Phụng Vụ - Mục Vụ
Tự hạ
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
00:29 28/03/2018
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Thánh Phaolô đã từng ca ngợi sự khiêm nhường của Chúa Kitô: “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2, 6-7).
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa không chỉ đơn thuần là ‘quên’ đi cái ‘tôi’, như khi người ta nói ông A, bà B khiêm nhường, cho dù ông A, bà B có khiêm nhường thật. Sự khiêm nhường của Con Thiên Chúa là sự khiêm hạ của Đấng là Thiên Chúa trở nên người phàm. Đó là sự KHIÊM HẠ đúng nghĩa. Người hạ mình để đến nỗi trở thành loài thụ tạo mà chính Người dựng nên.
Bởi nếu con người khiêm nhường thì trước sau họ vẫn là con người. Còn Thiên Chúa khiêm hạ đã trở thành người thật sự. Người là người như chúng ta là người. Người là người không hề "khác người". Người trở nên một trong những con người, sống giữa xã hội loài người như chính con người là con người.
Thứ Năm Tuần Thánh, sống lại hành động rửa chân của Chúa Kitô, chúng ta như được chính Người minh chứng cách cụ thể sự hạ mình của Người. Qua sự hạ mình trong vai trò của một đầy tớ, Chúa Kitô để lại sứ điệp mà ngàn đời chúng ta không được phép quên. Đó là: Hãy hạ mình và phục vụ lẫn nhau.
1. “NẾU THẦY KHÔNG RỬA CHO ANH…”.
Có ai trong chúng ta thương con tằm, con bướm đến nỗi trở nên bất thường, muốn hóa kiếp thành tằm, thành bướm nhằm thông cảm và chia sẻ cái kiếp làm tằm, làm bướm của chúng? Nếu yêu như thế, sẽ bị xem là đặt tình yêu sai chỗ, nặng hơn, là khó hiểu đến mức điên dại. Nhưng suy cho cùng, dù là loài người hay loài tằm, loài bướm, tất cả đều là thụ tạo. Có khác chăng là do chúng ta là thụ tạo bậc cao mà thôi. Một thụ tạo bậc cao muốn chia sẻ kiếp sống với thụ tạo bậc thấp lại bị coi là bất thường...
Vậy mà Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu mà chính chúng ta cho là điên dại ấy. Bởi Người là Đấng Tạo Hóa đã hóa thân trở nên loài thụ tạo do chính mình dựng nên!! Một tình yêu tuyệt vời, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ tình yêu, vượt trên mọi suy nghĩ, mọi thanh âm, Chúa Kitô yêu chúng ta bằng tình yêu của một vì Thiên Chúa đã làm người.
Chính vì yêu, Chúa Kitô trở thành Lời chung quyết của Tình yêu tự hạ nơi cung lòng Chúa Cha. Một tình yêu bí nhiệm đến nỗi, thánh Phêrô phải thốt lên: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 8a). Thánh Phêrô đâu biết rằng, tình yêu tự hạ của Thiên Chúa cần lắm. Cần đến nỗi: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh không được dự phần với Thầy” (Ga 13, 8b).
Vâng, chúng ta rất cần, cần lắm một tình yêu tự hạ như thế. Vì chỉ có một tình yêu tự hạ phát xuất từ Thiên Chúa, con người mới được cứu độ. Chỉ có một tình yêu tự hạ ấy, con người mới được tham dự vào Thiên tính của chính Thiên Chúa. Và chỉ có một tình yêu tự hạ như thế, con người mới được sống trong hạnh phúc đời đời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Tình yêu của Chúa mạnh hơn, lớn hơn sự chết. Không ai đứng ngoài tình yêu ấy, lại có thể sống. “Nếu Thầy không rửa chân anh”, nếu Chúa không tự hạ, không yêu như thế, trần gian đã không còn là trần gian của hôm nay.
Xin làm cho trái tim nhân loại, và trái tim của mỗi chúng con biết rung trong nhịp đập của tình yêu Thiên Chúa, để chúng con biết yêu tất cả những gì thuộc về chúng con theo mức độ và bằng cách thức Chúa muốn.
2. “VÌ THẦY LÀ THẦY VÀ LÀ CHÚA…”.
Không ít lần trong cuộc đời, chúng ta gặp phải những bi thương, mất mát. Có những bi thương, mất mát như muốn nhận chìm đời mình, làm cho mình suy sụp tưởng như chẳng còn gì...
Biết bao nhiêu gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình đang rộng mở, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hoặc hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…
Những lúc bi đát đến cùng cực ấy, tâm hồn chúng ta không còn bình an, vì thế đức tin dễ chao đảo, có khi còn oán trách Thiên Chúa.
Những lúc như thế, chúng ta hãy tìm gặp Chúa Giêsu, Đấng đã từng khẳng định: “Anh em gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy và là Chúa”, để lấy lại can đảm, tìm lại nghị lực cho mình.
Gặp gỡ Chúa, ta sẽ thấy ánh sáng từ cuộc đời của Chúa, gương sống của Chúa dòi dọi chiếu tỏa và lan tỏa trong cuộc đời và trên nỗi đau của ta.
Bởi “Thầy” và “Chúa” nơi Chúa Giêsu, không phải là “thầy” ở phía trên thiên hạ, cũng không phải là “chúa” cai trị mọi người, mặc dù Chúa Giêsu có tất cả quyền hành đó. Vì Chúa là “Thầy” và là “Chúa” nghĩa là “Thầy” và “Chúa” ấy cúi xuống “rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau”.
Chúa cúi xuống trên thân phận con người không phải chỉ khi rửa chân, nhưng ngay từ khi bỏ trời cao mặc lấy kiếp người, chấp nhận sinh ra và lớn lên thiếu thốn, nghèo nàn đến cùng cực.
Người đã cúi xuống đến mức chấp nhận chết như một tên tử tội, để chia sẻ đến cùng cái cùng cực, bi thương của thân phận làm người.
Chúa Giêsu vẫn cúi xuống trong từng ngày sống của cuộc đời chúng ta, khi chấp nhận làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta.
Hôm nay, trong bữa tiệc ly, trước khi rời xa các môn đệ, bằng hành động rửa chân cho các ông, Chúa như đúc kết thành bài học, kết hợp với lời, để nói về tình yêu tự hạ trải dài cả cuộc sống trần gian của Người, dạy ta bài học của yêu thương, khiêm nhường và chấp nhận hiến dâng đến mức hao mòn sức lực, hao mòn thời gian, hao mòn cuộc sống và hao mòn cả đến sự sống của bản thân ta.
Đúng! Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa. Là Thầy và là Chúa, Chúa Giêsu đã làm cho chức vị “Thầy” và “Chúa” của mình nổi bậc, không phải do quyền hành, nhưng do lòng yêu thương, một tình yêu xuất phát từ trái tim Thiên Chúa làm người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nơi Chúa, chúng con bắt gặp hình ảnh một Người Thầy rất cao cả, nhưng cũng rất gần gũi, có thể xoa dịu mọi vết thương lòng, mang lại bình an thật cho chính tâm hồn chúng con.
Bởi những gì chúng con gặp phải hôm nay, chính Chúa đã tự nguyện gánh lấy để chia sẻ đến cùng cái bi ai đang gieo rắc trong cuộc đời chúng con. Chúng con nguyện xin cho chúng con, sau khi đã tìm gặp Chúa, cũng biết cúi xuống để đem yêu thương chia sẻ cho anh chị em xung quanh, nhằm mang lại bình an, niềm hạnh phúc cho tất cả những ai chúng con gặp gỡ.
Xin cho chúng con vững tin, dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống. Xin Chúa nâng đỡ bao nhiêu người, họ là anh em của chúng con, đang quằng quại trong nỗi đau của cuộc đời này.
3. “ANH EM CŨNG PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU…”.
“Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến”. Thánh Phaolô gọi bổn phận yêu thương là “nợ”. Mà nếu là nợ thì phải trả.
Nhưng điều thánh Phaolô nói, đã là điều Chúa Giêsu dạy: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.
Không ai có thể đi vào quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa mà lại khước từ bổn phận yêu thương đồng loại. Nếu Thiên Chúa đã tự hạ thì con người cũng phải khiêm nhường.
Bài học của nhập thể, của thập giá, của bí tích Thánh Thể, ngàn đời vẫn còn đó để con người tra vấn về lòng mến của mình. Họ phải yêu như Chúa là Thiên Chúa của họ. Họ phải hy sinh cho nhau như chính Người hy sinh cho họ.
Trong những ngày này, người ta vẫn còn xôn xao về vụ cháy chung cư Carina ở quận 8, Sài Gòn (phát cháy khoảng 1 giờ 30 đầu ngày 23.3.2018). Trong câu chuyện, người ta không quên nhắc đến người bảo vệ chung cư là Trần Văn An, 43 tuổi, đã vĩnh viễn nằm lại trong lửa khó, sau khi đã tri hô báo cháy giữa đêm và hoàn thành nhiệm vụ cứu nhiều người sống sót.
Không biết người anh hùng bảo vệ ấy có phải là người mang niềm tin Công Giáo? Nhưng anh đã hy sinh mình để cứu người. Hình ảnh hiến mình của anh đẹp quá. Lại là hình ảnh diễn ra đúng vào những ngày cận tuần Thánh, càng mang lại chiều ý nghĩa cho tất cả mọi người Công Giáo.
Bởi như Chúa Giêsu đã hoàn thành cuộc đời dương thế của Người để cứu loài người. Chúng ta cũng phải họa lại đời sống của Chúa bằng chính những hy sinh từng ngày trong bổn phận của chúng ta như Chúa.
Tấm gương của người anh hùng bảo vệ Trần Văn An mà mọi người vẫn đang ngưỡng mộ là bằng chứng của lòng hy sinh, của sự hạ mình, của tình yêu mến mà chúng ta cần học lấy để sống chính lời dạy của Chúa: "ANH EM CŨNG PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim mới, một trái tim biết đau nỗi đau của người khác, biết vui trong hạnh phúc của người bên cạnh. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa mà hạ mình xuống phục vụ đồng loại theo Lời Chúa dạy: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Thánh Phaolô đã từng ca ngợi sự khiêm nhường của Chúa Kitô: “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2, 6-7).
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa không chỉ đơn thuần là ‘quên’ đi cái ‘tôi’, như khi người ta nói ông A, bà B khiêm nhường, cho dù ông A, bà B có khiêm nhường thật. Sự khiêm nhường của Con Thiên Chúa là sự khiêm hạ của Đấng là Thiên Chúa trở nên người phàm. Đó là sự KHIÊM HẠ đúng nghĩa. Người hạ mình để đến nỗi trở thành loài thụ tạo mà chính Người dựng nên.
Bởi nếu con người khiêm nhường thì trước sau họ vẫn là con người. Còn Thiên Chúa khiêm hạ đã trở thành người thật sự. Người là người như chúng ta là người. Người là người không hề "khác người". Người trở nên một trong những con người, sống giữa xã hội loài người như chính con người là con người.
Thứ Năm Tuần Thánh, sống lại hành động rửa chân của Chúa Kitô, chúng ta như được chính Người minh chứng cách cụ thể sự hạ mình của Người. Qua sự hạ mình trong vai trò của một đầy tớ, Chúa Kitô để lại sứ điệp mà ngàn đời chúng ta không được phép quên. Đó là: Hãy hạ mình và phục vụ lẫn nhau.
1. “NẾU THẦY KHÔNG RỬA CHO ANH…”.
Có ai trong chúng ta thương con tằm, con bướm đến nỗi trở nên bất thường, muốn hóa kiếp thành tằm, thành bướm nhằm thông cảm và chia sẻ cái kiếp làm tằm, làm bướm của chúng? Nếu yêu như thế, sẽ bị xem là đặt tình yêu sai chỗ, nặng hơn, là khó hiểu đến mức điên dại. Nhưng suy cho cùng, dù là loài người hay loài tằm, loài bướm, tất cả đều là thụ tạo. Có khác chăng là do chúng ta là thụ tạo bậc cao mà thôi. Một thụ tạo bậc cao muốn chia sẻ kiếp sống với thụ tạo bậc thấp lại bị coi là bất thường...
Vậy mà Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu mà chính chúng ta cho là điên dại ấy. Bởi Người là Đấng Tạo Hóa đã hóa thân trở nên loài thụ tạo do chính mình dựng nên!! Một tình yêu tuyệt vời, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ tình yêu, vượt trên mọi suy nghĩ, mọi thanh âm, Chúa Kitô yêu chúng ta bằng tình yêu của một vì Thiên Chúa đã làm người.
Chính vì yêu, Chúa Kitô trở thành Lời chung quyết của Tình yêu tự hạ nơi cung lòng Chúa Cha. Một tình yêu bí nhiệm đến nỗi, thánh Phêrô phải thốt lên: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 8a). Thánh Phêrô đâu biết rằng, tình yêu tự hạ của Thiên Chúa cần lắm. Cần đến nỗi: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh không được dự phần với Thầy” (Ga 13, 8b).
Vâng, chúng ta rất cần, cần lắm một tình yêu tự hạ như thế. Vì chỉ có một tình yêu tự hạ phát xuất từ Thiên Chúa, con người mới được cứu độ. Chỉ có một tình yêu tự hạ ấy, con người mới được tham dự vào Thiên tính của chính Thiên Chúa. Và chỉ có một tình yêu tự hạ như thế, con người mới được sống trong hạnh phúc đời đời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Tình yêu của Chúa mạnh hơn, lớn hơn sự chết. Không ai đứng ngoài tình yêu ấy, lại có thể sống. “Nếu Thầy không rửa chân anh”, nếu Chúa không tự hạ, không yêu như thế, trần gian đã không còn là trần gian của hôm nay.
Xin làm cho trái tim nhân loại, và trái tim của mỗi chúng con biết rung trong nhịp đập của tình yêu Thiên Chúa, để chúng con biết yêu tất cả những gì thuộc về chúng con theo mức độ và bằng cách thức Chúa muốn.
2. “VÌ THẦY LÀ THẦY VÀ LÀ CHÚA…”.
Không ít lần trong cuộc đời, chúng ta gặp phải những bi thương, mất mát. Có những bi thương, mất mát như muốn nhận chìm đời mình, làm cho mình suy sụp tưởng như chẳng còn gì...
Biết bao nhiêu gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình đang rộng mở, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hoặc hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…
Những lúc bi đát đến cùng cực ấy, tâm hồn chúng ta không còn bình an, vì thế đức tin dễ chao đảo, có khi còn oán trách Thiên Chúa.
Những lúc như thế, chúng ta hãy tìm gặp Chúa Giêsu, Đấng đã từng khẳng định: “Anh em gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy và là Chúa”, để lấy lại can đảm, tìm lại nghị lực cho mình.
Gặp gỡ Chúa, ta sẽ thấy ánh sáng từ cuộc đời của Chúa, gương sống của Chúa dòi dọi chiếu tỏa và lan tỏa trong cuộc đời và trên nỗi đau của ta.
Bởi “Thầy” và “Chúa” nơi Chúa Giêsu, không phải là “thầy” ở phía trên thiên hạ, cũng không phải là “chúa” cai trị mọi người, mặc dù Chúa Giêsu có tất cả quyền hành đó. Vì Chúa là “Thầy” và là “Chúa” nghĩa là “Thầy” và “Chúa” ấy cúi xuống “rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau”.
Chúa cúi xuống trên thân phận con người không phải chỉ khi rửa chân, nhưng ngay từ khi bỏ trời cao mặc lấy kiếp người, chấp nhận sinh ra và lớn lên thiếu thốn, nghèo nàn đến cùng cực.
Người đã cúi xuống đến mức chấp nhận chết như một tên tử tội, để chia sẻ đến cùng cái cùng cực, bi thương của thân phận làm người.
Chúa Giêsu vẫn cúi xuống trong từng ngày sống của cuộc đời chúng ta, khi chấp nhận làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta.
Hôm nay, trong bữa tiệc ly, trước khi rời xa các môn đệ, bằng hành động rửa chân cho các ông, Chúa như đúc kết thành bài học, kết hợp với lời, để nói về tình yêu tự hạ trải dài cả cuộc sống trần gian của Người, dạy ta bài học của yêu thương, khiêm nhường và chấp nhận hiến dâng đến mức hao mòn sức lực, hao mòn thời gian, hao mòn cuộc sống và hao mòn cả đến sự sống của bản thân ta.
Đúng! Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa. Là Thầy và là Chúa, Chúa Giêsu đã làm cho chức vị “Thầy” và “Chúa” của mình nổi bậc, không phải do quyền hành, nhưng do lòng yêu thương, một tình yêu xuất phát từ trái tim Thiên Chúa làm người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nơi Chúa, chúng con bắt gặp hình ảnh một Người Thầy rất cao cả, nhưng cũng rất gần gũi, có thể xoa dịu mọi vết thương lòng, mang lại bình an thật cho chính tâm hồn chúng con.
Bởi những gì chúng con gặp phải hôm nay, chính Chúa đã tự nguyện gánh lấy để chia sẻ đến cùng cái bi ai đang gieo rắc trong cuộc đời chúng con. Chúng con nguyện xin cho chúng con, sau khi đã tìm gặp Chúa, cũng biết cúi xuống để đem yêu thương chia sẻ cho anh chị em xung quanh, nhằm mang lại bình an, niềm hạnh phúc cho tất cả những ai chúng con gặp gỡ.
Xin cho chúng con vững tin, dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống. Xin Chúa nâng đỡ bao nhiêu người, họ là anh em của chúng con, đang quằng quại trong nỗi đau của cuộc đời này.
3. “ANH EM CŨNG PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU…”.
“Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến”. Thánh Phaolô gọi bổn phận yêu thương là “nợ”. Mà nếu là nợ thì phải trả.
Nhưng điều thánh Phaolô nói, đã là điều Chúa Giêsu dạy: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.
Không ai có thể đi vào quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa mà lại khước từ bổn phận yêu thương đồng loại. Nếu Thiên Chúa đã tự hạ thì con người cũng phải khiêm nhường.
Bài học của nhập thể, của thập giá, của bí tích Thánh Thể, ngàn đời vẫn còn đó để con người tra vấn về lòng mến của mình. Họ phải yêu như Chúa là Thiên Chúa của họ. Họ phải hy sinh cho nhau như chính Người hy sinh cho họ.
Trong những ngày này, người ta vẫn còn xôn xao về vụ cháy chung cư Carina ở quận 8, Sài Gòn (phát cháy khoảng 1 giờ 30 đầu ngày 23.3.2018). Trong câu chuyện, người ta không quên nhắc đến người bảo vệ chung cư là Trần Văn An, 43 tuổi, đã vĩnh viễn nằm lại trong lửa khó, sau khi đã tri hô báo cháy giữa đêm và hoàn thành nhiệm vụ cứu nhiều người sống sót.
Không biết người anh hùng bảo vệ ấy có phải là người mang niềm tin Công Giáo? Nhưng anh đã hy sinh mình để cứu người. Hình ảnh hiến mình của anh đẹp quá. Lại là hình ảnh diễn ra đúng vào những ngày cận tuần Thánh, càng mang lại chiều ý nghĩa cho tất cả mọi người Công Giáo.
Bởi như Chúa Giêsu đã hoàn thành cuộc đời dương thế của Người để cứu loài người. Chúng ta cũng phải họa lại đời sống của Chúa bằng chính những hy sinh từng ngày trong bổn phận của chúng ta như Chúa.
Tấm gương của người anh hùng bảo vệ Trần Văn An mà mọi người vẫn đang ngưỡng mộ là bằng chứng của lòng hy sinh, của sự hạ mình, của tình yêu mến mà chúng ta cần học lấy để sống chính lời dạy của Chúa: "ANH EM CŨNG PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim mới, một trái tim biết đau nỗi đau của người khác, biết vui trong hạnh phúc của người bên cạnh. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa mà hạ mình xuống phục vụ đồng loại theo Lời Chúa dạy: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Sống mầu nhiệm Thánh Giá
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
00:48 28/03/2018
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
1. Thánh Giá – Tình yêu của Thiên Chúa trong đời người.
Theo thánh Gioan, cái chết của Chúa Kitô, trước hết là sự tôn vinh chính Chúa Kitô, tôn vinh tình yêu của Người, một tình yêu hiến dâng mạng sống, một tình yêu chết thay cho người mình yêu, một tình yêu tự hiến thành tấm bánh nuôi sống người mình yêu, một tình yêu tự nguyện trở thành lễ tế hiến dâng Thiên Chúa…
Kế đến là vừa thể hiện, vừa tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu tràn trề, một tình yêu mạnh mẽ, một tình yêu thôi thúc “đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Còn thánh Phaolô lại nhận ra chính cái chết của Chúa Kitô là sức mạnh giải thoát con người: Chính nhờ Chúa Kitô tử nạn và phục sinh mà “ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ giữ luật Môsê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13, 39).
Trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô còn nói rõ hơn sự được tôn vinh của Chúa Kitô: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” (Pl 2, 10-11).
Như vậy, cùng xác tín với hai tông đồ Gioan và Phaolô, chúng ta khẳng định, nơi Thánh Giá, Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu tuyệt đỉnh của mình.
Đó là tình yêu không cùng của Thiên Chúa Cha hiến dâng Con Một. Đó là tình yêu quyết hy sinh của Thiên Chúa Con để hiến dâng chính mình. Đó là tình yêu tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa Ngôi Ba làm biểu lộ đến vô cùng, khắc sâu đến vô cùng lòng đại lượng của Đấng Chí Thánh là Tình Yêu.
Đấng chịu đóng đinh là Đấng được tôn vinh. Thánh Giá, phương tiện treo thân Đấng chịu đóng đinh, ngàn đời xứng danh Thánh Giá Cứu Độ.
Vì thế, không có bất cứ nơi nào, không có bất cứ lối đường nào, ngoài Thánh Giá, mà chính Thiên Chúa, chính tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Bởi chỉ nơi Thánh Giá, nơi Đấng chịu đóng đinh, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, khuôn mặt rạng ngời lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn, mạnh mẽ, vững bền.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).
Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, minh chứng rằng, Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Cái chết ấy còn chứng tỏ, tình yêu Thiên Chúa dành cho ta là thứ tình ở dạng thức cao nhất: Yêu đến tận cùng. Yêu đến tự hiến trọn vẹn. Yêu chấp nhận hiến tế. Yêu chấp nhận hy sinh chỉ vì ích lợi của kẻ khác.
Thánh Giá in sâu vào và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau phục sinh, những thương tích khổ nạn, dấu vết đớn đau của Thánh Giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa.
Thánh Giá băng qua lịch sử, xuyên qua thời gian. Nó còn tiếp tục trải dài và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta.
Ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Sự yêu mến và tôn thờ ấy, dẫn ta đến việc tự nguyện đón nhận thánh giá của đời mình, hợp làm một cùng Thánh Giá Chúa, bước theo Chúa, sống như Chúa suốt hành trình dương thế.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú như che mờ bóng Thánh Giá. Con người lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Chúa Kitô, tuôn trào tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
Bởi thế, suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô. Đó cũng là dịp giúp ta ý thức tình yêu, sự sống ấy đang đồng hành với mình, với cuộc đời của từng con người. Nhờ ý thức, ta không dám trôi theo những cám dỗ của thế gian, không dám đánh mất mình cho những “trái cấm” thế tục…
2. Để hiểu Thánh Giá Chúa Giêsu. b>
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Giá, Chúa Giêsu nhắc ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh của mình: Người là Con Thiên Chúa: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”.
Tự nó, thập giá là sự độc ác, sự thua bại đến nghiệt ngã của lòng yêu thương nơi loài người. Nó cũng chính là thực tại đau buồn do con người tạo ra để giết nhau sao cho tàn bạo nhất, rùng rợn nhất.
Nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó, dù ở bất cứ thời đại nào, loài người phải “đóng đinh” Con Thiên Chúa vào đó.
Bởi chỉ có thể hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn "từ trên cao", trong cái nhìn của Thiên Chúa - Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian chịu chết treo trên thập giá - để biến dấu chỉ của sự trừng phạt thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. Biến thập giá thành Thánh Giá, biểu tượng của tình yêu chiến thắng mà chúng ta tôn thờ.
“Như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”. Qua câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa muốn con người nhìn về thập giá "từ trên cao" theo cái nhìn của chính Chúa. Lúc đó, con người sẽ khám phá ra, Thiên Chúa dùng Thánh Giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa giành cho ông Nicôđêmô, cần phải "đặt" Con Thiên Chúa vào Thánh Giá, cần phải "treo" Con Thiên Chúa lên Thánh Giá, để con người hiểu được ý nghĩa của Thánh Giá.
Thánh Giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ sự thù ghét của con người đối với con người.
Nhưng lại là dấu chỉ rõ rệt cho thấy con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người Pharisêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa. Cũng có nghĩa là các Pharisêu không muốn chứng kiến việc Chúa đang lôi kéo lòng dân bước ra từ thế giới của tà tâm đến thế giới chính tâm. Họ tức tối tối. Họ dùng thập giá hòng tiêu diệt Ánh Sáng của trần gian.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Thánh Giá Chúa. Phải chăng Thánh Giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em?
Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
3. Thập giá đời và Thánh Giá phúc.
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: Không thể có một Kitô giáo mà không có đổ máu. Đổ máu là dấu hiệu của chết chóc, của thất bại. Việc đổ máu của Chúa Kitô, trước mặt người đời, trước tất cả mọi phù phím của thế gian mang vỏ bộc khôn ngoan, tiến bộ, văn minh…, cũng chỉ là một thất bại lớn, một sự bị đốn ngã nhục nhã.
Nhưng dưới dòng lịch sử của ơn Thánh - một dòng lịch sử chỉ có thể khám phá bởi lòng tin, bởi sự đơn thành, bởi cái nhìn thoát tục không bao giờ bị rào, bị cản của tiến bộ, của văn minh mà con người theo đuổi - việc đổ máu của Chúa Kitô là sự tôn vinh Thiên Chúa và là ơn cứu độ vĩnh cửu của loài người.
Đó cũng là niềm sung sướng của Hội Thánh, bởi không chỉ trong ngày đổ máu của Chúa Kitô là ngày Hội Thánh đã được khai sinh, mà còn là ngày mà Hội Thánh sung sướng tiến vào cuộc sống mới của Thiên Chúa, được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa.
Càng suy niệm, chúng ta thấy nơi Thánh Giá, Chúa như tóm gọn cả một hành trình dài của con người đầy trắc trở, đầy mâu thuẫn, đầy xót xa, biến động. Và những gì diễn ra nơi Thánh Giá cũng như nơi cuộc đời con người vừa như tương tác lẫn nhau, vừa như hoàn toàn đối nghịch nhau.
Thánh Giá như tóm gọn hành trình của một kiếp người, như đang diễn tả toàn bộ mọi trạng thái của kiếp nhân sinh đang trải qua: Yêu thương và thù hận, thành công và thất bại, hy vọng và thất vọng, tin tưởng và sợ hãi, tự do và trói buộc, trung thành và phản bội, hạnh phúc và đau khổ, sự sống và giết chóc…
Đặc biệt, mỗi khi dừng lại ở từng chặng Đường Thánh Giá, Hội Thánh mời gọi mỗi người, không chỉ làm dấy lên trong tâm hồn một cảm xúc đối với cuộc khổ nạn, mà còn là ý thức hồng ân đã được lãnh nhận qua Đường Thương Khó, qua cây Thánh Giá của Chúa Giêsu, và qua đau khổ là mỗi cây thánh giá trong đời mỗi con người, để xây dựng thế giới tốt đẹp bằng cách mang tình yêu vào giữa lòng thế giới, làm cho con người được sống và sống dồi dào.
Chính vì sự liên quan mật thiết giữa Thánh Giá và những gì diễn ra trong đời người, cho ta hiểu rằng, cuộc sống hôm nay không tách rời Thánh Giá. Thánh Giá sẽ biến cuộc sống thành hoa quả ngày mai trong hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi Thánh giá bao trùm trên cuộc sống hôm nay, nên ta tin tưởng, giá trị cuộc sống không là những thực tại trần gian nhưng là thực tại Nước Trời.
Chính nơi đó mới là quê hằng sống. Chính nơi đó mới là quê bình yên. Chính nơi đó mới là quê của niềm hy vọng. Chỉ có nơi quê Trời ấy, ta mới thực sự thoát ly bất trung và bội phản, oán ghét và thù hận.
Sẽ không bao giờ còn giết chóc, lừa lọc, gian dối. Sẽ tiêu tan hết những áp bức, những chà đạp, những độc ác… Và lúc đó, công lý được giương cao, hòa bình được trao tặng, sự thật được hoàn lại cho những ai đã từng bị cuộc sống hôm nay giày vò, ức hiếp.
Bởi đó là Nước mà lòng xót thương của Thiên Chúa ngự trị. Mọi người là anh chị em có Thiên Chúa là Cha chung. Nước mà giờ đây Thánh giá đã chiến thắng. Chúa Kitô sẽ giương cao ngọn cờ Thánh Giá như biểu tượng của một tình yêu tuyệt đỉnh, của một sự bình an không cùng mà chính Người đã đi qua cuộc đời này và nay trao lại cho chúng ta trong Nước hằng sống.
Cha Hoàng Kim để lại một bài Thánh Ca thường được hát trong Tuần Thánh, ai hát lên cũng thấy bàng hoàng xúc động:
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này
Ôi hỡi thập giá chúa Giêsu.
Từ nơi Thánh Tâm yêu thương Ngài,
Sông ơn thiêng khơi nguồn chan hòa,
Qua ngươi máu cứu độ chảy xuống nơi đây.
Ôi hỡi thập giá Chúa Kitô”.
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này, ôi hỡi Thập Giá Chúa Giêsu !”. Vâng! thập giá ở đâu mà chẳng có. Mấy chữ “ngất cao ở trên thế gian” vừa như muốn nói lên chiều cao, vừa như cho thấy chiều rộng, vừa như là sự cao cả, quý giá, nhưng cũng nặng nề, lo sợ.
Và Giữa một rừng thập giá của kiếp nhân sinh, lại thấy nổi lên, lại thấy “ngất cao” cây Thánh Giá của Chúa chúng ta. Thánh Giá của Chúa ngất cao là để tỏa bóng, để lôi kéo, để đỡ nâng, để thánh hóa tất cả mọi cây thập giá đời.
Vâng! Thập giá lúc nào mà không có, không mời gọi. Dù run rẫy khi đón nhận, nhưng có ai thoát khỏi thập giá? Thập giá là một người bạn không ai chờ đợi, nhưng nó vẫn cứ đến, vẫn cứ đồng hành trên suốt chặng đường đời của mỗi con người.
Là Kitô hữu, chúng ta hạnh phúc, vì thập giá của chúng ta đong đầy ý nghĩa. Chúng ta biết, thập giá đời mình được tháp nhập, được lồng trong Thánh Giá Chúa Kitô. Thập giá đời dẫu có “ngất cao ở trên thế gian này”, thì mãi mãi vẫn còn đó Thánh Giá Chúa Kitô soi bóng, chiếu sáng ý nghĩa, lan tỏa hạnh phúc, như mặt trời soi vào từng ngõ ngách của trần thế.
Cây thập giá được Chúa Giêsu chọn để làm nơi phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha đã trở nên một báu vật của nhân loại và được gọi là Thánh Giá sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết và lên trời vinh hiển.
Thiên Chúa đã thánh hóa cây thâp tự: từ một dụng cụ độc ác tàn nhẫn của con người thành công cụ của tình yêu thương, tha thứ. Từ biểu tượng của sự chết đã trở thành biểu tượng giải thoát con người khỏi phải án chết đời đời. Từ sự ô nhục, điên rồ và ngu xuẩn trở nên chiến thắng vinh quang của Đức Kitô.
Người Kitô hữu luôn kính mến và tôn xưng cây thập giá đồng hành với Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ là Thánh Giá. Chúng ta thường đọc trước mỗi chặng đàng Thánh Giá: “Chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ”, thường làm dấu Thánh Giá trước khi cầu nguyện, thường ghi dấu Thánh Giá lên thân mình trước và sau khi dùng bữa, thường ghi dấu Thánh Giá trước bất cứ một nghĩa cử đạo đức nào…, chúng ta thực sự hãnh diện, vui mừng vì Thánh Giá vinh quang của Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa:
Vinh quang của ta
Là Thánh Giá Đức Kitô
Nơi Ngài, ơn cứu độ của ta
Sức sống của ta
Phục sinh của ta
Nhờ Chúa ta được cứu độ
Nhờ Chúa ta được giải thoát.
Vậy chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu vì chính Người là nguồn sức mạnh duy nhất có thể nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta vác thập giá: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt. 1,28).
Xin Chúa ngự trị và cùng vác thập giá với từng người hàng ngày. Nếu ta mang vác những gánh nặng, những trách nhiệm, những lo toan hàng ngày một mình thì sức nặng của cây thập giá đời mình sẽ càng nặng, càng đau đớn, càng u uất… Nhưng nếu ta ngã mình vào Thánh Giá Chúa Giêsu, xin Người đồng hành với, thập giá đời ta, vẫn là thập giá ấy thôi, vẫn nặng nề, vẫn khổ đau, vẫn u uất, sẽ được biến đổi thành những cây Thánh giá phúc, có tình yêu của Chúa, có ơn cứu độ của Chúa, có sức sức mạnh của Chúa, có sức sống phục sinh của Chúa.
Mãi mãi thập giá không nhẹ. Nhưng tình yêu Thánh Giá sẽ làm thập giá dễ chịu hơn, và chan đầy ý nghĩa.
1. Thánh Giá – Tình yêu của Thiên Chúa trong đời người.
Theo thánh Gioan, cái chết của Chúa Kitô, trước hết là sự tôn vinh chính Chúa Kitô, tôn vinh tình yêu của Người, một tình yêu hiến dâng mạng sống, một tình yêu chết thay cho người mình yêu, một tình yêu tự hiến thành tấm bánh nuôi sống người mình yêu, một tình yêu tự nguyện trở thành lễ tế hiến dâng Thiên Chúa…
Kế đến là vừa thể hiện, vừa tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu tràn trề, một tình yêu mạnh mẽ, một tình yêu thôi thúc “đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Còn thánh Phaolô lại nhận ra chính cái chết của Chúa Kitô là sức mạnh giải thoát con người: Chính nhờ Chúa Kitô tử nạn và phục sinh mà “ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ giữ luật Môsê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13, 39).
Trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô còn nói rõ hơn sự được tôn vinh của Chúa Kitô: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” (Pl 2, 10-11).
Như vậy, cùng xác tín với hai tông đồ Gioan và Phaolô, chúng ta khẳng định, nơi Thánh Giá, Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu tuyệt đỉnh của mình.
Đó là tình yêu không cùng của Thiên Chúa Cha hiến dâng Con Một. Đó là tình yêu quyết hy sinh của Thiên Chúa Con để hiến dâng chính mình. Đó là tình yêu tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa Ngôi Ba làm biểu lộ đến vô cùng, khắc sâu đến vô cùng lòng đại lượng của Đấng Chí Thánh là Tình Yêu.
Đấng chịu đóng đinh là Đấng được tôn vinh. Thánh Giá, phương tiện treo thân Đấng chịu đóng đinh, ngàn đời xứng danh Thánh Giá Cứu Độ.
Vì thế, không có bất cứ nơi nào, không có bất cứ lối đường nào, ngoài Thánh Giá, mà chính Thiên Chúa, chính tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Bởi chỉ nơi Thánh Giá, nơi Đấng chịu đóng đinh, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, khuôn mặt rạng ngời lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn, mạnh mẽ, vững bền.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).
Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, minh chứng rằng, Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Cái chết ấy còn chứng tỏ, tình yêu Thiên Chúa dành cho ta là thứ tình ở dạng thức cao nhất: Yêu đến tận cùng. Yêu đến tự hiến trọn vẹn. Yêu chấp nhận hiến tế. Yêu chấp nhận hy sinh chỉ vì ích lợi của kẻ khác.
Thánh Giá in sâu vào và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau phục sinh, những thương tích khổ nạn, dấu vết đớn đau của Thánh Giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa.
Thánh Giá băng qua lịch sử, xuyên qua thời gian. Nó còn tiếp tục trải dài và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta.
Ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Sự yêu mến và tôn thờ ấy, dẫn ta đến việc tự nguyện đón nhận thánh giá của đời mình, hợp làm một cùng Thánh Giá Chúa, bước theo Chúa, sống như Chúa suốt hành trình dương thế.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú như che mờ bóng Thánh Giá. Con người lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Chúa Kitô, tuôn trào tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
Bởi thế, suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô. Đó cũng là dịp giúp ta ý thức tình yêu, sự sống ấy đang đồng hành với mình, với cuộc đời của từng con người. Nhờ ý thức, ta không dám trôi theo những cám dỗ của thế gian, không dám đánh mất mình cho những “trái cấm” thế tục…
2. Để hiểu Thánh Giá Chúa Giêsu. b>
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Giá, Chúa Giêsu nhắc ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh của mình: Người là Con Thiên Chúa: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”.
Tự nó, thập giá là sự độc ác, sự thua bại đến nghiệt ngã của lòng yêu thương nơi loài người. Nó cũng chính là thực tại đau buồn do con người tạo ra để giết nhau sao cho tàn bạo nhất, rùng rợn nhất.
Nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó, dù ở bất cứ thời đại nào, loài người phải “đóng đinh” Con Thiên Chúa vào đó.
Bởi chỉ có thể hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn "từ trên cao", trong cái nhìn của Thiên Chúa - Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian chịu chết treo trên thập giá - để biến dấu chỉ của sự trừng phạt thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. Biến thập giá thành Thánh Giá, biểu tượng của tình yêu chiến thắng mà chúng ta tôn thờ.
“Như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”. Qua câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa muốn con người nhìn về thập giá "từ trên cao" theo cái nhìn của chính Chúa. Lúc đó, con người sẽ khám phá ra, Thiên Chúa dùng Thánh Giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa giành cho ông Nicôđêmô, cần phải "đặt" Con Thiên Chúa vào Thánh Giá, cần phải "treo" Con Thiên Chúa lên Thánh Giá, để con người hiểu được ý nghĩa của Thánh Giá.
Thánh Giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ sự thù ghét của con người đối với con người.
Nhưng lại là dấu chỉ rõ rệt cho thấy con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người Pharisêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa. Cũng có nghĩa là các Pharisêu không muốn chứng kiến việc Chúa đang lôi kéo lòng dân bước ra từ thế giới của tà tâm đến thế giới chính tâm. Họ tức tối tối. Họ dùng thập giá hòng tiêu diệt Ánh Sáng của trần gian.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Thánh Giá Chúa. Phải chăng Thánh Giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em?
Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
3. Thập giá đời và Thánh Giá phúc.
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: Không thể có một Kitô giáo mà không có đổ máu. Đổ máu là dấu hiệu của chết chóc, của thất bại. Việc đổ máu của Chúa Kitô, trước mặt người đời, trước tất cả mọi phù phím của thế gian mang vỏ bộc khôn ngoan, tiến bộ, văn minh…, cũng chỉ là một thất bại lớn, một sự bị đốn ngã nhục nhã.
Nhưng dưới dòng lịch sử của ơn Thánh - một dòng lịch sử chỉ có thể khám phá bởi lòng tin, bởi sự đơn thành, bởi cái nhìn thoát tục không bao giờ bị rào, bị cản của tiến bộ, của văn minh mà con người theo đuổi - việc đổ máu của Chúa Kitô là sự tôn vinh Thiên Chúa và là ơn cứu độ vĩnh cửu của loài người.
Đó cũng là niềm sung sướng của Hội Thánh, bởi không chỉ trong ngày đổ máu của Chúa Kitô là ngày Hội Thánh đã được khai sinh, mà còn là ngày mà Hội Thánh sung sướng tiến vào cuộc sống mới của Thiên Chúa, được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa.
Càng suy niệm, chúng ta thấy nơi Thánh Giá, Chúa như tóm gọn cả một hành trình dài của con người đầy trắc trở, đầy mâu thuẫn, đầy xót xa, biến động. Và những gì diễn ra nơi Thánh Giá cũng như nơi cuộc đời con người vừa như tương tác lẫn nhau, vừa như hoàn toàn đối nghịch nhau.
Thánh Giá như tóm gọn hành trình của một kiếp người, như đang diễn tả toàn bộ mọi trạng thái của kiếp nhân sinh đang trải qua: Yêu thương và thù hận, thành công và thất bại, hy vọng và thất vọng, tin tưởng và sợ hãi, tự do và trói buộc, trung thành và phản bội, hạnh phúc và đau khổ, sự sống và giết chóc…
Đặc biệt, mỗi khi dừng lại ở từng chặng Đường Thánh Giá, Hội Thánh mời gọi mỗi người, không chỉ làm dấy lên trong tâm hồn một cảm xúc đối với cuộc khổ nạn, mà còn là ý thức hồng ân đã được lãnh nhận qua Đường Thương Khó, qua cây Thánh Giá của Chúa Giêsu, và qua đau khổ là mỗi cây thánh giá trong đời mỗi con người, để xây dựng thế giới tốt đẹp bằng cách mang tình yêu vào giữa lòng thế giới, làm cho con người được sống và sống dồi dào.
Chính vì sự liên quan mật thiết giữa Thánh Giá và những gì diễn ra trong đời người, cho ta hiểu rằng, cuộc sống hôm nay không tách rời Thánh Giá. Thánh Giá sẽ biến cuộc sống thành hoa quả ngày mai trong hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi Thánh giá bao trùm trên cuộc sống hôm nay, nên ta tin tưởng, giá trị cuộc sống không là những thực tại trần gian nhưng là thực tại Nước Trời.
Chính nơi đó mới là quê hằng sống. Chính nơi đó mới là quê bình yên. Chính nơi đó mới là quê của niềm hy vọng. Chỉ có nơi quê Trời ấy, ta mới thực sự thoát ly bất trung và bội phản, oán ghét và thù hận.
Sẽ không bao giờ còn giết chóc, lừa lọc, gian dối. Sẽ tiêu tan hết những áp bức, những chà đạp, những độc ác… Và lúc đó, công lý được giương cao, hòa bình được trao tặng, sự thật được hoàn lại cho những ai đã từng bị cuộc sống hôm nay giày vò, ức hiếp.
Bởi đó là Nước mà lòng xót thương của Thiên Chúa ngự trị. Mọi người là anh chị em có Thiên Chúa là Cha chung. Nước mà giờ đây Thánh giá đã chiến thắng. Chúa Kitô sẽ giương cao ngọn cờ Thánh Giá như biểu tượng của một tình yêu tuyệt đỉnh, của một sự bình an không cùng mà chính Người đã đi qua cuộc đời này và nay trao lại cho chúng ta trong Nước hằng sống.
Cha Hoàng Kim để lại một bài Thánh Ca thường được hát trong Tuần Thánh, ai hát lên cũng thấy bàng hoàng xúc động:
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này
Ôi hỡi thập giá chúa Giêsu.
Từ nơi Thánh Tâm yêu thương Ngài,
Sông ơn thiêng khơi nguồn chan hòa,
Qua ngươi máu cứu độ chảy xuống nơi đây.
Ôi hỡi thập giá Chúa Kitô”.
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này, ôi hỡi Thập Giá Chúa Giêsu !”. Vâng! thập giá ở đâu mà chẳng có. Mấy chữ “ngất cao ở trên thế gian” vừa như muốn nói lên chiều cao, vừa như cho thấy chiều rộng, vừa như là sự cao cả, quý giá, nhưng cũng nặng nề, lo sợ.
Và Giữa một rừng thập giá của kiếp nhân sinh, lại thấy nổi lên, lại thấy “ngất cao” cây Thánh Giá của Chúa chúng ta. Thánh Giá của Chúa ngất cao là để tỏa bóng, để lôi kéo, để đỡ nâng, để thánh hóa tất cả mọi cây thập giá đời.
Vâng! Thập giá lúc nào mà không có, không mời gọi. Dù run rẫy khi đón nhận, nhưng có ai thoát khỏi thập giá? Thập giá là một người bạn không ai chờ đợi, nhưng nó vẫn cứ đến, vẫn cứ đồng hành trên suốt chặng đường đời của mỗi con người.
Là Kitô hữu, chúng ta hạnh phúc, vì thập giá của chúng ta đong đầy ý nghĩa. Chúng ta biết, thập giá đời mình được tháp nhập, được lồng trong Thánh Giá Chúa Kitô. Thập giá đời dẫu có “ngất cao ở trên thế gian này”, thì mãi mãi vẫn còn đó Thánh Giá Chúa Kitô soi bóng, chiếu sáng ý nghĩa, lan tỏa hạnh phúc, như mặt trời soi vào từng ngõ ngách của trần thế.
Cây thập giá được Chúa Giêsu chọn để làm nơi phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha đã trở nên một báu vật của nhân loại và được gọi là Thánh Giá sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết và lên trời vinh hiển.
Thiên Chúa đã thánh hóa cây thâp tự: từ một dụng cụ độc ác tàn nhẫn của con người thành công cụ của tình yêu thương, tha thứ. Từ biểu tượng của sự chết đã trở thành biểu tượng giải thoát con người khỏi phải án chết đời đời. Từ sự ô nhục, điên rồ và ngu xuẩn trở nên chiến thắng vinh quang của Đức Kitô.
Người Kitô hữu luôn kính mến và tôn xưng cây thập giá đồng hành với Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ là Thánh Giá. Chúng ta thường đọc trước mỗi chặng đàng Thánh Giá: “Chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ”, thường làm dấu Thánh Giá trước khi cầu nguyện, thường ghi dấu Thánh Giá lên thân mình trước và sau khi dùng bữa, thường ghi dấu Thánh Giá trước bất cứ một nghĩa cử đạo đức nào…, chúng ta thực sự hãnh diện, vui mừng vì Thánh Giá vinh quang của Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa:
Vinh quang của ta
Là Thánh Giá Đức Kitô
Nơi Ngài, ơn cứu độ của ta
Sức sống của ta
Phục sinh của ta
Nhờ Chúa ta được cứu độ
Nhờ Chúa ta được giải thoát.
Vậy chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu vì chính Người là nguồn sức mạnh duy nhất có thể nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta vác thập giá: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt. 1,28).
Xin Chúa ngự trị và cùng vác thập giá với từng người hàng ngày. Nếu ta mang vác những gánh nặng, những trách nhiệm, những lo toan hàng ngày một mình thì sức nặng của cây thập giá đời mình sẽ càng nặng, càng đau đớn, càng u uất… Nhưng nếu ta ngã mình vào Thánh Giá Chúa Giêsu, xin Người đồng hành với, thập giá đời ta, vẫn là thập giá ấy thôi, vẫn nặng nề, vẫn khổ đau, vẫn u uất, sẽ được biến đổi thành những cây Thánh giá phúc, có tình yêu của Chúa, có ơn cứu độ của Chúa, có sức sức mạnh của Chúa, có sức sống phục sinh của Chúa.
Mãi mãi thập giá không nhẹ. Nhưng tình yêu Thánh Giá sẽ làm thập giá dễ chịu hơn, và chan đầy ý nghĩa.
Tự hủy chứng minh lòng thương xót
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
01:05 28/03/2018
THỨ BẢY TUẦN THÁNH 2018
Thứ Bảy Tuần Thánh, Đấng là Ngôi Lời làm người đã ngủ yên trong mồ. Chiêm ngắm hình ảnh Đấng Cứu Chuộc chôn vùi xác thân, chúng ta nghe rõ mồn một lời bài ca về sự tự hủy. Chúa Kitô, vì vâng lệnh Chúa Cha, vì phần rỗi đời đời của chúng ta, đã tự hủy chính mình nên nguồn sống cho chúng ta.
Cùng đọc lại bài ca về sự tự hủy mình của Ngôi Lời trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, một lần nữa, ta hãy chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm tự hủy chính mình của Chúa Giêsu Kitô.
Bài ca như sau:
“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ;
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
Đức Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Tự hủy nói lên lòng thương xót. Lòng thương xót đã đưa Thiên Chúa đi đến một quyết định chưa từng thấy: Hiến trao Con Một mình cho nhân loại. Mà khi hiến trao Người con, có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận hủy mình nơi Người Con.
Còn Chúa Giêsu, cùng một lòng thương xót như Chúa Cha, với quyết định thi hành ý Chúa Cha, đã hiến trao chính mình. Người bước vào mầu nhiệm tự hủy là bước vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu độ của loài người.
1. Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa từ muôn đời (Pl 2, 6).
Vì lòng xót thương nhân loại hết sức lớn lao, dù từ đời đời, Ngôi Hai đã là Thiên Chúa và vẫn là Thiên Chúa, Người quyết định từ khước địa vị cao cả ấy, chấp nhận hòa mình với thụ tạo.
Qua hành động nhập thể, Con Thiên Chúa đã trút bỏ mọi uy quyền, mang lấy xác phàm như chúng ta. Ngôi Lời nhập thể đã tự hiến “cái tôi” uy quyền của một vì Thiên Chúa để mặc lấy “cái tôi” hèn hạ tột cùng của kiếp người.
Không những thế, Người còn hạ mình tới tận cùng của kiếp nô lệ, để “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết” đớn đau, ô nhục như một tử tội.
Nhưng hành động tự hạ đến mức kỳ diệu cũng là hành động khó hiểu đối với suy luận của loài người. Dù là huyền nhiệm không thể lý giải, chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm thật mạnh mẽ tình yêu thương xót của Chúa Kitô, một tình yêu thương xót chỉ có thể có được từ trái tim của Đấng Thiên Chúa làm người.
Dù suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn biểu tỏ lòng thương xót của Người qua công trình sáng tạo, qua lịch sử dân Itrael, qua những chương trình, qua nhiều lời giáo huấn…, nhưng tất cả đều chưa rõ nét. Ví thế, con người ít nhiều khó hình dung về Thiên Chúa.
Giờ đây, với sáng kiến độc đáo, Thiên Chúa sai Con của Người tự hủy mình đến “cắm lều” giữa loài người, đồng cam cộng khổ với kiếp người... Bằng cách ấy, Thiên Chúa tỏ bày một trái tim chứa chan lòng xót thương thật cụ thể, thật gần gũi, thật nồng ấm. Từ đó, loài người tự nhận biết, trong tình yêu thương xót vô cùng của Thiên Chúa, họ quan trọng biết chừng nào.
2. Chiêm ngắm thân phận “nô lệ” của Chúa Giêsu (Pl 2, 7).
Thân phận nô lệ, hiện thân của sự thất bại thảm hại mà Ađam đã gieo rắc cho mình và cho muôn thế hệ, lại được Con Thiên Chúa chọn như một phương cách cần thiết cho sự cứu độ. Vì thế, nơi Chúa đối lập hoàn toàn với Ađam:
- Bởi trong khi Ađam chỉ là loài được tạo dựng lại muốn vươn lên chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mình. Còn Chúa Giêsu Kitô, Đấng là chính Thiên Chúa, thì lại hóa thân trong kiếp phàm nhân.
- Trong khi Ađam phải là kẻ hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa, thì chính sự bất tuân phục của ông mở lối cho tội lỗi và sự chết xâm nhập trần thế.
Còn Chúa Giêsu Kitô, nhờ tình yêu thương xót lớn lao, Người đã tự hạ và lựa chọn hủy mình mang kiếp nô lệ. Nhờ đó, Người chạm tới cùng đích của thân phận thụ tạo.
Không chỉ thế, “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8). Tình yêu thương xót của Chúa Kitô, đã trao cho nhân loại ơn giải thoát, đưa họ tiến về sự sống, đạt tới đỉnh cao của ơn được làm con Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu.
- Trong khi Ađam tìm cách vượt thoát Thiên Chúa, cũng có nghĩa là tự tách mình khỏi ảnh hưởng và khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thì Chúa Kitô lại đến trú ngụ giữa trần thế, hòng tuôn đổ tình yêu cho thế giới, đưa con người về lại trong tầm ảnh hưởng của Thiên Chúa.
- Ađam đang sống trong sự sống của Thiên Chúa, nhưng dại dột để cái chết chiếm lấy mình, thì Chúa Kitô lại bước vào cái chết, dùng sự chết của mình hủy diệt cái chết của con người, đưa con người về lại sự sống của Thiên Chúa
Bởi những gì vừa trình bày, ta có thể gói gọn cuộc đời làm người của Chúa Giêsu Kitô trong hai tiếng “vâng phục”: Người đã vâng phục Chúa Cha. Nhờ vâng phục, Chúa Giêsu trở thành nguyên nhân ơn cứu độ của cả loài người.
Như vậy, Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý của Cha bằng một đường lối khiêm nhường và phục vụ thay vì thống trị bằng quyền lực (x.Lc 4, 1-13). Điều này cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự yếu đuối của xác phàm, sự yếu đuối đã từng đốn ngã một cách thảm bại đối với Ađam.
3. Chúa Giêsu được Chúa Cha tôn vinh (Pl 9-11).
Chúng ta nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu qua sự "hạ cố" chính mình của việc Ngôi Lời tự hủy. Nhưng chúng ta cũng sẽ nhận thấy lòng thương xót ấy vẫn tiếp tục tuôn tràn dồi dào trên nhân loại ở sự vinh thăng, khi Chúa Cha tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, Con của Người.
“Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”. Dù trong xã hội Dothái, tên “Giêsu” là tên gọi khá phổ biến. Đó cũng là lý do mà Tin Mừng cho biết, đám đông thường gọi Chúa Giêsu là “Ông Giêsu thành Nazareth” để phân biệt với "các Giêsu" khác.
- Nhưng nơi Chúa Giêsu, danh “Giêsu” không chỉ là danh của một con người, mà danh ấy đồng nhất với danh của Đức Chúa vì chính Người là Thiên Chúa, để mỗi khi ta gọi danh Chúa Giêsu, lập tức, ta biết mình gọi Đấng mà mình phải tôn thờ. Người là chính Thiên Chúa và là chính con người. Thiên Chúa và con người ấy chỉ là một, trong một thánh danh duy nhất: GIÊSU.
Ngay tên gọi “Giêsu”, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”, lòng thương xót đã được thể hiện. Bởi mỗi lần gọi tên Chúa Giêsu, ta biết thật, Người chính là Đấng cứu độ của Thiên Chúa. Bằng mọi giá, Người sẵn sàng hủy mình để cứu độ ta.
Gọi tên Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của lòng thương xót, chúng ta biết rằng, Người là một con người, hoàn toàn mang bản tính người, có một tên gọi như bất kỳ ai, sống thân phận loài người không hề khác người, để chia sẻ phận người với ta, đồng cam cộng khổ cùng ta nơi trần thế.
Lòng thương xót đã trao ban cho trần thế một con người Giêsu là chính Thiên Chúa làm người, để ở giữa thế giới loài người có Thiên Chúa, và để ở tận cung lòng của Thiên Chúa có con người.
- Khi tuyên xưng “Giêsu” là danh hiệu “trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”, chúng ta đồng tuyên xưng đó là danh vượt không gian, vượt thời gian, danh có quyền tối thượng trên hoàn vũ, trên muôn loài hữu hình, vô hình.
Danh Chúa Giêsu oai phong đến nỗi, mọi quyền lực, dù tốt lành hay tội lỗi, dù ngang bướng hay vâng phục đều phải thờ lạy, suy tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ”.
Dựa vào lời xưng tụng ấy, mỗi khi tuyên xưng vương quyền Chúa Giêsu, chúng ta ca tụng: “Khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, cả bầu trời bừng sáng, cả tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run” (lời bài hát Chúa là Vua).
Lại một lần nữa, ta thấy lòng thương xót trao ban cho thế giới, không chỉ danh Chúa Giêsu, mà còn trao uy quyền lớn lao của danh ấy, để từ nay, mỗi lúc rơi vào cám dỗ, chạm phải những thách thức của linh hồn, rơi vào những tăm tối của đời sống, những bế tắc vây bũa, ta đều nại đến danh Chúa Giêsu.
Có quyền lực trên tội lỗi và ma quỷ, Chúa Giêsu tha thứ cho ta. Là ánh sáng soi trần thế như Chúa đã từng khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian”, Chúa sẽ mở lối bình an để ta tiến về phía Người. Là chính ơn phục sinh của trần thế, Chúa tháp nhập đời ta vào thập giá của Người, để ta cùng chết và cùng vinh hiển phục sinh với Người.
- Chúa Giêsu cũng được gọi là Đức Chúa như Chúa Cha. Danh của Người cao trọng tột bậc, vì mỗi lần ta tuyên xưng, sẽ là mỗi lần ta tôn vinh Chúa Cha: “Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Kitô là Chúa”.
Danh hiệu Giêsu được siêu tôn để trở thành quyền năng của sự cầu nguyện: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14, 13-14).
Chính vì tin vào danh Chúa Giêsu, khi cử hành phụng vụ và cử hành các giờ cầu nguyện nói chung, Hội Thánh đều nại vào danh ấy. Hội Thánh luôn kết thúc mọi lời nguyện bằng câu: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa trao cho ta thánh danh “Giêsu” để ta biết sử dụng mà liên lỉ cầu nguyện, mà sống với danh ấy, để Thiên Chúa luôn trong ta, ở cùng ta.
Nếu Chúa Giêsu là chính “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì danh thánh Giêsu minh chứng, Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn song hành cùng ta trong từng giây phút của cuộc đời.
Lòng thương xót trao ban thánh danh Giêsu luôn thúc giục ta hãy kêu cầu danh Chúa Giêsu, hãy nại vào danh Chúa Giêsu mà kêu cầu. Hiệu lực của lời cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu là một hiện thực quý báu mà mỗi chúng ta, nếu không chểnh mảng việc cầu nguyện, đều trải nghiệm và kinh nghiệm.
- Còn thánh Phêrô thì khẳng định, ngoại trừ thánh danh Chúa Giêsu, “dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh nào đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Thánh danh Chúa Giêsu cũng chính là trung tâm của sứ điệp mà các tông đồ, các vị truyền giáo, cả Hội Thánh loan báo cho thế giới qua mọi thế hệ.
Lòng thương xót của Thiên Chúa trao ban thánh danh Chúa Giêsu còn như phương tiện để Thiên Chúa cứu độ mọi người. Công tác truyền giáo của Hội Thánh nhấn mạnh hết sức ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến cho trần thế.
Vì thế, Hội Thánh truyền giáo là Hội Thánh giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, mọi người phải được cứu độ, Hội Thánh mời gọi hãy tuyên xưng danh Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của Thiên Chúa mà cả loài người đều có quyền tận hưởng.
4. Kết luận.
Ta có thể diễn tả cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể bằng đồ thị hình parabol mà chiều xuống là sự tự hủy của Người, đáy là kiếp phàm nhân mà Người đảm nhận và chiều lên là việc Thiên Chúa Cha siêu tôn người con của mình.
Thứ bảy tuần Thánh, khi Chúa Giêsu ngủ yên trong mồ, ta thấy nơi đó là tất cả tình yêu tự hạ vì xót thương mà Thiên Chúa không bao giờ tiếc để ban phát cho ta.
Phận là phận Thiên Chúa, nhưng nay lại có thể ngủ yên trong mồ. Chỉ có thể là lòng thương xót xuất phát từ chính Thiên Chúa mới diệu kỳ đến vậy.
Tự hủy và hạ mình vì xót thương, Đấng là Thiên Chúa làm người ngủ yên trong mồ, dạy nhân loại này, thế giới này và từng con người không được bỏ qua bất cứ hoàn cảnh nào đòi hỏi họ phải dấn thân, phải ném mình trong hy sinh và phục vụ.
Bởi khi trình bày mầu nhiệm tự hủy của Con Thiên Chúa, tác giả thư Philipphê như muốn mọi người hãy học, hãy bắt chước mẫu gương tự hủy của Người mà sống cho nhau, sống vì nhau, sống trong lòng yêu mến mà Người hằng dạy và nêu gương.
Nếu tự hủy lừ hành động khởi đi từ lòng thương xót, thì bất cứ ai, luôn biết ý thức theo gương Chúa Giêsu để sống mầu nhiệm tự hủy, người đó cũng cho thấy mình đang nỗ lực sống lòng thương xót của Chúa.
Được gọi là con Thiên Chúa, rõ ràng chúng ta đang sống trong ơn gọi làm con trong tương quan với Người Con Một của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, chúng ta đã sống, đang sống, và còn tiếp tục hướng tới mầu nhiệm tự hủy của chính Chúa Giêsu, để biểu lộ lòng thương xót như Chúa Giêsu nơi chính ơn gọi của chúng ta.
Bởi đang sống chính mầu nhiệm tự hủy, chúng ta cần nghiêm túc tra xét chính mình, để đừng chểnh mảng trong ơn gọi, đừng lơ đãng hay biếng nhát bổn phận của người thuộc về Thiên Chúa, người có nhiệm vụ phản ánh thực chất đời sống của Chúa Giêsu cho thế giới.
Sống ơn gọi làm con, chúng ta là họa ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi thế gian. Không ai cho phép họa ảnh lại có thể khác chủ thể. Họa ảnh mà khác chủ thể, sẽ không là họa ảnh của chủ thể ấy. Họa ảnh mà khác chủ thể, nó chỉ là dị ảnh, là lệch chuẩn, la sản phẩm sai lầm. Mà đã dị, đã lệch, đã sai, chắc chắn sẽ xấu, sẽ chỉ là một thứ tầm thường, có khi cần phải vứt bỏ.
Chính Chúa Giêsu đã từng lên tiếng chỉ trích lối sống mang danh Kitô hữu mà không sống thực chất Kitô hữu. Người gọi đó là những kẻ giả hình. Người nói nặng: “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23, 27-28).
Lối sống giả hình không bao giờ có lợi cho ai, có khi còn rất nguy hiểm, vì nó che đậy biết bao nhiêu sự xấu, sự dữ. Nếu sự dữ, sự xấu mà được che đậy, được ấp ủ thì nguy hiểm vô cùng. Bởi sẽ có lúc nó bùng phát.
Thà đừng là Kitô hữu, còn hơn là Kitô hữu mà chẳng bao giờ biết hy sinh, chẳng bao giời ý thức mầu nhiệm tự hủy để trao ban chính mình như tặng phẩm của tình yêu gởi đến anh chị em quanh mình.
Có một lời kinh đơn sơ, nhưng sâu sắc, vẫn sống cùng Hội Thánh, “Kinh Hòa Bình”. Lời kinh mà bất cứ ai nghiền ngẫm và sống đúng như vậy, không chỉ trở nên tặng phẩm tuyệt vời cho trần gian, nhưng còn mang lại niềm bình an, nỗi hạnh phúc lớn lao cho chính người dâng tặng: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người....”.
Thứ Bảy Tuần Thánh, chiêm ngắm mầu nhiệm tự hủy vì lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy ca vang lời Kinh Hòa Bình, biến nó trở thành lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức để sống chứng tá của mầu nhiệm tự hủy, sống chứng tá của tình yêu thương xót.
Thứ Bảy Tuần Thánh, Đấng là Ngôi Lời làm người đã ngủ yên trong mồ. Chiêm ngắm hình ảnh Đấng Cứu Chuộc chôn vùi xác thân, chúng ta nghe rõ mồn một lời bài ca về sự tự hủy. Chúa Kitô, vì vâng lệnh Chúa Cha, vì phần rỗi đời đời của chúng ta, đã tự hủy chính mình nên nguồn sống cho chúng ta.
Cùng đọc lại bài ca về sự tự hủy mình của Ngôi Lời trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, một lần nữa, ta hãy chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm tự hủy chính mình của Chúa Giêsu Kitô.
Bài ca như sau:
“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ;
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
Đức Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Tự hủy nói lên lòng thương xót. Lòng thương xót đã đưa Thiên Chúa đi đến một quyết định chưa từng thấy: Hiến trao Con Một mình cho nhân loại. Mà khi hiến trao Người con, có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận hủy mình nơi Người Con.
Còn Chúa Giêsu, cùng một lòng thương xót như Chúa Cha, với quyết định thi hành ý Chúa Cha, đã hiến trao chính mình. Người bước vào mầu nhiệm tự hủy là bước vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu độ của loài người.
1. Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa từ muôn đời (Pl 2, 6).
Vì lòng xót thương nhân loại hết sức lớn lao, dù từ đời đời, Ngôi Hai đã là Thiên Chúa và vẫn là Thiên Chúa, Người quyết định từ khước địa vị cao cả ấy, chấp nhận hòa mình với thụ tạo.
Qua hành động nhập thể, Con Thiên Chúa đã trút bỏ mọi uy quyền, mang lấy xác phàm như chúng ta. Ngôi Lời nhập thể đã tự hiến “cái tôi” uy quyền của một vì Thiên Chúa để mặc lấy “cái tôi” hèn hạ tột cùng của kiếp người.
Không những thế, Người còn hạ mình tới tận cùng của kiếp nô lệ, để “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết” đớn đau, ô nhục như một tử tội.
Nhưng hành động tự hạ đến mức kỳ diệu cũng là hành động khó hiểu đối với suy luận của loài người. Dù là huyền nhiệm không thể lý giải, chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm thật mạnh mẽ tình yêu thương xót của Chúa Kitô, một tình yêu thương xót chỉ có thể có được từ trái tim của Đấng Thiên Chúa làm người.
Dù suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn biểu tỏ lòng thương xót của Người qua công trình sáng tạo, qua lịch sử dân Itrael, qua những chương trình, qua nhiều lời giáo huấn…, nhưng tất cả đều chưa rõ nét. Ví thế, con người ít nhiều khó hình dung về Thiên Chúa.
Giờ đây, với sáng kiến độc đáo, Thiên Chúa sai Con của Người tự hủy mình đến “cắm lều” giữa loài người, đồng cam cộng khổ với kiếp người... Bằng cách ấy, Thiên Chúa tỏ bày một trái tim chứa chan lòng xót thương thật cụ thể, thật gần gũi, thật nồng ấm. Từ đó, loài người tự nhận biết, trong tình yêu thương xót vô cùng của Thiên Chúa, họ quan trọng biết chừng nào.
2. Chiêm ngắm thân phận “nô lệ” của Chúa Giêsu (Pl 2, 7).
Thân phận nô lệ, hiện thân của sự thất bại thảm hại mà Ađam đã gieo rắc cho mình và cho muôn thế hệ, lại được Con Thiên Chúa chọn như một phương cách cần thiết cho sự cứu độ. Vì thế, nơi Chúa đối lập hoàn toàn với Ađam:
- Bởi trong khi Ađam chỉ là loài được tạo dựng lại muốn vươn lên chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mình. Còn Chúa Giêsu Kitô, Đấng là chính Thiên Chúa, thì lại hóa thân trong kiếp phàm nhân.
- Trong khi Ađam phải là kẻ hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa, thì chính sự bất tuân phục của ông mở lối cho tội lỗi và sự chết xâm nhập trần thế.
Còn Chúa Giêsu Kitô, nhờ tình yêu thương xót lớn lao, Người đã tự hạ và lựa chọn hủy mình mang kiếp nô lệ. Nhờ đó, Người chạm tới cùng đích của thân phận thụ tạo.
Không chỉ thế, “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8). Tình yêu thương xót của Chúa Kitô, đã trao cho nhân loại ơn giải thoát, đưa họ tiến về sự sống, đạt tới đỉnh cao của ơn được làm con Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu.
- Trong khi Ađam tìm cách vượt thoát Thiên Chúa, cũng có nghĩa là tự tách mình khỏi ảnh hưởng và khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thì Chúa Kitô lại đến trú ngụ giữa trần thế, hòng tuôn đổ tình yêu cho thế giới, đưa con người về lại trong tầm ảnh hưởng của Thiên Chúa.
- Ađam đang sống trong sự sống của Thiên Chúa, nhưng dại dột để cái chết chiếm lấy mình, thì Chúa Kitô lại bước vào cái chết, dùng sự chết của mình hủy diệt cái chết của con người, đưa con người về lại sự sống của Thiên Chúa
Bởi những gì vừa trình bày, ta có thể gói gọn cuộc đời làm người của Chúa Giêsu Kitô trong hai tiếng “vâng phục”: Người đã vâng phục Chúa Cha. Nhờ vâng phục, Chúa Giêsu trở thành nguyên nhân ơn cứu độ của cả loài người.
Như vậy, Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý của Cha bằng một đường lối khiêm nhường và phục vụ thay vì thống trị bằng quyền lực (x.Lc 4, 1-13). Điều này cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự yếu đuối của xác phàm, sự yếu đuối đã từng đốn ngã một cách thảm bại đối với Ađam.
3. Chúa Giêsu được Chúa Cha tôn vinh (Pl 9-11).
Chúng ta nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu qua sự "hạ cố" chính mình của việc Ngôi Lời tự hủy. Nhưng chúng ta cũng sẽ nhận thấy lòng thương xót ấy vẫn tiếp tục tuôn tràn dồi dào trên nhân loại ở sự vinh thăng, khi Chúa Cha tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, Con của Người.
“Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”. Dù trong xã hội Dothái, tên “Giêsu” là tên gọi khá phổ biến. Đó cũng là lý do mà Tin Mừng cho biết, đám đông thường gọi Chúa Giêsu là “Ông Giêsu thành Nazareth” để phân biệt với "các Giêsu" khác.
- Nhưng nơi Chúa Giêsu, danh “Giêsu” không chỉ là danh của một con người, mà danh ấy đồng nhất với danh của Đức Chúa vì chính Người là Thiên Chúa, để mỗi khi ta gọi danh Chúa Giêsu, lập tức, ta biết mình gọi Đấng mà mình phải tôn thờ. Người là chính Thiên Chúa và là chính con người. Thiên Chúa và con người ấy chỉ là một, trong một thánh danh duy nhất: GIÊSU.
Ngay tên gọi “Giêsu”, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”, lòng thương xót đã được thể hiện. Bởi mỗi lần gọi tên Chúa Giêsu, ta biết thật, Người chính là Đấng cứu độ của Thiên Chúa. Bằng mọi giá, Người sẵn sàng hủy mình để cứu độ ta.
Gọi tên Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của lòng thương xót, chúng ta biết rằng, Người là một con người, hoàn toàn mang bản tính người, có một tên gọi như bất kỳ ai, sống thân phận loài người không hề khác người, để chia sẻ phận người với ta, đồng cam cộng khổ cùng ta nơi trần thế.
Lòng thương xót đã trao ban cho trần thế một con người Giêsu là chính Thiên Chúa làm người, để ở giữa thế giới loài người có Thiên Chúa, và để ở tận cung lòng của Thiên Chúa có con người.
- Khi tuyên xưng “Giêsu” là danh hiệu “trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”, chúng ta đồng tuyên xưng đó là danh vượt không gian, vượt thời gian, danh có quyền tối thượng trên hoàn vũ, trên muôn loài hữu hình, vô hình.
Danh Chúa Giêsu oai phong đến nỗi, mọi quyền lực, dù tốt lành hay tội lỗi, dù ngang bướng hay vâng phục đều phải thờ lạy, suy tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ”.
Dựa vào lời xưng tụng ấy, mỗi khi tuyên xưng vương quyền Chúa Giêsu, chúng ta ca tụng: “Khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, cả bầu trời bừng sáng, cả tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run” (lời bài hát Chúa là Vua).
Lại một lần nữa, ta thấy lòng thương xót trao ban cho thế giới, không chỉ danh Chúa Giêsu, mà còn trao uy quyền lớn lao của danh ấy, để từ nay, mỗi lúc rơi vào cám dỗ, chạm phải những thách thức của linh hồn, rơi vào những tăm tối của đời sống, những bế tắc vây bũa, ta đều nại đến danh Chúa Giêsu.
Có quyền lực trên tội lỗi và ma quỷ, Chúa Giêsu tha thứ cho ta. Là ánh sáng soi trần thế như Chúa đã từng khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian”, Chúa sẽ mở lối bình an để ta tiến về phía Người. Là chính ơn phục sinh của trần thế, Chúa tháp nhập đời ta vào thập giá của Người, để ta cùng chết và cùng vinh hiển phục sinh với Người.
- Chúa Giêsu cũng được gọi là Đức Chúa như Chúa Cha. Danh của Người cao trọng tột bậc, vì mỗi lần ta tuyên xưng, sẽ là mỗi lần ta tôn vinh Chúa Cha: “Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Kitô là Chúa”.
Danh hiệu Giêsu được siêu tôn để trở thành quyền năng của sự cầu nguyện: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14, 13-14).
Chính vì tin vào danh Chúa Giêsu, khi cử hành phụng vụ và cử hành các giờ cầu nguyện nói chung, Hội Thánh đều nại vào danh ấy. Hội Thánh luôn kết thúc mọi lời nguyện bằng câu: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa trao cho ta thánh danh “Giêsu” để ta biết sử dụng mà liên lỉ cầu nguyện, mà sống với danh ấy, để Thiên Chúa luôn trong ta, ở cùng ta.
Nếu Chúa Giêsu là chính “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì danh thánh Giêsu minh chứng, Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn song hành cùng ta trong từng giây phút của cuộc đời.
Lòng thương xót trao ban thánh danh Giêsu luôn thúc giục ta hãy kêu cầu danh Chúa Giêsu, hãy nại vào danh Chúa Giêsu mà kêu cầu. Hiệu lực của lời cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu là một hiện thực quý báu mà mỗi chúng ta, nếu không chểnh mảng việc cầu nguyện, đều trải nghiệm và kinh nghiệm.
- Còn thánh Phêrô thì khẳng định, ngoại trừ thánh danh Chúa Giêsu, “dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh nào đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Thánh danh Chúa Giêsu cũng chính là trung tâm của sứ điệp mà các tông đồ, các vị truyền giáo, cả Hội Thánh loan báo cho thế giới qua mọi thế hệ.
Lòng thương xót của Thiên Chúa trao ban thánh danh Chúa Giêsu còn như phương tiện để Thiên Chúa cứu độ mọi người. Công tác truyền giáo của Hội Thánh nhấn mạnh hết sức ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến cho trần thế.
Vì thế, Hội Thánh truyền giáo là Hội Thánh giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, mọi người phải được cứu độ, Hội Thánh mời gọi hãy tuyên xưng danh Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của Thiên Chúa mà cả loài người đều có quyền tận hưởng.
4. Kết luận.
Ta có thể diễn tả cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể bằng đồ thị hình parabol mà chiều xuống là sự tự hủy của Người, đáy là kiếp phàm nhân mà Người đảm nhận và chiều lên là việc Thiên Chúa Cha siêu tôn người con của mình.
Thứ bảy tuần Thánh, khi Chúa Giêsu ngủ yên trong mồ, ta thấy nơi đó là tất cả tình yêu tự hạ vì xót thương mà Thiên Chúa không bao giờ tiếc để ban phát cho ta.
Phận là phận Thiên Chúa, nhưng nay lại có thể ngủ yên trong mồ. Chỉ có thể là lòng thương xót xuất phát từ chính Thiên Chúa mới diệu kỳ đến vậy.
Tự hủy và hạ mình vì xót thương, Đấng là Thiên Chúa làm người ngủ yên trong mồ, dạy nhân loại này, thế giới này và từng con người không được bỏ qua bất cứ hoàn cảnh nào đòi hỏi họ phải dấn thân, phải ném mình trong hy sinh và phục vụ.
Bởi khi trình bày mầu nhiệm tự hủy của Con Thiên Chúa, tác giả thư Philipphê như muốn mọi người hãy học, hãy bắt chước mẫu gương tự hủy của Người mà sống cho nhau, sống vì nhau, sống trong lòng yêu mến mà Người hằng dạy và nêu gương.
Nếu tự hủy lừ hành động khởi đi từ lòng thương xót, thì bất cứ ai, luôn biết ý thức theo gương Chúa Giêsu để sống mầu nhiệm tự hủy, người đó cũng cho thấy mình đang nỗ lực sống lòng thương xót của Chúa.
Được gọi là con Thiên Chúa, rõ ràng chúng ta đang sống trong ơn gọi làm con trong tương quan với Người Con Một của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, chúng ta đã sống, đang sống, và còn tiếp tục hướng tới mầu nhiệm tự hủy của chính Chúa Giêsu, để biểu lộ lòng thương xót như Chúa Giêsu nơi chính ơn gọi của chúng ta.
Bởi đang sống chính mầu nhiệm tự hủy, chúng ta cần nghiêm túc tra xét chính mình, để đừng chểnh mảng trong ơn gọi, đừng lơ đãng hay biếng nhát bổn phận của người thuộc về Thiên Chúa, người có nhiệm vụ phản ánh thực chất đời sống của Chúa Giêsu cho thế giới.
Sống ơn gọi làm con, chúng ta là họa ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi thế gian. Không ai cho phép họa ảnh lại có thể khác chủ thể. Họa ảnh mà khác chủ thể, sẽ không là họa ảnh của chủ thể ấy. Họa ảnh mà khác chủ thể, nó chỉ là dị ảnh, là lệch chuẩn, la sản phẩm sai lầm. Mà đã dị, đã lệch, đã sai, chắc chắn sẽ xấu, sẽ chỉ là một thứ tầm thường, có khi cần phải vứt bỏ.
Chính Chúa Giêsu đã từng lên tiếng chỉ trích lối sống mang danh Kitô hữu mà không sống thực chất Kitô hữu. Người gọi đó là những kẻ giả hình. Người nói nặng: “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23, 27-28).
Lối sống giả hình không bao giờ có lợi cho ai, có khi còn rất nguy hiểm, vì nó che đậy biết bao nhiêu sự xấu, sự dữ. Nếu sự dữ, sự xấu mà được che đậy, được ấp ủ thì nguy hiểm vô cùng. Bởi sẽ có lúc nó bùng phát.
Thà đừng là Kitô hữu, còn hơn là Kitô hữu mà chẳng bao giờ biết hy sinh, chẳng bao giời ý thức mầu nhiệm tự hủy để trao ban chính mình như tặng phẩm của tình yêu gởi đến anh chị em quanh mình.
Có một lời kinh đơn sơ, nhưng sâu sắc, vẫn sống cùng Hội Thánh, “Kinh Hòa Bình”. Lời kinh mà bất cứ ai nghiền ngẫm và sống đúng như vậy, không chỉ trở nên tặng phẩm tuyệt vời cho trần gian, nhưng còn mang lại niềm bình an, nỗi hạnh phúc lớn lao cho chính người dâng tặng: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người....”.
Thứ Bảy Tuần Thánh, chiêm ngắm mầu nhiệm tự hủy vì lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy ca vang lời Kinh Hòa Bình, biến nó trở thành lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức để sống chứng tá của mầu nhiệm tự hủy, sống chứng tá của tình yêu thương xót.
Niềm vui và đức tin Phục Sinh
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
01:08 28/03/2018
Phục Sinh 2018
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín: Chúa đã sống lại (x.Ga 20,1-31).
Với tôi, Tin Mừng theo thánh Gioan như một nhân chứng vừa sung sướng, vừa hãnh diện thuật lại những gì mắt thấy tai nghe.
Bằng ngòi bút sâu sắc trong suy niệm; thâm tín trong diễn tả; quả quyết trong lời kể; say sưa trong chiêm ngắm; tràn ngập hạnh phúc, niềm vui, lòng mến nơi tâm hồn, thánh Gioan tường thuật hành trình chạm tới ơn phục sinh và chạm tới Đấng Phục Sinh mà các môn đệ, cụ thể là ba con người: Maria Macđala, Phêrô, Gioan đã trải qua để tiến đến đức tin mạnh mẽ rằng: “Chúa đã Phục Sinh”.
Bằng chính niềm vui và đức tin phục sinh, thánh Gioan quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 3-9).
I. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH SỚM LAN TRÀN.
Chúa đã phục sinh. Không phải chỉ một mình thánh Gioan sung sướng ghi lại biến cố phục sinh của Chúa, và sung sướng ngỏ với mọi người về chính đức tin của mình: “Ông đã thấy và đã tin”, mà chẳng lâu sau đó, thánh Phêrô cũng đã tin, các tông đồ đã tin, đoàn môn đệ đã tin, và cả Hội Thánh đã tin.
Niềm vui và đức tin phục sinh đã lan tràn. Niềm vui và đức tin phục sinh đi vào và đang lớn lên trong cõi lòng từng người chúng ta. Niềm vui và đức tin phục sinh luôn là tất cả hy vọng của Hội Thánh.
Ngày nay Hội Thánh vẫn mang lấy chính tâm tư vui mừng khôn xiết của thánh Gioan, để không chỉ tin, mà còn hãnh diện đem “khoe” cùng cả loài người, cùng toàn thể vũ trụ, cùng mọi thụ tạo để loan báo, để truyền giảng không mệt mỏi về niềm vui và đức tin: Chúa của mình đã phục sinh. Người vẫn tồn tại. Đến muôn đời, Người sẽ tồn tại. Người là Chúa. Bất cứ ai thuộc về Người, cũng sẽ phục sinh cùng Người.
Bởi thâm tín mạnh về niềm vui và đức tin Phục Sinh, dẫu là thánh Phêrô hay các tông đồ, dẫu là đoàn môn đệ của Chúa hay toàn Hội Thánh, đã không để bất cứ điều gì khuất phục mình – nhưng đạp trên tất cả sự dữ, dù là cái chết, gông cùm, tù tội, bị thú dữ nghiền nát, bị hành hạ dã man, bị lên án khốc liệt, bị phân biệt đối xử…, vẫn không làm lung lay lời rao giảng và lòng xác tín: Chúa đã phục sinh – để đêm ngày, qua muôn muôn lớp lớp lịch sử, vẫn hiên ngang sống, hiên ngang chết cho niềm thâm tín vào Một Đấng Phục Sinh Duy Nhất là Chúa muôn loài, cữu rỗi muôn loài.
II. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH: SỰ CHIẾN THẮNG.
Niềm vui và đức tin phục sinh mà Hội Thánh xác tín nơi Chúa Kitô, không đơn giản chỉ là hồi sinh trở về đời sống trần thế như đã từng sống. Sẽ không bao giờ giống cuộc trở về sau cái chết của con trai bà góa thành Naim (Lc 7, 11-17), con gái ông Giairô (Lc 8, 40-56), hay Lazarô ở làng Bêtania (Ga 11,1-45). Bởi tất cả họ, dù đã từng được Chúa cho hồi sinh, đều cũng lại trở về bụi đất như tất cả mọi người.
Chúa Kitô phục sinh, Người không phục hồi sự sống như đã từng sống nơi dương thế, nhưng là tiến về sự sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là sự sống thuộc linh, một sự sống không hao mòn, không bị thời gian khống chế, không tàn phai, không kết thúc.
Về mặt nhân trần, Chúa đã chết thật. Chúa là người như mỗi chúng ta là người. Chúa đã chết như bao nhiêu con người đã chết.
Nhưng Chúa đã phục sinh. Từ nay Chúa mặc lấy sự sống sung mãn đến nỗi sự chết không còn quyền gì ảnh hưởng tới Chúa. Chúa chúng ta cũng không còn bị bất cứ định luật tự nhiên nào có thể chi phối. Không còn có bất cứ mãnh lực nào, dù tự nhiên hay siêu nhiên, hữu hình hay vô hình, có thể bị hủy hoại hay bất hoại… có khả năng chi phối sự sống phục sinh của Chúa.
Chúa Kitô là Đấng duy nhất trong nhân loại đã chiến thắng sự chết. Từ nay, Chúa đi vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống đã khải hoàn chiến thắng của Chúa đã trào tràn, tuôn đổ trên mỗi chúng ta.
Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và là sự sống lại của chúng ta. Người cho chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Người, như chính Người đã từng phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).
Còn chúng ta, nhờ ơn phục sinh của Chúa, chúng ta cũng trở thành bất diệt sau cái chết trần thế của mình.
Là chứng nhân của Ðấng Phục Sinh đầy tràn sự hãnh diện, ôm ấp niềm vui, và tha thiết sống chết cho đức tin, các tông đồ, các môn đệ, và cả Hội Thánh của Chúa, ra đi khắp thế giới, loan tin mừng Phục Sinh. Tất cả cùng khẳng định: Ai tin nhận Chúa Kitô, tuyên xưng Người là Chúa và sống theo giáo huấn của Người, kẻ đó sẽ được Phục Sinh như Người.
III. CHÚNG TA SỐNG NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH.
Chúng ta, từng cá nhân, hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị của mình: Chúa đã phục sinh.
Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.
Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.
Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp ta vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống mình. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.
Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.
Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn. Đó là cách duy nhất để ta sống niềm vui và đức tin phục sinh.
Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.
Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.
Khi chiến đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Người tham dự vào niềm vui và đức tin phục sinh, luôn luôn dược đòi hỏi phải chiến đấu với kẻ thù của linh hồn mình. Vì thế, hãy chiến đấu để đi tới chiến thắng. Chỉ có chấp nhận chiến đấu để vươn tới chiến thắng, ta mới thực là người mang lấy và sống niềm vui và đức tin phục sinh.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ba thù, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào mọi góc tối tăm của linh hồn chúng con, để chúng con trung thành sống chết cho đức tin. Xin đừng để chúng con rơi vào hoàn cảnh bi thảm mà các lãnh đạo Do thái giáo xưa đã từng thực hiện, đó là một mặt tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng mặt khác, do đời sống bê bối của chúng con, chúng con lại đang ra sức chối từ Chúa, ra sức đẩy xa ảnh hưởng của niềm tin phục sinh ra khỏi cuộc đời mình. Amen.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín: Chúa đã sống lại (x.Ga 20,1-31).
Với tôi, Tin Mừng theo thánh Gioan như một nhân chứng vừa sung sướng, vừa hãnh diện thuật lại những gì mắt thấy tai nghe.
Bằng ngòi bút sâu sắc trong suy niệm; thâm tín trong diễn tả; quả quyết trong lời kể; say sưa trong chiêm ngắm; tràn ngập hạnh phúc, niềm vui, lòng mến nơi tâm hồn, thánh Gioan tường thuật hành trình chạm tới ơn phục sinh và chạm tới Đấng Phục Sinh mà các môn đệ, cụ thể là ba con người: Maria Macđala, Phêrô, Gioan đã trải qua để tiến đến đức tin mạnh mẽ rằng: “Chúa đã Phục Sinh”.
Bằng chính niềm vui và đức tin phục sinh, thánh Gioan quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 3-9).
I. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH SỚM LAN TRÀN.
Chúa đã phục sinh. Không phải chỉ một mình thánh Gioan sung sướng ghi lại biến cố phục sinh của Chúa, và sung sướng ngỏ với mọi người về chính đức tin của mình: “Ông đã thấy và đã tin”, mà chẳng lâu sau đó, thánh Phêrô cũng đã tin, các tông đồ đã tin, đoàn môn đệ đã tin, và cả Hội Thánh đã tin.
Niềm vui và đức tin phục sinh đã lan tràn. Niềm vui và đức tin phục sinh đi vào và đang lớn lên trong cõi lòng từng người chúng ta. Niềm vui và đức tin phục sinh luôn là tất cả hy vọng của Hội Thánh.
Ngày nay Hội Thánh vẫn mang lấy chính tâm tư vui mừng khôn xiết của thánh Gioan, để không chỉ tin, mà còn hãnh diện đem “khoe” cùng cả loài người, cùng toàn thể vũ trụ, cùng mọi thụ tạo để loan báo, để truyền giảng không mệt mỏi về niềm vui và đức tin: Chúa của mình đã phục sinh. Người vẫn tồn tại. Đến muôn đời, Người sẽ tồn tại. Người là Chúa. Bất cứ ai thuộc về Người, cũng sẽ phục sinh cùng Người.
Bởi thâm tín mạnh về niềm vui và đức tin Phục Sinh, dẫu là thánh Phêrô hay các tông đồ, dẫu là đoàn môn đệ của Chúa hay toàn Hội Thánh, đã không để bất cứ điều gì khuất phục mình – nhưng đạp trên tất cả sự dữ, dù là cái chết, gông cùm, tù tội, bị thú dữ nghiền nát, bị hành hạ dã man, bị lên án khốc liệt, bị phân biệt đối xử…, vẫn không làm lung lay lời rao giảng và lòng xác tín: Chúa đã phục sinh – để đêm ngày, qua muôn muôn lớp lớp lịch sử, vẫn hiên ngang sống, hiên ngang chết cho niềm thâm tín vào Một Đấng Phục Sinh Duy Nhất là Chúa muôn loài, cữu rỗi muôn loài.
II. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH: SỰ CHIẾN THẮNG.
Niềm vui và đức tin phục sinh mà Hội Thánh xác tín nơi Chúa Kitô, không đơn giản chỉ là hồi sinh trở về đời sống trần thế như đã từng sống. Sẽ không bao giờ giống cuộc trở về sau cái chết của con trai bà góa thành Naim (Lc 7, 11-17), con gái ông Giairô (Lc 8, 40-56), hay Lazarô ở làng Bêtania (Ga 11,1-45). Bởi tất cả họ, dù đã từng được Chúa cho hồi sinh, đều cũng lại trở về bụi đất như tất cả mọi người.
Chúa Kitô phục sinh, Người không phục hồi sự sống như đã từng sống nơi dương thế, nhưng là tiến về sự sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là sự sống thuộc linh, một sự sống không hao mòn, không bị thời gian khống chế, không tàn phai, không kết thúc.
Về mặt nhân trần, Chúa đã chết thật. Chúa là người như mỗi chúng ta là người. Chúa đã chết như bao nhiêu con người đã chết.
Nhưng Chúa đã phục sinh. Từ nay Chúa mặc lấy sự sống sung mãn đến nỗi sự chết không còn quyền gì ảnh hưởng tới Chúa. Chúa chúng ta cũng không còn bị bất cứ định luật tự nhiên nào có thể chi phối. Không còn có bất cứ mãnh lực nào, dù tự nhiên hay siêu nhiên, hữu hình hay vô hình, có thể bị hủy hoại hay bất hoại… có khả năng chi phối sự sống phục sinh của Chúa.
Chúa Kitô là Đấng duy nhất trong nhân loại đã chiến thắng sự chết. Từ nay, Chúa đi vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống đã khải hoàn chiến thắng của Chúa đã trào tràn, tuôn đổ trên mỗi chúng ta.
Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và là sự sống lại của chúng ta. Người cho chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Người, như chính Người đã từng phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).
Còn chúng ta, nhờ ơn phục sinh của Chúa, chúng ta cũng trở thành bất diệt sau cái chết trần thế của mình.
Là chứng nhân của Ðấng Phục Sinh đầy tràn sự hãnh diện, ôm ấp niềm vui, và tha thiết sống chết cho đức tin, các tông đồ, các môn đệ, và cả Hội Thánh của Chúa, ra đi khắp thế giới, loan tin mừng Phục Sinh. Tất cả cùng khẳng định: Ai tin nhận Chúa Kitô, tuyên xưng Người là Chúa và sống theo giáo huấn của Người, kẻ đó sẽ được Phục Sinh như Người.
III. CHÚNG TA SỐNG NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH.
Chúng ta, từng cá nhân, hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị của mình: Chúa đã phục sinh.
Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.
Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.
Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp ta vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống mình. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.
Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.
Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn. Đó là cách duy nhất để ta sống niềm vui và đức tin phục sinh.
Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.
Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.
Khi chiến đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Người tham dự vào niềm vui và đức tin phục sinh, luôn luôn dược đòi hỏi phải chiến đấu với kẻ thù của linh hồn mình. Vì thế, hãy chiến đấu để đi tới chiến thắng. Chỉ có chấp nhận chiến đấu để vươn tới chiến thắng, ta mới thực là người mang lấy và sống niềm vui và đức tin phục sinh.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ba thù, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào mọi góc tối tăm của linh hồn chúng con, để chúng con trung thành sống chết cho đức tin. Xin đừng để chúng con rơi vào hoàn cảnh bi thảm mà các lãnh đạo Do thái giáo xưa đã từng thực hiện, đó là một mặt tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng mặt khác, do đời sống bê bối của chúng con, chúng con lại đang ra sức chối từ Chúa, ra sức đẩy xa ảnh hưởng của niềm tin phục sinh ra khỏi cuộc đời mình. Amen.
Thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh 29/3/2018 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
03:54 28/03/2018
Bài Ðọc I: Xh 12, 1-8. 11-14
"Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: "Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô .
Xướng: Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
Xướng: Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.
Xướng: Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26
"Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Chúa phán: "Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con".
PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
"Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: "Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô .
Xướng: Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
Xướng: Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.
Xướng: Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26
"Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Chúa phán: "Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con".
PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Để cử hành Tuần Thánh ý nghĩa
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
06:19 28/03/2018
Để cử hành Tuần Thánh ý nghĩa
Chúng ta đang sống trong Tuần Thánh, cao điểm của năm phụng vụ Kitô giáo. Trong tuần đặc biệt này, Giáo Hội tưởng nhớ và cử hành mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã vâng lời Chúa Cha, chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người.
Khi nói về tính lịch sử, có nhiều người cho rằng những biến cố này không có tính lịch sử, chỉ do sự thêu dệt huyền thoại của các tông đồ và Giáo Hội sơ khai. Trong giới chuyên môn, đại diện cho những người phủ nhận tính lịch sử của Tin Mừng là Rudolf Bultmann (1884-1976), một nhà thần học Tinh Lành người Đức. Ông cho rằng chúng ta không biết gì về Đức Giêsu lịch sử, mà chỉ biết một Đức Giêsu của niềm tin do các Tông Đồ truyền lại. Giữa Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu niềm tin có một bức tường. Các trình thuật về con người Đức Giêsu đã được các môn đệ của Ngài huyền thoại hóa và thêu dệt nên. Đức Giêsu chỉ sống lại ở trong Keryma của Giáo Hội v.v…
Tư tưởng này nó đã được phổ biến cả trong lĩnh vực văn chương và phim ảnh. Cách đây mươi năm, bộ phim “The De Vinci Code” được dàn dựng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mỹ Mel Gifson. Cuốn tiểu thuyết này hư cấu một lịch sử của Đức Giêsu hoàn toàn khác với Tin Mừng và cho rằng đây mới là câu chuyện thật về Chúa Giêsu và Giáo Hội. Còn những gì được Giáo Hội dạy từ xưa tới nay là bịa đặt, thêu dệt, không có tính sử đáng tin cậy.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã trả lời cho những vấn nạn và chống lại những trào lưu này qua cuốn sách Đức Giêsu thành Nadarét. Trong đó, ngài minh chứng rằng các Tin Mừng kể lại cuộc đời và sứ vụ, đặc biệt cuộc tử nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu là những biến cố có thật đã xảy ra trong lịch sử nhân loại, chứ không phải do con người tưởng tượng và là huyền thoại.
Chúng ta cũng có thể quy chiếu vào chứng tá của các sử gia ngoại giáo cổ xưa để tìm thấy những chứng cớ đáng tin cậy về điểm này. Chẳng hạn sử gia Giuse Flavius cho rằng vào khoảng năm 27 SCN, có một người tên là Giêsu ở Nadarét bị giết chết ở ngoài thành Giêrusalem.
Chỉ cần dựa vào những chứng tá này cũng đủ để chúng ta khẳng định rằng: Các sự kiện của Chúa Kitô mà Giáo Hội cử hành là những biến cố có thật, biến cố lịch sử đã xảy ra. Các sách Tin Mừng ghi chép lại để giúp chúng ta tin vào Chúa Giêsu. Thánh Gioan kết thúc Tin Mừng của Ngài bằng việc nói rằng: Những gì được viết ra để cho anh em tin và được cứu độ.
Tuy nhiên, với tư cách là người Kitô hữu, khi cử hành các biến cố Tuần Thánh, chúng ta chỉ dừng lại ở những biến cố thuần túy lịch sử, nghĩa là chỉ tưởng nhớ lại những biến cố đó thôi, hay chỉ kỷ niệm như kỷ niệm biến cố chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, hay biến cố ngày lập quốc.
Về điểm này, thánh Augustinô có một sự phân biệt rất ý nghĩa giữa việc kỷ niệm và cử hành một biến cố khiến chúng ta cần phải quan tâm. Ngài nói: “Theo cách thức kỷ niệm một biến cố, chúng ta không làm gì khác hơn là dành một ngày trong năm để tưởng nhớ và long trọng cử hành chính biến cố đó. Theo cách thức cử hành mầu nhiệm, chúng ta không chỉ tưởng nhớ một biến cố, nhưng còn cử hành theo cách thức mà chúng ta hiểu ý nghĩa của nó vì chúng ta và biến cố đó làm cho chúng ta trở nên thánh thiện” (CSEL 34,1,170).
Thánh Lêô Cả làm sáng tỏ hơn ý nghĩa này khi cử hành các biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô: “Những người con cái của Giáo Hội đã được sinh ra với Chúa Kitô trong sự sinh ra của Người, cũng như họ đã chịu đóng đinh với Người trong cuộc khổ nạn của Người, và được phục sinh với Người trong sự phục sinh của Người” (PL 54,213)
Theo ý nghĩa đó, biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô mà chúng ta cử hành trong Tuần Thánh có sự liên hệ hiện sinh với mỗi người chúng ta và khi cử hành những biến cố này chúng ta được tham dự vào trong chính các biến cố đó.
Một mặt, vì Chúa Giêsu chịu đau khổ, chết và phục sinh để cứu độ mỗi người chúng ta. Nên nhờ việc cử hành này, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần tác động, Chúa Giêsu tiếp tục đổ máu ra trên bàn thờ để sinh ơn cứu độ cho chúng ta và cho toàn thế giới. Như thế, mầu nhiệm thập giá được hiện tại hóa trong sự cử hành của Giáo Hội.
Mặt khác, khi suy ngắm về những thái độ của con người gây nên vụ án Chúa Giêsu: như một Giuđa phản bội, ham tiền và sống hai mặt, một Phêrô bồng bột yếu đuối chối thầy ba lần, một dám đông lòng dạ hay thay đổi, một nhóm Biệt Phái và Luật Sỹ mưu mô lật lọng, một Philatô vô trách nhiệm, bạc nhược trước áp lực đám đông… Khi soi thấy mình trong những nhân vật này, chúng ta thấy mình nơi họ và rồi chúng ta được mời gọi biết hoán cải, trở về với Tin Mừng, sống thánh thiện và biết yêu mến Chúa hơn.
Ước gì qua việc cử hành phụng vụ trong Tuần Thánh này mang lại cho chúng ta một sự biến đổi tận căn khi ý thức về trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa, đồng thời cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa, Đấng đã chết và phục sinh để cứu độ chúng ta.
Chúng ta đang sống trong Tuần Thánh, cao điểm của năm phụng vụ Kitô giáo. Trong tuần đặc biệt này, Giáo Hội tưởng nhớ và cử hành mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã vâng lời Chúa Cha, chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người.
Khi nói về tính lịch sử, có nhiều người cho rằng những biến cố này không có tính lịch sử, chỉ do sự thêu dệt huyền thoại của các tông đồ và Giáo Hội sơ khai. Trong giới chuyên môn, đại diện cho những người phủ nhận tính lịch sử của Tin Mừng là Rudolf Bultmann (1884-1976), một nhà thần học Tinh Lành người Đức. Ông cho rằng chúng ta không biết gì về Đức Giêsu lịch sử, mà chỉ biết một Đức Giêsu của niềm tin do các Tông Đồ truyền lại. Giữa Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu niềm tin có một bức tường. Các trình thuật về con người Đức Giêsu đã được các môn đệ của Ngài huyền thoại hóa và thêu dệt nên. Đức Giêsu chỉ sống lại ở trong Keryma của Giáo Hội v.v…
Tư tưởng này nó đã được phổ biến cả trong lĩnh vực văn chương và phim ảnh. Cách đây mươi năm, bộ phim “The De Vinci Code” được dàn dựng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mỹ Mel Gifson. Cuốn tiểu thuyết này hư cấu một lịch sử của Đức Giêsu hoàn toàn khác với Tin Mừng và cho rằng đây mới là câu chuyện thật về Chúa Giêsu và Giáo Hội. Còn những gì được Giáo Hội dạy từ xưa tới nay là bịa đặt, thêu dệt, không có tính sử đáng tin cậy.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã trả lời cho những vấn nạn và chống lại những trào lưu này qua cuốn sách Đức Giêsu thành Nadarét. Trong đó, ngài minh chứng rằng các Tin Mừng kể lại cuộc đời và sứ vụ, đặc biệt cuộc tử nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu là những biến cố có thật đã xảy ra trong lịch sử nhân loại, chứ không phải do con người tưởng tượng và là huyền thoại.
Chúng ta cũng có thể quy chiếu vào chứng tá của các sử gia ngoại giáo cổ xưa để tìm thấy những chứng cớ đáng tin cậy về điểm này. Chẳng hạn sử gia Giuse Flavius cho rằng vào khoảng năm 27 SCN, có một người tên là Giêsu ở Nadarét bị giết chết ở ngoài thành Giêrusalem.
Chỉ cần dựa vào những chứng tá này cũng đủ để chúng ta khẳng định rằng: Các sự kiện của Chúa Kitô mà Giáo Hội cử hành là những biến cố có thật, biến cố lịch sử đã xảy ra. Các sách Tin Mừng ghi chép lại để giúp chúng ta tin vào Chúa Giêsu. Thánh Gioan kết thúc Tin Mừng của Ngài bằng việc nói rằng: Những gì được viết ra để cho anh em tin và được cứu độ.
Tuy nhiên, với tư cách là người Kitô hữu, khi cử hành các biến cố Tuần Thánh, chúng ta chỉ dừng lại ở những biến cố thuần túy lịch sử, nghĩa là chỉ tưởng nhớ lại những biến cố đó thôi, hay chỉ kỷ niệm như kỷ niệm biến cố chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, hay biến cố ngày lập quốc.
Về điểm này, thánh Augustinô có một sự phân biệt rất ý nghĩa giữa việc kỷ niệm và cử hành một biến cố khiến chúng ta cần phải quan tâm. Ngài nói: “Theo cách thức kỷ niệm một biến cố, chúng ta không làm gì khác hơn là dành một ngày trong năm để tưởng nhớ và long trọng cử hành chính biến cố đó. Theo cách thức cử hành mầu nhiệm, chúng ta không chỉ tưởng nhớ một biến cố, nhưng còn cử hành theo cách thức mà chúng ta hiểu ý nghĩa của nó vì chúng ta và biến cố đó làm cho chúng ta trở nên thánh thiện” (CSEL 34,1,170).
Thánh Lêô Cả làm sáng tỏ hơn ý nghĩa này khi cử hành các biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô: “Những người con cái của Giáo Hội đã được sinh ra với Chúa Kitô trong sự sinh ra của Người, cũng như họ đã chịu đóng đinh với Người trong cuộc khổ nạn của Người, và được phục sinh với Người trong sự phục sinh của Người” (PL 54,213)
Theo ý nghĩa đó, biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô mà chúng ta cử hành trong Tuần Thánh có sự liên hệ hiện sinh với mỗi người chúng ta và khi cử hành những biến cố này chúng ta được tham dự vào trong chính các biến cố đó.
Một mặt, vì Chúa Giêsu chịu đau khổ, chết và phục sinh để cứu độ mỗi người chúng ta. Nên nhờ việc cử hành này, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần tác động, Chúa Giêsu tiếp tục đổ máu ra trên bàn thờ để sinh ơn cứu độ cho chúng ta và cho toàn thế giới. Như thế, mầu nhiệm thập giá được hiện tại hóa trong sự cử hành của Giáo Hội.
Mặt khác, khi suy ngắm về những thái độ của con người gây nên vụ án Chúa Giêsu: như một Giuđa phản bội, ham tiền và sống hai mặt, một Phêrô bồng bột yếu đuối chối thầy ba lần, một dám đông lòng dạ hay thay đổi, một nhóm Biệt Phái và Luật Sỹ mưu mô lật lọng, một Philatô vô trách nhiệm, bạc nhược trước áp lực đám đông… Khi soi thấy mình trong những nhân vật này, chúng ta thấy mình nơi họ và rồi chúng ta được mời gọi biết hoán cải, trở về với Tin Mừng, sống thánh thiện và biết yêu mến Chúa hơn.
Ước gì qua việc cử hành phụng vụ trong Tuần Thánh này mang lại cho chúng ta một sự biến đổi tận căn khi ý thức về trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa, đồng thời cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa, Đấng đã chết và phục sinh để cứu độ chúng ta.
Chúa đã sống lại thật rồi
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:03 28/03/2018
Đêm Vọng Phục Sinh
(Mc 16, 1-8)
“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.
Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn "mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu" (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.
Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thien thần nói với các bà : "Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người" (Mc 16, 6).
Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: "Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người ".
Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta : chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết ? Đâu là ý nghĩa của khổ đau ? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta : "Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước" (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng : "Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa" (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.
Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: "... (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết ", những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.
Phần chúng ta, "chạy ra khỏi mồ ..." (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày "Thứ Sáu Tuần Thánh" trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.
Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mừng vui lên
Đêm Vọng Phục Sinh
(Mc 16, 1-8)
Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới : “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng : “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”(Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố : “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao : “Chúa Kitô... Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Mc 16, 1-8)
“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.
Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn "mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu" (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.
Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thien thần nói với các bà : "Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người" (Mc 16, 6).
Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: "Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người ".
Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta : chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết ? Đâu là ý nghĩa của khổ đau ? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta : "Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước" (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng : "Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa" (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.
Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: "... (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết ", những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.
Phần chúng ta, "chạy ra khỏi mồ ..." (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày "Thứ Sáu Tuần Thánh" trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.
Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mừng vui lên
Đêm Vọng Phục Sinh
(Mc 16, 1-8)
Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới : “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng : “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”(Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố : “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao : “Chúa Kitô... Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thứ Năm Tuần Thánh : Hành Vi Kì Lạ
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
09:06 28/03/2018
Thứ Năm Tuần Thánh : Hành Vi Kì Lạ
Chương trình SV 96 (SV là Sinh Viên) là cuộc tranh tài giữa các trường Đại Học trên VTV. Nhiều mục để tranh, trong đó có một mục là “hành động kỳ lạ”. Kỳ lạ mang tính thách đố. Và phe đối phương phải giải thích hành động kỳ lạ đó.
Hôm nay trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng làm một hành vi kỳ lạ. Các môn đệ thắc mắc. Và rồi thầy Giêsu đã giải thích cho họ.
1. Hành vi kỳ lạ : Rửa chân
Rửa chân, không có gì lạ. Nhưng có 2 điều lạ ở hành động của Chúa Giêsu :
a) Trong khi ăn chứ không phải trước khi ăn. Trước khi ăn mà rửa cho sạch lên giường ăn thì cũng có lý. Bản Latinh còn nói mạnh là “sau khi ăn” nữa kìa (magna cena facta).
7 động tác của Thầy Giêsu được Gioan mô tả kỹ lưỡng: Đứng dậy – cởi áo – lấy khăn – thắt lưng - đổ nước vào chậu – rửa chân – lau sạch. Đang khi ăn mà làm như vậy sao không lạ, sao không gây thắc mắc cho đồ đệ ? Điều lạ thứ hai là :
b) Thầy rửa cho trò. Trò rửa cho thầy, đồ đệ rửa cho sư phụ, không ai thắc mắc, vì đó là lẽ thường. Làm ngược lại mới là khác thường, kỳ lạ. Chúa Giêsu là Thầy, Thầy thật. Các tông đồ là đồ đệ. Đúng. Vì thế đích thị là Thầy rửa cho trò. Một hành động kỳ lạ. Hành động này thế nào cũng gây thắc mắc.
2. Gây thắc mắc
Ban đêm đốt đèn soi đường chắc chắn chẳng ai thắc mắc gì – việc bình thường. Nhưng ban ngày mà cũng đốt đèn soi lối đi, như triết gia Diogène, thì thật khác lạ, khiến người ta thắc mắc. Và Diogène phải giải thích: Tôi đốt đuốc giữa ban ngày để đi tìm con người. Ý ông muốn nói: con vật hai chân hai tay thì nhiều, nhưng con người tôi tìm mãi không gặp.
Khi Chúa Giêsu là Thầy làm các hành động kỳ lạ, chắc chắn các đồ đệ phải thắc mắc. Ta dám quả quyết rằng : Phêrô là người trước tiên mà Thầy Giêsu đang bữa ăn, đã đứng dậy lấy khăn rửa chân cho. Bởi vì không lý gì rửa chân cho các tông đồ khác trước, mà không gặp phản ứng nào, mãi tới khi rửa cho Phêrô, Phêrô mới thắc mắc. Do đó, Phêrô là kẻ được Thầy Giêsu rửa cho trước tiên. Và Phêrô như là đại diện cho thắc mắc của anh em.
-Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?
Đức Giêsu trấn an : “Việc Thầy làm, giờ anh chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.
-Không, không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.
Chúa Giêsu hù doạ : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ không được chung phần với Thầy…”
Phêrô xuống nước gỡ danh dự : “Cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu nữa !”
Và Chúa Giêsu chỉ rửa chân mà thôi !
Phêrô là đầu – đầu xuôi đuôi lọt. Và như thế, Chúa Giêsu rửa chân cho các đồ đệ trong lúc họ vẫn còn thắc mắc.
3. Giải thích
Mãi tới khi rửa chân hết lượt, Thầy Giêsu mặc áo lại, trở về bàn ăn, bấy giờ mới từ tốn giải thích hành động vừa làm cho các đồ đệ. Ta hãy xem cách giải của Chúa Giêsu và cách giải của các nhà thần học, tu đức.
a) Cách giải của Chúa Giêsu : Tin Mừng Gioan kể rõ cho chúng ta, Đức Giêsu là Thầy, là Chúa thật, mà đã rửa chân (chứ không gội đầu…). Rửa chân là nhiệm vụ của tôi tớ. Ngài muốn cho các đồ đệ thấy Ngài chính là Người Tôi Tớ mà sách Isaia đã nói bằng 4 bài ca về Người Tôi Tớ –tức là Ngài muốn hoàn tất điều Kinh Thánh đã nói về Ngài: Người Tôi Tớ. Mà người tôi tớ là người hầu, người phục vụ. “Nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”.
Thánh Phanxicô hiểu rất rõ lời dạy này của Đức Giêsu, nên Phanxicô nói với các “bề trên” : “Người được đặt lên điều khiển kẻ khác hãy lấy đó làm vinh dự cũng như khi được rửa chân cho anh em. Và lúc bị cất chức quyền mà buồn hơn lúc được miễn công tác rửa chân, thì buồn càng buồn lại càng như chất chứa của phi nghĩa, có hại cho linh hồn.” Bề trên Cả, đứng đầu toàn Dòng, được Phanxicô gọi là Đầy tớ chung, Phục Vụ Tổng quát, Tổng Phục Vụ. Giám Tỉnh được Phanxicô gọi là anh Phục Vu. Bề trên nhà: anh giữ nhà.
Có một anh 60 tuổi, linh mục bề trên cộng đoàn khá lớn trong Dòng Phanxicô, tâm tình thế này : “Không lâu sau khi được đặt là Bề trên, tôi được nhắc nhở: làm bề trên là làm đầy tớ đó nghe ! Tôi tự nhủ điều này chẳng mới lạ gì, và Phanxicô đã dạy và người còn nói Bề trên tương đương với nhiệm vụ Rửa chân. Nhưng rửa chân tuy đơn giản mà không kém rắc rối.
“Có người thì sao cũng được : Rửa cũng được không rửa cũng được.
“Có người thích rửa bằng nước ấm, xà phòng nhiều sao cho thật sạch và thơm.
“Có người chỉ thích rửa cho mát – sạch hay không, không thành vấn đề
“Có người lại không thích rửa – Chân sạch hay dơ là chân của tôi, chứ không phải chân của anh.”
Anh (bề trên) tâm tình tiếp : người đầy tớ cụt hứng, không biết đàng nào mà chu toàn bổn phận Rửa chân. Chu toàn một bổn phận (Bề trên) Rửa chân, đã khó, huống hồ còn bổn phận lãnh đạo cầm đầu.
Trong một kỳ Tĩnh Tâm linh mục tại Nhatrang, (Thứ ba 2/4/96) với đề tài thảo luận, “Làm sao dung hoà hai bổn phận linh mục ‘đầy tớ’ và mục tử ‘lãnh đạo’ ?” Mà không phải chỉ linh mục, rất nhiều người trong chúng ta đã tập nắm quyền. Ngay từ tuổi có trí khôn đã biết cầm đầu một nhóm, một đội, hoặc đơn giản hơn là “trưởng” nữ, “trưởng” nam trong gia đình. Còn về người lớn, biết nói gì hơn: từ ông cảnh sát, đến nhân viên quèn, từ mẹ đến cha, cả chủ lẫn thợ : mỗi người đều có một phần làm chủ, lãnh đạo… và một phần phục vụ, làm tôi … . Mẹ lãnh đạo con, và là đầy tớ của con. Người đưa thư lãnh đạo một số phong bì, để phục vụ cho các địa chỉ. Một người thợ làm chủ một số thép, phục vụ cho một công trình. Một học sinh phải làm chủ bài vở để phục vụ cho kỳ thi… Tóm : Ai trong chúng ta cũng đều phải làm chủ và làm tớ.
Làm chủ, làm thày kẻ khác thật là dễ, chỉ cần vài lời thêm cái lên giọng, thế là được. Nhưng làm chủ bản thân, trong riêng tư, không lên giọng, mới là khó.
Chỉ dẫn cho người khác phải đúng giờ, lịch sự, phục vụ, nói thật, biết xin lỗi, trật tự, trong khi đó ta lại lười biếng, bất lịch sự, ích kỷ, ba hoa, lộn xộn, gian dối, tham ăn, mê uống... thì như vậy không phải là tiếm quyền hay sao ?
Vì thế có lẽ cái dung hoà tốt hơn hết giữa 2 nhiệm vụ làm ‘chủ’ và làm ‘tôi’, đó là : Hãy làm chủ bản thân và hãy làm tôi kẻ khác.
Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
Đó là lời giải thích của Chúa Giêsu về hành động kỳ lạ Người làm, là rửa chân cho đồ đệ. Và cũng đã lấn sân nói thêm lời giải thích của các nhà tu-đức, giảng thuyết về hành vi rửa chân.
[có thể bỏ phần b) dưới đây]
b) Lời giải của các nhà Thần học, ảnh hưởng các thánh giáo phụ
Rửa chân là hình ảnh của 2 Bí tích:
- BT Rửa tội : hạ mình xuống (từ trời) để rửa sạch muôn dân. Trước đây thánh Augustino đã từng gọi rửa chân là bí tích: bí tích Rửa chân. Rửa là tẩy sạch, và vì rửa chân phải cần nước, nên rửa chân nhắc nhớ tới bí tích Thánh tẩy, chứ không phải là hình bóng của bí tích Giải tội.
-Bí tích Thánh Thể : Tấm bánh không phải để thờ, mà bẻ ra cho mọi người. Ngày xưa người ta gọi Thánh Lễ là lễ Bẻ Bánh. Bẻ ra không phải cho nhỏ để dễ ăn, dễ nuốt, mà là để chia sẻ, phục vụ. Phục vụ tức là làm tôi tớ.
Với lời giải thích của Chúa Giêsu, chắc chắn chẳng ai ngạc nhiên khi vị chủ sự rửa chân cho một số vị. Chớ gì chúng ta nhớ lời giải của Chúa : Thầy rửa chân cho anh em, anh em phải rửa chân cho nhau.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Chương trình SV 96 (SV là Sinh Viên) là cuộc tranh tài giữa các trường Đại Học trên VTV. Nhiều mục để tranh, trong đó có một mục là “hành động kỳ lạ”. Kỳ lạ mang tính thách đố. Và phe đối phương phải giải thích hành động kỳ lạ đó.
Hôm nay trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng làm một hành vi kỳ lạ. Các môn đệ thắc mắc. Và rồi thầy Giêsu đã giải thích cho họ.
1. Hành vi kỳ lạ : Rửa chân
Rửa chân, không có gì lạ. Nhưng có 2 điều lạ ở hành động của Chúa Giêsu :
a) Trong khi ăn chứ không phải trước khi ăn. Trước khi ăn mà rửa cho sạch lên giường ăn thì cũng có lý. Bản Latinh còn nói mạnh là “sau khi ăn” nữa kìa (magna cena facta).
7 động tác của Thầy Giêsu được Gioan mô tả kỹ lưỡng: Đứng dậy – cởi áo – lấy khăn – thắt lưng - đổ nước vào chậu – rửa chân – lau sạch. Đang khi ăn mà làm như vậy sao không lạ, sao không gây thắc mắc cho đồ đệ ? Điều lạ thứ hai là :
b) Thầy rửa cho trò. Trò rửa cho thầy, đồ đệ rửa cho sư phụ, không ai thắc mắc, vì đó là lẽ thường. Làm ngược lại mới là khác thường, kỳ lạ. Chúa Giêsu là Thầy, Thầy thật. Các tông đồ là đồ đệ. Đúng. Vì thế đích thị là Thầy rửa cho trò. Một hành động kỳ lạ. Hành động này thế nào cũng gây thắc mắc.
2. Gây thắc mắc
Ban đêm đốt đèn soi đường chắc chắn chẳng ai thắc mắc gì – việc bình thường. Nhưng ban ngày mà cũng đốt đèn soi lối đi, như triết gia Diogène, thì thật khác lạ, khiến người ta thắc mắc. Và Diogène phải giải thích: Tôi đốt đuốc giữa ban ngày để đi tìm con người. Ý ông muốn nói: con vật hai chân hai tay thì nhiều, nhưng con người tôi tìm mãi không gặp.
Khi Chúa Giêsu là Thầy làm các hành động kỳ lạ, chắc chắn các đồ đệ phải thắc mắc. Ta dám quả quyết rằng : Phêrô là người trước tiên mà Thầy Giêsu đang bữa ăn, đã đứng dậy lấy khăn rửa chân cho. Bởi vì không lý gì rửa chân cho các tông đồ khác trước, mà không gặp phản ứng nào, mãi tới khi rửa cho Phêrô, Phêrô mới thắc mắc. Do đó, Phêrô là kẻ được Thầy Giêsu rửa cho trước tiên. Và Phêrô như là đại diện cho thắc mắc của anh em.
-Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?
Đức Giêsu trấn an : “Việc Thầy làm, giờ anh chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.
-Không, không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.
Chúa Giêsu hù doạ : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ không được chung phần với Thầy…”
Phêrô xuống nước gỡ danh dự : “Cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu nữa !”
Và Chúa Giêsu chỉ rửa chân mà thôi !
Phêrô là đầu – đầu xuôi đuôi lọt. Và như thế, Chúa Giêsu rửa chân cho các đồ đệ trong lúc họ vẫn còn thắc mắc.
3. Giải thích
Mãi tới khi rửa chân hết lượt, Thầy Giêsu mặc áo lại, trở về bàn ăn, bấy giờ mới từ tốn giải thích hành động vừa làm cho các đồ đệ. Ta hãy xem cách giải của Chúa Giêsu và cách giải của các nhà thần học, tu đức.
a) Cách giải của Chúa Giêsu : Tin Mừng Gioan kể rõ cho chúng ta, Đức Giêsu là Thầy, là Chúa thật, mà đã rửa chân (chứ không gội đầu…). Rửa chân là nhiệm vụ của tôi tớ. Ngài muốn cho các đồ đệ thấy Ngài chính là Người Tôi Tớ mà sách Isaia đã nói bằng 4 bài ca về Người Tôi Tớ –tức là Ngài muốn hoàn tất điều Kinh Thánh đã nói về Ngài: Người Tôi Tớ. Mà người tôi tớ là người hầu, người phục vụ. “Nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”.
Thánh Phanxicô hiểu rất rõ lời dạy này của Đức Giêsu, nên Phanxicô nói với các “bề trên” : “Người được đặt lên điều khiển kẻ khác hãy lấy đó làm vinh dự cũng như khi được rửa chân cho anh em. Và lúc bị cất chức quyền mà buồn hơn lúc được miễn công tác rửa chân, thì buồn càng buồn lại càng như chất chứa của phi nghĩa, có hại cho linh hồn.” Bề trên Cả, đứng đầu toàn Dòng, được Phanxicô gọi là Đầy tớ chung, Phục Vụ Tổng quát, Tổng Phục Vụ. Giám Tỉnh được Phanxicô gọi là anh Phục Vu. Bề trên nhà: anh giữ nhà.
Có một anh 60 tuổi, linh mục bề trên cộng đoàn khá lớn trong Dòng Phanxicô, tâm tình thế này : “Không lâu sau khi được đặt là Bề trên, tôi được nhắc nhở: làm bề trên là làm đầy tớ đó nghe ! Tôi tự nhủ điều này chẳng mới lạ gì, và Phanxicô đã dạy và người còn nói Bề trên tương đương với nhiệm vụ Rửa chân. Nhưng rửa chân tuy đơn giản mà không kém rắc rối.
“Có người thì sao cũng được : Rửa cũng được không rửa cũng được.
“Có người thích rửa bằng nước ấm, xà phòng nhiều sao cho thật sạch và thơm.
“Có người chỉ thích rửa cho mát – sạch hay không, không thành vấn đề
“Có người lại không thích rửa – Chân sạch hay dơ là chân của tôi, chứ không phải chân của anh.”
Anh (bề trên) tâm tình tiếp : người đầy tớ cụt hứng, không biết đàng nào mà chu toàn bổn phận Rửa chân. Chu toàn một bổn phận (Bề trên) Rửa chân, đã khó, huống hồ còn bổn phận lãnh đạo cầm đầu.
Trong một kỳ Tĩnh Tâm linh mục tại Nhatrang, (Thứ ba 2/4/96) với đề tài thảo luận, “Làm sao dung hoà hai bổn phận linh mục ‘đầy tớ’ và mục tử ‘lãnh đạo’ ?” Mà không phải chỉ linh mục, rất nhiều người trong chúng ta đã tập nắm quyền. Ngay từ tuổi có trí khôn đã biết cầm đầu một nhóm, một đội, hoặc đơn giản hơn là “trưởng” nữ, “trưởng” nam trong gia đình. Còn về người lớn, biết nói gì hơn: từ ông cảnh sát, đến nhân viên quèn, từ mẹ đến cha, cả chủ lẫn thợ : mỗi người đều có một phần làm chủ, lãnh đạo… và một phần phục vụ, làm tôi … . Mẹ lãnh đạo con, và là đầy tớ của con. Người đưa thư lãnh đạo một số phong bì, để phục vụ cho các địa chỉ. Một người thợ làm chủ một số thép, phục vụ cho một công trình. Một học sinh phải làm chủ bài vở để phục vụ cho kỳ thi… Tóm : Ai trong chúng ta cũng đều phải làm chủ và làm tớ.
Làm chủ, làm thày kẻ khác thật là dễ, chỉ cần vài lời thêm cái lên giọng, thế là được. Nhưng làm chủ bản thân, trong riêng tư, không lên giọng, mới là khó.
Chỉ dẫn cho người khác phải đúng giờ, lịch sự, phục vụ, nói thật, biết xin lỗi, trật tự, trong khi đó ta lại lười biếng, bất lịch sự, ích kỷ, ba hoa, lộn xộn, gian dối, tham ăn, mê uống... thì như vậy không phải là tiếm quyền hay sao ?
Vì thế có lẽ cái dung hoà tốt hơn hết giữa 2 nhiệm vụ làm ‘chủ’ và làm ‘tôi’, đó là : Hãy làm chủ bản thân và hãy làm tôi kẻ khác.
Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
Đó là lời giải thích của Chúa Giêsu về hành động kỳ lạ Người làm, là rửa chân cho đồ đệ. Và cũng đã lấn sân nói thêm lời giải thích của các nhà tu-đức, giảng thuyết về hành vi rửa chân.
[có thể bỏ phần b) dưới đây]
b) Lời giải của các nhà Thần học, ảnh hưởng các thánh giáo phụ
Rửa chân là hình ảnh của 2 Bí tích:
- BT Rửa tội : hạ mình xuống (từ trời) để rửa sạch muôn dân. Trước đây thánh Augustino đã từng gọi rửa chân là bí tích: bí tích Rửa chân. Rửa là tẩy sạch, và vì rửa chân phải cần nước, nên rửa chân nhắc nhớ tới bí tích Thánh tẩy, chứ không phải là hình bóng của bí tích Giải tội.
-Bí tích Thánh Thể : Tấm bánh không phải để thờ, mà bẻ ra cho mọi người. Ngày xưa người ta gọi Thánh Lễ là lễ Bẻ Bánh. Bẻ ra không phải cho nhỏ để dễ ăn, dễ nuốt, mà là để chia sẻ, phục vụ. Phục vụ tức là làm tôi tớ.
Với lời giải thích của Chúa Giêsu, chắc chắn chẳng ai ngạc nhiên khi vị chủ sự rửa chân cho một số vị. Chớ gì chúng ta nhớ lời giải của Chúa : Thầy rửa chân cho anh em, anh em phải rửa chân cho nhau.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Các Thiên Thần trong cuộc Thương Khó Chúa Giêsu
Lm.Giuse Nguyễn Hữu An
14:29 28/03/2018
Suy Niệm Tuần Thánh
Khởi đi từ ý tưởng của Đức Thánh Cha Clemente IX, công trình Các Thiên Thần trong cuộc Thương Khó Chúa Giêsu được thực hiện vào năm 1668 và được đặt trên cầu Lâu đài Thiên Thần với mục đích nhắc nhớ các chặng đường thánh giá trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Các tác phẩm được thể hiện sao cho khi khách hành hương tiến về Đền thờ Thánh Phêrô, có thể chiêm ngắm và suy niệm về những sự thương khó của Đấng Cứu Thế.
Công trình do Gian Lorenzo Bernini phác thảo và bản thân ông chỉ hoàn thảnh được hai trong số mười bức tượng đặc biệt này, số còn lại được các học trò của ông thực hiện.
Trước khi bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện tại vườn Cây Dầu. Phúc Âm thánh Luca kể: “Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện rằng: ‘Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha’. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện đến thêm sức cho Người. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,41-44). Chúa Giêsu đã nhận được sức mạnh từ Chúa Cha, trong đêm hãi hùng đó, để bước vào cuộc thương khó đầy khổ đau, với niềm tin phó thác vào Chúa Cha.
Thánh sử Luca không ghi lại quí danh của vị thiên thần ấy. Có lẽ vị thiên thần đó chính là hiện thân của vô vàn những người biết cảm thông, giúp đỡ và an ủi những ai gặp hoạn nạn đau khổ trong cuộc đời này như những “thiên thần đặc biệt” an ủi Chúa Giêsu trên đường khổ giá.
1. Bà Vêrônica
Trên con đường khổ giá, Chúa Giêsu lê bước, thở hổn hển. Nhưng ánh quang rạng ngời trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn. Những vết thương không làm lu mờ vẻ đẹp của Ngài. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ, khi càng bị xúc phạm, thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái nhìn đàng sau. Ngài đối diện với đau thương.
Có một thiên thần thương xót, đó là một phụ nữ, có thể bà là một người nhà quê bán trái cây bên lề đường. Khi toán lính Rôma hung hãn điệu Đức Giêsu vác thập giá đi qua. Nhìn nạn nhân mặt mày bầm tím, mồ hôi và máu me gần như che lấp hoàn toàn đôi mắt, bà xót xa nên đã chạy lách qua quân lính, cởi vội chiếc khăn trắng che đầu, tiến tới lau mặt cho Đức Giêsu. Đó là bà Verônia, một phụ nữ dịu hiền. Bà đã làm rung động được Đức Giêsu dịu dàng, cảm nhận được chút gì trong ánh quang của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để dự phần vào sự đau khổ của Ngài.
Bà Verônica được tôn kính trong lịch sử Giáo Hội như một vị Thánh. Ngài không phải là một vị Thánh được tuyên phong theo các thủ tục như chúng ta áp dụng theo luật Giáo Hội ngày nay nhưng được tập thể tín hữu sùng mộ như những vị thánh khác trong các thế kỷ đầu lịch sử Giáo Hội. Về tiểu sử của ngài cũng không có tài liệu lịch sử chắc chắn mà chỉ dựa trên truyền tụng, truyền thuyết khác nhau. Có người đồng hóa Thánh Verônica với bà Matta chị của Maria và Lazarô, người khác thì lại cho ngài là vợ của ông Giakêu. Truyền thuyết khá phổ thông là đồng hóa Thánh Verônica với người đàn bà loạn huyết được Chúa chữa cho khỏi nhờ sự động chạm đến gấu áo của Chúa được kể lại trong Phúc Âm (Mt 9,20-2; Mc 5,25-34; Lc 8, 43-48). Theo truyền thuyết, sau này Thánh Verônica từ Giêrusalem đã gặp Chúa Giêsu trên "đường Thánh Giá" tiến tới đỉnh đồi Canvê. Khi Thánh Nữ lau mặt Chúa Giêsu với chiếc khăn trùm đầu của mình thì hình khuôn mặt của Ngài đã in ấn trên khăn ấy. Biến cố này đã được tưởng nhớ trong Chặng Đàng Thánh Giá (nơi thứ sáu). Theo một truyền thuyết khác, chiếc khăn này đã được Verônica trao cho Hoàng Đế Rôma tên là Tiberius. Qua tấm khăn này Chúa đã thực hiện nhiều phép lạ cho kẻ mù được sáng, cho kẻ chết sống lại. Chính tên chỉ Thánh Nữ cũng do chữ Latin "Vera" có nghĩa là "thật" và tiếng Hylạp "Icon" có nghĩa là "hình ảnh".
Thánh Verônica không được ghi trong lịch phụng vụ của Giáo Hội sau Vatican II nhưng có những truyền thống đã kính nhớ Thánh Nữ vào ngày 12 tháng 7 hay theo truyền thống khác, vào ngày Thứ Ba trước Lễ Tro.
Thánh Verônica còn được những nhiếp ảnh gia và những người làm nghề giặt ủi nhận làm bổn mạng.
Trong Giáo Hội còn có vị Thánh cũng có tên là Verônica, với tên đầy đủ là Veronica Giuliani, người Ý. Thánh Nữ được in năm dấu Thánh. Thánh Nữ đã được phong thánh năm 1839, lễ kính ngày 10 tháng 7. (Lm. Phi Quang).
2. Simon Kyrênê
Vị thiên thần thương xót thứ hai trên đường thập giá được ghi rõ danh xưng trong Phúc âm Nhất lãm (Lc 23,26; Mt 27,32; Mc 15,21), đó là bác nông phu Simon, quê ở làng Kyrinê: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrinê… Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Chúa Giêsu” (Mc 15,21).
Đồi Canvê vẫn còn quá xa với sức lực đang dần cạn kiệt nơi thân thể đầy thương tích. Chúa Giêsu đã quá yếu nhọc, từng bước chân trở nên chập choạng và chênh vênh, tưởng chừng như thập giá mỗi lúc mỗi nặng thêm. Quân lính giận dữ, quát tháo vì sự chậm chạp của ông Giêsu “kẻ tử tù”. Toán lính muốn kết thúc hành trình đóng đinh Đức Giêsu sao cho nhanh chóng.
Thật là dịp may cho toán lính nhưng lại là thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi ông Simon đang đi ra. Không chần chừ, toán lính bắt ông vác thập giá cùng Đức Giêsu. Tình cờ, ông Simon đi qua đó. Nhưng điều này trở thành một thời khắc quyết định trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lao động lam lũ và khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc vác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết án tử hình ô nhục. Cuộc gặp gỡ tình cờ này dẫn đến một quyết định đổi đời để ông đi theo Chúa, vác lấy thập giá mỗi ngày và từ bỏ chính mình.
Là một người vô danh, nhưng ông đã có một vị trí độc nhất mà không ai có được. Ông là người duy nhất vác thánh giá Chúa Giêsu, người duy nhất ở bên cạnh Ngài trong cuộc Khổ nạn. Vì thế, ngoài Đức Maria đứng dưới chân thập giá, ông là người tham dự vào biến cố quan trọng nhất trong lịch sử: đó là con đường thập giá mà Thiên Chúa đã dùng để đem lại sự sống đời đời cho tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu. Trong giờ phút thử thách tột cùng, Thiên Chúa cần đến một người. Và vô tình đi ngang qua đó, ông đã trở thành người môn đệ của Chúa Giêsu. Dù chưa được biết Ngài, ông đã đáp trả lời mời gọi của Đấng đã nói: “Ai muốn làm môn đệ ta, thì hãy vác thánh giá mà theo ta”.
Ông Simon đồng hành với người bị kết án, bị bỏ rơi. Ông là bạn đồng hành của những người cần được giúp đỡ, những người nghèo nhất, những người bị xã hội loại trừ.
Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II uỷ thác viết bài suy ngắm các Chặng đàng Thánh giá tại Cổ Trường Colosseum vào tối thứ Sáu Tuần Thánh (24-3-2005), đã viết về chặng thứ năm. Ngài suy ngắm: “Ông Simon người Kyrênê trên con đường trở về nhà ông từ công sở, khi ông bất chợt thấy đoàn diễu hành buồn rầu của những người bị lên án, đối với ông có lẽ đó là một cảnh tượng thông thường. Quân lính bức hiếp một người lao nhọc này từ vùng nông thôn để vác cây Thập giá trên chính vai của mình. Ông phải nghĩ tới khó chịu như thế nào khi chợt bắt gặp số phận những người bị lên án ! Ông làm những gì ông phải làm nhưng một cách miễn cưỡng. Đáng chú ý thay tác giả Tin Mừng Maccô không những nói tên của ông mà còn nói tên đến hai con của ông nữa, được biết họ là những người Kitô hữu và là thành viên trong cộng đoàn (x. Mc 15,21). Từ lúc bất chợt nầy đức tin được sinh ra. Đi bên cạnh Chúa Giêsu và chia sẻ gánh nặng của cây thánh giá, người Kyrênê đến để thấy rằng đó là một hồng ân để đồng hành với Chúa chịu đóng đinh và giúp đỡ Người. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, thầm lặng và chịu đau khổ đã đánh động tâm hồn ông. Chúa Giêsu là Đấng mà một mình tình yêu Thiên Chúa có thể cứu độ tất cả nhân loại, muốn chúng ta chia sẻ Thánh giá Người để chúng ta có thể hoàn tất những gì còn thiếu sót trong sự đau khổ của Người (x. Cl 1,24).
3. Những người phụ nữ
Những vị thiên thần thứ ba là đám đông dân chúng, mà đại đa số là phụ nữ Giêrusalem than khóc (Lc 23,27-31), đã đi theo đoàn lính áp tải Đức Giêsu. Họ than khóc rất thảm thương cho số phận cực khổ và oan trái của một Người mà họ hết sức ngưỡng mộ, vì đã làm ơn làm phúc cho họ rất nhiều.
Con đường dẫn tới đồi Golgotha đông nghẹt người: nào là những kẻ tò mò và những kẻ thù ghét. Nhưng cũng có những tâm hồn chân thành, những người đã chịu ơn Chúa, đặc biệt những người phụ nữ, có lẽ là các thành viên của một hội đoàn chuyên an ủi và thương tiếc những người hấp hối và những tử tội.
Trong cuộc đời trần thế của mình, Chúa Giêsu đã vượt qua những ước lệ và thành kiến và rất nhiều người đặc biệt một số những người nữ cảm phục Ngài. Ngài hoán cải họ, ban ơn cho họ, lắng nghe những khó khăn trăn trở của họ…Từ cơn sốt của bà nhạc ông Phêrô tới nổi đau mất con của bà góa thành Naim, của người phụ nữ sám hối lấy tóc lau chân Chúa cho tới những đau khổ của Maria Mađalêna, từ tình quí mến của Matta và Maria cho đến những khổ lụy của người phụ nữ mắc bệnh băng huyết,từ con gái của ông Giairô cho tới bà cụ lưng còng, từ người phụ nữ thượng lưu Giôanna, vợ ông Chuza, tới bà góa nghèo và những gương mặt cảm thương của những người nữ theo Ngài trên đường Thập giá.
Chúa Giêsu còn được những trái tim đồng cảm, nhiều người phụ nữ cảm thương với Ngài để được Ngài ủi an trước những khổ đau của phận người, trước những bất công của chiến tranh, hận thù và chết chóc… Những người phụ nữ tốt lành tại Giêrusalem cũng như những người giàu lòng xót thương biểu tượng vẻ đẹp cao qúi của con tim biết đồng cảm và xót thương. Chắc rằng không bao giờ người ta sẽ được biết danh tính của các vị thiên thần xót thương này. Họ mãi mãi là những giọt nước mắt, là những lời than van thổn thức, chuyền thông sức an ủi cho những ai gặp hoạn nạn trên đường đời. Họ cũng là những đoàn người biểu tình chống chiến tranh, chống tra tấn, chống phá thai, chống tái võ trang và chống độc tài... trên khắp thế giới hiện nay.
4. Đức Maria, Maria Magdalena và Gioan
Vị thiên thần thứ tư trên đường thập giá cũng không phải là một cá nhân mà là những người thân thương nhất của Đức Giêsu. Đó là Mẹ Maria, cô Maria Magdalena và môn đệ Gioan. Những vị này đứng sát cạnh thập giá, khi Đức Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Sự gần kề của những vị thiên thần xót thương này đã là niềm an ủi lớn lao cho Đức Giêsu trong giờ sau hết của Người. Chính lúc phải đương đầu với tử thần, Người thấy mình cô đơn vô cùng, nên đã thốt lên với Đức Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con sao Ngài bỏ rơi con?!” (Mt 27,46). Nhưng rồi cảm nhận được niềm an ủi từ những tâm hồn tràn đầy thương mến đứng dưới chân Thập giá, Đức Giêsu đã gặp lại được gương mặt trìu mến của Chúa Cha, và Người đã tìm lại được sự bình an, để phó thác trọn vẹn đời mình cho Thiên Chúa: Lời nói cuối cùng của Người là “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha!”(Lc 23,46).
Nhà bác học Pascal viết rằng: cho đến ngày tận thế, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục đi trên con đường thập giá, bởi vì Người đã đồng hóa mình với mỗi con người sinh ra trên trần gian. Bao lâu còn nhân loại trên trần thế thì còn có khổ đau. Chính vì vậy, sẽ còn muôn vàn thiên thần thương xót được Thiên Chúa gửi tới, để thuyên chữa các vết thương lòng và lau khô những đại dương nước mắt cho nhân loại. Có một điều chắc chắn là, Thiên Chúa trao cho mỗi người chúng ta sứ mạng trở nên một thiên thần xót thương cho tha nhân. Biết được như vậy và sống được như vậy, thì thật là diễm phúc cho nhân loại biết bao!. “Hạnh phúc thay ai biết thương người, vì chính họ sẽ được Thiên Chúa xót thương„! (Mt 5,7). Tấm lòng thương xót có mãnh lực chuyển hóa khổ đau thành an lạc, biến thập giá oan trái thành Thánh giá cứu đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con noi gương bà Vêrônica, ông Simon và tất cả các thiên thần thương xót khác trên đường Thập giá của Chúa, để con biết cảm thông với những người gặp rủi ro hoạn nạn, để con biết an ủi và nâng đỡ họ. Xin cho con biết quên mình, để vác đỡ gánh nặng cho người khác. Như vậy là con thắp lên ánh sáng Phục Sinh cho đời họ và cho chính đời của con nữa. Amen.
Khởi đi từ ý tưởng của Đức Thánh Cha Clemente IX, công trình Các Thiên Thần trong cuộc Thương Khó Chúa Giêsu được thực hiện vào năm 1668 và được đặt trên cầu Lâu đài Thiên Thần với mục đích nhắc nhớ các chặng đường thánh giá trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Các tác phẩm được thể hiện sao cho khi khách hành hương tiến về Đền thờ Thánh Phêrô, có thể chiêm ngắm và suy niệm về những sự thương khó của Đấng Cứu Thế.
Công trình do Gian Lorenzo Bernini phác thảo và bản thân ông chỉ hoàn thảnh được hai trong số mười bức tượng đặc biệt này, số còn lại được các học trò của ông thực hiện.
Trước khi bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện tại vườn Cây Dầu. Phúc Âm thánh Luca kể: “Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện rằng: ‘Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha’. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện đến thêm sức cho Người. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,41-44). Chúa Giêsu đã nhận được sức mạnh từ Chúa Cha, trong đêm hãi hùng đó, để bước vào cuộc thương khó đầy khổ đau, với niềm tin phó thác vào Chúa Cha.
Thánh sử Luca không ghi lại quí danh của vị thiên thần ấy. Có lẽ vị thiên thần đó chính là hiện thân của vô vàn những người biết cảm thông, giúp đỡ và an ủi những ai gặp hoạn nạn đau khổ trong cuộc đời này như những “thiên thần đặc biệt” an ủi Chúa Giêsu trên đường khổ giá.
1. Bà Vêrônica
Trên con đường khổ giá, Chúa Giêsu lê bước, thở hổn hển. Nhưng ánh quang rạng ngời trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn. Những vết thương không làm lu mờ vẻ đẹp của Ngài. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ, khi càng bị xúc phạm, thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái nhìn đàng sau. Ngài đối diện với đau thương.
Có một thiên thần thương xót, đó là một phụ nữ, có thể bà là một người nhà quê bán trái cây bên lề đường. Khi toán lính Rôma hung hãn điệu Đức Giêsu vác thập giá đi qua. Nhìn nạn nhân mặt mày bầm tím, mồ hôi và máu me gần như che lấp hoàn toàn đôi mắt, bà xót xa nên đã chạy lách qua quân lính, cởi vội chiếc khăn trắng che đầu, tiến tới lau mặt cho Đức Giêsu. Đó là bà Verônia, một phụ nữ dịu hiền. Bà đã làm rung động được Đức Giêsu dịu dàng, cảm nhận được chút gì trong ánh quang của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để dự phần vào sự đau khổ của Ngài.
Bà Verônica được tôn kính trong lịch sử Giáo Hội như một vị Thánh. Ngài không phải là một vị Thánh được tuyên phong theo các thủ tục như chúng ta áp dụng theo luật Giáo Hội ngày nay nhưng được tập thể tín hữu sùng mộ như những vị thánh khác trong các thế kỷ đầu lịch sử Giáo Hội. Về tiểu sử của ngài cũng không có tài liệu lịch sử chắc chắn mà chỉ dựa trên truyền tụng, truyền thuyết khác nhau. Có người đồng hóa Thánh Verônica với bà Matta chị của Maria và Lazarô, người khác thì lại cho ngài là vợ của ông Giakêu. Truyền thuyết khá phổ thông là đồng hóa Thánh Verônica với người đàn bà loạn huyết được Chúa chữa cho khỏi nhờ sự động chạm đến gấu áo của Chúa được kể lại trong Phúc Âm (Mt 9,20-2; Mc 5,25-34; Lc 8, 43-48). Theo truyền thuyết, sau này Thánh Verônica từ Giêrusalem đã gặp Chúa Giêsu trên "đường Thánh Giá" tiến tới đỉnh đồi Canvê. Khi Thánh Nữ lau mặt Chúa Giêsu với chiếc khăn trùm đầu của mình thì hình khuôn mặt của Ngài đã in ấn trên khăn ấy. Biến cố này đã được tưởng nhớ trong Chặng Đàng Thánh Giá (nơi thứ sáu). Theo một truyền thuyết khác, chiếc khăn này đã được Verônica trao cho Hoàng Đế Rôma tên là Tiberius. Qua tấm khăn này Chúa đã thực hiện nhiều phép lạ cho kẻ mù được sáng, cho kẻ chết sống lại. Chính tên chỉ Thánh Nữ cũng do chữ Latin "Vera" có nghĩa là "thật" và tiếng Hylạp "Icon" có nghĩa là "hình ảnh".
Thánh Verônica không được ghi trong lịch phụng vụ của Giáo Hội sau Vatican II nhưng có những truyền thống đã kính nhớ Thánh Nữ vào ngày 12 tháng 7 hay theo truyền thống khác, vào ngày Thứ Ba trước Lễ Tro.
Thánh Verônica còn được những nhiếp ảnh gia và những người làm nghề giặt ủi nhận làm bổn mạng.
Trong Giáo Hội còn có vị Thánh cũng có tên là Verônica, với tên đầy đủ là Veronica Giuliani, người Ý. Thánh Nữ được in năm dấu Thánh. Thánh Nữ đã được phong thánh năm 1839, lễ kính ngày 10 tháng 7. (Lm. Phi Quang).
2. Simon Kyrênê
Vị thiên thần thương xót thứ hai trên đường thập giá được ghi rõ danh xưng trong Phúc âm Nhất lãm (Lc 23,26; Mt 27,32; Mc 15,21), đó là bác nông phu Simon, quê ở làng Kyrinê: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrinê… Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Chúa Giêsu” (Mc 15,21).
Đồi Canvê vẫn còn quá xa với sức lực đang dần cạn kiệt nơi thân thể đầy thương tích. Chúa Giêsu đã quá yếu nhọc, từng bước chân trở nên chập choạng và chênh vênh, tưởng chừng như thập giá mỗi lúc mỗi nặng thêm. Quân lính giận dữ, quát tháo vì sự chậm chạp của ông Giêsu “kẻ tử tù”. Toán lính muốn kết thúc hành trình đóng đinh Đức Giêsu sao cho nhanh chóng.
Thật là dịp may cho toán lính nhưng lại là thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi ông Simon đang đi ra. Không chần chừ, toán lính bắt ông vác thập giá cùng Đức Giêsu. Tình cờ, ông Simon đi qua đó. Nhưng điều này trở thành một thời khắc quyết định trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lao động lam lũ và khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc vác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết án tử hình ô nhục. Cuộc gặp gỡ tình cờ này dẫn đến một quyết định đổi đời để ông đi theo Chúa, vác lấy thập giá mỗi ngày và từ bỏ chính mình.
Là một người vô danh, nhưng ông đã có một vị trí độc nhất mà không ai có được. Ông là người duy nhất vác thánh giá Chúa Giêsu, người duy nhất ở bên cạnh Ngài trong cuộc Khổ nạn. Vì thế, ngoài Đức Maria đứng dưới chân thập giá, ông là người tham dự vào biến cố quan trọng nhất trong lịch sử: đó là con đường thập giá mà Thiên Chúa đã dùng để đem lại sự sống đời đời cho tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu. Trong giờ phút thử thách tột cùng, Thiên Chúa cần đến một người. Và vô tình đi ngang qua đó, ông đã trở thành người môn đệ của Chúa Giêsu. Dù chưa được biết Ngài, ông đã đáp trả lời mời gọi của Đấng đã nói: “Ai muốn làm môn đệ ta, thì hãy vác thánh giá mà theo ta”.
Ông Simon đồng hành với người bị kết án, bị bỏ rơi. Ông là bạn đồng hành của những người cần được giúp đỡ, những người nghèo nhất, những người bị xã hội loại trừ.
Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II uỷ thác viết bài suy ngắm các Chặng đàng Thánh giá tại Cổ Trường Colosseum vào tối thứ Sáu Tuần Thánh (24-3-2005), đã viết về chặng thứ năm. Ngài suy ngắm: “Ông Simon người Kyrênê trên con đường trở về nhà ông từ công sở, khi ông bất chợt thấy đoàn diễu hành buồn rầu của những người bị lên án, đối với ông có lẽ đó là một cảnh tượng thông thường. Quân lính bức hiếp một người lao nhọc này từ vùng nông thôn để vác cây Thập giá trên chính vai của mình. Ông phải nghĩ tới khó chịu như thế nào khi chợt bắt gặp số phận những người bị lên án ! Ông làm những gì ông phải làm nhưng một cách miễn cưỡng. Đáng chú ý thay tác giả Tin Mừng Maccô không những nói tên của ông mà còn nói tên đến hai con của ông nữa, được biết họ là những người Kitô hữu và là thành viên trong cộng đoàn (x. Mc 15,21). Từ lúc bất chợt nầy đức tin được sinh ra. Đi bên cạnh Chúa Giêsu và chia sẻ gánh nặng của cây thánh giá, người Kyrênê đến để thấy rằng đó là một hồng ân để đồng hành với Chúa chịu đóng đinh và giúp đỡ Người. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, thầm lặng và chịu đau khổ đã đánh động tâm hồn ông. Chúa Giêsu là Đấng mà một mình tình yêu Thiên Chúa có thể cứu độ tất cả nhân loại, muốn chúng ta chia sẻ Thánh giá Người để chúng ta có thể hoàn tất những gì còn thiếu sót trong sự đau khổ của Người (x. Cl 1,24).
3. Những người phụ nữ
Những vị thiên thần thứ ba là đám đông dân chúng, mà đại đa số là phụ nữ Giêrusalem than khóc (Lc 23,27-31), đã đi theo đoàn lính áp tải Đức Giêsu. Họ than khóc rất thảm thương cho số phận cực khổ và oan trái của một Người mà họ hết sức ngưỡng mộ, vì đã làm ơn làm phúc cho họ rất nhiều.
Con đường dẫn tới đồi Golgotha đông nghẹt người: nào là những kẻ tò mò và những kẻ thù ghét. Nhưng cũng có những tâm hồn chân thành, những người đã chịu ơn Chúa, đặc biệt những người phụ nữ, có lẽ là các thành viên của một hội đoàn chuyên an ủi và thương tiếc những người hấp hối và những tử tội.
Trong cuộc đời trần thế của mình, Chúa Giêsu đã vượt qua những ước lệ và thành kiến và rất nhiều người đặc biệt một số những người nữ cảm phục Ngài. Ngài hoán cải họ, ban ơn cho họ, lắng nghe những khó khăn trăn trở của họ…Từ cơn sốt của bà nhạc ông Phêrô tới nổi đau mất con của bà góa thành Naim, của người phụ nữ sám hối lấy tóc lau chân Chúa cho tới những đau khổ của Maria Mađalêna, từ tình quí mến của Matta và Maria cho đến những khổ lụy của người phụ nữ mắc bệnh băng huyết,từ con gái của ông Giairô cho tới bà cụ lưng còng, từ người phụ nữ thượng lưu Giôanna, vợ ông Chuza, tới bà góa nghèo và những gương mặt cảm thương của những người nữ theo Ngài trên đường Thập giá.
Chúa Giêsu còn được những trái tim đồng cảm, nhiều người phụ nữ cảm thương với Ngài để được Ngài ủi an trước những khổ đau của phận người, trước những bất công của chiến tranh, hận thù và chết chóc… Những người phụ nữ tốt lành tại Giêrusalem cũng như những người giàu lòng xót thương biểu tượng vẻ đẹp cao qúi của con tim biết đồng cảm và xót thương. Chắc rằng không bao giờ người ta sẽ được biết danh tính của các vị thiên thần xót thương này. Họ mãi mãi là những giọt nước mắt, là những lời than van thổn thức, chuyền thông sức an ủi cho những ai gặp hoạn nạn trên đường đời. Họ cũng là những đoàn người biểu tình chống chiến tranh, chống tra tấn, chống phá thai, chống tái võ trang và chống độc tài... trên khắp thế giới hiện nay.
4. Đức Maria, Maria Magdalena và Gioan
Vị thiên thần thứ tư trên đường thập giá cũng không phải là một cá nhân mà là những người thân thương nhất của Đức Giêsu. Đó là Mẹ Maria, cô Maria Magdalena và môn đệ Gioan. Những vị này đứng sát cạnh thập giá, khi Đức Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Sự gần kề của những vị thiên thần xót thương này đã là niềm an ủi lớn lao cho Đức Giêsu trong giờ sau hết của Người. Chính lúc phải đương đầu với tử thần, Người thấy mình cô đơn vô cùng, nên đã thốt lên với Đức Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con sao Ngài bỏ rơi con?!” (Mt 27,46). Nhưng rồi cảm nhận được niềm an ủi từ những tâm hồn tràn đầy thương mến đứng dưới chân Thập giá, Đức Giêsu đã gặp lại được gương mặt trìu mến của Chúa Cha, và Người đã tìm lại được sự bình an, để phó thác trọn vẹn đời mình cho Thiên Chúa: Lời nói cuối cùng của Người là “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha!”(Lc 23,46).
Nhà bác học Pascal viết rằng: cho đến ngày tận thế, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục đi trên con đường thập giá, bởi vì Người đã đồng hóa mình với mỗi con người sinh ra trên trần gian. Bao lâu còn nhân loại trên trần thế thì còn có khổ đau. Chính vì vậy, sẽ còn muôn vàn thiên thần thương xót được Thiên Chúa gửi tới, để thuyên chữa các vết thương lòng và lau khô những đại dương nước mắt cho nhân loại. Có một điều chắc chắn là, Thiên Chúa trao cho mỗi người chúng ta sứ mạng trở nên một thiên thần xót thương cho tha nhân. Biết được như vậy và sống được như vậy, thì thật là diễm phúc cho nhân loại biết bao!. “Hạnh phúc thay ai biết thương người, vì chính họ sẽ được Thiên Chúa xót thương„! (Mt 5,7). Tấm lòng thương xót có mãnh lực chuyển hóa khổ đau thành an lạc, biến thập giá oan trái thành Thánh giá cứu đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con noi gương bà Vêrônica, ông Simon và tất cả các thiên thần thương xót khác trên đường Thập giá của Chúa, để con biết cảm thông với những người gặp rủi ro hoạn nạn, để con biết an ủi và nâng đỡ họ. Xin cho con biết quên mình, để vác đỡ gánh nặng cho người khác. Như vậy là con thắp lên ánh sáng Phục Sinh cho đời họ và cho chính đời của con nữa. Amen.
Sóng triều
Lm Vũdình Tường
19:53 28/03/2018
Sóng triều diễn tả làn sóng tiếp theo làn sóng, không ngừng, sóng trước đổ, sóng sau đứng thẳng xô tới rồi cứ thế tiếp tục, sóng này đổ ập xuống sóng kia tiến lên thế chỗ. Cái chết của Đức Kitô làm cho nhóm lãnh đạo đền thờ thở phào nhẹ nhõm. Họ kinh ngạc về giáo huấn canh tân của Đức Kitô và ngày đêm lo lắng về lòng xót thương Đức Kitô dành cho đám đông. Họ bối rối không biết làm sao chặn đứng làn sóng người theo Đức Kitô như sóng triều. Năm bảy lần họ gài bẫy mong tìm kẽ hở bắt chẹt Ngài trước đám đông nhưng càng gài bẫy càng thua đặm. Họ biết với sức mạnh của lãnh đạo Đền Thờ họ không thể làm hại Đức Kitô nên họ cấu kết với ngoại bang làm công việc triệt hạ Đức Kitô. Họ phịa ra những bằng chứng giả, nhân chứng gian, tố cáo Đức Kitô đội lốt tôn giáo làm chính trị; lợi dụng lòng tin dân chúng làm thế đứng củng cố chính trị, hầu mong lật đổ nhà cầm quyền. Với những cáo buộc vô bằng chứng, nhà cầm quyền không trực tiếp ra tay cộng tác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ cho họ tuỳ tiện ra tay.
Họ kết án Đức Kitô ngay trong đêm bắt Ngài và mau chóng đưa ra án tử hình. Một bản án hết sức dã man, đau đớn tột cùng, để đau khổ thấm tận tim gan, chết một cách chậm chạp- đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay tức khắc mà không cho thời gian kháng án hay trưng bày thêm bằng chứng. Nắm chắc trong tay họ tiêu diệt được kẻ họ căm ghét khi thấy Đức Kitô tắt thở trên thập tự. Niềm vui của họ không lâu quá ba ngày khi mà các tình báo Đền Thờ liên tục đưa tin làm cho họ bối rối, lo lắng đến uống nước mắc nghẹn, ăn không xuôi. Tin Đức Kitô các ông đóng đinh nay đã sống lại và hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi khác nhau đến dồn dập như nước triều dâng. Trước tin giật gân, sét đánh mang tai đó họ đâu còn thời giờ chuẩn bị vì thế họ dùng tiền trước đây thâu được trong Đền Thờ nhờ độc quyền đánh thuế mang ra bịt miệng những người đưa tin. Lãnh đạo Đền Thờ không những chính họ đã dối trá mà còn dậy người khác nói dối nữa. Tội sinh ra tội, của cải trần gian thu vén từng xu lẻ; khi đi chúng túa ra đồng bạc chẵn. Đức Kitô sống lại từ cõi chết cho biết dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất thối nát đi nó sẽ sinh nhiều hoa trái.
Đức Kitô sống lại ban sức mạnh cho các tông đồ. Các ông từng trốn chui, trốn nhủi giờ bung ra ánh sáng, từng sợ chết nay vui mừng chịu chết, từng sợ roi đòn nay hãnh diện vì được đau khổ cùng Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh làm cho các tông đồ trở thành con người mới. Các ông vui mừng rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh và số người tin theo từng đoàn, từng lớp tiếp theo nhau tin vào Đức Kitô. Lãnh đạo Đền Thờ giết một Đức Kitô bây giờ có hàng ngàn lớp người trở thành Kitô hữu, càng bách hại số người tin theo càng đông. Ai có thể đoán nổi giọt máu bầm tím rơi xuống chân thập tự lại trở thành hạt giống Phục Sinh, mỗi giọt lại trổ sinh bông trái rũ cành. Tất cả đều đứng thẳng, hiên ngang và sẵn sàng hiến thân phục vụ dưới bóng cờ Kitô Phục Sinh. Quả là ngoài sức tưởng tượng của muôn người. Điều này diễn ra khắp các nẻo đường trên toàn thế giới và sức mạnh Phục Sinh lan toả từ đời nọ nối tiếp đời kia như những làn sóng không sức mạnh nào chặn đứng được. Ngọn lửa yêu mến Đức Kitô Phục Sinh nếu bị bách hại, ngọn lửa đó ngầm cháy trong tim óc Kitô Hữu và chờ cơ hội thuận tiện sẽ bừng sáng lên, như hạt lúa nằm sâu trong lòng đất chờ điều hiện khí hậu tốt lành vùng lên cây mạ mới. Điều này ứng nghiệm hơn hai ngàn năm qua với biết bao thăng trầm. Vì thế bất cứ ai có í định bách hại Kitô hữu bằng cách này hay cách khác đều sống thiếu thực tế bởi Kitô giáo tồn tại qua bao bách hại có sách lược chủ trương nhưng tất cả đều đầu hàng vì số người tin theo lúc tăng lúc giảm nhưng không bao giờ đầu hàng trước sức mạnh trần thế.
Kitô hữu từ hơn hai ngàn năm qua cho biết sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô mạnh hơn sự chết. Bách hại Kitô hữu chính là giúp họ đi con đường tắt mau đến gần Đức Kitô Phục Sinh hơn. Chết chỉ là con đường dẫn vào chốn trường sinh mau hơn, nơi đó không còn đau thương, than khóc nhưng tràn đầy tình yêu Chúa. Môn đệ Đức Kitô là chứng nhân mãnh liệt cho niềm tin này bởi chính tai họ nghe Đức Kitô nói về sự chết và sự sống lại và Ngài hứa sẽ cùng đồng hành với họ trong mọi hoàn cảnh cho đến tận cùng trái đất. Trước đây họ không hiểu điều này nhưng sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ không những đã hiểu và còn tin một cách mãnh liệt bởi chính sự sống lại của Đức Kitô là bằng chứng cho lời Ngài hứa với các ông. Đức Kitô đã hiện ra với các ông, chính các ông đã đàm đạo với Ngài, dùng bữa với Ngài và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi. Ngài hứa ở cùng các ông và còn ban thêm Thánh Thần Chúa hướng dẫn, bảo trợ, bao bọc, che chở trong hành trình làm chứng nhân Kitô.
Chúc Mừng Phục Sinh!
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Họ kết án Đức Kitô ngay trong đêm bắt Ngài và mau chóng đưa ra án tử hình. Một bản án hết sức dã man, đau đớn tột cùng, để đau khổ thấm tận tim gan, chết một cách chậm chạp- đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay tức khắc mà không cho thời gian kháng án hay trưng bày thêm bằng chứng. Nắm chắc trong tay họ tiêu diệt được kẻ họ căm ghét khi thấy Đức Kitô tắt thở trên thập tự. Niềm vui của họ không lâu quá ba ngày khi mà các tình báo Đền Thờ liên tục đưa tin làm cho họ bối rối, lo lắng đến uống nước mắc nghẹn, ăn không xuôi. Tin Đức Kitô các ông đóng đinh nay đã sống lại và hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi khác nhau đến dồn dập như nước triều dâng. Trước tin giật gân, sét đánh mang tai đó họ đâu còn thời giờ chuẩn bị vì thế họ dùng tiền trước đây thâu được trong Đền Thờ nhờ độc quyền đánh thuế mang ra bịt miệng những người đưa tin. Lãnh đạo Đền Thờ không những chính họ đã dối trá mà còn dậy người khác nói dối nữa. Tội sinh ra tội, của cải trần gian thu vén từng xu lẻ; khi đi chúng túa ra đồng bạc chẵn. Đức Kitô sống lại từ cõi chết cho biết dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất thối nát đi nó sẽ sinh nhiều hoa trái.
Đức Kitô sống lại ban sức mạnh cho các tông đồ. Các ông từng trốn chui, trốn nhủi giờ bung ra ánh sáng, từng sợ chết nay vui mừng chịu chết, từng sợ roi đòn nay hãnh diện vì được đau khổ cùng Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh làm cho các tông đồ trở thành con người mới. Các ông vui mừng rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh và số người tin theo từng đoàn, từng lớp tiếp theo nhau tin vào Đức Kitô. Lãnh đạo Đền Thờ giết một Đức Kitô bây giờ có hàng ngàn lớp người trở thành Kitô hữu, càng bách hại số người tin theo càng đông. Ai có thể đoán nổi giọt máu bầm tím rơi xuống chân thập tự lại trở thành hạt giống Phục Sinh, mỗi giọt lại trổ sinh bông trái rũ cành. Tất cả đều đứng thẳng, hiên ngang và sẵn sàng hiến thân phục vụ dưới bóng cờ Kitô Phục Sinh. Quả là ngoài sức tưởng tượng của muôn người. Điều này diễn ra khắp các nẻo đường trên toàn thế giới và sức mạnh Phục Sinh lan toả từ đời nọ nối tiếp đời kia như những làn sóng không sức mạnh nào chặn đứng được. Ngọn lửa yêu mến Đức Kitô Phục Sinh nếu bị bách hại, ngọn lửa đó ngầm cháy trong tim óc Kitô Hữu và chờ cơ hội thuận tiện sẽ bừng sáng lên, như hạt lúa nằm sâu trong lòng đất chờ điều hiện khí hậu tốt lành vùng lên cây mạ mới. Điều này ứng nghiệm hơn hai ngàn năm qua với biết bao thăng trầm. Vì thế bất cứ ai có í định bách hại Kitô hữu bằng cách này hay cách khác đều sống thiếu thực tế bởi Kitô giáo tồn tại qua bao bách hại có sách lược chủ trương nhưng tất cả đều đầu hàng vì số người tin theo lúc tăng lúc giảm nhưng không bao giờ đầu hàng trước sức mạnh trần thế.
Kitô hữu từ hơn hai ngàn năm qua cho biết sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô mạnh hơn sự chết. Bách hại Kitô hữu chính là giúp họ đi con đường tắt mau đến gần Đức Kitô Phục Sinh hơn. Chết chỉ là con đường dẫn vào chốn trường sinh mau hơn, nơi đó không còn đau thương, than khóc nhưng tràn đầy tình yêu Chúa. Môn đệ Đức Kitô là chứng nhân mãnh liệt cho niềm tin này bởi chính tai họ nghe Đức Kitô nói về sự chết và sự sống lại và Ngài hứa sẽ cùng đồng hành với họ trong mọi hoàn cảnh cho đến tận cùng trái đất. Trước đây họ không hiểu điều này nhưng sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ không những đã hiểu và còn tin một cách mãnh liệt bởi chính sự sống lại của Đức Kitô là bằng chứng cho lời Ngài hứa với các ông. Đức Kitô đã hiện ra với các ông, chính các ông đã đàm đạo với Ngài, dùng bữa với Ngài và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi. Ngài hứa ở cùng các ông và còn ban thêm Thánh Thần Chúa hướng dẫn, bảo trợ, bao bọc, che chở trong hành trình làm chứng nhân Kitô.
Chúc Mừng Phục Sinh!
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Lễ Tiệc Ly. Năm B - 29.3.2018
Lm Francis Lý văn Ca
22:29 28/03/2018
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, chúng ta sẽ nghe phúc âm trình bày hai câu chuyện buồn: Một Giuđa phản bội cùng với câu chuyện bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu với các môn đệ. Chúa Giêsu dùng bữa tối - bữa Tiệc Vượt Qua - với các môn đệ là những người đã theo Ngài trong suốt ba năm qua.
Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa sẵn sàng đối diện với cái chết hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu dùng bữa Tiệc Vượt Qua như một Giao Ước Mới của Bàn Tiệc Thánh Thể. Một Giao Ước thời Tân Ước để ở lại với các tông đồ từ đó cho đến hôm nay.
Chúng ta cảm tạ hồng ân Thánh Thể, Chúa Giêsu để lại như một Giao Ước Mới Vĩnh Cửu. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ tưởng nhớ Ngài luôn hiện diện trong Giáo Hội qua Bí Tích Thánh Thể hiệp nhất chúng ta nên một với Ngài và với Anh Chị Em trên toàn thế giới. Ca Ngợi-Tạ Ơn tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Hy Lễ Thập Giá trên bàn thờ mỗi ngày.
Đồng thời chúng ta cũng nhớ đến Bí Tích Truyền Chức Linh mục, Chúa Kitô thiết lập để qua Linh Mục, cử hành thánh lễ, Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, cùng với Ca Đoàn, chúng ta bắt đầu thánh lễ Tiệc Ly với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Dân Do Thái được cứu thoát sự tàn sát của nhờ máu chiên bôi trên cửa. Chúa ta tưởng niệm Đức Kitô là Chiên Vượt Qua. Qua sự chết và phục sinh của Chúa, chúng ta được hưởng ơn giao hòa.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về Nghi Thức Bẻ Bánh Thánh Thể đầu tiên của Đức Kitô – Bữa Tiệc Ly – trao ban Mình Máu Ngài cho chúng ta.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Jesus washed his apostles’ feet to impress them and us that service is at the heart of the gospel, together with self-giving..
Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ đã làm cho các môn đồ kinh ngạc. Chúng ta cũng phải noi theo cách hành xử của Chúa trong việc phục vụ anh chị em.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến
Chúa Kitô đến trần gian thiết lập nước Ngài. Qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết cân nhắc những giá trị đích thực khi tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể.
1. Chúng ta cầu xin cho những ai bị bỏ rơi hay bạc đãi luôn tìm được nơi chúng ta niềm hy vọng, ủi an. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ai đang đương đầu với sự chết, luôn tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Chúng ta cầu xin cho các Kitô hữu trên toàn thế giới luôn xác quyết với niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các Linh Mục trên toàn thế giới. Xin cho các ngài luôn trung thành với Thiên Chức Linh Mục trong hoàn cảnh khó khăn hôm nay. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta trong Mùa Chay-Phục Sinh năm nay. Xin ban ơn trợ lực cho những ai nguội lạnh trễ nải bíết quay về cuộc sống thánh thiện hơn. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các linh hồn đã qua đời mà chúng ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay, được an nghỉ muôn đời trong Nhà Cha trên thiên quốc. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục.
Lạy Chúa, qua Đức Kitô, Chúa đã giao hòa thế gian sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội. Xin cho chúng con trong đời sống hằng ngày luôn khám phá ra giá trị của ơn cứu rỗi, để sống tinh thần ơn gọi làm con cái Chúa mỗi ngày một nên xứng đáng hơn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Hôm nay, chúng ta sẽ nghe phúc âm trình bày hai câu chuyện buồn: Một Giuđa phản bội cùng với câu chuyện bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu với các môn đệ. Chúa Giêsu dùng bữa tối - bữa Tiệc Vượt Qua - với các môn đệ là những người đã theo Ngài trong suốt ba năm qua.
Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa sẵn sàng đối diện với cái chết hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu dùng bữa Tiệc Vượt Qua như một Giao Ước Mới của Bàn Tiệc Thánh Thể. Một Giao Ước thời Tân Ước để ở lại với các tông đồ từ đó cho đến hôm nay.
Chúng ta cảm tạ hồng ân Thánh Thể, Chúa Giêsu để lại như một Giao Ước Mới Vĩnh Cửu. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ tưởng nhớ Ngài luôn hiện diện trong Giáo Hội qua Bí Tích Thánh Thể hiệp nhất chúng ta nên một với Ngài và với Anh Chị Em trên toàn thế giới. Ca Ngợi-Tạ Ơn tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Hy Lễ Thập Giá trên bàn thờ mỗi ngày.
Đồng thời chúng ta cũng nhớ đến Bí Tích Truyền Chức Linh mục, Chúa Kitô thiết lập để qua Linh Mục, cử hành thánh lễ, Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, cùng với Ca Đoàn, chúng ta bắt đầu thánh lễ Tiệc Ly với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Dân Do Thái được cứu thoát sự tàn sát của nhờ máu chiên bôi trên cửa. Chúa ta tưởng niệm Đức Kitô là Chiên Vượt Qua. Qua sự chết và phục sinh của Chúa, chúng ta được hưởng ơn giao hòa.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về Nghi Thức Bẻ Bánh Thánh Thể đầu tiên của Đức Kitô – Bữa Tiệc Ly – trao ban Mình Máu Ngài cho chúng ta.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Jesus washed his apostles’ feet to impress them and us that service is at the heart of the gospel, together with self-giving..
Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ đã làm cho các môn đồ kinh ngạc. Chúng ta cũng phải noi theo cách hành xử của Chúa trong việc phục vụ anh chị em.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến
Chúa Kitô đến trần gian thiết lập nước Ngài. Qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết cân nhắc những giá trị đích thực khi tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể.
1. Chúng ta cầu xin cho những ai bị bỏ rơi hay bạc đãi luôn tìm được nơi chúng ta niềm hy vọng, ủi an. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cầu nguyện cho những ai đang đương đầu với sự chết, luôn tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Chúng ta cầu xin cho các Kitô hữu trên toàn thế giới luôn xác quyết với niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các Linh Mục trên toàn thế giới. Xin cho các ngài luôn trung thành với Thiên Chức Linh Mục trong hoàn cảnh khó khăn hôm nay. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta trong Mùa Chay-Phục Sinh năm nay. Xin ban ơn trợ lực cho những ai nguội lạnh trễ nải bíết quay về cuộc sống thánh thiện hơn. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các linh hồn đã qua đời mà chúng ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay, được an nghỉ muôn đời trong Nhà Cha trên thiên quốc. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục.
Lạy Chúa, qua Đức Kitô, Chúa đã giao hòa thế gian sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội. Xin cho chúng con trong đời sống hằng ngày luôn khám phá ra giá trị của ơn cứu rỗi, để sống tinh thần ơn gọi làm con cái Chúa mỗi ngày một nên xứng đáng hơn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
Dẫn Nhập Nghi Thức Thứ Sáu Tuần Thánh. Năm B - 30.3.2018
Lm Francis Lý văn Ca
22:48 28/03/2018
Dẫn Nhập: Anh Chị Em thân mến
Chúng ta hiện diện nơi đây để tưỏng niệm sự khổ nạn-sự chết của Chúa Kitô. Chúng ta đang đứng dưới chân cây thập giá, cùng với Mẹ Maria, thánh Gioan và toàn thể dân thánh Chúa
Chúng ta không đứng nhìn thương tiếc một con người đã thất bại ê chề trong cuộc sống và kết liễu cuộc đời bằng cái chết tang thương trên thập giá, nhưng qua niềm tin vào ơn cứu độ, thập giá là dấu chỉ của sự chiến thắng sự chết, tội lỗi để vào cuộc sống mới vinh quang phục sinh.
Chúng ta tin rằng Đức Kitô là Con Một của Thiên Chúa Cha đã sống lại từ cõi chết và đang hiện diện giữa chúng ta. Biến cố sự thương khó, đau khổ và chết của Đức Kitô không chỉ là quá khứ chúng ta tưởng niệm hôm nay nhưng vẫn còn tiếp diễn trong thế giới hôm nay và ngày mai nơi mỗi người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia và trên toàn thế giới qua bệnh tật, ngèo đói, chiến tranh…
Bổn phân của người Kitô hữu trong khả năng của mình là chia sẻ những khó khăn, nghèo đó, đau khổi… với những người kém may mắn hơn chúng ta trong cuộc sống với khả năng của chính mình. Đó là sứ điệp của Chúa chịu thương khó Chúa gởi đến cho chúng ta trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay.
Trước Bài I:
Đau khổ và thánh giá không phải là điều dễ dàng chấp nhận và huyền nhiệm không hiểu được. Nhưng đối với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, Thánh Giá là Vinh Quang: toàn thắng sự chết và tội lỗi. Đối với người Kitô hữu, tin chăc rằng, thánh giá và đau khổ luôn gắn liền với cuộc sống.
Trước Bài II:
Chúa Kitô chịu đau khổ để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta tháp nhập sự đau khổ và thập giá của mình vào thập giá của Chúa Kitô. Cùng hiệp nhất với Người trong đau khổ để vào vinh quang trong cuộc sống mai ngày.
Trước Bài Thương Khó:
Sự thương khó của Đức Kitô đã hoàn tất. Thánh Gioan đứng dưới chân thập tự như một chứng nhân cho nhân loại: một con người đã chết không phải là kêt thúc vĩnh viễn cuộc sống trần thế, nhưng là một người Con Thiên Chúa đã nối kêt chúng ta với Thiên Chúa Cha là những Nghĩa Tử của Thiên Chúa.
Dẫn Nhập - Suy Tôn Thánh Giá
Giờ đây chúng ta bắt đầu phần suy tôn Thánh Giá. Chúng ta suy tôn thánh giá không mang ý nghĩa của sự buồn phiền đau khổ qua cái chết của Chúa Kitô. Cho dù chúng ta đau buồn thật sự qua cái chết bi thảm của Ngài, vì tội lỗi nhân loại. Như thánh Phaolô nói: Vinh Quang của chúng ta là thập giá Đức Kitô”.
Hôm nay chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô chịu chết treo trên thập tự và đồng thời chúng ta hôn kính thập giá vinh quang của Chúa Kitô qua cái chết và phục sinh của Ngài. Chính cây thập giá đã giải thoát chúng ta. Ngài đã sống lại từ cõi chết và sự chết không còn thống trị được Ngài nữa. Ngài đã trao ban lại cho mỗi người chúng sự sống mới trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Chúng ta hiện diện nơi đây để tưỏng niệm sự khổ nạn-sự chết của Chúa Kitô. Chúng ta đang đứng dưới chân cây thập giá, cùng với Mẹ Maria, thánh Gioan và toàn thể dân thánh Chúa
Chúng ta không đứng nhìn thương tiếc một con người đã thất bại ê chề trong cuộc sống và kết liễu cuộc đời bằng cái chết tang thương trên thập giá, nhưng qua niềm tin vào ơn cứu độ, thập giá là dấu chỉ của sự chiến thắng sự chết, tội lỗi để vào cuộc sống mới vinh quang phục sinh.
Chúng ta tin rằng Đức Kitô là Con Một của Thiên Chúa Cha đã sống lại từ cõi chết và đang hiện diện giữa chúng ta. Biến cố sự thương khó, đau khổ và chết của Đức Kitô không chỉ là quá khứ chúng ta tưởng niệm hôm nay nhưng vẫn còn tiếp diễn trong thế giới hôm nay và ngày mai nơi mỗi người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia và trên toàn thế giới qua bệnh tật, ngèo đói, chiến tranh…
Bổn phân của người Kitô hữu trong khả năng của mình là chia sẻ những khó khăn, nghèo đó, đau khổi… với những người kém may mắn hơn chúng ta trong cuộc sống với khả năng của chính mình. Đó là sứ điệp của Chúa chịu thương khó Chúa gởi đến cho chúng ta trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay.
Trước Bài I:
Đau khổ và thánh giá không phải là điều dễ dàng chấp nhận và huyền nhiệm không hiểu được. Nhưng đối với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, Thánh Giá là Vinh Quang: toàn thắng sự chết và tội lỗi. Đối với người Kitô hữu, tin chăc rằng, thánh giá và đau khổ luôn gắn liền với cuộc sống.
Trước Bài II:
Chúa Kitô chịu đau khổ để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta tháp nhập sự đau khổ và thập giá của mình vào thập giá của Chúa Kitô. Cùng hiệp nhất với Người trong đau khổ để vào vinh quang trong cuộc sống mai ngày.
Trước Bài Thương Khó:
Sự thương khó của Đức Kitô đã hoàn tất. Thánh Gioan đứng dưới chân thập tự như một chứng nhân cho nhân loại: một con người đã chết không phải là kêt thúc vĩnh viễn cuộc sống trần thế, nhưng là một người Con Thiên Chúa đã nối kêt chúng ta với Thiên Chúa Cha là những Nghĩa Tử của Thiên Chúa.
Dẫn Nhập - Suy Tôn Thánh Giá
Giờ đây chúng ta bắt đầu phần suy tôn Thánh Giá. Chúng ta suy tôn thánh giá không mang ý nghĩa của sự buồn phiền đau khổ qua cái chết của Chúa Kitô. Cho dù chúng ta đau buồn thật sự qua cái chết bi thảm của Ngài, vì tội lỗi nhân loại. Như thánh Phaolô nói: Vinh Quang của chúng ta là thập giá Đức Kitô”.
Hôm nay chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô chịu chết treo trên thập tự và đồng thời chúng ta hôn kính thập giá vinh quang của Chúa Kitô qua cái chết và phục sinh của Ngài. Chính cây thập giá đã giải thoát chúng ta. Ngài đã sống lại từ cõi chết và sự chết không còn thống trị được Ngài nữa. Ngài đã trao ban lại cho mỗi người chúng sự sống mới trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật Phục Sinh. Năm B - 1.4.2018
Lm Francis Lý văn Ca
22:54 28/03/2018
Dẫn Nhập: Anh Chị Em thân mến
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội Mẹ Thánh, chúng ta hân hoan và hiệp thông cử hành Mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô. Biến cố phục sinh của Đức Kitô là chân lý nền tảng đức tin người Kitô hữu.
Qua sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài đã mở cửa mồ, đẩy lui thần chết và tội lỗi đã và đang bao trùm thế giới. Ngài đã biến đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Biến ngôi mộ là điểm tựa bậc lên một sức sống mới dẫn đưa vào cuộc sống mới trường sinh.
Như vậy, qua cuộc sống mới trong mùa phục sinh, chúng ta khước từ những tính nết xấu, chôn những thói quen không tốt, tội lỗi vào ngôi mồ và bừng lên cuộc sống mới trong mùa Phục Sinh đang đến.
Với những tư tưởng chuẩn bị, chúng ta cùng với ca đoàn xướng lên bài ca đầu lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn hôm nay.
Trước Bài Đọc I:
Sách Tông đồ Công Vụ trình bày cho chúng ta việc thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng Phục Sinh: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã nhập thể, chịu chết và nay đã sống lại, cho những ai tin vào danh thánh Đấng đã phục sinh sẽ được ơn cứu độ.
Trước Bài Đọc II:
Trong bài đọc gửi dân thành Colôsê, thánh Phaolô trình bày: qua Phép Rửa, chúng ta đã chết cho con người cũ là tội lỗi và chúng ta được tham dự vào sự sống mới của Chúa Kitô Phục Sinh. Vì thế, chúng ta cuộc sống của chúng ta luôn tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Trước Bài Tin Mừng:
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện bà Maria Mađalêla đi thăm mồ Chúa. Không thấy xác Chúa, bà về báo cho tông đồ Phêrô và Gioan. Hai ông cùng chạy đến mồ, và khi Gioan nhìn thấy ngôi mộ trống, ông đã tin rằng Chúa Kitô đã sống lại.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa Cha toàn năng đã làm Đức Kitô sống lại từ cõi chết, để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tử thần và ban cho chúng ta sự sống mới. Trong niềm tin và phó thác, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Giáo Hội, luôn vững tin vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, và nhiệt thành trong việc loan báo Tin Mừng Phục sinh cho thế giới bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng đức tin. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu luôn nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng để ánh sáng của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh chiếu tỏa trên khắp hoàn vũ, để thế giới có thêm nhiều nguời đón nhận tin mừng phục sinh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin Chúa cho mỗi Kitô hữu biết sống tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa trong mọi trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đức tin được tôi luyện trong thử thách và được tăng trưởng trong mầu nhiệm Vượt Qua và Phục Sinh của Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người trong Cộng đoàn-Giáo Xứ luôn ý thức mình là thành phần của Dân Thánh Chúa, luôn sống chan hòa tình yêu của Chúa Giêsu Phục Sinh. Đem tình yêu của Chúa Kitô phục sinh đến cho mọi người sống chung quanh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tìn hữu của Chúa đã qua đời, những linh hồn mồ côi không còn ai để nguyện cầu. Xin cho các ngài được hưởng niềm vui Phục Sinh vĩnh cửu trên thiên quốc. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại để cứu độ trần gian. Xin giúp chúng con biết đón nhận ơn Phục Sinh và xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, để triển nở ơn Phục Sinh trong cuộc sống luôn đổi mới, thánh thiện và mang niềm vui phục sinh đến cho những ai cần sống ơn phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Amen.
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội Mẹ Thánh, chúng ta hân hoan và hiệp thông cử hành Mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô. Biến cố phục sinh của Đức Kitô là chân lý nền tảng đức tin người Kitô hữu.
Qua sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài đã mở cửa mồ, đẩy lui thần chết và tội lỗi đã và đang bao trùm thế giới. Ngài đã biến đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Biến ngôi mộ là điểm tựa bậc lên một sức sống mới dẫn đưa vào cuộc sống mới trường sinh.
Như vậy, qua cuộc sống mới trong mùa phục sinh, chúng ta khước từ những tính nết xấu, chôn những thói quen không tốt, tội lỗi vào ngôi mồ và bừng lên cuộc sống mới trong mùa Phục Sinh đang đến.
Với những tư tưởng chuẩn bị, chúng ta cùng với ca đoàn xướng lên bài ca đầu lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn hôm nay.
Trước Bài Đọc I:
Sách Tông đồ Công Vụ trình bày cho chúng ta việc thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng Phục Sinh: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã nhập thể, chịu chết và nay đã sống lại, cho những ai tin vào danh thánh Đấng đã phục sinh sẽ được ơn cứu độ.
Trước Bài Đọc II:
Trong bài đọc gửi dân thành Colôsê, thánh Phaolô trình bày: qua Phép Rửa, chúng ta đã chết cho con người cũ là tội lỗi và chúng ta được tham dự vào sự sống mới của Chúa Kitô Phục Sinh. Vì thế, chúng ta cuộc sống của chúng ta luôn tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Trước Bài Tin Mừng:
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện bà Maria Mađalêla đi thăm mồ Chúa. Không thấy xác Chúa, bà về báo cho tông đồ Phêrô và Gioan. Hai ông cùng chạy đến mồ, và khi Gioan nhìn thấy ngôi mộ trống, ông đã tin rằng Chúa Kitô đã sống lại.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa Cha toàn năng đã làm Đức Kitô sống lại từ cõi chết, để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tử thần và ban cho chúng ta sự sống mới. Trong niềm tin và phó thác, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Giáo Hội, luôn vững tin vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, và nhiệt thành trong việc loan báo Tin Mừng Phục sinh cho thế giới bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng đức tin. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu luôn nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng để ánh sáng của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh chiếu tỏa trên khắp hoàn vũ, để thế giới có thêm nhiều nguời đón nhận tin mừng phục sinh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin Chúa cho mỗi Kitô hữu biết sống tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa trong mọi trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đức tin được tôi luyện trong thử thách và được tăng trưởng trong mầu nhiệm Vượt Qua và Phục Sinh của Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người trong Cộng đoàn-Giáo Xứ luôn ý thức mình là thành phần của Dân Thánh Chúa, luôn sống chan hòa tình yêu của Chúa Giêsu Phục Sinh. Đem tình yêu của Chúa Kitô phục sinh đến cho mọi người sống chung quanh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tìn hữu của Chúa đã qua đời, những linh hồn mồ côi không còn ai để nguyện cầu. Xin cho các ngài được hưởng niềm vui Phục Sinh vĩnh cửu trên thiên quốc. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại để cứu độ trần gian. Xin giúp chúng con biết đón nhận ơn Phục Sinh và xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, để triển nở ơn Phục Sinh trong cuộc sống luôn đổi mới, thánh thiện và mang niềm vui phục sinh đến cho những ai cần sống ơn phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tây Ban Nha treo cờ rũ để tưởng niệm Chúa chịu chết
Đặng Tự Do
01:34 28/03/2018
Trong thông cáo được công bố hôm thứ Ba 27 tháng Ba, 2018 bà Maria Dolores Cospedal, Bộ Trưởng Quốc Phòng Tây Ban Nha cho biết tất cả các cơ quan của Bộ Quốc phòng nước này, các doanh trại quân đội và các cơ sở khác của lực lượng vũ trang tại quốc nội và hải ngoại sẽ treo cờ rũ để tưởng niệm Chúa chịu chết.
Trong thông cáo, Bộ Quốc Phòng cho biết tất cả các cơ quan, đơn vị, căn cứ, doanh trại bao gồm tòa nhà Bộ Quốc phòng ở Madrid sẽ hạ cờ từ 2 giờ chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh đến 0h01 sáng Chúa Nhật Phục Sinh “như truyền thống” tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô trong Tuần Thánh này.
Bộ Quốc Phòng giải thích rằng thực hành này đã bắt đầu từ vài thập kỷ qua và “là một phần trong truyền thống thế tục của lực lượng vũ trang”.
Quân đội Tây Ban Nha sẽ tham dự 152 cuộc diễu hành và lễ kỷ niệm trong Tuần Thánh tại 80 thành phố trên khắp đất nước trong năm nay, bao gồm Seville, Granada, Madrid và quần đảo Canary.
Bộ Quốc phòng nhấn mạnh rằng Bộ tôn trọng quyền tự do tôn giáo của các quân nhân, và sự tham gia của các thành viên lực lượng vũ trang vào các sự kiện này là hoàn toàn tự nguyện.
Source - Catholic Herald - Spanish flags to fly at half-mast to mark death of Christ
Trong thông cáo, Bộ Quốc Phòng cho biết tất cả các cơ quan, đơn vị, căn cứ, doanh trại bao gồm tòa nhà Bộ Quốc phòng ở Madrid sẽ hạ cờ từ 2 giờ chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh đến 0h01 sáng Chúa Nhật Phục Sinh “như truyền thống” tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô trong Tuần Thánh này.
Bộ Quốc Phòng giải thích rằng thực hành này đã bắt đầu từ vài thập kỷ qua và “là một phần trong truyền thống thế tục của lực lượng vũ trang”.
Quân đội Tây Ban Nha sẽ tham dự 152 cuộc diễu hành và lễ kỷ niệm trong Tuần Thánh tại 80 thành phố trên khắp đất nước trong năm nay, bao gồm Seville, Granada, Madrid và quần đảo Canary.
Bộ Quốc phòng nhấn mạnh rằng Bộ tôn trọng quyền tự do tôn giáo của các quân nhân, và sự tham gia của các thành viên lực lượng vũ trang vào các sự kiện này là hoàn toàn tự nguyện.
Source - Catholic Herald - Spanish flags to fly at half-mast to mark death of Christ
Giám mục Quách tích Kim cuả Mân đông đã được thả nhưng cấm không được cử hành lễ Truyền Dầu.
Trần Mạnh Trác
13:50 28/03/2018
ĐGM Quách, 59 tuổi, là vị giám mục “chui” của Mân đông, được công nhận bởi Tòa Thánh nhưng chính quyền thì không cho phép và hỗ trợ một giám mục bất hợp pháp là GM Chiêm tư Lỗ (Zhan Silu,) hiện nay vẫn còn mắc vạ tuyệt thông.
Theo nhiều tin đồn cho là "sắp xảy ra" một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Vatican, thì ĐGM họ Quách đã được yêu cầu bước sang một bên nhường chỗ cho GM họ Chiêm, đã ngầm đệ đơn xin hoà giải với toà thánh Vatican, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một tuyên bố chính thức nào là đã được tha.
Theo nguồn tin cuả AsiaNews thì ĐGM Quách đã từ chối không đồng tế với GM Chiêm tại Thánh lễ Truyền Dầu vào ngày mai, vì GM Chiệm vẫn còn chính thức ở trong tình trạng tuyệt thông.
Lý do ngài bị bắt đi vì cộng đồng chui cuả Mân đông đã dự tính tổ chức một Lễ Dầu sớm hơn, do đó cảnh sát bắt ngài để ngăn chặn không cho chủ trì buổi lễ. Họ cho phép ngài về nhà ngày hôm nay, nhưng cấm không được cử hành bất kỳ nghi lễ nào trong cương vị là giám mục.
Trước viễn ảnh của cái gọi là một thỏa thuận "lịch sử" giữa Trung Quốc và Vatican, một số giám mục và cộng đồng chui đang trở thành mục tiêu cuả một âm mưu bởi Hiệp Hội Yêu Nước nhằm ve vãn và kếp nạp họ để xoá bỏ phần nào cái khối lượng cuả giáo hội ngầm.
Cũng như thế vào đầu tháng ba vừa qua, Đức Giám Mục Julius Giả trị Quốc (Jia Zhiguo) cuả giáo phận Hà Bắc đã bị bắt đi để ngăn cản ngài không thể đưa ra bình luận về cuộc đối thoại giữa Trung Quốc và Vatican với các nhà báo nước ngoài, là những người đang theo dõi Hội nghị nhân dân quốc gia tại Bắc Kinh vào lúc đó. Trong thời điểm đó, thậm chí ở một nơi xa như Hắc Long Giang, các linh mục chui, cùng với vị giám quản điạ phận Cáp Nhĩ Tân là GM Giuseppe Triệu (Zhao) cũng đã bị bắt giam suốt thời gian.
Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16
Đặng Tự Do
15:22 28/03/2018
Chiều thứ Ba 27 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 tại tu viện Mater Ecclesiae trong nội thành Vatican và chúc mừng Lễ Phục Sinh, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết như trên trong một bản thông cáo đưa ra sáng hôm sau.
Sáng sớm thứ Ba, Đức Giáo Hoàng đã viếng thăm Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh nơi có khoảng 300 người đang làm việc. Cùng với Đức ông Paolo Borgia, ngài viếng thăm và ban phép lành trong Khu Ba của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, được thành lập vào Tháng Mười Một năm ngoái cho các nhân viên ngoại giao của Toà Thánh. Đức Thánh Cha sau đó đã đích thân chào đón tất cả các quan chức và nhân viên, chúc mừng Phục Sinh và cám ơn vì sự tận tụy trong công việc của họ.
Lần cuối cùng Đức Thánh Cha Phanxicô gặp các quan chức và nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là vào tháng 4 năm 2013, sau khi ngài vừa lên ngôi Giáo Hoàng.
Source: Vatican News - Pope Francis visits Pope Benedict, Secretariat of State
Sáng sớm thứ Ba, Đức Giáo Hoàng đã viếng thăm Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh nơi có khoảng 300 người đang làm việc. Cùng với Đức ông Paolo Borgia, ngài viếng thăm và ban phép lành trong Khu Ba của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, được thành lập vào Tháng Mười Một năm ngoái cho các nhân viên ngoại giao của Toà Thánh. Đức Thánh Cha sau đó đã đích thân chào đón tất cả các quan chức và nhân viên, chúc mừng Phục Sinh và cám ơn vì sự tận tụy trong công việc của họ.
Lần cuối cùng Đức Thánh Cha Phanxicô gặp các quan chức và nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là vào tháng 4 năm 2013, sau khi ngài vừa lên ngôi Giáo Hoàng.
Source: Vatican News - Pope Francis visits Pope Benedict, Secretariat of State
ĐGH Phanxicô: Tam Nhật Thánh là trung tâm điểm của niềm tin Kitô Giáo
Giuse Thẩm Nguyễn
17:40 28/03/2018
(Vatican News) Trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần vào Thứ Tư ngày 28 tháng Ba năm 2018, ĐGH đã nói về Tam Nhật Thánh và mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên khí cụ cứu rỗi và hy vọng cho những anh chị em đau khổ của chúng ta. Tam Nhật Thánh hay “ba ngày” là trung tâm của niềm tin và ơn gọi của chúng ta nơi trần thế. Tam Nhật Thánh bắt đầu bằng nghi thức Rửa Chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly của Chúa vào chiều Thứ Năm và kết thúc vào Chúa Nhật Phục Sinh. ĐGH nói rằng người tín hữu được mời gọi để sống mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại như là “lẽ sống của đời sống cá nhân và đời sống cộng đoàn.”
Tuyên xưng phục sinh là cao điểm
ĐGH nói rằng cao điểm năm phụng vụ của Giáo hội được tuyên xưng vào Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh trong lời nguyện: “Đức Kitô, niềm hy vọng của con, đã hồi sinh; Ngài sẽ đến Galile trước “. Ngài gọi đây là “một lời tuyên xưng vui mừng và hy vọng” và “là một lời mời gọi tinh thần trách nhiệm và sứ mạng.”
Tam Nhật Thánh là thời gian chúng ta chuẩn bị cho lời tuyên xưng này.” Đó là tâm điểm của niềm tin và hy vọng của chúng ta. Đó là cao điểm việc tiếp tục loan báo tin mừng trong Giáo Hội và rồi bước ra ngoài để phúc âm hóa thế giới.
ĐGH nói rằng Tam Nhật Thánh làm sống lại “ý nghĩa đời sống mới của người tín hữu” khi chịu phép rửa tội. Thật vậy, khi chịu Phép Rửa Tội, chúng ta cùng sống lại với Chúa Giê-su và chúng ta chết cho những gì thuộc về thế gian.
Chia sẻ nỗi đau thươmg của anh chị em.
ĐGH nói rằng ý nghĩa đời sống mới này phải được sống mỗi ngày một cách cụ thể.
“Là một Kitô hữu, nếu họ thực sự để cho Chúa thanh tẩy và lột bỏ “con người cũ” của mình để bước vào đời sống mới, ngay cả khi họ vẫn còn là một tội nhân, thì không thể bị tha hóa. Người Kitô hữu ấy không thể tiếp tục sống được nữa nếu linh hồn họ đã chết cũng như họ không thể là nguyên nhân của sự chết.
ĐGH Phanxico nói rằng thế giới này trở nên “không gian để sống đời sống phục sinh mới của chúng ta.”
Chúng ta được kêu gọi để làm điều này, “bằng cách đứng bằng đôi chân của mình và ngẫng đầu cao thì chúng ta có thể chia sẻ sự tủi nhục của những người mà hôm nay giống như Chúa Giê-su, vẫn còn bị chịu cảnh trần truồng, đói khát, lẻ loi và cái chết.”
ĐGH nói rằng nhờ Chúa Giê-su và cùng với Người mà chúng ta trở nên “ khí cụ cứu rỗi và hy vọng, cũng như dấu chỉ của cuộc sống và sự phục sinh.”
Mẹ Đồng Trinh Maria là mẫu gương.
ĐGH kết thúc bài chia sẻ bằng việc mời gọi tất cả các Kitô hữu “ hãy sống tốt lành trong Tam Nhật Thánh” và “ đi sâu hơn vào mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại.”
Nguyện xin Mẹ Maria Đồng Trinh “cùng đồng hành với chúng con trong cuộc hành trình đức tin này. Mẹ là Đấng đã bước theo Chúa trong cuộc khổ nạn của Người, đã hiện diện với Người khi đứng dưới chân Thánh Giá và đã đón nhận niềm vui phục sinh của Chúa Giê-su, con Mẹ.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Tuyên xưng phục sinh là cao điểm
ĐGH nói rằng cao điểm năm phụng vụ của Giáo hội được tuyên xưng vào Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh trong lời nguyện: “Đức Kitô, niềm hy vọng của con, đã hồi sinh; Ngài sẽ đến Galile trước “. Ngài gọi đây là “một lời tuyên xưng vui mừng và hy vọng” và “là một lời mời gọi tinh thần trách nhiệm và sứ mạng.”
Tam Nhật Thánh là thời gian chúng ta chuẩn bị cho lời tuyên xưng này.” Đó là tâm điểm của niềm tin và hy vọng của chúng ta. Đó là cao điểm việc tiếp tục loan báo tin mừng trong Giáo Hội và rồi bước ra ngoài để phúc âm hóa thế giới.
ĐGH nói rằng Tam Nhật Thánh làm sống lại “ý nghĩa đời sống mới của người tín hữu” khi chịu phép rửa tội. Thật vậy, khi chịu Phép Rửa Tội, chúng ta cùng sống lại với Chúa Giê-su và chúng ta chết cho những gì thuộc về thế gian.
Chia sẻ nỗi đau thươmg của anh chị em.
ĐGH nói rằng ý nghĩa đời sống mới này phải được sống mỗi ngày một cách cụ thể.
“Là một Kitô hữu, nếu họ thực sự để cho Chúa thanh tẩy và lột bỏ “con người cũ” của mình để bước vào đời sống mới, ngay cả khi họ vẫn còn là một tội nhân, thì không thể bị tha hóa. Người Kitô hữu ấy không thể tiếp tục sống được nữa nếu linh hồn họ đã chết cũng như họ không thể là nguyên nhân của sự chết.
ĐGH Phanxico nói rằng thế giới này trở nên “không gian để sống đời sống phục sinh mới của chúng ta.”
Chúng ta được kêu gọi để làm điều này, “bằng cách đứng bằng đôi chân của mình và ngẫng đầu cao thì chúng ta có thể chia sẻ sự tủi nhục của những người mà hôm nay giống như Chúa Giê-su, vẫn còn bị chịu cảnh trần truồng, đói khát, lẻ loi và cái chết.”
ĐGH nói rằng nhờ Chúa Giê-su và cùng với Người mà chúng ta trở nên “ khí cụ cứu rỗi và hy vọng, cũng như dấu chỉ của cuộc sống và sự phục sinh.”
Mẹ Đồng Trinh Maria là mẫu gương.
ĐGH kết thúc bài chia sẻ bằng việc mời gọi tất cả các Kitô hữu “ hãy sống tốt lành trong Tam Nhật Thánh” và “ đi sâu hơn vào mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại.”
Nguyện xin Mẹ Maria Đồng Trinh “cùng đồng hành với chúng con trong cuộc hành trình đức tin này. Mẹ là Đấng đã bước theo Chúa trong cuộc khổ nạn của Người, đã hiện diện với Người khi đứng dưới chân Thánh Giá và đã đón nhận niềm vui phục sinh của Chúa Giê-su, con Mẹ.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Phận Phan Thiết: Thánh Lễ Truyền Dầu tại Nhà Thờ Chính Tòa
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
09:27 28/03/2018
Hình ảnh
Khởi đầu Thánh lễ, Đức Cha Tôma ngỏ lời với cộng đoàn Phụng vụ:
Anh Em linh mục thân mến,
Trong niêm vui thánh thiện của ngày Thứ Năm thánh kỷ niệm Chúa Giêsu lập Chức linh mục thừa tác, anh em linh mục chúng ta cùng với mọi thành phần dân Chúa đang hiện diện nơi Nhà thờ Chánh tòa, hiệp dâng lên Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô, Linh mục tối cao và Mục tử nhân lành, lời chúc tụng tôn vinh và tâm tình cảm tạ tri ân vì biết bao ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta và giáo đoàn.
Ạnh Chị Em Tu sĩ, Chủng sinh và các Tín hữu thân mến,
Anh chị em hiện diện trong thánh lễ Dầu sáng nay để cùng chúng tôi dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng tôi hồng ân thiên chức linh mục, để nghe chúng tôi lập lại lời tuyên hứa khi thụ phong là luôn yêu mến Chúa Kitô và phục vụ Hội Thánh với tinh thần trách nhiệm và vô vị lợi, để cầu nguyện cho chúng tôi được đầy tràn ơn sủng, hầu trở nên tôi tớ trung thành của Chúa và của anh chị em và để cùng với anh chị em lắng nghe và rao giảng Tin Mừng, nhờ đó chúng ta sẽ được muôn ơn lành hồn xác.
Mỗi năm chỉ một lần, lễ truyền dầu được cử hành vào giữa Tuần Thánh, cộng đoàn gồm mọi thành phần dân Chúa bày tỏ tình hiệp thông và hiệp nhất trong thánh lễ này. Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục. Niềm vui ngày sinh nhật chính là sức mạnh của các linh mục sẽ thể hiện qua đời sống phục vụ cộng đoàn.Thánh lễ truyền dầu ghi đậm nét hình ảnh sống động của giáo hội địa phương. Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh “Christus Dominus” đã xác định: “Giáo phận là một phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám mục chăm sóc, với sự cộng tác của linh mục đoàn, để nhờ liên kết với vị chủ chăn của mình và qua ngài, Giáo phận được tập trung trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc âm và Thánh Thể, làm thành một Giáo hội riêng biệt, trong đó Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công Giáo và Tông truyền của Chúa Kitô hiện diện và hành động thực sự.” (CD 11).
Đức cha Tôma giảng lễ với chủ đề “Xin Cha thánh hiến họ trong Sự Thật”
Trong huấn từ giã biệt các môn đệ, trước khi bước vào cuộc thương khó và chết trên thập gía, Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa Cha cho các môn đệ thân yêu của Người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ đang vây quanh Người trong nhà Tiệc Ly, và Người cũng nhìn thấy trước cộng đoàn các môn đệ của mọi thời đại “những người, nhờ lời họ, mà tin vào Con” (Ga 17, 20). Trong lời cầu cho các môn đệ, Chúa cũng thấy và cầu nguyện cho tất cả chúng ta, những thế hệ môn đệ của Tân Ước: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian. Con xin thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17, 17-20). Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ được thánh hiến trong sự thật.
Linh mục được thánh hiến cho Chúa.
Thánh hiến là đưa ra khỏi thế gian và dành riêng cho Thiên Chúa. Một người được thánh hiến thì không còn thuộc về người khác và cũng không thuộc về chính mình, nhưng thuộc về một mình Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, Chúa Giêsu xin Chúa Cha “thánh hiến các môn đệ trong sự thật”: đó là sự tháp nhập các môn đệ vào chức tư tế của Chúa và thiết lập chức tư tế Tân Ước cho cộng đoàn các tín hữu thuộc mọi thời đại.
“Xin Cha thánh hiến họ trong sự thật”: đây thật là lời nguyện thánh hiến các môn đệ. Chúa Giêsu xin Thiên Chúa Cha lôi kéo họ về với Người trong sự thánh thiện của Người và nhận họ như sở hữu của Người để từ Người, họ có thể thi hành chức vụ tư tế cho toàn dân Chúa.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu còn cho thấy ý nghĩa sâu xa của đời sống linh mục là một đời sống gắn liền với cuộc thánh hiến được thực hiện trong Sự Thật. Lời của Thiên Chúa là Sự Thật, Lời có sức thanh tẩy, biến đổi và đưa những con người mỏng dòn đầy giới hạn vào trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa. Để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, để thật sự trở nên bạn hữu của Chúa Kitô và để thánh hoá bản thân, các linh mục phải sống đúng theo Chân lý mà Chúa Cha đã mạc khải nơi Chúa Con, phải thực thì Sự Thật toàn vẹn nhờ sự soi sáng, nhắc nhở và dạy bảo của Chúa Thánh Thần. Con đường nên thánh trong Sự Thật trong Chúa Kitô, không gì khác hơn là một tiến trình gắn kết liên lỉ và mật thiết với Thiên Chúa tình yêu trong nỗ lực sống, suy nghĩ và hành động ngày càng giống Chúa Kitô hơn. “Chúa Kitô là Đường, là sự Thật và là Sự Sống” phải trở nên khuôn mẫu để định hình và xây dựng nếp sống thánh hiến của đời linh mục. Lời mạc khải Sự Thật phải luôn là ánh sáng và sức mạnh cho linh mục trong đời sống nội tâm và hoạt động mục vụ. Chính Lời Chúa sẽ thanh luyện và đổi mới những gì còn bất toàn sai lỗi, sẽ nâng cao và hoàn thiện những gì còn nông cạn hời hợt, sẽ củng cố và bổ khuyết những gì còn yếu đuối thấp hèn.
Linh mục gia tăng kết hiệp với Chúa Kitô.
Bản chất linh mục không gì khác hơn là một cách thức mới để kết hiệp với Chúa Kitô. Sự kết hiệp này được ban cho chúng ta trong bí tích Truyền Chức. Những lời hứa mà hôm nay chúng ta lập lại khẳng định rằng ý chí chúng ta phải hướng về sự kết hiệp ngày càng mật thiết hơn và trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu. Kết hiệp với Chúa Kitô đòi hỏi phải từ bỏ, đòi chúng ta không được áp đặt con đường và ý chí của chúng ta vào con đường và thánh ý Chúa, chúng ta không được muốn trở thành điều này hay điều khác, nhưng phó thác cho Chúa, bất cứ ở đâu và theo thể thức nào Chúa muốn sử dụng chúng ta.
Trong lời thưa xin vâng khi chịu chức linh mục, chúng ta đã thực hiện sự từ bỏ cơ bản ý muốn được tự trị, ý muốn tự thể hiện chính mình. Ngày qua ngày, chúng ta cần phải thực hiện lời thưa xin vâng cao cả ấy trong nhiều sự xin vâng nhỏ bé và những việc từ bỏ bé nhỏ. Những sự từ bỏ bé nhỏ này chỉ có thể thực hiện không cay đắng, không tiếc xót, nếu Chúa Kitô thực sự ở trung tâm đời sống chúng ta, nếu chúng ta sống thân mật thực sự với Chúa. Như thế, giữa những từ bỏ thoạt đầu có thể gây ra đau đớn, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui gia tăng nhờ tình bạn mật thiết với Chúa.
Chìm đắm trong Sự Thật, trong Chúa Kitô, đó là điều thuộc về kinh nguyện hằng ngày, nơi đó chúng ta tập luyện sống tình bạn với Chúa và học biết Người: học biết cách sống, cách tư tưởng và hành động của Chúa. Cầu nguyện là bước đi trong sự hiệp thông bản thân với Chúa Kitô, trình bày cho Người cuộc sống hằng ngày của chúng ta, những thành công và thất bại, những cơ cực vất vả và vui mừng là trình bày chính bản thân chúng ta trước nhan Chúa để Ngài yêu mến, thanh luyện, và canh tân.
Anh em linh mục thân mến,
“Phần các con hãy là chứng nhân cho Thầy”. Làm chứng cho Thầy bằng việc nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, để Tin Mừng trở nên lương thực bồi dưỡng đời sống tâm linh của các tín hữu. Đồng thời, bằng tác vụ và tình yêu mục tử, chúng ta trở nên gạch nối hòa giải con người với Chúa và con người với nhau; bằng lời khuyên bảo, dẫn đưa mọi người đến với Chúa, để Chúa chữa lành, xoa dịu và ban muôn ơn lành hồn xác.
Chúng ta, mỗi người, với ơn gọi và sứ mạng của người đã được xức Dầu thánh, trong tinh thần yêu thương và phục vụ, sẽ hiệp nhất với nhau để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, đem Tin Mừng là niềm vui, ánh sáng và niềm hy vọng, ẩn chứa trong Lời Chúa và Thánh Thể, cho người nghèo khổ, cho người bị ốm đau tuyệt vọng, cho người thất thế cô thân, cho người bị tội lỗi dày vò, cho những người dững dưng lãnh đạm với hồng ân của Thiên Chúa. Xin cho mọi người được ơn chữa lành nhờ Tin Mừng của Chúa Kitô.
Hằng năm, vào dịp lễ Dầu ngày thứ Năm thánh, các linh mục được mời gọi cùng với giám mục cử hành lễ kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền Chức thánh và Chức Linh mục thừa tác, đồng thời kỷ niệm chung ngày chúng ta được lãnh nhận thiên chức linh mục. Trước khi cử hành nghi thức làm phép Dầu, Giáo Hội muốn chúng ta cùng nhau lập lại các lời tuyên hứa ngày thụ phong linh mục. Việc lập lại lời hứa nầy không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng phải là một tự vấn lương tâm về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu Mục Tử, về việc thì hành tác vụ mục tử với tinh thần trách nhiệm cao đối với đàn chiên được ủy thác, và về việc trung thành tuân giữ các cam kết ngày thụ phong.
Việc lập lại các lời tuyên hứa nầy phải là một dấn thân mới, một cuộc xuất hành mới đầy nhiệt huyết và đạo đức của đời sống và tác vụ linh mục của chúng ta. Xin Chúa Giêsu Linh mục thượng phẩm và Mục tử nhân lành phù trợ chúng ta.
Giờ đây, trước sự hiện diện và cùng với cộng đoàn dân Chúa, chúng ta cùng nhau cùng lập lại các lời tuyên hứa của ngày thụ phong linh mục.
Linh mục đoàn lập lại lời hứa vâng phục, thánh hóa và giảng dạy theo tinh thần Phúc Âm,
nhất là noi gương vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Được làm môn đệ Chúa Kitô là một thiên chức cao quý. Đức Giám Mục xin cho đời sống các linh mục:
- Tuyên hứa linh mục là lời tuyên hứa trước giám mục và cộng đoàn.
- Chấp nhận trách nhiệm phụng vụ cộng đoàn được giao phó, trung thành với lời hứa.
- Quản lý trung thành đối với các mầu nhiệm của Thiên Chúa khi rao giảng Lời Chúa.
- Thi hành chức vụ của mình một cách nhiệt thành và vô vị lợi.
- Trở nên những tôi tớ trung thành của Đức Kitô Thượng Tế.
- Dẫn đưa người trao được trao phó đến với Chúa Kitô là nguồn mạch duy nhất của ơn cứu độ.
Tiếp theo, cộng đoàn dân Chúa cũng nói lên sự quyết tâm cộng tác của mình với hàng Giáo sĩ và hiệp lời cầu nguyện cho các ngài.
Sau đó là nghi thức làm phép Dầu. Ba bình dầu được các Phó tế rước lên cung thánh và trao cho Đức Giám Mục chủ sự. Ngài lần lượt làm phép Dầu Bệnh Nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến Dầu Thánh.
Dầu Thánh được dành một nghi thức Thánh hiến long trọng: Đức Giám Mục pha thuốc thơm vào dầu, biểu tượng cho những nhân đức mà Thánh Thần tuôn đổ trong người được xức Dầu Thánh này. Đức Giám Mục im lặng thổi hơi trên dầu là biểu tượng việc thông ban Thánh Thần. Chỉ với Thánh Thần mà Dầu Thánh mới có sức thánh hóa và biến đổi người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thông phần chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Ngài.
Mỗi tín hữu trở thành con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô, trở nên những viên đá sống động của Đền Thờ Chúa Thánh Thần thông qua việc lãnh nhận các loại dầu thánh trong các cử hành. Nếu dầu tăng lực dành cho các tân tòng chống lại ma quỷ và được bước vào gia đình Giáo hội; dầu gia tăng sức mạnh chống lại bệnh tật trong Bí tích Xức dầu, giúp duy trì sức khỏe; thì cách riêng, dầu Thánh qua 3 bí tích Rửa tội, Thêm sức, Truyền chức đã để lại những dấu ấn không phai nhòa trong đời sống.
Sau nghi thức, cộng đoàn bước vào phụng vụ Thánh Thể.
Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục, ngày sinh nhật từng linh mục. Mỗi linh mục cảm nhận niềm vui này qua lời đáp ca: “Con xin ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời”. Mỗi linh mục cảm nhận về hồng ân Thánh Thần hiện diện, cảm nhận được Chúa xức dầu, được Chúa sai trên bước đường sứ vụ.
Xin cầu nguyện cho các linh mục để các ngài được trưởng thành trong Đức Kitô, trung thành với lời cam kết và nhiệt thành với sứ vụ của mình. Xin cầu nguyện cho các linh mục say mê Đức Kitô, như Thánh Phaolô: “Đối với tôi sự sống là Đức Kitô” (x. Pl 1,21).
Người giáo dân yêu mến và luôn cầu nguyện cho các linh mục hàng ngày. Để thực sự trở thành bạn hữu của Chúa, linh mục phải hiểu biết Chúa, phải kết hợp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện và phải kết hợp mật thiết với anh em.
Thánh lễ Truyền Dầu tại Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng
Giuse Trần Ngọc Huấn
20:54 28/03/2018
Vào hồi 10 giờ sáng thứ Tư Tuần Thánh, ngày 28 tháng 3 năm 2018, tại Nhà thờ Chính Tòa Lạng Sơn, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng – đã chủ sự Thánh lễ Truyền Dầu. Đồng tế với ngài có tất cả các linh mục triều và dòng đang làm mục vụ tại Giáo phận. Tham dự thánh lễ có đông đảo quý tu sỹ nam nữ, chủng sinh, ứng sinh và mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận.
Xem Hình
Bước vào Thánh lễ, Đức cha Giuse ngỏ lời với cộng đoàn Phụng vụ về ý nghĩa của Thánh lễ hôm nay.
Trước hết, ngài nói: Dù không mấy rộn ràng bên ngoài, đối với chúng ta, hôm nay là một ngày Hội lớn: Ngày Hội của dân Chúa, Dân Tư tế, Dân Vương đế và Cộng đoàn chư Thánh. Hôm nay là ngày mà Linh mục, tu sỹ, chủng sinh và đại diện Giáo dân trong toàn Giáo phận cùng sum họp quanh Đức Giám Mục Giáo phận của mình tại Nhà thờ Chính Tòa, làm thành hình ảnh sống động của Thân thể Mầu nhiệm Chúa Kitô, diễn tả sinh động gương mặt của Giáo hội địa phương.
Đức cha đề cập tới ý nghĩa thứ hai: Hôm nay cũng được coi là ngày kỷ niệm Chúa Giêsu thiết lập chức Linh mục thừa tác – ngày Sinh nhật của chức Linh mục, cùng với việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, vì thế các Linh mục trong Thánh lễ này được mời gọi lặp lại những lời hứa và tâm tình trong ngày thụ phong Linh mục.
Cuối cùng, Đức cha nói đến nghi thức làm phép các loại dầu Bệnh nhân, Dự tòng và Thánh hiến Dầu Thánh sẽ được cử hành trong Thánh lễ hôm nay. Dầu là dấu chỉ Bí tích Cứu độ của Thiên Chúa trao ban cho con người, được phân phát qua thừa tác viên Linh mục trong Giáo hội. Dầu cũng nói lên sự phong phú, hạnh phúc, chữa lành, thánh thiện và là sợi dây hiệp thông nối kết mọi thành viên trong Đại Gia đình Hội Thánh Chúa.
Mở đầu bài giảng, Đức cha Giuse dẫn lời Cha Thánh Gioan Maria Vianey về sứ vụ Linh mục: “Linh mục là hồng ân cao cả nhất mà Thiên Chúa trao ban cho con người”. Sau khi về trời, Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa con người và nơi Hội Thánh qua thiên chức Linh mục ngài thiết lập, để qua đó tiếp tục sứ vụ cứu độ con người qua mọi nơi mọi thời cho đến tận thế. Linh mục là “người được Xức dầu bằng Thánh Thần” và được sai đi loan báo Tin Mừng, cử hành Hy tế Cứu độ của Chúa Giêsu giữa lòng nhân thế.
Ngỏ lời với các Linh mục, Đức cha Giuse nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sứ vụ mà các Linh mục đang được trao phó và thi hành. Linh mục rất cao trọng. Nhưng đây không phải là chức tước hay quyền bính trần gian, nhưng Linh mục được xức dầu Thánh hiến để trở nên một Alter Christus – Chúa Kitô khác – giữa Dân Thánh được trao phó cho mình. Sự hiện diện của người Linh mục giữa dân Chúa là một Ơn gọi từ Cung lòng Thiên Chúa từ ngàn xưa. Người Linh mục sống giây phút cuộc đời thánh hiến của mình giữa lòng Dân Thánh, cử hành Phụng vụ giữa “trăm con mắt đổ dồn về phía mình”. Đức cha mời gọi các cha hãy luôn sống lại “những cảm xúc và ấn tượng mạnh mẽ trong ngày thụ phong Linh mục”, hãy ý thức “Chúa Giêsu đang hiện diện trong anh em” và luôn mang niềm vui cứu độ đến cho dân Chúa nhân danh Chúa Giêsu Mục Tử.
Đức cha Giuse nhắc lại những lời trong Nghi thức Truyền chức Linh mục và Phó tế mà ngài coi chính là “những lời chuyển giao tâm huyết”, không chỉ giao cho mỗi vị một lần trong đời, nhưng là những tâm niệm và chỉ nam quy luật sống, những lời mà mỗi người phải lặp đi lặp lại trong suốt hành trình Linh mục để nuôi dưỡng sứ vụ, ơn gọi và tâm tình của người Linh mục. Khi lãnh nhận một Sứ vụ, người Linh mục bước vào cả một chân trời mênh mông, một cánh đồng bát ngát, đòi hỏi phải có một tấm lòng, phải dành cả cuộc đời để thi hành. Đức cha mời gọi các linh mục hãy để tâm, để trí vào công việc được trao phó, khi đó công việc ấy mới trở thành mục vụ, mới có niềm vui mục vụ thực sự: Hiến thân mình cho anh em theo gương Chúa Giêsu Mục Tử, luôn trung thành và hiệp thông, luôn hướng đến một “Trời mới Đất mới”. Người Linh mục được mời gọi đừng bao giờ thất vọng trước bất cứ biến cố nào xảy đến trong đời, hãy sống trọn căn tính và thực thi sứ vụ một cách xứng đáng “nhờ Người, với Người và trong Người, ngay giữa lòng Hội Thánh.
Với vai trò là Giám mục Giáo phận, cũng là người Anh em, người Đồng hành và Đồng nghiệp với các Linh mục, Đức cha Giuse hứa sẽ sát cánh với các Linh mục trong việc coi sóc và hướng dẫn dân Chúa trong từng xứ đạo gần xa, trong từng sứ vụ lớn nhỏ, để mục vụ và đời sống các Linh mục được thăng tiến. Đức cha cũng mong các Linh mục quan tâm nâng đỡ ngài trong sứ vụ, thánh chức cũng như thánh phẩm, đặc biệt là cùng hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện và chung tay xây dựng ngôi Nhà chung của Giáo phận thân yêu này.
Trong Bài giảng, Đức cha Giuse cũng bày tỏ những tâm tình với dân Chúa trong Giáo phận. Người tín hữu cũng đã lãnh nhận chức Tư tế cộng đồng, cũng được Xức dầu và được sai đi. Do đó, hãy quyết tâm chu toàn nhiệm vụ cao quý của mình trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Mỗi người đều có phận vụ của mình trong đời sống Giáo hội, cộng tác với các Mục tử trong cánh đồng truyền giáo bao la đầy thách đố nhưng cũng đang thúc bách.
Đức cha mời gọi mỗi tín hữu hãy yêu mến các Linh mục, hãy cư xử với các Linh mục trong tâm tình con thảo, nên những cộng sự viên đắc lực và thân tín của các Linh mục để xây dựng Giáo hội, xây dựng Cộng đoàn, đồng thời quảng đại bù đắp những thiếu sót nơi các Linh mục, nâng đỡ động viên các ngài và nhất là cầu nguyện cho các ngài. Hãy luôn tâm niệm rằng: Đừng chỉ nghĩ Giáo hội đã làm gì cho tôi, nhưng phải suy nghĩ rằng tôi đã làm gì cho Giáo hội, cho Giáo phận và chính Xứ đạo của tôi!
Ngỏ lời với các tu sĩ nam nữ, nhưng phần Chi thể đặc biệt, làm phong phú và tô điểm xinh đẹp cho Nhiệm thể Giáo hội, Đức cha Giuse “trân trọng ghi nhận và biết ơn những hy sinh công hiến” của họ cho Thiên Chúa và Giáo phận. Ngài mong rằng các tu sỹ sẽ luôn sát cánh với các vị Mục tử và với nhau trên cánh đồng truyền giáo tại Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hôm nay, tất cả vì lợi ích các Linh hồn và xây dựng Hội Thánh.
Cuối cùng, Đức cha nói: Trong Thánh lễ này, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban chức Linh mục và các Linh mục cho chúng ta. Các loại Dầu được làm phép và Thánh hiến hôm nay sẽ nhắc lại những Bí tích chúng ta đã và sẽ lãnh nhận qua các Linh mục. Tất cả đều là chứng tích của Tình yêu Thiên Chúa và sự chăm sóc của Giáo hội là Mẹ hiền. Đức cha kết thúc Bài giảng trong tâm tình phó thác, xin Đức Mẹ, các Thánh nâng đỡ để mỗi thành viên trong Gia đình Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hôm nay luôn biết sống yêu thương phục vụ, hiệp nhất và bình an.
Sau bài giảng, các Linh mục tiến đến trước bàn thờ, quy tụ quanh Đức Giám Mục để lặp lại lời tuyên hứa trong ngày lãnh thánh chức Linh mục: gắn bó với Chúa Ki-tô, trở nên người quản gia trung thành khi thi hành chức vụ, nhiệt thành và vô vị lợi… là những lời hứa khi các Ngài nhận tác vụ linh mục. Việc lặp lại lời hứa hôm nay làm tươi trẻ lại tình yêu của các ngài với Chúa Giêsu, thúc đẩy các ngài hiến mình phục vụ tha nhân với động lực duy nhất là làm vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa nhân loại. Đức Cha mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài thực sự trở nên hình ảnh Chúa Ki-tô sống động, là mục tử như lòng Chúa mong ước.
Tiếp theo, Đức cha Giuse cử hành nghi thức Làm phép Dầu.
Dầu bệnh nhân (OI): Qua việc xức dầu này, Hội thánh xin Chúa xoa dịu thân xác bệnh nhân, làm thuyên giảm những đau đớn và giúp các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và hy vọng vào Chúa.
Dầu dự tòng (OS): Dầu này được xức cho các dự tòng trước khi rửa tội, trong ý chỉ xin Chúa ban sức mạnh cho các anh chị em dự tòng biết tránh xa tội lỗi. Đồng thời như một bảo chứng ơn lành của Chúa luôn đồng hành trong cuộc đời của họ.
Dầu Thánh (SC): Đây là dầu có pha thuốc thơm để dùng trong 3 Bí tích có ghi ấn tín vĩnh viễn, là Rửa tội, Thêm sức và Truyền Chức thánh. Đồng thời dầu này còn được dùng để cung hiến Bàn Thờ và Nhà Thờ.
Ba bình dầu được 3 thầy Phó tế của Giáo phận cung kính rước lên Cung thánh và trao cho Đức cha Giuse. Ngài lần lượt làm phép Dầu Bệnh Nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến Dầu Thánh. Việc thánh hiến Dầu Thánh được cử hành với một nghi thức Thánh hiến long trọng: Trước tiên, Đức Giám Mục pha thuốc thơm vào dầu, biểu tượng cho những nhân đức mà Thánh Thần tuôn đổ trong người được xức Dầu Thánh này. Kế đó, ngài im lặng thổi hơi trên dầu là biểu tượng việc thông ban Thánh Thần. Chỉ với Thánh Thần mà Dầu Thánh mới có sức thánh hóa và biến đổi người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thông phần chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Người.
Thánh lễ truyền Dầu của Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng khép lại bằng phép lành với ơn toàn xá cuối lễ từ Đức cha chủ tế. Sau đó, Dầu được cung kính rước vào phòng thánh để các Linh mục nhận về cho các giáo xứ sử dụng quanh năm Phụng vụ.
Sau Thánh lễ, Đức cha, quý Cha và toàn thể cộng đoàn cùng dự bữa tiệc gia đình tại Tòa Giám mục Lạng Sơn, mừng Sinh nhật chức Linh mục Thừa tác và mừng ngày đại lễ của Giáo phận hôm nay.
Cộng đoàn tín hữu ra về với tâm tình tạ ơn vì muôn hồng ân Chúa ban cho Giáo phận và trên từng người. Đồng thời, mọi người cũng hân hoan và sốt sắng chuẩn bị bước vào các cử hành nghi thức của Tam Nhật Thánh, để hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô để được lãnh nhận tràn đầy Ơn Cứu độ và Ánh sáng Phục Sinh của Người.
Ban truyền thông Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng
Xem Hình
Bước vào Thánh lễ, Đức cha Giuse ngỏ lời với cộng đoàn Phụng vụ về ý nghĩa của Thánh lễ hôm nay.
Trước hết, ngài nói: Dù không mấy rộn ràng bên ngoài, đối với chúng ta, hôm nay là một ngày Hội lớn: Ngày Hội của dân Chúa, Dân Tư tế, Dân Vương đế và Cộng đoàn chư Thánh. Hôm nay là ngày mà Linh mục, tu sỹ, chủng sinh và đại diện Giáo dân trong toàn Giáo phận cùng sum họp quanh Đức Giám Mục Giáo phận của mình tại Nhà thờ Chính Tòa, làm thành hình ảnh sống động của Thân thể Mầu nhiệm Chúa Kitô, diễn tả sinh động gương mặt của Giáo hội địa phương.
Đức cha đề cập tới ý nghĩa thứ hai: Hôm nay cũng được coi là ngày kỷ niệm Chúa Giêsu thiết lập chức Linh mục thừa tác – ngày Sinh nhật của chức Linh mục, cùng với việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, vì thế các Linh mục trong Thánh lễ này được mời gọi lặp lại những lời hứa và tâm tình trong ngày thụ phong Linh mục.
Cuối cùng, Đức cha nói đến nghi thức làm phép các loại dầu Bệnh nhân, Dự tòng và Thánh hiến Dầu Thánh sẽ được cử hành trong Thánh lễ hôm nay. Dầu là dấu chỉ Bí tích Cứu độ của Thiên Chúa trao ban cho con người, được phân phát qua thừa tác viên Linh mục trong Giáo hội. Dầu cũng nói lên sự phong phú, hạnh phúc, chữa lành, thánh thiện và là sợi dây hiệp thông nối kết mọi thành viên trong Đại Gia đình Hội Thánh Chúa.
Mở đầu bài giảng, Đức cha Giuse dẫn lời Cha Thánh Gioan Maria Vianey về sứ vụ Linh mục: “Linh mục là hồng ân cao cả nhất mà Thiên Chúa trao ban cho con người”. Sau khi về trời, Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa con người và nơi Hội Thánh qua thiên chức Linh mục ngài thiết lập, để qua đó tiếp tục sứ vụ cứu độ con người qua mọi nơi mọi thời cho đến tận thế. Linh mục là “người được Xức dầu bằng Thánh Thần” và được sai đi loan báo Tin Mừng, cử hành Hy tế Cứu độ của Chúa Giêsu giữa lòng nhân thế.
Ngỏ lời với các Linh mục, Đức cha Giuse nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sứ vụ mà các Linh mục đang được trao phó và thi hành. Linh mục rất cao trọng. Nhưng đây không phải là chức tước hay quyền bính trần gian, nhưng Linh mục được xức dầu Thánh hiến để trở nên một Alter Christus – Chúa Kitô khác – giữa Dân Thánh được trao phó cho mình. Sự hiện diện của người Linh mục giữa dân Chúa là một Ơn gọi từ Cung lòng Thiên Chúa từ ngàn xưa. Người Linh mục sống giây phút cuộc đời thánh hiến của mình giữa lòng Dân Thánh, cử hành Phụng vụ giữa “trăm con mắt đổ dồn về phía mình”. Đức cha mời gọi các cha hãy luôn sống lại “những cảm xúc và ấn tượng mạnh mẽ trong ngày thụ phong Linh mục”, hãy ý thức “Chúa Giêsu đang hiện diện trong anh em” và luôn mang niềm vui cứu độ đến cho dân Chúa nhân danh Chúa Giêsu Mục Tử.
Đức cha Giuse nhắc lại những lời trong Nghi thức Truyền chức Linh mục và Phó tế mà ngài coi chính là “những lời chuyển giao tâm huyết”, không chỉ giao cho mỗi vị một lần trong đời, nhưng là những tâm niệm và chỉ nam quy luật sống, những lời mà mỗi người phải lặp đi lặp lại trong suốt hành trình Linh mục để nuôi dưỡng sứ vụ, ơn gọi và tâm tình của người Linh mục. Khi lãnh nhận một Sứ vụ, người Linh mục bước vào cả một chân trời mênh mông, một cánh đồng bát ngát, đòi hỏi phải có một tấm lòng, phải dành cả cuộc đời để thi hành. Đức cha mời gọi các linh mục hãy để tâm, để trí vào công việc được trao phó, khi đó công việc ấy mới trở thành mục vụ, mới có niềm vui mục vụ thực sự: Hiến thân mình cho anh em theo gương Chúa Giêsu Mục Tử, luôn trung thành và hiệp thông, luôn hướng đến một “Trời mới Đất mới”. Người Linh mục được mời gọi đừng bao giờ thất vọng trước bất cứ biến cố nào xảy đến trong đời, hãy sống trọn căn tính và thực thi sứ vụ một cách xứng đáng “nhờ Người, với Người và trong Người, ngay giữa lòng Hội Thánh.
Với vai trò là Giám mục Giáo phận, cũng là người Anh em, người Đồng hành và Đồng nghiệp với các Linh mục, Đức cha Giuse hứa sẽ sát cánh với các Linh mục trong việc coi sóc và hướng dẫn dân Chúa trong từng xứ đạo gần xa, trong từng sứ vụ lớn nhỏ, để mục vụ và đời sống các Linh mục được thăng tiến. Đức cha cũng mong các Linh mục quan tâm nâng đỡ ngài trong sứ vụ, thánh chức cũng như thánh phẩm, đặc biệt là cùng hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện và chung tay xây dựng ngôi Nhà chung của Giáo phận thân yêu này.
Trong Bài giảng, Đức cha Giuse cũng bày tỏ những tâm tình với dân Chúa trong Giáo phận. Người tín hữu cũng đã lãnh nhận chức Tư tế cộng đồng, cũng được Xức dầu và được sai đi. Do đó, hãy quyết tâm chu toàn nhiệm vụ cao quý của mình trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Mỗi người đều có phận vụ của mình trong đời sống Giáo hội, cộng tác với các Mục tử trong cánh đồng truyền giáo bao la đầy thách đố nhưng cũng đang thúc bách.
Đức cha mời gọi mỗi tín hữu hãy yêu mến các Linh mục, hãy cư xử với các Linh mục trong tâm tình con thảo, nên những cộng sự viên đắc lực và thân tín của các Linh mục để xây dựng Giáo hội, xây dựng Cộng đoàn, đồng thời quảng đại bù đắp những thiếu sót nơi các Linh mục, nâng đỡ động viên các ngài và nhất là cầu nguyện cho các ngài. Hãy luôn tâm niệm rằng: Đừng chỉ nghĩ Giáo hội đã làm gì cho tôi, nhưng phải suy nghĩ rằng tôi đã làm gì cho Giáo hội, cho Giáo phận và chính Xứ đạo của tôi!
Ngỏ lời với các tu sĩ nam nữ, nhưng phần Chi thể đặc biệt, làm phong phú và tô điểm xinh đẹp cho Nhiệm thể Giáo hội, Đức cha Giuse “trân trọng ghi nhận và biết ơn những hy sinh công hiến” của họ cho Thiên Chúa và Giáo phận. Ngài mong rằng các tu sỹ sẽ luôn sát cánh với các vị Mục tử và với nhau trên cánh đồng truyền giáo tại Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hôm nay, tất cả vì lợi ích các Linh hồn và xây dựng Hội Thánh.
Cuối cùng, Đức cha nói: Trong Thánh lễ này, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban chức Linh mục và các Linh mục cho chúng ta. Các loại Dầu được làm phép và Thánh hiến hôm nay sẽ nhắc lại những Bí tích chúng ta đã và sẽ lãnh nhận qua các Linh mục. Tất cả đều là chứng tích của Tình yêu Thiên Chúa và sự chăm sóc của Giáo hội là Mẹ hiền. Đức cha kết thúc Bài giảng trong tâm tình phó thác, xin Đức Mẹ, các Thánh nâng đỡ để mỗi thành viên trong Gia đình Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hôm nay luôn biết sống yêu thương phục vụ, hiệp nhất và bình an.
Sau bài giảng, các Linh mục tiến đến trước bàn thờ, quy tụ quanh Đức Giám Mục để lặp lại lời tuyên hứa trong ngày lãnh thánh chức Linh mục: gắn bó với Chúa Ki-tô, trở nên người quản gia trung thành khi thi hành chức vụ, nhiệt thành và vô vị lợi… là những lời hứa khi các Ngài nhận tác vụ linh mục. Việc lặp lại lời hứa hôm nay làm tươi trẻ lại tình yêu của các ngài với Chúa Giêsu, thúc đẩy các ngài hiến mình phục vụ tha nhân với động lực duy nhất là làm vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa nhân loại. Đức Cha mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài thực sự trở nên hình ảnh Chúa Ki-tô sống động, là mục tử như lòng Chúa mong ước.
Tiếp theo, Đức cha Giuse cử hành nghi thức Làm phép Dầu.
Dầu bệnh nhân (OI): Qua việc xức dầu này, Hội thánh xin Chúa xoa dịu thân xác bệnh nhân, làm thuyên giảm những đau đớn và giúp các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và hy vọng vào Chúa.
Dầu dự tòng (OS): Dầu này được xức cho các dự tòng trước khi rửa tội, trong ý chỉ xin Chúa ban sức mạnh cho các anh chị em dự tòng biết tránh xa tội lỗi. Đồng thời như một bảo chứng ơn lành của Chúa luôn đồng hành trong cuộc đời của họ.
Dầu Thánh (SC): Đây là dầu có pha thuốc thơm để dùng trong 3 Bí tích có ghi ấn tín vĩnh viễn, là Rửa tội, Thêm sức và Truyền Chức thánh. Đồng thời dầu này còn được dùng để cung hiến Bàn Thờ và Nhà Thờ.
Ba bình dầu được 3 thầy Phó tế của Giáo phận cung kính rước lên Cung thánh và trao cho Đức cha Giuse. Ngài lần lượt làm phép Dầu Bệnh Nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến Dầu Thánh. Việc thánh hiến Dầu Thánh được cử hành với một nghi thức Thánh hiến long trọng: Trước tiên, Đức Giám Mục pha thuốc thơm vào dầu, biểu tượng cho những nhân đức mà Thánh Thần tuôn đổ trong người được xức Dầu Thánh này. Kế đó, ngài im lặng thổi hơi trên dầu là biểu tượng việc thông ban Thánh Thần. Chỉ với Thánh Thần mà Dầu Thánh mới có sức thánh hóa và biến đổi người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thông phần chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Người.
Thánh lễ truyền Dầu của Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng khép lại bằng phép lành với ơn toàn xá cuối lễ từ Đức cha chủ tế. Sau đó, Dầu được cung kính rước vào phòng thánh để các Linh mục nhận về cho các giáo xứ sử dụng quanh năm Phụng vụ.
Sau Thánh lễ, Đức cha, quý Cha và toàn thể cộng đoàn cùng dự bữa tiệc gia đình tại Tòa Giám mục Lạng Sơn, mừng Sinh nhật chức Linh mục Thừa tác và mừng ngày đại lễ của Giáo phận hôm nay.
Cộng đoàn tín hữu ra về với tâm tình tạ ơn vì muôn hồng ân Chúa ban cho Giáo phận và trên từng người. Đồng thời, mọi người cũng hân hoan và sốt sắng chuẩn bị bước vào các cử hành nghi thức của Tam Nhật Thánh, để hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô để được lãnh nhận tràn đầy Ơn Cứu độ và Ánh sáng Phục Sinh của Người.
Ban truyền thông Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng
Lễ Truyền Dầu Tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam Huế
Trương Trí
21:09 28/03/2018
Sáng hôm nay thứ Năm Tuần Thánh, theo truyền thống của Giáo hội, chỉ có một Thánh lễ duy nhất, toàn thể Linh mục đoàn trong Giáo phận đều quy tụ về Nhà thờ Chính tòa, vầy quanh vị chủ chăn để tham dự Thánh lễ, cử hành Mầu nhiệm Thánh. Lễ Dầu cũng chính là nêu bật tình hiệp thông huynh đệ của Linh mục đoàn đối với vị Giám mục của mình, đấng kế vị các Tông đồ. Đặc biệt, Đức nguyên Tổng Giám mục Phanxico Xavie Lê Văn Hồng cũng hiện diện thông phần cầu nguyện với Đức Tổng Giám Mục Giuse kế vị Ngài.
Xem Hình
Đoàn rước đoàn đồng tế long trọng từ Nhà Mục vụ Giáo xứ tiến qua Hang Đá Lộ Đức vào Nhà thờ giữa tiếng Kèn đồng chào mừng. Thầy Phó tế nâng cao Kinh Thánh dẫn đầu đoàn rước, tiếp đến là đại diện các Hội Dòng, các Hội đồng Giáo xứ, các Hội đoàn chỉnh tề với trang phục của mình.
Mở đầu Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế chia sẻ: “Hôm nay chúng ta thấy có sự hiện diện của đầy đủ mọi thành phần dân Chúa, từ Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ và giáo dân. Hôm nay chúng ta thể hiện tình hiệp thong chặt chẻ giữa Giáo hội toàn cầu, đặc biệt là Giáo hội địa phương chúng ta. Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa dùng Dầu Thánh thần của Ngài liên kết chúng ta nên một trên con đường phụng sự Chúa và phục vụ nhau. Qua Thánh lễ này, ba loại Dầu sẽ được Thánh hiến, ba loại Dầu đó là khí cụ Chúa Giêsu đã thiết lập để thánh hóa dân của Ngài và thánh hóa mỗi một người chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh thần thể hiện qua việc xức các loại dầu này trên chúng ta. Chúng ta là những người được mời gọi để xây dựng Nước Chúa trong tình hiệp thông nhưng chúng ta đã lỗi phạm rất nhiều.”
Thánh lễ được diễn ra hết sức thánh thiêng với sự góp sức của Ca đoàn các thầy Đại Chủng sinh với những bài kinh bằng tiếng La tinh.
Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám Mục đặc biệt nhấn mạnh: Tình hiệp thông trong Thánh lễ này không chỉ dành cho những ai đang hiện diện mà còn đối với những người vì một lý do gì đó mà không có mặt nơi đây. Hôm nay là ngày Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và chức thánh Linh mục. Trong tâm tình đó, Đức nguyên Tổng Giám mục Phanxico Xavie mặc dù đang bị cảm cũng vẫn hiện diện với chúng ta, Đức nguyên Tổng Giám mục Stephano dù sức khỏe không cho phép Ngài đến với chúng ta, nhưng chắc chắn Ngài đang hướng lòng về với chúng ta trong Thánh lễ này. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh thần nâng đỡ tinh thần và thể xác của các Ngài. Trong Thánh lễ này, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và giáo dân đang ốm đau bệnh tật hay vì một lý do gì đó mà không hiện diện để hiệp thông với chúng ta. Trong tình hiệp thông đó, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội được vững vàng tiến bước trên toàn cầu này.
Qua việc xức Dầu, Thánh thần Chúa ngự trên tôi và sai tôi đi rao giảng Tin mừng. Ba loại dầu được thánh hóa hôm nay thoạt nghe chúng ta cho rằng là ba loại dầu khác nhau, nhưng thật ra cả ba loại dầu này được liên kết chặt chẻ. Dầu Thánh được sử dụng trong các dịp lễ truyền chức, dầu Thánh được xức khi ban phép Rửa tội, dầu Thánh được dùng khi thánh hiến Nhà thờ hay Bàn thờ. Dầu Bệnh nhân tượng trưng cho sứ vụ của các Thừa Tác viên, sứ mệnh của các Linh mục là xức dầu bệnh nhân để cứu rỗi linh hồn. Dầu Dự Tòng xức cho những người mới gia nhập gia đình của Hội Thánh Chúa, liên kết với tất cả mọi thành phần trong Giáo hội. Dầu Thánh như một chất keo và là chất bôi trơn cho mọi hoạt động của Giáo hội. Cho nên lời cầu nguyện của chúng ta hôm nay, trước hết là lời cầu nguyện cho sự hiệp thông của Giáo hội. Trong Thánh lễ Truyền Dầu năm trước, Đức Thánh Cha Phanxico nhấn mạnh: “Nếu một linh mục ở tại nhà xứ cử hành Thánh lễ và ban các phép Bí tích mà thôi thì chưa đủ. Linh mục phải là người ở bất cứ nơi đâu thì mọi người phải được vui, phải được nụ cười. Nếu không được như vậy thì linh mục chưa thực hiện được sứ mệnh của mình. Cho nên chúng ta cầu nguyện cho các linh mục có được nụ cười nở ra khắp nơi mà các linh mục đang phục vụ hoặc nơi các linh mục đi qua. Linh mục là người không tiếc bản thân mình, có người gõ cửa xin cha xức dầu, nếu cha từ chối, nếu cha còn tiếc thời gian để đến với người tội lỗi đang hấp hối, thì cha chỉ là linh mục giới hạn trong phạm vi cái nhà xứ của mình, cha chưa đi ra khỏi cái khuôn khổ của ngôi Nhà thờ, nhà xứ. Đó chính là điều mà Đức Thánh Cha Phanxico nhắc nhở trong ngày lễ Dầu cho các linh mục.
Trước khi khởi sự nghi thức làm phép Dầu, Linh mục đoàn lặp lại lời tuyên hứa tỏ lòng vâng phục Đức Tổng Giám Mục, đấng kế vị các Tông đồ, chủ chăn của Giáo phận. Các thầy Phó tế tiến dâng ba loại dầu và hương liệu lên Đức Tổng để Ngài dâng lời nguyện thánh hiến. Các linh mục vây quanh vị chủ chăn của mình cùng hiệp dâng lời nguyện.
Kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Giuse mời Đức nguyên Tổng Giám mục Phanxico Xavie cùng ban phép lành cho cộng đoàn hiện diện.
Trương Trí
Xem Hình
Đoàn rước đoàn đồng tế long trọng từ Nhà Mục vụ Giáo xứ tiến qua Hang Đá Lộ Đức vào Nhà thờ giữa tiếng Kèn đồng chào mừng. Thầy Phó tế nâng cao Kinh Thánh dẫn đầu đoàn rước, tiếp đến là đại diện các Hội Dòng, các Hội đồng Giáo xứ, các Hội đoàn chỉnh tề với trang phục của mình.
Mở đầu Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế chia sẻ: “Hôm nay chúng ta thấy có sự hiện diện của đầy đủ mọi thành phần dân Chúa, từ Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ và giáo dân. Hôm nay chúng ta thể hiện tình hiệp thong chặt chẻ giữa Giáo hội toàn cầu, đặc biệt là Giáo hội địa phương chúng ta. Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa dùng Dầu Thánh thần của Ngài liên kết chúng ta nên một trên con đường phụng sự Chúa và phục vụ nhau. Qua Thánh lễ này, ba loại Dầu sẽ được Thánh hiến, ba loại Dầu đó là khí cụ Chúa Giêsu đã thiết lập để thánh hóa dân của Ngài và thánh hóa mỗi một người chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh thần thể hiện qua việc xức các loại dầu này trên chúng ta. Chúng ta là những người được mời gọi để xây dựng Nước Chúa trong tình hiệp thông nhưng chúng ta đã lỗi phạm rất nhiều.”
Thánh lễ được diễn ra hết sức thánh thiêng với sự góp sức của Ca đoàn các thầy Đại Chủng sinh với những bài kinh bằng tiếng La tinh.
Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám Mục đặc biệt nhấn mạnh: Tình hiệp thông trong Thánh lễ này không chỉ dành cho những ai đang hiện diện mà còn đối với những người vì một lý do gì đó mà không có mặt nơi đây. Hôm nay là ngày Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và chức thánh Linh mục. Trong tâm tình đó, Đức nguyên Tổng Giám mục Phanxico Xavie mặc dù đang bị cảm cũng vẫn hiện diện với chúng ta, Đức nguyên Tổng Giám mục Stephano dù sức khỏe không cho phép Ngài đến với chúng ta, nhưng chắc chắn Ngài đang hướng lòng về với chúng ta trong Thánh lễ này. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh thần nâng đỡ tinh thần và thể xác của các Ngài. Trong Thánh lễ này, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và giáo dân đang ốm đau bệnh tật hay vì một lý do gì đó mà không hiện diện để hiệp thông với chúng ta. Trong tình hiệp thông đó, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội được vững vàng tiến bước trên toàn cầu này.
Qua việc xức Dầu, Thánh thần Chúa ngự trên tôi và sai tôi đi rao giảng Tin mừng. Ba loại dầu được thánh hóa hôm nay thoạt nghe chúng ta cho rằng là ba loại dầu khác nhau, nhưng thật ra cả ba loại dầu này được liên kết chặt chẻ. Dầu Thánh được sử dụng trong các dịp lễ truyền chức, dầu Thánh được xức khi ban phép Rửa tội, dầu Thánh được dùng khi thánh hiến Nhà thờ hay Bàn thờ. Dầu Bệnh nhân tượng trưng cho sứ vụ của các Thừa Tác viên, sứ mệnh của các Linh mục là xức dầu bệnh nhân để cứu rỗi linh hồn. Dầu Dự Tòng xức cho những người mới gia nhập gia đình của Hội Thánh Chúa, liên kết với tất cả mọi thành phần trong Giáo hội. Dầu Thánh như một chất keo và là chất bôi trơn cho mọi hoạt động của Giáo hội. Cho nên lời cầu nguyện của chúng ta hôm nay, trước hết là lời cầu nguyện cho sự hiệp thông của Giáo hội. Trong Thánh lễ Truyền Dầu năm trước, Đức Thánh Cha Phanxico nhấn mạnh: “Nếu một linh mục ở tại nhà xứ cử hành Thánh lễ và ban các phép Bí tích mà thôi thì chưa đủ. Linh mục phải là người ở bất cứ nơi đâu thì mọi người phải được vui, phải được nụ cười. Nếu không được như vậy thì linh mục chưa thực hiện được sứ mệnh của mình. Cho nên chúng ta cầu nguyện cho các linh mục có được nụ cười nở ra khắp nơi mà các linh mục đang phục vụ hoặc nơi các linh mục đi qua. Linh mục là người không tiếc bản thân mình, có người gõ cửa xin cha xức dầu, nếu cha từ chối, nếu cha còn tiếc thời gian để đến với người tội lỗi đang hấp hối, thì cha chỉ là linh mục giới hạn trong phạm vi cái nhà xứ của mình, cha chưa đi ra khỏi cái khuôn khổ của ngôi Nhà thờ, nhà xứ. Đó chính là điều mà Đức Thánh Cha Phanxico nhắc nhở trong ngày lễ Dầu cho các linh mục.
Trước khi khởi sự nghi thức làm phép Dầu, Linh mục đoàn lặp lại lời tuyên hứa tỏ lòng vâng phục Đức Tổng Giám Mục, đấng kế vị các Tông đồ, chủ chăn của Giáo phận. Các thầy Phó tế tiến dâng ba loại dầu và hương liệu lên Đức Tổng để Ngài dâng lời nguyện thánh hiến. Các linh mục vây quanh vị chủ chăn của mình cùng hiệp dâng lời nguyện.
Kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Giuse mời Đức nguyên Tổng Giám mục Phanxico Xavie cùng ban phép lành cho cộng đoàn hiện diện.
Trương Trí
Thánh lễ truyền dầu tại GP Ban Mê Thuột
Vũ Đình Bình
21:28 28/03/2018
Do địa bàn Giáo phận Banmêthuột trải dài trên 3 tỉnh: Đak Lak, Đak Nông và Bình Phước, nên, Đức Giám Mục quyết định cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu tại một nhà thờ không phải là Nhà thờ Chánh tòa để giáo dân trong Giáo phận đều có thể tham dự. Đây là năm thứ hai Nhà thờ Giáo xứ Vinh An là nơi được chọn để cử hành Thánh Lễ đặc biệt này; Lần đầu vào năm 2012.
Xem Hình
Giáo xứ Vinh An thuộc xã Đức Minh, tọa lạc trên trục đường Gia Long, cách trung tâm huyện Đăk Mil và quốc lộ 14 khoảng 3km về hướng Tây, cách thành phố Buôn Ma Thuột 60km về hướng Đông Bắc và cách thành phố Hồ Chí Minh 300km về hướng Tây Nam. Địa danh hành chính hiện nay là xã Đức Minh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, thuộc Tây Nguyên, Việt Nam. Giáo xứ hiện có hơn 2660 gia đình Công Giáo với khoảng 12.890 tín hữu. Trong số đó có 62 gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số M’nông với hơn 370 tín hữu.
Nhà thờ Giáo xứ Vinh An xây dựng hoàn thành vào năm 1996, diện tích 1.500m2 với kiểu dáng hiện đại bên cạnh Tháp chuông cao 29m sừng sững, uy nghiêm. Khuôn viên nhà thờ rộng gần 2 hecta, rất phù hợp cho việc quy tụ mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận về dâng Thánh lễ. Ngày hôm nay ước tính có khoảng 15 ngàn tín hữu về tham dự. Ban tổ chức phải lắp đặt 2 màn hình lớn ngoài trời và truyền hình trực tuyến để mọi người đều có thể hiệp thông cách sốt sắng.
Thánh Lễ khởi đầu lúc 8 giờ sáng thứ Tư Tuần Thánh, ngày 28.3.2018, bằng cuộc rước long trọng từ Hội trường nhà xứ tiến vào Nhà thờ.
Trong Thánh lễ hôm nay, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận, chủ sự thánh hiến Dầu Thánh, làm phép Dầu Bệnh nhân và Dầu Dự tòng, dùng để cử hành một số bí tích và phụ tích.
+ Dầu Dự tòng (OS: Oleum Sanctum hay Oleum Catechumenorum) được xức cho các dự tòng trước khi Rửa Tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác.
+ Dầu bệnh nhân (OI: Oleum Infirmorum) để xức cho các bệnh nhân. Hội Thánh xin Chúa xoa dịu thân xác các bệnh nhân, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn, phù trợ những người chăm sóc, cứu thoát bệnh nhân, ban sự sống và sức khoẻ cho họ.
+ Dầu Thánh (SC: Sanctum Chrisma) là dầu có pha thuốc thơm và dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín: được xức cho các tân tòng trong Bí Tích Rửa Tội, cho các kitô-hữu trong Bí Tích Thêm Sức, cho các Linh mục trong Bí Tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để cung hiến bàn thờ và nhà thờ.
Thánh Lễ Truyền Dầu cũng còn có mục đích tưởng niệm việc Chúa lập bí tích Truyền Chức Thánh, tái diễn hy lễ của Chúa Kitô trên Thánh giá, tha tội cho muôn dân, v.v... Vì Giám mục cũng như linh mục đều được chia sẻ chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, nên sáng nay, tất cả các linh mục trong giáo phận được kêu mời về đồng tế với Giám mục của mình, để tỏ tình hiệp thông hiệp nhất giữa Giám mục và linh mục, cũng như giữa các linh mục với nhau.
Trong thánh lễ, các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa ngày nhận chức Thánh trước mặt cộng đoàn dân Chúa, đồng thời xin cộng đoàn cầu nguyện cho các ngài luôn ý thức về những bổn phận phải thi hành trong cuộc sống bản thân cũng như các công việc mục vụ, cố gắng từ bỏ chính mình để gắn bó với Chúa Kitô, nỗ lực trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa mỗi ngày để mang lại nhiều lợi ích hơn cho các linh hồn. Đức Cha Vinh Sơn cũng kêu mời cộng đoàn cầu nguyện nhiều hơn nữa cho ngài, cho các Linh mục, và tích cực cộng tác với các Cha sở của mình.
Thánh Lễ Truyền Dầu còn mang một ý nghĩa thiết thực: Thánh Marcô thuật lại rằng, khi Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng, các ngài đã xức dầu cho nhiều bệnh nhân và nhờ đó họ đã được chữa lành (Mc 6, 13). Theo bản chất, dầu là một dược tố chữa bệnh. Trong đời sống thường ngày, mỗi khi cảm thấy khó chịu, nhức đầu, chúng ta cũng thường hay xức dầu, và chúng ta cũng cảm thấy người dễ chịu hơn. Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy người ta xức dầu khi phong vương một ông vua, hiến thánh các tư tế, tuyển chọn các Tiên tri, hiến thánh một đồ vật dành riêng cho việc phụng tự, thoa dịu một vết thương (x. Is 1, 6; Lc 10, 34); chữa lành một bệnh nhân (Gc 4, 14), tẩm liệm một xác chết (Mt 26, 12; Mc 14, 8; Ga 12, 7; Mc 16, 1). Trong lời nguyện hiến thánh Dầu Thánh, Giáo Hội nhắc lại việc Chúa truyền cho ông Môisen xức dầu cho ông Aaron, tấn phong ông làm Tư tế, rồi việc Chúa cho Thánh Thần ngự xuống trên chính Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa tại sông Giođanô, công nhận Người là Con Một Thiên Chúa, là Đấng mà Tiên tri Đavít, được ơn Chúa soi sáng, đã xưng tụng là Đấng được xức dầu hoan lạc. “Chúa đã xức Dầu Thánh tấn phong Con Một Chúa làm Thượng Tế của Giao Ước Mới và vĩnh cửu”.
Chia sẻ sau bài Phúc Âm Lc 4, 16-21: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi”. Đức Cha Vinh Sơn giải thích về sứ mệnh của người được xức dầu: đem Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những ai sống tinh thần hoán cải, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng. Đức Cha kêu mời cộng đoàn sống tinh thần Năm Thánh mừng Kim khánh Giáo phận bằng tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, tri ân các bậc tiền nhân và hiệp nhất yêu thương nhau. Đức Cha nhắn nhủ linh mục đoàn biết kết hợp với Chúa Giêsu, với Giám mục và với anh em linh mục; biết sống tinh thần Phúc âm dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngài cũng mời gọi cộng đoàn tín hữu cầu nguyện và nâng đỡ linh mục để các linh mục biết sống khiêm nhường và chu toàn trách nhiệm của mình. (Mời nghe Bài Giảng)
Qua Thánh lễ Truyền Dầu, Giáo Hội cũng kêu mời giáo dân cầu nguyện cho các Linh mục, Giám mục, và tích cực cộng tác với các ngài. Tham dự lễ Truyền Dầu, chúng ta cảm tạ Chúa về bí tích xức dầu bệnh nhân cũng như tất cả những bí tích khác Chúa đã thiết lập để ban cho chúng ta như những phương thế hữu hiệu hầu đạt được ơn cứu độ. Xin Chúa thương ban phúc lành thánh hóa Dầu, cho Dầu thấm đượm sức mạnh của Thánh Thần và quyền năng Chúa Kitô, làm cho Dầu trở thành bí tích mang lại ơn cứu độ và sự sống vẹn toàn cho những ai được tái sinh nhờ phép Rửa thiêng liêng.
Thánh lễ kết thúc vào lúc 9g30. Các bình Dầu đã làm phép và thánh hiến được phân chia vào các bình nhỏ để các linh mục lãnh nhận mang về giáo xứ của mình dùng vào việc cử hành các bí tích trong suốt Năm Phụng Vụ.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa thiết lập chức linh mục, xin ban cho các linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, có trái tim biết yêu bằng tình yêu dâng hiến, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi. Xin cho các linh mục sống thánh thiện, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
Chúng con cảm tạ Chúa đã cho mọi tín hữu được tham dự vào chức linh mục phổ quát của Chúa Giêsu, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nhờ đó hy lễ cứu độ được tái diễn mọi nơi mọi lúc. Xin cho chúng con biết sống hiệp thông với nhau trong khiêm tốn và yêu thương.
Xem Hình
Giáo xứ Vinh An thuộc xã Đức Minh, tọa lạc trên trục đường Gia Long, cách trung tâm huyện Đăk Mil và quốc lộ 14 khoảng 3km về hướng Tây, cách thành phố Buôn Ma Thuột 60km về hướng Đông Bắc và cách thành phố Hồ Chí Minh 300km về hướng Tây Nam. Địa danh hành chính hiện nay là xã Đức Minh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, thuộc Tây Nguyên, Việt Nam. Giáo xứ hiện có hơn 2660 gia đình Công Giáo với khoảng 12.890 tín hữu. Trong số đó có 62 gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số M’nông với hơn 370 tín hữu.
Nhà thờ Giáo xứ Vinh An xây dựng hoàn thành vào năm 1996, diện tích 1.500m2 với kiểu dáng hiện đại bên cạnh Tháp chuông cao 29m sừng sững, uy nghiêm. Khuôn viên nhà thờ rộng gần 2 hecta, rất phù hợp cho việc quy tụ mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận về dâng Thánh lễ. Ngày hôm nay ước tính có khoảng 15 ngàn tín hữu về tham dự. Ban tổ chức phải lắp đặt 2 màn hình lớn ngoài trời và truyền hình trực tuyến để mọi người đều có thể hiệp thông cách sốt sắng.
Thánh Lễ khởi đầu lúc 8 giờ sáng thứ Tư Tuần Thánh, ngày 28.3.2018, bằng cuộc rước long trọng từ Hội trường nhà xứ tiến vào Nhà thờ.
Trong Thánh lễ hôm nay, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận, chủ sự thánh hiến Dầu Thánh, làm phép Dầu Bệnh nhân và Dầu Dự tòng, dùng để cử hành một số bí tích và phụ tích.
+ Dầu Dự tòng (OS: Oleum Sanctum hay Oleum Catechumenorum) được xức cho các dự tòng trước khi Rửa Tội, để qua việc xức dầu này, Hội Thánh xin Chúa ban sức mạnh cho các dự tòng biết chống lại tội lỗi và sự ác.
+ Dầu bệnh nhân (OI: Oleum Infirmorum) để xức cho các bệnh nhân. Hội Thánh xin Chúa xoa dịu thân xác các bệnh nhân, viếng thăm và làm cho các bệnh nhân được vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng, giải thoát và làm thuyên giảm những đau đớn, phù trợ những người chăm sóc, cứu thoát bệnh nhân, ban sự sống và sức khoẻ cho họ.
+ Dầu Thánh (SC: Sanctum Chrisma) là dầu có pha thuốc thơm và dùng trong ba bí tích có ghi ấn tín: được xức cho các tân tòng trong Bí Tích Rửa Tội, cho các kitô-hữu trong Bí Tích Thêm Sức, cho các Linh mục trong Bí Tích Truyền Chức. Dầu này còn được dùng để cung hiến bàn thờ và nhà thờ.
Thánh Lễ Truyền Dầu cũng còn có mục đích tưởng niệm việc Chúa lập bí tích Truyền Chức Thánh, tái diễn hy lễ của Chúa Kitô trên Thánh giá, tha tội cho muôn dân, v.v... Vì Giám mục cũng như linh mục đều được chia sẻ chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, nên sáng nay, tất cả các linh mục trong giáo phận được kêu mời về đồng tế với Giám mục của mình, để tỏ tình hiệp thông hiệp nhất giữa Giám mục và linh mục, cũng như giữa các linh mục với nhau.
Trong thánh lễ, các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa ngày nhận chức Thánh trước mặt cộng đoàn dân Chúa, đồng thời xin cộng đoàn cầu nguyện cho các ngài luôn ý thức về những bổn phận phải thi hành trong cuộc sống bản thân cũng như các công việc mục vụ, cố gắng từ bỏ chính mình để gắn bó với Chúa Kitô, nỗ lực trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa mỗi ngày để mang lại nhiều lợi ích hơn cho các linh hồn. Đức Cha Vinh Sơn cũng kêu mời cộng đoàn cầu nguyện nhiều hơn nữa cho ngài, cho các Linh mục, và tích cực cộng tác với các Cha sở của mình.
Thánh Lễ Truyền Dầu còn mang một ý nghĩa thiết thực: Thánh Marcô thuật lại rằng, khi Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng, các ngài đã xức dầu cho nhiều bệnh nhân và nhờ đó họ đã được chữa lành (Mc 6, 13). Theo bản chất, dầu là một dược tố chữa bệnh. Trong đời sống thường ngày, mỗi khi cảm thấy khó chịu, nhức đầu, chúng ta cũng thường hay xức dầu, và chúng ta cũng cảm thấy người dễ chịu hơn. Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy người ta xức dầu khi phong vương một ông vua, hiến thánh các tư tế, tuyển chọn các Tiên tri, hiến thánh một đồ vật dành riêng cho việc phụng tự, thoa dịu một vết thương (x. Is 1, 6; Lc 10, 34); chữa lành một bệnh nhân (Gc 4, 14), tẩm liệm một xác chết (Mt 26, 12; Mc 14, 8; Ga 12, 7; Mc 16, 1). Trong lời nguyện hiến thánh Dầu Thánh, Giáo Hội nhắc lại việc Chúa truyền cho ông Môisen xức dầu cho ông Aaron, tấn phong ông làm Tư tế, rồi việc Chúa cho Thánh Thần ngự xuống trên chính Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa tại sông Giođanô, công nhận Người là Con Một Thiên Chúa, là Đấng mà Tiên tri Đavít, được ơn Chúa soi sáng, đã xưng tụng là Đấng được xức dầu hoan lạc. “Chúa đã xức Dầu Thánh tấn phong Con Một Chúa làm Thượng Tế của Giao Ước Mới và vĩnh cửu”.
Chia sẻ sau bài Phúc Âm Lc 4, 16-21: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi”. Đức Cha Vinh Sơn giải thích về sứ mệnh của người được xức dầu: đem Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những ai sống tinh thần hoán cải, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng. Đức Cha kêu mời cộng đoàn sống tinh thần Năm Thánh mừng Kim khánh Giáo phận bằng tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, tri ân các bậc tiền nhân và hiệp nhất yêu thương nhau. Đức Cha nhắn nhủ linh mục đoàn biết kết hợp với Chúa Giêsu, với Giám mục và với anh em linh mục; biết sống tinh thần Phúc âm dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngài cũng mời gọi cộng đoàn tín hữu cầu nguyện và nâng đỡ linh mục để các linh mục biết sống khiêm nhường và chu toàn trách nhiệm của mình. (Mời nghe Bài Giảng)
Qua Thánh lễ Truyền Dầu, Giáo Hội cũng kêu mời giáo dân cầu nguyện cho các Linh mục, Giám mục, và tích cực cộng tác với các ngài. Tham dự lễ Truyền Dầu, chúng ta cảm tạ Chúa về bí tích xức dầu bệnh nhân cũng như tất cả những bí tích khác Chúa đã thiết lập để ban cho chúng ta như những phương thế hữu hiệu hầu đạt được ơn cứu độ. Xin Chúa thương ban phúc lành thánh hóa Dầu, cho Dầu thấm đượm sức mạnh của Thánh Thần và quyền năng Chúa Kitô, làm cho Dầu trở thành bí tích mang lại ơn cứu độ và sự sống vẹn toàn cho những ai được tái sinh nhờ phép Rửa thiêng liêng.
Thánh lễ kết thúc vào lúc 9g30. Các bình Dầu đã làm phép và thánh hiến được phân chia vào các bình nhỏ để các linh mục lãnh nhận mang về giáo xứ của mình dùng vào việc cử hành các bí tích trong suốt Năm Phụng Vụ.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa thiết lập chức linh mục, xin ban cho các linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, có trái tim biết yêu bằng tình yêu dâng hiến, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi. Xin cho các linh mục sống thánh thiện, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
Chúng con cảm tạ Chúa đã cho mọi tín hữu được tham dự vào chức linh mục phổ quát của Chúa Giêsu, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nhờ đó hy lễ cứu độ được tái diễn mọi nơi mọi lúc. Xin cho chúng con biết sống hiệp thông với nhau trong khiêm tốn và yêu thương.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Mạng Sống Ngư Dân Và Chủ Quyền Việt Nam
Phạm Trần
20:59 28/03/2018
Đã có những bằng chứng Trung Cộng gia tăng áp lực ngư dân Việt Nam bỏ biển và đảng Cộng sản Việt Nam quy hàng Bắc Kinh ở Biển Đông từ đầu năm 2018 khi Chính phủ chỉ biết phản đối Trung Hoa bằng nước bọt.
Bằng chứng đã được Hội nghề cá Việt Nam công bố trong công văn ngày 26/03/2018 gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Theo lời ông Phạm Anh Tuấn, Phó chủ tịch thường trực T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam thì:” Gần đây, các hội nghề cá 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi liên tục phản ánh các tàu của địa phương này bị tàu lạ tấn công, cướp phá khi đang hoạt động ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa khiến chủ tàu, ngư dân thiệt hại lớn về kinh tế.” (báo Thanh Niên, 26/03/2018)
Theo báo cáo của T.Ư Hội Nghề cá tỉnh Quảng Nam thì:” Khoảng 2 giờ ngày 18.3, tàu cá mang số hiệu QNa 90822, do anh Nguyễn Tuấn Sơn (ngụ tại xã Tam Quan, huyện Núi Thành) làm chủ tàu, khi đang hành nghề lưới cản ở tọa độ 16 độ vĩ bắc và 111 độ kinh đông thì bị tàu sắt vỏ sơn màu trắng bao vây. Khoảng 15 phút sau, 1 ca nô khác chở theo nhóm người mang súng áp sát mạn tàu. Ngay sau đó, nhóm 6 người đã nhảy lên tàu anh Sơn dùng súng khống chế ngư dân và có hành động cắt phá lưới cụ và lấy đi 2 bình ắc quy.”
Một vụ đâm va nghiêm trọng khác xảy ra với 2 tàu cá của tỉnh Quảng Ngãi gây thiệt hại nặng về tài sản. Sự việc xảy ra ngày 22.3, tàu cá QNg 90440 TS và QNg 90045 TS của ngư dân xã Bình Sơn (huyện Quảng Ngãi) khi đang núp gió ở đảo Đá Lồi, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị tàu sơn trắng số hiệu 46016 và 45103 tấn công đâm va, gây thiệt hại khoảng 800 triệu đồng.
Nhấn mạnh quan điểm phản đối hành động vô nhân đạo đối với ngư dân, T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị các cơ quan chức năng vào cuộc truy tìm các tàu lạ có hành vi đâm va, cướp phá tài sản tàu cá Việt Nam để xử lý và ngăn chặn các hành động tương tự; đồng thời đề nghị các cơ quan chức năng liên quan cần tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, tính mạng và tài sản cho ngư dân Việt Nam trong hoạt động lao động, sản xuất trên biển.”
TẠI SAO KHÔNG NÓI TẦU TRUNG CỘNG ?
Đáng chú ý là trong văn thư báo cáo để phản đối, Hội nghề cá Việt Nam không dám nói thẳng tầu của Hải quân Trung Cộng (hay Trung Quốc) là thủ phạm đâm tầu cá Việt Nam và lính Trung Cộng đã phá hoại và cướp tài sản của ngư dân. Họ chỉ dám nói là “tầu lạ” để không chạm đến Trung Hoa như cách tránh “phạm húy” để không làm phương hại đến giao hảo giữa hai nước Việt-Trung theo yêu cầu của đảng. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên chuyện va chạm được coi là “nhạy cảm” phải né tránh mà là tư duy hèn nhát của lãnh đạo đảng và Chính phủ Việt Nam đã được Ban Tuyên giáo đảng áp dụng từ xưa đến nay.
Tuy nhiên, đối với ngư dân—những nạn nhân của đội quân cướp biển đã man Trung Cộng từng bắn ngư dân Việt Nam, đâm chìm tầu trong đêm tối và tịch thu ngư cụ và hải sản đánh bắt thì họ đã tố cáo đích danh lính Trung Hoa.
Bằng chứng đã được viết trên báo Tuổi Trẻ Online ngày 23/03/2018:”Chiều 23-3, tàu cá QNg 90045 do ngư dân Đặng Tằm làm chủ tàu kiêm thuyền tưởng và tàu cá QNg 90440 do ông Đặng Bi làm chủ tàu (cùng trú xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) đã về đến cảng Sa Kỳ trình báo với cán bộ đồn kiểm soát biên phòng Sa Kỳ về việc bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá tài sản trên vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.”
Theo trình báo của các thuyền trưởng và thuyền viên thì:” Khoảng 10h ngày 22-3, hai tàu cá này đang trú gió ở Đá Lồi thì bất ngờ bị hai tàu Trung Quốc màu trắng, số hiệu 46106 và 45103, áp sát. Tàu cá QNg 90440 bị đâm mạnh, bị vỡ dọc mạn phải từ đầu đến đuôi tàu, nặng nhất là phía sau tàu.
"Tôi và anh em phát hoảng vì cú đâm mạnh quá. Lúc đó cứ nghĩ tàu bị chìm rồi, bởi gió lớn. Anh em chỉ còn biết lạy trời", thuyền trưởng tàu QNg 90440 Đặng Duy Bình nói.
Cũng theo trình báo của ngư dân, sau cú đâm, phía tàu Trung Quốc thả một canô chở theo 8 người mặc quân phục và mang theo súng, dùi cui áp sát leo lên hai tàu cá.
Thuyền trưởng Bình kể: "Lúc đó tôi đang cầm lái liền bị một người Trung Quốc có súng tát tôi hai bạt tai. Xong họ cướp lái, ép ngư dân về phía mũi tàu. Họ bắt chúng tôi đưa hai tay lên đầu cúi đầu xuống đất, chỉ cần ngước lên là bị đánh".
Dùng vũ lực dồn ngư dân hết về phía mũi tàu, những người Trung Quốc có vũ trang tiếp tục lục cabin lấy đi điện thoại, máy móc, phá lưới và ngư cụ, đồng thời ép ngư dân chuyển toàn bộ hải sản đánh bắt được lên tàu Trung Quốc. "Không làm theo họ cũng đánh", thuyền trưởng Bình nói.
Tương tự, tàu QNg 90045 của ngư dân Đặng Tằm cũng bị cướp phá, chặt dây hơi, phá máy dò cá, bộ đàm.
Ngư dân Tằm cho biết: "Họ có cả thông dịch viên nói rất giỏi tiếng Việt, họ hỏi chúng tôi ở tỉnh nào của Việt Nam, ghi lại vào sổ. Đến khoảng 14h chiều 22-3, sau khi phá hoại, cướp tài sản trên tàu họ bảo chúng tôi về Việt Nam. Lúc này vào cabin mới hay, đến cả điện thoại, nước uống cũng bị cướp sạch".
BỎ THUỐC ĐỘC VÀO NƯỚC ?
Bài báo viết tiếp:”Không chỉ cướp phá, người trên tàu Trung Quốc còn đổ một gói bột màu trắng bao bì ghi chữ Trung Quốc vào nước uống của ngư dân, khiến ngư dân không thể uống. Các ngư dân cho rằng đây là hành động triệt luôn đường sống, không cho ngư dân tiếp tục bám trụ ở Hoàng Sa.
Ông Tằm ước tính thiệt hại lên đến 350 triệu đồng, trong khi tàu cá của ông Bi thiệt hại lên đến 400 triệu đồng. Đến 19h cùng ngày, lực lượng biên phòng Sa Kỳ vẫn làm việc với ngư dân để hoàn tất hồ sơ, báo cáo vụ việc lên tỉnh Quảng Ngãi.”
Đọc những lời kể của ngư dân, có ai là người Việt Nam mà không đau lòng khi thấy Chính phủ và đảng CSVN, kể cả Bộ Ngoại giao đã không có bất cứ phản ứng nào về hành động tàn bạo của lính Trung Hoa trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Mọi người cũng muốn biết lực lượng Cảnh sát Biển và lực lượng tuần duyên Hải quân của Việt Nam đã biến đâu mất trong những giờ phút ngư dân gặp nạn ?
Hình ảnh duy nhất xuất hiện trên các báo Việt Nam cho thấy một số nhân viên của Lực lượng Biên phòng đã được cử đến để lấy lời khai của ngư dân và ghi tang chứng những tầu cá bị quân Trung Cộng tấn công khi họ cập bến.
Việc làm này, cũng như các lần trước, chỉ để báo cáo lên cấp trên cho có lệ và không đem lại bất cứ kế qủa nào.
CẤM ĐÁNH BẮT
Tuy nhiên, hành động tấn công các tầu cá Việt Nam tháng 3 năm nay (2018) quanh vùng biển Hoàng Sa, bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, đã xẩy ra vào dịp Bắc Kinh đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt ở Biển Đông từ 12 giờ ngày 1/5 đến 12 giờ ngày 16/08/2018, mà họ nói là để bảo dưỡng nguồn hải sản.
Đối với ngư dân Việt Nam thì thời gian cấm đánh bắt lại rơi đúng vào vụ mùa thu hoạch cao loại cá Nam hàng năm tập trung về vùng Hoàng Sa và Trường Sa cho nên, dù biết nguy hiểm ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục ra biển đánh bắt.
Vậy Chính phủ Việt Nam đã phản ứng về lệnh cấm của Trung Cộng ra sao ?
Về phương diện bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo vệ an ninh cho ngư dân thì chưa thấy Chính phủ Việt Nam nói gì. Duy nhất chỉ thấy người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rằng:”Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc.”
Bởi vì theo bà Hằng thì :” Quy chế về nghỉ đánh bắt cá trên biển, bao gồm một số vùng biển của Việt Nam xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, không phù hợp với thỏa thuận quan trọng Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được về kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông và xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiện nay.”
Tuy nói thì hằng đấy nhưng Việt Nam không có lực lượng chấp pháp hữu hiệu trên biển nên Trung Hoa đã bỏ ngoài tai tất cả những gì Việt Nam muốn nói.
TẬP TRẬN LÀM GÌ ?
Cũng đáng quan tâm là khi tình hình Việt-Trung nóng lên thì Trung Hoa đã thực hiện hai cuộc tập trận quy mô trên Biển Đông, ngay sau khi lính của họ tấn công ngư dân Việt Nam và ban hành lệnh cấm đánh bắt dài hơn 3 tháng.
Cuộc tập trận thứ nhất của của khoảng 40 tầu Hải Quân các loại và tầu sân bay Liêu Ninh đã diễn ra ở khu vực nam đảo Hải Nam hướng ra Biển Đông.
Sau đó là cuộc tập chiến đấu trên không của Binh chủng Không quân bao gồm vùng trời ở Biển Đông, khu vực Tây Thái Bình Dương và vùng eo biển ở miền nam Nhật Bản.
Theo tin Quốc phòng Tây phương thì Trung Hoa đã sử dụng oanh tạc cơ H-6K, chiến đấu cơ Su-30 và Su-35 và nhiều loại máy bay khác trong cuộc tập dượt này.
Nhưng tại sao Trung Hoa lại tập trận Hải-Không quân lớn như thế vào lúc này ?
Không có bất cứ phát ngôn nào của Bộ Quốc phòng cho biết lý do, nhưng Tân Hoa Xã của Trung Hoa (Xinhua News Agency) đã trích thông cáo của Không quân Trung Quốc viết hôm 25/3 nói rằng: “Việc tập trận của lực lượng không quân là nhằm tập dượt cho các cuộc chiến trong tương lai và là công tác chuẩn bị trực tiếp nhất cho việc chiến đấu.”
Nhưng tương lai là bao giờ và liệu Việt Nam đã chuẩn bị chưa ?
CUỘC CHIẾN TRÊN BIỂN
Rất khó biết, nhưng theo lời Thiếu tướng, nguyên Chuẩn Đô đốc
Lê Kế Lâm, Chủ tịch Hội Khoa học - Kỹ thuật và Kinh tế Biển Thành phố Hồ Chí Minh thì ông tin Việt Nam có đủ sức bảo vệ biển đảo, và tổ chức những trận đánh xa bờ từ 500 đến 600 cây số.
Trong cuộc phỏng vấn của Zing.VN (đăng ngày 01/03/2017), tướng Lâm nói:”Với lực lượng hiện nay, Hải quân Việt Nam đủ sức để bảo vệ bờ biển và hải đảo của Tổ quốc. Điều tôi thấy quý là lớp tàu tên lửa Tia chớp Molniya. Tàu chỉ có lượng giãn nước 560 tấn nhưng có thể mang tới 16 quả tên lửa với tầm bắn 180-200 km. Đây là loại tàu do Việt Nam đóng dựa trên công nghệ chuyển giao của Nga.
Với riêng tàu ngầm, chiến thuật rất khác. Tàu có thể đi ra biển một tháng mới về, kíp tàu đó được lên bờ an dưỡng, huấn luyện rồi lại xuống tàu khác đi. Chúng ta có 6 tàu ngầm nhưng hoạt động trên biển chỉ 2 chiếc. Còn 2 chiếc nằm cảng, 2 chiếc bảo dưỡng.
Tôi nghĩ với lực lượng như hiện nay, chúng ta có thể tổ chức được trận đánh, giáng trả khi bị tấn công".
Ông nói tiếp:”Trước kia, chúng ta không có khả năng đánh ở Trường Sa. Nhưng từ 2010 trở lại đây, khi có lực lượng đặc biệt thì chúng ta có điều kiện tổ chức những trận đánh cách bờ 500-600 km, tức là đánh đến Trường Sa và xa hơn nữa.”
Zing-H: Với việc trang bị một loạt phương tiện, vũ khí tối tân, đánh giá của ông về tương quan lực lượng giữa Hải quân Việt Nam và các nước trong khu vực hiện nay ra sao?
Tướng Lê Kế Lâm:” Nếu so sánh với Hải quân Trung Quốc thì Hải quân của chúng ta còn cách xa họ. Vì họ có một nền công nghiệp quốc phòng hiện đại. Họ phóng được tàu vũ trụ, họ có hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu tự dẫn đường thay cho GPS của Mỹ. Tất cả vũ khí của họ đều tự sản xuất ra được. Tàu chiến họ đóng được rất nhanh và nhiều.
Mỗi nước Đông Nam Á cũng có thế mạnh riêng của họ. Ví dụ, Singapore đất nước nhỏ, bờ biển ít, để bảo vệ quốc gia và biển, họ cũng có tàu ngầm và tàu chiến. Hải quân Singapore cũng là lực lượng có sức chiến đấu khiến nhiều nước phải nể sợ.
Đối với Hải quân Việt Nam, từ 2010, chúng ta đã có sức tấn công. Có thể dùng nhiều đòn chứ không chỉ một đòn. Có thể tấn công bằng tên lửa bờ, tên lửa tàu mặt nước, tên lửa ngư lôi của tàu ngầm, bằng các phương tiện khác như đặc công nước, hải quân đánh bộ.”
TƯƠNG LAI GẦN VÀ XA
Zing-H: Tuy nhiên, có thể thấy chiến lược hiện đại hoá Hải quân Việt Nam mới chỉ ở những bước đầu tiên. Theo Chuẩn Đô đốc, tiếp theo chúng ta nên làm gì?
Tướng Lê Kế Lâm :” Chúng ta không thể cứ đi mua vũ khí mãi. Mua tốn tiền đã đành nhưng quan trọng hơn là sự lệ thuộc. Không phải người ta bán cho mình tất cả những gì ưu việt nhất.
Bước tiếp theo phải tự sản xuất. Chúng ta sản xuất gì? Đối với hải quân, trước hết phải sản xuất tên lửa và pháo. Ngân sách quốc phòng ít nhất phải chiếm 2% GDP thì mới đủ tiền để nghiên cứu, chế tạo vũ khí. Mỹ giành 3% GDP, Trung Quốc có thể lớn hơn nữa.”
Nguyên chuẩn Đô đốc Lâm còn khuyên:”Hơn hết, các thế hệ lãnh đạo phải hiểu được ý đồ của nước lớn. Chúng ta hoan nghênh đa phương, đa dạng hoá. Tuy nhiên, không thể tin ai hoàn toàn, cũng không dựa vào ai hoàn toàn. Dựa vào một ai đó rồi sẽ đến lúc bị phản bội.
Nếu phải mua thì đa dạng hoá nhà cung cấp, đừng chỉ đi với một nước. Cái hay của việc này là tiếp thu được nhiều tinh hoa, nhiều kênh vũ khí. Ngoài Nga còn có Pháp, Ấn Độ, Israel... Tuy nhiên, cái khó là hệ thống vũ khí không đồng bộ, người sử dụng phải đi học ở nhiều nước khác nhau. NATO hiện đang hướng tới thống nhất một dòng vũ khí để đảm bảo hậu cần. Theo tôi, Việt Nam nên sản xuất lấy một dòng vũ khí của mình, chỉ có Việt Nam có.”
Zing H:- Trong những năm tới, theo đánh giá của Chuẩn Đô đốc, tình trạng giằng co trên biển giữa các nước sẽ diễn biến như thế nào? Liệu Hải quân Việt Nam đã đủ sức để ứng phó với những biến động đó?
Tướng Lê Kế Lâm: “Việt Nam chưa từng tham gia chiến tranh trên các đại dương. Hơn nữa, đó là chuyện giữa các nước lớn. Nhưng khả năng đó còn xa, không nước nào muốn có cuộc chiến tranh này, kể cả Mỹ hay Trung Quốc.
Còn ở gần như biển Hoa Đông, giữa Nhật và Trung Quốc hay trên Biển Đông thì nếu Trung Quốc có cái đầu nóng, đẩy mạnh hoạt động vũ trang lên cao thì có thể xảy ra xung đột.
Trong trường hợp này, chúng ta phải có đối sách thật linh hoạt, khôn khéo để giữ hoà bình, ngăn chặn đầu nóng của Trung Quốc. Muốn ngăn chặn phải làm tốt hai vế: ngoại giao và tăng cường sức mạnh quân sự. Phải có sức mạnh thật sự để những cái đầu nóng nếu muốn gây ra chuyện gì, sẽ phải tính đến thiệt hại đau đớn.”
CHUYỆN TRƯỚC MẮT
Quan điểm quốc phòng và chiến lược biển của nguyên Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm đồi với viễn ảnh nguy cơ chiến tranh Việt-Trung trên biển là chuyện có thể còn xa.
Nhưng bây giờ là chuyện gần đã xẩy ra giữa hai nước Việt-Trung liên quan đến Dự án giếng dầu và khí đốt Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol (Spain,Tây Ban Nha) trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Các tin của Kỹ nghệ dầu khí xác nhận Việt Nam đã phải đình chỉ tìm kiếm ở giếng Cá Rồng Đỏ, sau khi Trung Hoa đe dọa sẽ tấn công quân sự rộng rãi vào các vị trí của Việt Nam ở Trường Sa.
Giếng Cá Rồng Đỏ, lô 163-03, nằm ở khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank), phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Giếng này có khả năng sản xuất 25.000-30.000 thùng dầu và 60 triệu mét khối khí mỗi ngày.
Trung Hoa cho rằng giếng Cá Rồng Đỏ nằm trong vùng “lưỡi bò” thuộc chủ quyền của họ, mặc dù Tòa án Quốc tế đã bác bỏ luận cứ này từ năm 2016
Bất chấp phán quyết của Tòa án, Trung Hoa lại di chuyển dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, gần giếng Cá Rồng Đỏ để cạnh tranh tìm kiếm và khai thác dầu khí với Việt Nam, theo tin của Kỹ nghệ dầu khí.
Tuy nhiên, cho đến nay dù chuyện Cá Rồng Đỏ đã xẩy ra từ giữa năm 2017, cả hai Chính phủ Việt-Trung đều im hơi lặng tiếng, hầu như cả hai bên đều muôn tránh làm cho mối bang giao phức tạp thêm.
Nhưng Trung Hoa không chỉ bất bình với Việt Nam ở Cá Rồng Đỏ mà còn hậm hực với Hà Nội về Dự án Mỏ Cá Voi Xanh của ExxonMobil trong lô 118 ngoài khơi Đà Nẵng.
Tin từ phía Việt Nam và ExxonMobile xác nhận Dự án mỏ dầu khí Cá Voi Xanh sẽ được Petrovietnam và ExxonMobil chính thức khởi động vào cuối năm 2019.
Cũng cần nhắc lại vào ngày 01 tháng 05 năm 2014, Trung Hoa đã ngang nhiên đem giàn khoan khổng lồ Hải Dương (HD) 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa để tìm kiếm dầu.
Vị trí đặt giàn khoan chỉ cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía đông (mỗi Hải lý dài 1,852 mét) đã gây ra cuộc khủng hoảng dài 75 ngày giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nhiều cuộc va chạm tầu, thuyền giữa đôi bên đã xẩy ra nhưng chiền tranh đã được kìm hãm vì áp lực của Thế giới đòi Trung Hoa phải ngưng hoạt động trái phép.
Cuối cùng Trung Hoa đã phải rút giàn khoan HD-981 về nước ngày 15/07/2017, cùng lúc trận bão lớn có tên Thần Sấm tràn vào Biển Đông.
Bang giao Việt-Trung từ đó đã rẽ sang lối đi khác, sau nhiều năm tháng nguôi ngoa sau các biến cố đẫm máu Hoàng Sa 1974, Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979-1990 và cuộc thảm sát Gạc Ma 1988.
Bởi vì lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh Lãnh đạo láng giềng phương Bắc tuy là bạn cùng thuyền hôm nay mà cũng có thể là kẻ lật thuyền ngày mai.
Bằng chứng như chuyện các ngư phủ Việt Nam tiếp tục bị lính Trung Cộng hành hạ, bắn giết và cướp tài sản ở Biển Đông của Việt Nam và các vụ tranh chấp lãnh hải và tài nguyên thuộc quyền sở hữu của Việt Nam đã chứng minh rõ mặt bạn-thù trong Thế giới hôm nay.
Thế mà tiếc thay, Việt Nam vẫn có những Lãnh đạo người Việt Cộng sản còn ngây thơ nhắm mắt để sa vào vào cái bẫy của tình hữu nghị 16 chữ Vàng và Tinh thần 4 tốt (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.)
-/-
Phạm Trần
(03/018)
Bằng chứng đã được Hội nghề cá Việt Nam công bố trong công văn ngày 26/03/2018 gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Theo lời ông Phạm Anh Tuấn, Phó chủ tịch thường trực T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam thì:” Gần đây, các hội nghề cá 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi liên tục phản ánh các tàu của địa phương này bị tàu lạ tấn công, cướp phá khi đang hoạt động ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa khiến chủ tàu, ngư dân thiệt hại lớn về kinh tế.” (báo Thanh Niên, 26/03/2018)
Theo báo cáo của T.Ư Hội Nghề cá tỉnh Quảng Nam thì:” Khoảng 2 giờ ngày 18.3, tàu cá mang số hiệu QNa 90822, do anh Nguyễn Tuấn Sơn (ngụ tại xã Tam Quan, huyện Núi Thành) làm chủ tàu, khi đang hành nghề lưới cản ở tọa độ 16 độ vĩ bắc và 111 độ kinh đông thì bị tàu sắt vỏ sơn màu trắng bao vây. Khoảng 15 phút sau, 1 ca nô khác chở theo nhóm người mang súng áp sát mạn tàu. Ngay sau đó, nhóm 6 người đã nhảy lên tàu anh Sơn dùng súng khống chế ngư dân và có hành động cắt phá lưới cụ và lấy đi 2 bình ắc quy.”
Một vụ đâm va nghiêm trọng khác xảy ra với 2 tàu cá của tỉnh Quảng Ngãi gây thiệt hại nặng về tài sản. Sự việc xảy ra ngày 22.3, tàu cá QNg 90440 TS và QNg 90045 TS của ngư dân xã Bình Sơn (huyện Quảng Ngãi) khi đang núp gió ở đảo Đá Lồi, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị tàu sơn trắng số hiệu 46016 và 45103 tấn công đâm va, gây thiệt hại khoảng 800 triệu đồng.
Nhấn mạnh quan điểm phản đối hành động vô nhân đạo đối với ngư dân, T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị các cơ quan chức năng vào cuộc truy tìm các tàu lạ có hành vi đâm va, cướp phá tài sản tàu cá Việt Nam để xử lý và ngăn chặn các hành động tương tự; đồng thời đề nghị các cơ quan chức năng liên quan cần tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, tính mạng và tài sản cho ngư dân Việt Nam trong hoạt động lao động, sản xuất trên biển.”
TẠI SAO KHÔNG NÓI TẦU TRUNG CỘNG ?
Đáng chú ý là trong văn thư báo cáo để phản đối, Hội nghề cá Việt Nam không dám nói thẳng tầu của Hải quân Trung Cộng (hay Trung Quốc) là thủ phạm đâm tầu cá Việt Nam và lính Trung Cộng đã phá hoại và cướp tài sản của ngư dân. Họ chỉ dám nói là “tầu lạ” để không chạm đến Trung Hoa như cách tránh “phạm húy” để không làm phương hại đến giao hảo giữa hai nước Việt-Trung theo yêu cầu của đảng. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên chuyện va chạm được coi là “nhạy cảm” phải né tránh mà là tư duy hèn nhát của lãnh đạo đảng và Chính phủ Việt Nam đã được Ban Tuyên giáo đảng áp dụng từ xưa đến nay.
Tuy nhiên, đối với ngư dân—những nạn nhân của đội quân cướp biển đã man Trung Cộng từng bắn ngư dân Việt Nam, đâm chìm tầu trong đêm tối và tịch thu ngư cụ và hải sản đánh bắt thì họ đã tố cáo đích danh lính Trung Hoa.
Bằng chứng đã được viết trên báo Tuổi Trẻ Online ngày 23/03/2018:”Chiều 23-3, tàu cá QNg 90045 do ngư dân Đặng Tằm làm chủ tàu kiêm thuyền tưởng và tàu cá QNg 90440 do ông Đặng Bi làm chủ tàu (cùng trú xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) đã về đến cảng Sa Kỳ trình báo với cán bộ đồn kiểm soát biên phòng Sa Kỳ về việc bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá tài sản trên vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.”
Theo trình báo của các thuyền trưởng và thuyền viên thì:” Khoảng 10h ngày 22-3, hai tàu cá này đang trú gió ở Đá Lồi thì bất ngờ bị hai tàu Trung Quốc màu trắng, số hiệu 46106 và 45103, áp sát. Tàu cá QNg 90440 bị đâm mạnh, bị vỡ dọc mạn phải từ đầu đến đuôi tàu, nặng nhất là phía sau tàu.
"Tôi và anh em phát hoảng vì cú đâm mạnh quá. Lúc đó cứ nghĩ tàu bị chìm rồi, bởi gió lớn. Anh em chỉ còn biết lạy trời", thuyền trưởng tàu QNg 90440 Đặng Duy Bình nói.
Cũng theo trình báo của ngư dân, sau cú đâm, phía tàu Trung Quốc thả một canô chở theo 8 người mặc quân phục và mang theo súng, dùi cui áp sát leo lên hai tàu cá.
Thuyền trưởng Bình kể: "Lúc đó tôi đang cầm lái liền bị một người Trung Quốc có súng tát tôi hai bạt tai. Xong họ cướp lái, ép ngư dân về phía mũi tàu. Họ bắt chúng tôi đưa hai tay lên đầu cúi đầu xuống đất, chỉ cần ngước lên là bị đánh".
Dùng vũ lực dồn ngư dân hết về phía mũi tàu, những người Trung Quốc có vũ trang tiếp tục lục cabin lấy đi điện thoại, máy móc, phá lưới và ngư cụ, đồng thời ép ngư dân chuyển toàn bộ hải sản đánh bắt được lên tàu Trung Quốc. "Không làm theo họ cũng đánh", thuyền trưởng Bình nói.
Tương tự, tàu QNg 90045 của ngư dân Đặng Tằm cũng bị cướp phá, chặt dây hơi, phá máy dò cá, bộ đàm.
Ngư dân Tằm cho biết: "Họ có cả thông dịch viên nói rất giỏi tiếng Việt, họ hỏi chúng tôi ở tỉnh nào của Việt Nam, ghi lại vào sổ. Đến khoảng 14h chiều 22-3, sau khi phá hoại, cướp tài sản trên tàu họ bảo chúng tôi về Việt Nam. Lúc này vào cabin mới hay, đến cả điện thoại, nước uống cũng bị cướp sạch".
BỎ THUỐC ĐỘC VÀO NƯỚC ?
Bài báo viết tiếp:”Không chỉ cướp phá, người trên tàu Trung Quốc còn đổ một gói bột màu trắng bao bì ghi chữ Trung Quốc vào nước uống của ngư dân, khiến ngư dân không thể uống. Các ngư dân cho rằng đây là hành động triệt luôn đường sống, không cho ngư dân tiếp tục bám trụ ở Hoàng Sa.
Ông Tằm ước tính thiệt hại lên đến 350 triệu đồng, trong khi tàu cá của ông Bi thiệt hại lên đến 400 triệu đồng. Đến 19h cùng ngày, lực lượng biên phòng Sa Kỳ vẫn làm việc với ngư dân để hoàn tất hồ sơ, báo cáo vụ việc lên tỉnh Quảng Ngãi.”
Đọc những lời kể của ngư dân, có ai là người Việt Nam mà không đau lòng khi thấy Chính phủ và đảng CSVN, kể cả Bộ Ngoại giao đã không có bất cứ phản ứng nào về hành động tàn bạo của lính Trung Hoa trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Mọi người cũng muốn biết lực lượng Cảnh sát Biển và lực lượng tuần duyên Hải quân của Việt Nam đã biến đâu mất trong những giờ phút ngư dân gặp nạn ?
Hình ảnh duy nhất xuất hiện trên các báo Việt Nam cho thấy một số nhân viên của Lực lượng Biên phòng đã được cử đến để lấy lời khai của ngư dân và ghi tang chứng những tầu cá bị quân Trung Cộng tấn công khi họ cập bến.
Việc làm này, cũng như các lần trước, chỉ để báo cáo lên cấp trên cho có lệ và không đem lại bất cứ kế qủa nào.
CẤM ĐÁNH BẮT
Tuy nhiên, hành động tấn công các tầu cá Việt Nam tháng 3 năm nay (2018) quanh vùng biển Hoàng Sa, bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, đã xẩy ra vào dịp Bắc Kinh đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt ở Biển Đông từ 12 giờ ngày 1/5 đến 12 giờ ngày 16/08/2018, mà họ nói là để bảo dưỡng nguồn hải sản.
Đối với ngư dân Việt Nam thì thời gian cấm đánh bắt lại rơi đúng vào vụ mùa thu hoạch cao loại cá Nam hàng năm tập trung về vùng Hoàng Sa và Trường Sa cho nên, dù biết nguy hiểm ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục ra biển đánh bắt.
Vậy Chính phủ Việt Nam đã phản ứng về lệnh cấm của Trung Cộng ra sao ?
Về phương diện bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo vệ an ninh cho ngư dân thì chưa thấy Chính phủ Việt Nam nói gì. Duy nhất chỉ thấy người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rằng:”Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc.”
Bởi vì theo bà Hằng thì :” Quy chế về nghỉ đánh bắt cá trên biển, bao gồm một số vùng biển của Việt Nam xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, không phù hợp với thỏa thuận quan trọng Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được về kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông và xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiện nay.”
Tuy nói thì hằng đấy nhưng Việt Nam không có lực lượng chấp pháp hữu hiệu trên biển nên Trung Hoa đã bỏ ngoài tai tất cả những gì Việt Nam muốn nói.
TẬP TRẬN LÀM GÌ ?
Cũng đáng quan tâm là khi tình hình Việt-Trung nóng lên thì Trung Hoa đã thực hiện hai cuộc tập trận quy mô trên Biển Đông, ngay sau khi lính của họ tấn công ngư dân Việt Nam và ban hành lệnh cấm đánh bắt dài hơn 3 tháng.
Cuộc tập trận thứ nhất của của khoảng 40 tầu Hải Quân các loại và tầu sân bay Liêu Ninh đã diễn ra ở khu vực nam đảo Hải Nam hướng ra Biển Đông.
Sau đó là cuộc tập chiến đấu trên không của Binh chủng Không quân bao gồm vùng trời ở Biển Đông, khu vực Tây Thái Bình Dương và vùng eo biển ở miền nam Nhật Bản.
Theo tin Quốc phòng Tây phương thì Trung Hoa đã sử dụng oanh tạc cơ H-6K, chiến đấu cơ Su-30 và Su-35 và nhiều loại máy bay khác trong cuộc tập dượt này.
Nhưng tại sao Trung Hoa lại tập trận Hải-Không quân lớn như thế vào lúc này ?
Không có bất cứ phát ngôn nào của Bộ Quốc phòng cho biết lý do, nhưng Tân Hoa Xã của Trung Hoa (Xinhua News Agency) đã trích thông cáo của Không quân Trung Quốc viết hôm 25/3 nói rằng: “Việc tập trận của lực lượng không quân là nhằm tập dượt cho các cuộc chiến trong tương lai và là công tác chuẩn bị trực tiếp nhất cho việc chiến đấu.”
Nhưng tương lai là bao giờ và liệu Việt Nam đã chuẩn bị chưa ?
CUỘC CHIẾN TRÊN BIỂN
Rất khó biết, nhưng theo lời Thiếu tướng, nguyên Chuẩn Đô đốc
Lê Kế Lâm, Chủ tịch Hội Khoa học - Kỹ thuật và Kinh tế Biển Thành phố Hồ Chí Minh thì ông tin Việt Nam có đủ sức bảo vệ biển đảo, và tổ chức những trận đánh xa bờ từ 500 đến 600 cây số.
Trong cuộc phỏng vấn của Zing.VN (đăng ngày 01/03/2017), tướng Lâm nói:”Với lực lượng hiện nay, Hải quân Việt Nam đủ sức để bảo vệ bờ biển và hải đảo của Tổ quốc. Điều tôi thấy quý là lớp tàu tên lửa Tia chớp Molniya. Tàu chỉ có lượng giãn nước 560 tấn nhưng có thể mang tới 16 quả tên lửa với tầm bắn 180-200 km. Đây là loại tàu do Việt Nam đóng dựa trên công nghệ chuyển giao của Nga.
Với riêng tàu ngầm, chiến thuật rất khác. Tàu có thể đi ra biển một tháng mới về, kíp tàu đó được lên bờ an dưỡng, huấn luyện rồi lại xuống tàu khác đi. Chúng ta có 6 tàu ngầm nhưng hoạt động trên biển chỉ 2 chiếc. Còn 2 chiếc nằm cảng, 2 chiếc bảo dưỡng.
Tôi nghĩ với lực lượng như hiện nay, chúng ta có thể tổ chức được trận đánh, giáng trả khi bị tấn công".
Ông nói tiếp:”Trước kia, chúng ta không có khả năng đánh ở Trường Sa. Nhưng từ 2010 trở lại đây, khi có lực lượng đặc biệt thì chúng ta có điều kiện tổ chức những trận đánh cách bờ 500-600 km, tức là đánh đến Trường Sa và xa hơn nữa.”
Zing-H: Với việc trang bị một loạt phương tiện, vũ khí tối tân, đánh giá của ông về tương quan lực lượng giữa Hải quân Việt Nam và các nước trong khu vực hiện nay ra sao?
Tướng Lê Kế Lâm:” Nếu so sánh với Hải quân Trung Quốc thì Hải quân của chúng ta còn cách xa họ. Vì họ có một nền công nghiệp quốc phòng hiện đại. Họ phóng được tàu vũ trụ, họ có hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu tự dẫn đường thay cho GPS của Mỹ. Tất cả vũ khí của họ đều tự sản xuất ra được. Tàu chiến họ đóng được rất nhanh và nhiều.
Mỗi nước Đông Nam Á cũng có thế mạnh riêng của họ. Ví dụ, Singapore đất nước nhỏ, bờ biển ít, để bảo vệ quốc gia và biển, họ cũng có tàu ngầm và tàu chiến. Hải quân Singapore cũng là lực lượng có sức chiến đấu khiến nhiều nước phải nể sợ.
Đối với Hải quân Việt Nam, từ 2010, chúng ta đã có sức tấn công. Có thể dùng nhiều đòn chứ không chỉ một đòn. Có thể tấn công bằng tên lửa bờ, tên lửa tàu mặt nước, tên lửa ngư lôi của tàu ngầm, bằng các phương tiện khác như đặc công nước, hải quân đánh bộ.”
TƯƠNG LAI GẦN VÀ XA
Zing-H: Tuy nhiên, có thể thấy chiến lược hiện đại hoá Hải quân Việt Nam mới chỉ ở những bước đầu tiên. Theo Chuẩn Đô đốc, tiếp theo chúng ta nên làm gì?
Tướng Lê Kế Lâm :” Chúng ta không thể cứ đi mua vũ khí mãi. Mua tốn tiền đã đành nhưng quan trọng hơn là sự lệ thuộc. Không phải người ta bán cho mình tất cả những gì ưu việt nhất.
Bước tiếp theo phải tự sản xuất. Chúng ta sản xuất gì? Đối với hải quân, trước hết phải sản xuất tên lửa và pháo. Ngân sách quốc phòng ít nhất phải chiếm 2% GDP thì mới đủ tiền để nghiên cứu, chế tạo vũ khí. Mỹ giành 3% GDP, Trung Quốc có thể lớn hơn nữa.”
Nguyên chuẩn Đô đốc Lâm còn khuyên:”Hơn hết, các thế hệ lãnh đạo phải hiểu được ý đồ của nước lớn. Chúng ta hoan nghênh đa phương, đa dạng hoá. Tuy nhiên, không thể tin ai hoàn toàn, cũng không dựa vào ai hoàn toàn. Dựa vào một ai đó rồi sẽ đến lúc bị phản bội.
Nếu phải mua thì đa dạng hoá nhà cung cấp, đừng chỉ đi với một nước. Cái hay của việc này là tiếp thu được nhiều tinh hoa, nhiều kênh vũ khí. Ngoài Nga còn có Pháp, Ấn Độ, Israel... Tuy nhiên, cái khó là hệ thống vũ khí không đồng bộ, người sử dụng phải đi học ở nhiều nước khác nhau. NATO hiện đang hướng tới thống nhất một dòng vũ khí để đảm bảo hậu cần. Theo tôi, Việt Nam nên sản xuất lấy một dòng vũ khí của mình, chỉ có Việt Nam có.”
Zing H:- Trong những năm tới, theo đánh giá của Chuẩn Đô đốc, tình trạng giằng co trên biển giữa các nước sẽ diễn biến như thế nào? Liệu Hải quân Việt Nam đã đủ sức để ứng phó với những biến động đó?
Tướng Lê Kế Lâm: “Việt Nam chưa từng tham gia chiến tranh trên các đại dương. Hơn nữa, đó là chuyện giữa các nước lớn. Nhưng khả năng đó còn xa, không nước nào muốn có cuộc chiến tranh này, kể cả Mỹ hay Trung Quốc.
Còn ở gần như biển Hoa Đông, giữa Nhật và Trung Quốc hay trên Biển Đông thì nếu Trung Quốc có cái đầu nóng, đẩy mạnh hoạt động vũ trang lên cao thì có thể xảy ra xung đột.
Trong trường hợp này, chúng ta phải có đối sách thật linh hoạt, khôn khéo để giữ hoà bình, ngăn chặn đầu nóng của Trung Quốc. Muốn ngăn chặn phải làm tốt hai vế: ngoại giao và tăng cường sức mạnh quân sự. Phải có sức mạnh thật sự để những cái đầu nóng nếu muốn gây ra chuyện gì, sẽ phải tính đến thiệt hại đau đớn.”
CHUYỆN TRƯỚC MẮT
Quan điểm quốc phòng và chiến lược biển của nguyên Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm đồi với viễn ảnh nguy cơ chiến tranh Việt-Trung trên biển là chuyện có thể còn xa.
Nhưng bây giờ là chuyện gần đã xẩy ra giữa hai nước Việt-Trung liên quan đến Dự án giếng dầu và khí đốt Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol (Spain,Tây Ban Nha) trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Các tin của Kỹ nghệ dầu khí xác nhận Việt Nam đã phải đình chỉ tìm kiếm ở giếng Cá Rồng Đỏ, sau khi Trung Hoa đe dọa sẽ tấn công quân sự rộng rãi vào các vị trí của Việt Nam ở Trường Sa.
Giếng Cá Rồng Đỏ, lô 163-03, nằm ở khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank), phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Giếng này có khả năng sản xuất 25.000-30.000 thùng dầu và 60 triệu mét khối khí mỗi ngày.
Trung Hoa cho rằng giếng Cá Rồng Đỏ nằm trong vùng “lưỡi bò” thuộc chủ quyền của họ, mặc dù Tòa án Quốc tế đã bác bỏ luận cứ này từ năm 2016
Bất chấp phán quyết của Tòa án, Trung Hoa lại di chuyển dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, gần giếng Cá Rồng Đỏ để cạnh tranh tìm kiếm và khai thác dầu khí với Việt Nam, theo tin của Kỹ nghệ dầu khí.
Tuy nhiên, cho đến nay dù chuyện Cá Rồng Đỏ đã xẩy ra từ giữa năm 2017, cả hai Chính phủ Việt-Trung đều im hơi lặng tiếng, hầu như cả hai bên đều muôn tránh làm cho mối bang giao phức tạp thêm.
Nhưng Trung Hoa không chỉ bất bình với Việt Nam ở Cá Rồng Đỏ mà còn hậm hực với Hà Nội về Dự án Mỏ Cá Voi Xanh của ExxonMobil trong lô 118 ngoài khơi Đà Nẵng.
Tin từ phía Việt Nam và ExxonMobile xác nhận Dự án mỏ dầu khí Cá Voi Xanh sẽ được Petrovietnam và ExxonMobil chính thức khởi động vào cuối năm 2019.
Cũng cần nhắc lại vào ngày 01 tháng 05 năm 2014, Trung Hoa đã ngang nhiên đem giàn khoan khổng lồ Hải Dương (HD) 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa để tìm kiếm dầu.
Vị trí đặt giàn khoan chỉ cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía đông (mỗi Hải lý dài 1,852 mét) đã gây ra cuộc khủng hoảng dài 75 ngày giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nhiều cuộc va chạm tầu, thuyền giữa đôi bên đã xẩy ra nhưng chiền tranh đã được kìm hãm vì áp lực của Thế giới đòi Trung Hoa phải ngưng hoạt động trái phép.
Cuối cùng Trung Hoa đã phải rút giàn khoan HD-981 về nước ngày 15/07/2017, cùng lúc trận bão lớn có tên Thần Sấm tràn vào Biển Đông.
Bang giao Việt-Trung từ đó đã rẽ sang lối đi khác, sau nhiều năm tháng nguôi ngoa sau các biến cố đẫm máu Hoàng Sa 1974, Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979-1990 và cuộc thảm sát Gạc Ma 1988.
Bởi vì lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh Lãnh đạo láng giềng phương Bắc tuy là bạn cùng thuyền hôm nay mà cũng có thể là kẻ lật thuyền ngày mai.
Bằng chứng như chuyện các ngư phủ Việt Nam tiếp tục bị lính Trung Cộng hành hạ, bắn giết và cướp tài sản ở Biển Đông của Việt Nam và các vụ tranh chấp lãnh hải và tài nguyên thuộc quyền sở hữu của Việt Nam đã chứng minh rõ mặt bạn-thù trong Thế giới hôm nay.
Thế mà tiếc thay, Việt Nam vẫn có những Lãnh đạo người Việt Cộng sản còn ngây thơ nhắm mắt để sa vào vào cái bẫy của tình hữu nghị 16 chữ Vàng và Tinh thần 4 tốt (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.)
-/-
Phạm Trần
(03/018)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô về Tam Nhật Vượt Qua
Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
20:45 28/03/2018
Bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô về Tam Nhật Vượt Qua
“[Nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua] chúng ta đã được tái sinh như những thụ tạo mới: một thực tại đòi buộc phải trở nên một sự hiện hữu cụ thể từng ngày”.
Dưới đây là bản dịch bài giáo lý của ĐTC Phanxicô về Tam Nhật Vượt Qua, được ban hành ngày 28 tháng 3, 2018 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. ĐTC nói rằng ba ngày này “tạo thành một cuộc cử hành tưởng niệm về một mầu nhiệm cao cả: Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Thánh bắt đầu vào ngày mai, với Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa, và kết thúc với Kinh Chiều của Chúa Nhật Phục Sinh…. Tất cả mọi Kitô hữu được mời gọi sống ba Ngày Thánh này - Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy; và Chúa Nhật…. Có thể nói Ba Ngày Thánh này như “nguồn gốc” của đời sống cá nhân của họ, đời sống cộng đồng của họ, như anh chị em Do Thái của chúng ta đã sống Cuộc Xuất Hành từ Ai Cập”.
* * *
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay tôi muốn suy niệm về Tam Nhật Vượt Qua là ba ngày bắt đầu từ ngày mai, để đào sâu thêm một chút những gì mà những ngày quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ trình bày cho chúng ta, là các tín hữu. Tôi muốn hỏi anh chị em một câu hỏi: lễ nào là lễ quan trọng nhất của đức tin của chúng ta: Lễ Giáng Sinh hay Lễ Phục Sinh? Lễ Phục Sinh vì đó là ngày lễ của ơn cứu độ của chúng ta, ngày lễ của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày lễ, cuộc cử hành Cái Chết và Phục Sinh của Người. Và vì điều này, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về lễ này, trong những ngày này, là những ngày Vượt Qua, cho đến khi Chúa Phục Sinh. Những ngày này tạo thành một cuộc cử hành tưởng niệm về một mầu nhiệm cao cả: Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Thánh bắt đầu vào ngày mai, với Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa, và kết thúc với Kinh Chiều của Chúa Nhật Phục Sinh. Sau đó đến “Thứ Hai Phục Sinh” để mừng đại lễ này: một ngày nữa. Nhưng đây là ngày hậu phụng vụ: đây là ngày lễ của gia đình, đây là ngày lễ của xã hội. Nó đánh dấu các giai đoạn cơ bản của đức tin và ơn gọi của chúng ta trên thế gian, và tất cả mọi Kitô hữu được mời gọi sống ba Ngày Thánh này - Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy; và Chúa Nhật - anh chị em hiểu - nhưng ngày Thứ Bảy là ngày Phục Sinh - có thể nói Ba Ngày Thánh này như “nguồn gốc” của đời sống cá nhân của họ, đời sống cộng đồng của họ, như anh chị em Do Thái của chúng ta đã sống Cuộc Xuất Hành từ Ai Cập.
Ba ngày này tái trình bày cho dân Kitô giáo các biến cố vĩ đại của ơn cứu độ mà Đức Kitô đã mang đến, và như thế, chúng chỉ cho họ thấy viễn tượng của số phận tương lai của họ và củng cố họ trong quyết tâm làm chứng nhân trong lịch sử.
Vào sáng Phục Sinh, trong khi nhắc lại các giai đoạn đã trải qua trong Tam Nhật Thánh, Bài Ca Tiếp Liên, tức là một thánh thi hoặc thánh vịnh, sẽ long trọng nói lên lời công bố Phục Sinh; và nói rằng: “Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đã sống lại và đi trước chúng ta đến Galilêa”. Đây là lời khẳng định vĩ đại: Đức Kitô đã sống lại. Và nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Âu, trong những ngày Phục Sinh này, người ta không chào nhau bằng “chào buồi sáng”, “chào buổi tối” nhưng bằng “Đức Kitô đã sống lại”, để khẳng định lời chào Phục Sinh vĩ đại. “Đức Kitô đã sống lại”. Qua những lời này - “Đức Kitô đã sống lại” – Tam Nhật Thánh đạt đến tột đỉnh trong các lời công bố vui mừng cảm động. Chúng chứa đựng không những chỉ một loan báo về niềm vui và hy vọng, mà còn một lời kêu gọi về trách nhiệm và sứ vụ. Phục Sinh không kết thúc với chim bồ câu, trứng, các lễ hội - mặc dù điều này tốt đẹp vì Phục Sinh là một lễ của gia đình - nhưng Phục Sinh không kết thúc như thế. Ở đó bắt đầu cuộc hành trình sứ vụ, để loan báo: Đức Kitô đã sống lại. Và lời loan báo này này, mà Tam Nhật Thánh dẫn đầu, chuẩn bị chúng ta để đón nhận nó, là trung tâm của đức tin của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta, là điểm cốt yếu, là lời loan báo, đó là - một từ khó hiểu, nhưng nó nói lên tất cả - là kerygma (lời loan báo ban đầu), là lời liên tục Phúc Âm hoá Hội Thánh, và đến lượt mình, Hội Thánh được sai đi để Phúc Âm hóa.[1]
Thánh Phaolô tóm tắt biến cố Phục Sinh bằng biểu thức này: “Đức Kitô, chiên Vượt Qua của chúng ta, đã chịu hiến tế” (1 Cor 5:7), như con chiên. Người đã chịu sát tế. Vì thế - thánh nhân tiếp tục - “Những cái cũ đã qua, và đây, mọi sự đang trở nên mới.” (2 Cor 5:17). Tái sinh. Và vì thế, ngay từ ban đầu, người ta đã chịu phép rửa tội vào Chúa Nhật Phục Sinh. Cũng trong đêm Thứ Bảy này, tôi sẽ rửa tội ở đây, tại Đền Thánh Phêrô, tám người trưởng thành bắt đầu đời sống Kitô hữu. Và tất cả bắt đầu vì họ sẽ được tái sinh. Và với một công thức tổng hợp khác thánh Phaolô giải thích rằng Đức Kitô “đã bị nộp để chịu chết vì tội chúng ta và đã sống lại để công chính hóa chúng ta” (Rom 4:25). Người duy nhất, Đấng duy nhất công chính hoá chúng ta; Đấng duy nhất làm cho chúng ta được tái sinh là Chúa Giêsu Kitô. Không một ai khác. Và vì điều này anh chị em không phải trả đồng nào, bởi vì ơn công chính hoá – việc làm cho chúng ta nên công chính - là ơn nhưng không. Và đây là sự vĩ đại của tình yêu của Chúa Giêsu: Người tự nguyện hiến mạng sống Mình để làm cho chúng ta nên thánh, đổi mới chúng ta, tha thứ cho chúng ta. Và đây chính là cốt lõi của Tam Nhật Vượt Qua này. Trong Tam Nhật Vượt Qua việc tưởng niệm biến cố cơ bản này trở nên một cuộc cử hành đầy biết ơn và, đồng thời, canh tân, trong những người đã được rửa tội, ý nghĩa của tình trạng mới của họ, là điều lại được Thánh Tông Đồ Phaolô diễn tả: “Nếu anh chị em đã được sống lại với Đức Kitô, thì hãy tìm kiếm những sự trên trời, [...] chứ không phải những sự dưới đất” (Col 3:1-3). Anh chị em hãy nhìn lên, nhìn lên chân trời, mở rộng chân trời của mình: đây là đức tin của chúng ta, đây là sự công chính hoá của chúng ta, đây là tình trạng ân sủng! Thực ra, qua Bí Tích Rửa Tội chúng ta đã sống lại với Chúa Giêsu và đã chết với những sự việc và luận lý của thế gian; chúng ta đã được tái sinh như những thụ tạo mới: một thực tại đòi buộc phải trở nên một sự hiện hữu cụ thể từng ngày.
Nếu một Kitô hữu thực sự để cho mình được Đức Kitô rửa sạch, nếu thực sự để cho Người lột bỏ con người cũ để đi trong một đời sống mới, mặc dù vẫn còn là một người tội lỗi - bởi vì tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi – người ấy không còn bị hư hỏng, sự công chính hoá của Chúa Giêsu cứu chúng ta khỏi sự hư hỏng, chúng ta là những kẻ tội lỗi nhưng không bị hư hỏng; người ấy không còn có thể sống với cái chết trong linh hồn, và thậm chí cũng không phải là nguyên nhân của sự chết. Và ở đây tôi phải nói một điều đáng buồn và đau đớn ... Có các Kitô hữu giả: những kẻ nói “Chúa Giêsu đã sống lại”, “Tôi đã được Chúa Giêsu công chính hoá”, tôi đang ở trong cuộc sống mới, nhưng tôi sống một cuộc sống hư hỏng. Và những Kitô hữu giả này sẽ kết thúc tồi tệ. Tôi lặp lại, Kitô hữu là những kẻ tội lỗi - tất cả chúng ta, kể cả tôi - nhưng chúng ta chắc chắn rằng khi chúng ta cầu xin ơn tha thứ thì Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta. Kẻ hư hỏng giả bộ làm một người đáng kính, nhưng cuối cùng thì trong tim kẻ ấy vẫn còn sự tồi bại. Chúa Giêsu ban cho chúng ta một cuộc sống mới. Một Kitô hữu không thể sống với cái chết trong linh hồn mình, và không thể là nguyên nhân của sự chết. Chúng ta hãy nghĩ - không cần phải xa xôi - chúng ta hãy nghĩ ở nhà, chúng ta nghĩ đến những kẻ được gọi là “Kitô hữu mafia”. Các Kitô hữu này không có gì: họ nhận mình là Kitô hữu, nhưng họ mang sự chết trong linh hồn và đem nó đến cho những người khác. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ, để Chúa đánh động linh hồn họ. Người lân cận, đặc biệt là những người nhỏ nhất và đau khổ nhất, trở thành gương mặt cụ thể mà chúng ta có thể trao tặng tình yêu mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Và thế giới trở thành không gian của đời sống mới của chúng ta như những người đã được phục sinh. Chúng ta đang sống lại với Chúa Giêsu: bằng cách đứng thẳng, và ngẩng đầu lên, chúng ta có thể chia sẻ nỗi nhục nhằn của những người ngày hôm nay, như Chúa Giêsu, vẫn còn đang sống trong đau khổ, trần truồng, túng thiếu, cô đơn, sự chết, để, nhờ Người và với Người, trở thành những công cụ cứu chuộc và hy vọng, những dấu chỉ của sự sống và sự phục sinh. Ở nhiều nước - ở đây, ở Ý và cũng ở quê hương tôi - có thói quen, vào lễ Phục Sinh, khi nghe tiếng chuông, các bà mẹ và các bà đem trẻ em đi rửa mắt chúng bằng nước, nước của sự sống, như một dấu chỉ rằng có thể nhìn thấy những điều thuộc về Chúa Giêsu, những điều mới mẻ. Trong Lễ Phục Sinh này, chúng ta hãy rửa linh hồn mình, hãy rửa mắt linh hồn, để nhìn thấy những điều đẹp đã và làm những điều tốt đẹp. Và điều này thật tuyệt diệu! Đây chính là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu sau Cái Chết của Người, là giá để cứu tất cả chúng ta.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dọn mình để sống tốt Tam Nhật Thánh đang cận kề - bắt đầu vào ngày mai -, để được chìm sâu hơn nữa vào mầu nhiệm Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Nguyện xin Đức Trinh Nữ đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình thiêng liêng này, Mẹ đã theo Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn của Người – Mẹ đã ở đó, đã nhìn lên, đã chịu đau khổ ... - đã có mặt và kết hợp với Người dưới chân thập giá của Người, nhưng Mẹ đã không xấu hổ vì Con mình. Một Người Mẹ đã không bao giờ hổ thẹn vì con mình! Mẹ đã ở đó, và đã nhận lãnh trong lòng Từ Mẫu của Mẹ niềm vui bao la của sự Phục Sinh. Xin Mẹ giúp chúng ta được ân sủng tham gia cách nội tâm vào các cuộc cử hành của những ngày sắp tới, ngõ hầu tâm hồn và đời sống chúng ta được thực sự biến đổi.
Và trong khi để lại cho anh chị em những suy nghĩ này, tôi chân thành cầu chúc anh chị em một Lễ Phục Sinh hạnh phúc và thánh thiện, cùng với cộng đồng và những người thân yêu của anh chị em.
Và tôi khuyên anh chị em: vào buổi sáng Lễ Phục Sinh, hãy đưa trẻ em đến vòi nước và rửa mắt chúng. Đó sẽ là một dấu chỉ của việc làm sao để nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2018/documents/papa-francesco_20180328_udienza-generale.html
[1] Ở đây động từ “evangelizzare” của tiếng Ý hay “evangelize” của tiếng Anh được dịch là “Phúc Âm Hoá” thay vì “loan báo Tin Mừng” hay “truyền giáo”, vì Hội Thánh và các phần từ của Hội Thánh cần phải Phúc Âm hoá trước khi “Phúc Âm hoá” hay “loan báo Tin Mừng” hoặc “truyền giáo” cho những người ngoài Hội Thánh.
“[Nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua] chúng ta đã được tái sinh như những thụ tạo mới: một thực tại đòi buộc phải trở nên một sự hiện hữu cụ thể từng ngày”.
Dưới đây là bản dịch bài giáo lý của ĐTC Phanxicô về Tam Nhật Vượt Qua, được ban hành ngày 28 tháng 3, 2018 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. ĐTC nói rằng ba ngày này “tạo thành một cuộc cử hành tưởng niệm về một mầu nhiệm cao cả: Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Thánh bắt đầu vào ngày mai, với Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa, và kết thúc với Kinh Chiều của Chúa Nhật Phục Sinh…. Tất cả mọi Kitô hữu được mời gọi sống ba Ngày Thánh này - Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy; và Chúa Nhật…. Có thể nói Ba Ngày Thánh này như “nguồn gốc” của đời sống cá nhân của họ, đời sống cộng đồng của họ, như anh chị em Do Thái của chúng ta đã sống Cuộc Xuất Hành từ Ai Cập”.
* * *
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay tôi muốn suy niệm về Tam Nhật Vượt Qua là ba ngày bắt đầu từ ngày mai, để đào sâu thêm một chút những gì mà những ngày quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ trình bày cho chúng ta, là các tín hữu. Tôi muốn hỏi anh chị em một câu hỏi: lễ nào là lễ quan trọng nhất của đức tin của chúng ta: Lễ Giáng Sinh hay Lễ Phục Sinh? Lễ Phục Sinh vì đó là ngày lễ của ơn cứu độ của chúng ta, ngày lễ của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày lễ, cuộc cử hành Cái Chết và Phục Sinh của Người. Và vì điều này, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về lễ này, trong những ngày này, là những ngày Vượt Qua, cho đến khi Chúa Phục Sinh. Những ngày này tạo thành một cuộc cử hành tưởng niệm về một mầu nhiệm cao cả: Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Thánh bắt đầu vào ngày mai, với Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa, và kết thúc với Kinh Chiều của Chúa Nhật Phục Sinh. Sau đó đến “Thứ Hai Phục Sinh” để mừng đại lễ này: một ngày nữa. Nhưng đây là ngày hậu phụng vụ: đây là ngày lễ của gia đình, đây là ngày lễ của xã hội. Nó đánh dấu các giai đoạn cơ bản của đức tin và ơn gọi của chúng ta trên thế gian, và tất cả mọi Kitô hữu được mời gọi sống ba Ngày Thánh này - Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy; và Chúa Nhật - anh chị em hiểu - nhưng ngày Thứ Bảy là ngày Phục Sinh - có thể nói Ba Ngày Thánh này như “nguồn gốc” của đời sống cá nhân của họ, đời sống cộng đồng của họ, như anh chị em Do Thái của chúng ta đã sống Cuộc Xuất Hành từ Ai Cập.
Ba ngày này tái trình bày cho dân Kitô giáo các biến cố vĩ đại của ơn cứu độ mà Đức Kitô đã mang đến, và như thế, chúng chỉ cho họ thấy viễn tượng của số phận tương lai của họ và củng cố họ trong quyết tâm làm chứng nhân trong lịch sử.
Vào sáng Phục Sinh, trong khi nhắc lại các giai đoạn đã trải qua trong Tam Nhật Thánh, Bài Ca Tiếp Liên, tức là một thánh thi hoặc thánh vịnh, sẽ long trọng nói lên lời công bố Phục Sinh; và nói rằng: “Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đã sống lại và đi trước chúng ta đến Galilêa”. Đây là lời khẳng định vĩ đại: Đức Kitô đã sống lại. Và nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Âu, trong những ngày Phục Sinh này, người ta không chào nhau bằng “chào buồi sáng”, “chào buổi tối” nhưng bằng “Đức Kitô đã sống lại”, để khẳng định lời chào Phục Sinh vĩ đại. “Đức Kitô đã sống lại”. Qua những lời này - “Đức Kitô đã sống lại” – Tam Nhật Thánh đạt đến tột đỉnh trong các lời công bố vui mừng cảm động. Chúng chứa đựng không những chỉ một loan báo về niềm vui và hy vọng, mà còn một lời kêu gọi về trách nhiệm và sứ vụ. Phục Sinh không kết thúc với chim bồ câu, trứng, các lễ hội - mặc dù điều này tốt đẹp vì Phục Sinh là một lễ của gia đình - nhưng Phục Sinh không kết thúc như thế. Ở đó bắt đầu cuộc hành trình sứ vụ, để loan báo: Đức Kitô đã sống lại. Và lời loan báo này này, mà Tam Nhật Thánh dẫn đầu, chuẩn bị chúng ta để đón nhận nó, là trung tâm của đức tin của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta, là điểm cốt yếu, là lời loan báo, đó là - một từ khó hiểu, nhưng nó nói lên tất cả - là kerygma (lời loan báo ban đầu), là lời liên tục Phúc Âm hoá Hội Thánh, và đến lượt mình, Hội Thánh được sai đi để Phúc Âm hóa.[1]
Thánh Phaolô tóm tắt biến cố Phục Sinh bằng biểu thức này: “Đức Kitô, chiên Vượt Qua của chúng ta, đã chịu hiến tế” (1 Cor 5:7), như con chiên. Người đã chịu sát tế. Vì thế - thánh nhân tiếp tục - “Những cái cũ đã qua, và đây, mọi sự đang trở nên mới.” (2 Cor 5:17). Tái sinh. Và vì thế, ngay từ ban đầu, người ta đã chịu phép rửa tội vào Chúa Nhật Phục Sinh. Cũng trong đêm Thứ Bảy này, tôi sẽ rửa tội ở đây, tại Đền Thánh Phêrô, tám người trưởng thành bắt đầu đời sống Kitô hữu. Và tất cả bắt đầu vì họ sẽ được tái sinh. Và với một công thức tổng hợp khác thánh Phaolô giải thích rằng Đức Kitô “đã bị nộp để chịu chết vì tội chúng ta và đã sống lại để công chính hóa chúng ta” (Rom 4:25). Người duy nhất, Đấng duy nhất công chính hoá chúng ta; Đấng duy nhất làm cho chúng ta được tái sinh là Chúa Giêsu Kitô. Không một ai khác. Và vì điều này anh chị em không phải trả đồng nào, bởi vì ơn công chính hoá – việc làm cho chúng ta nên công chính - là ơn nhưng không. Và đây là sự vĩ đại của tình yêu của Chúa Giêsu: Người tự nguyện hiến mạng sống Mình để làm cho chúng ta nên thánh, đổi mới chúng ta, tha thứ cho chúng ta. Và đây chính là cốt lõi của Tam Nhật Vượt Qua này. Trong Tam Nhật Vượt Qua việc tưởng niệm biến cố cơ bản này trở nên một cuộc cử hành đầy biết ơn và, đồng thời, canh tân, trong những người đã được rửa tội, ý nghĩa của tình trạng mới của họ, là điều lại được Thánh Tông Đồ Phaolô diễn tả: “Nếu anh chị em đã được sống lại với Đức Kitô, thì hãy tìm kiếm những sự trên trời, [...] chứ không phải những sự dưới đất” (Col 3:1-3). Anh chị em hãy nhìn lên, nhìn lên chân trời, mở rộng chân trời của mình: đây là đức tin của chúng ta, đây là sự công chính hoá của chúng ta, đây là tình trạng ân sủng! Thực ra, qua Bí Tích Rửa Tội chúng ta đã sống lại với Chúa Giêsu và đã chết với những sự việc và luận lý của thế gian; chúng ta đã được tái sinh như những thụ tạo mới: một thực tại đòi buộc phải trở nên một sự hiện hữu cụ thể từng ngày.
Nếu một Kitô hữu thực sự để cho mình được Đức Kitô rửa sạch, nếu thực sự để cho Người lột bỏ con người cũ để đi trong một đời sống mới, mặc dù vẫn còn là một người tội lỗi - bởi vì tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi – người ấy không còn bị hư hỏng, sự công chính hoá của Chúa Giêsu cứu chúng ta khỏi sự hư hỏng, chúng ta là những kẻ tội lỗi nhưng không bị hư hỏng; người ấy không còn có thể sống với cái chết trong linh hồn, và thậm chí cũng không phải là nguyên nhân của sự chết. Và ở đây tôi phải nói một điều đáng buồn và đau đớn ... Có các Kitô hữu giả: những kẻ nói “Chúa Giêsu đã sống lại”, “Tôi đã được Chúa Giêsu công chính hoá”, tôi đang ở trong cuộc sống mới, nhưng tôi sống một cuộc sống hư hỏng. Và những Kitô hữu giả này sẽ kết thúc tồi tệ. Tôi lặp lại, Kitô hữu là những kẻ tội lỗi - tất cả chúng ta, kể cả tôi - nhưng chúng ta chắc chắn rằng khi chúng ta cầu xin ơn tha thứ thì Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta. Kẻ hư hỏng giả bộ làm một người đáng kính, nhưng cuối cùng thì trong tim kẻ ấy vẫn còn sự tồi bại. Chúa Giêsu ban cho chúng ta một cuộc sống mới. Một Kitô hữu không thể sống với cái chết trong linh hồn mình, và không thể là nguyên nhân của sự chết. Chúng ta hãy nghĩ - không cần phải xa xôi - chúng ta hãy nghĩ ở nhà, chúng ta nghĩ đến những kẻ được gọi là “Kitô hữu mafia”. Các Kitô hữu này không có gì: họ nhận mình là Kitô hữu, nhưng họ mang sự chết trong linh hồn và đem nó đến cho những người khác. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ, để Chúa đánh động linh hồn họ. Người lân cận, đặc biệt là những người nhỏ nhất và đau khổ nhất, trở thành gương mặt cụ thể mà chúng ta có thể trao tặng tình yêu mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Và thế giới trở thành không gian của đời sống mới của chúng ta như những người đã được phục sinh. Chúng ta đang sống lại với Chúa Giêsu: bằng cách đứng thẳng, và ngẩng đầu lên, chúng ta có thể chia sẻ nỗi nhục nhằn của những người ngày hôm nay, như Chúa Giêsu, vẫn còn đang sống trong đau khổ, trần truồng, túng thiếu, cô đơn, sự chết, để, nhờ Người và với Người, trở thành những công cụ cứu chuộc và hy vọng, những dấu chỉ của sự sống và sự phục sinh. Ở nhiều nước - ở đây, ở Ý và cũng ở quê hương tôi - có thói quen, vào lễ Phục Sinh, khi nghe tiếng chuông, các bà mẹ và các bà đem trẻ em đi rửa mắt chúng bằng nước, nước của sự sống, như một dấu chỉ rằng có thể nhìn thấy những điều thuộc về Chúa Giêsu, những điều mới mẻ. Trong Lễ Phục Sinh này, chúng ta hãy rửa linh hồn mình, hãy rửa mắt linh hồn, để nhìn thấy những điều đẹp đã và làm những điều tốt đẹp. Và điều này thật tuyệt diệu! Đây chính là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu sau Cái Chết của Người, là giá để cứu tất cả chúng ta.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dọn mình để sống tốt Tam Nhật Thánh đang cận kề - bắt đầu vào ngày mai -, để được chìm sâu hơn nữa vào mầu nhiệm Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Nguyện xin Đức Trinh Nữ đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình thiêng liêng này, Mẹ đã theo Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn của Người – Mẹ đã ở đó, đã nhìn lên, đã chịu đau khổ ... - đã có mặt và kết hợp với Người dưới chân thập giá của Người, nhưng Mẹ đã không xấu hổ vì Con mình. Một Người Mẹ đã không bao giờ hổ thẹn vì con mình! Mẹ đã ở đó, và đã nhận lãnh trong lòng Từ Mẫu của Mẹ niềm vui bao la của sự Phục Sinh. Xin Mẹ giúp chúng ta được ân sủng tham gia cách nội tâm vào các cuộc cử hành của những ngày sắp tới, ngõ hầu tâm hồn và đời sống chúng ta được thực sự biến đổi.
Và trong khi để lại cho anh chị em những suy nghĩ này, tôi chân thành cầu chúc anh chị em một Lễ Phục Sinh hạnh phúc và thánh thiện, cùng với cộng đồng và những người thân yêu của anh chị em.
Và tôi khuyên anh chị em: vào buổi sáng Lễ Phục Sinh, hãy đưa trẻ em đến vòi nước và rửa mắt chúng. Đó sẽ là một dấu chỉ của việc làm sao để nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2018/documents/papa-francesco_20180328_udienza-generale.html
[1] Ở đây động từ “evangelizzare” của tiếng Ý hay “evangelize” của tiếng Anh được dịch là “Phúc Âm Hoá” thay vì “loan báo Tin Mừng” hay “truyền giáo”, vì Hội Thánh và các phần từ của Hội Thánh cần phải Phúc Âm hoá trước khi “Phúc Âm hoá” hay “loan báo Tin Mừng” hoặc “truyền giáo” cho những người ngoài Hội Thánh.
Văn Hóa
Nghĩ…Tội Giu-Đa !
Sơn Ca Linh
12:35 28/03/2018
Hễ tới mùa “Tuần Thánh-Vượt Qua”,
Thế nào cũng bị đem “ném đá”,
Từ con nít tới mấy cụ già !
Có “binh” mấy, chẳng làm sao được.
Bởi Phúc Âm đã viết rành rành :
Được Chúa chọn từ ba năm trước,
“Nhóm Mười Hai” cao trọng vang danh. (1)
Theo Thầy lên Bắc lại xuống nam,
Chứng kiến bao nhiêu “dấu siêu phàm”,
Nghe thuyết giảng Tin Mừng Nước Chúa,
Nhưng trong lòng chưa dứt “túi tham” !
Tham thứ nhất chính là “tham vọng” (2),
Muốn tay Thầy giải phóng quê hương.
Đuổi Rôma tái lập cương thường,
Để Do Thái nên hàng cường quốc.
Tham thứ hai giàu sang tiền bạc,
Sẵn anh em giao giữ túi tiền. (3)
Cơ hội dại gì không kiếm chác !,
Khó nghèo ư ? chỉ mấy thằng điên !
Nhưng trên hết : tình yêu phai nhạt,
Nghĩa Thầy-trò chấm hết từ lâu !
Đôi chân Thầy có nghĩa gì đâu, (4)
Mà lãng phí “300 đồng dầu quý” ?
Tình anh em đáng gì quy lụy,
Có cần chi ly rượu ấm nồng !
Bỏ bàn tiệc lặng thầm tăm tối, (5)
Bước dần qua cõi chết mênh mông !
Phản bội ư ? Với Thầy chuyện nhỏ !
Chỉ trách anh sao kém niềm tin.
Một ánh mắt thôi Thầy đã rõ,
Chuyện Phê-rô còn mới như in ! (6)
Chúa đâu muốn phận người bất hạnh,
Nhưng để đời nghiệt ngã long đong!
Làm quỷ dạ xoa hay thần thánh…
Tự do theo tiếng gọi trong lòng !
Hai ngàn năm rồi đã đi qua,
Kỷ niệm mùa Khổ nạn xót xa.
Nếu “Tội A-đam là hồng phúc” (7),
Biết đâu chừng anh sẽ được tha !
Giu-đa trong “nhiệm mầu Thương Khó”,
Soi vào lòng ta lại thấy ta.
Nhạt tin yêu bao lần phản bội…
“Thầy ơi ! Xin Thầy hãy thứ tha !”
Sơn Ca Linh
Tuần Thánh 2018
Chú thích :
(1) Lc 6,12-16 (Chúa chọn 12 Tông Đồ sau 1 đêm cầu nguyện)
(2) Theo cách chú giải của ĐGM. GB. Bùi Tuần. Nguồn : Ông Giu-đa bán Chúa. Trang mạng chứng nhân Đức Kitô. www.chungnhanduckito.net.
(3) Ga 12,1-8
(4) Ga 12,1-8
(5) Ga 13,30
(6) Lc 22,61-61
(7) Bài Công bố Tin Mừng Phục Sinh : Exultet (Mừng vui lên).
Cái chết thể lý của Chúa Giêsu, kỳ cuối
Vũ Văn An
19:04 28/03/2018
Cái chết của Chúa Giêsu
Hai khía cạnh trong cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn tranh cãi gắt gao, tức bản chất vết thương ở cạnh sườn (4,6) và nguyên nhân cái chết sau chỉ vài tiếng đồng hồ trên thập giá (13,17).
Tin Mừng Gioan mô tả việc đâm cạnh sườn Chúa Giêsu và nhấn mạnh đến việc bỗng có dòng máu và nước chẩy ra (1). Một số tác giả giải thích dòng nước này là tràn dịch huyết thanh trong xoang bụng (ascites) (12) hoặc nước tiểu do việc bàng quang bị thủng gây ra (15). Tuy nhiên, chữ Hy Lạp πλευρα (pleura) (32,35,36) được Thánh Gioan sử dụng rõ ràng chỉ cạnh sườn và thường ám chỉ xương sườn (6, 32,36). Do đó, có lẽ vết thương xẩy ra ở lồng ngực và cách xa đường giữa bụng.
Dù Thánh Gioan không cho biết phía xẩy ra vết thương, nhưng truyền thống vẫn cho là ở bên phải (4). Nâng đỡ truyền thống này là sự kiện: một lượng máu lớn thì hẳn phải phát xuất từ tâm nhĩ hay tâm thất phải vốn căng phồng và có thành mỏng dễ bị thủng hơn là tâm thất trái vốn có thành dầy và co rút. Dù phía của vết thương có thể không bao giờ được xác định cách chắc chắn, phía phải xem ra có lý hơn phía trái.
Một số người nghi ngờ, không chấp nhận mô tả của Thánh Gioan, do sự khó khăn trong việc giải thích việc chẩy cả máu và nước, theo quan điểm chính xác của y khoa. Một phần của việc khó khăn này dựa trên giả thuyết cho rằng máu thoát ra trước, sau đó, mới đến nước. Tuy nhiên, trong tiếng Hy Lạp cổ, trật tự các chữ thường chỉ sự đáng chú ý hơn chứ không hẳn thứ tự thời gian (37). Do đó, có lẽ Thánh Gioan muốn nhấn mạnh tới tính đáng chú ý của máu hơn việc nó xẩy ra trước nước.
Bởi thế, có lẽ nước đây là chất huyết thanh ở màng phổi và màng tim (5,7,11), thường chẩy ra trước lượng máu và ít hơn lượng này. Có lẽ trong bối cảnh giảm thể tích máu và suy tim nặng sắp diễn ra, các chất lỏng từ màng phổi và màng tim có thể trào ra và hòa lẫn với lượng nước biểu kiến (5,11). Ngược lại, máu hẳn phát xuất từ tâm nhĩ phải hay tâm thất phải (Hình 7) hay có lẽ từ việc tràn máu màng ngoài tim (hemopericardium) (5,7,11).
Việc Chúa Giêsu chết chỉ sau 3 tới 6 tiếng đồng hồ trên thập giá làm cả Pontius Pilate cũng phải ngạc nhiên (1). Sự kiện Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rồi gục đầu và qua đời cho thấy có thể có một biến cố thảm khốc lúc lâm chung. Một giải thích bình dân cho rằng Chúa Giêsu qua đời vì vỡ tim. Trong bối cảnh bị đánh đòn và đóng đinh với việc giảm thể tích máu, thiếu oxy trong máu, và có thể cả tình trạng bị đông máu, những cục sùi huyết khối dễ bể tuy không lây lan (friable non-infective thrombotic vegetations) có thể được tạo nên ở van động mạch chủ hay van hai lá (aortic or mitral valve). Những khối này sau đó có thể rời chỗ và nhập vào các động mạch vành và do đó, tạo nên cơn nhồi máu cơ tim có tính vượt thành cấp tính (acute transmural myocardial infarction). Đã có phúc trình về những cục sùi huyết khối ở van diễn ra trong các tình trạng thống khổ tương tự (39). Việc vỡ thành tâm thất trái, dù hiếm, nhưng cũng có thể xẩy ra trong những giờ đầu tiên sau cơn nhồi máu (40).
Tuy nhiên, lời giải thích sau có vẻ hợp lý hơn: cái chết của Chúa Giêsu đã đến nhanh chỉ là vì Người kiệt lực và sự tàn ác của trận đánh đòn, khiến mất rất nhiều máu và Người rơi vào tình trạng tiền kích xúc (7). Việc Người không vác nổi cây ngang biện hộ cho lối giải thích này. Giống các nạn nhân bị đóng đinh khác, nguyên nhân cái chết của Chúa Giêsu có thể có nhiều nhân tố và chủ yếu liên quan tới cơn sốc giảm thể tích máu, ngạt thở vì kiệt sức, và có lẽ suy tim trầm trọng (2,3,5,7,10,11). Cơn loạn tim gây tử thương cũng có thể là nguyên nhân của biến bố lâm chung thảm khốc.
Như thế, câu hỏi còn lại là không rõ Chúa Giêsu qua đời vì vỡ tim hay vì suy tim và hô hấp. Tuy nhiên, điều quan trọng không hẳn là Người chết cách nào mà là Người có chết hay không. Rõ ràng, sức nặng của bằng chứng lịch sử và y khoa cho thấy rõ: Chúa Giêsu thực sự đã chết trước khi bị đâm vào cạnh sườn và việc đâm này bênh vực quan điểm truyền thống vốn cho rằng lưỡi gươm hay lưỡi đòng, phóng vào giữa các xương ở sườn phải, có lẽ đã đâm thủng không những lá phổi bên phải mà còn cả màng ngoài tim (pericardium) lẫn trái tim và do đó khiến Người chắc chắn phải chết (Hình 7). Thành thử, các lối giải thích dựa vào giả thuyết cho rằng Chúa Giêsu không chết trên thập giá là hoàn toàn đi ngược lại kiến thức y khoa hiện đại.
Chú Thích:
Hai khía cạnh trong cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn tranh cãi gắt gao, tức bản chất vết thương ở cạnh sườn (4,6) và nguyên nhân cái chết sau chỉ vài tiếng đồng hồ trên thập giá (13,17).
Tin Mừng Gioan mô tả việc đâm cạnh sườn Chúa Giêsu và nhấn mạnh đến việc bỗng có dòng máu và nước chẩy ra (1). Một số tác giả giải thích dòng nước này là tràn dịch huyết thanh trong xoang bụng (ascites) (12) hoặc nước tiểu do việc bàng quang bị thủng gây ra (15). Tuy nhiên, chữ Hy Lạp πλευρα (pleura) (32,35,36) được Thánh Gioan sử dụng rõ ràng chỉ cạnh sườn và thường ám chỉ xương sườn (6, 32,36). Do đó, có lẽ vết thương xẩy ra ở lồng ngực và cách xa đường giữa bụng.
Dù Thánh Gioan không cho biết phía xẩy ra vết thương, nhưng truyền thống vẫn cho là ở bên phải (4). Nâng đỡ truyền thống này là sự kiện: một lượng máu lớn thì hẳn phải phát xuất từ tâm nhĩ hay tâm thất phải vốn căng phồng và có thành mỏng dễ bị thủng hơn là tâm thất trái vốn có thành dầy và co rút. Dù phía của vết thương có thể không bao giờ được xác định cách chắc chắn, phía phải xem ra có lý hơn phía trái.
Một số người nghi ngờ, không chấp nhận mô tả của Thánh Gioan, do sự khó khăn trong việc giải thích việc chẩy cả máu và nước, theo quan điểm chính xác của y khoa. Một phần của việc khó khăn này dựa trên giả thuyết cho rằng máu thoát ra trước, sau đó, mới đến nước. Tuy nhiên, trong tiếng Hy Lạp cổ, trật tự các chữ thường chỉ sự đáng chú ý hơn chứ không hẳn thứ tự thời gian (37). Do đó, có lẽ Thánh Gioan muốn nhấn mạnh tới tính đáng chú ý của máu hơn việc nó xẩy ra trước nước.
Bởi thế, có lẽ nước đây là chất huyết thanh ở màng phổi và màng tim (5,7,11), thường chẩy ra trước lượng máu và ít hơn lượng này. Có lẽ trong bối cảnh giảm thể tích máu và suy tim nặng sắp diễn ra, các chất lỏng từ màng phổi và màng tim có thể trào ra và hòa lẫn với lượng nước biểu kiến (5,11). Ngược lại, máu hẳn phát xuất từ tâm nhĩ phải hay tâm thất phải (Hình 7) hay có lẽ từ việc tràn máu màng ngoài tim (hemopericardium) (5,7,11).
Việc Chúa Giêsu chết chỉ sau 3 tới 6 tiếng đồng hồ trên thập giá làm cả Pontius Pilate cũng phải ngạc nhiên (1). Sự kiện Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rồi gục đầu và qua đời cho thấy có thể có một biến cố thảm khốc lúc lâm chung. Một giải thích bình dân cho rằng Chúa Giêsu qua đời vì vỡ tim. Trong bối cảnh bị đánh đòn và đóng đinh với việc giảm thể tích máu, thiếu oxy trong máu, và có thể cả tình trạng bị đông máu, những cục sùi huyết khối dễ bể tuy không lây lan (friable non-infective thrombotic vegetations) có thể được tạo nên ở van động mạch chủ hay van hai lá (aortic or mitral valve). Những khối này sau đó có thể rời chỗ và nhập vào các động mạch vành và do đó, tạo nên cơn nhồi máu cơ tim có tính vượt thành cấp tính (acute transmural myocardial infarction). Đã có phúc trình về những cục sùi huyết khối ở van diễn ra trong các tình trạng thống khổ tương tự (39). Việc vỡ thành tâm thất trái, dù hiếm, nhưng cũng có thể xẩy ra trong những giờ đầu tiên sau cơn nhồi máu (40).
Tuy nhiên, lời giải thích sau có vẻ hợp lý hơn: cái chết của Chúa Giêsu đã đến nhanh chỉ là vì Người kiệt lực và sự tàn ác của trận đánh đòn, khiến mất rất nhiều máu và Người rơi vào tình trạng tiền kích xúc (7). Việc Người không vác nổi cây ngang biện hộ cho lối giải thích này. Giống các nạn nhân bị đóng đinh khác, nguyên nhân cái chết của Chúa Giêsu có thể có nhiều nhân tố và chủ yếu liên quan tới cơn sốc giảm thể tích máu, ngạt thở vì kiệt sức, và có lẽ suy tim trầm trọng (2,3,5,7,10,11). Cơn loạn tim gây tử thương cũng có thể là nguyên nhân của biến bố lâm chung thảm khốc.
Như thế, câu hỏi còn lại là không rõ Chúa Giêsu qua đời vì vỡ tim hay vì suy tim và hô hấp. Tuy nhiên, điều quan trọng không hẳn là Người chết cách nào mà là Người có chết hay không. Rõ ràng, sức nặng của bằng chứng lịch sử và y khoa cho thấy rõ: Chúa Giêsu thực sự đã chết trước khi bị đâm vào cạnh sườn và việc đâm này bênh vực quan điểm truyền thống vốn cho rằng lưỡi gươm hay lưỡi đòng, phóng vào giữa các xương ở sườn phải, có lẽ đã đâm thủng không những lá phổi bên phải mà còn cả màng ngoài tim (pericardium) lẫn trái tim và do đó khiến Người chắc chắn phải chết (Hình 7). Thành thử, các lối giải thích dựa vào giả thuyết cho rằng Chúa Giêsu không chết trên thập giá là hoàn toàn đi ngược lại kiến thức y khoa hiện đại.
Chú Thích:
Dệt thơ tin mừng : Thứ Sáu Tuần Thánh
Bùi Nghiệp
20:42 28/03/2018
DỆT THƠ TIN MỪNG
Thứ 6 Tuần Thánh -Năm B
Ngày 30 /03/2018
Thứ Sáu Tuần Thánh Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa
Phúc Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta"
CHÚA BỊ BẮT GIỮ (Ga 18, 1-11)
Náo động khu vườn đuốc với dao
Giu-đa dẫn đám ác xông ào
Chúa rằng: Lính tráng đi đâu thế?
Chúng nói: Giê-su bắt chứ nào!
Đệ tử bênh Thầy vung kiếm tới
-Anh em mặc họ bỏ gươm vào
Đây là chén đắng Ta cam chịu
Để được chu toàn Thánh ý trao
BỊ ĐIỆU VỀ DINH CAI PHA (Ga 18, 12-24)
Lôi Ngài tiến đến phủ Cai-pha
Hạch sách mong tìm chứng cớ ra
-Khắp chốn loan truyền đâu lén lút
Nhiều nơi giảng dậy khỏi điều tra
Tìm xem mới thấy lời công chính
Cứ hỏi mà nghe lẽ thực thà
Nếu đúng không sai đừng xỉ vả
Sao người tức tối đánh đòn Ta?
PHÊ-RÔ CHỐI THẦY (Ga 18, 15-27)
Phê rô đến trước cổng sân đình
Có đứa nô tỳ mắt khá tinh
-Bác ấy có cùng gây rắc rối
-Cô này đâu phải, chỉ linh tinh
Hai lần tiếp hỏi điều tra lẽ
Ba lượt đều thưa chối phắt tình
Gà gáy vang lên trời rạng sáng
Lời Thầy nhớ lại, hối tâm linh
RA TRƯỚC TOÀ TỔNG TRẤN (Ga 18, 28-40)
Giải toà tổng trấn bọn hung hăng
-Ông phải là vua có thực chăng?
-Nước mỗ không hề nơi thế tục
Triều tôi thực sự chốn Thiên Đàng
-Này nên kết án tên cường đạo
Hoặc hãy buông tha kẻ nhiễu xằng
Chúng nói: Giê-su mau giết nó
Hành hình xử tử đứa kiêu căng
TRA KHẢO, ĐÁNH ĐÒN (Ga 19, 1-11)
Roi đòn đánh đập rất thương đau
Im lặng không hề nói một câu
Áo đỏ như vua choàng quấn cổ
Vòng gai tựa mũ đặt lên đầu
Vui cười cúi lạy khinh chê nhạo
Sung sướng nghiêng quỳ báng bổ tâu
Quan trấn bùi ngùi nhưng chẳng thể
Thôi đành để ác thoả thù sâu
KẾT ÁN TỬ HÌNH (Ga 19, 12-16)
Bọn chúng thưa rằng: Nó nếu tha
Là Ngài đối lập với dân ta
Quan truyền: Có phải vua nghiêm đấy
Chúng nói: Không đâu đứa giả mà
-Cả nước tôn sùng duy đại đế
Toàn miền kính phục chỉ Xê-da
Thở dài bất lực đành tuyên án
Để mặc hung đồ, thập giá tra
ĐÓNG ĐINH VÀO THẬP GIÁ (Ga 19, 17-22)
Đi lên Cái Sọ nhục trăm đường
Thập giá vai gò vác thảm thương
Lột áo toàn thân cho loã thể
Đóng đinh thủ túc để trần truồng
Hai tên trộm cướp trồng bên cạnh
Một Đấng nhân lành dựng giữa phương
Bản án trên đầu ghi rõ rệt
“Vua dân Do Thái”, ngắm xem tường
CHIA NHAU Y PHỤC, CHÚA TRĂN TRỐI (Ga 19, 23-27)
Tấm khoác chia ra đủ bốn tròn
Áo dài để vậy rút thăm hơn
Rành rành mỗi chữ trang Kinh thánh
Rõ rệt từng lời sách Sấm ngôn
Thân mẫu kề bên tan nát ruột
Môn sinh sát cạnh thảm thê lòng
Ngài kêu trăn trối: Đây con mẹ
Và nhủ cùng trò: Mẹ của con
CHẾT TRÊN THẬP GIÁ (Ga 19, 28-30)
Hoàn tất công trình được phó trao
Ngài kêu “Ta khát” tiếng thều thào
Giấm chua có đó châm tràn xuống
Đoạn sậy đây rồi buộc cất cao
Miệng nếm: Là xong điều cứu độ
Môi than: Đã đoạn việc huyền sâu
Gục đầu trút thở làn hơi dứt
Thần khí rời thân, đất thảm sầu
LƯỠI ĐÒNG ĐÂM THÂU (Ga 19, 31-37)
Gần sang Sa-bát phải kiêng ngày
Xác chết hành hình phải hạ ngay
Búa đánh vỡ tan xương quyển trộm
Đòng đâm xuyên thủng trái tim Ngài
Máu trào lênh láng tuôn tràn ngực
Nước trộn chan hoà chảy đẫm thây
Nhân chứng trung thành nêu đích thực
Từng dòng Thánh ký chép không sai
MAI TÁNG (Ga 19, 38-41)
Giô-sép là người chính trực ngay
Xin quan tổng trấn hạ thi hài
Tẩm trong mộc dược lau làn máu
Xông với hương trầm liệm vải gai
Chuyển đến vườn xưa mai táng Chúa
Di về mộ mới cất chôn Ngài
Ba người phụ nữ kề bên khóc
Tảng đá lăn che lấp cửa ngoài
Bóng Tà Dương - Bùi Nghiệp
Hai Vu (KP64)
408-205-7965*
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bánh Trường Sinh
Diệp Hài Dung
08:33 28/03/2018
Ảnh của Diệp Hải Dung, Australia
Chính Ta là bánh trường sinh
Ai đến với Ta không hế phải đói
Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ...
(Ga. 6: 35)
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội Và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Năm 29/3/2018
VietCatholic Network
17:50 28/03/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Buổi tiếp kiến chung thứ Tư hằng tuần với Đức Thánh Cha ngày 28 tháng 3 năm 2018.
2- Cha Cantalamessa cảnh báo rằng: Xã hội chúng ta đã quay trở lại thời ngoại giáo, tôn thờ ngẫu tượng tính dục.
3- Đức Thánh Cha chia buồn về vụ khủng bố tại miền Nam nước Pháp.
4- Viên sĩ quan cảnh sát Pháp hy sinh tính mạng để bảo vệ một con tin là ai?
5- Tòa thánh chia buồn vụ hỏa hoạn tại Siberia, nước Nga.
6- Đức Thánh Cha cám ơn cảnh sát Italia cạnh Vatican.
7- Cuộc biểu tình với nến trên tay tại Slovakia cách đây 30 năm đã làm sụp đổ của một chế độ.
8- Lần đầu tiên Kitô hữu và Hồi giáo ở Jordan cử hành lễ Truyền Tin chung.
9- Các giáo phận ở Nhật Bản tổ chức lễ phong chức Linh mục.
10- Đại hội Giới trẻ Tổng Giáo phận Sài Gòn 2018.
11- Giới thiệu Thánh Ca: Đường Thập Giá.
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết
Thánh Ca
Mẹ Đứng Đó – Trình bày Phương Thảo – Đình Trinh
VietCatholic Network
00:09 28/03/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây