Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật 10/04/2016
VietCatholic Network
16:26 10/04/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Buổi tiếp kiến chung đặc biệt thứ Bẩy 09 tháng Tư
Và Buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng Chúa Nhật 10 tháng Tư
1. Buổi tiếp kiến chung đặc biệt thứ Bẩy 09 tháng Tư
Trong buổi tiếp kiến chung đặc biệt thứ Bẩy 09 tháng Tư, Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu quảng đại làm phúc cho người nghèo với lòng yêu mến, chứ đừng làm phúc để được người đời ca ngợi, ngưỡng mộ.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Bẩy, 9 tháng Tư, dành cho hơn 50 ngàn tín hữu hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Đây là buổi tiếp kiến chung ngài thực hiện thêm mỗi tháng 1 lần vào sáng thứ Bẩy, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Trong bài huấn giáo, Đức Thánh Cha nói về đề tài “Lòng thương xót và việc làm phúc”. Ngài giải thích rằng trong tiếng Hy Lạp, elemosina có nghĩa là từ bi thương xót. Việc làm phúc bao gồm tất cả sự phong phú của lòng từ bi thương xót. Và cũng như lòng thương xót có hàng ngàn con đường và cách thức khác nhau, việc làm phúc cũng được biểu lộ qua rất nhiều cách thức, để thoa dịu nỗi cơ cực của những người ở trong tình trạng túng quẫn.
Đức Thánh Cha đã nhắc đến tầm quan trọng của việc làm phúc trong Kinh Thánh. Ngài nói:
Hy tế và làm phúc là hai nghĩa vụ mà người đạo đức phải làm; như tấm gương của cụ già Tobia, sau khi nhận được một số tiền lớn, đã gọi con đến và dặn dò hãy làm phúc giúp đỡ những người nghèo.
Ngài nói thêm rằng: “Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một giáo huấn không thể thay thế được về việc làm phúc. Trước tiên, Chúa yêu cầu chúng ta đừng làm phúc để được người đời ca ngợi và ngưỡng mộ lòng quảng đại của chúng ta. Vẻ bề ngoài không đáng kể, nhưng là khả năng dừng lại để nhìn tận mặt người xin giúp đỡ. Vì thế chúng ta không được đồng hóa việc làm phúc với đồng tiền cho đi một cách vội vã, không thèm nhìn người và không dừng lại để nói chuyển, và hiểu rõ điều mà người nghèo thực sự cần. Đồng thời chúng ta phải phân biệt giữa người nghèo và những hình thức hành khất khác nhau không mưu ích cho người nghèo đích thực.
Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Tóm lại làm phúc là một cử chỉ yêu thương đối với những người chúng ta gặp; đó là một cử chỉ chân thành quan tâm đến với những người tới gần chúng ta và xin giúp đỡ. Sự giúp đỡ ấy được thực hiện trong âm thầm, nơi mà chỉ có Thiên Chúa thấy và hiểu giá trị của hành vi đã làm. Vậy chúng ta hãy đón nhận lời thánh Phaolô Tông Đồ: “Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh chị em thấy rằng những người yếu cần được giúp đỡ bằng cách làm việc như thế, nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: Cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận lãnh!”
2. Chúng ta hãy thông truyền sức mạnh của Chúa Phục Sinh
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật, ngày 10 tháng Tư, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Đức Kitô thực sự đã phục sinh! Sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh làm biến đổi tất cả. Ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng ca vang lời loan báo chan chứa niềm vui ấy.
Đức Thánh Cha nói:
“Tin Mừng ngày hôm nay thuật lại lần hiện ra thứ ba của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ, bên bờ biển hồ Galilea, với sự khắc họa của mẻ cá lạ (Ga 21, 1-9). Trình thuật Tin Mừng được lồng ghép vào bối cảnh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của các môn đệ. Họ đã trở về quê quán, trở về với công việc đánh cá sau những ngày buồn thảm thê lương với cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu. Các môn đệ cảm thấy thật khó để có thể hiểu những gì vừa mới xảy ra. Trong khi tất cả dường như đã đặt dấu chấm hết, thì một lần nữa, Đức Giêsu lại ‘đi tìm’ các môn đệ của mình. Lần này, Ngài gặp các ông ở gần biển hồ. Các ông đã trải qua một đêm vất vả trên thuyền nhưng không bắt được gì cả. Những tấm lưới trống không, trong một ý nghĩa nào đó, giống như một sự lượng định về kinh nghiệm của các môn đệ với Thầy Giêsu: các ông đã gặp Giêsu, đã bỏ tất cả mọi sự để theo Người, đầy tràn hăng say và hy vọng… nhưng cuối cùng thì sao? Các ông đã thấy thầy sống lại nhưng sau đó lại nghĩ rằng: ‘Thầy đến nhưng rồi thầy cũng sẽ bỏ chúng ta … Mọi chuyện chỉ như một giấc mơ.’
Trong ánh bình minh ló dạng phía chân trời, Đức Giêsu đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (câu 4). Ngài nói với những chàng ngư phủ đang mệt mỏi và thất vọng ấy: ‘Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá’ (câu 6). Các ông đã tin và kết quả là có một mẻ cả dư đầy đến không thể tưởng tượng được. Ngay khi khi nhìn thấy mẻ cá ấy, Gioan nói với Phê-rô: ‘Chúa đó!’ (câu 7). Ngay lập tức, Phê-rô nhảy xuống biển và bơi vào bờ, đến với Đức Giêsu. Lời tuyên bố: ‘Chúa đó!’ chứa đựng tất cả mọi nhiệt huyết, hăng say của niềm tin tưởng phục sinh, tràn đầy niềm vui và ngỡ ngàng sung sướng. Điều ấy hoàn toàn đối lập với sự mất mát đau thương, với sự thất bại, bất lực đang chất chưa nơi tâm hồn của các môn đệ. Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh làm biến đổi tất cả: Ánh sáng đã chiến thắng bóng tối, công việc đánh cá cả đêm tưởng chừng như vô ích nhưng lại trổ sinh hoa trái và chất chứa đầy hứa hẹn, sự mệt mỏi và cảm thấy bị bỏ rơi đã nhường chỗ cho một thôi thúc mới và cho một xác tín rằng Đức Giêsu đang ở với chúng ta.
Kể từ đó, chính tình cảm này đã không ngừng thôi thúc Giáo Hội, thôi thúc Cộng Đoàn của Chúa Phục Sinh. Nếu thoạt nhìn chúng ta có thể cho rằng có đôi khi những tăm tối của sự dữ và nỗi vất vả của cuộc sống hằng ngày dường như chiếm ưu thế, nhưng Giáo Hội xác tín rằng Đức Giêsu đã chiếu ánh sáng phục sinh vĩnh cửu trên những ai bước theo Ngài. Lời loan báo trọng đại về sự phục sinh thấm nhuần nơi tâm hồn các tín hữu một niềm vui sâu xa và một ánh lửa hy vọng không bao giờ tắt. Đức Kitô thực sự đã phục sinh! Ngay cả ngày hôm nay, Giáo Hội cũng không ngừng ca vang lời loan báo chan chứa niềm vui này. Niềm vui và sự hy vọng tiếp tục tuôn chảy trong những con tim, trên gương mặt và trong từng lời nói, cử chỉ. Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, được mời gọi thông truyền sứ điệp phục sinh đến tất cả những ai mà chúng ta gặp gỡ, đặc biệt là những người đang đau khổ, cô đơn; những người đang phải sống trong những điều kiện không an toàn, những bệnh nhân và những người bị gạt ra bên lề của xã hội. Chúng ta hãy làm cho ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh chiếu rọi đến hết mọi người một dấu chỉ về quyền năng thương xót của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa đổi mới nơi chúng ra đức tin phục sinh. Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức hơn về sứ mạng của chúng ta là ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ anh chị em. Xin Chúa đổ đầy tâm hồn chúng ta Thần Khí, với lời chuyển cầu của Mẹ Maria, để cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta loan truyền sự vĩ đại của tình yêu Thiên Chúa và sự giàu có phong nhiêu nơi lòng thương xót của Ngài.”
Sau Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.
Đức Thánh Cha cũng nói thêm: “Trong niềm hy vọng vào Đức Kitô Phục Sinh, một lần nữa tôi tái kêu gọi tự do cho tất cả những ai đang bị bắt bớ trong những khu vực xung đột vũ trang. Tôi tha thiết kêu gọi và cầu nguyện cách đặc biệt cho linh mục Tom Uzhunnalil, thuộc dòng Don Bosco, đã bị bắt cóc ở Aden, Yemen hôm 04.03 vừa qua.
Hôm nay ở Italia, người ta cũng mừng kỷ niệm Đại học Công Giáo Thánh Tâm với chủ đề: ‘Trong một nước Ý của ngày mai, tôi sẽ ở đó.’ Tôi hy vọng rằng trường đại học lớn này tiếp tục thực hiện vai trò phục vụ quan trọng của mình đối với giới trẻ Italia, tiếp tục làm mới lại cam kết dấn thân của mình trong sứ mạng giáo dục và ngày càng cập nhật hơn nữa những nhu cầu của thời đại.”
Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc mọi người ngày Chúa Nhật an lành và cũng xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Nhận Giáo Phận Lạng Sơn –Cao Bằng của Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri
Toma Trương Văn Ân
11:41 10/04/2016
Lễ Nhận Giáo Phận Lạng Sơn –Cao Bằng của Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri
Lúc 9 giờ 30 sáng 9. 4. 2016, đoàn đón rước Đức Cha Giuse của Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng từ Hà Nội về đến nhà Thờ Chính Tòa. Cộng đoàn Giáo phận Lạng Sơn- Cao bằng, Thân nhân, Ân nhân, khoảng 300 Giáo dân Giáo phận Đà Nẵng và Khách mời, đứng hai bên đường làm hàng chào danh dự, từ cổng vào đến nhà thờ, hân hoan chào đón Đức Cha Giuse – Tân Giám mục Giáo phận.
Xem Hình
Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Đà Nẵng – Nguyên Giám mục Lạng Sơn Cao Bằng và Linh mục đoàn Gp Lạng Sơn Cao Bằng đã tặng vòng hoa, trao hôn bình an …rất cảm động. Đi ngang đội kèn chào mừng, Đức Tân Giám mục rất vui, dừng lại ít phút, tay nhẹ nhàng đánh nhịp, làm tăng thêm niềm vui chung và sự động viên cho đội kèn của Giáo phận. Con cái Giáo phận Đà Nẵng mến thương Ngài, tuôn ra vây quanh người Cha yêu quí.
Tiếp đó, Đức Cha Giuse và đoàn tháp tùng tiến đến Cửa Năm Thánh, Ngài quì cầu nguyện ít phút, trước khi Ngài tiến vào trước Cung Thánh cầu nguyện. Cầu nguyện xong, Ngài trở về Tòa Giám mục ( bên cạnh nhà thờ Chính Tòa ).
Đúng 10 giờ, đoàn rước trọng thể từ TGM đến nhà thờ Chính Tòa gồm: Thánh Giá đèn hầu, đội trống, đoàn khách Giáo phận Đà Nẵng, đội kèn, Quý Tu sĩ, Sách Tin Mừng, 8 Vị Đại diện các thành phần Dân Chúa của Giáo phận thần phục Đức Tân Giám mục, hơn 50 Cha đồng tế, 25 Đức Giám Mục của Hội Đồng Giám mục Việt nam và Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam. Đức Hồng Y TGM – Tổng Giáo phận Hà Nội Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn Chủ sự Nghi Lễ nhận Giáo phận đi cuối đoàn rước.
Khi Đức HY TGM vào đến cửa nhà thờ, Linh mục Chưởng nghi mời gọi cộng đoàn hiện diện hướng về cuối nhà thờ. Tại đây Đức HY giới thiệu Đức Cha Giuse cho Cha Niên trưởng Ban Tư vấn và cộng đoàn Giáo phận, Ngài đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô bổ nhiệm làm Tân Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng.
Cha Niên trưởng ôm hôn Đức Cha Giuse và thân thưa: “ Chúng con hết lòng cám ơn Đức HY, trong tư cách là Tổng Giám mục Tổng Giáo phận nhà, đã giới thiệu Đức Tân Giám mục Gp Lạng Sơn – Cao bằng cho chúng con “
Tiến lên Cung thánh, sau khi làm dấu Thánh Giá và chào bình an, ĐHY hỏi và mời Đức Cha Giuse trình và đọc Tông Sắc bổ nhiệm. Đức Cha Giuse đã trao Tông Sắc cho Cha Nguyên ( đại diện Ngài) tiến đến thư đài, đọc Tông Sắc của Đức Thánh Cha bổ nhiệm Ngài, một niềm vui mừng cao độ đến với cộng đoàn.
Tiếp đó, Đức Cha Giuse quỳ trước Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha, Đức TGM Px Lê Văn Hồng và ĐC Giuse Nguyễn Chí Linh Đại diện Hội Đồng Giám mục Việt Nam, ngay trước Bàn thờ: Ngài Tuyên xưng Đức Tin trong: Kinh Tin Kính, Chân lý trong Lời Chúa, những điều Giáo Hội dạy ….và hứa trung thành với Giáo Hội, vâng phục Đức Thánh Cha, thừa nhận tuân phục Đại diện Giáo Hoàng, chăm lo giảng dạy, thánh hóa đoàn Dân Chúa, duy trì hiệp nhất, bảo vệ kho tàng Đức Tin Giáo Hội mà các Tông Đồ truyền lại…..tỏ lòng phụ tử với đoàn Dân Chúa, hứa sống thánh thiện, chu toàn trách vụ, bảo vệ kỷ luật Giáo Hội, tuân giữ Giáo luật, cử hành các Bí Tích….Ngài tỏ tình đặc biệt đến Tu sĩ nam nữ, chuyên chăm cầu nguyện và chăm lo công trình truyền Giáo. Ngài đã xin nhờ ơn Chúa giúp khi đặt tay trên sách Thánh để tuyên hứa những điều đó, và Ngài đã ký các bản tuyên thệ và biên bản nhậm chức ngay trước mặt cộng đoàn tham dự.
Tiếp đó, ĐHY trao gậy cho ĐGM Giáo phận và mời Ngài ngồi vào Tòa của Giám mục Giáo phận. Từ đây, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri chính thức lãnh đạo Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng.
Sau đó đoàn Đại diện Giáo phận 8 người: Cha Niên trưởng Giuse Trần Đức Hạnh, Cha Phê-rô Vũ Văn Tạo, Cha Gioan Lê Quang Vinh ( SDB), 3 Sơ ( Đaminh, Phao-lô, Mến Thánh Giá) và 2 Giáo dân ( 1 Thất Khê, 1 Chính Tòa ), tiến đến trước mặt Đức Cha. Cha Đại diện có lời chào mừng và tỏ lòng vâng phục và tôn kính Ngài, Cha đã sơ lược hiện tình Giáo phận có 13 Giáo xứ, 22 Linh mục, 37 Nữ tu, 6000 Giáo dân…. Đất rộng 17.815 Km2, đồi núi và nhiều khó khăn…, cám ơn Đức Cha đã vâng phục Tòa Thánh để đến phục vụ Giáo phận và hứa vâng phục, hiệp nhất mọi thành phần Dân Chúa để làm Vinh Danh Thiên Chúa.
Sau các nghi lễ, Đức Cha chính thức cai quản Giáo phận, Ngài Chủ sự Thánh Lễ, bắt đầu bằng Kinh Vinh Danh Thiên Chúa.
Trong bài giảng lễ: Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu long- GM Phụ tá Gp Hưng Hóa chia sẻ xoáy vào 3 vấn đề chính: Hiệp nhất, Cầu Nguyền và Truyền Giáo. Ngài nói: “ Hiệp nhất là điều căn bản của mọi cơ cấu gia đình và xã hội, thiếu hiệp nhất, cơ cấu sẻ đổ vỡ…. Hiệp nhất là trách nhiệm của Giám mục”. Đức Cha Anphong thuật lại lời của Đức Thánh Cha trong khóa thường huấn các Giám mục tại Roma ngày 19. 9. 2014: “….hiệp nhất, thắng vượt sự chia rẽ..”. Ngài tiếp: Hiệp nhất với Chúa là chất keo gắn kết mọi người. Ngày 22.1.2016 Đức Thánh Cha nhắc nhở: ”… Giám mục ở với Chúa trong cầu nguyện, cộng đoàn Giáo phận mạnh…”. Đức Cha Anphong mời gọi cộng đoàn sống hiệp nhất, cầu nguyện, chính Thiên Chúa là dây liên kết mọi thành phần Giáo phận và từ đó loan báo Tin Mừng cho anh chị em xung quanh.
Cuối Thánh lễ, Đức TGM Px Lê Văn Hồng Đại diện Hội đồng Giám mục Việt Nam chúc mừng Đức Cha Giuse được Đức Thánh Cha bổ nhiệm trong con đường mới mục vụ và truyền Giáo. Ngài hứa HĐGM sẽ tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ để cộng đoàn Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng trở thành cộng đoàn hiệp nhất, cầu nguyện và truyền Giáo.
Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha cũng chúc mừng, Ngài đem bình an và phúc lành của Đức Thánh Cha đến với Đức Cha Giuse. Đức TGM mời gọi mọi thành phần Dân Chúa Giáo phận bước theo Vị Chủ chăn với tất cả lòng tin yêu và quí mến. Đức Tổng so sánh một hình tượng rất vui và nhiều tràng pháo tay, khi Ngài nói: “ Chúa Giê-su bắt đầu Sứ vụ tại biển hồ Galilê, sau đó Chúa đi lên núi gặp Đức Chúa Cha qua việc cầu nguyện để đi rao giảng Tin Mừng Nước trời. Đức Cha Giuse cũng vây, Bắt đầu Sứ vụ tại biển Đà Nẵng, lên núi Lạng Sơn, cầu nguyện gặp Chúa để rao giảng Tin Mừng yêu thương.” Đức Tổng trích dẫn việc Chúa làm phép lạ 2 con cá và 5 chiếc bánh nuôi 5000 người ăn, để khuyến khích Đức Tân Giám mục Giáo phận nuôi dưỡng Giáo dân bằng Bánh Lời Chúa và Cá Bí Tích, con số người ăn Trong phép lạ gần tương đương số Giáo dân Gp Lạng Sơn - Cao bằng hiện nay. Với kinh nghiệm quản trị và tài tổ chức của Đức Cha Giuse, Đức TGM hy vọng tương lai Giáo phận sẽ phát triển và nhà thờ Chính Tòa phải làm rộng lớn hơn, vì không còn đủ chổ cho Giáo dân tham dự phụng vụ ( do quá đông).
Trước lúc kết lễ, Đức Tân Giám mục nói lên tâm tình với cộng đoàn: Ngài cám ơn Đức Thánh Cha; Đức Leopoldo Girelli – Đại diện Tòa Thánh; Đức HY TGM Tổng Giáo phận Hà Nội là Người cha nâng đỡ tinh thần và tiếp nhận Ngài; Cám ơn Đức TGM Tổng Giáo phận Huế, Quý Đức Cha; Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt và Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân tiền nhiệm; Quý Cha, Quý Dòng; Cám ơn Chính Quyền đã tạo mọi điều kiện cho Lễ diễn ra tốt đẹp, Ngài hy vọng cùng Chính Quyền lo lắng cho đời sống tinh thần – Tôn Giáo và mọi mặt vì lợi ích chung của địa phương và Đất Nước. Đức Giám Mục Giuse đã chúc mừng các Thành viên Lãnh đạo Chính Phủ vừa mới được tín nhiệm và đắc cử; Cám ơn tất cả Ân nhân, Thân nhân ( cách riêng Bà Cố, Ngài đã giới thiệu Bà Cố của Ngài cho cộng đoàn), Giáo dân Gp Đà Nẵng- sự hiện diện nói lên tình hiệp thông 2 Giáo phận, đội kèn và mọi người đã tận tâm tận lực cộng tác giúp đỡ để Lễ nhận Giáo vụ của Ngài diễn ra tốt đẹp.
Thật cảm động khi Ngài mời cộng đoàn Giáo phận đứng lên, cùng nói lời biết ơn Đức Cha tiền nhiệm. Ngài muối trở nên người của mọi người (người Kinh của người Kinh, người Tày của người Tày, người Nùng của người Nùng, người Dao của người Dao….) Ngài quyết tâm cùng với Quý Cha, Quý Tu sĩ và cộng đoàn Dân Chúa làm cho Giáo phận hiệp nhất, cầu nguyện, loan báo Tin Mừng và phát triển toàn diện.
Phép lành trọng thể đã kết thúc Thánh lễ nhận Giáo vụ của Đức Cha Giuse – Giám mục Giáo phận lạng Sơn- Cao Bằng..
Sau Thánh lễ, Các Đức Giám Mục và cộng đoàn chụp hình lưu niệm tại tiền đường nhà thờ và tiệc mừng tại Tòa giám mục thật là vui vẻ hạnh phúc.
Toma Trương Văn Ân
Lúc 9 giờ 30 sáng 9. 4. 2016, đoàn đón rước Đức Cha Giuse của Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng từ Hà Nội về đến nhà Thờ Chính Tòa. Cộng đoàn Giáo phận Lạng Sơn- Cao bằng, Thân nhân, Ân nhân, khoảng 300 Giáo dân Giáo phận Đà Nẵng và Khách mời, đứng hai bên đường làm hàng chào danh dự, từ cổng vào đến nhà thờ, hân hoan chào đón Đức Cha Giuse – Tân Giám mục Giáo phận.
Xem Hình
Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Đà Nẵng – Nguyên Giám mục Lạng Sơn Cao Bằng và Linh mục đoàn Gp Lạng Sơn Cao Bằng đã tặng vòng hoa, trao hôn bình an …rất cảm động. Đi ngang đội kèn chào mừng, Đức Tân Giám mục rất vui, dừng lại ít phút, tay nhẹ nhàng đánh nhịp, làm tăng thêm niềm vui chung và sự động viên cho đội kèn của Giáo phận. Con cái Giáo phận Đà Nẵng mến thương Ngài, tuôn ra vây quanh người Cha yêu quí.
Tiếp đó, Đức Cha Giuse và đoàn tháp tùng tiến đến Cửa Năm Thánh, Ngài quì cầu nguyện ít phút, trước khi Ngài tiến vào trước Cung Thánh cầu nguyện. Cầu nguyện xong, Ngài trở về Tòa Giám mục ( bên cạnh nhà thờ Chính Tòa ).
Đúng 10 giờ, đoàn rước trọng thể từ TGM đến nhà thờ Chính Tòa gồm: Thánh Giá đèn hầu, đội trống, đoàn khách Giáo phận Đà Nẵng, đội kèn, Quý Tu sĩ, Sách Tin Mừng, 8 Vị Đại diện các thành phần Dân Chúa của Giáo phận thần phục Đức Tân Giám mục, hơn 50 Cha đồng tế, 25 Đức Giám Mục của Hội Đồng Giám mục Việt nam và Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam. Đức Hồng Y TGM – Tổng Giáo phận Hà Nội Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn Chủ sự Nghi Lễ nhận Giáo phận đi cuối đoàn rước.
Khi Đức HY TGM vào đến cửa nhà thờ, Linh mục Chưởng nghi mời gọi cộng đoàn hiện diện hướng về cuối nhà thờ. Tại đây Đức HY giới thiệu Đức Cha Giuse cho Cha Niên trưởng Ban Tư vấn và cộng đoàn Giáo phận, Ngài đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô bổ nhiệm làm Tân Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng.
Cha Niên trưởng ôm hôn Đức Cha Giuse và thân thưa: “ Chúng con hết lòng cám ơn Đức HY, trong tư cách là Tổng Giám mục Tổng Giáo phận nhà, đã giới thiệu Đức Tân Giám mục Gp Lạng Sơn – Cao bằng cho chúng con “
Tiến lên Cung thánh, sau khi làm dấu Thánh Giá và chào bình an, ĐHY hỏi và mời Đức Cha Giuse trình và đọc Tông Sắc bổ nhiệm. Đức Cha Giuse đã trao Tông Sắc cho Cha Nguyên ( đại diện Ngài) tiến đến thư đài, đọc Tông Sắc của Đức Thánh Cha bổ nhiệm Ngài, một niềm vui mừng cao độ đến với cộng đoàn.
Tiếp đó, Đức Cha Giuse quỳ trước Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha, Đức TGM Px Lê Văn Hồng và ĐC Giuse Nguyễn Chí Linh Đại diện Hội Đồng Giám mục Việt Nam, ngay trước Bàn thờ: Ngài Tuyên xưng Đức Tin trong: Kinh Tin Kính, Chân lý trong Lời Chúa, những điều Giáo Hội dạy ….và hứa trung thành với Giáo Hội, vâng phục Đức Thánh Cha, thừa nhận tuân phục Đại diện Giáo Hoàng, chăm lo giảng dạy, thánh hóa đoàn Dân Chúa, duy trì hiệp nhất, bảo vệ kho tàng Đức Tin Giáo Hội mà các Tông Đồ truyền lại…..tỏ lòng phụ tử với đoàn Dân Chúa, hứa sống thánh thiện, chu toàn trách vụ, bảo vệ kỷ luật Giáo Hội, tuân giữ Giáo luật, cử hành các Bí Tích….Ngài tỏ tình đặc biệt đến Tu sĩ nam nữ, chuyên chăm cầu nguyện và chăm lo công trình truyền Giáo. Ngài đã xin nhờ ơn Chúa giúp khi đặt tay trên sách Thánh để tuyên hứa những điều đó, và Ngài đã ký các bản tuyên thệ và biên bản nhậm chức ngay trước mặt cộng đoàn tham dự.
Tiếp đó, ĐHY trao gậy cho ĐGM Giáo phận và mời Ngài ngồi vào Tòa của Giám mục Giáo phận. Từ đây, Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri chính thức lãnh đạo Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng.
Sau đó đoàn Đại diện Giáo phận 8 người: Cha Niên trưởng Giuse Trần Đức Hạnh, Cha Phê-rô Vũ Văn Tạo, Cha Gioan Lê Quang Vinh ( SDB), 3 Sơ ( Đaminh, Phao-lô, Mến Thánh Giá) và 2 Giáo dân ( 1 Thất Khê, 1 Chính Tòa ), tiến đến trước mặt Đức Cha. Cha Đại diện có lời chào mừng và tỏ lòng vâng phục và tôn kính Ngài, Cha đã sơ lược hiện tình Giáo phận có 13 Giáo xứ, 22 Linh mục, 37 Nữ tu, 6000 Giáo dân…. Đất rộng 17.815 Km2, đồi núi và nhiều khó khăn…, cám ơn Đức Cha đã vâng phục Tòa Thánh để đến phục vụ Giáo phận và hứa vâng phục, hiệp nhất mọi thành phần Dân Chúa để làm Vinh Danh Thiên Chúa.
Sau các nghi lễ, Đức Cha chính thức cai quản Giáo phận, Ngài Chủ sự Thánh Lễ, bắt đầu bằng Kinh Vinh Danh Thiên Chúa.
Trong bài giảng lễ: Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu long- GM Phụ tá Gp Hưng Hóa chia sẻ xoáy vào 3 vấn đề chính: Hiệp nhất, Cầu Nguyền và Truyền Giáo. Ngài nói: “ Hiệp nhất là điều căn bản của mọi cơ cấu gia đình và xã hội, thiếu hiệp nhất, cơ cấu sẻ đổ vỡ…. Hiệp nhất là trách nhiệm của Giám mục”. Đức Cha Anphong thuật lại lời của Đức Thánh Cha trong khóa thường huấn các Giám mục tại Roma ngày 19. 9. 2014: “….hiệp nhất, thắng vượt sự chia rẽ..”. Ngài tiếp: Hiệp nhất với Chúa là chất keo gắn kết mọi người. Ngày 22.1.2016 Đức Thánh Cha nhắc nhở: ”… Giám mục ở với Chúa trong cầu nguyện, cộng đoàn Giáo phận mạnh…”. Đức Cha Anphong mời gọi cộng đoàn sống hiệp nhất, cầu nguyện, chính Thiên Chúa là dây liên kết mọi thành phần Giáo phận và từ đó loan báo Tin Mừng cho anh chị em xung quanh.
Cuối Thánh lễ, Đức TGM Px Lê Văn Hồng Đại diện Hội đồng Giám mục Việt Nam chúc mừng Đức Cha Giuse được Đức Thánh Cha bổ nhiệm trong con đường mới mục vụ và truyền Giáo. Ngài hứa HĐGM sẽ tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ để cộng đoàn Giáo phận Lạng Sơn – Cao bằng trở thành cộng đoàn hiệp nhất, cầu nguyện và truyền Giáo.
Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại diện Đức Thánh Cha cũng chúc mừng, Ngài đem bình an và phúc lành của Đức Thánh Cha đến với Đức Cha Giuse. Đức TGM mời gọi mọi thành phần Dân Chúa Giáo phận bước theo Vị Chủ chăn với tất cả lòng tin yêu và quí mến. Đức Tổng so sánh một hình tượng rất vui và nhiều tràng pháo tay, khi Ngài nói: “ Chúa Giê-su bắt đầu Sứ vụ tại biển hồ Galilê, sau đó Chúa đi lên núi gặp Đức Chúa Cha qua việc cầu nguyện để đi rao giảng Tin Mừng Nước trời. Đức Cha Giuse cũng vây, Bắt đầu Sứ vụ tại biển Đà Nẵng, lên núi Lạng Sơn, cầu nguyện gặp Chúa để rao giảng Tin Mừng yêu thương.” Đức Tổng trích dẫn việc Chúa làm phép lạ 2 con cá và 5 chiếc bánh nuôi 5000 người ăn, để khuyến khích Đức Tân Giám mục Giáo phận nuôi dưỡng Giáo dân bằng Bánh Lời Chúa và Cá Bí Tích, con số người ăn Trong phép lạ gần tương đương số Giáo dân Gp Lạng Sơn - Cao bằng hiện nay. Với kinh nghiệm quản trị và tài tổ chức của Đức Cha Giuse, Đức TGM hy vọng tương lai Giáo phận sẽ phát triển và nhà thờ Chính Tòa phải làm rộng lớn hơn, vì không còn đủ chổ cho Giáo dân tham dự phụng vụ ( do quá đông).
Trước lúc kết lễ, Đức Tân Giám mục nói lên tâm tình với cộng đoàn: Ngài cám ơn Đức Thánh Cha; Đức Leopoldo Girelli – Đại diện Tòa Thánh; Đức HY TGM Tổng Giáo phận Hà Nội là Người cha nâng đỡ tinh thần và tiếp nhận Ngài; Cám ơn Đức TGM Tổng Giáo phận Huế, Quý Đức Cha; Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt và Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân tiền nhiệm; Quý Cha, Quý Dòng; Cám ơn Chính Quyền đã tạo mọi điều kiện cho Lễ diễn ra tốt đẹp, Ngài hy vọng cùng Chính Quyền lo lắng cho đời sống tinh thần – Tôn Giáo và mọi mặt vì lợi ích chung của địa phương và Đất Nước. Đức Giám Mục Giuse đã chúc mừng các Thành viên Lãnh đạo Chính Phủ vừa mới được tín nhiệm và đắc cử; Cám ơn tất cả Ân nhân, Thân nhân ( cách riêng Bà Cố, Ngài đã giới thiệu Bà Cố của Ngài cho cộng đoàn), Giáo dân Gp Đà Nẵng- sự hiện diện nói lên tình hiệp thông 2 Giáo phận, đội kèn và mọi người đã tận tâm tận lực cộng tác giúp đỡ để Lễ nhận Giáo vụ của Ngài diễn ra tốt đẹp.
Thật cảm động khi Ngài mời cộng đoàn Giáo phận đứng lên, cùng nói lời biết ơn Đức Cha tiền nhiệm. Ngài muối trở nên người của mọi người (người Kinh của người Kinh, người Tày của người Tày, người Nùng của người Nùng, người Dao của người Dao….) Ngài quyết tâm cùng với Quý Cha, Quý Tu sĩ và cộng đoàn Dân Chúa làm cho Giáo phận hiệp nhất, cầu nguyện, loan báo Tin Mừng và phát triển toàn diện.
Phép lành trọng thể đã kết thúc Thánh lễ nhận Giáo vụ của Đức Cha Giuse – Giám mục Giáo phận lạng Sơn- Cao Bằng..
Sau Thánh lễ, Các Đức Giám Mục và cộng đoàn chụp hình lưu niệm tại tiền đường nhà thờ và tiệc mừng tại Tòa giám mục thật là vui vẻ hạnh phúc.
Toma Trương Văn Ân
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tên Người là thương xót
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương
11:50 10/04/2016
Tên Người là thương xót
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu đó đã trở thành thương xót khi Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ loài người. Xuyên qua lịch sự, Thiên Chúa mạc khải Người là vị Thiên Chúa thương xót qua danh thánh Giavê, qua danh thánh Giêsu và qua Giáo Hội.
1- Tên “Giavê”, vị Thiên Chúa thương xót
Cựu Ước đã nhiều lần ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ với vị Thiên Chúa thương xót, trong đó đặc biệt là kinh nghiệm của Môisê gặp gỡ vị Thiên Chúa tại núi Sinai. Sách Xuất Hành kể lại cuộc đàm đạo giữa Môisê với vị Thiên Chúa mà ông chưa biết tên Người. Ông hỏi tên Người là gì? Thiên Chúa mạc khải cho ông biết tên Người là Giavê, Đấng Tự Hiện Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Apraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp” (x. Xh 3,1-15).
Trong tiếng Do Thái, “Giavê” là vị Thiên Chúa sống động và hiện diện bên cạnh các ngươi để giải phóng các ngươi; đó là Thiên Chúa gần gũi và sẵn sàng đáp cứu con người gặp cảnh khó khăn.
Khi Thiên Chúa mạc khải tên chính là lúc Người mạc khải bản tính Thiên Chúa. Đó là “Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6).
Lịch sử cứu độ là lịch sử của lòng thương xót mà Thiên Chúa thể hiện đối với con người, hơn là lịch sử của một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, thích phạt và hủy diệt loài người.
Vì Thiên Chúa thương xót nên Người luôn sẵn sàng tha thứ mọi sự xúc phạm và tội lỗi của loài người. Thánh Vịnh gia nói: “Người tha thứ cho tất cả tội lỗi của bạn, Người chữa lành mọi bệnh tật của bạn, Người cứu chuộc bạn khỏi hố sâu, Người trao vương miện cho bạn với tình yêu kiên định và lòng thương xót” (Tv 103,3-4).
Như thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình như là Đấng giàu thương xót. Đó chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta.
2- Tên “Giêsu”, hiện thân lòng thương xót Chúa Cha
Với mầu nhiệm nhập thể làm người, lòng thương xót của Thiên Chúa có một dung mạo cụ thể và rõ ràng qua dung mạo của Đức Kitô.
Bởi thế, bắt đầu Tông Chiếu Misericordiae vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có những lời rất ý nghĩa: “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Mầu nhiệm Kitô giáo được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nazareth, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Eph 2,4) … đã sai Người Con duy nhất đến thế gian… để mạc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Người. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (Ga 14,9). Đức Giêsu Nazarét đã mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bạn thân Người (Misericordiae vultus, số 1).
Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu xuất hiện như một một sứ giả của lòng thương xót Chúa Cha: khi thấy đám đông dân chúng bơ vơ không người chăn dắt, Người chạnh lòng thương xót họ cách sâu xa (x. Mt 9,36); khi thấy những những đau yếu bệnh hoạn tật nguyền, bị quỷ ám, Người thương xót họ và chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19); khi thấy những người tội lỗi cần hoán cải, Người chủ động đến gặp gỡ và giúp họ hoán cải như trường hợp của Matthêu của Giakêu hay của Mađalêna v.v...
Tuy nhiên, nghĩa cử thương xót ấy đạt tới sự tột đỉnh và viên mãn nơi biến cố Chết và Phục Sinh của Đức Kitô. Tại đây, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình cho đến cùng, trở thành người Tôi Tớ đau khổ, chịu chết trên thập giá, đổ máu đào để cứu độ loài người. Nơi thập giá, Người mặc khải lòng thương xót Thiên Chúa một cách tuyệt vời nhất: Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta; Thiên Chúa chịu chết thay cho chúng ta để chúng ta được sống dồi dào. Và sự phục sinh của Đức Kitô là chiến thắng của lòng thương xót Chúa trên tội lỗi và oán thù.
Như thế, Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Người đến không để hủy diệt nhưng để cứu chữa, và tìm lại những gì đã mất.
3- Để đón nhận lòng thương xót Chúa
Điều kiện 1: nhận biết mình có tội và cần đến lòng thương xót: để đón hận ơn tha thứ và thương xót, chúng ta phải thực sự có lòng sám hối. Nhìn nhận mình có tội và xin Chúa tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên: “Phải mở lòng với lòng thương xót, mở tâm hồn và bản thân ra, để Chúa Giêsu đến với mình bắc cách đi xưng tội trong đức tin”.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân cần đến lòng thương xót Chúa, chúng hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chỉ cần chúng ta hoán cải, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Điều kiện 2: Hoán cải và thay đổi đời sống
Thiên Chúa hay thương xót nhưng không vì thế mà chúng ta muốn làm gì thì làm, sống thế nào thì sống. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải sám hối và hoán cải đời sống mình.
Nếu thiếu hoán cải đời sống, chúng ta biến ân sủng quý giá của Thiên Chúa thành một thứ ân sủng “rẻ tiền”. Như Đức Hồng Y Kasper cảnh báo:
“Sự nguy hiểm của những việc như thế là biến ơn thánh quí báu của Thiên Chúa, vốn phải mua bằng giá máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, biến ơn thánh thành món hàng bán rẻ ở tầng hầm”.
4- Nơi để đón nhận lòng thương xót Chúa
Nơi 1: Bí tích Hòa Giải là tòa của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến đó và xưng tội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đi xưng tội một cách công khai dù ngài là giáo hoàng. Ngài làm gương cho chúng ta.
Nơi 2: Thánh Thể, nguồn mạch của lòng thương xót Chúa. Tại đây, Đức Giêsu trở thành lương thực cho chúng ta. Chúa ban sự sống thần linh của chúng ta. Hãy đến tham dự Thánh Lễ hằng ngày và hằng tuần. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp lòng thương xót Chúa.
5- Kitô hữu, tên của lòng thương xót
Logo năm Thánh có đề câu khẩu hiệu: “Thương xót như Chúa Cha” (Lc 6,36). Đây là thông điệp gửi đến cho chúng ta hôm nay.
Nếu tên của Chúa là thương xót thì tên của chúng ta cũng phải phản ánh lòng thương xót Chúa. Chúng ta được mời gọi hãy sống và thực thi lòng thương xót Chúa trong môi trường sống của mình. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta thực thi lòng thương xót đối với tha nhân bằng thái độ tôn trọng kẻ khác, biết cảm thương và chia sẻ những nỗi đau của tha nhân, sống hiền hòa, bao dung và hành xử theo đức ái kitô giáo đối với những người xung quanh.
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu đó đã trở thành thương xót khi Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ loài người. Xuyên qua lịch sự, Thiên Chúa mạc khải Người là vị Thiên Chúa thương xót qua danh thánh Giavê, qua danh thánh Giêsu và qua Giáo Hội.
1- Tên “Giavê”, vị Thiên Chúa thương xót
Cựu Ước đã nhiều lần ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ với vị Thiên Chúa thương xót, trong đó đặc biệt là kinh nghiệm của Môisê gặp gỡ vị Thiên Chúa tại núi Sinai. Sách Xuất Hành kể lại cuộc đàm đạo giữa Môisê với vị Thiên Chúa mà ông chưa biết tên Người. Ông hỏi tên Người là gì? Thiên Chúa mạc khải cho ông biết tên Người là Giavê, Đấng Tự Hiện Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Apraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp” (x. Xh 3,1-15).
Trong tiếng Do Thái, “Giavê” là vị Thiên Chúa sống động và hiện diện bên cạnh các ngươi để giải phóng các ngươi; đó là Thiên Chúa gần gũi và sẵn sàng đáp cứu con người gặp cảnh khó khăn.
Khi Thiên Chúa mạc khải tên chính là lúc Người mạc khải bản tính Thiên Chúa. Đó là “Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6).
Lịch sử cứu độ là lịch sử của lòng thương xót mà Thiên Chúa thể hiện đối với con người, hơn là lịch sử của một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, thích phạt và hủy diệt loài người.
Vì Thiên Chúa thương xót nên Người luôn sẵn sàng tha thứ mọi sự xúc phạm và tội lỗi của loài người. Thánh Vịnh gia nói: “Người tha thứ cho tất cả tội lỗi của bạn, Người chữa lành mọi bệnh tật của bạn, Người cứu chuộc bạn khỏi hố sâu, Người trao vương miện cho bạn với tình yêu kiên định và lòng thương xót” (Tv 103,3-4).
Như thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình như là Đấng giàu thương xót. Đó chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta.
2- Tên “Giêsu”, hiện thân lòng thương xót Chúa Cha
Với mầu nhiệm nhập thể làm người, lòng thương xót của Thiên Chúa có một dung mạo cụ thể và rõ ràng qua dung mạo của Đức Kitô.
Bởi thế, bắt đầu Tông Chiếu Misericordiae vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có những lời rất ý nghĩa: “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Mầu nhiệm Kitô giáo được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nazareth, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Eph 2,4) … đã sai Người Con duy nhất đến thế gian… để mạc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Người. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (Ga 14,9). Đức Giêsu Nazarét đã mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bạn thân Người (Misericordiae vultus, số 1).
Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu xuất hiện như một một sứ giả của lòng thương xót Chúa Cha: khi thấy đám đông dân chúng bơ vơ không người chăn dắt, Người chạnh lòng thương xót họ cách sâu xa (x. Mt 9,36); khi thấy những những đau yếu bệnh hoạn tật nguyền, bị quỷ ám, Người thương xót họ và chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19); khi thấy những người tội lỗi cần hoán cải, Người chủ động đến gặp gỡ và giúp họ hoán cải như trường hợp của Matthêu của Giakêu hay của Mađalêna v.v...
Tuy nhiên, nghĩa cử thương xót ấy đạt tới sự tột đỉnh và viên mãn nơi biến cố Chết và Phục Sinh của Đức Kitô. Tại đây, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình cho đến cùng, trở thành người Tôi Tớ đau khổ, chịu chết trên thập giá, đổ máu đào để cứu độ loài người. Nơi thập giá, Người mặc khải lòng thương xót Thiên Chúa một cách tuyệt vời nhất: Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta; Thiên Chúa chịu chết thay cho chúng ta để chúng ta được sống dồi dào. Và sự phục sinh của Đức Kitô là chiến thắng của lòng thương xót Chúa trên tội lỗi và oán thù.
Như thế, Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Người đến không để hủy diệt nhưng để cứu chữa, và tìm lại những gì đã mất.
3- Để đón nhận lòng thương xót Chúa
Điều kiện 1: nhận biết mình có tội và cần đến lòng thương xót: để đón hận ơn tha thứ và thương xót, chúng ta phải thực sự có lòng sám hối. Nhìn nhận mình có tội và xin Chúa tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên: “Phải mở lòng với lòng thương xót, mở tâm hồn và bản thân ra, để Chúa Giêsu đến với mình bắc cách đi xưng tội trong đức tin”.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân cần đến lòng thương xót Chúa, chúng hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chỉ cần chúng ta hoán cải, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Điều kiện 2: Hoán cải và thay đổi đời sống
Thiên Chúa hay thương xót nhưng không vì thế mà chúng ta muốn làm gì thì làm, sống thế nào thì sống. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải sám hối và hoán cải đời sống mình.
Nếu thiếu hoán cải đời sống, chúng ta biến ân sủng quý giá của Thiên Chúa thành một thứ ân sủng “rẻ tiền”. Như Đức Hồng Y Kasper cảnh báo:
“Sự nguy hiểm của những việc như thế là biến ơn thánh quí báu của Thiên Chúa, vốn phải mua bằng giá máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, biến ơn thánh thành món hàng bán rẻ ở tầng hầm”.
4- Nơi để đón nhận lòng thương xót Chúa
Nơi 1: Bí tích Hòa Giải là tòa của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến đó và xưng tội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đi xưng tội một cách công khai dù ngài là giáo hoàng. Ngài làm gương cho chúng ta.
Nơi 2: Thánh Thể, nguồn mạch của lòng thương xót Chúa. Tại đây, Đức Giêsu trở thành lương thực cho chúng ta. Chúa ban sự sống thần linh của chúng ta. Hãy đến tham dự Thánh Lễ hằng ngày và hằng tuần. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp lòng thương xót Chúa.
5- Kitô hữu, tên của lòng thương xót
Logo năm Thánh có đề câu khẩu hiệu: “Thương xót như Chúa Cha” (Lc 6,36). Đây là thông điệp gửi đến cho chúng ta hôm nay.
Nếu tên của Chúa là thương xót thì tên của chúng ta cũng phải phản ánh lòng thương xót Chúa. Chúng ta được mời gọi hãy sống và thực thi lòng thương xót Chúa trong môi trường sống của mình. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta thực thi lòng thương xót đối với tha nhân bằng thái độ tôn trọng kẻ khác, biết cảm thương và chia sẻ những nỗi đau của tha nhân, sống hiền hòa, bao dung và hành xử theo đức ái kitô giáo đối với những người xung quanh.
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương
Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng và chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô hữu (3)
Vũ Văn An
18:28 10/04/2016
2. Lòng thương xót: một vấn đề nền tảng đối với thế kỷ 21
Hai vị giáo hoàng của hậu bán thế kỷ 20 đã rõ ràng nhận ra các “dấu chỉ của thời đại” và đã khẩn khoản yêu cầu để vấn đề thương xót được đem vào tâm điểm của việc công bố lẫn việc thực hành của Giáo Hội một lần nữa. Đức Gioan XXIII, “vị giáo hoàng nhân từ”, như người Ý từng âu yếm gọi ngài, là vị giáo hoàng đầu tiên tiếp nhận thách đố này. Nhật ký thiêng liêng của ngài chứa nhiều suy niệm sâu sắc liên quan tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Đối với ngài, lòng thương xót là tên đẹp nhất và là cách xưng hô đẹp nhất đối với Thiên Chúa. Sự thảm hại của ta chính là ngai của lòng Chúa thương xót (25). Đức Giáo Hoàng Gioan trích dẫn Thánh Vịnh 89:2: “Con tuyên xưng rằng tình yêu bền vững của Ngài được thiết lập thiên thu” (26).
Bởi thế, để phù hợp với các xác tín nội tâm của ngài, các xác tín vốn đã chín mùi từ lâu trước đó, và để phù hợp với quan tâm bản thân sâu sắc của ngài, trong bài diễn văn đầy cách mạng của ngài nhân dịp khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng Mười, năm 1962, Đức Gioan XXIII đã nói rằng trọng điểm của Công Đồng không phải chỉ nhắc lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Theo ngài, giáo huấn này ai cũng đã biết và luôn xác tín. Giáo Hội vốn chống lại “các lầm lỗi của mọi thời đại. Giáo Hội thường lên án chúng một cách nghiêm khắc nhất. Tuy nhiên, ngày nay, Hiền Thê của Giáo Hội thích dùng thuốc thương xót hơn là sự nghiêm khắc kia” (27).
Với câu tuyên bố trên, Đức Giáo Hoàng đã gióng lên một cung giọng mới, khiến mọi người ngồi dậy và chú ý. Hậu quả của nó rất nhiều, suốt trong diễn trình sau đó của Công Đồng. Vì, giống như Đức Giáo Hoàng, tất cả 16 văn kiện của Công Đồng đều chỉ nhằm hủy bỏ hay thay đổi rất ít giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Chúng không muốn đoạn tuyệt với truyền thống trước đó của Giáo Hội. Nhưng chúng gióng lên một cung giọng mới và bênh vực một phong thái mới cho việc công bố và cho đời sống Giáo Hội. Giống như Đức Giáo Hoàng, các văn kiện này nhìn nhận mối liên kết giữa lòng thương xót và sự thật (28). Đức Gioan XXIII lên đặc điểm cho phong thái mới này bằng cách nói tới mục tiêu mục vụ của Công Đồng.
Trong thời gian Công Đồng cũng như trong thời gian sau đó, nhiều cuộc thảo luận và nhiều hiểu lầm đã xẩy ra liên quan tới ý niệm “mục vụ” (29). Không đi vào cuộc thảo luận có tính kỹ thuật ở đây, ta có thể nói: phong thái mục vụ mới, mà Đức Gioan XXIII muốn có, liên quan nhiều tới điều chính ngài nói trong bài diễn văn khai mạc, khi ngài đề cập tới thuốc thương xót. Từ lúc ấy, chủ đề thương xót đã trở nên chủ đề nền tảng không những cho Công Đồng mà còn cho cả nguyên lý hành động mục vụ của Giáo Hội hậu Công Đồng nữa.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp tục và đào sâu thêm điều Đức Gioan XXIII đã bắt đầu. Vấn đề thương xót không được đặt ra với ngài ở phòng làm việc. Giống một số vị khác, vị giáo hoàng này biết rõ lịch sử đau khổ của thời ngài và ngài trải nghiệm nó một cách cụ thể ngay trong con người của mình. Ngài lớn lên trong khu vực cận kề Auschwitz. Lúc còn trẻ, lúc đầu đời linh mục, và lúc là Giám Mục Cracow, ngài sống qua các kinh hoàng của hai thế chiến và hai chế độ toàn trị dã man. Ngài cũng trải nghiệm nhiều thống khổ của dân tộc ngài và của chính đời ngài. Triều giáo hoàng của ngài được ghi dấu bằng những hậu quả của cuộc mưu sát và, trong các năm tháng sau cùng, bằng chính đau khổ bản thân của ngài. Chứng tá đau khổ của ngài là một bài thuyết giảng mạnh mẽ hơn các bài giảng lễ và nhiều soạn tác khác của ngài. Nhờ cách này, ngài biến sứ điệp thương xót thành chủ đề dẫn đầu của triều giáo hoàng lâu dài của ngài. Ngài làm cho Giáo Hội của Thế Kỷ 21 lưu ý tới nó (30).
Chính thông điệp thứ hai trong triều giáo hoàng của ngài, Dives in Misericordia (1980), đã được dành cho vấn đề thương xót. Bản dịch tiếng Đức của thông điệp này mang tựa đề “Hữu Thể Nhân Bản Đang Lâm Nguy và Sức Mạnh của Lòng Thương Xót” (31). Trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở ta rằng một mình công lý không đủ, vì summa justitia (công lý tối cao) cũng có thể là summa injustitia (bất công tối cao). Cuộc phong hiển thánh đầu tiên trong thiên niên kỷ thứ ba, diễn ra ngày 30 tháng Tư năm 2000, cố ý và có bài bản đàng hoàng bàn tới vấn đề thương xót. Vì vào ngày ấy, ngài đã phong hiển thánh cho chị dòng và là nhà huyền nhiệm Ba Lan tên Faustina Kowalska (qua đời năm 1938), người mà cho tới lúc ấy, không được nổi tiếng bao nhiêu. Trong các ghi chép của chị, người nữ tu đơn sơ này đã vượt xa cả nền thần học tân kinh viện khoa bảng và lý thuyết siêu hình hoàn toàn trừu tượng của nó nói về các thuộc tính của Thiên Chúa. Chị mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa, hoàn toàn theo cung giọng Thánh Kinh, như là thuộc tính lớn nhất và cao nhất trong các thuộc tính của Thiên Chúa và chị nhấn mạnh tới lòng thương xót, coi nó như sự hoàn thiện tinh ròng và đơn giản của Thiên Chúa (32). Do đó, Faustina đã đứng trong truyền thống vĩ đại của huyền nhiệm học nữ giới. Trong bối cảnh này, ta chỉ cần nhớ tới Thánh Nữ Catarina đệ Sienna và Thánh Nữ Têrêxa đệ Lisieux.
Trong cuộc viếng thăm Lagiewniki, một khu ngoại ô của Cracow, nơi Chị Faustina từng sống, ngày 7 tháng Sáu năm1997, Đức Giáo Hoàng nói rằng nhờ trải nghiệm thảm hại của Thế Chiến II, lịch sử đã khắc ghi vấn đề thương xót như một cứu giúp đặc biệt và là nguồn hy vọng khôn cùng. Xét theo một phương diện, sứ điệp này đã vẽ lên toàn bộ bức tranh cho triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II. Trong bài giàng Thánh Lễ Phong Thánh cho Chị Faustina, ngài nói rằng sứ điệp này phải như một tia nắng, soi đường cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba. Trong chuyến viếng thăm quê hương Ba Lan của ngài lần cuối cùng, ngày 17 tháng Tám năm 2002, tại Lagiewniki, ngài long trọng dâng thế giới cho lòng Chúa thương xót. Dịp này, ngài trao cho Giáo Hội trách vụ loan truyền ngọn lửa thương xót cho thế giới. Đước Chị Faustina gợi hứng, ngài tuyên bố Chúa Nhật sau Lễ Phục Sinh, thường gọi là “Chúa Nhật Thấp”, là Chúa Nhật Thương Xót.
Nhiều người cho là một dấu chỉ Chúa Quan Phòng khi vị giáo hoàng này được gọi về Nhà Cha của ngài vào buổi tối trước Chúa Nhật Thương Xót, 2 tháng Tư năm 2005. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI ủng hộ lối giải thích này dịp phong chân phúc cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào Chúa Nhật Thương Xót, 1 tháng Năm năm 2011. Trước đó, trong Thánh Lễ An Táng tại Quảng Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, 8 tháng Tư năm 2005, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger lúc đó, trong tư cách Hồng Y phó tế, đã nhấn mạnh rằng lòng thương xót là quan tâm đặc biệt của vị tiền nhiệm và ngài tiếp nhận quan tâm này làm nghĩa vụ bản thân của mình. Ngài nói “Ngài [tức Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II] đã chỉ cho thấy bí quyết Phục Sinh chính là bí quyết của lòng Chúa thương xót. Trong cuốn sách cuối cùng của mình, ngài từng viết: ranh giới được thiết lập cho sự ác ‘cuối cùng chính là lòng Chúa thương xót’”. Đó chính là câu trích nguyên văn từ một tác phẩm được Đức Gioan Phaolô xuất bản chỉ mấy tháng trước khi ngài qua đời, tựa là Ký Ức và Bản Sắc. Nó nói lên một lần nữa quan tâm chính của ngài một cách tóm lược (33).
Trong Thánh Lễ khai mạc mật nghị hội bầu giáo hoàng ngày 18 tháng Tư năm 2005, Đức Hồng Y Ratzinger nói: “Đầy hân hoan, chúng ta nghe công bố Năm Thương Xót: lòng Chúa thương xót lập ranh giới cho sự ác, Đức Thánh Cha dạy ta như thế. Chúa Giêsu Kitô đích thân là lòng Chúa thương xót: gặp gỡ Chúa Kitô là gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa. Ủy nhiệm thư của Chúa Kitô đã trở thành ủy nhiệm thư của ta qua việc xức dầu linh mục. Chúng ta được trao phó việc công bố ‘Năm Thương Xót của Chúa’ không chỉ bằng lời, mà còn bằng cả đời sống ta và bằng các dấu chỉ hữu hiệu của bí tích nữa”.
Do đó, ta không thể ngạc nhiên khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, ngay trong thông điệp đầu tiên của ngài năm 2006, tựa là Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình Yêu), đã tiếp nối đường lối suy nghĩ của vị tiền nhiệm và đào sâu nó hơn nữa về thần học. Trong thông điệp xã hội của mình, tựa là Caritas in Veritate (Đức Ái trong Chân Lý), ngài cụ thể hóa chủ đề này bằng cách lưu ý tới các thách đố mới. Khác với nhiều thông điệp xã hội trước đó, ngài không khởi diễn từ công lý, mà từ tình yêu, coi nó như nguyên lý căn bản của giáo huấn xã hội Kitô Giáo. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã chọn một khởi điểm mới cho giáo huấn xã hội của Giáo Hội và đem lại một đà thúc đẩy mới để một lần nữa tiếp nối cách mới mẻ sự quan tâm đối với lòng thương xót trong một ngữ cảnh rộng lớn hơn.
Như thế, ba vị giáo hoàng trong hậu bán thế kỷ 20 và khởi đầu thế kỷ 21, đã trao cho ta vấn đề thương xót. Đây thực sự không phải là chủ đề hạng nhì, mà đúng hơn là chủ đề căn bản của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước và là vấn đề nền tảng đối với thế kỷ 21 như là câu giải đáp cho “các dấu chỉ của thời đại”.
3. Lòng thương xót: đã bị lãng quên một cách đáng kết tội
Việc nhấn mạnh tới lòng thương xót như là chủ đề chính cho thần học thế kỷ 21, cho một ngôn từ về Thiên Chúa có thể đem lại một giải thích hợp lý cho đức tin vào Người của ta, có nghĩa là ta phải tìm hiểu cách mới mẻ ý nghĩa chính của sứ điệp lòng Chúa thương xót trong chứng từ của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (34). Ngay khi vừa làm việc này, ta đã hiểu một cách ngạc nhiên, thậm chí ngỡ ngàng nữa, rằng chủ đề này, một chủ đề có tính trung tâm đối với Thánh Kinh và hết sức có liên hệ đối với việc cảm nghiệm thực tại hiện nay, dường như chỉ đứng ở bên lề các từ vựng và các sách giáo khoa thần học tín lý. Trong các sách giáo khoa tín lý gần đây hơn, lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ được coi như một trong các thuộc tính của Thiên Chúa mà thôi. Nó thường chỉ được bàn đến một cách vắn vỏi và chỉ sau các thuộc tính dẫn khởi từ yếu tính siêu hình của Thiên Chúa. Do đó, lòng thương xót không hề có tính quyết định xét về hệ thống (35).
Trong các sách giáo khoa gần đây hơn, lòng thương xót thường vắng bóng hoàn toàn (36) và, nếu có xuất hiện đâu đó, thì chắc chắn cũng chỉ là tình cờ mà thôi. Chỉ là các ngoại lệ; tuy nhiên, các ngoại lệ này, về căn bản, không thể thay đổi được hiện tượng nói chung trên (37).
Ta không thể coi các khám phá trên là gì khác ngoài việc làm ta ngã lòng, thậm chí là tai họa nữa. Điều cần hiện nay là suy nghĩ thấu đáo trở lại toàn bộ giáo huấn về các thuộc tính của Thiên Chúa và, trong diễn trình này, giúp lòng thương xót chiếm vị trí thích đáng của nó. Vì các khám phá trên không thể đánh giá đúng ý nghĩa trung tâm của lòng thương xót trong Thánh Kinh cũng như các trải nghiệm kinh hoàng của thế kỷ 20 và nỗi lo âu của chúng ta đối với tương lai ở buổi đầu thế kỷ 21 này. Trong một tình huống trong đó nhiều người cùng thời với ta đang ngã lòng, mất hết hy vọng và định hướng, thì sứ điệp của lòng Chúa thương xót phải đem theo sứ điệp trấn an và hy vọng. Như thế, việc nhấn mạnh tới ý nghĩa của lòng Chúa thương xót đối với tình thế hiện nay đem lại cho thần học một kích thích mạnh mẽ.
Sự thất bại của suy tư thần học đối với sứ điệp thương xót, một sứ điệp vốn có tính trung tâm trong Thánh Kinh, đã khiến ý niệm này thường bị hạ giá, thoái hóa thành một thứ linh đạo “hạng nhẹ” (soft) hay một thứ quan tâm mục vụ mờ nhạt, thiếu hẳn định nghĩa rõ ràng và buộc phải uốn cong theo từng cá nhân. Ta có thể hiểu được thứ triết lý hành động hạng nhẹ này như một phản ứng chống lại thứ triết lý hành động cứng ngắc, vụ luật. Nhưng lòng thương xót sẽ trở thành ngụy thương xót khi nó không còn một chút run sợ nào trước nhan Thiên Chúa, Đấng vốn thánh thiện, và không còn chút run sợ nào trước công lý và phán xử của Người nữa. Nó sẽ trở thành ngụy thương xót khi “có” không còn là “có” nữa, và “không” không còn là “không” nữa; khi nó không vượt qúa, mà đúng hơn hạ giá việc đòi công lý. Tin Mừng dạy phải công chính hóa người tội lỗi, chứ không công chính hóa tội lỗi. Vì lý do này, ta phải yêu người tội lỗi nhưng phải ghét tội lỗi.
Lý do khiến ta nói tới lòng thương xót một cách qua loa sẽ trở nên hiển nhiên khi ta cho rằng các thuộc tính nào của Thiên Chúa được rút ra từ yếu tính siêu hình của Thiên Chúa hiểu như Sự Hữu Tự Tồn (ipsum esse subsistens) phải là tập chú của các sách giáo khoa: tính đơn giản, tính vô hạn, tính vĩnh cửu, tính hiện diện ở khắp mọi nơi, tính toàn năng, tính toàn trí và các thuộc tính khác. Tính quyết định siêu hình của yếu tính Thiên Chúa, từng lên khuôn cho toàn bộ truyền thống thần học kể từ thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, là điều không thể nào nghi vấn từ trong nền tảng của nó được. Tính chính đáng cũng như các giới hạn của nó sẽ được nghiên cứu chi tiết sau này (38). Ở đây, ta chỉ nên nhấn mạnh rằng: trong các thông số (parameters) thuộc tính siêu hình của Thiên Chúa, ít có chỗ dành cho ý niệm thương xót, là ý niệm không phát xuất từ yếu tính siêu hình, mà đúng hơn từ việc tự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử. Trong các thông số thuộc tính của Thiên Chúa, cũng có thật ít chỗ dành cho sự thánh thiện và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nghĩa là dành cho việc Người chống lại sự ác. Do đó, lãng quên lòng thương xót không phải là một loại vấn đề thứ yếu nằm ở bên lề học lý về Thiên Chúa; mà đúng hơn, nó đối chất với ta bằng vần đề nền tảng phải xác định được yếu tính của Thiên Chúa và các thuộc tính của Người nói chung. Nó khiến cho việc suy nghĩ mới mẻ về học lý Thiên Chúa trở nên cần thiết.
Khởi điểm truyền thống về siêu hình trong học lý về Thiên Chúa đem theo nó một vấn đề nữa để nói về lòng Chúa thương xót. Tức là, nếu Thiên Chúa chính là sự hữu, thì sự hoàn hảo tuyệt đối trong sự hữu của Người là điều tất nhiên phải phát sinh từ sự viên mãn tuyệt đối của sự hữu này. Sự hoàn hảo như thế ngụ hàm Thiên Chúa không thể nào chịu khổ được (apatheia = ἀᴨάθεΙα) vì chịu khổ phải được hiểu như một thiếu sót. Dựa trên khởi điểm thần học của nó, thần học tín lý khó có thể nói tới một Thiên Chúa cảm thương (compassionate) (39). Nó buộc phải loại bỏ khả thể Thiên Chúa chịu đau khổ (pati) với các tạo vật của Người theo nghĩa thụ động; nó chỉ có thể nói tới lòng thương hại (mitleid) và thương xót mà thôi, theo nghĩa tác động là: Thiên Chúa chống lại sự đau khổ nơi các thụ tạo của Người và ban cho chúng ơn trợ giúp của Người (40). Câu hỏi còn lại là liệu điều này có tương hợp thỏa đáng với cái hiểu của Thánh Kinh về Thiên Chúa hay không; một cái hiểu vẫn cho rằng Người là Đấng chịu đau khổ [mitleidet] với các tạo vật của mình, Đấng vì misericors (thương xót) nên có một trái tim (cor) với người nghèo và vì người nghèo (miseri) (41). Có thể nào một Thiên Chúa vốn được quan niệm là vô cảm như thế lại thực sự là đồng cảm đến như vậy hay không?
Về phương diện mục vụ, quan niệm như thế về Thiên Chúa là một thảm họa. Vì, đối với đa số người ta, một Thiên Chúa bị quan niệm trừu tượng như thế xem ra quá xa cách đối với tình trạng bản thân của họ. Đối với họ, một Thiên Chúa như thế xem ra có rất ít hay không có liên hệ gì đối với hiện tình của thế giới, trong đó, hầu như mọi phúc trình tin tức hãi hùng hàng ngày vẫn được đem tới, hết tin này tới tin nọ, và nhiều người bị bối rối lo âu sâu xa đối với tương lai. Khoảng cách rộng lớn giữa trải nghiệm thực tại và việc công bố của đức tin có nhiều hậu quả thảm hại. Vì việc công bố một Thiên Chúa vô cảm trước đau khổ là nguyên nhân khiến Thiên Chúa ra xa lạ và cuối cùng không liên hệ gì tới những con người nhân bản nữa.
Trong phạm vi cái hiểu siêu hình về Thiên Chúa, vấn đề thương xót trong các sách giáo khoa thần học cuối cùng chỉ có thể được xử lý trong việc nối kết nó với vấn đề công lý của Thiên Chúa, và là thứ công lý được nền triết học cổ thời hiểu như là trả cho ai phần họ đáng được (suum cuique). Công lý luật pháp (Justitia legalis), công lý phân phối (Justitia distributiva) và công lý thưởng phạt (Justitia vindicativa) cũng có liên hệ ở đây. Dựa trên công lý thưởng phạt, Thiên Chúa tưởng thưởng người tốt và trừng phạt người xấu. Cả điều này hẳn cũng sẽ đặt ra câu hỏi làm thế nào hòa giải được lòng Chúa thương xót với công lý thưởng phạt của Người? Nếu Thiên Chúa là Đấng thương xót và không trừng phạt người tội lỗi, thì việc này làm sao có thể tương hợp với công lý Thiên Chúa? Câu trả lời là: Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi biết ăn năn, sẵn sàng thay đổi đường lối của mình, nhưng Người trừng phạt những người không thống hối việc làm xấu và không chịu thay đổi đường lối của mình. Câu trả lời này hữu lý nếu ta thừa nhận công lý thưởng phạt là quan điểm cao hơn mà ta đặt lòng thương xót phụ thuộc vào, có thể nói như thế, như là một dịp để thi hành công lý thưởng phạt.
Hình ảnh một Thiên Chúa hay trừng phạt và ưa báo oán đã đẩy nhiều người vào một trạng thái lo âu xao xuyến đối với phần rỗi đời đời của họ. Điển hình nổi tiếng nhất và là điển hình gây những hậu quả lớn lao nhất trong lịch sử Giáo Hội là chàng tuổi trẻ Martin Luther; đối với chàng, câu hỏi “Làm thế nào tôi có được một Thiên Chúa từ nhân?” đã gây nên những náo động hãi hùng trong lương tâm một thời gian thật dài trước khi chàng tiến tới chỗ hiểu ra rằng theo Thánh Kinh, công lý của Thiên Chúa không phải là công lý trừng phạt, mà đúng hơn là công lý công chính hóa của Người, một công lý bao hàm lòng thương xót. Giáo Hội trở thành chia rẽ về vấn đề này trong thế kỷ 16. Như thế, mối liên hệ giữa công lý và lòng thương xót trở thành vấn đề định mệnh của thần học Phương Tây (42).
Cho mãi tới thế kỷ 20, ta mới tìm được một đồng thuận căn bản giữa người Luthêrô và người Công Giáo liên quan tới vấn đề công chính hóa người tội lỗi (43). Việc này chỉ có thể có được vì chúng ta đã cùng nhau hiểu ra rằng công lý của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Người. Tuy thế, các hệ luận đối với học lý về Thiên Chúa và đối với phương cách mới để nói về một Thiên Chúa giải thoát và công chính hóa, vốn ngụ hàm trong thoả thuận chung liên quan tới học lý công chính hóa, thì cho tới nay vẫn chưa được rút tỉa bao nhiêu. Ở đây, ta đang đương đầu với một thách đố căn bản chung liên quan tới việc tân phúc âm hóa.
Bởi thế, ta đang đứng trước bổn phận phải kéo lòng thương xót ra khỏi kiếp hiện sinh Cinderella mà nó từng rơi vào trong thần học truyền thống. Điều này phải diễn ra mà không trở thành nạn nhân của hình ảnh tầm thường và tầm thường hóa về một “Thiên Chúa thân mến” bọc đường, một hình ảnh biến Thiên Chúa thành một bằng hữu tốt bụng và không còn coi trọng chút nào sự thánh thiện của Người. Lòng thương xót phải được hiểu là công lý riêng của Thiên Chúa và là sự thánh thiện của Người. Chỉ với chiều hướng này, ta mới có thể làm cho hình ảnh người cha nhân hậu và hay thương xót, hình ảnh mà Chúa Giêsu từng công bố với ta, tỏa sáng một lần nữa. Ta cũng có thể nói: điều cần là phải vẽ ra hình ảnh một vị Thiên Chúa có thiện cảm. Điều này càng cần thiết gấp bội khi phải đối đầu với nhiều xuyên tạc ý thức hệ đối với hình ảnh Thiên Chúa.
Kỳ sau: 4. Lòng thương xót dưới sự nghi ngại của ý thức hệ.
_____________________________________________________________________________________
(25) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima e altri scritti di pietà, a cura di L.F. Capovilla (Milan: Edizione paoline, 1989), 452
(26) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima, 149.
(27) Đức Gioan XXIII, “Opening Speech to the Council” trong The Documents of Vatican II, Walter M. Abbott hiệu đính (New York: Guild Press, 1966), 716.
(28) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima, 465.
(29) Xem Walter Kasper, Katholische Kirche: Wesen-Wirklichkeit-Sendung (Freiburg i. Br.: Herder 2011), 32, 39-41, 453 f.
(30) Muốn có một sưu tập các bản văn, xin xem Đức Gioan Phaolô II, Bamherzigkeit Gottes: Quelle der Hoffnung (Einsiedeln: Johannes, 2011). Có một số ấn phẩm nói về sự đóng góp của Đức Gioan Phaolô II vào chủ đề thương xót. Ở đây, chỉ xin nhắc tới 2 ấn phẩm sau: Christoph von Schonborn, We Have Found Mercy: The Mystery of Divine Mercy (San Francisco: Ignatius Polkress, 2012). Edith Olk, Die Barmherzigkeit Gottes als zentrale Quelle des chrislichenLebens (St. Ottilie: EOS, 2011).
(31) Đức Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia (1980): Mit einemKommentar von K. Lehmann (Freiburg i. Br.: Herder, 1981).
(32) Tagebuch der Schwester Maria Faustina Kowalska (Hauteville: parvis-Verlag, 1996). Xem Hans Buob, Die Barmherzigkeit Gottes und der Menschen: Heilmittel fur Seele und Leib nach dem Tagebuch der Schwester Faustina (Fremdingen:UNIO-Verlag, 2007).
(33) Đức Gioan Phaolô II, Memory and Identity: Conversations at the Dawnof a Millennium (New York: Rizzoli, 2005), 55.
(34) Xem các chương III và IV.
(35) Franz Diekamp chỉ dành 11 dòng nói về lòng thương xót và nói về nó song song với các thuộc tính khác của Thiên Chúa. Đối với một nền thần học tín lý được cấu trúc theo các nguyên tắc của Thánh Tôma Aquinô, vị thánh từng phát biểu rất nhiều mệnh đề tuyệt vời về lòng thương xót, thì điều này quả là lạ lùng. Xem tác phẩm của ông Katholische Dogmatik nach den Grundsatzen des heiligen Thomas, Bd.1, (Munster: Aschendorff, 1957), 225. Joseph Pohle và Joseph Gummersbach nói về lòng thương xót gần như một phụ lục, bàn tới nó như thuộc tính cuối cùng của Thiên Chúa. Xem tác phẩm của họ Lehrbuch der Dogmatik, Bd.1, (Paderborn: Schoningh, 1952), 338-40. Trong tín lý học của Ludwig Ott, lòng thương xót chỉ chiếm một trang khi ông bàn tới các thuộc tính luân lý của Thiên Chúa: Grundriss katholischer Dogmatik (Freiburg i. Br.: Herder, 1970), 57f. Trong tín lý học của Michael Schmauss, lòng thương xót chiếm 2 trang rưỡi, nhưng cũng chỉ ở khoảng cuối của một cuốn sách 678 trang bàn tới học lý về Thiên Chúa và, do đó, ở một chỗ nó không thi thố được một ảnh hưởng có tính cách quyết định nào đối với hệ thống tín lý. Xem tác phẩm của ông Katholische Dogmatik, Bd. 1 (Munchen: Hueber, 1960). Chỉ có một tham chiếu ngắn ngủi trong cuốn Glaubenszugange: Lehrbuch der katholischen Dogmatik, Bd. 1 (Paderborn: Schoningh, 1995),392, của Wolfgang Beinert, về lòng thương xót khi nói về học lý tạo dựng. Đây mới chỉ là những điển hình, mà ta có thể nhân thừa lên.
(36) Trong Mysterium salutis: Grundriss heilgeschichtlicher Dogmatik, Bd. 2 (Einsiedeln: Benziger Verlag, 1967), lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ được nhắc tới trong những đoạn xử lý nền thần học thánh kinh, chứ không được thảo luận một cách có hệ thống (264,268, 279,1113). Điều này cũng đúng đối với cuốn Initiation à la pratique de la théologie của Bernard Lauret và Francois Refoulé (Paris: Éditions du Cerf, 1983), vol. 3. Các cuốn Handbuch der Dogmatik của Theodor Schneider, Bd. 1 (Dusseldorf: Patmos Verlag, 1992, Katholische Dogmatik (Freiburg i. Bd.: Herder, 1995) và Dogmatik của Harald Wagner (Stuttgart: Kohlmammer, 2003) không có gì đáng nói về lòng thương xót. Nhưng ngạc nhiên là Otto Hermann Pesch, trong tín lý học của mình, một tín lý học được đưa ra trong viễn ảnh đại kết, đã không dành một chữ nào nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, dù bắt buộc phải có khi bàn tới kinh nghiệm của Luther: xem Katholische Dogmatik, Bd. I/2 (Ostfildern: Matthias-Grunewald, Verlag, 2008). Bất hạnh một điều, chính tôi cũng không thoát khỏi bị chỉ trích. Vì chính tôi cũng đã bỏ qua ý niệm này khi trình bầy học lý về Thiên Chúa trong cuốn The God of Jesus Christ.
(37) Trường hợp ngoại lệ rất đáng khen, trước nhất và trên hết, là Matthias Joseph Scheeben, Handbuch der katholischen Dogmatik, Bd. 2 (Freiburg i. Br.: Herder, 1948), §101, 265-67. Một điển hình tích cực từ nền thần học gần đây hơn là Bertrand de Margerie, Les Perfections du Dieu de Jésus Christ (Paris: Cerf, 1981), 255-68.
(38) Xem ch. V,1.
(39) Xem ch.V, 6.
(40)Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. I, q.21 a.3.
(41) Xem ch.III.
(42) Như Otto Pesch đã nhận xét đúng. Xem bài của ông, “Gerechtigkeit Gottes II”, Lexikon fur Yheologie und Kirche, 3d ed., Walter Kasper và những người khác hiệu đính (Freiburg: Herder, 1993-2001).
(43) Tuyên Bố Chung Chính Thức của Liên Minh Luthêrô Thế Giới và Giáo Hội Công Giáo và Tuyên Bố Chung về Học Lý Công Chính Hóa (31 tháng Mười, 1999). Cả hai tài liệu này có tại trang mạng chính thức của Vatican http://vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/christuni/sub-index/index_lutheran-fed.htm. Xem ch.V, 3.
Hai vị giáo hoàng của hậu bán thế kỷ 20 đã rõ ràng nhận ra các “dấu chỉ của thời đại” và đã khẩn khoản yêu cầu để vấn đề thương xót được đem vào tâm điểm của việc công bố lẫn việc thực hành của Giáo Hội một lần nữa. Đức Gioan XXIII, “vị giáo hoàng nhân từ”, như người Ý từng âu yếm gọi ngài, là vị giáo hoàng đầu tiên tiếp nhận thách đố này. Nhật ký thiêng liêng của ngài chứa nhiều suy niệm sâu sắc liên quan tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Đối với ngài, lòng thương xót là tên đẹp nhất và là cách xưng hô đẹp nhất đối với Thiên Chúa. Sự thảm hại của ta chính là ngai của lòng Chúa thương xót (25). Đức Giáo Hoàng Gioan trích dẫn Thánh Vịnh 89:2: “Con tuyên xưng rằng tình yêu bền vững của Ngài được thiết lập thiên thu” (26).
Bởi thế, để phù hợp với các xác tín nội tâm của ngài, các xác tín vốn đã chín mùi từ lâu trước đó, và để phù hợp với quan tâm bản thân sâu sắc của ngài, trong bài diễn văn đầy cách mạng của ngài nhân dịp khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng Mười, năm 1962, Đức Gioan XXIII đã nói rằng trọng điểm của Công Đồng không phải chỉ nhắc lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Theo ngài, giáo huấn này ai cũng đã biết và luôn xác tín. Giáo Hội vốn chống lại “các lầm lỗi của mọi thời đại. Giáo Hội thường lên án chúng một cách nghiêm khắc nhất. Tuy nhiên, ngày nay, Hiền Thê của Giáo Hội thích dùng thuốc thương xót hơn là sự nghiêm khắc kia” (27).
Với câu tuyên bố trên, Đức Giáo Hoàng đã gióng lên một cung giọng mới, khiến mọi người ngồi dậy và chú ý. Hậu quả của nó rất nhiều, suốt trong diễn trình sau đó của Công Đồng. Vì, giống như Đức Giáo Hoàng, tất cả 16 văn kiện của Công Đồng đều chỉ nhằm hủy bỏ hay thay đổi rất ít giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Chúng không muốn đoạn tuyệt với truyền thống trước đó của Giáo Hội. Nhưng chúng gióng lên một cung giọng mới và bênh vực một phong thái mới cho việc công bố và cho đời sống Giáo Hội. Giống như Đức Giáo Hoàng, các văn kiện này nhìn nhận mối liên kết giữa lòng thương xót và sự thật (28). Đức Gioan XXIII lên đặc điểm cho phong thái mới này bằng cách nói tới mục tiêu mục vụ của Công Đồng.
Trong thời gian Công Đồng cũng như trong thời gian sau đó, nhiều cuộc thảo luận và nhiều hiểu lầm đã xẩy ra liên quan tới ý niệm “mục vụ” (29). Không đi vào cuộc thảo luận có tính kỹ thuật ở đây, ta có thể nói: phong thái mục vụ mới, mà Đức Gioan XXIII muốn có, liên quan nhiều tới điều chính ngài nói trong bài diễn văn khai mạc, khi ngài đề cập tới thuốc thương xót. Từ lúc ấy, chủ đề thương xót đã trở nên chủ đề nền tảng không những cho Công Đồng mà còn cho cả nguyên lý hành động mục vụ của Giáo Hội hậu Công Đồng nữa.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp tục và đào sâu thêm điều Đức Gioan XXIII đã bắt đầu. Vấn đề thương xót không được đặt ra với ngài ở phòng làm việc. Giống một số vị khác, vị giáo hoàng này biết rõ lịch sử đau khổ của thời ngài và ngài trải nghiệm nó một cách cụ thể ngay trong con người của mình. Ngài lớn lên trong khu vực cận kề Auschwitz. Lúc còn trẻ, lúc đầu đời linh mục, và lúc là Giám Mục Cracow, ngài sống qua các kinh hoàng của hai thế chiến và hai chế độ toàn trị dã man. Ngài cũng trải nghiệm nhiều thống khổ của dân tộc ngài và của chính đời ngài. Triều giáo hoàng của ngài được ghi dấu bằng những hậu quả của cuộc mưu sát và, trong các năm tháng sau cùng, bằng chính đau khổ bản thân của ngài. Chứng tá đau khổ của ngài là một bài thuyết giảng mạnh mẽ hơn các bài giảng lễ và nhiều soạn tác khác của ngài. Nhờ cách này, ngài biến sứ điệp thương xót thành chủ đề dẫn đầu của triều giáo hoàng lâu dài của ngài. Ngài làm cho Giáo Hội của Thế Kỷ 21 lưu ý tới nó (30).
Chính thông điệp thứ hai trong triều giáo hoàng của ngài, Dives in Misericordia (1980), đã được dành cho vấn đề thương xót. Bản dịch tiếng Đức của thông điệp này mang tựa đề “Hữu Thể Nhân Bản Đang Lâm Nguy và Sức Mạnh của Lòng Thương Xót” (31). Trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở ta rằng một mình công lý không đủ, vì summa justitia (công lý tối cao) cũng có thể là summa injustitia (bất công tối cao). Cuộc phong hiển thánh đầu tiên trong thiên niên kỷ thứ ba, diễn ra ngày 30 tháng Tư năm 2000, cố ý và có bài bản đàng hoàng bàn tới vấn đề thương xót. Vì vào ngày ấy, ngài đã phong hiển thánh cho chị dòng và là nhà huyền nhiệm Ba Lan tên Faustina Kowalska (qua đời năm 1938), người mà cho tới lúc ấy, không được nổi tiếng bao nhiêu. Trong các ghi chép của chị, người nữ tu đơn sơ này đã vượt xa cả nền thần học tân kinh viện khoa bảng và lý thuyết siêu hình hoàn toàn trừu tượng của nó nói về các thuộc tính của Thiên Chúa. Chị mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa, hoàn toàn theo cung giọng Thánh Kinh, như là thuộc tính lớn nhất và cao nhất trong các thuộc tính của Thiên Chúa và chị nhấn mạnh tới lòng thương xót, coi nó như sự hoàn thiện tinh ròng và đơn giản của Thiên Chúa (32). Do đó, Faustina đã đứng trong truyền thống vĩ đại của huyền nhiệm học nữ giới. Trong bối cảnh này, ta chỉ cần nhớ tới Thánh Nữ Catarina đệ Sienna và Thánh Nữ Têrêxa đệ Lisieux.
Trong cuộc viếng thăm Lagiewniki, một khu ngoại ô của Cracow, nơi Chị Faustina từng sống, ngày 7 tháng Sáu năm1997, Đức Giáo Hoàng nói rằng nhờ trải nghiệm thảm hại của Thế Chiến II, lịch sử đã khắc ghi vấn đề thương xót như một cứu giúp đặc biệt và là nguồn hy vọng khôn cùng. Xét theo một phương diện, sứ điệp này đã vẽ lên toàn bộ bức tranh cho triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II. Trong bài giàng Thánh Lễ Phong Thánh cho Chị Faustina, ngài nói rằng sứ điệp này phải như một tia nắng, soi đường cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba. Trong chuyến viếng thăm quê hương Ba Lan của ngài lần cuối cùng, ngày 17 tháng Tám năm 2002, tại Lagiewniki, ngài long trọng dâng thế giới cho lòng Chúa thương xót. Dịp này, ngài trao cho Giáo Hội trách vụ loan truyền ngọn lửa thương xót cho thế giới. Đước Chị Faustina gợi hứng, ngài tuyên bố Chúa Nhật sau Lễ Phục Sinh, thường gọi là “Chúa Nhật Thấp”, là Chúa Nhật Thương Xót.
Nhiều người cho là một dấu chỉ Chúa Quan Phòng khi vị giáo hoàng này được gọi về Nhà Cha của ngài vào buổi tối trước Chúa Nhật Thương Xót, 2 tháng Tư năm 2005. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI ủng hộ lối giải thích này dịp phong chân phúc cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào Chúa Nhật Thương Xót, 1 tháng Năm năm 2011. Trước đó, trong Thánh Lễ An Táng tại Quảng Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, 8 tháng Tư năm 2005, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger lúc đó, trong tư cách Hồng Y phó tế, đã nhấn mạnh rằng lòng thương xót là quan tâm đặc biệt của vị tiền nhiệm và ngài tiếp nhận quan tâm này làm nghĩa vụ bản thân của mình. Ngài nói “Ngài [tức Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II] đã chỉ cho thấy bí quyết Phục Sinh chính là bí quyết của lòng Chúa thương xót. Trong cuốn sách cuối cùng của mình, ngài từng viết: ranh giới được thiết lập cho sự ác ‘cuối cùng chính là lòng Chúa thương xót’”. Đó chính là câu trích nguyên văn từ một tác phẩm được Đức Gioan Phaolô xuất bản chỉ mấy tháng trước khi ngài qua đời, tựa là Ký Ức và Bản Sắc. Nó nói lên một lần nữa quan tâm chính của ngài một cách tóm lược (33).
Trong Thánh Lễ khai mạc mật nghị hội bầu giáo hoàng ngày 18 tháng Tư năm 2005, Đức Hồng Y Ratzinger nói: “Đầy hân hoan, chúng ta nghe công bố Năm Thương Xót: lòng Chúa thương xót lập ranh giới cho sự ác, Đức Thánh Cha dạy ta như thế. Chúa Giêsu Kitô đích thân là lòng Chúa thương xót: gặp gỡ Chúa Kitô là gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa. Ủy nhiệm thư của Chúa Kitô đã trở thành ủy nhiệm thư của ta qua việc xức dầu linh mục. Chúng ta được trao phó việc công bố ‘Năm Thương Xót của Chúa’ không chỉ bằng lời, mà còn bằng cả đời sống ta và bằng các dấu chỉ hữu hiệu của bí tích nữa”.
Do đó, ta không thể ngạc nhiên khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, ngay trong thông điệp đầu tiên của ngài năm 2006, tựa là Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình Yêu), đã tiếp nối đường lối suy nghĩ của vị tiền nhiệm và đào sâu nó hơn nữa về thần học. Trong thông điệp xã hội của mình, tựa là Caritas in Veritate (Đức Ái trong Chân Lý), ngài cụ thể hóa chủ đề này bằng cách lưu ý tới các thách đố mới. Khác với nhiều thông điệp xã hội trước đó, ngài không khởi diễn từ công lý, mà từ tình yêu, coi nó như nguyên lý căn bản của giáo huấn xã hội Kitô Giáo. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã chọn một khởi điểm mới cho giáo huấn xã hội của Giáo Hội và đem lại một đà thúc đẩy mới để một lần nữa tiếp nối cách mới mẻ sự quan tâm đối với lòng thương xót trong một ngữ cảnh rộng lớn hơn.
Như thế, ba vị giáo hoàng trong hậu bán thế kỷ 20 và khởi đầu thế kỷ 21, đã trao cho ta vấn đề thương xót. Đây thực sự không phải là chủ đề hạng nhì, mà đúng hơn là chủ đề căn bản của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước và là vấn đề nền tảng đối với thế kỷ 21 như là câu giải đáp cho “các dấu chỉ của thời đại”.
3. Lòng thương xót: đã bị lãng quên một cách đáng kết tội
Việc nhấn mạnh tới lòng thương xót như là chủ đề chính cho thần học thế kỷ 21, cho một ngôn từ về Thiên Chúa có thể đem lại một giải thích hợp lý cho đức tin vào Người của ta, có nghĩa là ta phải tìm hiểu cách mới mẻ ý nghĩa chính của sứ điệp lòng Chúa thương xót trong chứng từ của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (34). Ngay khi vừa làm việc này, ta đã hiểu một cách ngạc nhiên, thậm chí ngỡ ngàng nữa, rằng chủ đề này, một chủ đề có tính trung tâm đối với Thánh Kinh và hết sức có liên hệ đối với việc cảm nghiệm thực tại hiện nay, dường như chỉ đứng ở bên lề các từ vựng và các sách giáo khoa thần học tín lý. Trong các sách giáo khoa tín lý gần đây hơn, lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ được coi như một trong các thuộc tính của Thiên Chúa mà thôi. Nó thường chỉ được bàn đến một cách vắn vỏi và chỉ sau các thuộc tính dẫn khởi từ yếu tính siêu hình của Thiên Chúa. Do đó, lòng thương xót không hề có tính quyết định xét về hệ thống (35).
Trong các sách giáo khoa gần đây hơn, lòng thương xót thường vắng bóng hoàn toàn (36) và, nếu có xuất hiện đâu đó, thì chắc chắn cũng chỉ là tình cờ mà thôi. Chỉ là các ngoại lệ; tuy nhiên, các ngoại lệ này, về căn bản, không thể thay đổi được hiện tượng nói chung trên (37).
Ta không thể coi các khám phá trên là gì khác ngoài việc làm ta ngã lòng, thậm chí là tai họa nữa. Điều cần hiện nay là suy nghĩ thấu đáo trở lại toàn bộ giáo huấn về các thuộc tính của Thiên Chúa và, trong diễn trình này, giúp lòng thương xót chiếm vị trí thích đáng của nó. Vì các khám phá trên không thể đánh giá đúng ý nghĩa trung tâm của lòng thương xót trong Thánh Kinh cũng như các trải nghiệm kinh hoàng của thế kỷ 20 và nỗi lo âu của chúng ta đối với tương lai ở buổi đầu thế kỷ 21 này. Trong một tình huống trong đó nhiều người cùng thời với ta đang ngã lòng, mất hết hy vọng và định hướng, thì sứ điệp của lòng Chúa thương xót phải đem theo sứ điệp trấn an và hy vọng. Như thế, việc nhấn mạnh tới ý nghĩa của lòng Chúa thương xót đối với tình thế hiện nay đem lại cho thần học một kích thích mạnh mẽ.
Sự thất bại của suy tư thần học đối với sứ điệp thương xót, một sứ điệp vốn có tính trung tâm trong Thánh Kinh, đã khiến ý niệm này thường bị hạ giá, thoái hóa thành một thứ linh đạo “hạng nhẹ” (soft) hay một thứ quan tâm mục vụ mờ nhạt, thiếu hẳn định nghĩa rõ ràng và buộc phải uốn cong theo từng cá nhân. Ta có thể hiểu được thứ triết lý hành động hạng nhẹ này như một phản ứng chống lại thứ triết lý hành động cứng ngắc, vụ luật. Nhưng lòng thương xót sẽ trở thành ngụy thương xót khi nó không còn một chút run sợ nào trước nhan Thiên Chúa, Đấng vốn thánh thiện, và không còn chút run sợ nào trước công lý và phán xử của Người nữa. Nó sẽ trở thành ngụy thương xót khi “có” không còn là “có” nữa, và “không” không còn là “không” nữa; khi nó không vượt qúa, mà đúng hơn hạ giá việc đòi công lý. Tin Mừng dạy phải công chính hóa người tội lỗi, chứ không công chính hóa tội lỗi. Vì lý do này, ta phải yêu người tội lỗi nhưng phải ghét tội lỗi.
Lý do khiến ta nói tới lòng thương xót một cách qua loa sẽ trở nên hiển nhiên khi ta cho rằng các thuộc tính nào của Thiên Chúa được rút ra từ yếu tính siêu hình của Thiên Chúa hiểu như Sự Hữu Tự Tồn (ipsum esse subsistens) phải là tập chú của các sách giáo khoa: tính đơn giản, tính vô hạn, tính vĩnh cửu, tính hiện diện ở khắp mọi nơi, tính toàn năng, tính toàn trí và các thuộc tính khác. Tính quyết định siêu hình của yếu tính Thiên Chúa, từng lên khuôn cho toàn bộ truyền thống thần học kể từ thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, là điều không thể nào nghi vấn từ trong nền tảng của nó được. Tính chính đáng cũng như các giới hạn của nó sẽ được nghiên cứu chi tiết sau này (38). Ở đây, ta chỉ nên nhấn mạnh rằng: trong các thông số (parameters) thuộc tính siêu hình của Thiên Chúa, ít có chỗ dành cho ý niệm thương xót, là ý niệm không phát xuất từ yếu tính siêu hình, mà đúng hơn từ việc tự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử. Trong các thông số thuộc tính của Thiên Chúa, cũng có thật ít chỗ dành cho sự thánh thiện và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nghĩa là dành cho việc Người chống lại sự ác. Do đó, lãng quên lòng thương xót không phải là một loại vấn đề thứ yếu nằm ở bên lề học lý về Thiên Chúa; mà đúng hơn, nó đối chất với ta bằng vần đề nền tảng phải xác định được yếu tính của Thiên Chúa và các thuộc tính của Người nói chung. Nó khiến cho việc suy nghĩ mới mẻ về học lý Thiên Chúa trở nên cần thiết.
Khởi điểm truyền thống về siêu hình trong học lý về Thiên Chúa đem theo nó một vấn đề nữa để nói về lòng Chúa thương xót. Tức là, nếu Thiên Chúa chính là sự hữu, thì sự hoàn hảo tuyệt đối trong sự hữu của Người là điều tất nhiên phải phát sinh từ sự viên mãn tuyệt đối của sự hữu này. Sự hoàn hảo như thế ngụ hàm Thiên Chúa không thể nào chịu khổ được (apatheia = ἀᴨάθεΙα) vì chịu khổ phải được hiểu như một thiếu sót. Dựa trên khởi điểm thần học của nó, thần học tín lý khó có thể nói tới một Thiên Chúa cảm thương (compassionate) (39). Nó buộc phải loại bỏ khả thể Thiên Chúa chịu đau khổ (pati) với các tạo vật của Người theo nghĩa thụ động; nó chỉ có thể nói tới lòng thương hại (mitleid) và thương xót mà thôi, theo nghĩa tác động là: Thiên Chúa chống lại sự đau khổ nơi các thụ tạo của Người và ban cho chúng ơn trợ giúp của Người (40). Câu hỏi còn lại là liệu điều này có tương hợp thỏa đáng với cái hiểu của Thánh Kinh về Thiên Chúa hay không; một cái hiểu vẫn cho rằng Người là Đấng chịu đau khổ [mitleidet] với các tạo vật của mình, Đấng vì misericors (thương xót) nên có một trái tim (cor) với người nghèo và vì người nghèo (miseri) (41). Có thể nào một Thiên Chúa vốn được quan niệm là vô cảm như thế lại thực sự là đồng cảm đến như vậy hay không?
Về phương diện mục vụ, quan niệm như thế về Thiên Chúa là một thảm họa. Vì, đối với đa số người ta, một Thiên Chúa bị quan niệm trừu tượng như thế xem ra quá xa cách đối với tình trạng bản thân của họ. Đối với họ, một Thiên Chúa như thế xem ra có rất ít hay không có liên hệ gì đối với hiện tình của thế giới, trong đó, hầu như mọi phúc trình tin tức hãi hùng hàng ngày vẫn được đem tới, hết tin này tới tin nọ, và nhiều người bị bối rối lo âu sâu xa đối với tương lai. Khoảng cách rộng lớn giữa trải nghiệm thực tại và việc công bố của đức tin có nhiều hậu quả thảm hại. Vì việc công bố một Thiên Chúa vô cảm trước đau khổ là nguyên nhân khiến Thiên Chúa ra xa lạ và cuối cùng không liên hệ gì tới những con người nhân bản nữa.
Trong phạm vi cái hiểu siêu hình về Thiên Chúa, vấn đề thương xót trong các sách giáo khoa thần học cuối cùng chỉ có thể được xử lý trong việc nối kết nó với vấn đề công lý của Thiên Chúa, và là thứ công lý được nền triết học cổ thời hiểu như là trả cho ai phần họ đáng được (suum cuique). Công lý luật pháp (Justitia legalis), công lý phân phối (Justitia distributiva) và công lý thưởng phạt (Justitia vindicativa) cũng có liên hệ ở đây. Dựa trên công lý thưởng phạt, Thiên Chúa tưởng thưởng người tốt và trừng phạt người xấu. Cả điều này hẳn cũng sẽ đặt ra câu hỏi làm thế nào hòa giải được lòng Chúa thương xót với công lý thưởng phạt của Người? Nếu Thiên Chúa là Đấng thương xót và không trừng phạt người tội lỗi, thì việc này làm sao có thể tương hợp với công lý Thiên Chúa? Câu trả lời là: Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi biết ăn năn, sẵn sàng thay đổi đường lối của mình, nhưng Người trừng phạt những người không thống hối việc làm xấu và không chịu thay đổi đường lối của mình. Câu trả lời này hữu lý nếu ta thừa nhận công lý thưởng phạt là quan điểm cao hơn mà ta đặt lòng thương xót phụ thuộc vào, có thể nói như thế, như là một dịp để thi hành công lý thưởng phạt.
Hình ảnh một Thiên Chúa hay trừng phạt và ưa báo oán đã đẩy nhiều người vào một trạng thái lo âu xao xuyến đối với phần rỗi đời đời của họ. Điển hình nổi tiếng nhất và là điển hình gây những hậu quả lớn lao nhất trong lịch sử Giáo Hội là chàng tuổi trẻ Martin Luther; đối với chàng, câu hỏi “Làm thế nào tôi có được một Thiên Chúa từ nhân?” đã gây nên những náo động hãi hùng trong lương tâm một thời gian thật dài trước khi chàng tiến tới chỗ hiểu ra rằng theo Thánh Kinh, công lý của Thiên Chúa không phải là công lý trừng phạt, mà đúng hơn là công lý công chính hóa của Người, một công lý bao hàm lòng thương xót. Giáo Hội trở thành chia rẽ về vấn đề này trong thế kỷ 16. Như thế, mối liên hệ giữa công lý và lòng thương xót trở thành vấn đề định mệnh của thần học Phương Tây (42).
Cho mãi tới thế kỷ 20, ta mới tìm được một đồng thuận căn bản giữa người Luthêrô và người Công Giáo liên quan tới vấn đề công chính hóa người tội lỗi (43). Việc này chỉ có thể có được vì chúng ta đã cùng nhau hiểu ra rằng công lý của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Người. Tuy thế, các hệ luận đối với học lý về Thiên Chúa và đối với phương cách mới để nói về một Thiên Chúa giải thoát và công chính hóa, vốn ngụ hàm trong thoả thuận chung liên quan tới học lý công chính hóa, thì cho tới nay vẫn chưa được rút tỉa bao nhiêu. Ở đây, ta đang đương đầu với một thách đố căn bản chung liên quan tới việc tân phúc âm hóa.
Bởi thế, ta đang đứng trước bổn phận phải kéo lòng thương xót ra khỏi kiếp hiện sinh Cinderella mà nó từng rơi vào trong thần học truyền thống. Điều này phải diễn ra mà không trở thành nạn nhân của hình ảnh tầm thường và tầm thường hóa về một “Thiên Chúa thân mến” bọc đường, một hình ảnh biến Thiên Chúa thành một bằng hữu tốt bụng và không còn coi trọng chút nào sự thánh thiện của Người. Lòng thương xót phải được hiểu là công lý riêng của Thiên Chúa và là sự thánh thiện của Người. Chỉ với chiều hướng này, ta mới có thể làm cho hình ảnh người cha nhân hậu và hay thương xót, hình ảnh mà Chúa Giêsu từng công bố với ta, tỏa sáng một lần nữa. Ta cũng có thể nói: điều cần là phải vẽ ra hình ảnh một vị Thiên Chúa có thiện cảm. Điều này càng cần thiết gấp bội khi phải đối đầu với nhiều xuyên tạc ý thức hệ đối với hình ảnh Thiên Chúa.
Kỳ sau: 4. Lòng thương xót dưới sự nghi ngại của ý thức hệ.
_____________________________________________________________________________________
(25) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima e altri scritti di pietà, a cura di L.F. Capovilla (Milan: Edizione paoline, 1989), 452
(26) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima, 149.
(27) Đức Gioan XXIII, “Opening Speech to the Council” trong The Documents of Vatican II, Walter M. Abbott hiệu đính (New York: Guild Press, 1966), 716.
(28) Đức Gioan XXIII, Il giornale dell’anima, 465.
(29) Xem Walter Kasper, Katholische Kirche: Wesen-Wirklichkeit-Sendung (Freiburg i. Br.: Herder 2011), 32, 39-41, 453 f.
(30) Muốn có một sưu tập các bản văn, xin xem Đức Gioan Phaolô II, Bamherzigkeit Gottes: Quelle der Hoffnung (Einsiedeln: Johannes, 2011). Có một số ấn phẩm nói về sự đóng góp của Đức Gioan Phaolô II vào chủ đề thương xót. Ở đây, chỉ xin nhắc tới 2 ấn phẩm sau: Christoph von Schonborn, We Have Found Mercy: The Mystery of Divine Mercy (San Francisco: Ignatius Polkress, 2012). Edith Olk, Die Barmherzigkeit Gottes als zentrale Quelle des chrislichenLebens (St. Ottilie: EOS, 2011).
(31) Đức Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia (1980): Mit einemKommentar von K. Lehmann (Freiburg i. Br.: Herder, 1981).
(32) Tagebuch der Schwester Maria Faustina Kowalska (Hauteville: parvis-Verlag, 1996). Xem Hans Buob, Die Barmherzigkeit Gottes und der Menschen: Heilmittel fur Seele und Leib nach dem Tagebuch der Schwester Faustina (Fremdingen:UNIO-Verlag, 2007).
(33) Đức Gioan Phaolô II, Memory and Identity: Conversations at the Dawnof a Millennium (New York: Rizzoli, 2005), 55.
(34) Xem các chương III và IV.
(35) Franz Diekamp chỉ dành 11 dòng nói về lòng thương xót và nói về nó song song với các thuộc tính khác của Thiên Chúa. Đối với một nền thần học tín lý được cấu trúc theo các nguyên tắc của Thánh Tôma Aquinô, vị thánh từng phát biểu rất nhiều mệnh đề tuyệt vời về lòng thương xót, thì điều này quả là lạ lùng. Xem tác phẩm của ông Katholische Dogmatik nach den Grundsatzen des heiligen Thomas, Bd.1, (Munster: Aschendorff, 1957), 225. Joseph Pohle và Joseph Gummersbach nói về lòng thương xót gần như một phụ lục, bàn tới nó như thuộc tính cuối cùng của Thiên Chúa. Xem tác phẩm của họ Lehrbuch der Dogmatik, Bd.1, (Paderborn: Schoningh, 1952), 338-40. Trong tín lý học của Ludwig Ott, lòng thương xót chỉ chiếm một trang khi ông bàn tới các thuộc tính luân lý của Thiên Chúa: Grundriss katholischer Dogmatik (Freiburg i. Br.: Herder, 1970), 57f. Trong tín lý học của Michael Schmauss, lòng thương xót chiếm 2 trang rưỡi, nhưng cũng chỉ ở khoảng cuối của một cuốn sách 678 trang bàn tới học lý về Thiên Chúa và, do đó, ở một chỗ nó không thi thố được một ảnh hưởng có tính cách quyết định nào đối với hệ thống tín lý. Xem tác phẩm của ông Katholische Dogmatik, Bd. 1 (Munchen: Hueber, 1960). Chỉ có một tham chiếu ngắn ngủi trong cuốn Glaubenszugange: Lehrbuch der katholischen Dogmatik, Bd. 1 (Paderborn: Schoningh, 1995),392, của Wolfgang Beinert, về lòng thương xót khi nói về học lý tạo dựng. Đây mới chỉ là những điển hình, mà ta có thể nhân thừa lên.
(36) Trong Mysterium salutis: Grundriss heilgeschichtlicher Dogmatik, Bd. 2 (Einsiedeln: Benziger Verlag, 1967), lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ được nhắc tới trong những đoạn xử lý nền thần học thánh kinh, chứ không được thảo luận một cách có hệ thống (264,268, 279,1113). Điều này cũng đúng đối với cuốn Initiation à la pratique de la théologie của Bernard Lauret và Francois Refoulé (Paris: Éditions du Cerf, 1983), vol. 3. Các cuốn Handbuch der Dogmatik của Theodor Schneider, Bd. 1 (Dusseldorf: Patmos Verlag, 1992, Katholische Dogmatik (Freiburg i. Bd.: Herder, 1995) và Dogmatik của Harald Wagner (Stuttgart: Kohlmammer, 2003) không có gì đáng nói về lòng thương xót. Nhưng ngạc nhiên là Otto Hermann Pesch, trong tín lý học của mình, một tín lý học được đưa ra trong viễn ảnh đại kết, đã không dành một chữ nào nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, dù bắt buộc phải có khi bàn tới kinh nghiệm của Luther: xem Katholische Dogmatik, Bd. I/2 (Ostfildern: Matthias-Grunewald, Verlag, 2008). Bất hạnh một điều, chính tôi cũng không thoát khỏi bị chỉ trích. Vì chính tôi cũng đã bỏ qua ý niệm này khi trình bầy học lý về Thiên Chúa trong cuốn The God of Jesus Christ.
(37) Trường hợp ngoại lệ rất đáng khen, trước nhất và trên hết, là Matthias Joseph Scheeben, Handbuch der katholischen Dogmatik, Bd. 2 (Freiburg i. Br.: Herder, 1948), §101, 265-67. Một điển hình tích cực từ nền thần học gần đây hơn là Bertrand de Margerie, Les Perfections du Dieu de Jésus Christ (Paris: Cerf, 1981), 255-68.
(38) Xem ch. V,1.
(39) Xem ch.V, 6.
(40)Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. I, q.21 a.3.
(41) Xem ch.III.
(42) Như Otto Pesch đã nhận xét đúng. Xem bài của ông, “Gerechtigkeit Gottes II”, Lexikon fur Yheologie und Kirche, 3d ed., Walter Kasper và những người khác hiệu đính (Freiburg: Herder, 1993-2001).
(43) Tuyên Bố Chung Chính Thức của Liên Minh Luthêrô Thế Giới và Giáo Hội Công Giáo và Tuyên Bố Chung về Học Lý Công Chính Hóa (31 tháng Mười, 1999). Cả hai tài liệu này có tại trang mạng chính thức của Vatican http://vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/christuni/sub-index/index_lutheran-fed.htm. Xem ch.V, 3.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ban Mai Tĩnh Lặng
Thérésa Nguyễn
22:54 10/04/2016
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Trước cảnh thiên nhiên hồn tĩnh lặng
Bao điều trút bỏ...có như không...
(Trích thơ của Sương Anh)
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 05 – 11/04/2016: Thế giới trước vụ tai tiếng Panama Papers
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:12 10/04/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Tình hình dân chúng tại Ukarine ngày càng bi thảm khiến Đức Thánh Cha phải lên tiếng kêu gọi lạc quyên trong các nhà thờ ở Âu Châu vào Chúa Nhật 24-4 tới đây để cứu trợ.
Ngoài ra, một sứ điệp liên đới của Đức Thánh Cha cũng được Đức TGM Claudio Gugerotti, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukarine, mang đến và công bố trong thánh lễ Chúa Nhật phục sinh cử hành tại miền Donetsk ở mạn đông Ukarine.
Trong số những người cần được trợ giúp có 800 ngàn người sống dọc theo con đường phân chia khu vực do chính phủ Ukarine kiểm soát và 2 triệu 700 ngàn người trong những vùng ở ngoài sự kiểm soát của chính phủ. Có nửa triệu người rất cần được trợ giúp về lương thực.
Nhu cầu trong lãnh vực y tế cũng rất lớn, nhất là các phụ nữ có thai và sinh con, trong khi nguy cơ lan tràn bệnh Sida và lao phổi rất trầm trọng, thiếu thuốc mê và insulin cho người bị bệnh tiểu đường. Nhiều cuộc giải phẫu được thực hiện mà không có thuốc mê.
1 triệu 300 ngàn người có nguy cơ không được nước trong lành để uống, trong khi khí đốt và điện thường bị cúp. 2 triệu 300 ngàn người thiếu thuốc men và săn sóc y tế. Có 200 ngàn trẻ em tị nạn trong những vùng ở Ukarine ngoài khu vực có xung đột.
Các tín hữu Công Giáo chiếm 10% dân số ở Cộng hòa Ukarine, và tuy là thiểu số bé nhỏ trong những vùng xung đột, họ có những cơ cấu hiệu năng và động viên để trợ giúp những người túng thiếu.
Trưa Chúa Nhật 3 tháng 4, vào cuối thánh lễ kính Lòng Thương Xót Chúa tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đặc biệt nhắc đến các dân tộc đang khao khát sự hòa giải và hòa bình hơn ai khác, nhất là những người đang chịu hậu quả của bạo lực ở Ukarine: những người ở lại trong những vùng bị xáo trộn vì các hành vi thù nghịch làm cho nhiều ngàn người chết và hơn 1 triệu người phải đi lánh nạn vì tình trạng trầm trọng kéo dài. Trong số những người bị liên hệ có những người già và trẻ em. Đức Thánh Cha nói:
“Ngoài việc liên lỷ nghĩ đến họ và tháp tùng họ bằng lời cầu nguyện, tôi cảm thấy cần quyết định cổ võ một sự trợ giúp nhân đạo cho họ. Với mục đích ấy, sẽ có một cuộc lạc quyên đặc biệt trong tất cả các nhà thờ Công Giáo ở Âu Châu Chúa Nhật 24-4 tới đây. Tôi mời gọi tất cả các tín hữu hiệp với sáng kiến này với sự đóng góp quảng đại. Cử chỉ bác ái này không những thoa dịu những đau khổ về vật chất, nhưng còn muốn bày tỏ sự gần gủi và liên đới của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Tôi nồng nhiệt cầu mong cử chỉ này có thể mau lẹ thăng tiến hòa bình và tôn trọng công pháp ở phần đất đã bị thử thách đau thương rất nhiều như thế”.
Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, là cơ quan bác ái của Đức Thánh Cha, sẽ phối hợp và quản lý ngân khoản lạc quyên được để giúp đỡ dân chúng và người tị nạn Ukarine.
2. Đức Thánh Cha gặp gỡ lãnh đạo Huynh Đoàn Thánh Piô X
Hôm 1 tháng Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ với Giám mục Bernard Fellay, là nhà lãnh đạo của Huynh Đoàn Thánh Piô X, trong một cuộc thảo luận “thân mật” về triển vọng huynh đoàn quay lại với Giáo Hội Công Giáo.
Huynh Đoàn Thánh Piô X đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo vì những bất đồng liên quan đến quan điểm về tự do tôn giáo và đại kết, và việc cử hành thánh lễ theo Phụng Vụ Tridentinô vào năm 1988. Lúc đó, Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre đã tấn phong giám mục cho 4 linh mục mà không được Tòa Thánh chuẩn y. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ra vạ tuyệt thông cho Đức Cha Lefebvre và 4 vị được tấn phong trái phép.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã dỡ bỏ vạ tuyệt thông vào năm 2009, nhưng các giám mục và linh mục của Huynh Đoàn Thánh Piô X vẫn bị đình chỉ chức vụ. Cuộc đàm phán về triển vọng huynh đoàn quay lại với Giáo Hội Công Giáo gặp bế tắc vào năm 2012, nhưng các cuộc thảo luận không chính thức vẫn tiếp tục.
Đức Thánh Cha Phanxicô trước đây chưa từng có cuộc thảo luận nào với Giám mục Fellay, ngoại trừ một vài lần chào hỏi phớt qua. Trong một tuyên bố đưa ra sau cuộc họp, Huynh Đoàn Thánh Piô X nói rằng chính Đức Giáo Hoàng “đã muốn có một cuộc gặp riêng và không chính thức, không có những hình thức của một buổi tiếp kiến chính thức.”
Tuyen bố của Huynh Đoàn Thánh Piô X nói Đức Thánh Cha đã nói chuyện với Đức Giám Mục Fellay trong khoảng 40 phút. Tình trạng giáo luật của Huynh Đoàn Thánh Piô X “không được trực tiếp đề cập,”, nhưng Đức Giáo Hoàng và Đức Giám Mục Fellay đồng ý rằng các cuộc đàm phán đang diễn ra “không hấp tấp.”
Trong một cuộc phỏng vấn được công bố chỉ vài ngày trước cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, Giám mục Fellay nói rằng Đức Thánh Cha Phanxicô có thể đang lo lắng giải quyết các vấn đề của Huynh Đoàn Thánh Piô X, vì Đức Giáo Hoàng có một mối quan tâm đặc biệt cho “bất cứ vấn đề gì đang ngoài lề.”
Ngày hôm sau, tức là ngày 02 tháng 4, Giám mục Fellay cũng gặp Đức Tổng Giám mục Guido Pozzo, thư ký của Ủy ban Ecclesia Dei, để tiếp tục đàm phán.
3. Cuộc gặp gỡ giữa Hội Đồng Giám Mục Ấn và Bộ Ngoại Giao về số phận cha Tom Uzhunnalil
Một quan chức chính phủ Ấn Độ đã bảo đảm với các giám mục Công Giáo Ấn là Cha Tom Uzhunnalil, một linh mục Ấn Độ bị bắt cóc tại Yemen vào ngày 04 tháng 3, vẫn còn sống.
Một phái đoàn từ Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ đã có cuộc gặp gỡ với Sushma Swaraj, bộ trưởng ngoại giao của Ấn, để thảo luận về mối quan tâm của các ngài cho số phận của Cha Uzhunnalil, “đặc biệt là bây giờ, khi những tin đồn khủng khiếp đang được lan truyền.” Vị bộ trưởng chính phủ “bảo đảm dứt khoát với phái đoàn rằng cha Tom Uzhunnalil đang được an toàn”. Báo cáo của Hội Đồng Giám Mục Ấn cho biết như trên.
Ông Swaraj từ chối tiết lộ bất kỳ thông tin chi tiết nào về cuộc đàm phán giữa chính phủ Ấn Độ và những kẻ bắt giữ ngài. Tin đồn lưu hành tuần trước cho biết bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã tiếp cận các quan chức Ấn Độ, tìm kiếm một khoản tiền chuộc lớn cho việc trả tự do cho vị giáo sĩ của dòng Salesian. Swaraj không bình luận gì về những tin đồn, nhưng cho biết nhiệm vụ của mình là làm việc để bảo đảm việc trả tự do cho Cha Uzhunnalil.
4. Chiếc tàu đầu tiên của di dân bị trục xuất đến Thổ Nhĩ Kỳ
Bất chấp những lời kêu gọi của Đức Thánh Cha và những người tranh đấu cho quyền tị nạn tại Âu Châu, sáng thứ Hai 4 tháng 4, một chiếc thuyền đã xuất hiện trên đường chân trời ở Thổ Nhĩ Kỳ từ hòn đảo Lesbos của Hy Lạp. Trên tàu là nhóm đầu tiên những người di cư và tị nạn bị trả lại theo một sau thỏa thuận của Liên Hiệp Âu Châu bắt đầu có hiệu quả từ thứ Hai 4 Tháng 4.
Khoảng 130 người nhập cư bị tống lên xe bus tại Hy Lạp vào lúc tảng sáng, nơi họ bị đưa lên hai con tàu để buộc quay trở lại Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo kế hoạch, Ankara sẽ nhận lại tất cả những người di cư và tị nạn, trong đó có cả người Syria, đã vào Hy Lạp trái phép sau ngày 20 tháng 3. Những người di cư bị trục xuất hôm thứ Hai chủ yếu đến từ Bangladesh và Pakistan, và chưa kịp nộp đơn xin tị nạn.
Ewa Moncure là người phát ngôn cho cơ quan biên giới Liên Hiệp Âu Châu gọi tắt là Frontex nói: “Các thủ tục đã diễn ra rất thanh thản, không có xô xát, mọi thứ đều rất có trật tự. Những người di cư đã được đưa lên xe buýt, và được đưa đến các bến cảng.”
Đáp lại việc Thổ Nhĩ Kỳ nhận lại những người di cư và tị nạn, Liên Hiệp Âu Châu sẽ thưởng cho Thổ Nhĩ Kỳ 3.6 tỷ Mỹ Kim, và cho phép công dân Thổ Nhĩ Kỳ được miễn thị thực nhập cảnh khi du lịch Âu Châu, và hứa sẽ nhận hàng ngàn người Syria vào Liên Hiệp Âu Châu.
Làn sóng không kiểm soát được những người chạy trốn chiến tranh đã mang vào Âu Châu hơn một triệu người qua ngã Hy Lạp vào năm 2015.
Tuy nhiên, thành công của kế hoạch trục xuất này vẫn bấp bênh như thường. Ngay khi những người bị trục xuất đầu tiên bị đưa lên tàu quay lại Thổ Nhĩ Kỳ, hôm thứ Hai 4/4, lực lượng bảo vệ bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang vất vả ngăn chặn hàng trăm người đang cố gắng để vượt biển sang Lesbos.
5. Tiếp viên hàng không là Kitô hữu từ chối không mang khăn choàng Hồi Giáo
Sau khi Pháp và Iran thiết lập lại quan hệ ngoại giao, ngày 17/04/2016 tới, tuyến hàng không Paris-Teheran sẽ được nối trở lại sau 8 năm gián đoạn. Tuy nhiên, một quyết định của hãng hàng không Air France khiến các nghiệp đoàn nhân viên hàng không nổi giận. Nhiều nữ tiếp viên của hãng này không chấp nhận phải mang khăn choàng của đạo Hồi khi tới Iran.
Hôm 02 tháng Tư, ông Christophe Pillet, đại diện của nghiệp đoàn hàng không Pháp cho AFP biết, ban giám đốc Air France đã gửi đi một thông điệp nội bộ, yêu cầu các nhân viên nữ phải ăn mặc theo những tiêu chuẩn của phụ nữ Hồi Giáo. Vị đại diện nói trên cho biết trong suốt những ngày qua, nghiệp đoàn nhận được nhiều cú điện thoại của nữ tiếp viên, phàn nàn về quyết định mới của ban giám đốc.
Quyết định của ban giám đốc Air France bị lên án là xâm phạm quyền tự do cá nhân, tự do tư tưởng và tôn giáo. Trong cuộc họp ngày thứ Sáu, 01 tháng Tư, nghiệp đoàn đã yêu cầu ban lãnh đạo Air France dựa trên sự tham gia tự nguyện của tiếp viên chứ không bắt buộc, tuy nhiên ban giám đốc không chấp nhận.
Theo ban giám đốc, quy định của Air France buộc tiếp viên phải mang khăn choàng không phải là mới. Quy định này đã được áp dụng trong trường hợp quá cảnh tại Ả Rập Xê Út, và tại Iran 8 năm về trước.
6. Chiến tranh bùng nổ giữa Azerbaijan và Armenia
Trong khi cuộc xung đột tại Ukarine chưa có dấu hiệu kế thúc, những trận đánh đẫm máu giữa hai nước cộng hòa Azerbaijan và Armenia đã bùng lên trong đêm mùng 01 và suốt ngày 02 tháng 04, gây tử vong cho 30 binh sĩ đôi bên.
Các quan sát viên lo ngại chiến tranh bùng nổ như cách nay 23 năm. Tổng thống Nga Putin kêu gọi “ngưng bắn tức khắc”. Trong khi Washington cũng như Liên Hiệp Châu Âu thúc giục Bakou và Erevan tránh dùng vũ lực.
Thời Liên Xô, vùng Thượng Karabakh gồm 11,400 km vuông là một vùng cao nguyên thuộc lãnh thổ Azerbaijan, nhưng đa số dân cư là người Armenia. Sau cuộc chiến từ 1984 đến 1994, Armenia chinh phục vùng đất này. Lệnh hưu chiến có hiệu lực từ ngày 12/05/1994 nhờ nỗ lực hòa giải của Mạc Tư Khoa.
Erevan tố cáo Azerbaijan đem xe tăng tấn công trước. Ngược lại, Bakou cho rằng chỉ đáp trả hành động khiêu khích của Armenia.
Cường độ trận chiến gây ngạc nhiên, cho dù từ những năm gần đây, tình hình khu giới tuyến rất căng thẳng. Trong khi đó thì Bakou và Erevan chạy đua vũ trang một cách nguy hiểm, nhất là để phục vụ nhu cầu chính trị nội bộ.
Theo thông tin mới nhất, Azerbaijan đã đơn phương loan báo ngưng bắn, nhưng với điều kiện quân Armenia phải chấm dứt “khiêu khích” và “trả lại các lãnh thổ chiếm đóng”. Ngược lại phía Armenia tuyên bố có thể đối phó với mọi cuộc tấn công.
7. Sân bay quốc tế Bruxelles được mở cửa trở lại
Mười hai ngày sau vụ khủng bố đẫm máu tại sân bay quốc tế Bruxelles và một nhà ga xe điện ngầm ở thủ đô Bỉ, khiến 32 người chết, sân bay Zavantem-Bruxelles đã được chính thức mở cửa lại một phần vào ngày 03 tháng Tư, trong không khí cảnh giác cao độ. Theo cơ quan phụ trách sân bay, việc mở cửa lại là một dấu hiệu trước hết mang tính biểu tượng, cho thấy người dân Bỉ không khuất phục.
Ngày mở cửa trở lại đầu tiên của sân bay Zavantem- Bruxelles mang tính chất biểu tượng, bởi chỉ có ba chuyến bay cất cánh. Mỗi chuyến bay cách nhau nhiều giờ đồng hồ, để có nhiều thời gian hơn cho việc tiếp nhận hành khách tại ga mới.
Hệ thống đón hành khách hiện nay chỉ cho phép tiếp nhận 800 người/giờ. Việc sân bay trở lại hoạt động bình thường với số lượng chuyến bay như trước, sẽ không thể diễn ra trước mùa hè này. Con số 800 hành khách một giờ tương đương với 20% khả năng tiếp nhận hành khách thường lệ.
8. Vụ Panama Papers: Nhiều nhà lãnh đạo thế giới sẽ phải ngồi tù, nhiều chính quyền sẽ sụp đổ hàng loạt trong thời gian tới
Một nguồn tin ẩn danh đã cung cấp cho tờ Süddeutsche Zeitung vào tháng 8 năm 2015 và sau đó cho Tổ Hợp Các Ký Giả Điều Tra Quốc Tế (International Consortium of Investigative Journalists -ICIJ) có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ 11.5 triệu tài liệu mật của công ty luật Mossack Fonseca lên đến 2,6 terabyte dữ liệu.
Những tài liệu này cho thấy các hoạt động tài chính bí mật và bất hợp pháp của các nhà lãnh đạo đương chức của năm quốc gia là Á Căn Đình, Iceland, Saudi Arabia, Ukraine và United Arab Emirates - cũng như các quan chức chính phủ, những người thân và cộng sự viên gần gũi của những người đứng đầu các chính quyền khác nhau của hơn 40 quốc gia khác, bao gồm Brazil, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Malaysia, Mexico, Pakistan, Nga, Nam Phi, Tây Ban Nha, Syria và Vương quốc Anh.
Các tập tin bị rò rỉ cũng giúp xác định sự tham gia vào các hoạt động tài chính bất hợp pháp của 61 thành viên gia đình và cộng sự viên của các Thủ tướng, các Chủ tịch và các vị vua, trong đó có người anh rể của lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình của Trung Quốc, cha của Thủ tướng Anh David Cameron, con trai của Thủ tướng Malaysia Najib Razak, các con của Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif, và “nhà thầu ưa thích” của Tổng thống Mễ Tây Cơ Enrique Peña Nieto.
Vụ “siêu leak”, được gọi là “Panama Papers”, này đang làm nổ ra nhiều cuộc biểu tình tại nhiều nước trên thế giới. Những người biểu tình giận giữ kêu gọi các nhà lãnh đạo có liên quan phải từ chức và các cuộc điều tra phải được tiến hành để truy tố những kẻ phạm pháp.
Mossack Fonseca là một công ty luật và là một tổ hợp dịch vụ của Panama được thành lập vào năm 1977 bởi Jürgen Mossack và Ramon Fonseca. Các dịch vụ của Mossack Fonseca bao gồm giúp thành lập, chia nhỏ, nhập lại các công ty ở hải ngoại, quản lý các công ty ở nước ngoài và cung cấp dịch vụ quản lý tài sản. Công ty có hơn 500 nhân viên tại hơn 40 văn phòng trên toàn thế giới. Mossack Fonseca là đại diện pháp luật của hơn 300,000 công ty.
Tờ The Guardian mô tả Mossack Fonseca và là công ty luật lớn thứ tư trên thế giới. Nó làm việc với các tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, chẳng hạn như Deutsche Bank, HSBC, Societe Generale, Credit Suisse, UBS, ngân hàng Commerzbank và Nordea.
Trước khi xảy ra vụ rò rỉ “Panama Papers”, Mossack Fonseca đã được mô tả bởi các nhà kinh tế như một công ty “kín tiếng” nhất trong ngành công nghiệp tài chính.
Một bài viết trên trang web của Australian Broadcasting Corporation (ABC) giải thích phương thức hoạt động của Mossack Fonseca như sau:
“Sử dụng các vỏ bọc phức tạp của các cấu trúc công ty và tín dụng, Mossack Fonseca giúp khách hàng của mình có thể hoạt động đằng sau một bức tường bí mật gần như bất khả xâm phạm. Thành công của Mossack Fonseca dựa trên một mạng lưới toàn cầu các mạng lưới kế toán và các ngân hàng có uy tín đang thuê công ty luật này quản lý tài chính cho những khách hàng giàu có của họ. Ngân hàng là kẻ giật dây lớn đằng sau việc tạo ra các công ty hoàn toàn không để lại dấu vết gì trong lãnh vực thuế má.
Phần lớn công việc của công ty này có vẻ hoàn toàn hợp pháp và lành mạnh. Nhưng các tài liệu đầu tiên bị rò rỉ cho chúng ta một cái nhìn chi tiết hoạt động bên trong của nó, cho thấy có quá nhiều thứ có thể gian trá”.
Theo tờ The Guardian, tên của tổng thống Nga Vladimir Putin “không xuất hiện trong bất kỳ hồ sơ nào”, nhưng tờ báo xuất bản một danh sách dài “những người bạn thời thơ ấu của ông Putin và những đồng đội cũ”, bao gồm cả tỷ phú xây dựng Arkady và Boris Rotenberg, nhạc sĩ chuyên nghiệp Sergei Roldugin, và tài phiệt Alisher Usmanov.