chỉ có phụ nữ mới khóc, như thể họ có quá nhiều nỗi đau để than van, trong sự thụ động và bất lực trước một lịch sử chỉ có những người đàn ông mới có quyền được viết.

Sự đau khổ của họ bao trùm tất cả những giọt nước mắt rơi lặng lẽ và không lộ ra trong một thế giới có quá nhiều thứ để khóc. Có những giọt nước mắt của những đứa trẻ sợ hãi và những người bị thương trên chiến trường đang kêu mẹ, những giọt nước mắt của những người bệnh đang hấp hối, một mình trên ngưỡng cửa của cõi u minh. Có những giọt nước mắt của sự thất vọng rơi trên khuôn mặt của thế giới này, vốn được tạo thành vào ngày đầu tiên cho nước mắt của niềm vui, trong sự hân hoan được chia sẻ giữa một người nam và một người nữ.

Etty Hillesum, là một người phụ nữ can đảm của Do Thái, là người không hề nản chí trước đám cháy lan nhanh khủng khiếp của Quốc xã, đã bảo vệ sự thiện cho đến cùng. Cô thì thầm với chúng con bí mật mà cô nắm bắt ở cuối con đường của cô: rằng có những giọt nước mắt kêu lên van xin sự an ủi trên chính khuôn mặt của Chúa, khi Người khóc thương trước những đau khổ của con cái mình. Giữa nơi địa ngục mà thế giới đã lao vào, cô đã dám nói với Chúa trong lời cầu nguyện của mình: “Con sẽ cố gắng giúp Chúa!” Thật dũng cảm, và đồng thời thật nữ tính và linh thánh!

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Thiên Chúa của sự dịu dàng và lòng thương xót, Thiên Chúa của tình yêu và sự trung tín tuyệt vời, xin dạy chúng con lúc thịnh vượng đừng khinh chê những giọt nước mắt của những người nghèo đang kêu lên cùng Chúa và tìm kiếm sự giúp đỡ của chúng con. Xin dạy chúng con đừng lờ đi những giọt lệ ấy bằng sự thờ ơ. Xin dạy cho chúng con có can đảm để cùng khóc với họ. Xin dạy chúng con, trong đêm đen những đau khổ, cô đơn và thất vọng của chúng con, để chúng con biết nghe những mối phúc mà Chúa đã nói với chúng con trong bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an” (Mt 5: 4)

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,

Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,

Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.


CHẶNG THỨ TÁM
Chúa Giêsu bị lột áo


Phúc Âm theo thánh Gioan

Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần (19:23).

Trích sách ông Gióp

“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.” (1:21)

SUY NIỆM

Thân thể bị chê bai của Chúa Giêsu bị lột ra. Bị phơi bày cho những ánh mắt chế giễu và khinh thường. Thân xác của Người, giập nát và đầy những vết thương, đã sẵn sàng cho sự trừng phạt cuối cùng là bị đóng đinh vào thập giá. Nhân loại phàm trần như chúng con còn biết làm gì hơn là cúi mặt để tránh đừng gây thêm ô nhục cho Chúa?

Tuy nhiên, thần khí đến giúp chúng con trong bối cảnh thất vọng và hoang mang này. Ngài dạy chúng con hiểu ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của kénosis [tự hạ mình ra thành hư không], sự tự hạ mình của Thiên Chúa để đến với chúng con ở bất cứ nơi nào. Nhà thần học Chính Thống Giáo Christos Yannaras nói với chúng con về ngôn ngữ này của Thiên Chúa: “ngôn ngữ của kénosis: nghĩa là hài nhi Giêsu nằm trần truồng trong máng cỏ; trần truồng trên sông để nhận phép Rửa như một người nô lệ; và trần truồng chịu treo trên thập giá như một phường trộm cướp. Trong tất cả những điều này, Ngài đã thể hiện tình yêu của mình dành cho chúng ta”.

Khi chúng con bước vào mầu nhiệm ân sủng này, xin cho chúng con có thể mở mắt mình ra một lần nữa và ngắm nhìn thân xác chịu bầm giập của Chúa Giêsu. Rồi chúng con hướng đến những gì đôi mắt của chúng con không thể nhìn thấy được: đó là sự trần truồng của Người đang tỏa ra ánh quang rạng rỡ với cùng một vẻ huy hoàng đã làm y phục Ngài sáng rạng rỡ trong cuộc Biến Hình.

Ánh sáng xua tan mọi bóng tối.

Đó là ánh sáng không thể cưỡng lại của một tình yêu đến tột cùng.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, chúng con đặt trước mắt mình những đoàn lũ những người nam nữ là nạn nhân của tra tấn, một con số thật kinh hoàng các thân thể bị bầm giập, bị đấm đá đang run rẩy vì sợ hãi, đang chờ chết trong các tầng hầm và trong các nhà giam ảm đạm.

Chúng con cầu xin Chúa lắng nghe những tiếng kêu của họ.

Đối mặt với điều ác, chúng con không nói nên lời và bất lực.

Tuy nhiên, Chúa làm được những gì chúng con không làm nổi. Chúa có thể tìm ra một thông lộ giữa chập chùng những hỗn loạn và ảm đạm của điều ác. Ngay cả giờ đây, trong cuộc thương khó của Con yêu dấu Chúa, Chúa vẫn có thể mang lại ánh sáng phục sinh.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,

Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,

Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.


CHẶNG THỨ CHÍN
Chúa Giêsu chịu đóng đinh


Phúc Âm theo thánh Luca

Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (23:33-34)

Trích sách tiên tri Isaia

Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành (53:5).

SUY NIỆM

Quả thật, Thiên Chúa không thể như thế!

Con yêu dấu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, giờ đây là một thân thể bị phơi bày trên thập giá của sự hổ thẹn, bị bỏ rơi nhục nhã, giữa hai tên tội phạm. Một người đau khổ mà người ta quay đi; ngay cả chúng con cũng từng quay lưng lại với rất nhiều những người nam nữ có khuôn mặt biến dạng mà chúng con gặp trên đường đi.

Ngôi Lời của Thiên Chúa, từ đó mọi sự được tác thành, giờ đây chỉ còn là một khối thịt câm nín và đau khổ. Tất cả sự tàn ác của con người đều nổi lên chống lại Người và đã thắng thế. Quả thật, Thiên Chúa không thể như thế. Tuy nhiên, đồng thời, chính xác đó mới là những gì chúng con cần nơi Chúa!

Người đến để chia sẻ cuộc sống của mình với chúng con. “Hãy nhận lấy!” như Người vẫn thường nói, khi Người chữa bệnh cho những người đau yếu, tha thứ cho những con tim lầm lạc và trao ban chính Người trong bữa tiệc ly.

Tuy nhiên, Người đã kết thúc trong tay chúng con, trong thực tại của chết chóc và bạo lực không ngừng gây kinh hoàng cho chúng con khi chúng con nhìn xung quanh mình. Bạo lực cũng lẻn cả vào trong trái tim của chúng con nữa. Các tu sĩ bị giết tại Tibhirine đã nhận thức được điều này; cùng với lời cầu nguyện: “xin hãy tước vũ khí của họ!”, các vị cũng cầu xin: “và của cả chúng con nữa!”

Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đã xuống thăm địa ngục của chúng con. Đó là cách duy nhất để giải thoát chúng con ra khỏi cái ác.

Chúa Giêsu đã phải mang sự dịu dàng vô biên của Thiên Chúa đến chính tâm điểm tội lỗi của thế gian.

Chỉ bằng cách đó, bằng cách trực tiếp gặp gỡ với sự sống của Thiên Chúa, cái chết mới quay lui và sụp đổ, như một kẻ thù, gặp phải người khác mạnh mẽ hơn mình, sẽ cao bay xa chạy và biến mất.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, xin đón nhận lời chúc tụng trong thinh lặng của chúng con.

Như các vị vua không nói nên lời khi tiên tri Isaia công bố về Người Tôi Tớ (xem 52:15), chúng con im lặng và ngạc nhiên trước Chiên Con bị giết vì chúng con và vì sự sống của thế gian. Chúng con tuyên xưng rằng nhờ những thương tích của Chúa, chúng con được chữa lành. “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.” (Tv 116: 12.17).

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,

Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,

Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.


CHẶNG THỨ MƯỜI
Chúa Giêsu trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười


Phúc Âm theo thánh Luca

Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (23:35-39)

Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!…Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn” (4:3.9-11).

SUY NIỆM

Chẳng lẽ Chúa Giêsu không xuống khỏi thập giá được sao? Chúng con chắc không dám đặt câu hỏi này vì Phúc Âm há chỉ đặt nó trên môi của những kẻ vô thần đó sao?

Nhưng mà, cái câu hỏi ấy vẫn tiếp tục ám ảnh chúng con, vì chúng con cũng vẫn là một phần của cái thế giới đầy chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã phải đối mặt trong suốt bốn mươi ngày trong hoang địa, như là sự khởi đầu và khai mạc sứ vụ của Người. “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!…Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ gìn giữ bạn”. Tuy nhiên, trong chiều kích mà chúng con, những người đã chịu phép rửa và tin vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, những người đang dõi bước theo Ngài, những lời châm chọc của kẻ ác không hề tóm được chúng con; chúng bất lực, sự lừa dối của chúng là hiển nhiên.

Chỉ khi nào chúng con khám phá ra được sức mạnh cương quyết của những lời đó, “Điều đó không cần thiết sao... ?” (Lc 24:26), mà Chúa Giêsu đã kiên nhẫn giảng giải với các môn đồ của mình trên đường Emmaus.

“Điều cần thiết” là Đức Kitô phải chấp nhận sự vâng lời và sự bất lực này, để đến với chúng con trong sự bất lực vì sự bất tuân của chúng con.

Chỉ khi đó chúng con mới hiểu được rằng “chỉ có một Thiên Chúa Đấng chịu khổ đau mới có thể cứu được chúng ta”, như Dietrich Bonhoeffer đã viết vài tháng trước khi bị hành hình. Khi trải nghiệm sức mạnh của ma quỉ đến tột cùng, ông mới có thể tổng hợp, trong sự thật đơn giản và áp đảo này, về đức tin Kitô giáo.

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, ai sẽ giải phóng chúng con khỏi những nanh vuốt của thế gian? Ai sẽ giải phóng chúng con ra khỏi sự bạo ngược của những lời dối trá, làm cho chúng con ra kiêu căng và tìm kiếm vinh quang phù phiếm của chúng con?

Chỉ một mình Chúa mới có thể biến đổi con tim chúng con.

Chỉ một mình Chúa mới có thể làm cho chúng con yêu thích con đường khiêm hạ.

Chỉ có Chúa, là Đấng đã chỉ cho chúng con thấy không có chiến thắng nào ngoài tình yêu, và tất cả những gì khác chỉ là rơm rạ phất phơ trước gió, chỉ là những ảo ảnh biến mất khi đối mặt với chân lý của Chúa.

Chúng con xin Chúa, lạy Chúa, xin xua tan những giả trá đang muốn thống trị trong trái tim và trong thế giới của chúng con.

Xin cho chúng con bước theo những đường lối của Chúa, để thế giới có thể nhận ra sức mạnh của thánh giá.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Lạy Thiên Chúa của con, lạy Chúa, sao Chúa nỡ bỏ con?


CHẶNG THỨ MƯỜI MỘT
Chúa Giêsu và Mẹ Người


Phúc Âm theo thánh Gioan

Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđalêla. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (19:25-27).

SUY NIỆM

Đức Mẹ cũng đã đến cuối cuộc hành trình. Mẹ đã đến ngày mà ông già Simêôn đã tiên báo. Khi ôm hài nhi trong vòng tay run rẩy của mình, lời tạ ơn của ông đã phải nhường bước cho những lời bí ẩn đan quyện bi kịch và hy vọng, nỗi buồn và ơn cứu độ vào với nhau.

Ông Simêôn nói: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2,34-35).

Cuộc viếng thăm của thiên sứ đã làm cho trái tim của Đức Maria kinh ngạc trước tin lạ lùng rằng Thiên Chúa đã chọn cuộc đời mình để mang lại những điều mới mẻ đã hứa cùng Israel: “điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe” (1 Cr 2: 9; Is 64: 3). Mẹ đã ưng thuận với kế hoạch thiêng liêng sẽ sớm liên quan đến thân xác của mình và sau đó đồng hành cùng con Mẹ, là hoa trái của cung lòng Mẹ dọc theo những nẻo đường không lường trước được.

Trong những ngày bình yên tại Nazareth, và sau đó trong đời sống công cộng của Chúa Giêsu, khi phòng ốc cần được mở rộng thêm cho một gia đình khác, gia đình của các môn đệ, những người lạ mặt mà Chúa Giêsu đã kết làm anh, làm chị, làm em, và làm mẹ mình, Mẹ đã lưu giữ tất cả những điều này trong trái tim mình. Mẹ đã ủy thác mọi sự trong sự kiên nhẫn tuyệt vời xuất phát từ niềm tin của mình.

Hôm nay là ngày hoàn thành. Lưỡi gươm đã đâm thâu tâm hồn Mẹ. Đức Maria cũng có một niềm tin bất tận mà Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn niềm tin ấy trong sự vâng phục của Người đối với Chúa Cha. Đứng ở đó, Mẹ không bỏ rơi con mình. Stabat Mater. Trong bóng tối, nhưng với một niềm tín thác, Mẹ biết rằng Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa của Người. Trong bóng tối, nhưng với một sự xác tín, Mẹ biết rằng Chúa Giêsu vừa là lời hứa vừa là sự hoàn thành của lời hứa ấy.

Lời nguyện

Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và người nữ của nhân loại chúng con, như một người mẹ, Mẹ hạ sinh chúng con trong Đấng mà Mẹ đã sinh ra: xin nâng đỡ chúng con trong đức tin vào giờ khắc tối tăm này và dạy chúng con biết hy vọng trước tất cả những thất vọng của cuộc đời.

Xin Mẹ gìn giữ toàn thể Giáo Hội trong sự trung tín và tỉnh thức, theo gương trung tín của Mẹ, khiêm tốn ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa, trong hết mọi sự Chúa dạy hay gởi đến cho chúng con, hiệp nhất chúng con, giúp chúng con vươn xa tới điều chúng con không dám mơ tưởng, là ơn cứu rỗi.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Lạy Nữ Vương Rất Thánh, Lạy Mẹ từ bi,

Là sự sống của chúng con, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con.


CHẶNG THỨ MƯỜI HAI
Chúa Giêsu chết trên thánh giá


Phúc Âm theo thánh Gioan

Đức Giêsu nói “Ta khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất! “ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí… Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, quân lính không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực” (19:28-30.33-35).

SUY NIỆM

Tất cả giờ đây đã được hoàn thành. Sứ vụ của Chúa Giêsu đã được hoàn tất. Ngài đã đến từ Chúa Cha trong một sứ mệnh của lòng thương xót. Nhiệm vụ đó đã được hoàn thành với một lòng trung tín đạt đến những giới hạn tột cùng của tình yêu. Tất cả đã kết thúc. Chúa Giêsu phó linh hồn mình vào tay Chúa Cha.

Tất cả mọi thứ dường như rơi vào một sự im lặng chết người đang ập xuống trên đồi Golgotha và ba cây thánh giá đứng đó. Vào cuối ngày lễ Vượt Qua này, bất cứ ai đi qua đó cũng chỉ có thể nghĩ đến sự thất bại của Chúa Giêsu, sự sụp đổ của niềm hy vọng đã làm rung động con tim nhiều người, an ủi người nghèo, nâng đỡ người thấp hèn và cho những người theo Ngài thấp thoáng thấy rằng đã đến thời điểm Thiên Chúa sẽ hoàn thành những lời hứa đã được các tiên tri tiên báo. Bây giờ mọi thứ dường như đã mất, tan tành trong đống đổ nát.

Tuy nhiên, trong bối cảnh thất vọng đó, Thánh Sử Gioan đã khiến chúng ta chú ý đến một chi tiết nhỏ, mà ngài đã long trọng miêu tả. Nước và máu đã tuôn ra từ bên phải cạnh sườn Chúa Giêsu trên cây thánh giá. Thật tuyệt vời! Vết thương mở ra bởi ngọn giáo của người lính tuôn trào một dòng nước và máu nói với chúng ta về sự sống và sự chào đời.

Thông điệp này khá ngắn gọn, nhưng nó nói lên một cách hùng hồn trong con tim những ai còn nhớ. Từ thân thể của Chúa Giêsu, có một dòng nước mà vị tiên tri đã thấy từ Đền Thờ. Một dòng nước tràn lên và trở thành một con sông hùng vĩ, một dòng nước phục hồi và làm sinh hoa trái tất cả những gì nó chạm đến trong dòng chảy của mình. Chúa Giêsu đã chẳng nói về thân xác Ngài như một Đền Thờ mới đó sao? “Máu của giao ước” đi kèm với nước đó. Chẳng phải Chúa Giêsu đã nói về xác thịt và máu Ngài như là thức ăn cho sự sống đời đời đó sao?

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu, trong những ngày thiêng liêng của mầu nhiệm Vượt Qua này, xin hãy canh tân trong chúng con niềm vui của phép rửa tội.

Khi chúng con chiêm ngưỡng nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Chúa, xin hãy dạy cho chúng con biết nhận ra nguồn suối sự sống mới của chúng con, tình yêu trên đó Giáo Hội Chúa được xây dựng, và niềm hy vọng khi Chúa chọn chúng con và gửi chúng con đi chia sẻ cùng thế giới.

Đây là nguồn mạch của sự sống tắm gội toàn bộ vũ trụ, dâng lên từ cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa Kitô. Xin cho phép rửa là vinh quang duy nhất của của chúng con, khi chúng con dâng lên Chúa lời tán tụng ngợi khen đầy những kinh ngạc của chúng con.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Chiên Con đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận

phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,

danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.


CHẶNG THỨ MƯỜI BA
Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thánh giá


Phúc Âm theo thánh Luca

Ông Giuse người xứ Arimathêa hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. (23:53)

SUY NIỆM

Có những dấu chỉ về sự yêu thương chăm sóc và danh dự dành cho thân xác bị bầm giập và tan nát của Chúa Giêsu. Một vài người đàn ông và đàn bà tụ tập dưới chân thập giá. Ông Giuse, một người xứ Arimathêa, “một người tốt lành và công chính” (Lc 23:50), là người mà Thánh Luca nói với chúng ta, đã xin Philatô cho phép chôn cất Chúa. Và cả ông Nicôđêmô, là người đã đến với Chúa Giêsu vào ban đêm, như Thánh Gioan đề cập thêm. Và có cả một số những phụ nữ, là những người trung thành với Chúa đến cùng, cũng phụ giúp.

Sự chiêm ngắm của Giáo Hội về cảnh này cũng bao gồm Đức Trinh Nữ Maria, người chắc chắn đã có mặt trong giây phút này.

Đức Maria, Mẹ của lòng từ bi, đón nhận vào vòng tay Mẹ cơ thể đã được sinh ra từ xác thịt mình, mà Mẹ đã đồng hành, đầy yêu thương và lặng lẽ, qua nhiều năm, giống như mọi người mẹ chăm sóc con cái mình.

Bây giờ cơ thể mà Mẹ đang ôm trong tay đã mở rộng đến tột cùng nỗi buồn của Mẹ, và nảy sinh một thụ tạo mới từ cuộc thương khó của một tình yêu đã đâm thấu trái tim của cả Con và Mẹ.

Trong sự im lặng tuyệt vọng rơi xuống sau những tiếng la lớn của những người lính, những lời xúc phạm của những kẻ qua đường và sự náo loạn của cuộc đóng đinh hành hình, chỉ còn lại những dấu hiệu của tình yêu và sự chăm sóc, những yêu thương kính trọng. Ông Giuse hạ xác Chúa xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn vào núi đá trong khu vườn gần đó.

Chúa Giêsu được lấy khỏi tay những kẻ giết người. Bây giờ, trong cái chết, một lần nữa Người được ôm ấp với sự dịu dàng và từ bi.

Bạo lực của những kẻ giết người đã lui ra xa. Sự dịu dàng đã trở lại nơi hành hình.

Sự dịu dàng của Chúa và những ai thuộc về Người, của những trái tim hiền lành mà Chúa đã hứa Nước Trời dành cho họ. Sự hiền lành ban đầu của sáng tạo, của người nam và người nữ được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Sự dịu dàng của thời cuối cùng, khi mọi giọt lệ được lau sạch và chó sói sẽ ở cùng với chiên con, vì mọi xác thịt sẽ nhận biết Thiên Chúa (xem 11: 6.9).

Khúc hát dâng Mẹ Maria

Ôi Maria, đừng khóc nữa: Con Mẹ, là Chúa chúng con, đã say ngủ trong yên bình.

Cha của Người, trong vinh quang, mở ra trước mắt Người những cánh cửa của cuộc sống!

Ôi Maria, hân hoan lên: Chúa Giêsu Phục Sinh đã chinh phục được cái chết!

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Con sẽ nằm xuống trong bình an, Chúa ơi, và giấc ngủ sẽ đến ngay lập tức.

Con sẽ trỗi dậy, vì Chúa là sức mạnh của con.

CHẶNG THỨ MƯỜI BỐN
Chúa Giêsu được đặt trong huyệt đá


Phúc Âm theo thánh Luca

Cùng đi với ông Giuse, có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm (23:55-56).

SUY NIỆM

Những phụ nữ đã đi khỏi. Người mà họ đã cùng đồng hành và chăm sóc liên tục dọc những nẻo đường Galilê không còn nữa. Tối nay, họ để Người lại một mình, họ chỉ còn đồng hành với Người qua những suy nghĩ về ngôi mộ và tấm vải liệm Người. Một hồi ức thoáng qua nhưng rất quý giá về những ngày đầy phấn khởi đã đi qua. Giờ chỉ còn lại sự cô đơn và im lặng. Ngày Sa-bát kéo đến gần, buộc người Do Thái phải nghỉ việc, như Thiên Chúa đã nghỉ ngơi sau khi hoàn tất và chúc phúc cho công trình sáng tạo của Ngài.

Hôm nay có một sự hoàn thành khác, hiện vẫn còn ẩn giấu và khó hiểu. Một ngày Sa-bát để nghỉ ngơi lặng lẽ, với những con tim hồi tưởng và những tâm trí nặng những ưu phiền. Nhưng đối với những người phụ nữ, đó cũng là một ngày để chuẩn bị dầu và thuốc thơm để bày tỏ sự kính trọng cuối cùng dành cho thân xác của Chúa vào ngày mai, lúc sáng sớm.

Phải chăng họ đang chuẩn bị chỉ đơn giản là để dưỡng nuôi hy vọng của mình? Điều gì sẽ xảy ra nếu Chúa đã chuẩn bị sẵn, để đáp lại lòng sùng mộ của họ, bằng một cái gì họ không thể đoán trước, không thể tưởng tượng hay dự đoán được? Sự phát hiện ra một ngôi mộ trống, một thông điệp rằng Người không còn ở đó, vì Người đã phá tan các cánh cửa của cái chết...

Lời nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, xin hãy nhìn đến và chúc phúc cho tất cả những người phụ nữ ở khắp mọi nơi đang chăm sóc cho những thân thể yếu đuối và dễ bị tổn thương, với lòng tốt và sự tôn trọng.

Xin ban cho cả chúng con nữa, những người đã đồng hành cùng Chúa trên con đường tình yêu này đến cùng, cùng với những người phụ nữ trong Tin Mừng, được bền chí trong lời cầu nguyện nhiệt thành. Vì chúng con biết rằng lời cầu nguyện của chúng con sẽ được đáp trả bằng sự phục sinh của Chúa Giêsu, mà Giáo Hội Chúa chuẩn bị cử hành trong niềm vui của đêm Phục Sinh.

Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen.