Phụng Vụ - Mục Vụ
Đêm Vọng Phục Sinh B
Lm Đan Vinh
06:45 30/03/2018
Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8
CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG TỬ THẦN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.
- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.
- HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH SẼ XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:
JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: "Đã thấy!".
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.
Ông John Keller kết luận: "Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.
Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.
Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Kitô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).
4) NẾU THỰC SỰ TIN VÀO CHÚA SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:
a) Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?
Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.
Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.
Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.
2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.
b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:
- Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.
- Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.
- Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
4. THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa. Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG TỬ THẦN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.
- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.
- HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH SẼ XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:
JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: "Đã thấy!".
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.
Ông John Keller kết luận: "Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.
Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.
Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Kitô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).
4) NẾU THỰC SỰ TIN VÀO CHÚA SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:
a) Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?
Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.
Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.
Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.
2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.
b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:
- Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.
- Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.
- Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
4. THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa. Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Chúa nhật Phục Sinh ABC
Lm Đan Vinh
06:50 30/03/2018
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Kitô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.
-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.
-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4.CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?
2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không?
3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la?
4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không?
6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?
8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay?
9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước?
10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?
“THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.
Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày mọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)
2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:
Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:
Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.
Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vik linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.
Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.
3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:
Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!"
Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả ".
Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không hối hận đâu".
4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:
Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, nên tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.
3.SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:
1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:
Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).
3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).
Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).
4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không?
2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Kitô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.
-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.
-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4.CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?
2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không?
3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la?
4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không?
6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?
8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay?
9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước?
10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?
“THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.
Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày mọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)
2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:
Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:
Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.
Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vik linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.
Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.
3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:
Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!"
Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả ".
Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không hối hận đâu".
4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:
Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, nên tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.
3.SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:
1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:
Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).
3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).
Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).
4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không?
2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:27 30/03/2018
57. NÓI KHOÁC BẠT MẠNG
Ngày xưa có một người mỗi khi có việc trên kinh thành thì đều sai đầy tớ đi, dặn dò kỉ càng, nói:
- “Trên đường đi hoặc các chỗ náo nhiệt như chợ búa, nếu gặp ai hỏi về chuyện trong nhà, thì mày cần phải nói lớn chút xíu nghe chưa ?’
Đầy tớ trả lời:
- “Hiểu rồi”.
Trên đường đi quả nhiên gặp người cùng đi đường, người ấy chỉ con trâu kinh ngạc nói:
- “Chu choa, con trâu quá lớn”.
Người đầy tớ nói:
- “Có gì mà kinh ngạc chứ, con chó nhà tôi còn lớn hơn nó chút xíu !”
Người ấy lại chỉ cái nhà lầu gỗ nói:
- “Ồ, cái nhà quá cao”.
Người đầy tớ lên tiếng nói:
- “Có gì mà kinh ngạc chứ, cái chuồng ngựa nhà tôi còn cao hơn nó chút xíu !”
Người ấy lại lấy tay chỉ chỉ chiếc thuyền khen:
- “Chà, chiếc thuyền quá lớn”.
Người đầy tớ trả lời:
- “Ai cho là nó hiếm, đôi hài (giày) của bà chủ tôi còn lớn gấp mấy nó !”
(Chuyện tiếu thời thượng)
Suy tư 57 :
Nói khoác đôi lúc cũng là một căn bệnh, đó là bệnh thổi phồng to sự thật, nói khoác đôi lúc cũng là vì sợ mất sĩ diện với người khác, đây cũng đồng nghĩa với sự khoe khoang.
Nói khoác để thổi phồng to sự thật hay nói khoác để khỏi mất sĩ diện cũng đều giống nhau ở một điểm, đó là tâm hồn họ không được bình an.
Có người nói khoác mình sắp được làm ông này bà nọ để hù anh em bởi vì tài năng của họ thấp kém chúng bạn.
Có người nói khoác mình học ở trường nổi tiếng này, giáo sư nổi tiếng nọ, bởi vì để tỏ vẻ ta đây biết nhiều hiểu rộng, nhưng trong bụng thì không có gì.
Có người nói khoác vì “vắt tay quá trán” để che bớt sĩ diện quá khứ giàu có của mình.
Có người nói khoác vì...thích nói khoác hù doạ người khác chơi...
Tất cả những kiểu nói khoác trên, và còn rất nhiều kiểu nói khoác khác nữa đều chứng tỏ họ có một tâm hồn bất an, không ổn định, bởi vì sợ người khác biết ”tẩy” không mấy vẻ vang của mình trong quá khứ.
Người Kitô hữu thì không biết nói khoác, bởi vì tâm hồn họ có được sự bình an của Đức Chúa Ki-tô, mà bình an của Ngài thì không ở nơi quá khứ tốt hay quá khứ không tốt, nhưng chính là lúc chúng ta chấp nhận giây phút hiện tại của cuộc sống để tin yêu, để phó thác cho Chúa, đó chính là bình an của Chúa vậy.
Mong ước thay sự bình an của Chúa đến với mỗi người trong chúng ta !!
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Ngày xưa có một người mỗi khi có việc trên kinh thành thì đều sai đầy tớ đi, dặn dò kỉ càng, nói:
- “Trên đường đi hoặc các chỗ náo nhiệt như chợ búa, nếu gặp ai hỏi về chuyện trong nhà, thì mày cần phải nói lớn chút xíu nghe chưa ?’
Đầy tớ trả lời:
- “Hiểu rồi”.
Trên đường đi quả nhiên gặp người cùng đi đường, người ấy chỉ con trâu kinh ngạc nói:
- “Chu choa, con trâu quá lớn”.
Người đầy tớ nói:
- “Có gì mà kinh ngạc chứ, con chó nhà tôi còn lớn hơn nó chút xíu !”
Người ấy lại chỉ cái nhà lầu gỗ nói:
- “Ồ, cái nhà quá cao”.
Người đầy tớ lên tiếng nói:
- “Có gì mà kinh ngạc chứ, cái chuồng ngựa nhà tôi còn cao hơn nó chút xíu !”
Người ấy lại lấy tay chỉ chỉ chiếc thuyền khen:
- “Chà, chiếc thuyền quá lớn”.
Người đầy tớ trả lời:
- “Ai cho là nó hiếm, đôi hài (giày) của bà chủ tôi còn lớn gấp mấy nó !”
(Chuyện tiếu thời thượng)
Suy tư 57 :
Nói khoác đôi lúc cũng là một căn bệnh, đó là bệnh thổi phồng to sự thật, nói khoác đôi lúc cũng là vì sợ mất sĩ diện với người khác, đây cũng đồng nghĩa với sự khoe khoang.
Nói khoác để thổi phồng to sự thật hay nói khoác để khỏi mất sĩ diện cũng đều giống nhau ở một điểm, đó là tâm hồn họ không được bình an.
Có người nói khoác mình sắp được làm ông này bà nọ để hù anh em bởi vì tài năng của họ thấp kém chúng bạn.
Có người nói khoác mình học ở trường nổi tiếng này, giáo sư nổi tiếng nọ, bởi vì để tỏ vẻ ta đây biết nhiều hiểu rộng, nhưng trong bụng thì không có gì.
Có người nói khoác vì “vắt tay quá trán” để che bớt sĩ diện quá khứ giàu có của mình.
Có người nói khoác vì...thích nói khoác hù doạ người khác chơi...
Tất cả những kiểu nói khoác trên, và còn rất nhiều kiểu nói khoác khác nữa đều chứng tỏ họ có một tâm hồn bất an, không ổn định, bởi vì sợ người khác biết ”tẩy” không mấy vẻ vang của mình trong quá khứ.
Người Kitô hữu thì không biết nói khoác, bởi vì tâm hồn họ có được sự bình an của Đức Chúa Ki-tô, mà bình an của Ngài thì không ở nơi quá khứ tốt hay quá khứ không tốt, nhưng chính là lúc chúng ta chấp nhận giây phút hiện tại của cuộc sống để tin yêu, để phó thác cho Chúa, đó chính là bình an của Chúa vậy.
Mong ước thay sự bình an của Chúa đến với mỗi người trong chúng ta !!
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Chúa Nhật Phục Sinh (B)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:29 30/03/2018
Chúa Nhật LỄ PHỤC SINH
Tin Mừng: Ga 20, 1-9.
“Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.”
Bạn thân mến,
Tối hôm qua, chúng ta long trọng cử hành thánh lễ Vọng Phục Sinh, tức là cử hành đêm canh thức đợi chờ Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, và qua các bài đọc, chúng ta nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại thật lớn lao, tình yêu vô điều kiện và thật sự đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Chúa Giê-su Phục Sinh, bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan tông đồ đã chứng minh điều đó cho mọi người biết: Đức Chúa Giê-su thật sự đã từ trong cõi chết sống lại, sự sống lại của Ngài, đem đến cho nhân loại một niềm vui khộn tả, tôi xin chia sẻ với bạn hai ý tưởng sau đây:
1. Tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại thì bất biến, dù cho lòng dạ nhân loại luôn thay đổi, như lòng dạ của người Do Thái đã từng thay đổi trong cuộc xử án bất công với Đức Chúa Giê-su của quan tổng trấn Phi-la-tô.
Sau bốn mươi ngày ăn chay, hối cải và đền tội, chúng ta đã thực sự kết hợp với những đau khổ của Đức Chúa Giê-su để rồi hôm nay cùng được sống lại với Ngài, đó là sự sống lại độc nhất vô nhị của Đức Chúa Giê-su trong lịch sử nhân loại, sự sống lại của Ngài đã lôi kéo rất nhiều người đã chết trong tội lỗi tức là đắm mình trong văn hóa sự chết để rồi chối bỏ và bức tử quyền sống của các thai nhi, hoặc trong cuộc sống thác loạn mà vì họ không tìm thấy được một tình yêu chân chính, nay họ đã cùng “sống lại” với Ngài, bằng cách thay đổi tư tưởng và cuộc sống của mình khi suy niệm những đau khổ và sự chết của Ngài vì yêu thương nhân loại và yêu thương chính họ.
Tình yêu Thiên Chúa –qua sự chết và phục sinh của Đức Chúa Giê-su- thật cao vời, nối kết mọi tâm hồn chân thành lại với nhau, nối kết những những tâm hồn đau khổ, tội lỗi lại với tình yêu cứu độ của Đức Chúa Giê-su, để họ trở thành những chứng nhân sống động cho sự sống lại của Ngài qua chính cuộc sống trở về với Chúa của họ.
2. Sự hóan cải của bạn và tôi sẽ làm cho người khác trở lại, bởi vì chính Đức Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô rằng: khi con trở lại con sẽ củng cố đức tin của các anh em con. Cũng vậy, khi bạn và tôi quyết tâm thay đổi cuộc sống của mình thì sẽ có rất nhiều người đồng thuận và chống đối, sẽ có nhiều người khen và nhiều người chê bai, nhưng lời khen chê hoặc chống đối hay đồng thuận sẽ không là gì cả khi chúng ta nhận ra Đấng đã chết cho mình đã thật sự sống lại từ cõi chết !
Khi chúng ta thực sự sống lại từ trong những nếp sống bệnh hoạn, thác loạn của xã hội, thì lúc ấy chúng ta mang trên mình những đau khổ của Đức Chúa Giê-su đã chịu, đó là những cám dỗ của vật chất, những tẩy chay của bạn bè, những lời phê bình ác độc của những người đã từng cùng chúng ta sống trong văn hóa của sự chết, nay chính họ -vô tình- sẽ là những chứng nhân cho chúng ta đã thực sự sống lại với Ngài.
Bạn thân mến,
Đức Chúa Giê-su đã sống lại rồi, không phải mới sống lại ngày hôm nay, nhưng đã sống lại cách đây hơn hai ngàn năm, những Ngài vẫn cứ sống lại hằng ngày trong tâm hồn của bạn và của tôi, và của những ai có tâm hồn thiện lương, đó là những khi bạn và tôi đứng dậy từ trong tội lỗi, ngước mắt lên nhìn Ngài trong đau khổ và thử thách, bởi vì chính Ngài là nguồn trợ lực để cho chúng ta đứng dậy, vươn lên và đi tới.
Chúa đã sống lại rồi, Alleluia ! Alleluia !
----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Mừng: Ga 20, 1-9.
“Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.”
Bạn thân mến,
Tối hôm qua, chúng ta long trọng cử hành thánh lễ Vọng Phục Sinh, tức là cử hành đêm canh thức đợi chờ Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, và qua các bài đọc, chúng ta nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại thật lớn lao, tình yêu vô điều kiện và thật sự đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Chúa Giê-su Phục Sinh, bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan tông đồ đã chứng minh điều đó cho mọi người biết: Đức Chúa Giê-su thật sự đã từ trong cõi chết sống lại, sự sống lại của Ngài, đem đến cho nhân loại một niềm vui khộn tả, tôi xin chia sẻ với bạn hai ý tưởng sau đây:
1. Tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại thì bất biến, dù cho lòng dạ nhân loại luôn thay đổi, như lòng dạ của người Do Thái đã từng thay đổi trong cuộc xử án bất công với Đức Chúa Giê-su của quan tổng trấn Phi-la-tô.
Sau bốn mươi ngày ăn chay, hối cải và đền tội, chúng ta đã thực sự kết hợp với những đau khổ của Đức Chúa Giê-su để rồi hôm nay cùng được sống lại với Ngài, đó là sự sống lại độc nhất vô nhị của Đức Chúa Giê-su trong lịch sử nhân loại, sự sống lại của Ngài đã lôi kéo rất nhiều người đã chết trong tội lỗi tức là đắm mình trong văn hóa sự chết để rồi chối bỏ và bức tử quyền sống của các thai nhi, hoặc trong cuộc sống thác loạn mà vì họ không tìm thấy được một tình yêu chân chính, nay họ đã cùng “sống lại” với Ngài, bằng cách thay đổi tư tưởng và cuộc sống của mình khi suy niệm những đau khổ và sự chết của Ngài vì yêu thương nhân loại và yêu thương chính họ.
Tình yêu Thiên Chúa –qua sự chết và phục sinh của Đức Chúa Giê-su- thật cao vời, nối kết mọi tâm hồn chân thành lại với nhau, nối kết những những tâm hồn đau khổ, tội lỗi lại với tình yêu cứu độ của Đức Chúa Giê-su, để họ trở thành những chứng nhân sống động cho sự sống lại của Ngài qua chính cuộc sống trở về với Chúa của họ.
2. Sự hóan cải của bạn và tôi sẽ làm cho người khác trở lại, bởi vì chính Đức Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô rằng: khi con trở lại con sẽ củng cố đức tin của các anh em con. Cũng vậy, khi bạn và tôi quyết tâm thay đổi cuộc sống của mình thì sẽ có rất nhiều người đồng thuận và chống đối, sẽ có nhiều người khen và nhiều người chê bai, nhưng lời khen chê hoặc chống đối hay đồng thuận sẽ không là gì cả khi chúng ta nhận ra Đấng đã chết cho mình đã thật sự sống lại từ cõi chết !
Khi chúng ta thực sự sống lại từ trong những nếp sống bệnh hoạn, thác loạn của xã hội, thì lúc ấy chúng ta mang trên mình những đau khổ của Đức Chúa Giê-su đã chịu, đó là những cám dỗ của vật chất, những tẩy chay của bạn bè, những lời phê bình ác độc của những người đã từng cùng chúng ta sống trong văn hóa của sự chết, nay chính họ -vô tình- sẽ là những chứng nhân cho chúng ta đã thực sự sống lại với Ngài.
Bạn thân mến,
Đức Chúa Giê-su đã sống lại rồi, không phải mới sống lại ngày hôm nay, nhưng đã sống lại cách đây hơn hai ngàn năm, những Ngài vẫn cứ sống lại hằng ngày trong tâm hồn của bạn và của tôi, và của những ai có tâm hồn thiện lương, đó là những khi bạn và tôi đứng dậy từ trong tội lỗi, ngước mắt lên nhìn Ngài trong đau khổ và thử thách, bởi vì chính Ngài là nguồn trợ lực để cho chúng ta đứng dậy, vươn lên và đi tới.
Chúa đã sống lại rồi, Alleluia ! Alleluia !
----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:31 30/03/2018
1. Khi người ta ngợi khen con thì con không phải do đó mà càng có thánh đức; khi người ta coi thường con, thì con cũng sẽ không vì đó mà xấu xa.
(sách Gương Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Có phải Đức Thánh Cha Phanxicô chối bỏ sự thật về hỏa ngục?
Thủy Hồng
16:17 30/03/2018
Phòng Báo chí Tòa Thánh đã ra thông cáo để xác định rằng những lời bình luận cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô chối bỏ hỏa ngục là sự tái dựng lại các ý kiến của Đức Thánh Cha và không phải là một bản ghi lại trung thành những lời thật sự của ngài.
Nhà báo Eugenio Scalfari của nhật báo La Repubblica của Ý, 93 tuổi, người xưng mình là vô thần, đã vài lần trao đổi qua điện thoại và gặp trực tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô Phục sinh. Ông nói rằng Đức Thánh Cha đã mời ông đến nơi ngài cư ngụ hôm 27/03 và trong cuộc đàm thoại, Đức Thánh Cha đã nói trong khi linh hồn của những tội nhân thống hối “nhận ơn tha thứ của Chúa và được vào số những linh hồn chiếm ngắm Chúa, thì các linh hồn của những người không thống hối và như thế không thể được tha thứ, sẽ biến mất. Và ông Scalfari cho rằng Đức Thánh Cha đã nói trong cuộc phỏng vấn là “hỏa ngục không tồn tại, và các linh hồn tội lỗi sẽ biến mất.”
Ông Scalfari từng nói là ông không ghi âm hay ghi lại các cuộc trò chuyện; ông viết lại bằng cách nhớ lại.
Thông cáo của phòng báo chí Vatican cho biết Đức Thánh Cha có tiếp ông Scalfari nhưng không trả lời phỏng vấn.
Theo Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, “ngay sau khi chết, linh hồn của những người chết trong tình trạng tội trọng sẽ xuống hỏa nguc, nơi họ đau khổ vì các hình phát tội lỗi, ‘lửa đời đời’”. Giáo lý cũng dạy rằng: “Hình phạt chính của hỏa ngục là sự xa cách đời đời với Chúa, chỉ duy nhất nơi Người con người có thể đạt được sự sống và hạnh phúc và họ được tạo dựng và tồn tại vì điều này.”
Những lời nhà báo Scalfari cho là lời chối bỏ hỏa ngục của Đức Giáo Hoàng mâu thuẫn với những lời chính ngài đã nói trong các buổi giáo lý hay trong các bài giảng. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định hỏa ngục – sự xa cách Chúa đời đời – là một sự thật. Trong bài giảng lễ tại nhà nguyện thánh Marta sáng 22/11/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng thế giới không thích nghĩ về những thực tại sau cùng. Điều gì sẽ xảy ra sau thế giới này? Đức Thánh Cha nhớ lại khi ngài còn nhỏ, khi đi học giáo lý, ngài được dạy về “tứ chung” ( 4 sự sau cùng): chết, phán xét, thiên đàng, hỏa ngục. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng dù điều này có thể làm người ta sợ hãi nhưng mà điều này là sự thực. Ngài giải thích rằng nếu chúng ta không chăm sóc tâm hồn mình để cho Chúa ở với mình thì mình sẽ xa Chúa mãi mãi. Có thể có nguy hiểm là tiếp tục bị xa cách Chúa mãi mãi như thế.
Hỏa ngục không phải là “căn phòng tra tấn”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như thế trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 25/11/2016. Ngài nói rằng hỏa ngục là sự xa cách Chúa vĩnh viễn, xa cách Đấng ban hạnh phúc, Đấng mong muốn điều tốt cho chúng ta. Lòng thương xót Chúa muốn cứu độ chúng ta khỏi sự hư hoại đời đời. Như đã xảy ra với người trộm lành trên thập giá, đã tín thác vào Chúa trong những giây phút cuối đời, và Chúa Giêsu đã nói với anh ta: “Tôi nói thật với anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với ta.”
Ma quỷ ở trong hỏa ngục. Khi viếng thăm giáo xứ Đức Maria Mẹ Đấng cứu độ ở Roma và gặp gỡ các thiếu nhi và thanh thiếu niên vào ngày 08/03/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các tín hữu: “Chúa không đưa bạn vào hỏa ngục nhưng bạn đi đến đó, bởi vì bạn chọn ở đó. Hỏa ngục là muốn xa cách Chúa bởi vì tôi không muốn tình yêu của Chúa. Ngài cũng nói thêm: “Ma quỷ ở trong hỏa ngục bởi vì chúng không yêu Chúa” và “đó là loại duy nhất mà chúng ta chắc chắn là ở trong hỏa ngục.”
Vào cuối đời này tất cả chúng ta sẽ bị phán xét. Cuộc phán xét chung sẽ phán xét về tình yêu. Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016 như sau: “Tôi đói và anh chị em đã cho tôi ăn…” “Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội để cứu độ chúng ta và để chúng ta đi vào qua cánh cửa cứu độ.” Và cho đến cuối cùng, dù chúng ta tội lỗi, Người không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta và chờ đợi chúng ta: đay là lòng Thương xót của Người. Nhưng chúng ta có tự do để chối từ điều này: đây là sự hư mất. Một tội nhân không hối cải nghĩa là từ chối tình yêu Chúa.
Đức Thánh Cha cũng nói về ơn cứu độ đời đời. Trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt câu hỏi: “Nhưng nếu Thiên Chúa tốt lành và yêu thương chúng ta, tại sao Người đóng cửa lại vào một lúc nào đó? Bởi vì cuộc sống của chúng ta không phải là một trò chơi điện tử hay một show truyền hình; cuộc sống của chúng ta là điều nghiêm túc và mục đích cần đạt đến thật quan trọng: đó là ơn cứu độ đời đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra giải pháp cho những nỗi sợ hãi của chúng ta: “Nếu mỗi người trong chúng ta trung thành với Chúa thì khi giờ chết đến, chúng ta sẽ nói như thánh Phanxicô: ‘chị tử thần, xin hãy đến’. Nó không làm chúng ta sợ hãi.” Và ngay cả ngày phán xét, “chúng ta sẽ ngắm nhìn Thiên Chúa” và chúng ta sẽ có thể nói: “Lạy Chúa, con đã phạm tội rất nhiều, nhưng con đã tìm cách trung thành với Chúa.” Và “bởi vì Thiên Chúa tốt lành” chúng ta sẽ không sợ hãi. Đức Thánh Cha đã nói điều này trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 22/11/2016. (Rei 29/03/2018)
Nhà báo Eugenio Scalfari của nhật báo La Repubblica của Ý, 93 tuổi, người xưng mình là vô thần, đã vài lần trao đổi qua điện thoại và gặp trực tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô Phục sinh. Ông nói rằng Đức Thánh Cha đã mời ông đến nơi ngài cư ngụ hôm 27/03 và trong cuộc đàm thoại, Đức Thánh Cha đã nói trong khi linh hồn của những tội nhân thống hối “nhận ơn tha thứ của Chúa và được vào số những linh hồn chiếm ngắm Chúa, thì các linh hồn của những người không thống hối và như thế không thể được tha thứ, sẽ biến mất. Và ông Scalfari cho rằng Đức Thánh Cha đã nói trong cuộc phỏng vấn là “hỏa ngục không tồn tại, và các linh hồn tội lỗi sẽ biến mất.”
Ông Scalfari từng nói là ông không ghi âm hay ghi lại các cuộc trò chuyện; ông viết lại bằng cách nhớ lại.
Thông cáo của phòng báo chí Vatican cho biết Đức Thánh Cha có tiếp ông Scalfari nhưng không trả lời phỏng vấn.
Theo Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, “ngay sau khi chết, linh hồn của những người chết trong tình trạng tội trọng sẽ xuống hỏa nguc, nơi họ đau khổ vì các hình phát tội lỗi, ‘lửa đời đời’”. Giáo lý cũng dạy rằng: “Hình phạt chính của hỏa ngục là sự xa cách đời đời với Chúa, chỉ duy nhất nơi Người con người có thể đạt được sự sống và hạnh phúc và họ được tạo dựng và tồn tại vì điều này.”
Những lời nhà báo Scalfari cho là lời chối bỏ hỏa ngục của Đức Giáo Hoàng mâu thuẫn với những lời chính ngài đã nói trong các buổi giáo lý hay trong các bài giảng. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định hỏa ngục – sự xa cách Chúa đời đời – là một sự thật. Trong bài giảng lễ tại nhà nguyện thánh Marta sáng 22/11/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng thế giới không thích nghĩ về những thực tại sau cùng. Điều gì sẽ xảy ra sau thế giới này? Đức Thánh Cha nhớ lại khi ngài còn nhỏ, khi đi học giáo lý, ngài được dạy về “tứ chung” ( 4 sự sau cùng): chết, phán xét, thiên đàng, hỏa ngục. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng dù điều này có thể làm người ta sợ hãi nhưng mà điều này là sự thực. Ngài giải thích rằng nếu chúng ta không chăm sóc tâm hồn mình để cho Chúa ở với mình thì mình sẽ xa Chúa mãi mãi. Có thể có nguy hiểm là tiếp tục bị xa cách Chúa mãi mãi như thế.
Hỏa ngục không phải là “căn phòng tra tấn”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như thế trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 25/11/2016. Ngài nói rằng hỏa ngục là sự xa cách Chúa vĩnh viễn, xa cách Đấng ban hạnh phúc, Đấng mong muốn điều tốt cho chúng ta. Lòng thương xót Chúa muốn cứu độ chúng ta khỏi sự hư hoại đời đời. Như đã xảy ra với người trộm lành trên thập giá, đã tín thác vào Chúa trong những giây phút cuối đời, và Chúa Giêsu đã nói với anh ta: “Tôi nói thật với anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với ta.”
Ma quỷ ở trong hỏa ngục. Khi viếng thăm giáo xứ Đức Maria Mẹ Đấng cứu độ ở Roma và gặp gỡ các thiếu nhi và thanh thiếu niên vào ngày 08/03/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các tín hữu: “Chúa không đưa bạn vào hỏa ngục nhưng bạn đi đến đó, bởi vì bạn chọn ở đó. Hỏa ngục là muốn xa cách Chúa bởi vì tôi không muốn tình yêu của Chúa. Ngài cũng nói thêm: “Ma quỷ ở trong hỏa ngục bởi vì chúng không yêu Chúa” và “đó là loại duy nhất mà chúng ta chắc chắn là ở trong hỏa ngục.”
Vào cuối đời này tất cả chúng ta sẽ bị phán xét. Cuộc phán xét chung sẽ phán xét về tình yêu. Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016 như sau: “Tôi đói và anh chị em đã cho tôi ăn…” “Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội để cứu độ chúng ta và để chúng ta đi vào qua cánh cửa cứu độ.” Và cho đến cuối cùng, dù chúng ta tội lỗi, Người không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta và chờ đợi chúng ta: đay là lòng Thương xót của Người. Nhưng chúng ta có tự do để chối từ điều này: đây là sự hư mất. Một tội nhân không hối cải nghĩa là từ chối tình yêu Chúa.
Đức Thánh Cha cũng nói về ơn cứu độ đời đời. Trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt câu hỏi: “Nhưng nếu Thiên Chúa tốt lành và yêu thương chúng ta, tại sao Người đóng cửa lại vào một lúc nào đó? Bởi vì cuộc sống của chúng ta không phải là một trò chơi điện tử hay một show truyền hình; cuộc sống của chúng ta là điều nghiêm túc và mục đích cần đạt đến thật quan trọng: đó là ơn cứu độ đời đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra giải pháp cho những nỗi sợ hãi của chúng ta: “Nếu mỗi người trong chúng ta trung thành với Chúa thì khi giờ chết đến, chúng ta sẽ nói như thánh Phanxicô: ‘chị tử thần, xin hãy đến’. Nó không làm chúng ta sợ hãi.” Và ngay cả ngày phán xét, “chúng ta sẽ ngắm nhìn Thiên Chúa” và chúng ta sẽ có thể nói: “Lạy Chúa, con đã phạm tội rất nhiều, nhưng con đã tìm cách trung thành với Chúa.” Và “bởi vì Thiên Chúa tốt lành” chúng ta sẽ không sợ hãi. Đức Thánh Cha đã nói điều này trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 22/11/2016. (Rei 29/03/2018)
Bài giảng của cha Cantalamessa trong Phụng Vụ Suy Tôn Thánh Thứ Sáu Tuần Thánh 30/03/2018 tại Vatican
J.B. Đặng Minh An dịch
17:11 30/03/2018
Lúc 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 30 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi Phụng Vụ Suy Tôn Thánh Thứ Sáu Tuần Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nằm phủ phục trước bàn thờ chính Đền Thờ Thánh Phêrô, trước khi mở đầu với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
Sau bài thương khó, cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã trình bày với Đức Thánh Cha, giáo triều Rôma và cộng đoàn bài chia sẻ của ngài như sau:
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19: 33-35).
Không ai có thể thuyết phục chúng ta rằng lời chứng long trọng này không đúng với sự thật lịch sử, rằng người nói rằng ông đã ở đó và thấy điều này thực sự đã không có ở đó và không nhìn thấy gì. Tác giả đặt hết sự trung thực của mình ra để làm chứng trong trường hợp này. Trên đồi Canvê, dưới chân thập giá, là mẹ của Chúa Giêsu và bên cạnh bà, có “môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương”. Chúng ta có chứng tá của một chứng nhân mắt thấy tai nghe!
Tác giả “đã thấy” không chỉ những gì xảy ra như mọi người thấy, nhưng trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần sau Lễ Vượt Qua, tác giả cũng thấy được cả ý nghĩa của những gì đã xảy ra: trong khoảnh khắc này, Chiên Con thật của Thiên Chúa đã bị hiến tế và ý nghĩa của lễ Vượt Qua xưa đã được ứng nghiệm; Chúa Kitô trên thập tự giá là đền thờ mới của Thiên Chúa mà từ cạnh sườn người, như tiên tri Ezekiel tiên đoán (47: 1ff), đã tuôn trào nước hằng sống; thần khí mà Ngài đã trao ra lúc trút hơi thở sau cùng đã bắt đầu sự sáng tạo mới, như thuở khai sinh lập địa “Thần khí của Thiên Chúa”, lơ lửng trên mặt nước, đã biến đổi sự hỗn loạn thành vũ trụ. Gioan đã hiểu ý nghĩa của những lời cuối cùng của Chúa Giêsu: “Thế là đã hoàn tất” (xem Ga 19:30).
Nhưng chúng ta có thể tự hỏi mình tại sao lại có sự tập trung vô hạn vào ý nghĩa thập giá của Chúa Kitô? Tại sao một Ðấng bị đóng đinh hiện diện cùng khắp trong các nhà thờ của chúng ta, trên các bàn thờ, và ở mọi nơi các Kitô hữu thường lui tới?
Có người cho rằng một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm Kitô Giáo, là Thiên Chúa tỏ mình ra theo cách “sub contraria specie”, nghĩa là dưới một hình thức trái ngược lại với thực tại của mình: Chúa cho thấy sức mạnh của Ngài trong sự yếu đuối, sự khôn ngoan trong sự ngu xuẩn, sự giàu có trong cảnh nghèo hèn.
Tuy nhiên, chìa khóa này không áp dụng cho thập giá. Trên thập tự giá, Thiên Chúa tỏ ra mình ra một cách “sub propria specie”, nghĩa là Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta như Ngài thực sự là, trong thực tại gần gũi và thực tế nhất của Người. “Thiên Chúa là tình yêu”, Gioan viết (1 Ga 4:10), một tình yêu dâng hiến, một tình yêu bao gồm trong sự tự hiến, và chỉ trên thập tự giá mà khả năng tự hiến vô hạn của Thiên Chúa mới biểu lộ hết chiều dài của nó. “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.” (Ga 13:1); “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban nghĩa là lên án tử, Con duy nhất của Ngài” (Ga 3:16); “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2:20).
Năm nay, năm mà Giáo hội sẽ tổ chức một Thượng Hội đồng về Thanh niên và đặt ra mục tiêu là đưa họ vào vị trí trung tâm trong quan tâm mục vụ của Giáo Hội, sự hiện diện trên đồi Calvê của môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương có một sứ điệp đặc biệt. Chúng ta có mọi lý do để tin rằng Gioan đã gia nhập với Chúa Giêsu trong thời thanh niên. Đó thực sự là một tình yêu. Mọi thứ khác đột nhiên đứng ở vị trí thứ hai. Đó là một cuộc gặp gỡ hiện sinh “cá vị”. Trong khi trung tâm suy nghĩ của thánh Phaolô là công việc của Chúa Giêsu – nghĩa là mầu nhiệm vượt qua của cái chết và sự sống lại của Ngài – thì dòng suy nghĩ của thánh Gioan đặt trung tâm nơi bản ngã, nơi con người của Chúa Giêsu. Đây là nguồn gốc của tất cả các câu nói “Ta là” với cộng hưởng thần thánh được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng của ngài: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống”; “Ta là cửa”; đơn giản “Ta là”
Gioan hầu như chắc chắn là một trong hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả khi Chúa Giêsu xuất hiện tại nơi thánh Gioan làm phép rửa và đã đi theo Người. Khi họ hỏi, “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến và xem. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1: 35-39). Giờ đó đã quyết định cuộc đời của Gioan, và anh không bao giờ quên nó.
Trong năm nay, thật là phù hợp để chúng ta cố gắng khám phá cùng với những người trẻ những gì Đức Kitô mong đợi nơi họ, những gì họ có thể cống hiến cho Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là một cái gì đó khác hơn nữa: đó là giúp những người trẻ tuổi hiểu những gì Chúa Giêsu mang đến cho họ. Gioan đã khám phá ra điều này trong khi ở cùng Ngài, đó là “sự đầy tràn niềm vui” và “cuộc sống sung mãn”. Chúng ta hãy làm sao để trong tất cả các diễn từ về thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi, lời mời gọi chân thành của Đức Thánh Cha trong tông huấn Niềm Vui Phúc Âm được vang vọng như những lời dưới đây:
“Tôi mời gọi tất cả Kitô hữu, ở mọi nơi, vào khoảnh khắc này, hãy canh tân một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, hoặc ít nhất là một sự cởi mở để cho Người có thể gặp được họ; Tôi yêu cầu tất cả các bạn làm điều này không mệt mỏi mỗi ngày. Đừng ai nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, vì không ai bị loại trừ khỏi niềm vui được Chúa mang đến (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 3).
Gặp gỡ Chúa Kitô một cách cá vị vẫn còn là điều có thể trong cuộc sống hôm nay vì Người đã sống lại; Người đang sống, không phải là một nhân vật của quá khứ. Mọi thứ đều có thể sau cuộc gặp gỡ cá vị này; trái lại, khi không có cuộc gặp gỡ đó, không có gì ổn định hoặc lâu dài.
Bên cạnh tấm gương là cuộc đời của ngài, Thánh Gioan Thánh Sử cũng đã để lại một thông điệp bằng văn bản cho những người trẻ tuổi. Trong thư Thứ Nhất của ngài, chúng ta đọc thấy những lời làm rung động từ những bậc cao niên cho đến những người trẻ trong các giáo đoàn mà ngài thành lập:
“Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em: anh em là những người mạnh mẽ; lời Thiên Chúa ở lại trong anh em và anh em đã thắng ác thần. Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.” (1Ga 2: 14-15)
Thế giới mà chúng ta đừng mê say, cái thế giới mà chúng ta đừng chiều theo, như chúng ta biết, không phải là thế giới được tạo ra và yêu mến bởi Thiên Chúa; hay là thế giới của những người mà chúng ta phải luôn luôn đi ra để gặp gỡ họ, đặc biệt là người nghèo và những người ở giai tầng thấp nhất của xã hội. “Hòa vào” với thế giới đau khổ và bị gạt ra ngoài lề này, một cách nghịch lý, lại chính là cách tốt nhất để “cách ly” chúng ta khỏi thế giới bởi vì nó có nghĩa là đi theo hướng mà thế giới đang muốn bỏ chạy càng xa càng tốt. Nó có nghĩa là tách chúng ta khỏi chính nguyên tắc “đặt mình là trung tâm” đang thống trị thế giới này.
Không, thế giới chúng ta đừng mê say là cái gì đó khác; đó là cái thế giới sau khi đã bị thống trị bở Satan và tội lỗi, bởi “quyền lực trên không trung”, như Thánh Phaolô đã gọi trong thư Êphêsô (2: 1-2). Cái thế giới đó đang đóng một vai trò quyết định trong dư luận, và ngày nay nó đúng là một quyền lực trên không trung theo nghĩa đen bởi vì nó lan truyền qua vô hạn các phương thế điện tử thông qua sóng điện từ. Một nhà văn nổi tiếng viết rằng quyền lực này “cao độ và mạnh mẽ đến nỗi không một cá nhân nào có thể thoát khỏi. Nó được coi là một tiêu chuẩn được mặc nhiên công nhận. Hành động, suy nghĩ hoặc nói năng ngược lại với tinh thần này được coi là ngớ ngẩn hoặc thậm chí là sai lầm và phạm tội. Chính trong tinh thần này mà con người ngày nay gặp gỡ thế giới và các sứ vụ, nghĩa là họ đón nhận thế giới mà cái tinh thần này trình bày với họ”[1]
Đây là những gì chúng ta gọi là sự thích nghi với tinh thần của thời đại, nói vắn tắt là sự phù hợp. Một tín hữu thi sĩ lớn trong thế kỷ vừa qua, là T. S. Eliot, đã viết ba câu nói nhiều hơn cả những quyển sách: “Trong một thế giới của những kẻ trốn chạy / Người đi ngược chiều / Sẽ được coi là đang trốn chạy.” [2]
Các Kitô hữu trẻ thân mến, nếu các bạn cho phép một ông lão như Gioan nói chuyện trực tiếp với các bạn, thì tôi đây sẽ khuyên các bạn: hãy là những người đi ngược chiều! Hãy có can đảm để đi ngược dòng! Cái hướng ngược chiều này đối với chúng ta không phải là một nơi chốn nhưng là một con người; chính là Chúa Giêsu, bạn của chúng ta, và là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta.
Một nhiệm vụ và là một sứ mệnh được đặc biệt ủy thác cho các bạn: là hãy giải cứu tình yêu của con người khỏi sự trôi dạt bi thảm đã đưa đến chỗ: tình yêu không còn là món quà trao ban bản thân mà chỉ là sự chiếm đoạt người khác một cách thường khi bạo lực và độc đoán. Thiên Chúa tự tỏ mình trên thập tự giá như agape, tình yêu tự hiến.
Nhưng tình yêu tự hiến không bao giờ tách rời khỏi tình ái, không tách khỏi một tình yêu chào đón, theo đuổi, mong muốn, và vui mừng khi được yêu thương. Thiên Chúa không những chỉ thực thi “lòng bác ái” khi yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng mong muốn chúng ta; trong suốt Kinh thánh, Người tỏ mình ra như một người phối ngẫu yêu thương và ghen tuông. Tình yêu của Ngài cũng là thứ “tình ái” theo nghĩa cao quý của từ đó. Đây là những gì Đức Bênêđíctô XVI giải thích trong thông điệp Deus Caritas, Thiên Chúa là tình yêu, của ngài:
Tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng - một thứ tình yêu “đi lên” và một thứ tình yêu “đi xuống” không bao giờ tách biệt nhau. Niềm tin theo Thánh Kinh không tạo nên một thế giới song song bên cạnh hay một thế giới nghịch lại với hiện tượng nguyên thủy của con người là tình yêu, nhưng đón nhận con người trọn vẹn, can thiệp vào sự tìm kiếm tình yêu của họ để thanh luyện và từ đó khai mở cho họ những chiều kích mới. (số 7-8)
Đây không phải là vấn đề từ bỏ những niềm vui của tình yêu, sự thu hút và ham muốn, nhưng là biết phải làm sao kết hiệp được tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng thành một mong muốn cho nhau, thành một khả năng trao ban chính mình cho người khác, trong khi nhớ lại lời thánh Phaolô viện dẫn một câu nói của Chúa Giêsu “Cho thì có phúc là nhận” (Công vụ 20:35).
Tuy nhiên, khả năng này không xảy đến một sớm một chiều. Cần phải chuẩn bị chính mình để trở nên một món quà tổng thể của bản thân mình cho một sinh vật khác trong hôn nhân, hoặc cho Thiên Chúa trong đời sống tận hiến, bắt đầu bằng cách trao ra những món quà là thời gian, nụ cười của các bạn, và thời gian trong cuộc sống dành cho gia đình, giáo xứ, và các công việc tình nguyện. Đây là điều mà rất nhiều bạn đã lặng lẽ làm.
Trên thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra cho chúng ta một ví dụ về tình yêu tự hiến đến cùng; Người cũng ban ân sủng cho chúng ta để có thể thực hiện tình yêu ấy đến một mức độ nào đó trong cuộc sống của chúng ta. Nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Ngài tuôn đến chúng ta hôm nay qua các bí tích của Hội Thánh, qua Lời Chúa, và thậm chí qua việc đơn thuần là nhìn vào Đấng bị Đóng Đinh trong đức tin. Một điều cuối cùng Gioan đã nhìn thấy một cách tiên tri dưới cây thập tự: những người nam và nữ của mọi thời đại và mọi nơi sẽ hướng mắt nhìn lên “Đấng đã bị đâm thâu qua” và khóc lóc với những giọt lệ ăn năn và được ủi an (xem Ga 19:37 và Zac 12: 10). Chúng ta hãy hiệp cùng họ trong những lễ nghi phụng vụ tiếp theo.
[1] Heinrich Schlier, Principalities and Powers in the New Testament (New York: Herder and Herder, 1961), pp. 31-32.
[2] T. S. Eliot, Family Reunion, Part II, sc. 2, in The Complete Plays of T. S. Eliot (New York: Houghton Mifflin Harcourt, 2014), p.110.
Phụng Vụ cảm động tưởng niệm Chúa chiụ chết tại Vatican Thứ Sáu Tuần Thánh 30/3/2018
VietCatholic Network
19:16 30/03/2018
Hôm nay Giáo Hội tưởng niệm những giây phút cuối cùng khi Chúa Giêsu tiến gần đến cái chết, khi sức sống và sức mạnh của Ngài đang cạn kiệt dần.
Bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và một trong hai người tội phạm cùng bị đóng đinh với Ngài mà truyền thống thường gọi là người “trộm lành”, người đã hoán cải trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi nhé!”
Rồi có tiếng đáp lại của Chúa Giêsu, nhanh chóng và như một lời thì thầm: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên nước Thiên Đàng”
Trong ngày đau khổ và đớn đau này, hai người bị đóng đinh ấy không nói gì khác, nhưng vài lời thốt lên từ trong cổ họng khô kiệt của họ vang dội đến ngày nay. Những lời này còn tiếp tục vang dội như một dấu chỉ của hy vọng và ơn cứu độ cho những ai đã phạm tội nhưng cũng đã tin và tín thác ngay cả trước đường biên cuối cùng của cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang nằm phủ phục trước bàn thờ chính Đền Thờ Thánh Phêrô. Lúc này là 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 30 tháng Ba.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha đang quì gối trong thinh lặng, trước khi mở đầu với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
BÀI ĐỌC I: Is 52,13 - 53,12
“Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta”.
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe. Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người. Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta. Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân. Đó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
BÀI ĐỌC II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
“Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.
Bài trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Các vị phó tế đang đọc bài thương khó vì bài quá dài xin được mạn phép chỉ tường trình đoạn cuối:
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
“Hỡi Bà, này là con Bà”.
Rồi Người lại nói với môn đệ:
“Này là Mẹ con”.
Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
“Ta khát!”
Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
“Mọi sự đã hoàn tất”.
Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
Đức Thánh Cha và cộng đoàn cùng quỳ gối thinh lặng
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Sau bài thương khó, cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã trình bày với Đức Thánh Cha, giáo triều Rôma và cộng đoàn bài chia sẻ của ngài như sau:
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19: 33-35).
Không ai có thể thuyết phục chúng ta rằng lời chứng long trọng này không đúng với sự thật lịch sử, rằng người nói rằng ông đã ở đó và thấy điều này thực sự đã không có ở đó và không nhìn thấy gì. Tác giả đặt hết sự trung thực của mình ra để làm chứng trong trường hợp này. Trên đồi Canvê, dưới chân thập giá, là mẹ của Chúa Giêsu và bên cạnh bà, có “môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương”. Chúng ta có chứng tá của một chứng nhân mắt thấy tai nghe!
Tác giả “đã thấy” không chỉ những gì xảy ra như mọi người thấy, nhưng trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần sau Lễ Vượt Qua, tác giả cũng thấy được cả ý nghĩa của những gì đã xảy ra: trong khoảnh khắc này, Chiên Con thật của Thiên Chúa đã bị hiến tế và ý nghĩa của lễ Vượt Qua xưa đã được ứng nghiệm; Chúa Kitô trên thập tự giá là đền thờ mới của Thiên Chúa mà từ cạnh sườn người, như tiên tri Ezekiel tiên đoán (47: 1ff), đã tuôn trào nước hằng sống; thần khí mà Ngài đã trao ra lúc trút hơi thở sau cùng đã bắt đầu sự sáng tạo mới, như thuở khai sinh lập địa “Thần khí của Thiên Chúa”, lơ lửng trên mặt nước, đã biến đổi sự hỗn loạn thành vũ trụ. Gioan đã hiểu ý nghĩa của những lời cuối cùng của Chúa Giêsu: “Thế là đã hoàn tất” (xem Ga 19:30).
Nhưng chúng ta có thể tự hỏi mình tại sao lại có sự tập trung vô hạn vào ý nghĩa thập giá của Chúa Kitô? Tại sao một Ðấng bị đóng đinh hiện diện cùng khắp trong các nhà thờ của chúng ta, trên các bàn thờ, và ở mọi nơi các Kitô hữu thường lui tới?
Có người cho rằng một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm Kitô Giáo, là Thiên Chúa tỏ mình ra theo cách “sub contraria specie”, nghĩa là dưới một hình thức trái ngược lại với thực tại của mình: Chúa cho thấy sức mạnh của Ngài trong sự yếu đuối, sự khôn ngoan trong sự ngu xuẩn, sự giàu có trong cảnh nghèo hèn.
Tuy nhiên, chìa khóa này không áp dụng cho thập giá. Trên thập tự giá, Thiên Chúa tỏ ra mình ra một cách “sub propria specie”, nghĩa là Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta như Ngài thực sự là, trong thực tại gần gũi và thực tế nhất của Người. “Thiên Chúa là tình yêu”, Gioan viết (1 Ga 4:10), một tình yêu dâng hiến, một tình yêu bao gồm trong sự tự hiến, và chỉ trên thập tự giá mà khả năng tự hiến vô hạn của Thiên Chúa mới biểu lộ hết chiều dài của nó. “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.” (Ga 13:1); “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban nghĩa là lên án tử, Con duy nhất của Ngài” (Ga 3:16); “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2:20).
Năm nay, năm mà Giáo hội sẽ tổ chức một Thượng Hội đồng về Thanh niên và đặt ra mục tiêu là đưa họ vào vị trí trung tâm trong quan tâm mục vụ của Giáo Hội, sự hiện diện trên đồi Calvê của môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương có một sứ điệp đặc biệt. Chúng ta có mọi lý do để tin rằng Gioan đã gia nhập với Chúa Giêsu trong thời thanh niên. Đó thực sự là một tình yêu. Mọi thứ khác đột nhiên đứng ở vị trí thứ hai. Đó là một cuộc gặp gỡ hiện sinh “cá vị”. Trong khi trung tâm suy nghĩ của thánh Phaolô là công việc của Chúa Giêsu – nghĩa là mầu nhiệm vượt qua của cái chết và sự sống lại của Ngài – thì dòng suy nghĩ của thánh Gioan đặt trung tâm nơi bản ngã, nơi con người của Chúa Giêsu. Đây là nguồn gốc của tất cả các câu nói “Ta là” với cộng hưởng thần thánh được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng của ngài: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống”; “Ta là cửa”; đơn giản “Ta là”
Gioan hầu như chắc chắn là một trong hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả khi Chúa Giêsu xuất hiện tại nơi thánh Gioan làm phép rửa và đã đi theo Người. Khi họ hỏi, “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến và xem. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1: 35-39). Giờ đó đã quyết định cuộc đời của Gioan, và anh không bao giờ quên nó.
Trong năm nay, thật là phù hợp để chúng ta cố gắng khám phá cùng với những người trẻ những gì Đức Kitô mong đợi nơi họ, những gì họ có thể cống hiến cho Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là một cái gì đó khác hơn nữa: đó là giúp những người trẻ tuổi hiểu những gì Chúa Giêsu mang đến cho họ. Gioan đã khám phá ra điều này trong khi ở cùng Ngài, đó là “sự đầy tràn niềm vui” và “cuộc sống sung mãn”. Chúng ta hãy làm sao để trong tất cả các diễn từ về thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi, lời mời gọi chân thành của Đức Thánh Cha trong tông huấn Niềm Vui Phúc Âm được vang vọng như những lời dưới đây:
“Tôi mời gọi tất cả Kitô hữu, ở mọi nơi, vào khoảnh khắc này, hãy canh tân một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, hoặc ít nhất là một sự cởi mở để cho Người có thể gặp được họ; Tôi yêu cầu tất cả các bạn làm điều này không mệt mỏi mỗi ngày. Đừng ai nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, vì không ai bị loại trừ khỏi niềm vui được Chúa mang đến (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 3).
Gặp gỡ Chúa Kitô một cách cá vị vẫn còn là điều có thể trong cuộc sống hôm nay vì Người đã sống lại; Người đang sống, không phải là một nhân vật của quá khứ. Mọi thứ đều có thể sau cuộc gặp gỡ cá vị này; trái lại, khi không có cuộc gặp gỡ đó, không có gì ổn định hoặc lâu dài.
Bên cạnh tấm gương là cuộc đời của ngài, Thánh Gioan Thánh Sử cũng đã để lại một thông điệp bằng văn bản cho những người trẻ tuổi. Trong thư Thứ Nhất của ngài, chúng ta đọc thấy những lời làm rung động từ những bậc cao niên cho đến những người trẻ trong các giáo đoàn mà ngài thành lập:
“Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em: anh em là những người mạnh mẽ; lời Thiên Chúa ở lại trong anh em và anh em đã thắng ác thần. Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.” (1Ga 2: 14-15)
Thế giới mà chúng ta đừng mê say, cái thế giới mà chúng ta đừng chiều theo, như chúng ta biết, không phải là thế giới được tạo ra và yêu mến bởi Thiên Chúa; hay là thế giới của những người mà chúng ta phải luôn luôn đi ra để gặp gỡ họ, đặc biệt là người nghèo và những người ở giai tầng thấp nhất của xã hội. “Hòa vào” với thế giới đau khổ và bị gạt ra ngoài lề này, một cách nghịch lý, lại chính là cách tốt nhất để “cách ly” chúng ta khỏi thế giới bởi vì nó có nghĩa là đi theo hướng mà thế giới đang muốn bỏ chạy càng xa càng tốt. Nó có nghĩa là tách chúng ta khỏi chính nguyên tắc “đặt mình là trung tâm” đang thống trị thế giới này.
Không, thế giới chúng ta đừng mê say là cái gì đó khác; đó là cái thế giới sau khi đã bị thống trị bở Satan và tội lỗi, bởi “quyền lực trên không trung”, như Thánh Phaolô đã gọi trong thư Êphêsô (2: 1-2). Cái thế giới đó đang đóng một vai trò quyết định trong dư luận, và ngày nay nó đúng là một quyền lực trên không trung theo nghĩa đen bởi vì nó lan truyền qua vô hạn các phương thế điện tử thông qua sóng điện từ. Một nhà văn nổi tiếng viết rằng quyền lực này “cao độ và mạnh mẽ đến nỗi không một cá nhân nào có thể thoát khỏi. Nó được coi là một tiêu chuẩn được mặc nhiên công nhận. Hành động, suy nghĩ hoặc nói năng ngược lại với tinh thần này được coi là ngớ ngẩn hoặc thậm chí là sai lầm và phạm tội. Chính trong tinh thần này mà con người ngày nay gặp gỡ thế giới và các sứ vụ, nghĩa là họ đón nhận thế giới mà cái tinh thần này trình bày với họ”
Đây là những gì chúng ta gọi là sự thích nghi với tinh thần của thời đại, nói vắn tắt là sự phù hợp. Một tín hữu thi sĩ lớn trong thế kỷ vừa qua, là T. S. Eliot, đã viết ba câu nói nhiều hơn cả những quyển sách: “Trong một thế giới của những kẻ trốn chạy / Người đi ngược chiều / Sẽ được coi là đang trốn chạy.” [2]
Các Kitô hữu trẻ thân mến, nếu các bạn cho phép một ông lão như Gioan nói chuyện trực tiếp với các bạn, thì tôi đây sẽ khuyên các bạn: hãy là những người đi ngược chiều! Hãy có can đảm để đi ngược dòng! Cái hướng ngược chiều này đối với chúng ta không phải là một nơi chốn nhưng là một con người; chính là Chúa Giêsu, bạn của chúng ta, và là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta.
Một nhiệm vụ và là một sứ mệnh được đặc biệt ủy thác cho các bạn: là hãy giải cứu tình yêu của con người khỏi sự trôi dạt bi thảm đã đưa đến chỗ: tình yêu không còn là món quà trao ban bản thân mà chỉ là sự chiếm đoạt người khác một cách thường khi bạo lực và độc đoán. Thiên Chúa tự tỏ mình trên thập tự giá như agape, tình yêu tự hiến.
Nhưng tình yêu tự hiến không bao giờ tách rời khỏi tình ái, không tách khỏi một tình yêu chào đón, theo đuổi, mong muốn, và vui mừng khi được yêu thương. Thiên Chúa không những chỉ thực thi “lòng bác ái” khi yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng mong muốn chúng ta; trong suốt Kinh thánh, Người tỏ mình ra như một người phối ngẫu yêu thương và ghen tuông. Tình yêu của Ngài cũng là thứ “tình ái” theo nghĩa cao quý của từ đó. Đây là những gì Đức Bênêđíctô XVI giải thích trong thông điệp Deus Caritas, Thiên Chúa là tình yêu, của ngài:
Tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng - một thứ tình yêu “đi lên” và một thứ tình yêu “đi xuống” không bao giờ tách biệt nhau. Niềm tin theo Thánh Kinh không tạo nên một thế giới song song bên cạnh hay một thế giới nghịch lại với hiện tượng nguyên thủy của con người là tình yêu, nhưng đón nhận con người trọn vẹn, can thiệp vào sự tìm kiếm tình yêu của họ để thanh luyện và từ đó khai mở cho họ những chiều kích mới. (số 7-8)
Đây không phải là vấn đề từ bỏ những niềm vui của tình yêu, sự thu hút và ham muốn, nhưng là biết phải làm sao kết hiệp được tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng thành một mong muốn cho nhau, thành một khả năng trao ban chính mình cho người khác, trong khi nhớ lại lời thánh Phaolô viện dẫn một câu nói của Chúa Giêsu “Cho thì có phúc là nhận” (Công vụ 20:35).
Tuy nhiên, khả năng này không xảy đến một sớm một chiều. Cần phải chuẩn bị chính mình để trở nên một món quà tổng thể của bản thân mình cho một sinh vật khác trong hôn nhân, hoặc cho Thiên Chúa trong đời sống tận hiến, bắt đầu bằng cách trao ra những món quà là thời gian, nụ cười của các bạn, và thời gian trong cuộc sống dành cho gia đình, giáo xứ, và các công việc tình nguyện. Đây là điều mà rất nhiều bạn đã lặng lẽ làm.
Trên thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra cho chúng ta một ví dụ về tình yêu tự hiến đến cùng; Người cũng ban ân sủng cho chúng ta để có thể thực hiện tình yêu ấy đến một mức độ nào đó trong cuộc sống của chúng ta. Nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Ngài tuôn đến chúng ta hôm nay qua các bí tích của Hội Thánh, qua Lời Chúa, và thậm chí qua việc đơn thuần là nhìn vào Đấng bị Đóng Đinh trong đức tin. Một điều cuối cùng Gioan đã nhìn thấy một cách tiên tri dưới cây thập tự: những người nam và nữ của mọi thời đại và mọi nơi sẽ hướng mắt nhìn lên “Đấng đã bị đâm thâu qua” và khóc lóc với những giọt lệ ăn năn và được ủi an (xem Ga 19:37 và Zac 12: 10). Chúng ta hãy hiệp cùng họ trong những lễ nghi phụng vụ tiếp theo.
Sau bài giảng của cha Cantalamessa lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại.
I. Cầu Cho Hội Thánh
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh Chúa. Xin cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình an, được Chúa bảo toàn ở khắp nơi trên hoàn cầu. Xin Chúa cũng ban cho ta được an cư lạc nghiệp hầu tôn vinh Người là Cha toàn năng.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho muôn dân được thấy vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Ðức Ki-tô, là Ðấng yêu thương gầy dựng Hội Thánh Chúa. Cúi xin Chúa bảo vệ giữ gìn, để Hội Thánh đang hiện diện khắp nơi, luôn tin kính một niềm mà xưng tụng danh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
II. Cầu Cho Ðức Thánh Cha
Ta hãy cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha Phanxicô Chính Chúa đã chọn người giữa hàng giám mục, xin Chúa cũng ban cho người luôn an khang để lãnh đạo toàn thể dân thánh.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa an bài mọi sự cách khôn ngoan lạ lùng. Chính Chúa đã tuyển chọn con và trao cho con nhiệm vụ lãnh đạo dân thánh Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, mà ân cần săn sóc giữ gìn người; để nhờ người, đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
III. Cầu cho hàng giáo sĩ và giáo dân
Ta hãy cầu cho hàng Giám Mục, linh mục, phó tế, cũng như mọi người phục vụ dân thánh, và cho toàn thể cộng đoàn tín hữu khắp địa cầu.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Thánh Thần Chúa luôn hướng dẫn và thánh hoá toàn thể Hội Thánh. Này chúng con tha thiết nguyện cầu: xin Chúa thương cho mỗi thành phần Hội Thánh biết theo ơn đặc sủng Chúa ban để trung thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
IV. Cầu Cho Dự Tòng
Ta hãy cầu cho anh Chị Em dự tòng. Xin Chúa thương soi sáng tâm hồn họ, để họ được hiểu biết Chúa hơn. Xin Người mở lượng từ bi ban cho họ ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, để họ được thứ tha tội lỗi và trở thành chi thể của Chúa Kitô.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm cho Hội Thánh không ngừng sinh thêm nhiều con cái. Xin cho anh chị em dự tòng, được thêm lòng tin kính và hiểu biết Chúa hơn, hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, và gia nhập đoàn nghĩa tử của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
V. Cầu cho các tín hữu được hiệp nhất
Ta hãy cầu cho mọi anh chị em cùng tin vào Ðức Kitô, và đang cố gắng sống theo sự thật, xin Chúa thương quy tụ và gìn giữ tất cả trong Hội Thánh duy nhất của Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa muốn làm cho những ai ly tán được trở về đoàn tụ, và những kẻ sum vầy được luôn luôn hiệp nhất. Xin Chúa thương nhìn đến đoàn chiên của Ðức Kitô, và cho mọi người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy được mãi mãi đoàn kết với nhau, nhờ sống cùng một đức tin toàn vẹn, và chia sẻ một đức ái vững bền. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
VI. Cầu cho người Do-thái
Ta hãy cầu cho người Do-thái. Cha ông họ là những người đầu tiên đã được nghe lời Chúa phán dạy. Giờ đây xin Chúa làm cho họ ngày càng mến yêu danh thánh Chúa và trung thành với giao ước của Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu của người. Xin Chúa thương nghe lời Hội Thánh cầu nguyện cho dân tộc Chúa đã chọn xưa kia cũng được hưởng nhờ ơn cứu độ viên mãn của Ðức Kitô, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VII. Cầu cho người ngoài Kitô giáo
Ta hãy cầu cho những người ngoài Kitô giáo. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng dẫn đưa họ vào đường cứu độ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho những người tuy không tin vào Ðức Kitô, nhưng trước mặt Chúa vẫn ăn ngay ở lành, được hồng ân tìm thấy chân lý. Xin cũng ban cho chính chúng con, ngày càng biết tương thân tương ái và thiết tha sống kết hợp với Chúa, để trước mặt thế gian, chúng con có thể minh chứng rằng Chúa chính là tình thương. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
VIII. Cầu cho người vô thần
Ta hãy cầu cho những người không nhận biết Thiên Chúa, nhưng vẫn sống theo lương tâm ngay thẳng: xin cho họ một ngày kia được gặp thấy Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đặt vào trái tim con người niềm khát vọng đi tìm kiếm Chúa, khiến con người chỉ được bình an khi đã gặp thấy Chúa. Xin cho mọi người khắp thế gian, dù đang sống giữa muôn vàn nghịch cảnh, vẫn có thể nhận ra những dấu chỉ của tình yêu Chúa; và khi thấy các tín hữu sống đời bác ái yêu thương, họ sẽ vui mừng tin nhận duy có Chúa là Thiên Chúa đích thực và là Cha của hết mọi người. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
IX. Cầu cho những nhà lãnh đạo quốc gia
Ta hãy cầu cho những nhà lãnh đạo quốc gia. Xin Chúa thương soi trí mở lòng để họ biết hành động theo thánh ý mà tận tình lo cho dân nước được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm chủ lòng người, và bảo vệ quyền lợi của nhân dân các nước. Xin ghé mắt nhân từ mà ban ơn soi sáng trợ lực cho những nhà lãnh đạo quốc gia, để họ biết cùng nhau làm cho thế giới được hoà bình, muôn dân được thịnh vượng, và mọi người được hưởng tự do tôn giáo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
X. Cầu cho những người đau khổ và những ai đang trong những thử thách
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, dủ lòng thương giải thoát thế giới khỏi mọi sai lầm, khử trừ muôn bệnh tật, xua đuổi cơn đói kém, mở cửa ngục tù, bẻ tan xiềng xích, giữ gìn lữ khách được bình an, đưa kẻ tha hương về xứ sở, chữa lành các bệnh nhân, ban ơn cứu độ cho người đang hấp hối.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa hằng an ủi kẻ ưu phiền, ban sức mạnh cho người vất vả lầm than. Xin nghe tiếng nhân loại khổ đau nài van Chúa, và ban cho những người lâm cơn hoạn nạn được vui mừng cảm thấy Chúa nhân hậu phù trì. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Sau các lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại là lễ nghi suy tôn thánh giá.
Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là một Thánh Lễ, do đó Thánh Thể không được thánh hiến. Tuy nhiên, Mình Thánh Chúa đã được trao cho các tín hữu bởi hàng chục linh mục. Sau khi Đức Giáo Hoàng đọc lời chúc bình an, phụng vụ đã kết thúc trong im lặng theo như là truyền thống Phụng Vụ của Giáo Hội trong ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh.
Bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và một trong hai người tội phạm cùng bị đóng đinh với Ngài mà truyền thống thường gọi là người “trộm lành”, người đã hoán cải trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi nhé!”
Rồi có tiếng đáp lại của Chúa Giêsu, nhanh chóng và như một lời thì thầm: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên nước Thiên Đàng”
Trong ngày đau khổ và đớn đau này, hai người bị đóng đinh ấy không nói gì khác, nhưng vài lời thốt lên từ trong cổ họng khô kiệt của họ vang dội đến ngày nay. Những lời này còn tiếp tục vang dội như một dấu chỉ của hy vọng và ơn cứu độ cho những ai đã phạm tội nhưng cũng đã tin và tín thác ngay cả trước đường biên cuối cùng của cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang nằm phủ phục trước bàn thờ chính Đền Thờ Thánh Phêrô. Lúc này là 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 30 tháng Ba.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha đang quì gối trong thinh lặng, trước khi mở đầu với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
BÀI ĐỌC I: Is 52,13 - 53,12
“Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta”.
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe. Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người. Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta. Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân. Đó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
BÀI ĐỌC II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
“Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.
Bài trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Các vị phó tế đang đọc bài thương khó vì bài quá dài xin được mạn phép chỉ tường trình đoạn cuối:
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
“Hỡi Bà, này là con Bà”.
Rồi Người lại nói với môn đệ:
“Này là Mẹ con”.
Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
“Ta khát!”
Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
“Mọi sự đã hoàn tất”.
Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
Đức Thánh Cha và cộng đoàn cùng quỳ gối thinh lặng
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Sau bài thương khó, cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã trình bày với Đức Thánh Cha, giáo triều Rôma và cộng đoàn bài chia sẻ của ngài như sau:
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19: 33-35).
Không ai có thể thuyết phục chúng ta rằng lời chứng long trọng này không đúng với sự thật lịch sử, rằng người nói rằng ông đã ở đó và thấy điều này thực sự đã không có ở đó và không nhìn thấy gì. Tác giả đặt hết sự trung thực của mình ra để làm chứng trong trường hợp này. Trên đồi Canvê, dưới chân thập giá, là mẹ của Chúa Giêsu và bên cạnh bà, có “môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương”. Chúng ta có chứng tá của một chứng nhân mắt thấy tai nghe!
Tác giả “đã thấy” không chỉ những gì xảy ra như mọi người thấy, nhưng trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần sau Lễ Vượt Qua, tác giả cũng thấy được cả ý nghĩa của những gì đã xảy ra: trong khoảnh khắc này, Chiên Con thật của Thiên Chúa đã bị hiến tế và ý nghĩa của lễ Vượt Qua xưa đã được ứng nghiệm; Chúa Kitô trên thập tự giá là đền thờ mới của Thiên Chúa mà từ cạnh sườn người, như tiên tri Ezekiel tiên đoán (47: 1ff), đã tuôn trào nước hằng sống; thần khí mà Ngài đã trao ra lúc trút hơi thở sau cùng đã bắt đầu sự sáng tạo mới, như thuở khai sinh lập địa “Thần khí của Thiên Chúa”, lơ lửng trên mặt nước, đã biến đổi sự hỗn loạn thành vũ trụ. Gioan đã hiểu ý nghĩa của những lời cuối cùng của Chúa Giêsu: “Thế là đã hoàn tất” (xem Ga 19:30).
Nhưng chúng ta có thể tự hỏi mình tại sao lại có sự tập trung vô hạn vào ý nghĩa thập giá của Chúa Kitô? Tại sao một Ðấng bị đóng đinh hiện diện cùng khắp trong các nhà thờ của chúng ta, trên các bàn thờ, và ở mọi nơi các Kitô hữu thường lui tới?
Có người cho rằng một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm Kitô Giáo, là Thiên Chúa tỏ mình ra theo cách “sub contraria specie”, nghĩa là dưới một hình thức trái ngược lại với thực tại của mình: Chúa cho thấy sức mạnh của Ngài trong sự yếu đuối, sự khôn ngoan trong sự ngu xuẩn, sự giàu có trong cảnh nghèo hèn.
Tuy nhiên, chìa khóa này không áp dụng cho thập giá. Trên thập tự giá, Thiên Chúa tỏ ra mình ra một cách “sub propria specie”, nghĩa là Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta như Ngài thực sự là, trong thực tại gần gũi và thực tế nhất của Người. “Thiên Chúa là tình yêu”, Gioan viết (1 Ga 4:10), một tình yêu dâng hiến, một tình yêu bao gồm trong sự tự hiến, và chỉ trên thập tự giá mà khả năng tự hiến vô hạn của Thiên Chúa mới biểu lộ hết chiều dài của nó. “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.” (Ga 13:1); “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban nghĩa là lên án tử, Con duy nhất của Ngài” (Ga 3:16); “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2:20).
Năm nay, năm mà Giáo hội sẽ tổ chức một Thượng Hội đồng về Thanh niên và đặt ra mục tiêu là đưa họ vào vị trí trung tâm trong quan tâm mục vụ của Giáo Hội, sự hiện diện trên đồi Calvê của môn đệ mà Chúa Giêsu yêu thương có một sứ điệp đặc biệt. Chúng ta có mọi lý do để tin rằng Gioan đã gia nhập với Chúa Giêsu trong thời thanh niên. Đó thực sự là một tình yêu. Mọi thứ khác đột nhiên đứng ở vị trí thứ hai. Đó là một cuộc gặp gỡ hiện sinh “cá vị”. Trong khi trung tâm suy nghĩ của thánh Phaolô là công việc của Chúa Giêsu – nghĩa là mầu nhiệm vượt qua của cái chết và sự sống lại của Ngài – thì dòng suy nghĩ của thánh Gioan đặt trung tâm nơi bản ngã, nơi con người của Chúa Giêsu. Đây là nguồn gốc của tất cả các câu nói “Ta là” với cộng hưởng thần thánh được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng của ngài: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống”; “Ta là cửa”; đơn giản “Ta là”
Gioan hầu như chắc chắn là một trong hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả khi Chúa Giêsu xuất hiện tại nơi thánh Gioan làm phép rửa và đã đi theo Người. Khi họ hỏi, “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến và xem. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1: 35-39). Giờ đó đã quyết định cuộc đời của Gioan, và anh không bao giờ quên nó.
Trong năm nay, thật là phù hợp để chúng ta cố gắng khám phá cùng với những người trẻ những gì Đức Kitô mong đợi nơi họ, những gì họ có thể cống hiến cho Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là một cái gì đó khác hơn nữa: đó là giúp những người trẻ tuổi hiểu những gì Chúa Giêsu mang đến cho họ. Gioan đã khám phá ra điều này trong khi ở cùng Ngài, đó là “sự đầy tràn niềm vui” và “cuộc sống sung mãn”. Chúng ta hãy làm sao để trong tất cả các diễn từ về thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi, lời mời gọi chân thành của Đức Thánh Cha trong tông huấn Niềm Vui Phúc Âm được vang vọng như những lời dưới đây:
“Tôi mời gọi tất cả Kitô hữu, ở mọi nơi, vào khoảnh khắc này, hãy canh tân một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, hoặc ít nhất là một sự cởi mở để cho Người có thể gặp được họ; Tôi yêu cầu tất cả các bạn làm điều này không mệt mỏi mỗi ngày. Đừng ai nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, vì không ai bị loại trừ khỏi niềm vui được Chúa mang đến (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 3).
Gặp gỡ Chúa Kitô một cách cá vị vẫn còn là điều có thể trong cuộc sống hôm nay vì Người đã sống lại; Người đang sống, không phải là một nhân vật của quá khứ. Mọi thứ đều có thể sau cuộc gặp gỡ cá vị này; trái lại, khi không có cuộc gặp gỡ đó, không có gì ổn định hoặc lâu dài.
Bên cạnh tấm gương là cuộc đời của ngài, Thánh Gioan Thánh Sử cũng đã để lại một thông điệp bằng văn bản cho những người trẻ tuổi. Trong thư Thứ Nhất của ngài, chúng ta đọc thấy những lời làm rung động từ những bậc cao niên cho đến những người trẻ trong các giáo đoàn mà ngài thành lập:
“Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em: anh em là những người mạnh mẽ; lời Thiên Chúa ở lại trong anh em và anh em đã thắng ác thần. Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.” (1Ga 2: 14-15)
Thế giới mà chúng ta đừng mê say, cái thế giới mà chúng ta đừng chiều theo, như chúng ta biết, không phải là thế giới được tạo ra và yêu mến bởi Thiên Chúa; hay là thế giới của những người mà chúng ta phải luôn luôn đi ra để gặp gỡ họ, đặc biệt là người nghèo và những người ở giai tầng thấp nhất của xã hội. “Hòa vào” với thế giới đau khổ và bị gạt ra ngoài lề này, một cách nghịch lý, lại chính là cách tốt nhất để “cách ly” chúng ta khỏi thế giới bởi vì nó có nghĩa là đi theo hướng mà thế giới đang muốn bỏ chạy càng xa càng tốt. Nó có nghĩa là tách chúng ta khỏi chính nguyên tắc “đặt mình là trung tâm” đang thống trị thế giới này.
Không, thế giới chúng ta đừng mê say là cái gì đó khác; đó là cái thế giới sau khi đã bị thống trị bở Satan và tội lỗi, bởi “quyền lực trên không trung”, như Thánh Phaolô đã gọi trong thư Êphêsô (2: 1-2). Cái thế giới đó đang đóng một vai trò quyết định trong dư luận, và ngày nay nó đúng là một quyền lực trên không trung theo nghĩa đen bởi vì nó lan truyền qua vô hạn các phương thế điện tử thông qua sóng điện từ. Một nhà văn nổi tiếng viết rằng quyền lực này “cao độ và mạnh mẽ đến nỗi không một cá nhân nào có thể thoát khỏi. Nó được coi là một tiêu chuẩn được mặc nhiên công nhận. Hành động, suy nghĩ hoặc nói năng ngược lại với tinh thần này được coi là ngớ ngẩn hoặc thậm chí là sai lầm và phạm tội. Chính trong tinh thần này mà con người ngày nay gặp gỡ thế giới và các sứ vụ, nghĩa là họ đón nhận thế giới mà cái tinh thần này trình bày với họ”
Đây là những gì chúng ta gọi là sự thích nghi với tinh thần của thời đại, nói vắn tắt là sự phù hợp. Một tín hữu thi sĩ lớn trong thế kỷ vừa qua, là T. S. Eliot, đã viết ba câu nói nhiều hơn cả những quyển sách: “Trong một thế giới của những kẻ trốn chạy / Người đi ngược chiều / Sẽ được coi là đang trốn chạy.” [2]
Các Kitô hữu trẻ thân mến, nếu các bạn cho phép một ông lão như Gioan nói chuyện trực tiếp với các bạn, thì tôi đây sẽ khuyên các bạn: hãy là những người đi ngược chiều! Hãy có can đảm để đi ngược dòng! Cái hướng ngược chiều này đối với chúng ta không phải là một nơi chốn nhưng là một con người; chính là Chúa Giêsu, bạn của chúng ta, và là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta.
Một nhiệm vụ và là một sứ mệnh được đặc biệt ủy thác cho các bạn: là hãy giải cứu tình yêu của con người khỏi sự trôi dạt bi thảm đã đưa đến chỗ: tình yêu không còn là món quà trao ban bản thân mà chỉ là sự chiếm đoạt người khác một cách thường khi bạo lực và độc đoán. Thiên Chúa tự tỏ mình trên thập tự giá như agape, tình yêu tự hiến.
Nhưng tình yêu tự hiến không bao giờ tách rời khỏi tình ái, không tách khỏi một tình yêu chào đón, theo đuổi, mong muốn, và vui mừng khi được yêu thương. Thiên Chúa không những chỉ thực thi “lòng bác ái” khi yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng mong muốn chúng ta; trong suốt Kinh thánh, Người tỏ mình ra như một người phối ngẫu yêu thương và ghen tuông. Tình yêu của Ngài cũng là thứ “tình ái” theo nghĩa cao quý của từ đó. Đây là những gì Đức Bênêđíctô XVI giải thích trong thông điệp Deus Caritas, Thiên Chúa là tình yêu, của ngài:
Tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng - một thứ tình yêu “đi lên” và một thứ tình yêu “đi xuống” không bao giờ tách biệt nhau. Niềm tin theo Thánh Kinh không tạo nên một thế giới song song bên cạnh hay một thế giới nghịch lại với hiện tượng nguyên thủy của con người là tình yêu, nhưng đón nhận con người trọn vẹn, can thiệp vào sự tìm kiếm tình yêu của họ để thanh luyện và từ đó khai mở cho họ những chiều kích mới. (số 7-8)
Đây không phải là vấn đề từ bỏ những niềm vui của tình yêu, sự thu hút và ham muốn, nhưng là biết phải làm sao kết hiệp được tình yêu ham muốn và tình yêu ban tặng thành một mong muốn cho nhau, thành một khả năng trao ban chính mình cho người khác, trong khi nhớ lại lời thánh Phaolô viện dẫn một câu nói của Chúa Giêsu “Cho thì có phúc là nhận” (Công vụ 20:35).
Tuy nhiên, khả năng này không xảy đến một sớm một chiều. Cần phải chuẩn bị chính mình để trở nên một món quà tổng thể của bản thân mình cho một sinh vật khác trong hôn nhân, hoặc cho Thiên Chúa trong đời sống tận hiến, bắt đầu bằng cách trao ra những món quà là thời gian, nụ cười của các bạn, và thời gian trong cuộc sống dành cho gia đình, giáo xứ, và các công việc tình nguyện. Đây là điều mà rất nhiều bạn đã lặng lẽ làm.
Trên thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra cho chúng ta một ví dụ về tình yêu tự hiến đến cùng; Người cũng ban ân sủng cho chúng ta để có thể thực hiện tình yêu ấy đến một mức độ nào đó trong cuộc sống của chúng ta. Nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Ngài tuôn đến chúng ta hôm nay qua các bí tích của Hội Thánh, qua Lời Chúa, và thậm chí qua việc đơn thuần là nhìn vào Đấng bị Đóng Đinh trong đức tin. Một điều cuối cùng Gioan đã nhìn thấy một cách tiên tri dưới cây thập tự: những người nam và nữ của mọi thời đại và mọi nơi sẽ hướng mắt nhìn lên “Đấng đã bị đâm thâu qua” và khóc lóc với những giọt lệ ăn năn và được ủi an (xem Ga 19:37 và Zac 12: 10). Chúng ta hãy hiệp cùng họ trong những lễ nghi phụng vụ tiếp theo.
Sau bài giảng của cha Cantalamessa lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại.
I. Cầu Cho Hội Thánh
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh Chúa. Xin cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình an, được Chúa bảo toàn ở khắp nơi trên hoàn cầu. Xin Chúa cũng ban cho ta được an cư lạc nghiệp hầu tôn vinh Người là Cha toàn năng.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho muôn dân được thấy vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Ðức Ki-tô, là Ðấng yêu thương gầy dựng Hội Thánh Chúa. Cúi xin Chúa bảo vệ giữ gìn, để Hội Thánh đang hiện diện khắp nơi, luôn tin kính một niềm mà xưng tụng danh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
II. Cầu Cho Ðức Thánh Cha
Ta hãy cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha Phanxicô Chính Chúa đã chọn người giữa hàng giám mục, xin Chúa cũng ban cho người luôn an khang để lãnh đạo toàn thể dân thánh.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa an bài mọi sự cách khôn ngoan lạ lùng. Chính Chúa đã tuyển chọn con và trao cho con nhiệm vụ lãnh đạo dân thánh Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, mà ân cần săn sóc giữ gìn người; để nhờ người, đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
III. Cầu cho hàng giáo sĩ và giáo dân
Ta hãy cầu cho hàng Giám Mục, linh mục, phó tế, cũng như mọi người phục vụ dân thánh, và cho toàn thể cộng đoàn tín hữu khắp địa cầu.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Thánh Thần Chúa luôn hướng dẫn và thánh hoá toàn thể Hội Thánh. Này chúng con tha thiết nguyện cầu: xin Chúa thương cho mỗi thành phần Hội Thánh biết theo ơn đặc sủng Chúa ban để trung thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
IV. Cầu Cho Dự Tòng
Ta hãy cầu cho anh Chị Em dự tòng. Xin Chúa thương soi sáng tâm hồn họ, để họ được hiểu biết Chúa hơn. Xin Người mở lượng từ bi ban cho họ ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, để họ được thứ tha tội lỗi và trở thành chi thể của Chúa Kitô.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm cho Hội Thánh không ngừng sinh thêm nhiều con cái. Xin cho anh chị em dự tòng, được thêm lòng tin kính và hiểu biết Chúa hơn, hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, và gia nhập đoàn nghĩa tử của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
V. Cầu cho các tín hữu được hiệp nhất
Ta hãy cầu cho mọi anh chị em cùng tin vào Ðức Kitô, và đang cố gắng sống theo sự thật, xin Chúa thương quy tụ và gìn giữ tất cả trong Hội Thánh duy nhất của Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa muốn làm cho những ai ly tán được trở về đoàn tụ, và những kẻ sum vầy được luôn luôn hiệp nhất. Xin Chúa thương nhìn đến đoàn chiên của Ðức Kitô, và cho mọi người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy được mãi mãi đoàn kết với nhau, nhờ sống cùng một đức tin toàn vẹn, và chia sẻ một đức ái vững bền. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
VI. Cầu cho người Do-thái
Ta hãy cầu cho người Do-thái. Cha ông họ là những người đầu tiên đã được nghe lời Chúa phán dạy. Giờ đây xin Chúa làm cho họ ngày càng mến yêu danh thánh Chúa và trung thành với giao ước của Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu của người. Xin Chúa thương nghe lời Hội Thánh cầu nguyện cho dân tộc Chúa đã chọn xưa kia cũng được hưởng nhờ ơn cứu độ viên mãn của Ðức Kitô, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VII. Cầu cho người ngoài Kitô giáo
Ta hãy cầu cho những người ngoài Kitô giáo. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng dẫn đưa họ vào đường cứu độ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho những người tuy không tin vào Ðức Kitô, nhưng trước mặt Chúa vẫn ăn ngay ở lành, được hồng ân tìm thấy chân lý. Xin cũng ban cho chính chúng con, ngày càng biết tương thân tương ái và thiết tha sống kết hợp với Chúa, để trước mặt thế gian, chúng con có thể minh chứng rằng Chúa chính là tình thương. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
VIII. Cầu cho người vô thần
Ta hãy cầu cho những người không nhận biết Thiên Chúa, nhưng vẫn sống theo lương tâm ngay thẳng: xin cho họ một ngày kia được gặp thấy Người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đặt vào trái tim con người niềm khát vọng đi tìm kiếm Chúa, khiến con người chỉ được bình an khi đã gặp thấy Chúa. Xin cho mọi người khắp thế gian, dù đang sống giữa muôn vàn nghịch cảnh, vẫn có thể nhận ra những dấu chỉ của tình yêu Chúa; và khi thấy các tín hữu sống đời bác ái yêu thương, họ sẽ vui mừng tin nhận duy có Chúa là Thiên Chúa đích thực và là Cha của hết mọi người. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
IX. Cầu cho những nhà lãnh đạo quốc gia
Ta hãy cầu cho những nhà lãnh đạo quốc gia. Xin Chúa thương soi trí mở lòng để họ biết hành động theo thánh ý mà tận tình lo cho dân nước được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm chủ lòng người, và bảo vệ quyền lợi của nhân dân các nước. Xin ghé mắt nhân từ mà ban ơn soi sáng trợ lực cho những nhà lãnh đạo quốc gia, để họ biết cùng nhau làm cho thế giới được hoà bình, muôn dân được thịnh vượng, và mọi người được hưởng tự do tôn giáo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
X. Cầu cho những người đau khổ và những ai đang trong những thử thách
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, dủ lòng thương giải thoát thế giới khỏi mọi sai lầm, khử trừ muôn bệnh tật, xua đuổi cơn đói kém, mở cửa ngục tù, bẻ tan xiềng xích, giữ gìn lữ khách được bình an, đưa kẻ tha hương về xứ sở, chữa lành các bệnh nhân, ban ơn cứu độ cho người đang hấp hối.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa hằng an ủi kẻ ưu phiền, ban sức mạnh cho người vất vả lầm than. Xin nghe tiếng nhân loại khổ đau nài van Chúa, và ban cho những người lâm cơn hoạn nạn được vui mừng cảm thấy Chúa nhân hậu phù trì. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Sau các lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại là lễ nghi suy tôn thánh giá.
Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là một Thánh Lễ, do đó Thánh Thể không được thánh hiến. Tuy nhiên, Mình Thánh Chúa đã được trao cho các tín hữu bởi hàng chục linh mục. Sau khi Đức Giáo Hoàng đọc lời chúc bình an, phụng vụ đã kết thúc trong im lặng theo như là truyền thống Phụng Vụ của Giáo Hội trong ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh.
Đàng Thánh Giá trọng thể do Đức Thánh Cha chủ sự tại Colosseum Thứ Sáu Tuần Thánh 30/3/2018
VietCatholic Network
22:25 30/03/2018
Lúc 9 giờ 15 phút tối thứ Sáu Tuần thánh, 30 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma.
Nghi thức này được hàng chục đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Có khoảng 20 ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này.
Năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác việc chuẩn bị các bài Suy Niệm ngày Thứ Sáu Tuần Thánh cho một nhóm các bạn trẻ, do ông Andrea Monda hướng dẫn. Tốt nghiệp luật khoa, và khoa học về tôn giáo, ông Andrea Monda là một nhà văn và là nhà viết tiểu luận.
Các bạn trẻ này là các sinh viên đang theo học tại một rạp hát cổ điển ở Rôma, nơi giáo sư Monda giảng dạy về môn tôn giáo.
Truyền thống viết các bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseum khác với những bài nguyện ngắm như trong các kinh bổn thường đọc đã được bắt đầu với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào năm 1991. Văn bản các chặng Đàng Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Colosseum phản ảnh cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo trước thực trạng văn hóa, xã hội và luân lý trong xã hội đương đại. Nó cũng nêu bật tình trạng bị bách hại của các Kitô hữu trên toàn thế giới, tình trạng bất công, những khổ đau của người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Nhiều bài suy niệm đã đi vào lịch sử như những áng văn chương tuyệt tác như bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseum vào năm 2007 của Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Di Sản Văn Hoá của Giáo Hội.
Những bài suy niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá năm nay tập trung vào những kinh nghiệm và thách thức đối với giới trẻ ngày nay.
Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã có ý tưởng giao phó việc biên soạn các bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseum năm nay cho những người trẻ trong bối cảnh Giáo Hội tìm kiếm không gian cho thế hệ mới tại Thượng Hội Đồng vào tháng Mười.
Những bài suy niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá năm nay tập trung vào một số chủ đề như di dân, và sứ điệp của Chúa Giêsu trong thời đại của Internet.
Theo Giáo Sư Monda, trong các bài Suy Niệm này những người trẻ đã trình bày những suy tư của họ trên những kinh nghiệm và những thách thức mà họ phải đối mặt trong thế giới ngày nay.
CHẶNG THỨ NHẤTChúa Giêsu bị kết án tử hình
Lần thứ ba, ông Philatô nói với họ: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.
Ông Philatô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn. (Lc 23, 22-25)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa đang đứng trước quan tổng trấn, là người đã ba lần muốn chống lại ý muốn của đám đông, và cuối cùng quyết định từ bỏ ý định này. Và con tưởng tượng ra Chúa đang đứng trước một đám đông, cả ba lần được hỏi đều quyết định chống lại Chúa. Đám đông, nói cách khác, là mọi người - và cũng có nghĩa chẳng là ai cả. Khi chìm trong đám đông, người ta mất đi tính cách của mình; và trở nên tiếng nói của hàng ngàn tiếng nói khác.
Trước khi chối bỏ Chúa, chúng con tự phủ nhận mình khi làm tan loãng trách nhiệm của mình cho ngọn triều đang dâng lên của một đám đông vô hình. Tuy nhiên, chúng con vẫn phải chịu trách nhiệm. Bị lừa dối bởi những kẻ kích động, bởi cái ác đang tự lan truyền với một giọng điệu lừa đảo đinh tai điếc óc, chính là chúng con, toàn thể nhân loại, đã lên án Chúa.
Hôm nay, chúng con đang kinh hoàng trước bản án quá bất công này và chúng con không muốn là một phần trong chuyện này. Nhưng khi làm như thế, chúng con quên mất tất cả những lần chính chúng con lại muốn cứu Barabbas, chứ không phải Chúa – đó là những khi con giả điếc trước tiếng kêu của người tốt, và nhắm mắt làm ngơ trước những bất công xảy ra chung quanh chúng con.
Ở quảng trường đông đúc này, giá như có một con tim dám băn khoăn, giá như có một giọng nói dám nổi lên chống lại ngàn tiếng nói của cái ác. Mỗi khi cuộc sống đặt trước con một sự lựa chọn, xin cho con nhớ đến quảng trường này và sai lầm đó. Xin cho trái tim con biết băn khoăn và thúc bách mình cất cao tiếng nói.
Lời nguyện
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa, hãy để ý đến những quyết định của chúng con.
Xin soi sáng những quyết định trên đường đời chúng con với ánh sáng của Chúa.
Xin thức tỉnh trong chúng con khả năng biết đặt câu hỏi bởi vì chỉ có ác mới không bao giờ biết tự vấn.
Cây cối đâm rễ trên mặt đất héo tàn, nếu được tưới bằng cái ác; nhưng Chúa đặt cội rễ chúng con trên trời cao và phủ cành lá xuống đến tận trái đất; để chúng con nhận ra Chúa và dõi theo Ngài.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ HAI
Chúa Giêsu vác thánh giá
Chúa Giêsu vác thánh giá
Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. (Mc 8: 34-35)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa, đầu đội vương miện bằng gai, khi đón lấy cây thập giá của Chúa. Chúa đón lấy lấy cây thập giá, như Chúa đã luôn luôn chào đón mọi thứ và mọi người. Họ chất lên vai Chúa cây gỗ nặng nề, dám dúa, nhưng Chúa không nổi loạn, Chúa không từ chối thứ công cụ tra tấn bất công và nhục mạ này. Chúa mang vác nó trên vai và bắt đầu chập choạng bước đi.
Đã bao nhiêu lần con nổi loạn và trở nên giận dữ trước những gánh nặng xảy ra với con, coi đó là những gì nặng nề hoặc không công bằng. Chúa không làm như vậy. Chúa chỉ hơn con vài tuổi, ở độ tuổi này ngày nay người ta cho rằng Chúa vẫn còn trẻ lắm, nhưng Chúa chấp nhận, và Chúa nghiêm chỉnh nhìn xem cuộc sống mang lại những gì cho mình, mọi cơ hội cuộc đời mang tới, như thể Chúa muốn đi đến tận cùng của sự vật và khám phá ra rằng luôn có cái gì đó nhiều hơn vẻ bề ngoài, một ý nghĩa nào đó chưa hé lộ ra và đáng ngạc nhiên. Cảm ơn Chúa, con hiểu rằng đó là một thập giá của ơn cứu rỗi và giải phóng, một thập giá nâng con dậy mỗi khi con té ngã, đó là ách nhẹ nhàng, không đè nặng.
Từ tai tiếng trong cái chết của Con Thiên Chúa, trong cái chết của một tội nhân, trong cái chết của một kẻ bị kết án, phát sinh ra ân sủng để con có thể tái khám phá nơi những đau đớn sự phục sinh của Chúa, nơi những đau khổ vinh quang của Ngài, nơi sự thống khổ ơn cứu rỗi Chúa ban cho con. Thập tự giá, một biểu tượng nhục nhã và buồn rầu, giờ đây nhờ hồng ân hiến tế hy sinh của Chúa đã hé mở như một lời hứa: từ trong mọi cái chết sự sống sẽ nảy sinh; và trong mọi bóng tối ánh sáng sẽ chiếu soi. Và con có thể kêu lên: “Kính lạy Thánh Giá, nguồn hy vọng duy nhất của con!”
Lời nguyện
Lạy Chúa, con cầu xin Chúa, trong ánh sáng của Thánh Giá, là biểu tượng đức tin của chúng con, xin cho chúng con dám chấp nhận những đau khổ của mình, và khi được chiếu sáng bởi tình yêu Chúa, chúng con dám đón lấy những thập giá của chúng con, được vinh hiển nhờ sự chết và sự phục sinh của Chúa.
Xin ban cho chúng con ân sủng để nhìn lại những câu chuyện đời mình, để tái khám phá tình yêu của Chúa dành cho chúng con trong những câu chuyện ấy.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ BA
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất
Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. (Is 53:4)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa, gánh lấy bao tội lỗi của con, đang đau khổ chập choạng bước lên đồi Calvê. Và con thấy Chúa té ngã, tay và đầu gối Chúa chống trên mặt đất, trong đau đớn. Chúa chịu nhục nhã là ngần nào! Bản tính loài người thực sự của Chúa được nhìn thấy rõ ràng trong đoạn đời này của Chúa. Thập tự Chúa đang vác trên vai thật nặng nề; Chúa cần được giúp đỡ, nhưng khi Chúa té xuống đất không ai giúp Chúa, trên thực tế, người ta hả hê lấy Chúa làm trò cười, cười trước hình ảnh của một Thiên Chúa đang té xóng xoài trên mặt đất. Có lẽ họ đang thất vọng, có thể họ đã có một ý tưởng sai lầm về Chúa. Đôi khi chúng con nghĩ rằng có niềm tin vào Chúa thì đương nhiên là chúng con không bao giờ vấp ngã trên đường đời. Nhưng mà, cùng với Chúa con cũng vấp ngã, với những ý tưởng của con, với những gì con nghĩ về Chúa: chúng thật mong manh thế nào!
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa, cắn răng chịu đựng, và hoàn toàn bị bỏ rơi đối với tình yêu của Chúa Cha, Chúa đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình. Với những bước đi đầu tiên, dưới sức nặng của thập giá, Chúa nhắc nhở con về một đứa trẻ đang bước những bước chân đầu tiên của mình trong đời và mất thăng bằng, té ngã và khóc lóc, nhưng sau đó lại tiếp tục bước. Nó phụ thuộc vào bàn tay của cha mẹ nhưng không dừng lại; nó sợ nhưng cứ tiếp tục, bởi vì niềm tin mạnh hơn sự sợ hãi.
Qua sự can đảm của Chúa, Ngài dạy con rằng những thất bại và vấp ngã không bao giờ được làm con chùn bước trên đường và con luôn phải lựa chọn: hoặc là đầu hàng hoặc là đứng lên với Chúa.
Lời nguyện
Chúa ơi, xin đánh thức nơi những người trẻ chúng con lòng can đảm để đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã giống như Chúa đã làm trên đường lên đồi Calvê.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết đánh giá cao hồng ân tuyệt vời và quý giá của sự sống và rằng những thất bại và vấp ngã không bao giờ có thể là một lý do để kết thúc nó, với nhận thức rằng nếu chúng con tin tưởng nơi Chúa, chúng con có thể đứng lên và tìm ra sức mạnh để tiếp tục, luôn luôn là như thế.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ TƯ
Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ
Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ
Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2:34-35)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa khi gặp thân mẫu mình. Đức Maria đứng đó, chen lấn qua con đường đông đúc, với cơ man bao nhiêu là người xung quanh Mẹ. Điều duy nhất khiến Mẹ khác với những người chung quanh là Mẹ ở đó để đồng hành cùng con mình. Đó là một cái gì đó chúng con thấy mỗi ngày: những bà mẹ đi cùng con cái đến trường hoặc đến bác sĩ, hoặc đưa chúng đi làm. Tuy nhiên, Đức Maria khác với những bà mẹ khác: Mẹ đang tháp tùng con trai mình đến cái chết. Phải nhìn thấy con mình chết là điều tồi tệ nhất, là điều bất thường nhất vượt quá trí tưởng tượng của một người, và còn tàn bạo hơn thế nữa khi con mình đang chết dần mòn dưới tay của luật pháp. Trước mắt con là một cảnh bất tự nhiên và bất công biết chừng nào! Mẹ con đã thấm nhuần trong con cảm giác công bằng và tin tưởng vào cuộc sống, nhưng những gì con nhìn thấy ngày hôm nay thật trái ngược: nó thật là vô nghĩa và đau đớn.
Lạy Mẹ Maria, con hình dung ra Mẹ đang nhìn vào đứa con tội nghiệp của Mẹ. Trên lưng Chúa hằn lên những dấu vết của những trận đòn roi và Chúa bị buộc phải vác cây thánh giá nặng nề; không nghi ngờ gì, chẳng mấy chốc nữa đây, sức tàn lực kiệt ngài sẽ té xuống bên dưới nó. Dẫu Mẹ biết rằng, sớm hay muộn, điều này sẽ xảy ra; vì điều đó đã được tiên báo cho Mẹ, nhưng bây giờ khi nó đang diễn ra, mọi thứ đều khác. Chuyện đời là thế: chúng con chẳng bao giờ sẵn sàng trước những thực tế khắc nghiệt của cuộc sống. Mẹ Maria giờ đây đang rất buồn, như bất kỳ người phụ nữ nào rơi vào tình cảnh của Mẹ, nhưng Mẹ không thất vọng. Đôi mắt Mẹ không tối sầm lại; không tuyệt vọng và cúi xuống. Đôi mắt Mẹ đang rực rỡ ngay cả trong nỗi buồn của Mẹ, bởi vì Mẹ có hy vọng. Mẹ biết rằng cuộc hành trình của con Mẹ sẽ không phải là một chuyến đi một chiều. Mẹ biết, Mẹ cảm thấy, một cảm nhận mà chỉ có những bà mẹ mới có thể cảm nhận được, rằng Mẹ sẽ sớm gặp lại con Mẹ.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn hướng mắt lên gương của Đức Maria. Mẹ đã chấp nhận cái chết của con mình như một mầu nhiệm của ơn cứu rỗi.
Xin giúp chúng con hành động với cái nhìn tập chú vào sự tốt lành của người khác, và được chết trong niềm hi vọng phục sinh, với ý thức rằng chúng con không bao giờ đơn côi hay bị bỏ rơi bởi Chúa hay Đức Mẹ, là người mẹ từ ái luôn quan tâm đến con cái mình.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ NĂM
Ông Simôn người xứ Kyrênê vác đỡ tháng giá Chúa
Ông Simôn người xứ Kyrênê vác đỡ tháng giá Chúa
Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu. (Lc 23:26)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa đang bị nghiền nát dưới sức nặng của cây thập tự. Con thấy Chúa không thể vác cây thập tự một mình: Trong khoảnh khắc cần thiết nhất của Chúa, Chúa vẫn trơ trọi một mình, không có những người tự gọi mình là bạn hữu của Chúa. Giuđa phản bội Chúa, Phêrô cũng đã chối Chúa, còn những người khác bỏ rơi Chúa. Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ bất ngờ với một người không quen biết, một người qua đường, có lẽ chỉ nghe nói về Chúa và chưa từng theo Chúa. Tuy nhiên, giờ đây người ấy đang ở bên cạnh Chúa, vai kề vai, chia sẻ cái ách của Chúa. Tên ông là Simôn và ông là một người lạ mặt đến từ xa, từ xứ Kyrênê. Đối với ông ngày hôm nay một điều gì đó bất ngờ xảy ra, và trở thành một cuộc gặp gỡ.
Mỗi ngày, chúng con trải qua vô số những cuộc gặp gỡ và đụng độ, đặc biệt là những người trẻ tuổi chúng con. Chúng con liên tục gặp phải những trải nghiệm mới và những người mới. Trong các cuộc gặp gỡ bất ngờ, trong các sự kiện ngẫu nhiên, trong những lạ lùng kinh ngạc, có những cơ hội tiềm tàng để yêu thương, để nhìn thấy những gì là tốt nhất trong những người lân cận của chúng con, ngay cả trong những người có vẻ khác với chúng con.
Đôi khi, lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng cảm thấy như Chúa, bị bỏ rơi bởi những người mà chúng con nghĩ là bằng hữu của mình, và bị đè bẹp dưới những gánh nặng. Tuy nhiên, chúng con không để quên rằng có một ông Simôn người xứ Kyrênê nào đó sẵn sàng vác đỡ thập giá của chúng con. Chúng con phải nhớ rằng chúng con không cô đơn và, trong nhận thức đó, chúng con sẽ tìm thấy sức mạnh để vác lấy thập giá của những người xung quanh chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa giờ đây dường như cảm thấy nhẹ nhàng hơn một chút. Chúa có thể hít thở được trong giây lát, bây giờ Chúa không còn cô đơn nữa. Con cũng thấy được ông Simôn. Không biết liệu anh ta có nhận ra rằng ách của Chúa thì nhẹ nhàng, và liệu anh ta có đánh giá cao ý nghĩa của sự kiện bất ngờ này trong cuộc đời mình hay không.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho mỗi người chúng con lòng can đảm giống như ông Simôn người xứ Kyrênê, là người đã vác đỡ thánh giá Chúa, và bước theo các bước chân Chúa.
Xin cho mỗi người trong chúng con biết khiêm tốn và mạnh mẽ vác đỡ những thập giá của những người mà chúng con gặp gỡ trên đường đời.
Xin cho mỗi khi chúng con cảm thấy cô đơn, chúng con có thể nhận ra trong hành trình của chúng con một ông Simôn người xứ Kyrênê nào đó, là người sẽ chặn lại và vác đỡ gánh nặng của chúng con.
Xin cho chúng con có thể nhìn thấy những gì là tốt nhất trong mọi người, và cởi mở với tất cả các cuộc gặp gỡ khác nhau.
Chúng con cầu xin cho mỗi người trong chúng con bất ngờ thấy mình đang đi bên cạnh Chúa.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ SÁU
Bà Veronica lau mặt Chúa Giêsu
Bà Veronica lau mặt Chúa Giêsu
Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn.
Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. (Is 53:2-3)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa tả tơi không còn hình dạng người ta và bị đối xử như kẻ rốt cùng trong thiên hạ. Chúa lê bước dần đến cái chết, khuôn mặt của Chúa bê bết máu và bị biến dạng. Tuy nhiên, như mọi khi, vẫn hiền lành và khiêm tốn, Chúa đang nhìn lên. Một người phụ nữ bước ra khỏi đám đông để nhìn thật gần khuôn mặt Chúa, là khuôn mặt có lẽ, đã thường nói với tâm hồn cô, khuôn mặt mà cô yêu mến. Cô thấy những vết thương trên mặt Chúa và muốn giúp đỡ. Họ không để cô ấy vượt qua, binh lính vũ trang đứng đông lắm, họ chặn cô lại. Nhưng với cô, đó không phải là vấn đề; cô ấy quyết tâm đến gần Chúa và trong một khoảnh khắc cô ấy đã có thể chạm vào Chúa, và lau mặt Chúa. Đó là sức mạnh của sự dịu dàng. Trong một giây Chúa nhìn cô, mặt đối mặt.
Chúng con không biết gì về người phụ nữ Veronica đó, hoặc câu chuyện của cô ấy. Cô được nước thiên đàng qua một cử chỉ bác ái đơn giản. Cô ấy tiến đến gần Chúa, nhìn thấy khuôn mặt đau khổ của Chúa và yêu mến nhiều hơn trước. Veronica không dừng lại ở những dáng vẻ bề ngoài, mà hôm nay là rất quan trọng trong xã hội coi trọng hình ảnh của chúng con. Cô ấy yêu mến, vô điều kiện, một khuôn mặt không sáng sủa, xấu xa, chẳng khả ái cũng chẳng hoàn hảo. Khuôn mặt đó, khuôn mặt của Chúa, lạy Chúa, trong sự không hoàn hảo ấy, lại cho thấy sự hoàn hảo trong tình yêu của Chúa đối với chúng con.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con sức mạnh tiếp cận người khác, tiếp cận mọi người, bất kể già trẻ, giàu nghèo, bạn bè hay người xa lạ, để con nhìn thấy khuôn mặt Chúa trong tất cả những khuôn mặt ấy.
Xin Chúa giúp con đừng ngần ngại khi trợ giúp người lân cận của con, là người Chúa đang ngự trong họ, ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn như khi xưa bà Veronica dám đến để giúp Chúa trên đường lên đồi Calvê.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ BẨY
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai
Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới?
Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn
ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. (Is 53: 8,10)
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa ngã xuống đất lần nữa trước mắt con. Khi ngã xuống đất lần nữa, Chúa cho con thấy Chúa là một con người, một phàm nhân thực sự. Và con thấy Chúa đứng dậy, kiên quyết hơn trước. Chúa không đứng dậy với niềm tự hào; không có niềm tự hào trong ánh mắt của Chúa, mà chỉ có tình yêu. Khi tiếp tục cuộc hành trình, đứng dậy sau mỗi lần ngã xuống, Chúa công bố sự phục sinh của Chúa. Chúa cho con thấy rằng Chúa đã sẵn sàng, một lần nữa và luôn luôn, để chịu đựng trên đôi vai chảy máu của Chúa gánh nặng tội lỗi của con người.
Khi ngã xuống đất một lần nữa, Chúa đã gửi cho chúng con một thông điệp rõ ràng về lòng khiêm nhường. Chúa ngã xuống đất, và trên đất (humus) ấy “nhân loại” (humans) chúng con ra đời. Chúng con là tro bụi, chúng con là bùn đất, chúng con chẳng là chi khi so với Chúa. Nhưng Chúa muốn trở nên người phàm như chúng con, và giờ đây Chúa cho chúng con thấy Chúa gần gũi với chúng con, với những vấn nạn của chúng con, với những yếu đuối của chúng con, và với những giọt mồ hôi trên trán chúng con. Giờ đây, trong ngày thứ Sáu này, như vẫn thường xảy đến cho chúng con, Chúa đang bị đè nặng bởi những nỗi buồn. Nhưng Chúa có sức mạnh để đi tiếp, Chúa không sợ những khó khăn đang ở phía trước, và Chúa biết rằng ở cuối hành trình đau khổ này là Nước Trời. Chúa đứng dậy chính là để đến được nơi ấy, để mở ra trước mắt chúng con những cánh cửa trong vương quốc của Chúa. Chúa thật là một vị vua kỳ lạ, một vị vua nằm xóng xoài giữa bụi đất.
Đột nhiên con cảm thấy hoang mang: chúng con không xứng đáng để so sánh những nỗ lực và những vấp ngã của chúng con với Chúa. Những vấp ngã của Chúa là một hy sinh, một hy sinh cao cả mà mắt con và toàn bộ lịch sử đã từng được chứng kiến.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin cho chúng con có thể sẵn sàng đứng dậy sau khi vấp ngã, và xin cho chúng con có thể học được từ những thất bại.
Xin nhắc nhở chúng con rằng, khi đến lượt chúng con mắc sai lầm và sa ngã, nếu chúng con chạy đến cùng Chúa, và giữ chặt tay Chúa, chúng con có thể học cách đứng dậy lần nữa.
Xin cho những người trẻ tuổi chúng con có thể mang đến cho tất cả mọi người thông điệp của Chúa về lòng khiêm nhường, và cho các thế hệ tương lai có thể mở mắt họ ra với Chúa để hiểu biết tình yêu của Chúa.
Xin dạy chúng con biết giúp đỡ những người đau khổ và vấp ngã bên cạnh chúng con, để lau mồ hôi, và giơ tay lên nhấc họ đứng lên.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ TÁM
Chúa Giêsu an ủi những người phụ nữ thành Giêrusalem
Chúa Giêsu an ủi những người phụ nữ thành Giêrusalem
Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!” Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa đang nói với những người phụ nữ Chúa gặp trên đường đến cái chết của Chúa. Mỗi ngày Chúa gặp gỡ biết bao người; Chúa đến gần và nói chuyện với tất cả mọi người. Giờ đây Chúa nói với những người phụ nữ thành Giêrusalem đang nhìn Chúa và than khóc. Con cũng là một trong những phụ nữ đó. Lạy Chúa, những lời cảnh báo của Chúa đánh động con vì những lời này rất cụ thể và thẳng thắn. Lúc đầu, những lời ấy xem ra khắc nghiệt và nghiêm trọng, nhưng đó là vì những cảnh cáo ấy rất trực tiếp. Ngày nay, chúng con đã quen với một thế giới trong đó mọi người ăn nói quanh co. Một tấm màn lừa đảo che đậy và sàng lọc những gì chúng con thực sự muốn nói. Chúng con không muốn sửa lỗi người khác. Chúng con muốn để mặc họ với những toan tính riêng, chẳng màng đến chuyện thách đố tha nhân vì lợi ích của họ.
Trong khi Chúa nói với những người phụ nữ như một người cha, và khuyên nhủ họ. Lời Chúa là những lời lẽ của sự thật và thẳng thắn được nói ra để sửa chữa chứ không phải là phán xét. Lời Chúa là một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ chúng con nói. Chúa luôn nói với sự khiêm tốn và đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề.
Trong cuộc gặp gỡ cuối cùng này của Chúa trước khi bị treo trên thập giá, chúng con thấy một lần nữa tình yêu vô biên của Chúa dành cho những người rốt cùng, những người bị gạt ra bên lề. Phụ nữ trong những ngày đó không được coi là xứng đáng để được nói đến, trong khi Chúa, với lòng nhân hậu, đã làm một cuộc cách mạng thực sự.
Lời nguyện
Xin Chúa ban cho con, cùng với những người nam nữ của thế giới này, có thể trở nên bác ái hơn bao giờ đối với những người đang quẫn bách, như Chúa đã làm khi xưa.
Xin ban cho tất cả chúng con sức mạnh để đi ngược dòng và bước vào cuộc gặp gỡ chân thực với những người khác, xây dựng những nhịp cầu chứ đừng cô lập mình trong sự ích kỷ dẫn chúng con đến tình trạng cô đơn của tội lỗi.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ CHÍN
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành
Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. (Is 53: 5-6)..
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa ngã xuống đất lần thứ ba. Chúa đã ngã xuống đất hai lần, và cả hai lần Chúa đã đứng dậy. Giờ đây, sức chịu đựng và những đau đớn của Chúa đã đến giới hạn tận cùng. Lúc này đây, trong cái té ngã thứ ba này, Chúa dường như hoàn toàn kiệt sức. Bao nhiêu lần, trong cuộc sống hàng ngày, chúng con vấp ngã! Chúng con vấp ngã quá thường đến mức không còn đếm nổi. Tuy nhiên, chúng con luôn hy vọng trong mỗi lần vấp ngã rằng đây sẽ là lần cuối cùng, bởi vì chúng con cần can đảm và hy vọng để đối mặt với khổ đau. Khi một người vấp ngã quá nhiều lần, tất cả sức mạnh cuối cùng đều cạn kiệt và mọi hy vọng đều tan biến.
Con tưởng tượng con đang đi bên cạnh Chúa, lạy Chúa Giêsu, khi Chúa đi dần đến cái chết của Chúa. Thật khó để nghĩ rằng Chúa chính là Con của Đức Chúa Trời. Người nào đó đã cố gắng giúp Chúa, nhưng giờ đây Chúa đã kiệt sức, bất động, và tê liệt: dường như Chúa không thể đi xa hơn. Tuy nhiên, thật bất ngờ, con thấy Chúa đứng dậy, đứng thẳng người trên đôi chân, bất kể trọng lượng của thập giá trên vai Chúa, và Chúa lại bắt đầu lê bước. Vâng, Chúa đang đi đến cái chết của Chúa, nhưng Chúa muốn làm như thế cho đến cùng. Có lẽ đây là tình yêu. Con hiểu rằng bao nhiêu lần chúng con vấp ngã không phải là vấn đề; sẽ có một lần cuối cùng, có lẽ là thử thách tồi tệ nhất, khủng khiếp nhất, khi chúng con được kêu gọi để tìm ra sức mạnh chịu đựng cho đến cuối cuộc hành trình. Đối với Chúa Giêsu, cuối cùng là chịu đóng đinh, là sự vô lý hiển nhiên của cái chết, nhưng điều đó lại cho thấy một ý nghĩa sâu sắc hơn, một mục đích cao cả hơn, là ơn cứu rỗi cho tất cả chúng con.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con mỗi ngày ơn can đảm để đi tiếp trên hành trình của chúng con. Xin cho chúng con đón nhận đến cùng hy vọng và tình yêu Chúa đã ban cho chúng con.
Xin cho mọi người có thể đối mặt với những thách thức trong cuộc sống với sức mạnh và lòng trung thành của Chúa trong những khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc hành trình của Chúa đến cái chết trên cây thập tự.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ MƯỜI
Chúa Giêsu bị lột áo
Chúa Giêsu bị lột áo
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. (Ga 19:23).
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa bị lột trần truồng, như con chưa từng thấy trước đây. Họ đã lột áo Chúa, lạy Chúa Giêsu, và đang bắt thăm chia cho nhau. Trong ánh mắt của những người này, Chúa đã mất đi chút phẩm giá cuối cùng còn sót lại, và vật sở hữu cuối cùng của Chúa trong cuộc hành trình đau khổ này cũng bị lấy mất. Thuở tạo thiên lập địa, Chúa Cha đã tô điểm xiêm áo cho con người, mặc cho họ phẩm giá; nhưng giờ đây những con người này tước mất áo xống trên lưng Chúa. Con thấy Chúa, lạy Chúa Giêsu, và con thấy một thanh niên di dân với thân thể rã rời lạc đến các vùng đất thường khi là tàn nhẫn, sẵn sàng lột hết áo xống của anh ta, là gia tài duy nhất còn sót lại của anh và bán nó, bỏ lại anh một mình với thập giá của mình, như thánh giá của Chúa, với da thịt bị bầm dập như da thịt của Chúa, với đôi mắt đầy những đau đớn, như đôi mắt của Chúa.
Tuy nhiên, có một điều chúng con thường quên về phẩm giá. Nó được tìm thấy bên dưới da thịt của Chúa; nó là một phần của Chúa, và nó sẽ luôn ở bên Chúa. Hơn thế nữa, tại thời điểm này, nó nằm ngay trong sự trần trụi này.
Sự trần truồng khi chúng con được sinh ra giống như sự trần truồng mà trái đất này sẽ đón nhận chúng con vào buổi tối cuộc đời chúng con. Từ người mẹ này [chúng con] đến với người mẹ khác. Và giờ đây, trên ngọn đồi này, mẹ của Chúa cũng có mặt. Một lần nữa, Mẹ nhìn thấy Chúa trần truồng.
Con thấy Chúa và con hiểu ra sự hùng vĩ và vẻ huy hoàng của nhân phẩm Chúa, phẩm giá của mỗi người, mà không ai có thể xóa bỏ.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết nhìn nhận phẩm giá thuộc về bản chất của chúng con, ngay cả khi chúng con thấy mình trần truồng và cô đơn trước người khác.
Xin ban cho chúng con có thể luôn nhìn thấy phẩm giá của người khác, tôn trọng và bảo vệ nó.
Xin Chúa ban cho chúng con sự can đảm cần thiết để hiểu mình cao trọng hơn rất nhiều so với quần áo chúng con mặc, và chấp nhận sự trần trụi của chúng con. Nó nhắc nhở chúng con về sự nghèo nàn của mình, mà Chúa đã yêu mến, thậm chí thí mạng sống của Chúa cho chúng con.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ MƯỜI MỘT
Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thánh giá
Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thánh giá
Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. (Lc 23: 33-34).
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa bị tước đoạt mọi thứ. Họ muốn trừng phạt Chúa, một người vô tội, bằng cách đóng đinh Chúa vào cây thập giá. Con sẽ làm gì nếu con rơi vào hoàn cảnh của Chúa? Liệu con có can đảm để chấp nhận sự thật của Chúa, sự thật của con? Chúa đã có sức mạnh để chịu đựng trọng lượng của thập tự giá, để đối mặt với sự hoài nghi, để bị lên án vì những lời đầy khiêu khích của Chúa. Hôm nay chúng con thật khó nuốt cho trôi một lời phê bình, như thể mỗi từ trong đó đều có ý làm tổn thương chúng con.
Chúa đã không dừng lại ngay cả trước cái chết. Chúa tin tưởng sâu sắc vào sứ mệnh của Chúa và đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Ngày nay, trong thế giới Internet, chúng con bị điều kiện hóa bởi mọi thứ lưu hành trên web; có những lúc con đâm ra nghi ngờ chính những lời nói của chính mình. Nhưng lời Chúa thì khác; chúng mạnh mẽ ngay cả trong sự yếu đuối của Chúa. Chúa đã tha thứ cho chúng con, Chúa đã không oán giận, Chúa đã dạy chúng con đưa nốt má còn lại ra và Chúa tiếp tục bước tới, thậm chí đến sự hy sinh toàn bộ bản thân mình.
Con nhìn xung quanh và con nhìn thấy những ánh mắt dán chặt vào màn hình điện thoại, mọi người lướt qua các mạng xã hội để đóng đinh người khác vì mọi lỗi lầm của họ, không chút tha thứ. Mọi người bị thống trị bởi sự giận dữ, hét lên những hận thù lẫn nhau vì những lý do vô ích nhất.
Con nhìn vào vết thương của Chúa và giờ đây con nhận ra rằng con sẽ không có nổi sức mạnh của Chúa. Nhưng con đang ngồi ở đây dưới chân Chúa, và con lột bỏ hết những do dự. Con đứng dậy để được gần gũi hơn với Chúa, thậm chí sát tựa bên Ngài.
Lời nguyện
Lạy Chúa, khi đối diện với điều tốt lành, xin Chúa cho con có thể sẵn sàng nhận ra điều đó; và khi đối mặt với bất công, xin cho con có thể tìm thấy can đảm để dám chấp nhận hiểm nguy và hành động thích đáng.
Xin giải thoát con khỏi những nỗi sợ hãi, như những chiếc đinh, đang cố giữ con, làm con bất động và ngăn cản con đến với cuộc sống Chúa hằng mong muốn và đã chuẩn bị cho chúng con.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ MƯỜI HAI
Chúa Giêsu chết trên thánh giá
Chúa Giêsu chết trên thánh giá
Bấy giờ chưa đến giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23: 44-47).
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con thấy Chúa nhưng lần này giá mà con đừng thấy thì hơn. Chúa đang hấp hối. Chúa nhìn thật đẹp khi Chúa nói với đám đông, nhưng giờ đây tất cả đã đến hồi kết thúc. Con không muốn nhìn thấy cái kết cục này; quá thường khi con quay mặt đi, con đã trở nên gần như quen thuộc với việc chạy trốn nỗi đau và cái chết. Con đã trở nên tê cứng với chúng.
Tiếng kêu của Chúa trên cây thập tự thật to và xé lòng. Chúng con không chuẩn bị cho tất cả những nỗi đau đó; bây giờ và tương lai cũng thế. Theo bản năng, chúng con trốn chạy, và hoảng loạn trước cái chết và đau khổ. Chúng con bác bỏ những điều đó; chúng con thích nhìn chỗ khác hoặc nhắm mắt lại. Nhưng, Chúa vẫn ở đó, trên cây thập tự; Chúa đang đợi chúng con với đôi tay rộng mở. Chúa mở mắt con ra.
Lạy Chúa Giêsu, đây là một mầu nhiệm lớn lao. Chúa yêu thương chúng con qua cái chết, qua đau khổ vì bị bỏ rơi, bằng cách phó dâng thần khí, bằng cách làm theo ý Chúa Cha, bằng cách tuân phục. Chúa vẫn còn trên thập giá, và đó là tất cả. Chúa không cố giải thích mầu nhiệm về sự chết, và sự hủy diệt mọi thứ. Chúa làm nhiều hơn: Chúa vượt qua nó hoàn toàn trong thân xác và tinh thần. Một mầu nhiệm lớn lao, là điều tiếp tục chất vấn chúng con và làm chúng con phải nghĩ đến. Nó thách thức chúng con và nó mời gọi chúng con mở mắt ra để nhìn thấy tình yêu của Chúa ngay cả trong cái chết, thậm chí ngay cả từ chính cái chết. Chính là ở đó Chúa yêu chúng con như chúng con thực sự là, chân thực và không thể khác. Chính là ở đó chúng con nắm bắt được, dù không hoàn hảo, sự sống và sự hiện diện đích thực của Chúa. Chúng con sẽ luôn khát khao sự gần gũi của Chúa, là Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin mở mắt con ra để con thấy Chúa ngay trong đau khổ, trong cái chết, trong cái kết thúc không phải là một chung cuộc thực sự.
Xin khuấy động lòng tự mãn của con bằng thập giá Chúa: xin đừng để con buồn ngủ.
Xin thách thức con luôn luôn bằng mầu nhiệm khuấy động của Chúa, là điều vượt qua được cái chết và mang lại sự sống.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ MƯỜI BA
Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thánh giá
Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thánh giá
Sau đó, ông Giuse, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Giuse này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do Thái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giuse đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu vào ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do Thái. (Ga 19: 38-40).
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa còn đó, trên cây thập tự. Một con người bằng xương bằng thịt, với tất cả sự yếu đuối của mình, và tất cả nỗi sợ hãi của mình. Chúa đau khổ đến mức nào! Đó là một cảnh không thể chịu đựng nổi, có lẽ bởi vì nó quá khủng khiếp trong bản tính nhân loại. Từ này chính là từ khóa giải mã cuộc hành trình của Chúa, đầy những đau khổ và mệt mỏi. Chính nhân tính của Chúa là điều chúng con thường quên nhìn nhận nơi Chúa và quên tìm kiếm trong chính chúng con và trong những người khác, vì tất cả chúng con đều bị cuốn vào một cuộc sống nhanh hơn bao giờ, mù quáng và điếc lác trước những khó khăn và nỗi đau của những người khác hơn bao giờ.
Lạy Chúa Giêsu, con hình dung ra Chúa giờ đây không còn trên cây thập tự đó nữa. Chúa đã trở lại từ nơi Chúa đến, được đặt trên lòng đất, trên lòng mẹ Chúa. Sự đau khổ bây giờ đã qua, đã biến mất. Lúc này là giờ của lòng thương xót. Cơ thể không còn sức sống của Chúa tiếp tục nói lên sức mạnh của Chúa khi phải đối diện với đau khổ; ý nghĩa Chúa trao ban được phản chiếu trong con mắt của những người vẫn còn ở bên Chúa và sẽ luôn luôn ở lại đó trong tình yêu, trao ban và nhận lãnh. Trước Chúa và trước chúng con, đang mở ra một cuộc sống mới, cuộc sống thiên đàng, được đánh dấu bởi một điều chống lại cái chết và không thể bị phá hủy bởi cái chết: đó là tình yêu. Chúa ở đây cùng với chúng con mọi lúc, trong mỗi bước đi, trong mọi bất định, trong mọi bóng tối. Khi bóng tối của ngôi mộ đổ dài trên cơ thể Chúa, được giữ trong vòng tay mẹ Chúa, con thấy Chúa và con sợ, nhưng con không thất vọng. Con tin rằng ánh sáng, ánh sáng của Chúa, sẽ lại tỏa sáng một lần nữa.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin giữ cho sống mãi trong chúng con niềm hy vọng và niềm tin vào tình yêu vô điều kiện của Chúa.
Xin cho chúng con có thể tiếp tục tiến bước, xin cho trái tim chúng con bừng cháy, để chúng con dán mắt về ơn cứu rỗi đời đời, và do đó tìm thấy sự thanh thản và bình an trong hành trình của chúng con.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
CHẶNG THỨ MƯỜI BỐN
Táng xác Chúa Giêsu trong mồ
Táng xác Chúa Giêsu trong mồ
Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do Thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó. (Ga 19: 41-42).
SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, con không còn thấy Chúa nữa, nay tất cả đều tối tăm. Những bóng dài đang đổ xuống ngọn đồi, và những ánh đèn Shabbat đang thắp sáng Giêrusalem, bên ngoài và bên trong những ngôi nhà. Những ánh đèn cố chống lại cảnh thâm u khi những cánh cổng trời đã đóng chặt lại: cảnh hoang vu này là vì ai? Ai có thể ngủ vào một đêm như thế này? Thành phố đầy những âm thanh của trẻ con đang khóc ré lên, cùng với tiếng ru trấn an của các bà mẹ, và tiếng của đám lính tuần tiễu trên đường. Ngày sắp tắt và Chúa đang ngủ. Chúa đang ngủ sao? Và trên giường nào? Cái chăn nào che dấu Chúa khỏi thế giới này?
Từ xa, ông Giuse người xứ Arimathea, người đã dõi theo các bước chân Chúa, và giờ đây, với những bước đi lặng lẽ, đang đồng hành cùng Chúa trong giấc ngủ của Người, kéo Chúa ra khỏi cái nhìn chằm chằm của những kẻ lòng đầy phẫn nộ và độc ác. Một tấm chăn bao phủ Chúa trong cái lạnh lùng của sự chết và làm khô đi những giọt máu, mồ hôi và nước mắt của Chúa. Từ trên thập giá Chúa được nhẹ nhàng đưa xuống. Ông Giuse vác Chúa trên vai, nhưng Chúa rất nhẹ: Chúa không còn mang gánh nặng của cái chết, của hận thù và giận dữ. Chúa ngủ như đang nằm trên rơm ấm khi Chúa được bọc trong khăn liệm và một ông Giuse khác giữ Chúa trong vòng tay của mình. Như khi xưa đã từng không có phòng cho Chúa [khi Chúa chào đời], ngày nay cũng không có chỗ cho Chúa, nên giờ đây Chúa đã không có nơi để gối đầu. Tuy nhiên trên đồi Calvê, trên cái cổ chết cứng của thế giới này, có một khu vườn chưa chôn cất ai bao giờ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đi đâu? Chúa đã xuống nơi nào, nếu không phải là những chiều sâu thẳm? Chúa đã xuống đâu nếu không phải một nơi chưa động đến được, trong một nhà tù thậm chí còn kiên cố hơn? Chúa bị bắt trong những bẫy rập của chúng con, bị giam trong nỗi buồn của chúng con. Như chúng con, Chúa đã bước đi trên mặt đất này, và bây giờ, như chúng con, dưới lòng đất, Chúa có một chỗ cho mình.
Con muốn chạy xa, nhưng Chúa ở đó trong con. Con không cần phải ra ngoài để tìm Chúa, bởi vì Chúa đang gõ cửa nhà con.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Đấng đã tỏ mình ra không phải trong vinh quang nhưng trong im lặng của một đêm đen. Lạy Chúa, là Đấng không nhìn bề mặt bên ngoài, nhưng trong bí mật, khi bước vào những chiều sâu thẳm.
Từ những sâu thẳm ấy, xin hãy lắng nghe tiếng nói của chúng con: xin cho chúng con, trong sự mệt nhọc, có thể tìm thấy sự nghỉ ngơi trong Chúa, nhìn thấy trong Chúa bản chất của chúng con, và trong tình yêu của khuôn mặt đang ngủ của Chúa, xin cho chúng con tìm lại được vẻ đẹp chúng con đã đánh mất.
Lạy Cha chúng con ở trên trời …
Đức Cha Guo bị bắt lần thứ hai trong Tuần Thánh 2018
Vũ Văn An
23:56 30/03/2018
Như đã biết ngày 26 tháng Ba, 2018, Đức Cha Vincent Guo Xijin của Giáo Phận Mindong, Trung Hoa, đã bị bắt vì đã không chịu đồng tế Thánh Lễ Truyền Dầu với giám mục “quốc doanh” Zhan Silu. Một ngày sau, Đức Cha được thả tự do, nhưng bị cấm không được cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu trong tư cách giám mục, vì tư cách này không được Nhà Nước Cộng Sản Trung Hoa nhìn nhận.
Theo Yanan Wang của Associated Press, Trong Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh, Đức Cha Guo nói với giáo dân của ngài hãy can đảm và giữ vững đức tin . Ngài nói: “Đầy an ủi và trông cậy, chúng ta được linh hứng để đương đầu một cách can đảm hơn với các cuộc chiến đấu và dâng tình yêu của chúng ta lên Thiên Chúa”.
Sau đó không lâu, cảnh sát lại đã đến và lần thứ hai trong Tuần Thánh, họ lại bắt Đức Cha Guo đem đi để, theo lời họ, “nghỉ mát”, một kiểu nói ở Trung Hoa để chỉ việc bị buộc phải vắng mặt.
Thành thử ngôi nhà thờ hai tháp ở Saiqi, Mindong, vào hôm thứ Sáu Tuần Thánh hôm qua chật ních khoảng hơn 1 ngàn giáo dân Công Giáo trong nghi thức tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Qua Đời của Chúa Giêsu, nhưng vị giám mục chăm sóc họ không cùng hiện diện với họ.
Ngài vốn ở tâm điểm cuộc thương thảo đang diễn ra giữa Vatican và Nhà Nước Cộng Sản Trung Hoa về việc bổ nhiệm giám mục tại Trung Hoa.
Trong nhiều năm, người Công Giáo Trung Hoa vốn chia rẽ giữa những người tham dự các nhà thờ do nhà nước kiểm soát và những người tham dự các nhà thờ tùng phục Đức Giáo Hoàng. Đức Cha Guo là 1 trong các vị gám mục lãnh đạo lớp người sau.
Theo thỏa thuận đang được thương thảo, Vatican được chờ mong sẽ nhìn nhận 7 giám mục do Bắc Kinh bổ nhiệm mà không có sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng, và Đức Cha Guo và 1 vị giám mục “hầm trú” khác sẽ phải nhường chức bản quyền.
Những người ủng hộ thỏa thuận, như Đức Hồng Y John Tong, cựu Tổng Giám Mục Hồng Kông, cho rằng thỏa thuận này sẽ giúp Tòa Thánh đạt được mục tiêu lâu dài của mình là đặt tất cả 12 triệu người Công Giáo Trung Hoa dưới quyền của Đức Giáo Hoàng.
Nhiều người khác, như Đức Hồng Y Joseph Zen, cựu Tổng Giám Mục Hồng Kông trước Đức Hồng Y John Tong, thì tố cáo Tòa Thánh bán đứng những người trung thành với mình cho chế độ độc tài.
Việc bắt giam Đức Cha Guo nhắc cho người ta nhớ rằng quyền lực nhà nước luôn tìm cách buộc người ta phải trung thành với đảng cầm quyền.
Nó cũng làm nổi bật sự kiện các cuộc luận nghị ở cấp cao của những vị ở kinh thành Vatican tráng lệ và toà nhà kín cổng cao tường ở Bắc Kinh có ảnh hưởng như thế nào đối với những người thấp cổ bé miệng ở những nơi xa xôi hẻo lánh như miền quê Saiqi của Mindong.
Nhà thờ của Đức Cha Guo ở trên một ngọn đồi nhìn xuống những con phố ngoằn ngoèo gồm những tiệm hớt tóc và bán mì nóng. Các giáo dân cho hay họ không biết nên mong chờ gì ở một thỏa thuận mà họ chỉ dám thảo luận bằng cách rỉ tai trong những buổi lễ sáng chiều.
Họ nói rằng đã nhiều thập niên qua, họ được yên ổn thực hành đạo dù luôn bị nhà nước theo dõi. Việc này không luôn được như thế.
Câu truyện về thời kỳ đen tối của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông được kể đi kể lại cho giới trẻ trong giáo phận của Đức Cha Guo. Họ được nghe các câu truyện của thân nhân cao tuổi bị đốt hết Kinh Sách, bị giễu hành ở đường phố trong các buổi bêu xấu công khai hoặc bị bắt đi lao động phương xa.
Huang Weiping, 37 tuổi, chủ một tiệm bán tràng hạt và ảnh tượng, nói rằng “thế hệ ấy phải kinh qua nhiều chuyện”.
Anh cho hay thân nhân của anh, Đức Cha Huang Shoucheng, tiền nhiệm của Đức Cha Guo, đã phải sống nhiều năm ở trong tù.
Lin Qigua, một giáo dân 55 tuổi, nói rằng lấp hố chia rẽ giữa giáo hội chính thức và giáo hội hầm trú rất khó khăn. Theo ông “cha mẹ chúng tôi luôn nói với chúng tôi rằng Giáo Hội Công Giáo phát xuất từ Rôma, rồi bỗng nhiên Đảng Cộng Sản cho ra đời một giáo hội riêng của họ. Rõ ràng có sự kình chống ở đây, không đúng sao? Cha ông chúng tôi đã hy sinh quá nhiều, chả lẽ máu họ vô ích sao?”
Trong một hội nghị gần đây, Giáo Hội Trung Hoa do nhà nước bảo trợ đã nhấn mạnh tới việc phải độc lập đối với Vatican và phải tự “Trung Hoa hóa”, nghĩa là chấp nhận quyền lãnh đạo của Đảng và bác bỏ liên kết với người ngoài.
Một giới chức Vatican, dấu tên vì không được phép tiết lộ nội dung các cuộc đàm phán với Trung Hoa, thừa nhận thỏa thuận có thể có những điểm tiêu cực, như việc hạn chế các hoạt động của Tòa Thánh tại Trung Hoa và nhường quyền bổ nhiệm các giám mục cho Bắc Kinh, Đức Giáo Hoàng cùng lắm chỉ có quyền phủ quyết.
Associated Press cho rằng cơ quan Tôn Giáo Vụ của Nhà Nước từ khước, không trả lời phỏng vấn của họ.
Cha Peng Zhenkang, một linh mục thuộc giáo phận của Đức Cha Guo, cho hay: từ thập niên 1990, các nhà thờ hầm trú thường xuyên tiếp xúc với các nhà cầm quyền Trung Hoa và các giới cầm quyền thậm chí còn yêu cầu Giáo Hội giúp giải quyết các tranh chấp địa phương. Ngài nói: “Các dân làng ở đây lắng nghe hàng giáo sĩ”. Ngài bảo: Đức Cha Guo thường bị bắt giam trong những thời kỳ “nhậy cảm” và Đức Cha không chống cự. Theo Cha, lần này, việc đức cha bị đem đi chắc chắn có liên quan tới các cuộc đàm phán của Vatican.
Hôm Thứ Năm Tuần Thánh, liên lạc được bằng điện thọai, vị linh mục cùng bị bắt với Đức Cha Guo, cho hay hai vị vừa rời xe lửa tại Xiamen, một thành phố cách Saiqi hơn 255 kilômét.
“Không tiện để Đức Cha nói chuyện lúc này. Xin lỗi!” Cha Xu Wenning nói thế trước khi gác máy.
Giới chức Tòa Thánh thì cho hay: với thoả thuận, Đức Cha Guo sẽ trở thành Giám Mục Phụ Tá cho giám mục chính thức, được nhà nước nhìn nhận là Zhan Silu, nhưng vẫn lãnh đạo các giáo dân mà hiện ngài đang lãnh đạo. Giới chức này cho hay Đức Cha Guo đồng ý sự sắp xếp này.
Nhà lãnh đạo được Vatican bổ nhiệm khác cũng chịu ảnh hưởng bởi thỏa thuận này là Đức Cha Zhuang Jianjian, 88 tuổi, đứng đầu một giáo phận vùng quê ở Quảng Đông có ngôi nhà thờ xây bằng vữa hơn 100 năm nay.
Đức Cha Zhuang được mô tả là một cột trụ của các cộng đồng Công Giáo thuộc vùng Jiexi. Giáo dân trong giáo phận cho hay: hàng nhiều thập niên qua, ngài đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ Công Giáo và ban bí tích cho rất nhiều trẻ sơ sinh và vợ chồng mới cưới, người chết hay đang hấp hối.
Đức Cha từ chối, không tiếp các nhà báo ở bên ngoài nhà thờ chính tòa. Đức Cha nhỏ nhẹ nói “xin lỗi” rồi cúi đầu chào.
Dù nhiều giáo dân tỏ lòng ngưỡng mộ lòng đại lượng và sự tận tụy của ngài, không ai chắc chắn sẽ phản đối việc ngài ra đi nếu Vatican truyền lệnh.
Huang Q.L., một hậu duệ của 3 thế hệ Công Giáo có tranh ảnh vẽ chuyện Thánh Kinh ở gian giữa nhà thờ, nói rằng “Chúng tôi sẽ bám lấy giáo hội bất kể các cuộc thương thuyết đi theo hướng nào. Chúng tôi hết thẩy đã cảm nghiệm đức tin một cách sâu xa”.
Người được đề nghị thay thế Đức Cha Zhang là giám mục Huang Bingzhang, người được Bắc Kinh bổ nhiệm năm 2011 nhưng không được Tòa Thánh chấp thuận. Như trên đã nói, Đức Cha Zhuang từ chối phỏng vấn.
Một trong các linh mục của ngài, Cha Xu Jihua, nói rằng ngài mong giám mục Huang được Tòa Thánh tấn phong. Ngài cho rằng chấm dứt các chia rẽ giữa Vatican và Bắc Kinh sẽ tốt cho người Công Giáo khắp Trung Hoa. Ngài bảo: “Không ai hy vọng sống đức tin dưới các điều kiện bất thường hiện nay”.
Theo Yanan Wang của Associated Press, Trong Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh, Đức Cha Guo nói với giáo dân của ngài hãy can đảm và giữ vững đức tin . Ngài nói: “Đầy an ủi và trông cậy, chúng ta được linh hứng để đương đầu một cách can đảm hơn với các cuộc chiến đấu và dâng tình yêu của chúng ta lên Thiên Chúa”.
Sau đó không lâu, cảnh sát lại đã đến và lần thứ hai trong Tuần Thánh, họ lại bắt Đức Cha Guo đem đi để, theo lời họ, “nghỉ mát”, một kiểu nói ở Trung Hoa để chỉ việc bị buộc phải vắng mặt.
Thành thử ngôi nhà thờ hai tháp ở Saiqi, Mindong, vào hôm thứ Sáu Tuần Thánh hôm qua chật ních khoảng hơn 1 ngàn giáo dân Công Giáo trong nghi thức tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Qua Đời của Chúa Giêsu, nhưng vị giám mục chăm sóc họ không cùng hiện diện với họ.
Ngài vốn ở tâm điểm cuộc thương thảo đang diễn ra giữa Vatican và Nhà Nước Cộng Sản Trung Hoa về việc bổ nhiệm giám mục tại Trung Hoa.
Trong nhiều năm, người Công Giáo Trung Hoa vốn chia rẽ giữa những người tham dự các nhà thờ do nhà nước kiểm soát và những người tham dự các nhà thờ tùng phục Đức Giáo Hoàng. Đức Cha Guo là 1 trong các vị gám mục lãnh đạo lớp người sau.
Theo thỏa thuận đang được thương thảo, Vatican được chờ mong sẽ nhìn nhận 7 giám mục do Bắc Kinh bổ nhiệm mà không có sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng, và Đức Cha Guo và 1 vị giám mục “hầm trú” khác sẽ phải nhường chức bản quyền.
Những người ủng hộ thỏa thuận, như Đức Hồng Y John Tong, cựu Tổng Giám Mục Hồng Kông, cho rằng thỏa thuận này sẽ giúp Tòa Thánh đạt được mục tiêu lâu dài của mình là đặt tất cả 12 triệu người Công Giáo Trung Hoa dưới quyền của Đức Giáo Hoàng.
Nhiều người khác, như Đức Hồng Y Joseph Zen, cựu Tổng Giám Mục Hồng Kông trước Đức Hồng Y John Tong, thì tố cáo Tòa Thánh bán đứng những người trung thành với mình cho chế độ độc tài.
Việc bắt giam Đức Cha Guo nhắc cho người ta nhớ rằng quyền lực nhà nước luôn tìm cách buộc người ta phải trung thành với đảng cầm quyền.
Nó cũng làm nổi bật sự kiện các cuộc luận nghị ở cấp cao của những vị ở kinh thành Vatican tráng lệ và toà nhà kín cổng cao tường ở Bắc Kinh có ảnh hưởng như thế nào đối với những người thấp cổ bé miệng ở những nơi xa xôi hẻo lánh như miền quê Saiqi của Mindong.
Nhà thờ của Đức Cha Guo ở trên một ngọn đồi nhìn xuống những con phố ngoằn ngoèo gồm những tiệm hớt tóc và bán mì nóng. Các giáo dân cho hay họ không biết nên mong chờ gì ở một thỏa thuận mà họ chỉ dám thảo luận bằng cách rỉ tai trong những buổi lễ sáng chiều.
Họ nói rằng đã nhiều thập niên qua, họ được yên ổn thực hành đạo dù luôn bị nhà nước theo dõi. Việc này không luôn được như thế.
Câu truyện về thời kỳ đen tối của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông được kể đi kể lại cho giới trẻ trong giáo phận của Đức Cha Guo. Họ được nghe các câu truyện của thân nhân cao tuổi bị đốt hết Kinh Sách, bị giễu hành ở đường phố trong các buổi bêu xấu công khai hoặc bị bắt đi lao động phương xa.
Huang Weiping, 37 tuổi, chủ một tiệm bán tràng hạt và ảnh tượng, nói rằng “thế hệ ấy phải kinh qua nhiều chuyện”.
Anh cho hay thân nhân của anh, Đức Cha Huang Shoucheng, tiền nhiệm của Đức Cha Guo, đã phải sống nhiều năm ở trong tù.
Lin Qigua, một giáo dân 55 tuổi, nói rằng lấp hố chia rẽ giữa giáo hội chính thức và giáo hội hầm trú rất khó khăn. Theo ông “cha mẹ chúng tôi luôn nói với chúng tôi rằng Giáo Hội Công Giáo phát xuất từ Rôma, rồi bỗng nhiên Đảng Cộng Sản cho ra đời một giáo hội riêng của họ. Rõ ràng có sự kình chống ở đây, không đúng sao? Cha ông chúng tôi đã hy sinh quá nhiều, chả lẽ máu họ vô ích sao?”
Trong một hội nghị gần đây, Giáo Hội Trung Hoa do nhà nước bảo trợ đã nhấn mạnh tới việc phải độc lập đối với Vatican và phải tự “Trung Hoa hóa”, nghĩa là chấp nhận quyền lãnh đạo của Đảng và bác bỏ liên kết với người ngoài.
Một giới chức Vatican, dấu tên vì không được phép tiết lộ nội dung các cuộc đàm phán với Trung Hoa, thừa nhận thỏa thuận có thể có những điểm tiêu cực, như việc hạn chế các hoạt động của Tòa Thánh tại Trung Hoa và nhường quyền bổ nhiệm các giám mục cho Bắc Kinh, Đức Giáo Hoàng cùng lắm chỉ có quyền phủ quyết.
Associated Press cho rằng cơ quan Tôn Giáo Vụ của Nhà Nước từ khước, không trả lời phỏng vấn của họ.
Cha Peng Zhenkang, một linh mục thuộc giáo phận của Đức Cha Guo, cho hay: từ thập niên 1990, các nhà thờ hầm trú thường xuyên tiếp xúc với các nhà cầm quyền Trung Hoa và các giới cầm quyền thậm chí còn yêu cầu Giáo Hội giúp giải quyết các tranh chấp địa phương. Ngài nói: “Các dân làng ở đây lắng nghe hàng giáo sĩ”. Ngài bảo: Đức Cha Guo thường bị bắt giam trong những thời kỳ “nhậy cảm” và Đức Cha không chống cự. Theo Cha, lần này, việc đức cha bị đem đi chắc chắn có liên quan tới các cuộc đàm phán của Vatican.
Hôm Thứ Năm Tuần Thánh, liên lạc được bằng điện thọai, vị linh mục cùng bị bắt với Đức Cha Guo, cho hay hai vị vừa rời xe lửa tại Xiamen, một thành phố cách Saiqi hơn 255 kilômét.
“Không tiện để Đức Cha nói chuyện lúc này. Xin lỗi!” Cha Xu Wenning nói thế trước khi gác máy.
Giới chức Tòa Thánh thì cho hay: với thoả thuận, Đức Cha Guo sẽ trở thành Giám Mục Phụ Tá cho giám mục chính thức, được nhà nước nhìn nhận là Zhan Silu, nhưng vẫn lãnh đạo các giáo dân mà hiện ngài đang lãnh đạo. Giới chức này cho hay Đức Cha Guo đồng ý sự sắp xếp này.
Nhà lãnh đạo được Vatican bổ nhiệm khác cũng chịu ảnh hưởng bởi thỏa thuận này là Đức Cha Zhuang Jianjian, 88 tuổi, đứng đầu một giáo phận vùng quê ở Quảng Đông có ngôi nhà thờ xây bằng vữa hơn 100 năm nay.
Đức Cha Zhuang được mô tả là một cột trụ của các cộng đồng Công Giáo thuộc vùng Jiexi. Giáo dân trong giáo phận cho hay: hàng nhiều thập niên qua, ngài đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ Công Giáo và ban bí tích cho rất nhiều trẻ sơ sinh và vợ chồng mới cưới, người chết hay đang hấp hối.
Đức Cha từ chối, không tiếp các nhà báo ở bên ngoài nhà thờ chính tòa. Đức Cha nhỏ nhẹ nói “xin lỗi” rồi cúi đầu chào.
Dù nhiều giáo dân tỏ lòng ngưỡng mộ lòng đại lượng và sự tận tụy của ngài, không ai chắc chắn sẽ phản đối việc ngài ra đi nếu Vatican truyền lệnh.
Huang Q.L., một hậu duệ của 3 thế hệ Công Giáo có tranh ảnh vẽ chuyện Thánh Kinh ở gian giữa nhà thờ, nói rằng “Chúng tôi sẽ bám lấy giáo hội bất kể các cuộc thương thuyết đi theo hướng nào. Chúng tôi hết thẩy đã cảm nghiệm đức tin một cách sâu xa”.
Người được đề nghị thay thế Đức Cha Zhang là giám mục Huang Bingzhang, người được Bắc Kinh bổ nhiệm năm 2011 nhưng không được Tòa Thánh chấp thuận. Như trên đã nói, Đức Cha Zhuang từ chối phỏng vấn.
Một trong các linh mục của ngài, Cha Xu Jihua, nói rằng ngài mong giám mục Huang được Tòa Thánh tấn phong. Ngài cho rằng chấm dứt các chia rẽ giữa Vatican và Bắc Kinh sẽ tốt cho người Công Giáo khắp Trung Hoa. Ngài bảo: “Không ai hy vọng sống đức tin dưới các điều kiện bất thường hiện nay”.