Phụng Vụ - Mục Vụ
Mùi Chúa - Mùi Chiên
Lm.Giuse Nguyễn Hữu An
01:56 17/04/2018
CN 4 PHỤC SINH
“ĐTC Phanxicô khuyến khích các GM mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng.
Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Giáo phận Xuân Lộc, cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican trưa thứ hai, 5-3-2018 sau cuộc gặp gỡ dài hơn 2 tiếng đồng hồ giữa ĐTC và 33 GM thuộc HĐGM Việt Nam. Đức Cha cũng là người thông dịch trong cuộc gặp gỡ này.
Đức cha kể lại: Chúng tôi đã thảo luận về nhiều vấn đề, nhưng lời cuối cùng ĐTC để lại cho chúng tôi là: Hãy mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng”. Trước đó, ngài đã nói về hình ảnh vị GM như người chăn chiên có mùi chiên, mùi của Thiên Chúa, đồng thời ĐTC mời gọi các GM gia tăng cầu nguyện, chiêm niệm. Lời mà ĐTC lập lại nhiều lần là sự gần gũi, gần gũi Thiên Chúa, gần dân, và đặc biệt là gần các LM”. (x.vi.radiovaticana.va).
“Mục tử có mùi chiên và mùi của Thiên Chúa”. Huấn từ của ĐTC Phanxicô dành cho các vị Giám mục và qua đó nhắn gởi đến các Linh mục.
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện với “mùi Thiên Chúa”. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử có “mùi chiên”.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn có mùi chiên và mùi Chúa.
1. Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ... Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
2. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)... Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
3. Hy sinh tính mạng vì anh em mình.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa Nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
“ĐTC Phanxicô khuyến khích các GM mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng.
Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Giáo phận Xuân Lộc, cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican trưa thứ hai, 5-3-2018 sau cuộc gặp gỡ dài hơn 2 tiếng đồng hồ giữa ĐTC và 33 GM thuộc HĐGM Việt Nam. Đức Cha cũng là người thông dịch trong cuộc gặp gỡ này.
Đức cha kể lại: Chúng tôi đã thảo luận về nhiều vấn đề, nhưng lời cuối cùng ĐTC để lại cho chúng tôi là: Hãy mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng”. Trước đó, ngài đã nói về hình ảnh vị GM như người chăn chiên có mùi chiên, mùi của Thiên Chúa, đồng thời ĐTC mời gọi các GM gia tăng cầu nguyện, chiêm niệm. Lời mà ĐTC lập lại nhiều lần là sự gần gũi, gần gũi Thiên Chúa, gần dân, và đặc biệt là gần các LM”. (x.vi.radiovaticana.va).
“Mục tử có mùi chiên và mùi của Thiên Chúa”. Huấn từ của ĐTC Phanxicô dành cho các vị Giám mục và qua đó nhắn gởi đến các Linh mục.
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện với “mùi Thiên Chúa”. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử có “mùi chiên”.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn có mùi chiên và mùi Chúa.
1. Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ... Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
2. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)... Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
3. Hy sinh tính mạng vì anh em mình.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa Nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
Chúa là Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
07:53 17/04/2018
Suy Niệm Chúa Nhật IV Phục Sinh - B
( Ga 10, 11 – 18 )
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. "Người chăn chiên" được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất "dễ thương" giữa Người và chúng ta.
Chúa là mục tử
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v ...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau : "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta "(Ga 10, 18).
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là "mục tử tốt lành"sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng : "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền : "Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!" (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành : "Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: "Ta có" đã sai tôi đến với các người! » (Xh 3,14).
"Ta là mục tử tốt lành". Từ "mục tử" có nguồn gốc từ động từ "chăn nuôi". Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít : "Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?" Ông đáp: "Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!" (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia : "Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con" (Is 40,11)... Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp "con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.
Cầu cho các mục tử
Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi: "Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọi". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi "những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! " Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng "xin vâng" trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
( Ga 10, 11 – 18 )
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. "Người chăn chiên" được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất "dễ thương" giữa Người và chúng ta.
Chúa là mục tử
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v ...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau : "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta "(Ga 10, 18).
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là "mục tử tốt lành"sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng : "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền : "Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!" (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành : "Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: "Ta có" đã sai tôi đến với các người! » (Xh 3,14).
"Ta là mục tử tốt lành". Từ "mục tử" có nguồn gốc từ động từ "chăn nuôi". Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít : "Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?" Ông đáp: "Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!" (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia : "Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con" (Is 40,11)... Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp "con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.
Cầu cho các mục tử
Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi: "Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọi". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi "những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! " Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng "xin vâng" trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thi ca suy niệm Chúa nhật tuần 4 Phục Sinh
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:14 17/04/2018
(Ga 10, 11-18)
MỤC TỬ
Ta là mục tử tốt lành,
Hy sinh thí mạng, nhân danh Vua Trời.
Chủ chiên chăn giữ không rời,
Đàn chiên chăm sóc, tìm nơi suối vàng.
Thỏa thuê ăn uống dẫn đàng,
Con nào yếu bệnh, nhẹ nhàng chăm nom.
Chăn thuê trốn tránh không dòm,
Ốm đau bệnh hoạn, gầy còm mặc bay.
Bỏ chiên mà chạy có ngày,
Khi mà sói đến, chẳng hay muộn phiền.
Không màng tha thiết đàn chiên,
Chăn nuôi lười biếng, vì tiền lợi danh.
Chúa Chiên thí mạng thực hành,
Chăm lo bảo vệ, dỗ dành thương yêu.
Xả thân phục vụ cao siêu,
Mọi đàn qui tụ, thiên triều gia ân.
Mục tử tốt lành đã thí mạng sống vì đoàn chiên. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Giêsu đã đến giữa đàn chiên để chăn dắt, nuôi dưỡng và làm cho đàn chiên được sống dồi dào. Ngài đã hy sinh để bảo vệ đàn chiên. Người mục tử tốt lành là người biết dẫn dắt đàn chiên tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi và bồi dưỡng thỏa thuê.
Hình ảnh Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Ngài yêu thương vác chiên trên vai. Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và chăm sóc chu đáo mọi bề. Chúa Chiên kêu gọi từng con chiên và biết chúng. Những con chiên lạc hay đau yếu Ngài tìm kiếm, chữa trị và chăm sóc. Chúa Giêsu lập Giáo Hội, Ngài trao phó cho các Tông đồ tiếp tục chăn dắt đoàn chiên. Chúa yêu thương đã ban Lời hằng sống và Bánh trường sinh để tiếp tục dưỡng nuôi xác hồn.
Mẹ Têrêxa Calcutta có dịp gặp gỡ và chia xẻ với nhiều người. Một hôm, có một bà nói với mẹ rằng: Mẹ đã làm nhiều việc biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Còn chúng tôi, chúng tôi có thể làm được gì? Mẹ Têrêxa cười và nói: Hãy yêu thương con cái của các bà. Nhưng bà lại hy vọng làm một cái gì sâu xa và ý nghĩa hơn thế. Mẹ nói tiếp: Hãy yêu thương con cái. Yêu thương chúng. Yêu bao nhiêu có thể qua đó con cái nhận biết rằng cha mẹ đang yêu chúng. Đó là điều tốt nhất.
Dùng tình yêu làm việc tông đồ. Lời của thánh Augustinô: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Gioan Bosco là mẫu gương của tình yêu thương đặc biệt các bạn trẻ. Cả đời ngài đã cống hiến hy sinh phục vụ các bạn trẻ, nhất là những bạn trẻ bụi đời, phạm pháp và ngỗ nghịch. Ngài đã dùng tình yêu để khuyên dụ và dẫn dắt. Ngài đã đem trở về cho Chúa rất nhiều tâm hồn tươi trẻ.
Với tình yêu chúng ta có thể làm được tất cả. Cha mẹ vì yêu thương con cái, đã không quản ngại mưa nắng, làm lụng nhọc nhằn vất vả để lo cho con cái có của ăn của mặc. Với tình yêu, các thầy cô giáo đã hy sinh thời giờ và khả năng để chăm nom dậy dỗ và giáo dục các con em nên người. Có những người vì yêu đã hy sinh cuộc sống tiện nghi nhung lụa để đến những vùng xa xôi hẻo lánh mang tin mừng cứu độ cho nhiều người.
Dõi theo gương của Chúa Chiên Lành, mỗi người chúng ta trong bổn phận, hãy chu toàn với tâm tình từ bi và nhân hậu. Đàn chiên lớn hay nhỏ không quan trọng, quan trọng nhất là chăm sóc các chiên con với tình yêu thương của Chúa Kitô, Ngài chính là Mục Tử tốt lành.
THỨ HAI, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 10, 1-10).
CHUỒNG CHIÊN
Ai không qua cửa chuồng chiên,
Trèo vào lối khác, gây phiền giáo gian.
Họ là trộm cướp phá tan,
Chia bầy cắt nhóm, xa đàn chiên con.
Chủ chăn trung tín sắt son,
Bước qua cửa hẹp, sống còn bên nhau.
Đích thân chủ gọi tên mau,
Nghe theo tiếng ấy, theo sau từng đàn.
Chủ chiên đi trước theo làn,
Đàn chiên dõi bước, ngập tràn yêu thương.
Dù cho vạn mối đường trường,
Chiên nghe theo chủ, một phương tìm về.
Giê-su Chiên Chúa cận kề,
Chính Ngài là cửa, chẳng nề tấm thân.
Chúa thương nhân loại vô ngần,
Ai vào qua cửa, dự phần phúc vinh.
THỨ BA, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 10, 22-30).
NGÔI LỜI
Chúa đi bách bộ quanh đền,
Mùa đông Cung Hiến, ngay bên Đền Thờ.
Những người Do-thái lơ mơ,
Họ còn thắc mắc, nghi ngờ Ngôi Hai.
Không tin nhận Đấng Thiên Sai,
Chối từ tin kính, lòng chai trí hèn.
Thực hành nhân chứng muối men,
Nhân danh Đức Chúa, ngợi khen Vua Trời
Những ai nghe tiếng Ngôi Lời,
Như chiên trung tín, gọi mời theo Ta.
Ta ban sự sống hải hà,
Sẽ không hư mất, mưa sa phúc lành.
Không ai cướp được thánh danh,
Cha Ta là Đấng tốt lành vô song.
Thông ban phúc lộc trí lòng,
Cha Con là một, hợp trong Thánh Thần.
THỨ TƯ, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 12, 44-50).
SỰ SÁNG
Ta là sự sáng thế gian,
Ai tin sẽ được, ơn ban sáng ngời.
Cha Ta là Đấng cao vời,
Thông ban sự sống, cho người tin yêu.
Ai mà tuân giữ mọi điều,
Cha cho hưởng phúc, cao siêu cõi trời.
Ngôi Hai xuống thế làm người,
Không vì xét xử, người đời thế gian.
Nhưng là cứu độ thông ban,
Cứu nhân độ thế, phá tan tội tình.
Ai không chấp nhận cứu sinh,
Chối từ thánh ý, tự mình rời xa.
Ai mà khinh dể lời Ta,
Thiên thần xét xử, thanh tra sự đời.
Cha ban sự sống đời đời,
Cho người trung tín, rạng ngời thiên thu.
THỨ NĂM, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 13, 16-20).
ĐÓN NHẬN
Tiệc ly nhắn nhủ đôi lời,
Rửa chân môn đệ, kêu mời khiêm nhu.
Cùng nhau phục vụ đền bù.
Chủ nhân cao trọng, cho dù đổi thay.
Phúc cho đầy tớ thằng ngay,
Báo công ân đức, đắng cay phận người.
Thánh Kinh ứng nghiệm trong đời,
Một người trong số, nghe lời quỉ ma.
Giơ chân đạp gót vào Ta,
Cho dù ăn bánh, tâm tà xấu xa.
Ai nghe tin vững lời Ta,
Nghĩa là đón nhận, Chúa Cha sai Thầy.
Khuyên răn dạy bảo lời này,
Con là tôi tớ, hăng say phận mình.
Chu toàn ơn gọi thọ sinh,
Thực hành sứ mệnh, tâm linh rạng ngời.
THỨ SÁU, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 14, 1-6).
ĐƯỜNG THẬT
Con đừng xao xuyến trong lòng,
Tin vào Thiên Chúa, cầu mong phước lành.
Trên nơi thượng giới xanh trong,
Có nhiều chỗ ở, trong vòng tay Cha.
Thầy đi dọn chỗ thiên tòa,
Mai ngày trở lại, bao là hân hoan.
Đón về xum họp một đoàn,
Tín nam thiện nữ, thành toàn ước mong.
Tô-ma thưa Chúa thật lòng,
Chúng con không biết, theo dòng lối đi.
Giê-su đáp lại khó chi,
Thầy là sự sống, đường đi lối về.
Sống theo sự thật mọi bề,
Ơn trên phù giúp, cận kề bên Ta.
Những ai đến được với Cha,
Chu toàn thánh ý, vâng qua ý Thầy.
THỨ BẢY, TUẦN 4 PHỤC SINH
(Ga 14, 7-14).
DANH THẦY
Những ai xem thấy Thầy đây,
Cũng là nhìn biết, Cha Thầy ngay bên.
Các con đã biết từ trên,
Cha Thầy hiện diện, dựng nên đất trời.
Ông Phi-lip-phế chẳng rời,
Xin Thầy cho thấy, rạng ngời Chúa Cha.
Giê-su mạc khải rằng là,
Thấy Thầy là thấy, Chúa Cha vĩnh hằng.
Chính Thầy hiện hữu quyền năng,
Trong Cha từ thuở vinh thăng đời đời.
Hãy tin tuyệt đối Ngôi Lời,
Sẽ làm dấu lạ, cao vời biết bao.
Thầy về thiên giới trên cao,
Danh Thầy thực hiện, lớn lao trên đời.
Điều gì cầu khẩn ơn trời,
Thầy ban phúc lộc, mọi thời khấn xin.
Chúa là Mục tử và là người phục vụ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
21:38 17/04/2018
SUY NIỆM Chúa Nhật IV PHỤC SINH - B
( Ga 10, 11 – 18 )
Ngày Thế Giới lần thứ 55 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào ngày 22-2-2011, Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: " lắng nghe, biện phân, và sống". Chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập bủa vây chúng ta. Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe (x. Sứ Điệp Cầu Cho Ơn Gọi 2018). Chăm chú lắm mới khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho mỗi người chúng ta. Nhưng để sống, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Giêsu là Mục Tử.
Mục Tử giầu lòng thương xót
Trong Cựu Ước hình ảnh người mục tử có một tầm quan trọng. Khi nói về mục tử, người ta liên tưởng ngay đến điều đã viết trong sách Ngôn sứ Ezekiel nhân danh Thiên Chúa ông nói : "Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta. Chính Ta, Ta sẽ cho chúng được an nhàn. Sấm của Ðức Chúa Yavê. (Chiên) thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. (Chiên) tản mác, Ta sẽ lùa về. (Chiên) xây xát, Ta sẽ băng bó. (Chiên) bịnh hoạn, Ta sẽ bổ sức. Còn con nào béo, mạnh, Ta sẽ diệt đi. Một cách công minh, Ta sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 15-16). Lời tiên tri này được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử nhân lành như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay. Vị Mục Tử giầu lòng thương xót biết và thương từng con chiên, ôm ấp con chiên ốm, chiên gặp nạn thì băng bó vết thương, chiên lạc đi tìm về. Chữ "mục tử" gợi lên sự dịu dàng và cảm động, khiến mỗi người chúng ta muốn trở thành con chiên lạc (Lc 15, 3-7) được Người Mục Tử quyết tâm đi tìm bằng được và vác trên vai.
Mục Tử tốt lành trao ban mạng sống mình.
Hình ảnh người mục tử không chỉ quan trọng trong Kinh Thánh, mà chính trong Giáo hội hôm nay hình ảnh này vẫn con hấp dẫn. Điều mà Thiên Chúa hứa với dân xưa rằng : "Ta sẽ ban cho những mục tử như lòng Ta mong muốn" (Gr 3,15) là kinh nghiệm hàng ngày của Giáo hội, dân mới của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng chính Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao hoàn thành cách sống động lời Thiên Chúa hứa : "Ta là Mục Tử tốt lành " (Ga 10,11); Người là "Mục Tử vĩ đại" (Dt 13,20) ủy thác cho những người kế nhiệm là các tông đồ nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (x. Eph 21, 15 ... 1 P.5, 2). Nhờ các linh mục vâng theo lệnh Chúa Giêsu truyền: "Hãy đi, làm cho môn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mc 16,19) mà dân Chúa có thể sống dồi dào.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa sai các thợ gặt lành nghề đến gặt lúa của Người và xin cho các mục tử ngày hôm nay theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành. Ước mong họ dâng hiến sự sống mình và can đảm cống hiến mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Xin cho họ yêu mến đoàn chiên như Chúa Kitô đã yêu mến ngõ hầu họ có thể dẫn chiên đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô.
Sự tốt lành của người mục tử được thể hiện trong hồng ân mà vị ấy làm cho đoàn chiên được giao phó được sống và sống dồi dào trong sự nhận biết chiên của mình. Người mục tử biết từng con chiên một với tình yêu cao cả và chăm sóc mỗi con chiên. Chiên "cảm nhận" được điều đó và biết mục tử của mình thật tốt lành.
"Biết" trong Kinh Thánh có nghĩa là biết trong tình yêu: biết vì tình yêu và trong tình yêu. Như một người mẹ, trong bóng tối đêm đen "cảm thấy" con mình bị bệnh, bà thức dậy để chăm sóc cho con, ngay cả khi người con ấy không phàn nàn, người con "cảm thấy" người mẹ chăm sóc cho mình. Tình yêu đích thực là sự biết hoàn hảo. Giống như Người Mục Tử tốt lành, các mục tử và đoàn chiên sống trong sự hỗ tương để lớn lên trong sự qui chiếu vào Chúa Kitô.
Thuộc về Đức Kitô
Chúng ta bởi Chúa mà ra và chúng ta thuộc về Chúa, Chúa biết mỗi người chúng ta để thí mạng và sống lại vì đoàn chiên. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ có được sự sống của chính Chúa. Chúa Giêsu nói : "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Ðấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5 , 24). Với đức tin, chúng ta hoàn thành bước quyết định : đi từ cõi chết đến cõi sống, bỏ miền đất của kẻ chết và bước vào miền đất của kẻ sống.
Giáo hội đề nghị các mục tử suy niệm đoạn Tin Mừng này: để suy ngẫm về chính mình. Tại sao vậy? Thưa mỗi mục tử đơn giản chỉ là "dấu chỉ" của Chúa Giêsu là Mục Tử. Vậy chúng ta suy gẫm trang Tin Mừng này và tìm cách sống bằng cách sống hiệp thông giữa chúng ta để chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách sâu xa và thuộc trọn về Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, tương quan giữa mỗi người với Chúa Phục Sinh được chỉ ra trước hết là mối quan hệ "thuộc về" : chiên không thuộc về kẻ trộm nhưng thuộc về mục tử. Thuộc về trước hết là sự nhận biết hỗ tương : "Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10,14). Sự nhận biết này rất quan trọng, chúng ta thuộc về Chúa khi chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu ("chúng sẽ nghe tiếng Ta"). "Biết Chúa Giêsu là Mục Tử" là nghe tiếng Chúa và đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Nhớ lại lời đề nghị của Chúa Giêsu: "Mùa lúa thật nhiều, mà thợ gặt lại ít! Chúng con hãy cầu xin Chủ Mùa sai nhiều thợ đến gặt lúa!" (Mt 9,37), chúng ta ý thức thật nhiều về nhu cầu phải cầu nguyện cho những ơn gọi linh mục và ơn gọi sống đời tận hiến. Chúng ta hãy xin Chúa Cha trên trời đốt nóng tâm hồn những người trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng Chúa, đồng thời xin Chúa phù giúp các linh mục mà Chúa đã ban cho cộng đoàn dân Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
( Ga 10, 11 – 18 )
Ngày Thế Giới lần thứ 55 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào ngày 22-2-2011, Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: " lắng nghe, biện phân, và sống". Chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập bủa vây chúng ta. Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe (x. Sứ Điệp Cầu Cho Ơn Gọi 2018). Chăm chú lắm mới khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho mỗi người chúng ta. Nhưng để sống, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Giêsu là Mục Tử.
Mục Tử giầu lòng thương xót
Trong Cựu Ước hình ảnh người mục tử có một tầm quan trọng. Khi nói về mục tử, người ta liên tưởng ngay đến điều đã viết trong sách Ngôn sứ Ezekiel nhân danh Thiên Chúa ông nói : "Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta. Chính Ta, Ta sẽ cho chúng được an nhàn. Sấm của Ðức Chúa Yavê. (Chiên) thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. (Chiên) tản mác, Ta sẽ lùa về. (Chiên) xây xát, Ta sẽ băng bó. (Chiên) bịnh hoạn, Ta sẽ bổ sức. Còn con nào béo, mạnh, Ta sẽ diệt đi. Một cách công minh, Ta sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 15-16). Lời tiên tri này được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử nhân lành như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay. Vị Mục Tử giầu lòng thương xót biết và thương từng con chiên, ôm ấp con chiên ốm, chiên gặp nạn thì băng bó vết thương, chiên lạc đi tìm về. Chữ "mục tử" gợi lên sự dịu dàng và cảm động, khiến mỗi người chúng ta muốn trở thành con chiên lạc (Lc 15, 3-7) được Người Mục Tử quyết tâm đi tìm bằng được và vác trên vai.
Mục Tử tốt lành trao ban mạng sống mình.
Hình ảnh người mục tử không chỉ quan trọng trong Kinh Thánh, mà chính trong Giáo hội hôm nay hình ảnh này vẫn con hấp dẫn. Điều mà Thiên Chúa hứa với dân xưa rằng : "Ta sẽ ban cho những mục tử như lòng Ta mong muốn" (Gr 3,15) là kinh nghiệm hàng ngày của Giáo hội, dân mới của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng chính Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao hoàn thành cách sống động lời Thiên Chúa hứa : "Ta là Mục Tử tốt lành " (Ga 10,11); Người là "Mục Tử vĩ đại" (Dt 13,20) ủy thác cho những người kế nhiệm là các tông đồ nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (x. Eph 21, 15 ... 1 P.5, 2). Nhờ các linh mục vâng theo lệnh Chúa Giêsu truyền: "Hãy đi, làm cho môn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mc 16,19) mà dân Chúa có thể sống dồi dào.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa sai các thợ gặt lành nghề đến gặt lúa của Người và xin cho các mục tử ngày hôm nay theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành. Ước mong họ dâng hiến sự sống mình và can đảm cống hiến mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Xin cho họ yêu mến đoàn chiên như Chúa Kitô đã yêu mến ngõ hầu họ có thể dẫn chiên đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô.
Sự tốt lành của người mục tử được thể hiện trong hồng ân mà vị ấy làm cho đoàn chiên được giao phó được sống và sống dồi dào trong sự nhận biết chiên của mình. Người mục tử biết từng con chiên một với tình yêu cao cả và chăm sóc mỗi con chiên. Chiên "cảm nhận" được điều đó và biết mục tử của mình thật tốt lành.
"Biết" trong Kinh Thánh có nghĩa là biết trong tình yêu: biết vì tình yêu và trong tình yêu. Như một người mẹ, trong bóng tối đêm đen "cảm thấy" con mình bị bệnh, bà thức dậy để chăm sóc cho con, ngay cả khi người con ấy không phàn nàn, người con "cảm thấy" người mẹ chăm sóc cho mình. Tình yêu đích thực là sự biết hoàn hảo. Giống như Người Mục Tử tốt lành, các mục tử và đoàn chiên sống trong sự hỗ tương để lớn lên trong sự qui chiếu vào Chúa Kitô.
Thuộc về Đức Kitô
Chúng ta bởi Chúa mà ra và chúng ta thuộc về Chúa, Chúa biết mỗi người chúng ta để thí mạng và sống lại vì đoàn chiên. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ có được sự sống của chính Chúa. Chúa Giêsu nói : "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Ðấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5 , 24). Với đức tin, chúng ta hoàn thành bước quyết định : đi từ cõi chết đến cõi sống, bỏ miền đất của kẻ chết và bước vào miền đất của kẻ sống.
Giáo hội đề nghị các mục tử suy niệm đoạn Tin Mừng này: để suy ngẫm về chính mình. Tại sao vậy? Thưa mỗi mục tử đơn giản chỉ là "dấu chỉ" của Chúa Giêsu là Mục Tử. Vậy chúng ta suy gẫm trang Tin Mừng này và tìm cách sống bằng cách sống hiệp thông giữa chúng ta để chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách sâu xa và thuộc trọn về Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, tương quan giữa mỗi người với Chúa Phục Sinh được chỉ ra trước hết là mối quan hệ "thuộc về" : chiên không thuộc về kẻ trộm nhưng thuộc về mục tử. Thuộc về trước hết là sự nhận biết hỗ tương : "Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10,14). Sự nhận biết này rất quan trọng, chúng ta thuộc về Chúa khi chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu ("chúng sẽ nghe tiếng Ta"). "Biết Chúa Giêsu là Mục Tử" là nghe tiếng Chúa và đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Nhớ lại lời đề nghị của Chúa Giêsu: "Mùa lúa thật nhiều, mà thợ gặt lại ít! Chúng con hãy cầu xin Chủ Mùa sai nhiều thợ đến gặt lúa!" (Mt 9,37), chúng ta ý thức thật nhiều về nhu cầu phải cầu nguyện cho những ơn gọi linh mục và ơn gọi sống đời tận hiến. Chúng ta hãy xin Chúa Cha trên trời đốt nóng tâm hồn những người trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng Chúa, đồng thời xin Chúa phù giúp các linh mục mà Chúa đã ban cho cộng đoàn dân Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH Phanxicô: Theo Đức Kitô vì đức tin chứ đừng vì tư lợi.
Giuse Thẩm Nguyễn
00:28 17/04/2018
(Vatican News) Trong bài giảng Thánh Lễ sáng nay, thứ Hai 16 tháng Tư năm 2018, ĐGH đã nói rằng có hai cách để theo Chúa: Vì tư lợi hay tin vào lời Chúa. Ngài cũng cảnh báo là đừng theo Chúa vì tư lợi do phép lạ Người làm hơn là tin vào lời của Người. ĐGH mời gọi chúng ta hãy suy tư và nhớ lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta suốt cả đời để tìm cách đáp lại bằng tình yêu.
Tìm tư lợi của đám đông.
ĐGH giải thích bài Phúc Âm ngày hôm nay của Thánh Gioan (Gn 6:22-29), trong đó đám đông muốn tôn Chúa lên làm vua sau khi Ngài đã hóa bánh và cá ra nhiều. Chúa Giê-su đã quở trách họ là “các người đi tìm tôi chẳng phải vì đã nhìn thấy dấu lạ, nhưng vì đã được ăn no nê.”
ĐGH vạch ra hai yếu tố trong lời nói của Chúa Giê-su. Môt mặt đám đông muốn tìm Chúa để cảm nhận sự bình an trong Lời Ngài nơi trái tim họ, đó là đức tin, mặt khác họ chỉ tò mò để thấy phép lạ của Ngài. ĐGH nói rằng họ là những người tốt nhưng đức tin của họ mang chút tò mò và tìm lợi ích.
Đức tin của thánh Stephano
ĐGH sau đó lại đưa ra gương mẫu khác về đức tin vào Chúa Giê-su của Thánh Stephano trong bài đọc Thứ Nhất (Cv 6:8-15). Những người tranh luận trong Thượng Hội Đồng đã không thể địch lại lời lẽ khôn ngoan của Stephano.
“Thánh nhân theo Chúa Giêsu mà không hề cân nhắc hậu quả như thế nào: “Đức tin này có lợi cho tôi hay không…Thánh nhân không tìm lợi ích cho mình, nhưng hoàn toàn đoan chắc vào đức tin của mình. Người ta đặt bẫy vu không ngài, đẩy ngài rơi vào đó để họ có lý do ném đá giết ngài, một cái chết anh dũng làm chứng cho Chúa Giê-su.”
Đức tin hay là lợi lộc.
ĐGH mời gọi chúng ta coi lại xem mình theo Chúa như thế nào. Hãy nhớ lại bao điều kỳ diệu mà Chúa đã ban cho chúng ta trong đời sống.
“Chúng ta sẽ tìm thấy bao điều kỳ diệu mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không, bởi vì ngài yêu từng người chúng ta. Khi tôi nhớ lại những điều Chúa đã làm cho tôi, tôi sẽ hỏi câu thứ hai “Tôi sẽ làm gì cho Chúa Giê-su?” Với hai câu hỏi này, có lẽ chúng ta có thể tinh luyện đức tin của chúng ta khỏi những lợi lộc. Khi tôi nhìn thấy tất cả mọi sự Chúa đã thương ban cho tôi, bằng cả tấm lòng quảng đại tôi sẽ thưa “Lạy Chúa, con sẽ dâng lên Chúa tất cả. Con sẽ không làm điều sai trái, không phạm tội mất lòng Chúa nữa. Con sẽ thay đổi cuộc đời con bằng con đường hoán cải của tình yêu: Chúa đã ban cho con biết bao tình yêu và đến lượt con, con sẽ dâng lại cho Chúa tình yêu của con.”
Cuối cùng ĐGH nói rằng hai câu hỏi này có thể giúp chúng ta thanh lọc đức tin của chúng ta khỏi mọi thứ tư lợi.
“Đây là sự kiểm chứng tốt nhất cách chúng ta theo Chúa Giê-su: “Tôi có tìm lợi lộc hay không? Vì yêu Thiên Chúa đã làm gì cho tôi? Và khi thấy những điều Chúa đã làm cho tôi thì “Tôi sẽ làm gì cho Chúa Giê-su? Làm sao tôi đáp trả được tình yêu của Ngài? Đó là cách chúng ta thanh lọc đức tin của mình khỏi những tư lợi. Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp chúng ta trên con đường này.
Giuse Thẩm Nguyễn
Tìm tư lợi của đám đông.
ĐGH giải thích bài Phúc Âm ngày hôm nay của Thánh Gioan (Gn 6:22-29), trong đó đám đông muốn tôn Chúa lên làm vua sau khi Ngài đã hóa bánh và cá ra nhiều. Chúa Giê-su đã quở trách họ là “các người đi tìm tôi chẳng phải vì đã nhìn thấy dấu lạ, nhưng vì đã được ăn no nê.”
ĐGH vạch ra hai yếu tố trong lời nói của Chúa Giê-su. Môt mặt đám đông muốn tìm Chúa để cảm nhận sự bình an trong Lời Ngài nơi trái tim họ, đó là đức tin, mặt khác họ chỉ tò mò để thấy phép lạ của Ngài. ĐGH nói rằng họ là những người tốt nhưng đức tin của họ mang chút tò mò và tìm lợi ích.
Đức tin của thánh Stephano
ĐGH sau đó lại đưa ra gương mẫu khác về đức tin vào Chúa Giê-su của Thánh Stephano trong bài đọc Thứ Nhất (Cv 6:8-15). Những người tranh luận trong Thượng Hội Đồng đã không thể địch lại lời lẽ khôn ngoan của Stephano.
“Thánh nhân theo Chúa Giêsu mà không hề cân nhắc hậu quả như thế nào: “Đức tin này có lợi cho tôi hay không…Thánh nhân không tìm lợi ích cho mình, nhưng hoàn toàn đoan chắc vào đức tin của mình. Người ta đặt bẫy vu không ngài, đẩy ngài rơi vào đó để họ có lý do ném đá giết ngài, một cái chết anh dũng làm chứng cho Chúa Giê-su.”
Đức tin hay là lợi lộc.
ĐGH mời gọi chúng ta coi lại xem mình theo Chúa như thế nào. Hãy nhớ lại bao điều kỳ diệu mà Chúa đã ban cho chúng ta trong đời sống.
“Chúng ta sẽ tìm thấy bao điều kỳ diệu mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không, bởi vì ngài yêu từng người chúng ta. Khi tôi nhớ lại những điều Chúa đã làm cho tôi, tôi sẽ hỏi câu thứ hai “Tôi sẽ làm gì cho Chúa Giê-su?” Với hai câu hỏi này, có lẽ chúng ta có thể tinh luyện đức tin của chúng ta khỏi những lợi lộc. Khi tôi nhìn thấy tất cả mọi sự Chúa đã thương ban cho tôi, bằng cả tấm lòng quảng đại tôi sẽ thưa “Lạy Chúa, con sẽ dâng lên Chúa tất cả. Con sẽ không làm điều sai trái, không phạm tội mất lòng Chúa nữa. Con sẽ thay đổi cuộc đời con bằng con đường hoán cải của tình yêu: Chúa đã ban cho con biết bao tình yêu và đến lượt con, con sẽ dâng lại cho Chúa tình yêu của con.”
Cuối cùng ĐGH nói rằng hai câu hỏi này có thể giúp chúng ta thanh lọc đức tin của chúng ta khỏi mọi thứ tư lợi.
“Đây là sự kiểm chứng tốt nhất cách chúng ta theo Chúa Giê-su: “Tôi có tìm lợi lộc hay không? Vì yêu Thiên Chúa đã làm gì cho tôi? Và khi thấy những điều Chúa đã làm cho tôi thì “Tôi sẽ làm gì cho Chúa Giê-su? Làm sao tôi đáp trả được tình yêu của Ngài? Đó là cách chúng ta thanh lọc đức tin của mình khỏi những tư lợi. Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp chúng ta trên con đường này.
Giuse Thẩm Nguyễn
Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein nói về Sinh Nhật thứ 91 của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16
Đặng Tự Do
01:13 17/04/2018
Đức Bênêđíctô XVI kỷ niệm sinh nhật thứ 91 trong lặng lẽ và thanh thản với hiền huynh của ngài. Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein, thư ký của Đức Bênêđíctô XVI đã cho biết như trên.
Đức Tổng Giám Mục nói:
“Ngài ăn mừng Sinh Nhật với hiền huynh đang có mặt với chúng tôi trong những ngày này. Buổi sáng, chúng tôi cùng lần chuỗi Mân Côi trước khi ban nhạc của các Ngự Lâm Quân Thụy Sĩ dành cho ngài một sự ngạc nhiên nhỏ, rất điển hình ở Đức, họ chơi hai hoặc ba bài hát sau các bài phát biểu ngắn”
Về sức khoẻ của Đức Bênêđíctô XVI, Đức Tổng Giám Mục cho biết tình trạng của Đức nguyên Giáo Hoàng cũng giống như một vài tuần trước, khi ngài viết lời cám ơn một cơ quan truyền thông của Ý. Trong lá thư đó, Đức Bênêđíctô XVI thừa nhận có sự suy giảm về thể chất của ngài.
Đức Tổng Giám Mục nói thêm:
“Tâm trí của ngài vẫn rất minh mẫn, dù sức mạnh thể lý có giảm xuống một chút. Ngài vẫn giữ một tinh thần lạc quan, đặc biệt là trong buổi cử hành Sinh Nhật này. Điều quan trọng là ngài có thể hiện diện chung vui với mọi người. Cho dù ngài có đang viết điều gì hay không có lẽ không quan trọng. Tôi không biết, nhưng chính ngài nói rằng chúng ta không nên mong đợi bất cứ điều gì có tính chất học thuật.”
Những người gần gũi nhất với Đức Bênêđíctô XVI biết ngài rất nhớ quê hương Bavaria của mình và đó là lý do tại sao mỗi năm họ cố gắng mang đến cho ngài một chút quà từ quê hương gởi đến quốc gia nhỏ nhất thế giới này.
Đức Tổng Giám Mục nói:
“Ngài ăn mừng Sinh Nhật với hiền huynh đang có mặt với chúng tôi trong những ngày này. Buổi sáng, chúng tôi cùng lần chuỗi Mân Côi trước khi ban nhạc của các Ngự Lâm Quân Thụy Sĩ dành cho ngài một sự ngạc nhiên nhỏ, rất điển hình ở Đức, họ chơi hai hoặc ba bài hát sau các bài phát biểu ngắn”
Về sức khoẻ của Đức Bênêđíctô XVI, Đức Tổng Giám Mục cho biết tình trạng của Đức nguyên Giáo Hoàng cũng giống như một vài tuần trước, khi ngài viết lời cám ơn một cơ quan truyền thông của Ý. Trong lá thư đó, Đức Bênêđíctô XVI thừa nhận có sự suy giảm về thể chất của ngài.
Đức Tổng Giám Mục nói thêm:
“Tâm trí của ngài vẫn rất minh mẫn, dù sức mạnh thể lý có giảm xuống một chút. Ngài vẫn giữ một tinh thần lạc quan, đặc biệt là trong buổi cử hành Sinh Nhật này. Điều quan trọng là ngài có thể hiện diện chung vui với mọi người. Cho dù ngài có đang viết điều gì hay không có lẽ không quan trọng. Tôi không biết, nhưng chính ngài nói rằng chúng ta không nên mong đợi bất cứ điều gì có tính chất học thuật.”
Những người gần gũi nhất với Đức Bênêđíctô XVI biết ngài rất nhớ quê hương Bavaria của mình và đó là lý do tại sao mỗi năm họ cố gắng mang đến cho ngài một chút quà từ quê hương gởi đến quốc gia nhỏ nhất thế giới này.
Niềm vui làm cho chúng ta tươi trẻ
Thanh Quảng sdb
06:33 17/04/2018
Niềm vui làm cho chúng ta tươi trẻ
Trong bài giảng của ĐTC vào Chúa Nhật tại giáo xứ Thánh Phaolô Thánh Giá tại Roma, Đức Thánh Cha nói về niềm vui mà các môn đệ cảm thấy khi các ngài được xem thấy Chúa Phục Sinh.
"Chính niềm vui làm cho chúng ta luôn tươi trẻ!"
Tuổi trẻ và niềm vui là những chủ đề nổi bật trong chuyến viếng thăm giáo xứ của ĐTC tại giáo xứ Thánh Phaolô Thập giá, nằm về phía tây nam của thành phố Rôma.
Nổi tiếng "vì niềm vui"
Trong bài giảng trong Thánh Lễ, Đức Thánh Cha tập trung vào Lời Chúa trong Phúc Âm. ĐTC dẫn giải rằng: Các môn đồ biết rằng Chúa Kitô đã sống lại, nhưng sự thật này chưa ăn sâu vào tâm lòng các ngài – các ngài chấp nhận sự thật bằng trí tuệ, nhưng các ngài chưa tin. "Có lẽ các ngài muốn chôn giữ chân lý này trong tâm trí mình! Đức Thánh Cha đặt vấn nạn tại sao các ngài vẫn nghi ngờ, mặc dù câu trả lời đã tìm thấy trong Tin Mừng là: "các ngài vô cùng hoan hỷ và kinh ngạc."
Điều này cũng xảy ra cho chúng ta, Đức Thánh Cha nói khi có ai đó báo cho chúng ta một tin vui mà chúng ta khó tin được. "Chúng ta nắm bắt điều đó một cách chắc nịt, bởi vì nếu điều này là thực thì đó là một niềm vui to lớn." Các môn đệ không chỉ tin, mà còn xác tín; vì như ĐTC nói đây thực là "sự mới mẻ, một mới mẻ" được đề cập trong Phúc âm, đây thực là một món quà của Chúa.
Được trẻ hóa bởi Chúa Kitô phục sinh
"Chúng ta có thói quen" sống hoài trong "tội lỗi," ĐTC nói tiếp "Tội lỗi làm chúng ta già đi; nhưng Chúa Giêsu sống lại, sống động, làm chúng ta tươi trẻ lại! "Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là chân lý chính yếu của đức tin của chúng ta. "Chúng ta hãy xin ơn để tin rằng Chúa Kitô hiện đang sống và đã sống lại!" Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc xưng tội, nơi đó chúng ta được canh tân, hồi phục; và tầm quan trọng của việc Rước Lễ. ĐTC hỏi mọi người: "Khi bạn hiệp thông, bạn nắm chắc được rằng Chúa Kitô đang sống trong bạn, Ngài thực sự đã sống lại?" Sự hiệp thông không chỉ đơn giản là lãnh nhận một mẩu bánh đã được truyền phép, ĐTC nhấn mạnh: "Không, đó chính là Chúa Giêsu! Chúa Kitô đang sống, đã sống lại giữa chúng ta, và nếu chúng ta không tin điều này, chúng ta đã không và sẽ không bao giờ là người Kitô hữu tốt".
ĐTC kết thúc bài giảng của mình bằng mời gọi chúng ta cầu nguyện cho niềm vui của chúng ta sẽ không bị mai một đi; vì ân huệ được "đụng chạm vào Chúa Giêsu" qua đời cầu nguyện; lãnh nhận các Bí Tích; hầu nhận được ơn tha thứ, làm mới lại Giáo Hội qua các việc săn sóc các bệnh nhân, thăm viếng các tù nhân và những người cần đến chúng ta giúp đỡ, săn sóc trẻ em và các người lớn tuổi. ĐTC nói: "Nếu chúng ta muốn làm một điều gì đó tốt lành, chính Chúa Giêsu phục sinh là Đấng hối thúc chúng ta làm điều đó. Đó là niềm vui, và niềm vui làm cho chúng ta tươi trẻ! "
Trong bài giảng của ĐTC vào Chúa Nhật tại giáo xứ Thánh Phaolô Thánh Giá tại Roma, Đức Thánh Cha nói về niềm vui mà các môn đệ cảm thấy khi các ngài được xem thấy Chúa Phục Sinh.
"Chính niềm vui làm cho chúng ta luôn tươi trẻ!"
Tuổi trẻ và niềm vui là những chủ đề nổi bật trong chuyến viếng thăm giáo xứ của ĐTC tại giáo xứ Thánh Phaolô Thập giá, nằm về phía tây nam của thành phố Rôma.
Nổi tiếng "vì niềm vui"
Trong bài giảng trong Thánh Lễ, Đức Thánh Cha tập trung vào Lời Chúa trong Phúc Âm. ĐTC dẫn giải rằng: Các môn đồ biết rằng Chúa Kitô đã sống lại, nhưng sự thật này chưa ăn sâu vào tâm lòng các ngài – các ngài chấp nhận sự thật bằng trí tuệ, nhưng các ngài chưa tin. "Có lẽ các ngài muốn chôn giữ chân lý này trong tâm trí mình! Đức Thánh Cha đặt vấn nạn tại sao các ngài vẫn nghi ngờ, mặc dù câu trả lời đã tìm thấy trong Tin Mừng là: "các ngài vô cùng hoan hỷ và kinh ngạc."
Điều này cũng xảy ra cho chúng ta, Đức Thánh Cha nói khi có ai đó báo cho chúng ta một tin vui mà chúng ta khó tin được. "Chúng ta nắm bắt điều đó một cách chắc nịt, bởi vì nếu điều này là thực thì đó là một niềm vui to lớn." Các môn đệ không chỉ tin, mà còn xác tín; vì như ĐTC nói đây thực là "sự mới mẻ, một mới mẻ" được đề cập trong Phúc âm, đây thực là một món quà của Chúa.
Được trẻ hóa bởi Chúa Kitô phục sinh
"Chúng ta có thói quen" sống hoài trong "tội lỗi," ĐTC nói tiếp "Tội lỗi làm chúng ta già đi; nhưng Chúa Giêsu sống lại, sống động, làm chúng ta tươi trẻ lại! "Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là chân lý chính yếu của đức tin của chúng ta. "Chúng ta hãy xin ơn để tin rằng Chúa Kitô hiện đang sống và đã sống lại!" Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc xưng tội, nơi đó chúng ta được canh tân, hồi phục; và tầm quan trọng của việc Rước Lễ. ĐTC hỏi mọi người: "Khi bạn hiệp thông, bạn nắm chắc được rằng Chúa Kitô đang sống trong bạn, Ngài thực sự đã sống lại?" Sự hiệp thông không chỉ đơn giản là lãnh nhận một mẩu bánh đã được truyền phép, ĐTC nhấn mạnh: "Không, đó chính là Chúa Giêsu! Chúa Kitô đang sống, đã sống lại giữa chúng ta, và nếu chúng ta không tin điều này, chúng ta đã không và sẽ không bao giờ là người Kitô hữu tốt".
ĐTC kết thúc bài giảng của mình bằng mời gọi chúng ta cầu nguyện cho niềm vui của chúng ta sẽ không bị mai một đi; vì ân huệ được "đụng chạm vào Chúa Giêsu" qua đời cầu nguyện; lãnh nhận các Bí Tích; hầu nhận được ơn tha thứ, làm mới lại Giáo Hội qua các việc săn sóc các bệnh nhân, thăm viếng các tù nhân và những người cần đến chúng ta giúp đỡ, săn sóc trẻ em và các người lớn tuổi. ĐTC nói: "Nếu chúng ta muốn làm một điều gì đó tốt lành, chính Chúa Giêsu phục sinh là Đấng hối thúc chúng ta làm điều đó. Đó là niềm vui, và niềm vui làm cho chúng ta tươi trẻ! "
Đức Hồng Y Ernest Simoni quả quyết trừ quỷ từ xa bằng mobile phone cũng có hiệu quả như thường
Đặng Tự Do
07:26 17/04/2018
Khóa học và hội nghị về trừ tà tại Vatican diễn ra từ 16 đến 21 tháng Tư đang thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông Công Giáo.
Buổi chiều ngày thứ Hai 16 tháng Tư, cử toạ đã nghe một bài thuyết trình rất sôi nổi của Đức Hồng Y Ernest Simoni, là Tổng Giám Mục Shkoder-Pult, Albania.
Từ năm 1946 cho đến cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Đông Âu, Albania bị cai trị bởi một chế độ hà khắc và thù nghịch với tôn giáo quyết liệt nhất trong khối cộng sản. Hậu quả là Giáo Hội tại quốc gia này vẫn còn đang trong tiến trình phục hồi; và hiện nay, Giáo Hội vẫn còn thiếu linh mục một cách trầm trọng.
Chính Đức Hồng Y Ernest Simoni là một thí dụ điển hình cho thấy sự tàn bạo của cộng sản Albania. Ngày 24 tháng 12 năm 1963, Đức Hồng Y Ernest Simoni, lúc đó còn là một linh mục, đã bị bắt vì dám cử hành lễ cầu hồn cho tổng thống Mỹ Kenedy. Ngài bị kết án tử hình nhưng sau đó được giảm án còn chung thân khổ sai và phải lao động cải tạo trong tù suốt 28 năm. Khi quốc gia này thoát khỏi họa cộng sản, ngài mới được trả tự do.
Đức Hồng Y Ernest Simoni cho biết trong bối cảnh Giáo Hội Albania thiếu linh mục trầm trọng như vậy, các linh mục trong tổng giáo phận của ngài phải trừ quỷ qua điện thoại cầm tay trước các nhu cầu ngày càng gia tăng.
“Có những linh mục trong tổng giáo phận của tôi đang thực hiện phép trừ quỷ qua điện thoại di động của họ. Tạ ơn Chúa, dù làm từ xa như thế, vẫn có hiệu quả như thường.”
Đức Hồng Y Ernest Simoni cho biết thêm trong các trường hợp không thể đến tận nơi, các linh mục đọc các lời nguyện giải phóng (prayers of liberation), là một phần của nghi lễ trừ tà, qua điện thoại di động.
Giáo sư Giuseppe Ferrari cũng xác nhận tính hiệu quả cuả các lời cầu nguyện trừ tà qua điện thoại di động. Ông nói:
“Các linh mục cầu nguyện với mọi người qua điện thoại để trấn tĩnh họ. Một số nhà trừ quỷ nói rằng điều này vẫn có hiệu quả. Làm như thế có chính thống không, có đúng hay không thì tôi không biết”.
Tuy nhiên, giáo sư Giuseppe Ferrari khích lệ các linh mục nếu có thể được nên đến tận nơi, và chỉ trừ tà qua điện thoại di động trong trường hợp bất khả kháng.
Ông giải thích như sau:
“Những người bị quỷ ám thường có những hành vi bạo lực đối với những người xung quanh và những hành vi này phải được ngăn chặn trong quá trình trừ quỷ. Nếu bạn không có ở đó, bạn khó có thể khống chế các khiá cạnh thể lý”.
Khoảng 250 linh mục đến từ 50 quốc gia đang tham dự hội nghị năm nay tại trường đại học Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ ở Rôma khi các Giám Mục từ khắp nơi trên thế giới báo cáo sự gia tăng nhu cầu trừ quỷ.
Khóa học về trừ quỷ bắt đầu vào năm 2004, và kể từ đó số linh mục tham dự mỗi năm đã tăng hơn gấp đôi.
Đầu năm nay, một linh mục người Ái Nhĩ Lan, là cha Pat Collins, cho biết các yêu cầu về trừ quỹ đã tăng lên một cách lũy tiến và cho biết các nhà lãnh đạo Giáo hội tỏ ra lúng túng trước tình trạng này.
Cha Pat Collins nói: “Có nhiều người tin rằng họ đang bị khống chế bởi một thế lực tà ác. Tôi nghĩ trong nhiều trường hợp, họ lo sợ vớ vẩn thôi. Nhưng khi họ hướng đến Hội Thánh và kêu cứu, Giáo Hội lại không biết phải làm gì với họ và cuối cùng là giới thiệu họ với một nhà tâm lý học hay một ai đó, và cuối cùng trong tiến trình lòng vòng đó, nạn nhân bị bỏ rơi không được ai giúp đỡ.”
Trong chương cuối cùng của tông huấn mới, Gaudete et Exsultate (Mừng rỡ Hân hoan), Đức Giáo Hoàng nhắc đến ma quỷ nhiều lần, và khẳng định rằng đó không phải là “chuyện thần thoại” và các Kitô hữu cần phải có tinh thần chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ.
Ngài nói: “Chúng ta không nên nghĩ về ma quỷ như một huyền thoại, một biểu trưng, một biểu tượng, một hình dung từ hoặc một ý tưởng”.
“Sai lầm này sẽ dẫn chúng ta đến sự mất cảnh giác, gây ra những bất cẩn và cuối cùng dễ bị tổn thương hơn.”
Source: Catholic Herald - Priests are performing exorcisms over the phone, cardinal claims
Buổi chiều ngày thứ Hai 16 tháng Tư, cử toạ đã nghe một bài thuyết trình rất sôi nổi của Đức Hồng Y Ernest Simoni, là Tổng Giám Mục Shkoder-Pult, Albania.
Từ năm 1946 cho đến cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Đông Âu, Albania bị cai trị bởi một chế độ hà khắc và thù nghịch với tôn giáo quyết liệt nhất trong khối cộng sản. Hậu quả là Giáo Hội tại quốc gia này vẫn còn đang trong tiến trình phục hồi; và hiện nay, Giáo Hội vẫn còn thiếu linh mục một cách trầm trọng.
Chính Đức Hồng Y Ernest Simoni là một thí dụ điển hình cho thấy sự tàn bạo của cộng sản Albania. Ngày 24 tháng 12 năm 1963, Đức Hồng Y Ernest Simoni, lúc đó còn là một linh mục, đã bị bắt vì dám cử hành lễ cầu hồn cho tổng thống Mỹ Kenedy. Ngài bị kết án tử hình nhưng sau đó được giảm án còn chung thân khổ sai và phải lao động cải tạo trong tù suốt 28 năm. Khi quốc gia này thoát khỏi họa cộng sản, ngài mới được trả tự do.
Đức Hồng Y Ernest Simoni cho biết trong bối cảnh Giáo Hội Albania thiếu linh mục trầm trọng như vậy, các linh mục trong tổng giáo phận của ngài phải trừ quỷ qua điện thoại cầm tay trước các nhu cầu ngày càng gia tăng.
“Có những linh mục trong tổng giáo phận của tôi đang thực hiện phép trừ quỷ qua điện thoại di động của họ. Tạ ơn Chúa, dù làm từ xa như thế, vẫn có hiệu quả như thường.”
Đức Hồng Y Ernest Simoni cho biết thêm trong các trường hợp không thể đến tận nơi, các linh mục đọc các lời nguyện giải phóng (prayers of liberation), là một phần của nghi lễ trừ tà, qua điện thoại di động.
Giáo sư Giuseppe Ferrari cũng xác nhận tính hiệu quả cuả các lời cầu nguyện trừ tà qua điện thoại di động. Ông nói:
“Các linh mục cầu nguyện với mọi người qua điện thoại để trấn tĩnh họ. Một số nhà trừ quỷ nói rằng điều này vẫn có hiệu quả. Làm như thế có chính thống không, có đúng hay không thì tôi không biết”.
Tuy nhiên, giáo sư Giuseppe Ferrari khích lệ các linh mục nếu có thể được nên đến tận nơi, và chỉ trừ tà qua điện thoại di động trong trường hợp bất khả kháng.
Ông giải thích như sau:
“Những người bị quỷ ám thường có những hành vi bạo lực đối với những người xung quanh và những hành vi này phải được ngăn chặn trong quá trình trừ quỷ. Nếu bạn không có ở đó, bạn khó có thể khống chế các khiá cạnh thể lý”.
Khoảng 250 linh mục đến từ 50 quốc gia đang tham dự hội nghị năm nay tại trường đại học Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ ở Rôma khi các Giám Mục từ khắp nơi trên thế giới báo cáo sự gia tăng nhu cầu trừ quỷ.
Khóa học về trừ quỷ bắt đầu vào năm 2004, và kể từ đó số linh mục tham dự mỗi năm đã tăng hơn gấp đôi.
Đầu năm nay, một linh mục người Ái Nhĩ Lan, là cha Pat Collins, cho biết các yêu cầu về trừ quỹ đã tăng lên một cách lũy tiến và cho biết các nhà lãnh đạo Giáo hội tỏ ra lúng túng trước tình trạng này.
Cha Pat Collins nói: “Có nhiều người tin rằng họ đang bị khống chế bởi một thế lực tà ác. Tôi nghĩ trong nhiều trường hợp, họ lo sợ vớ vẩn thôi. Nhưng khi họ hướng đến Hội Thánh và kêu cứu, Giáo Hội lại không biết phải làm gì với họ và cuối cùng là giới thiệu họ với một nhà tâm lý học hay một ai đó, và cuối cùng trong tiến trình lòng vòng đó, nạn nhân bị bỏ rơi không được ai giúp đỡ.”
Trong chương cuối cùng của tông huấn mới, Gaudete et Exsultate (Mừng rỡ Hân hoan), Đức Giáo Hoàng nhắc đến ma quỷ nhiều lần, và khẳng định rằng đó không phải là “chuyện thần thoại” và các Kitô hữu cần phải có tinh thần chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ.
Ngài nói: “Chúng ta không nên nghĩ về ma quỷ như một huyền thoại, một biểu trưng, một biểu tượng, một hình dung từ hoặc một ý tưởng”.
“Sai lầm này sẽ dẫn chúng ta đến sự mất cảnh giác, gây ra những bất cẩn và cuối cùng dễ bị tổn thương hơn.”
Source: Catholic Herald - Priests are performing exorcisms over the phone, cardinal claims
ĐGH Phanxicô: Giáo Hội cần nhiều ngôn sứ.
Giuse Thẩm Nguyễn
11:25 17/04/2018
(Vatican News) Trong bài giảng Thánh Lễ sáng nay, ngày 17 tháng Tư năm 2018, ĐGH đã nhấn mạnh đến chuyện kể trong thánh thư về việc Thánh Stê-pha-nô bị ném đá chết, vị thánh tử đạo đầu tiên của Giáo Hội. Một ngôn sứ đích thực là người có khả năng khóc thương cho dân của mình khi họ không quan tâm đến lời mình rao giảng.
Thánh Stê-pha-nô đã mạnh mẽ lên án dân chúng, những bậc trưởng thượng và những kinh sư là những kẻ cứng đầu luôn chống lại Thánh Thần và cũng giống như tổ tiên, họ giết chết các ngôn sứ.
ĐGH nói rằng những người này không có tấm lòng rộng mở, họ không muốn nghe lời Thánh Stê-pha-nô và họ cũng chẳng nhớ gì đến lịch sử dân Do Thái.
Bị lên án vì nói lên sự thật.
Giống như tổ tiên của họ, các kỳ lão và kinh sư đã giết các ngôn sứ, họ đã giận điên lên, xông vào bắt và lôi thánh Stê-pha-nô ra ngoài thành mà ném đá ngài.
ĐGH nói “Khi vị ngôn sứ nói lên sự thật, thì sự thật ấy có thể đánh động trái tim con người để mở cửa lòng đón nhận, mà sự thật ấy cũng có thể biến trái tim con người thành chai đá, giận dữ rồi biến thành bách hại, để kết thúc cuộc đời của vị ngôn sứ ấy.”
Ngôn sứ đích thực khóc thương dân mình.
ĐGH nói rằng sự thật thì đôi khi khó nghe, các ngôn sứ luôn luôn phải đương đầu với cái chết, bị lên án vì nói lên sự thật.
Ngôn sứ đích thực không chỉ nói lên sự thật, nhưng còn có khả năng khóc thương cho những người xa lìa hay chối bỏ sự thật.
ĐGH nhớ đến Chúa Giê-su, một mặt Chúa nghiêm khắc khiển trách dân chúng, gọi họ là “thế hệ xấu xa và ngoại tình ”, nhưng mặt khác Chúa lại khóc thương dân thành Giê-ru-sa-lem.
“Một ngôn sứ đích thự là người có khả năng khóc thương cho dân mình, nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ nói lời ngay thẳng”
Mang lại niềm hy vọng
Để đi sâu thêm vào chủ đề, ĐGH mô tả một ngôn sứ đích thực là người có khả năng mang lại hy vọng: “Hãy mở cửa lòng, chữa lành tận gốc rễ thương tích, khơi lại ý thức dân thuộc về Thiên Chúa để tiến tới.
“Vị ngôn sứ đích thực biết khi nào thì khiển trách, nhưng cũng biết cách để mở tung cánh cửa hy vọng. Một ngôn sứ đích thực đặt mình vào con đường như thế.”
Giáo hội cần nhiều ngôn sứ
Nhớ lại cái chết của Stê-pha-nô dưới sự chứng kiến và ánh mắt sôi sục của chàng trai trẻ Saulo, sau này là Thánh Phaolo để nói lên sự thật và ĐGH đã trích lời của một Giáo phụ xưa rằng “ máu của các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các Kitô hữu.”
Giáo Hội cần nhiều ngôn sứ. Điều này có nghĩa là Giáo Hội cần mỗi người chúng ta trở thành ngôn sứ, chứ không phải là nhà phê bình…nhà phê bình không phải là ngôn sứ” Những ai thích phê bình và không bao giờ hài lòng thì không phải là ngôn sứ. Ngôn sứ là người luôn cầu nguyện, nhìn lên Chúa, nhìn đến dân chúng và khi thấy dân chúng lầm lỗi thì biết xót thương.
“Nguyện xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ngôn sứ phục vụ để giúp cho Giáo Hội luôn tiến bước.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Thánh Stê-pha-nô đã mạnh mẽ lên án dân chúng, những bậc trưởng thượng và những kinh sư là những kẻ cứng đầu luôn chống lại Thánh Thần và cũng giống như tổ tiên, họ giết chết các ngôn sứ.
ĐGH nói rằng những người này không có tấm lòng rộng mở, họ không muốn nghe lời Thánh Stê-pha-nô và họ cũng chẳng nhớ gì đến lịch sử dân Do Thái.
Bị lên án vì nói lên sự thật.
Giống như tổ tiên của họ, các kỳ lão và kinh sư đã giết các ngôn sứ, họ đã giận điên lên, xông vào bắt và lôi thánh Stê-pha-nô ra ngoài thành mà ném đá ngài.
ĐGH nói “Khi vị ngôn sứ nói lên sự thật, thì sự thật ấy có thể đánh động trái tim con người để mở cửa lòng đón nhận, mà sự thật ấy cũng có thể biến trái tim con người thành chai đá, giận dữ rồi biến thành bách hại, để kết thúc cuộc đời của vị ngôn sứ ấy.”
Ngôn sứ đích thực khóc thương dân mình.
ĐGH nói rằng sự thật thì đôi khi khó nghe, các ngôn sứ luôn luôn phải đương đầu với cái chết, bị lên án vì nói lên sự thật.
Ngôn sứ đích thực không chỉ nói lên sự thật, nhưng còn có khả năng khóc thương cho những người xa lìa hay chối bỏ sự thật.
ĐGH nhớ đến Chúa Giê-su, một mặt Chúa nghiêm khắc khiển trách dân chúng, gọi họ là “thế hệ xấu xa và ngoại tình ”, nhưng mặt khác Chúa lại khóc thương dân thành Giê-ru-sa-lem.
“Một ngôn sứ đích thự là người có khả năng khóc thương cho dân mình, nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ nói lời ngay thẳng”
Mang lại niềm hy vọng
Để đi sâu thêm vào chủ đề, ĐGH mô tả một ngôn sứ đích thực là người có khả năng mang lại hy vọng: “Hãy mở cửa lòng, chữa lành tận gốc rễ thương tích, khơi lại ý thức dân thuộc về Thiên Chúa để tiến tới.
“Vị ngôn sứ đích thực biết khi nào thì khiển trách, nhưng cũng biết cách để mở tung cánh cửa hy vọng. Một ngôn sứ đích thực đặt mình vào con đường như thế.”
Giáo hội cần nhiều ngôn sứ
Nhớ lại cái chết của Stê-pha-nô dưới sự chứng kiến và ánh mắt sôi sục của chàng trai trẻ Saulo, sau này là Thánh Phaolo để nói lên sự thật và ĐGH đã trích lời của một Giáo phụ xưa rằng “ máu của các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các Kitô hữu.”
Giáo Hội cần nhiều ngôn sứ. Điều này có nghĩa là Giáo Hội cần mỗi người chúng ta trở thành ngôn sứ, chứ không phải là nhà phê bình…nhà phê bình không phải là ngôn sứ” Những ai thích phê bình và không bao giờ hài lòng thì không phải là ngôn sứ. Ngôn sứ là người luôn cầu nguyện, nhìn lên Chúa, nhìn đến dân chúng và khi thấy dân chúng lầm lỗi thì biết xót thương.
“Nguyện xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ngôn sứ phục vụ để giúp cho Giáo Hội luôn tiến bước.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Vị Hồng Y đầu tiên của Vatican được chào đón tại Arab Saudi
Đặng Tự Do
12:54 17/04/2018
Đức Hồng Y Jean-Louis Pierre Tauran, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn đã đến thăm thủ đô Riyadh của Arab Saudi hôm thứ Bảy 14 tháng Tư, Saudi Press Agency, cơ quan thông tấn chính thức của nước này đã cho biết như trên.
Ra đón Đức Hồng Y tại sân bay quốc tế Vua Khalid có Hoàng tử Mohammed bin Abdurrahman bin Abdulaziz, Phó Thống đốc Riyadh và Tiến sĩ Mohammed bin Abdul-Kareem Al-Issa, Tổng thư ký Liên đoàn Hồi giáo Thế giới.
Đức Hồng Y Tauran là vị Hồng Y đầu tiên của Vatican được chào đón tại Arab Saudi.
Vatican và Arab Saudi không có quan hệ ngoại giao chính thức nhưng đã có một số cuộc gặp gỡ quan trọng giữa các quan chức của Saudi và Tòa thánh để thảo luận các vấn đề thế giới và đối thoại liên tôn.
Tháng 11 năm 2007, vua Abdullah của Arab Saudi đã là quốc vương đầu tiên của quốc gia này viếng thăm Vatican, chấm dứt mối quan hệ lạnh nhạt giữa các nhà lãnh đạo Saudi Arab và Vatican trong suốt 1400 năm.
Vatican đã nhiều lần đề nghị xây dựng một nhà thờ Công Giáo ở một nơi nào đó tại Arab Saudi, trích dẫn Công ước Najran vào thế kỷ thứ 7 do Muhammad ký kết với các cư dân Kitô giáo trong thế giới Ả-rập.
Ngày nay có một số lượng lớn những lao động nước ngoài là các Kitô hữu, và hàng tuần họ phải vượt biên giới tới một quốc gia lân cận để dự lễ.
Trong bài diễn văn trước ngoại giao đoàn vào tháng Giêng 2011, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã thẳng thắn yêu cầu Arab Saudi cho phép xây dựng một nhà thờ Công Giáo và đối xử bình đẳng với các Kitô hữu đang lao động tại đây.
Trước Đức Hồng Y Tauran, Đức Hồng Y Bechara Boutros al-Rahi đã là Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ Maronite đầu tiên đến thăm Saudi Arabia trong chuyến viếng thăm lịch sử hôm 14 tháng 11 năm ngoái, 2017 tại ‘miền đất của tiên tri Môhamét’
Chuyến viếng thăm này là để đáp lại lời mời chính thức từ vua Salman Salman, hoàng thái tử, và nhân vật đứng thứ hai tại Saudi Arabia là Mohammad bin Salman.
Đây là chuyến viếng thăm lịch sử đầu tiên của một nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo tới vương quốc của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo Wahhabi.
Gần đây, quốc gia này đã đưa ra một loạt các cải cách kinh tế và xã hội, bao gồm việc mở các sân thể thao và cho phụ nữ được lái xe, cũng như những nỗ lực đầu tiên để giải phóng các quan điểm cực đoan Hồi giáo.
Hoàng thái tử là một người đang háo hức thực hiện “Vision 2030”, là một chương trình cải tổ sâu rộng về kinh tế và văn hóa xã hội.
Trong chuyến thăm Riyadh lần này, Đức Hồng Y đã thảo luận với các nhà cầm quyền Saudi Arabia về tương lai của Giêrusalem và hòa bình tại Thánh Địa cũng như trong toàn vùng Trung Đông.
Vào đầu thế kỷ thứ 18, vùng đất ngày nay là Arab Saudi bị chia thành nhiều quốc gia nhỏ do hàng loạt các tiểu vương cai trị. Một trong những tiểu vương này là Mohammed ibn al-Saud. Ông ta cai trị một vùng đất rất nhỏ nhưng lại có một tham vọng rất lớn. Ông đã tiếp xúc với giáo trưởng Hồi Giáo Sunni là Muhammed ibn al-Wahhab, là người có một cách giải thích Hồi Giáo rất cực đoan.
Một liên minh được thành lập. Wahhab đã tạo ra những hào quang Hồi Giáo chung quanh Saud; và sau những cuộc chiến đẫm máu, đầu thập niên 1800, những huyền thoại Hồi Giáo này đã giúp Saud thâu tóm được toàn bộ mảnh đất Arab Saudi như ta thấy ngày nay. Đổi lại, Saud để Wahhab tự do truyền bá thứ Hồi Giáo cực đoan của y và hình thành ra những luật lệ Hồi Giáo rất khắc nghiệt vẫn tồn tại cho đến nay.
Mảnh đất Arab Saudi, nơi các tín hữu Hồi thấm nhuần một thứ Hồi Giáo cực đoan, đã sinh ra hàng loạt những trào lưu khủng bố Hồi Giáo, tiêu biểu là al-Qaeda, hầu áp đặt lên thế giới chủ nghĩa Hồi Giáo Wahhabi và những luật lệ man rợ đi kèm với nó.
Hàng triệu Kitô hữu đang sống tại Arab Saudi. Họ không được quyền thờ phượng công khai, không được có những biểu tượng Kitô Giáo, không được có những tài liệu liên quan đến Kitô Giáo và thường xuyên bị công an tôn giáo bách hại.
Ngày nào dòng họ Saudi còn tiếp tục cai trị quốc gia này, tình trạng trên vẫn không thể được cải thiện.
Ra đón Đức Hồng Y tại sân bay quốc tế Vua Khalid có Hoàng tử Mohammed bin Abdurrahman bin Abdulaziz, Phó Thống đốc Riyadh và Tiến sĩ Mohammed bin Abdul-Kareem Al-Issa, Tổng thư ký Liên đoàn Hồi giáo Thế giới.
Đức Hồng Y Tauran là vị Hồng Y đầu tiên của Vatican được chào đón tại Arab Saudi.
Vatican và Arab Saudi không có quan hệ ngoại giao chính thức nhưng đã có một số cuộc gặp gỡ quan trọng giữa các quan chức của Saudi và Tòa thánh để thảo luận các vấn đề thế giới và đối thoại liên tôn.
Tháng 11 năm 2007, vua Abdullah của Arab Saudi đã là quốc vương đầu tiên của quốc gia này viếng thăm Vatican, chấm dứt mối quan hệ lạnh nhạt giữa các nhà lãnh đạo Saudi Arab và Vatican trong suốt 1400 năm.
Vatican đã nhiều lần đề nghị xây dựng một nhà thờ Công Giáo ở một nơi nào đó tại Arab Saudi, trích dẫn Công ước Najran vào thế kỷ thứ 7 do Muhammad ký kết với các cư dân Kitô giáo trong thế giới Ả-rập.
Ngày nay có một số lượng lớn những lao động nước ngoài là các Kitô hữu, và hàng tuần họ phải vượt biên giới tới một quốc gia lân cận để dự lễ.
Trong bài diễn văn trước ngoại giao đoàn vào tháng Giêng 2011, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã thẳng thắn yêu cầu Arab Saudi cho phép xây dựng một nhà thờ Công Giáo và đối xử bình đẳng với các Kitô hữu đang lao động tại đây.
Trước Đức Hồng Y Tauran, Đức Hồng Y Bechara Boutros al-Rahi đã là Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ Maronite đầu tiên đến thăm Saudi Arabia trong chuyến viếng thăm lịch sử hôm 14 tháng 11 năm ngoái, 2017 tại ‘miền đất của tiên tri Môhamét’
Chuyến viếng thăm này là để đáp lại lời mời chính thức từ vua Salman Salman, hoàng thái tử, và nhân vật đứng thứ hai tại Saudi Arabia là Mohammad bin Salman.
Đây là chuyến viếng thăm lịch sử đầu tiên của một nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo tới vương quốc của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo Wahhabi.
Gần đây, quốc gia này đã đưa ra một loạt các cải cách kinh tế và xã hội, bao gồm việc mở các sân thể thao và cho phụ nữ được lái xe, cũng như những nỗ lực đầu tiên để giải phóng các quan điểm cực đoan Hồi giáo.
Hoàng thái tử là một người đang háo hức thực hiện “Vision 2030”, là một chương trình cải tổ sâu rộng về kinh tế và văn hóa xã hội.
Trong chuyến thăm Riyadh lần này, Đức Hồng Y đã thảo luận với các nhà cầm quyền Saudi Arabia về tương lai của Giêrusalem và hòa bình tại Thánh Địa cũng như trong toàn vùng Trung Đông.
Vào đầu thế kỷ thứ 18, vùng đất ngày nay là Arab Saudi bị chia thành nhiều quốc gia nhỏ do hàng loạt các tiểu vương cai trị. Một trong những tiểu vương này là Mohammed ibn al-Saud. Ông ta cai trị một vùng đất rất nhỏ nhưng lại có một tham vọng rất lớn. Ông đã tiếp xúc với giáo trưởng Hồi Giáo Sunni là Muhammed ibn al-Wahhab, là người có một cách giải thích Hồi Giáo rất cực đoan.
Một liên minh được thành lập. Wahhab đã tạo ra những hào quang Hồi Giáo chung quanh Saud; và sau những cuộc chiến đẫm máu, đầu thập niên 1800, những huyền thoại Hồi Giáo này đã giúp Saud thâu tóm được toàn bộ mảnh đất Arab Saudi như ta thấy ngày nay. Đổi lại, Saud để Wahhab tự do truyền bá thứ Hồi Giáo cực đoan của y và hình thành ra những luật lệ Hồi Giáo rất khắc nghiệt vẫn tồn tại cho đến nay.
Mảnh đất Arab Saudi, nơi các tín hữu Hồi thấm nhuần một thứ Hồi Giáo cực đoan, đã sinh ra hàng loạt những trào lưu khủng bố Hồi Giáo, tiêu biểu là al-Qaeda, hầu áp đặt lên thế giới chủ nghĩa Hồi Giáo Wahhabi và những luật lệ man rợ đi kèm với nó.
Hàng triệu Kitô hữu đang sống tại Arab Saudi. Họ không được quyền thờ phượng công khai, không được có những biểu tượng Kitô Giáo, không được có những tài liệu liên quan đến Kitô Giáo và thường xuyên bị công an tôn giáo bách hại.
Ngày nào dòng họ Saudi còn tiếp tục cai trị quốc gia này, tình trạng trên vẫn không thể được cải thiện.
Ba vị giáo hoàng gần đây nhất đã khai phá quan điểm giáo hoàng có thể sai lầm
Vũ Văn An
18:25 17/04/2018
Trong một bài phân tích tin tức ngày 16 tháng Tư, nữ ký giả Inés San Martín của tạp chí Crux cho rằng ba vị giáo hoàng gần đây nhất đã triển khai một quan điểm về tính có thể sai lầm nơi các vị giáo hoàng.
Như mọi người đã biết, gần 150 năm trước đây, Đức Piô IX đã dẫn dắt Giáo Hội tới chỗ tuyên bố tín điều Đức Giáo Hoàng vô ngộ trong các tuyên bố long trọng về đức tin và luân lý, nhờ thế, các ngài được gìn giữ khỏi mọi khả thể sai lầm. Đó là đỉnh cao của nhiều thế kỷ cố gắng cung cấp cho tín hữu một cảm thức tuyệt đối chắc chắn rằng các vị giáo hoàng không, thậm chí không thể, sai lầm khi nói tới giáo huấn.
Dù không hẳn nói ra, điều mà ba vị giáo hoàng gần đây nhất từng làm là khai phá một "tín điều" song song về tính có thể sai lầm của vị giáo hoàng khi nói tới các vấn đề thực hành.
Hàng thế kỷ nay, các vị giáo hoàng không bao giờ công khai xin lỗi về bất cứ điều gì; hoàn toàn đúng theo nghĩa đen, làm giáo hoàng có nghĩa là không bao giờ phải nói lời xin lỗi. Chắc chắn, điều này không có nghĩa các ngài thiếu lý do để làm thế, nhưng làm thế bị coi là không xứng hợp, không vương giả. Nó bị coi là dấu hiệu của yếu đuối, bất xứng với Người Kế Vị Thánh Phêrô.
Tuy nhiên, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phá vỡ lối suy nghĩ ấy phần nào liên quan tới việc xin lỗi. Năm 1998, nhà báo Ý, Luigi Accattoli, liệt kê ít nhất 94 lời xin lỗi của vị Giáo Hoàng người Balan này trong cuốn sách tựa là Khi Một Vị Giáo Hoàng Xin Sự Tha Thứ (When a Pope Asks Forgiveness).
Trong 27 năm trên ngôi giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã đưa ra nhiều lời xin lỗi, lên tiếng nhân danh Giáo Hội. Các loạt “lỗi tại tôi” này ngỏ với nhiều đối tượng khác nhau từ những cá nhân bị Giáo Hội gây hại như Galileo Galilei, tới những nhóm người như những ai bị Tòa Dị Giáo kết tội, các người Hồi Giáo bị Thập Tự Quân sát hại và các người Châu Phi bị bắt làm nô lệ với sự góp tay của Giáo Hội.
Đi xa hơn, trong năm 2000, năm Đại Thánh, vào “Ngày Hồng Ân”, Đức Gioan Phaolô II đã nhân danh Giáo Hội xin lỗi cho các tội mà con cái Giáo Hội đã phạm chống lại người Do Thái, lạc giáo, phụ nữ, Gypsies và các dân tộc bản địa.
Lúc đó, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, vị sau này trở thành Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, đã giúp đưa ra một cái khung thần học cho việc xin lỗi qua văn kiện có tựa đề là Ký Ức Và Hòa Giải: Giáo Hội và Các Lỗi Lầm Của Quá Khứ.
Văn kiện trên nhắc nhở chúng ta rằng cho dù việc xin lỗi là nhân danh Giáo Hội, nhưng việc làm sai là của các Kitô hữu cá nhân, vì Giáo Hội, tự mình, vốn luôn thánh thiện.
Người ta có thể lý luận rằng bất kể các việc xin lỗi này có tính cách mạng bao nhiêu, Đức Gioan Phaolô II vẫn không xin lỗi vì các sai phạm của chính bản thân ngài. Thay vào đó, ngài chỉ đưa ra các quyết định có tính định chế để xin sự tha thứ nhân danh Giáo Hội vì các tội lỗi và sai lầm trong quá khứ.
Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđictô XVI đã đẩy truyền thống ấy xa hơn nữa, bằng cách ban hành điều lúc ấy được coi như một lời xin lỗi có tính lịch sử đối với các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục tại Ái Nhĩ Lan. Ngỏ lời trực tiếp với các nạn nhân và gia đình họ trong một lá thư mục vụ dài 8 trang, Đức Bênêđíctô viết: “Anh chị em đau khổ một cách nặng nề và tôi thực sự hối lỗi”.
Năm 2010, ngài viết “Tôi biết rằng không điều gì có thể tháo bỏ điều lầm lẫn anh chị em phải chịu. Niềm tín thác của anh chị em đã bị phản bội và phẩm giá anh chị em đã bị vi phạm”.
Nhưng vị giáo hoàng người Đức đã không chỉ xin lỗi vì các lỗi lầm có tính định chế của Giáo Hội mà còn vì các lỗi lầm riêng của ngài.
Lần đầu tiên ngài làm thế là năm 2006, sau bài diễn văn nổi tiếng về trạng thái Kitô Giáo trong thế giới ngày nay mà ngài đọc tại Đại Học Regensburg ở Đức. Bài diễn văn ấy, tựa là Đức Tin, Lý Trí và Đại Học: Các Ký Ức và Suy Tư, nói về khuynh hướng của Tây Phương muốn tách biệt lý trí khỏi đức tin.
Tuy nhiên, trong bài diễn văn ấy, ngài có trích dẫn một vị hoàng đế Byzantine thế kỷ 14, người cho rằng Muhammad chỉ mang đến “những điều xấu xa và bất nhân” và bạo lực “bất tương hợp với bản chất Thiên Chúa và bản tính của linh hồn”.
Bị lấy khỏi đồng văn, điều trên bị coi là một cuộc tấn công chống lại Hồi Giáo, và đã làm nổi lên một cuộc phản đối rộng lớn khắp thế giới Ảrập. Nhiều người bị giết vì thế.
Năm ngày sau, trong bài diễn văn lúc đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật, tại dinh mùa hè ở Castel Gandolfo, Đức Bênêđictô XVI đã xin lỗi vì nhận xét của ngài. Ngài nói rằng ngài “hối lỗi sâu xa” vì phản ứng mà một số đoạn của bài diễn văn đã gây nên.
Ngài nói: “Những đoạn này thực ra là lời trích dẫn từ một bản văn thời trung cổ, những lời trích dẫn không hề nói lên suy nghĩ riêng của tôi”.
Năm 2009, như một phần trong cố gắng bao quát hơn từ một con người vốn bị gọi là “Chó Canh của Thiên Chúa” (“God’s Rottweiler”) nhằm vươn tay ra với mọi người bất đồng, trong đó, có nhóm duy truyền thống là Hội Piô X, ngài đã cất vạ tuyệt thông cho 4 giám mục trước đó được tấn phong thành sự nhưng trái phép.
Trong số đó, có vị giám mục chối bỏ nạn Diệt Chủng Do Thái là Đức Cha Richard Williamson. Thế là không biết bao nhiêu hàng tít tố cáo Đức Giáo Hoàng “phục hồi chức vụ cho người bác bỏ Nạn Diệt Chủng” được loan truyền khắp thế giới.
Mấy tuần sau, Đức Bênêđictô ban hành một lá thư gửi mọi giám mục trên thế giới xin lỗi về những thương tích do vụ việc gây ra, tỏ “lòng hối tiếc sâu xa” trước lầm lỗi phạm phải trong diễn trình vươn tay ra với Hội và các thành viên của nó. Thậm chí, ngài còn thừa nhận rằng phần lớn những đau lòng này đáng lẽ đã tránh được nếu Vatican chịu dùng Internet để tìm hiểu về 4 vị giám mục đang bàn này.
Tuần trước, bằng lời xin lỗi một nhóm nạn nhân người Chile của nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn đi xa hơn nhiều bằng cách định chế hóa chính truyền thống các vị giáo hoàng đích thân xin lỗi. Trong lá thư gửi các giám mục Chile, ngài viết: “tôi nhìn nhận và tôi muốn các hiền huynh thông đạt điều này một cách chính xác, rằng tôi đã phạm các sai lầm nghiêm trọng trong phán đoán và nhận thức tình huống, nhất là do việc thiếu thông tin trung thực và quân bình”.
Cuối tháng này, Đức Phanxicô sẽ gặp 3 nạn nhân bị lạm dụng là James Hamilton, Juan Carlos Cruz và Jose Andres Murillo, những người đã lớn tiếng hơn hết liên quan tới nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục tại Chile và việc che đậy có hệ thống, nhưng lá thư được công bố hôm thứ Tư còn bao gồm lời xin lỗi “với mọi người tôi đã xúc phạm”.
Một trong các nạn nhân trên nhận định rằng Đức Phanxicô đã mở mắt ra với thực tại. Thiển nghĩ đây là một nhận định đúng đắn, chứ không hẳn một khai phá tín điều mới. Giáo Hội ngày càng gột bỏ những "trang phục" không cần thiết để được "lộng lẫy" bằng chính sự thánh thiện của mình. Thừa nhận thực tại lầm lỗi trong thực hành không hề là một tín lý mới, mà chỉ là một cố gắng gột bỏ, hồi tâm...
Như mọi người đã biết, gần 150 năm trước đây, Đức Piô IX đã dẫn dắt Giáo Hội tới chỗ tuyên bố tín điều Đức Giáo Hoàng vô ngộ trong các tuyên bố long trọng về đức tin và luân lý, nhờ thế, các ngài được gìn giữ khỏi mọi khả thể sai lầm. Đó là đỉnh cao của nhiều thế kỷ cố gắng cung cấp cho tín hữu một cảm thức tuyệt đối chắc chắn rằng các vị giáo hoàng không, thậm chí không thể, sai lầm khi nói tới giáo huấn.
Dù không hẳn nói ra, điều mà ba vị giáo hoàng gần đây nhất từng làm là khai phá một "tín điều" song song về tính có thể sai lầm của vị giáo hoàng khi nói tới các vấn đề thực hành.
Hàng thế kỷ nay, các vị giáo hoàng không bao giờ công khai xin lỗi về bất cứ điều gì; hoàn toàn đúng theo nghĩa đen, làm giáo hoàng có nghĩa là không bao giờ phải nói lời xin lỗi. Chắc chắn, điều này không có nghĩa các ngài thiếu lý do để làm thế, nhưng làm thế bị coi là không xứng hợp, không vương giả. Nó bị coi là dấu hiệu của yếu đuối, bất xứng với Người Kế Vị Thánh Phêrô.
Tuy nhiên, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phá vỡ lối suy nghĩ ấy phần nào liên quan tới việc xin lỗi. Năm 1998, nhà báo Ý, Luigi Accattoli, liệt kê ít nhất 94 lời xin lỗi của vị Giáo Hoàng người Balan này trong cuốn sách tựa là Khi Một Vị Giáo Hoàng Xin Sự Tha Thứ (When a Pope Asks Forgiveness).
Trong 27 năm trên ngôi giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã đưa ra nhiều lời xin lỗi, lên tiếng nhân danh Giáo Hội. Các loạt “lỗi tại tôi” này ngỏ với nhiều đối tượng khác nhau từ những cá nhân bị Giáo Hội gây hại như Galileo Galilei, tới những nhóm người như những ai bị Tòa Dị Giáo kết tội, các người Hồi Giáo bị Thập Tự Quân sát hại và các người Châu Phi bị bắt làm nô lệ với sự góp tay của Giáo Hội.
Đi xa hơn, trong năm 2000, năm Đại Thánh, vào “Ngày Hồng Ân”, Đức Gioan Phaolô II đã nhân danh Giáo Hội xin lỗi cho các tội mà con cái Giáo Hội đã phạm chống lại người Do Thái, lạc giáo, phụ nữ, Gypsies và các dân tộc bản địa.
Lúc đó, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, vị sau này trở thành Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, đã giúp đưa ra một cái khung thần học cho việc xin lỗi qua văn kiện có tựa đề là Ký Ức Và Hòa Giải: Giáo Hội và Các Lỗi Lầm Của Quá Khứ.
Văn kiện trên nhắc nhở chúng ta rằng cho dù việc xin lỗi là nhân danh Giáo Hội, nhưng việc làm sai là của các Kitô hữu cá nhân, vì Giáo Hội, tự mình, vốn luôn thánh thiện.
Người ta có thể lý luận rằng bất kể các việc xin lỗi này có tính cách mạng bao nhiêu, Đức Gioan Phaolô II vẫn không xin lỗi vì các sai phạm của chính bản thân ngài. Thay vào đó, ngài chỉ đưa ra các quyết định có tính định chế để xin sự tha thứ nhân danh Giáo Hội vì các tội lỗi và sai lầm trong quá khứ.
Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđictô XVI đã đẩy truyền thống ấy xa hơn nữa, bằng cách ban hành điều lúc ấy được coi như một lời xin lỗi có tính lịch sử đối với các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục tại Ái Nhĩ Lan. Ngỏ lời trực tiếp với các nạn nhân và gia đình họ trong một lá thư mục vụ dài 8 trang, Đức Bênêđíctô viết: “Anh chị em đau khổ một cách nặng nề và tôi thực sự hối lỗi”.
Năm 2010, ngài viết “Tôi biết rằng không điều gì có thể tháo bỏ điều lầm lẫn anh chị em phải chịu. Niềm tín thác của anh chị em đã bị phản bội và phẩm giá anh chị em đã bị vi phạm”.
Nhưng vị giáo hoàng người Đức đã không chỉ xin lỗi vì các lỗi lầm có tính định chế của Giáo Hội mà còn vì các lỗi lầm riêng của ngài.
Lần đầu tiên ngài làm thế là năm 2006, sau bài diễn văn nổi tiếng về trạng thái Kitô Giáo trong thế giới ngày nay mà ngài đọc tại Đại Học Regensburg ở Đức. Bài diễn văn ấy, tựa là Đức Tin, Lý Trí và Đại Học: Các Ký Ức và Suy Tư, nói về khuynh hướng của Tây Phương muốn tách biệt lý trí khỏi đức tin.
Tuy nhiên, trong bài diễn văn ấy, ngài có trích dẫn một vị hoàng đế Byzantine thế kỷ 14, người cho rằng Muhammad chỉ mang đến “những điều xấu xa và bất nhân” và bạo lực “bất tương hợp với bản chất Thiên Chúa và bản tính của linh hồn”.
Bị lấy khỏi đồng văn, điều trên bị coi là một cuộc tấn công chống lại Hồi Giáo, và đã làm nổi lên một cuộc phản đối rộng lớn khắp thế giới Ảrập. Nhiều người bị giết vì thế.
Năm ngày sau, trong bài diễn văn lúc đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật, tại dinh mùa hè ở Castel Gandolfo, Đức Bênêđictô XVI đã xin lỗi vì nhận xét của ngài. Ngài nói rằng ngài “hối lỗi sâu xa” vì phản ứng mà một số đoạn của bài diễn văn đã gây nên.
Ngài nói: “Những đoạn này thực ra là lời trích dẫn từ một bản văn thời trung cổ, những lời trích dẫn không hề nói lên suy nghĩ riêng của tôi”.
Năm 2009, như một phần trong cố gắng bao quát hơn từ một con người vốn bị gọi là “Chó Canh của Thiên Chúa” (“God’s Rottweiler”) nhằm vươn tay ra với mọi người bất đồng, trong đó, có nhóm duy truyền thống là Hội Piô X, ngài đã cất vạ tuyệt thông cho 4 giám mục trước đó được tấn phong thành sự nhưng trái phép.
Trong số đó, có vị giám mục chối bỏ nạn Diệt Chủng Do Thái là Đức Cha Richard Williamson. Thế là không biết bao nhiêu hàng tít tố cáo Đức Giáo Hoàng “phục hồi chức vụ cho người bác bỏ Nạn Diệt Chủng” được loan truyền khắp thế giới.
Mấy tuần sau, Đức Bênêđictô ban hành một lá thư gửi mọi giám mục trên thế giới xin lỗi về những thương tích do vụ việc gây ra, tỏ “lòng hối tiếc sâu xa” trước lầm lỗi phạm phải trong diễn trình vươn tay ra với Hội và các thành viên của nó. Thậm chí, ngài còn thừa nhận rằng phần lớn những đau lòng này đáng lẽ đã tránh được nếu Vatican chịu dùng Internet để tìm hiểu về 4 vị giám mục đang bàn này.
Tuần trước, bằng lời xin lỗi một nhóm nạn nhân người Chile của nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn đi xa hơn nhiều bằng cách định chế hóa chính truyền thống các vị giáo hoàng đích thân xin lỗi. Trong lá thư gửi các giám mục Chile, ngài viết: “tôi nhìn nhận và tôi muốn các hiền huynh thông đạt điều này một cách chính xác, rằng tôi đã phạm các sai lầm nghiêm trọng trong phán đoán và nhận thức tình huống, nhất là do việc thiếu thông tin trung thực và quân bình”.
Cuối tháng này, Đức Phanxicô sẽ gặp 3 nạn nhân bị lạm dụng là James Hamilton, Juan Carlos Cruz và Jose Andres Murillo, những người đã lớn tiếng hơn hết liên quan tới nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục tại Chile và việc che đậy có hệ thống, nhưng lá thư được công bố hôm thứ Tư còn bao gồm lời xin lỗi “với mọi người tôi đã xúc phạm”.
Một trong các nạn nhân trên nhận định rằng Đức Phanxicô đã mở mắt ra với thực tại. Thiển nghĩ đây là một nhận định đúng đắn, chứ không hẳn một khai phá tín điều mới. Giáo Hội ngày càng gột bỏ những "trang phục" không cần thiết để được "lộng lẫy" bằng chính sự thánh thiện của mình. Thừa nhận thực tại lầm lỗi trong thực hành không hề là một tín lý mới, mà chỉ là một cố gắng gột bỏ, hồi tâm...
Tông Huấn Gaudete Et Exsultate Của Đức Thánh Cha Phanxicô : Chương 4
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
21:25 17/04/2018
TÔNG HUẤN GAUDETE ET EXSULTATE CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ VỀ ƠN GỌI NÊN THÁNH TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY : CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG 4
CÁC ĐẶC TÍNH CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Trong khuôn khổ của sự thánh thiện cao cả mà các Mối Phúc Thật và Matthêu 25:31-46 đưa ra, tôi muốn đề cập đến một số đặc tính hoặc biểu thức tâm linh, theo thiển ý của tôi, là rất cần thiết để hiểu được cách sống mà Chúa mời gọi chúng ta. Tôi sẽ không ngừng lại để giải thích các phương tiện thánh hóa đã được chúng ta biết đến: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh cá nhân, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và nhiều việc khác nữa. Ở đây, tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ vang âm một đặc biệt.
111. Các đặc tính tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm biểu hiện tuyệt vời của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì một số nguy cơ và giới hạn nào đó của nền văn hoá hiện nay. Trong đó chúng ta thấy một cảm giác lo lắng, đôi khi bạo động, làm cho chúng ta sao lãng và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và tất cả những hình thức tâm linh sai lạc, không gặp gỡ được Thiên Chúa, hiện đang thống trị thị trường tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Đặc tính đầu tiên trong những đặc tính to tát này có nền tảng vững chắc trong Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nguồn sức mạnh nội tâm này giúp chúng ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, nhưng cũng giúp chúng ta chịu đựng được sự thù địch, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp chúng ta, thì ai chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31): đây là nguồn bình an được tìm thấy nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến chúng ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong một thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của chúng ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì những ai tin tưởng vào Thiên Chúa (pístis) cũng có thể trung thành với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thể có thể không mang lại cho họ những sự thoả mãn tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (xem Rm 12:17), đừng tìm cách trả thù (x. câu 19), đừng để bị khuất phục bởi sự dữ, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. câu 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối mà của sức mạnh thực sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Na 1:3). Lời Chúa khuyên chúng ta hãy “loại bỏ tất cả mọi đắng cay, phẫn nộ, giận hờn, chửi bới, cùng mọi điều gian ác” (Eph 4:31).
114. Chúng ta cần phải vật lôn với và đề phòng các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đừng để cho chúng bén rễ. “Hãy nóng giận, nhưng đừng phạm tội. Chớ để mặt trời lặn trên cơn giận của anh em” (Eph 4:26). Khi cảm thấy bị đuối sức, chúng ta luôn luôn có thể bám lấy mỏ neo cầu nguyện, là điều đưa chúng ta trở lại vòng tay Thiên Chúa và nguồn bình an của chúng ta. “Anh em đừng lo lắng về bất cứ điều gì, nhưng trong mọi sự, hãy dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin của anh em bằng kinh nguyện, xin ơn, và tạ ơn. Và bình an của Thiên Chúa, là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em...” (Ph 4: 6-7).
115. Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông thuật số khác nhau. Ngay cả trong các phương tiện truyền thông Công Giáo, các giới hạn có thể bị vượt qua, phỉ báng và vu khống có thể trở nên phổ thông, và tất cả các tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng danh tiếng của người khác có thể bị bỏ rơi. Kết quả là một sự phân đôi nguy hiểm, vì những gì có thể được nói ở đó có thể không được chấp nhận trong các cuộc thảo luận công khai, và người ta tỉm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ những người khác. Điều đáng chú ý là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại hình ảnh của người khác. Ở đó họ chứng tỏ một cách không giữ gìn rằng “cái lưỡi là “thế giới của sự dữ” và “thiêu huỷ toàn thể đời sống chúng ta, vì được nhóm lên bởi lửa hoả ngục” (Gb 3:6).
116. Sức mạnh nội tâm, là việc làm của ân sủng, tránh cho chúng ta khỏi bị kích động bởi bạo lực, là điểu tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và làm cho người ta dễ dàng trở nên có lòng hiền lành. Các thánh không phí sức than phiền về những thất bại của người khác; các ngài có thể cột lưỡi của mình trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài coi mình như không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng coi họ như “hơn mình” (Ph 2: 3).
117. Thật không tốt khi chúng ta nhìn xuống người khác như những quan toà tàn nhẫn, coi họ là không xứng đáng và luôn ra vẻ dạy cho họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi [95]. Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Hãy luôn luôn thích được tất cả mọi người dạy mình, hơn là muốn dạy ngay cả những người bé nhỏ nhất trong mọi người” [96]. Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Hãy vui mừng coi những sự tốt đẹp của người khác như của chính mình, và mong rằng họ được ưu tiên hơn mình trong mọi sự; các chị phải hết lòng làm điều này. Như thế các chị sẽ chiến thắng sự dữ bằng việc lành, đánh đuổi quỷ dữ, và có được một con tim hạnh phúc. Hãy cố gắng thực hành điều này nhiều hơn nữa với những ai mà các chị cho là ít hấp dẫn nhất. Hãy nhận ra rằng nếu các chị không tự tập luyện theo cách này, các chị sẽ không đạt được đức ái thật sự hoặc tiến bộ trong nhân đức ấy” [97].
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua các sỉ nhục. Không có chúng, thì không có sự khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu anh chị em không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì anh chị em chưa khiêm tốn và anh chị em chưa phải đang trên con đường nên thánh. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Hội Thánh của Ngài đến qua sự nhục nhã của Con Ngài. Người là đường. Sự sỉ nhục làm cho anh chị em giống Chúa Giêsu; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. Vì “Ðức Kitô cũng đã chịu đau khổ vì anh chị em, để lại cho anh chị em một mẫu gương, ngõ hầu anh chị em có thể theo bước chân Người.” (1 Phr 2:21). Ngược lại, Người tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng xuống để hành trình với dân Ngài, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34: 6-9, Kn 11: 23-12: 2, Lc 6:36). Vì lý do này, mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “là mình được kể như đáng chịu xỉ nhục vì danh [Chúa Giêsu]” (Cv 5:41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh tột cùng về việc tử vì đạo, mà còn về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu khi anh em làm việc lành, mà bị đau khổ, và anh em kiên tâm chịu đựng, thì đó là hồng phúc trước mặt Thiên Chúa” (1 Phr 2:20). Điều này không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì một người không ích kỷ, họ có thể dám bất đồng ý kiến một cách ôn tồn, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi nó có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không nói rằng sự sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì đó là chủ trương tự hành hạ mình, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự kết hợp với Người. Điều này không thể hiểu nổi trên một mức độ thuần túy tự nhiên, và thế gian chế diễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thay vào đó, đây là một ân sủng được tìm kiếm trong cầu nguyện: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Thái độ này bao hàm một con tim được bình an nhờ Đức Kitô, được giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá tự đại. Cũng một bình an ấy được đem đến bởi ân sủng, làm cho chúng ta có thể giữ được sự an toàn nội tâm và chịu đựng, cùng kiên trì trong sự tốt lành, “dù tôi đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù một đạo binh hạ trại chống lại tôi” (Tv 27: 3). Đứng vững trong Chúa, Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “ Trong bình an con ngả mình là ngủ kỹ, chỉ mình Ngài, lạy Chúa, làm đời con yên ổn.” (Tv 4,8). Tóm lại một lời, Đức Kitô, “là bình an của chúng ta” (Eph 2:14); Người đã đến “để hướng dẫn ta bước chân vào nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại với lòng tìn thác vào lòng thương xót của Ta” [98]. Vì vậy, chúng ta đừng rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong thành công, những thú vui vô bổ, sở hữu, quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban bình an cho các con, nhưng không như thế gian ban nó cho các con.” (Ga 14:27).
NIỀM VUI VÀ ĐẦU ÓC KHÔI HÀI
122. Những điều được nói ở trên không ám chỉ một tinh thần ngăn cấm, nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc có một vẻ mặt thê lương, các thánh vui tươi và có đầu óc khôi hài. Mặc dù hoàn toàn thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14:17), vì “kết quả cần thiết của tình yêu bác ái là vui mừng; bởi vì mỗi người yêu đều vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu ... ảnh hưởng của lòng bác ái là niềm vui” [99]. Khi nhận được hồng ân Lời Chúa tuyệt mỹ, chúng ta ôm chặt lấy Lời ấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Th 1:6). Nếu chúng ta để cho Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái vỏ của mình và thay đổi cuộc sống của mình, thì chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Hãy hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Ph 4: 4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà trong đó chúng ta hiện đang sống, như một mặc khải hân hoan. “Hãy reo hò và hát lên mừng rỡ!” (Is 12: 6). “Hãy trèo lên núi cao, hỡi người loan báo tin mừng cho Xion; Hãy cất cao giọng nói, hỡi người loan báo tin mừng cho Giêrusalem!” (Is 40:9). “Hỡi núi non hãy bật lên tiếng hát! Vì Chúa đã an ủi dân Người, và Người sẽ xót thương những kẻ đau khổ của mình” (Is 49:13). “Hỡi con gái Xion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi con gái Giêrusalem, hãy reo hò mừng rỡ! Kìa, Đức Vua của ngươi đang đến cùng ngươi; Đấng Công Chính và Toàn Thắng là Người” (Dc 9: 9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Đừng buồn bã, vì niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em” (8:10).
124. Đức Mẹ Maria, khi nhận ra sự mới lạ mà Chúa Giêsu mang đến, đã hát lên: “Linh hồn tôi vui mừng” (Lc 1:47), và chính Chúa Giêsu “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10:21). Khi Người đi ngang qua, “tất cả mọi người đều vui mừng” (Lc 13:17). Sau khi Phục Sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8: 8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng: “Các con sẽ buồn rầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành vui mừng ... Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và chẳng ai sẽ lấy mất niềm vui khỏi các con được” (Ga 16: 20,22). “Thầy đã nói với các con những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15:11).
125. Có những lúc khó khăn, những thời gian của thập giá, nhưng không có gì có thể tiêu huỷ niềm vui siêu nhiên là niềm vui “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn tồn tại ít ra như một tia sáng phát xuất từ niềm tin tưởng riêng của chúng ta rằng trên hết mọi sự, chúng ta được [Thiên Chúa] yêu thương vô cùng” [100]. Niềm vui đó đem lại một sự an toàn nội tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng cung cấp một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với tính hài hước. Điển hình như chúng ta thấy rõ điều này nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri. Khôi hài tục tĩu không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11:10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tim 6:17), cho nên đôi khi buồn rầu có liên hệ với sự vô ơn của chúng ta, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa [101].
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi chúng ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng chối từ hưởng một ngày vui” (Hc 14: 11,14). Ngài muốn chúng ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn ngay thẳng, nhưng họ đã toan tính nhiều điều” (Gv 7: 14,29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph 4:11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân như đang hiện diện trong một số kinh nghiệm văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chẳng làm gì ngoài việc biến con tim thành nặng nề. Thỉnh thoảng nó có thể mang lại cho chúng ta những khoái lạc chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Ở đây, tôi nói đến niềm vui sống trong sự hiệp thông, là chia sẻ và tham gia, vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận lại.” (Cv 20:35) và “Thiên Chúa yêu người vui vẻ cho đi” (2 Cor 9: 7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho chúng ta có khả năng vui vì lợi ích của người khác: “Hãy vui mừng với người vui mừng” (Rm 12: 15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu đuối và anh em mạnh mẽ” (2 Cor 13:9). Mặt khác, nếu chúng ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình, chúng ta tự kết án mình bằng một cuộc sống ít hạnh phúc” [102].
TÁO BẠO VÀ NHIỆT THÀNH
129. Sự thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm): đó là sự táo bạo, là một động lực thúc đẩy việc Phúc Âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để cho chúng ta có thể làm điều ấy, chính Chúa Giêsu đến gặp chúng ta và nói với chúng ta một lần nữa, cách bình thản nhưng chắc chắn, rằng: “Đừng sợ” (Mc 6:50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Những lời này cho phép chúng ta đi ra và phục vụ với cùng một lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy các ngài rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Sự táo bạo, sự hăng say, nói năng tự do, nhiệt tình tông đồ, tất cả những điều này được bao gồm trong từ dũng cảm, một từ mà Thánh Kinh cũng dùng để mô tả sự tự do của một cuộc đời rộng mở cho Thiên Chúa và cho tha nhân (xem Cv 4:29, 9:28, 28:31; 2 Cr 3:12; Eph 3:12; Dt 3:6, 10:19).
130. Chân Phước Phaolô VI khi đề cập đến những trở ngại cho việc Phúc Âm hoá, đã nói về sự thiếu dũng cảm là điều “càng trầm trọng hơn bởi vì nó xuất phát từ bên trong” [103]. Chúng ta thường bị cám dỗ để luẩn quẩn gần bờ! Tuy nhiên, Chúa kêu gọi chúng ta đi ra chỗ nước sâu và thả lưới (xem Lc 5: 4). Người mời gọi chúng ta hiến thân phục vụ Người. Khi bám chặt vào Người, chúng ta được cảm hứng để đem tất cả các đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Nguyện xin cho chúng ta luôn cảm thấy được tình yêu của Người thúc đẩy (2 Cor 5:14) và cùng nói với Thánh Phaolô rằng: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cor 9:16).
131. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Lòng từ bi sâu thẳm của Người không phải là điều đặt trọng tâm vào mình, không phải là một từ bi làm cho tê liệt, sợ hãi hay xấu hổ như bao nhiêu lần xảy ra với chúng ta, mà hoàn toàn ngược lại. Đó là một lòng từ bi thúc đẩy Chúa ra khỏi chính mình với quyền năng để rao giảng và sai những người khác đi làm sứ vụ chữa lành và giải thoát. Chúng ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, nhưng để cho Chúa Giêsu nắm lấy nó trong tay Người và sai chúng ta đi truyền giáo. Chúng ta yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn mang một kho báu có thể biến chúng ta thành to lớn và làm cho những người đón nhận kho báu ấy trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự táo bạo và lòng can đảm tông đồ là một phần thiết yếu của việc truyền giáo.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần; nó làm chứng cho tính xác thực của việc rao giảng của chúng ta. Đó là một đảm bảo vui mừng dẫn chúng ta đến vinh quang trong Tin Mừng mà chúng ta công bố. Đó là niềm tin không thể lay chuyển được vào Chứng Nhân trung tín, cho chúng ta sự chắc chắn rằng không gì có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8:39).
133. Chúng ta cần sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, để không bị tê liệt bởi sự sợ hãi và thận trọng quá mức, để không còn thói quen luẩn quẩn trong những ranh giới an toàn. Chúng ta hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín sẽ có mùi ẩm ướt và làm cho chúng ta bị bệnh. Khi các Tông Đồ bị cám dỗ bởi sự sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4:29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4:31).
134. Như ngôn sứ Giôna, chúng ta luôn luôn bị cám dỗ chạy trốn đến một nơi ẩn náu an toàn, là nơi có thể có nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, thích nghi, lập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Đôi khi chúng ta khó mà có thể ra ngoài những lãnh thổ mà chúng ta biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn có thể như cơn bão, con cá voi, con sâu làm héo cây thầu dầu của ông Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Với chúng ta, cũng như với ông, chúng có thể được dùng để đưa chúng ta trở lại với Thiên Chúa nhân hiền, Đấng muốn dẫn chúng ta đi một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát ra ngoài những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và biên giới. Ngài dẫn chúng ta đến nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Ph 2:6-8, Ga 1:14). Vì vậy, nếu chúng ta dám đi đến vùng ngoại vi thì chúng ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; thực sự, Ngài đã có mặt ở đó rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị làm thành đen tối của họ. Người đã ở đó rồi.
136. Đúng là chúng ta cần mở cửa con tim của mình cho Chúa Giêsu, bởi vỉ Người gõ cửa và gọi (xem Kh 3:20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi, bởi vì không khí ngột ngạt của việc chỉ quy về mình của chúng ta, có thể Chúa Giêsu đã ở trong chúng ta và gõ cửa để chúng ta mở cho Người thoát ra ngoài. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin Mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc 8:1). Sau khi Phục Sinh, khi các môn đệ đi khắp mọi nơi, Chúa đã đồng hành với các ngài (xem Mc 16:20). Đây là điều xảy ra như là kết quả của cuộc gặp gỡ thực sự.
137. Thói quen thật là quyến rũ đối với chúng ta; nó cho chúng ta biết rằng không có lý do gì để cố gắng thay đổi sự việc, rằng chúng ta không thể làm gì được trước hoàn cảnh này, bởi vì đây là cách mà mọi sự vẫn luôn như thế và chúng ta phải tiếp tục làm như vậy. Nhờ thói quen chúng ta không còn phải đương đầu với sự dữ và “để mọi xảy ra như thường”, hoặc như người nào khác đã quyết định rằng chúng phải như thế. Tuy nhiên, chúng ta hãy để Chúa đến đánh thức chúng ta khỏi cơn mê của mình, để giải phóng chúng ta khỏi tính ù lỳ! Chúng ta hãy đương đầu với thói quen của mình; hãy mở mắt ra, mở tai ra, và trên hết mở lòng mình ra, để chúng ta có thể được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh mình và bởi tiếng kêu gọi của Lời Hằng Sống và hiệu quả của Chúa Phục Sinh.
138. Điều này được bắt đầu bằng gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng và phục vụ tha nhân một cách trung thành, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng của họ và chắc chắn là phải trả giá bằng hy sinh sự thoải mái của mình. Chừng từ của họ nhắc nhở chúng ta rằng Hội Thánh không cần quá nhiều quan lại và công chức, nhưng cần các nhà truyền giáo được lòng nhiệt thành thông truyền sự sống thật ăn tươi nuốt sống. Các thánh làm chúng ta ngạc nhiên, lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi chúng ta ra khỏi tình trạng tầm thường bình thản và tê liệt của mình.
139. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi chúng ta tiến lên một bước. Chúng ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin Mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gằng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi trường hợp, Chúa Thánh Thần có thể làm cho chúng ta chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng cách này, Hội Thánh thay vì bị ứ đọng, sẽ luôn luôn đón nhận các sự ngạc nhiên của Chúa.
TRONG CỘNG ĐỒNG
140. Thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về sự dữ cũng như những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ và tính ích kỷ của thế gian nếu chúng ta sống quá cô lập. Cuộc tấn công dụ dỗ chúng ta đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại và sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc thánh hoá là một hành trình trong cộng đồng, được thực thi từng cặp. Một số cộng đồng thánh phản ánh điều này. Trong vài trường hợp, Hội Thánh đã phong thánh cho toàn thể cộng đồng đã sống Tin Mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Thí dụ, hãy kể đến bảy vị thánh sáng lập của Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước của Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi vợ hay chồng trở thành một phương tiện mà Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một trong các môn đệ của ngài: “Con đang sống với người khác là để được đào luyện và thử thách” [104].
142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian thần học trong đó người ta có thể cảm nghiệm sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh” [105]. Cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Lễ nuôi dưỡng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustine và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng sống. “Khi gần đến ngày mà mẹ con sẽ từ giã cõi đời này, một ngày mà chỉ mình Ngài biết chứ không phải chúng con, ngày ấy đã xảy ra, bởi việc làm của Ngài, con tin là theo cách sắp đặt huyền nhiệm của Ngài, khi mẹ con và con đứng một mình tựa vào cửa sổ nhìn ra một khu vườn [...] Chúng con tha thiết mở miệng tâm hồn chúng con ra cho những dòng nước siêu nhiên của nguồn suối của Ngài, nguồn suối sự sống trong Ngài [...] Và khi chúng con nói chuyện và khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ thoáng nắm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột [… ngõ hầu] sự sống đời đời [giống như] trong giây phút trực giác ấy làm cho chúng con luyến tiếc” [106].
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đồng tôn giáo hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Điều này đúng với cộng đoàn thánh được hình thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, là cộng đồng đã phản ánh một cách gương mẫu vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Nó cũng đúng với cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và với những người bình thường.
144. Chúng ta hãy nhớ lại rằng Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết nhỏ về việc hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết nhỏ về việc chú ý đến người goá phụ dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết nhỏ về việc có dầu dự trữ cho đèn, trong trường hợp chàng rể đến chậm.
Chi tiết nhỏ về việc hỏi các môn đệ xem các ông có bao nhiêu ổ bánh.
Chi tiết nhỏ về việc đốt lửa và nướng cá khi Người chờ đợi các môn đệ lúc tinh sương.
145. Cộng đồng giữ gìn những chi tiết nhỏ về tình yêu [107], ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và Phúc Âm hoá, là nơi Chúa Phục Sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ món quà yêu thương của Chúa, chúng ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm an ủi giữa những chi tiết nho nhỏ này. “Một buổi tối mùa đông tôi đã làm việc phục vụ nhỏ của tôi như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy ở xa những âm thanh hài hòa của một nhạc cụ. Sau đó tôi tưởng tượng ra một phòng khách sáng sủa, lóng lánh vàng, đầy những phụ nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện với nhau và trao đổi những lời khen ngợi và những nhận xét khác thuộc về thế gian. Sau đó, ánh mắt của tôi nhìn đến một phụ nữ tàn tật nghèo mà tôi đang giúp đỡ. Thay vì những dòng nhạc xinh đẹp, tôi đôi khi chỉ nghe thấy những lời than van của bà ta [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi, điều tôi biết là Chúa đã soi sáng nó bằng những tia sáng chân lý vượt quá sự huy hoàng u ám của những lễ hội trần thế, mà tôi không thể tin được trong hạnh phúc của tôi” [108].
146. Trái ngược với chủ nghĩa tiêu thụ cá nhân đang càng ngày càng có khuynh hướng cô lập chúng ta trong một cuộc tìm kiếm hạnh phúc tách biệt khỏi tha nhân, con đường nên thánh của chúng ta không thể ngừng làm cho chúng ta đồng hoá với ước ao của Chúa Giêsu “xin cho tất cả được nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17:21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỶ
147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ như hiển nhiên, chúng ta phải nhớ rằng sự thánh thiện bao gồm việc thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và nhu cầu hiệp thông với Thiên Chúa. Các ngài không thể chịu nổi việc bị ngột ngạt trong nội tại đóng kín của thế giới này, giữa những nỗ lực và cam kết của các ngài, các ngài khao khát Chúa, các ngài ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin có sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, mặc dù lời cầu nguyện ấy không nhất thiết phải dài dòng hoặc liên quan đến những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, dù là thật, hay tưởng tượng, hoặc hiệp nhiệm, theo mức độ mà công việc của con cho phép” [109]. Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỷ, mà không bỏ nó giữa các công việc bề ngoài. Cho dù con ăn uống, nói chuyện với người khác, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và giữ Ngài trong tình quý mến của con tim” [110].
149. Tuy nhiên, để cho điều này có thể xảy ra, cần phải có một ít giây phút dành riêng cho Thiên Chúa, một mỉnh với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, cầu nguyện là “một tình bằng hữu mật thiết, và thường xuyên ở một mình đơn độc, với Đấng mà chúng ta biết rằng yêu thương chúng ta” [111]. Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một số ít người đặc quyền, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều cần sự im lặng đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” [112]. Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một đáp trả của một con tim mở ra để gặp Thiên Chúa mặt đối mặt, ở đó mọi tiếng nói đều im bặt để lắng nghe tiếng dịu dàng của Chúa vang lên giữa thinh lặng.
150. Trong sự thinh lặng ấy, chúng ta có thể phân biệt, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, con đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta. Nếu không, tất cả các quyết định của chúng ta chỉ là “các đồ trang trí” thay vì đề cao Tin Mừng trong đời sống chúng ta, sẽ che phủ hoặc làm ngạt thở nó. Đối với mỗi môn đệ, cần thiết phải ở với Thầy, để lắng nghe Người, và luôn luôn học từ Người. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả những lời của chúng ta sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô dụng.
151. Chúng ta hãy nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và sống lại, phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những khó nhọc của cuộc đời hoặc bị đánh dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được thuần hoá quyền năng của dung nhan Đức Kitô” [113]. Vì vậy, tôi xin hỏi anh chị em: Có những giây phút nào anh chị em đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, hoặc anh chị em nghỉ ngơi với Người, và anh chị em để cho mình được Người nhìn ngắm không? Anh chị em có để lửa của Người đốt cháy lòng anh chị em không? Nếu anh chị em không để cho Người nhóm lửa tình yêu và sự dịu hiền của Người, anh chị em sẽ không có lửa. Và như thế làm sao anh chị em có thể đốt cháy trái tim của những người khác bằng việc làm nhân chứng và lời nói của anh mình? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, anh chị em cảm thấy không thể để cho mình được chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm của Chúa, vào vết thương của Người, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa [114].
152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự im lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương Nga”, người đã đi bộ trong cầu nguyện liên tục, nói rằng cầu nguyện như vậy đã không tách rời ông ấy khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông. “Mọi người đều tử tế với tôi; như thể tất cả mọi người đều yêu tôi ... Không những tôi đã chỉ cảm thấy [hạnh phúc và an ủi] trong linh hồn, mà toàn thể thế giới bên ngoài đối với tôi dường như cũng đầy quyến rũ và thích thú” [115].
153. Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện, chính vì được nuôi dưỡng bằng hồng ân của Thiên Chúa được đổ vào cuộc đời chúng ta, nên phải luôn đầy kỷ niệm. Kỷ niệm về các công trình của Thiên Chúa là nền tảng của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa muốn đi vào lịch sử, và vì thế lời cầu nguyện của chúng ta được đan kết với những kỷ niệm. Không những chỉ nhớ về Lời được mạc khải của Ngài, mà còn về cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của tha nhân, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội Thánh của Người. Đó chính là trí nhớ biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã đề cập đến trong sách Chiêm niệm để đạt đến Tình yêu của ngài [116], khi ngài yêu cầu chúng ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Hãy nhìn đến lịch sử của chính mình khi anh chị em cầu nguyện, và ở đó anh chị em sẽ tìm thấy nhiều thương xót. Đồng thời, điều này cũng giúp anh chị em ý thức nhiều hơn rằng Chúa luôn quan tâm đến mình; Người không bao giờ quên anh chị em. Vì vậy, thật là có lý khi xin Người soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời mình, vì chúng không thoát khỏi [mắt] Người.
154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa và ý thức rằng mình không thể làm được một việc gì. Cuộc sống của dân trung tín của Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Chúng ta đừng coi thường lời khẩn nguyện, là điều thường làm dịu lòng chúng ta và giúp chúng ta kiên trì trong hy vọng. Chuyển cầu có giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả tình yêu đối với người lân cận của mình. Có những người nghĩ, dựa trên linh đạo một chiều, rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không bị phân tâm, như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ càng vui lỏng Thiên Chúa hơn và hiệu quả hơn cho sự lớn lên của chúng ta trong sự thánh thiện nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Cầu nguyện chuyển cầu là một quyết tâm dấn thân huynh đệ cho tha nhân khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu xa nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Trong số những người quảng đại hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Thánh Kinh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mac 15:14).
155. Nếu chúng ta thực sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ phượng Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân Phước Charles de Foucauld, người đã nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” [117]. Ngay cả trong đời sống của dân lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị của sự phụng thờ thuần khiết, như là “ánh mắt của một người hành hương nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” [118].
156. Việc đọc trong cầu nguyện Lời Chúa, “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119:103), nhưng là một “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4:12), cho phép chúng ta tạm dừng lại và lắng nghe tiếng của Thầy để Lời Chúa trở nên ngọn đèn soi bước chúng ta và ánh sáng soi đường chúng ta (x. Tv 119:105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “Việc tôn kính Lời Chúa không chỉ đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính, một việc đẹp đẽ nhưng tuỳ nghi chọn lựa. Nó thuộc về con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có trong chính Miình quyền năng biến đổi đời sống” [119].
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến Bí Tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì chính Đức Kitô là Đấng tự dâng hiến Mình. Khi chúng ta tiếp nhận Người trong việc Rước Lễ, chúng ta tái lập giao ước của mình với Người và để cho Người thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Người.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
(còn tiếp)
-------------------
[95] Có một số hình thức bắt nạt, trong khi có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm chí rất tâm linh, gây ra thiệt hại lớn cho sự tự trọng của người khác.
[96] Precautions, 13.
[97] Ibid., 13.
[98] X. Nhật Ký. Lòng Thương Xót trong Linh Hồn tôi, Stockbridge, 2000, t. 139 (300).
[99] TÔMA AQUINÔ, Tổng Lược Thần Học, I-II, q. 70, a. 3.
[100] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.
[101] Tôi đề nghị cầu nguyện bằng kinh được gán cho Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh hội, và cả điều để lĩnh hội. Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó. Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một linh hồn không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là ‘Con’. Lạy Chúa, xin cho con một trí hài hước tốt đẹp. Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác”. (Bản dịch trích trong Conggiao.info).
[102] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 110: AAS 108 (2016), 354.
[103] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12, 1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân Phước Phaolô VI iên kết chặt chẽ niềm vui với dũng cảm (parrhesía). Trong khi than phiền về sự “thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho viẽc Phúc Âm hoá, ngài đề cao “niềm vui thú vị và an ủi của việc Phúc Âm hoá”, được nối kết với “sự hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt được”. Điều này đảm bảo rằng thế gian không nhận được Tin Mừng từ “những người rao giảng Tin Mừng buồn nản [và] thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô đã dành Tông Huấn Gaudete in Domino của ngài cho niềm vui (9 tháng 5, 1975): AAS 67 (1975), 289-322.
[104] Những Đề Phòng - Precautions, 15.
[105] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata (25 tháng 3, 1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[106] Tự Thú, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.
[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời đúng nói đúng lúc, hằng ngày bảo vệ và nuôi nấng tình yêu”: Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[108] TÊREXA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thảo Bản C, 29 v-30r.
[109] Các mức độ Hoàn Thiện, 2.
[110] ID., Các Lời Khuyên một Tu Sĩ làm sao để Đạt Đến Hoàn Thiện, 9.
[111] Tự Thuật, 8, 5.
[112] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Orientale Lumen (2 tháng 5, 1995), 16: AAS 87 (1995), 762.
[113] Gặp Gỡ các Tham Dự Viên Đại Hội Giáo Hội Ý Đại Lợi Lần Thứ Năm, Florence, (10 tháng 11, 2015): AAS 107 (2015), 1284.
[114] X. BERNARĐÔ CLAIRVAUX, Các bài gảing về sách Nhã Ca (Canticum Canticorum), 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[115] Con Đường của một Lữ Kách - The Way of a Pilgrim, New York, 1965, tt. 17, 105-106.
[116] X. Linh Thao - Spiritual Exercises, 230-237.
[117] Thư gửi Henry de Castries, 14 Tháng 8, 1901.
[118] ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBBÊ, Tài liệu Aparecida (29 tháng 6, 2007), 259.
[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Công Giáo ẤN ĐỘ, Tuyên Ngôn Kết Thúc Đại Hội Thường Kỳ lần Thứ Hai Mươi Mốt, 18 tháng 2, 2009, 3.2.
CHƯƠNG 4
CÁC ĐẶC TÍNH CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Trong khuôn khổ của sự thánh thiện cao cả mà các Mối Phúc Thật và Matthêu 25:31-46 đưa ra, tôi muốn đề cập đến một số đặc tính hoặc biểu thức tâm linh, theo thiển ý của tôi, là rất cần thiết để hiểu được cách sống mà Chúa mời gọi chúng ta. Tôi sẽ không ngừng lại để giải thích các phương tiện thánh hóa đã được chúng ta biết đến: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh cá nhân, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và nhiều việc khác nữa. Ở đây, tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ vang âm một đặc biệt.
111. Các đặc tính tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm biểu hiện tuyệt vời của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì một số nguy cơ và giới hạn nào đó của nền văn hoá hiện nay. Trong đó chúng ta thấy một cảm giác lo lắng, đôi khi bạo động, làm cho chúng ta sao lãng và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và tất cả những hình thức tâm linh sai lạc, không gặp gỡ được Thiên Chúa, hiện đang thống trị thị trường tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Đặc tính đầu tiên trong những đặc tính to tát này có nền tảng vững chắc trong Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nguồn sức mạnh nội tâm này giúp chúng ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, nhưng cũng giúp chúng ta chịu đựng được sự thù địch, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp chúng ta, thì ai chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31): đây là nguồn bình an được tìm thấy nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến chúng ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong một thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của chúng ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì những ai tin tưởng vào Thiên Chúa (pístis) cũng có thể trung thành với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thể có thể không mang lại cho họ những sự thoả mãn tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (xem Rm 12:17), đừng tìm cách trả thù (x. câu 19), đừng để bị khuất phục bởi sự dữ, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. câu 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối mà của sức mạnh thực sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Na 1:3). Lời Chúa khuyên chúng ta hãy “loại bỏ tất cả mọi đắng cay, phẫn nộ, giận hờn, chửi bới, cùng mọi điều gian ác” (Eph 4:31).
114. Chúng ta cần phải vật lôn với và đề phòng các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đừng để cho chúng bén rễ. “Hãy nóng giận, nhưng đừng phạm tội. Chớ để mặt trời lặn trên cơn giận của anh em” (Eph 4:26). Khi cảm thấy bị đuối sức, chúng ta luôn luôn có thể bám lấy mỏ neo cầu nguyện, là điều đưa chúng ta trở lại vòng tay Thiên Chúa và nguồn bình an của chúng ta. “Anh em đừng lo lắng về bất cứ điều gì, nhưng trong mọi sự, hãy dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin của anh em bằng kinh nguyện, xin ơn, và tạ ơn. Và bình an của Thiên Chúa, là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em...” (Ph 4: 6-7).
115. Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông thuật số khác nhau. Ngay cả trong các phương tiện truyền thông Công Giáo, các giới hạn có thể bị vượt qua, phỉ báng và vu khống có thể trở nên phổ thông, và tất cả các tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng danh tiếng của người khác có thể bị bỏ rơi. Kết quả là một sự phân đôi nguy hiểm, vì những gì có thể được nói ở đó có thể không được chấp nhận trong các cuộc thảo luận công khai, và người ta tỉm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ những người khác. Điều đáng chú ý là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại hình ảnh của người khác. Ở đó họ chứng tỏ một cách không giữ gìn rằng “cái lưỡi là “thế giới của sự dữ” và “thiêu huỷ toàn thể đời sống chúng ta, vì được nhóm lên bởi lửa hoả ngục” (Gb 3:6).
116. Sức mạnh nội tâm, là việc làm của ân sủng, tránh cho chúng ta khỏi bị kích động bởi bạo lực, là điểu tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và làm cho người ta dễ dàng trở nên có lòng hiền lành. Các thánh không phí sức than phiền về những thất bại của người khác; các ngài có thể cột lưỡi của mình trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài coi mình như không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng coi họ như “hơn mình” (Ph 2: 3).
117. Thật không tốt khi chúng ta nhìn xuống người khác như những quan toà tàn nhẫn, coi họ là không xứng đáng và luôn ra vẻ dạy cho họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi [95]. Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Hãy luôn luôn thích được tất cả mọi người dạy mình, hơn là muốn dạy ngay cả những người bé nhỏ nhất trong mọi người” [96]. Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Hãy vui mừng coi những sự tốt đẹp của người khác như của chính mình, và mong rằng họ được ưu tiên hơn mình trong mọi sự; các chị phải hết lòng làm điều này. Như thế các chị sẽ chiến thắng sự dữ bằng việc lành, đánh đuổi quỷ dữ, và có được một con tim hạnh phúc. Hãy cố gắng thực hành điều này nhiều hơn nữa với những ai mà các chị cho là ít hấp dẫn nhất. Hãy nhận ra rằng nếu các chị không tự tập luyện theo cách này, các chị sẽ không đạt được đức ái thật sự hoặc tiến bộ trong nhân đức ấy” [97].
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua các sỉ nhục. Không có chúng, thì không có sự khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu anh chị em không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì anh chị em chưa khiêm tốn và anh chị em chưa phải đang trên con đường nên thánh. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Hội Thánh của Ngài đến qua sự nhục nhã của Con Ngài. Người là đường. Sự sỉ nhục làm cho anh chị em giống Chúa Giêsu; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. Vì “Ðức Kitô cũng đã chịu đau khổ vì anh chị em, để lại cho anh chị em một mẫu gương, ngõ hầu anh chị em có thể theo bước chân Người.” (1 Phr 2:21). Ngược lại, Người tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng xuống để hành trình với dân Ngài, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34: 6-9, Kn 11: 23-12: 2, Lc 6:36). Vì lý do này, mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “là mình được kể như đáng chịu xỉ nhục vì danh [Chúa Giêsu]” (Cv 5:41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh tột cùng về việc tử vì đạo, mà còn về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu khi anh em làm việc lành, mà bị đau khổ, và anh em kiên tâm chịu đựng, thì đó là hồng phúc trước mặt Thiên Chúa” (1 Phr 2:20). Điều này không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì một người không ích kỷ, họ có thể dám bất đồng ý kiến một cách ôn tồn, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi nó có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không nói rằng sự sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì đó là chủ trương tự hành hạ mình, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự kết hợp với Người. Điều này không thể hiểu nổi trên một mức độ thuần túy tự nhiên, và thế gian chế diễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thay vào đó, đây là một ân sủng được tìm kiếm trong cầu nguyện: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Thái độ này bao hàm một con tim được bình an nhờ Đức Kitô, được giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá tự đại. Cũng một bình an ấy được đem đến bởi ân sủng, làm cho chúng ta có thể giữ được sự an toàn nội tâm và chịu đựng, cùng kiên trì trong sự tốt lành, “dù tôi đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù một đạo binh hạ trại chống lại tôi” (Tv 27: 3). Đứng vững trong Chúa, Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “ Trong bình an con ngả mình là ngủ kỹ, chỉ mình Ngài, lạy Chúa, làm đời con yên ổn.” (Tv 4,8). Tóm lại một lời, Đức Kitô, “là bình an của chúng ta” (Eph 2:14); Người đã đến “để hướng dẫn ta bước chân vào nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại với lòng tìn thác vào lòng thương xót của Ta” [98]. Vì vậy, chúng ta đừng rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong thành công, những thú vui vô bổ, sở hữu, quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban bình an cho các con, nhưng không như thế gian ban nó cho các con.” (Ga 14:27).
NIỀM VUI VÀ ĐẦU ÓC KHÔI HÀI
122. Những điều được nói ở trên không ám chỉ một tinh thần ngăn cấm, nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc có một vẻ mặt thê lương, các thánh vui tươi và có đầu óc khôi hài. Mặc dù hoàn toàn thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14:17), vì “kết quả cần thiết của tình yêu bác ái là vui mừng; bởi vì mỗi người yêu đều vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu ... ảnh hưởng của lòng bác ái là niềm vui” [99]. Khi nhận được hồng ân Lời Chúa tuyệt mỹ, chúng ta ôm chặt lấy Lời ấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Th 1:6). Nếu chúng ta để cho Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái vỏ của mình và thay đổi cuộc sống của mình, thì chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Hãy hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Ph 4: 4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà trong đó chúng ta hiện đang sống, như một mặc khải hân hoan. “Hãy reo hò và hát lên mừng rỡ!” (Is 12: 6). “Hãy trèo lên núi cao, hỡi người loan báo tin mừng cho Xion; Hãy cất cao giọng nói, hỡi người loan báo tin mừng cho Giêrusalem!” (Is 40:9). “Hỡi núi non hãy bật lên tiếng hát! Vì Chúa đã an ủi dân Người, và Người sẽ xót thương những kẻ đau khổ của mình” (Is 49:13). “Hỡi con gái Xion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi con gái Giêrusalem, hãy reo hò mừng rỡ! Kìa, Đức Vua của ngươi đang đến cùng ngươi; Đấng Công Chính và Toàn Thắng là Người” (Dc 9: 9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Đừng buồn bã, vì niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em” (8:10).
124. Đức Mẹ Maria, khi nhận ra sự mới lạ mà Chúa Giêsu mang đến, đã hát lên: “Linh hồn tôi vui mừng” (Lc 1:47), và chính Chúa Giêsu “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10:21). Khi Người đi ngang qua, “tất cả mọi người đều vui mừng” (Lc 13:17). Sau khi Phục Sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8: 8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng: “Các con sẽ buồn rầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành vui mừng ... Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và chẳng ai sẽ lấy mất niềm vui khỏi các con được” (Ga 16: 20,22). “Thầy đã nói với các con những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15:11).
125. Có những lúc khó khăn, những thời gian của thập giá, nhưng không có gì có thể tiêu huỷ niềm vui siêu nhiên là niềm vui “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn tồn tại ít ra như một tia sáng phát xuất từ niềm tin tưởng riêng của chúng ta rằng trên hết mọi sự, chúng ta được [Thiên Chúa] yêu thương vô cùng” [100]. Niềm vui đó đem lại một sự an toàn nội tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng cung cấp một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với tính hài hước. Điển hình như chúng ta thấy rõ điều này nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri. Khôi hài tục tĩu không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11:10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tim 6:17), cho nên đôi khi buồn rầu có liên hệ với sự vô ơn của chúng ta, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa [101].
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi chúng ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng chối từ hưởng một ngày vui” (Hc 14: 11,14). Ngài muốn chúng ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn ngay thẳng, nhưng họ đã toan tính nhiều điều” (Gv 7: 14,29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph 4:11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân như đang hiện diện trong một số kinh nghiệm văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chẳng làm gì ngoài việc biến con tim thành nặng nề. Thỉnh thoảng nó có thể mang lại cho chúng ta những khoái lạc chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Ở đây, tôi nói đến niềm vui sống trong sự hiệp thông, là chia sẻ và tham gia, vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận lại.” (Cv 20:35) và “Thiên Chúa yêu người vui vẻ cho đi” (2 Cor 9: 7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho chúng ta có khả năng vui vì lợi ích của người khác: “Hãy vui mừng với người vui mừng” (Rm 12: 15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu đuối và anh em mạnh mẽ” (2 Cor 13:9). Mặt khác, nếu chúng ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình, chúng ta tự kết án mình bằng một cuộc sống ít hạnh phúc” [102].
TÁO BẠO VÀ NHIỆT THÀNH
129. Sự thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm): đó là sự táo bạo, là một động lực thúc đẩy việc Phúc Âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để cho chúng ta có thể làm điều ấy, chính Chúa Giêsu đến gặp chúng ta và nói với chúng ta một lần nữa, cách bình thản nhưng chắc chắn, rằng: “Đừng sợ” (Mc 6:50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Những lời này cho phép chúng ta đi ra và phục vụ với cùng một lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy các ngài rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Sự táo bạo, sự hăng say, nói năng tự do, nhiệt tình tông đồ, tất cả những điều này được bao gồm trong từ dũng cảm, một từ mà Thánh Kinh cũng dùng để mô tả sự tự do của một cuộc đời rộng mở cho Thiên Chúa và cho tha nhân (xem Cv 4:29, 9:28, 28:31; 2 Cr 3:12; Eph 3:12; Dt 3:6, 10:19).
130. Chân Phước Phaolô VI khi đề cập đến những trở ngại cho việc Phúc Âm hoá, đã nói về sự thiếu dũng cảm là điều “càng trầm trọng hơn bởi vì nó xuất phát từ bên trong” [103]. Chúng ta thường bị cám dỗ để luẩn quẩn gần bờ! Tuy nhiên, Chúa kêu gọi chúng ta đi ra chỗ nước sâu và thả lưới (xem Lc 5: 4). Người mời gọi chúng ta hiến thân phục vụ Người. Khi bám chặt vào Người, chúng ta được cảm hứng để đem tất cả các đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Nguyện xin cho chúng ta luôn cảm thấy được tình yêu của Người thúc đẩy (2 Cor 5:14) và cùng nói với Thánh Phaolô rằng: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cor 9:16).
131. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Lòng từ bi sâu thẳm của Người không phải là điều đặt trọng tâm vào mình, không phải là một từ bi làm cho tê liệt, sợ hãi hay xấu hổ như bao nhiêu lần xảy ra với chúng ta, mà hoàn toàn ngược lại. Đó là một lòng từ bi thúc đẩy Chúa ra khỏi chính mình với quyền năng để rao giảng và sai những người khác đi làm sứ vụ chữa lành và giải thoát. Chúng ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, nhưng để cho Chúa Giêsu nắm lấy nó trong tay Người và sai chúng ta đi truyền giáo. Chúng ta yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn mang một kho báu có thể biến chúng ta thành to lớn và làm cho những người đón nhận kho báu ấy trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự táo bạo và lòng can đảm tông đồ là một phần thiết yếu của việc truyền giáo.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần; nó làm chứng cho tính xác thực của việc rao giảng của chúng ta. Đó là một đảm bảo vui mừng dẫn chúng ta đến vinh quang trong Tin Mừng mà chúng ta công bố. Đó là niềm tin không thể lay chuyển được vào Chứng Nhân trung tín, cho chúng ta sự chắc chắn rằng không gì có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8:39).
133. Chúng ta cần sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, để không bị tê liệt bởi sự sợ hãi và thận trọng quá mức, để không còn thói quen luẩn quẩn trong những ranh giới an toàn. Chúng ta hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín sẽ có mùi ẩm ướt và làm cho chúng ta bị bệnh. Khi các Tông Đồ bị cám dỗ bởi sự sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4:29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4:31).
134. Như ngôn sứ Giôna, chúng ta luôn luôn bị cám dỗ chạy trốn đến một nơi ẩn náu an toàn, là nơi có thể có nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, thích nghi, lập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Đôi khi chúng ta khó mà có thể ra ngoài những lãnh thổ mà chúng ta biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn có thể như cơn bão, con cá voi, con sâu làm héo cây thầu dầu của ông Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Với chúng ta, cũng như với ông, chúng có thể được dùng để đưa chúng ta trở lại với Thiên Chúa nhân hiền, Đấng muốn dẫn chúng ta đi một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát ra ngoài những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và biên giới. Ngài dẫn chúng ta đến nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Ph 2:6-8, Ga 1:14). Vì vậy, nếu chúng ta dám đi đến vùng ngoại vi thì chúng ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; thực sự, Ngài đã có mặt ở đó rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị làm thành đen tối của họ. Người đã ở đó rồi.
136. Đúng là chúng ta cần mở cửa con tim của mình cho Chúa Giêsu, bởi vỉ Người gõ cửa và gọi (xem Kh 3:20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi, bởi vì không khí ngột ngạt của việc chỉ quy về mình của chúng ta, có thể Chúa Giêsu đã ở trong chúng ta và gõ cửa để chúng ta mở cho Người thoát ra ngoài. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin Mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc 8:1). Sau khi Phục Sinh, khi các môn đệ đi khắp mọi nơi, Chúa đã đồng hành với các ngài (xem Mc 16:20). Đây là điều xảy ra như là kết quả của cuộc gặp gỡ thực sự.
137. Thói quen thật là quyến rũ đối với chúng ta; nó cho chúng ta biết rằng không có lý do gì để cố gắng thay đổi sự việc, rằng chúng ta không thể làm gì được trước hoàn cảnh này, bởi vì đây là cách mà mọi sự vẫn luôn như thế và chúng ta phải tiếp tục làm như vậy. Nhờ thói quen chúng ta không còn phải đương đầu với sự dữ và “để mọi xảy ra như thường”, hoặc như người nào khác đã quyết định rằng chúng phải như thế. Tuy nhiên, chúng ta hãy để Chúa đến đánh thức chúng ta khỏi cơn mê của mình, để giải phóng chúng ta khỏi tính ù lỳ! Chúng ta hãy đương đầu với thói quen của mình; hãy mở mắt ra, mở tai ra, và trên hết mở lòng mình ra, để chúng ta có thể được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh mình và bởi tiếng kêu gọi của Lời Hằng Sống và hiệu quả của Chúa Phục Sinh.
138. Điều này được bắt đầu bằng gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng và phục vụ tha nhân một cách trung thành, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng của họ và chắc chắn là phải trả giá bằng hy sinh sự thoải mái của mình. Chừng từ của họ nhắc nhở chúng ta rằng Hội Thánh không cần quá nhiều quan lại và công chức, nhưng cần các nhà truyền giáo được lòng nhiệt thành thông truyền sự sống thật ăn tươi nuốt sống. Các thánh làm chúng ta ngạc nhiên, lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi chúng ta ra khỏi tình trạng tầm thường bình thản và tê liệt của mình.
139. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi chúng ta tiến lên một bước. Chúng ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin Mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gằng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi trường hợp, Chúa Thánh Thần có thể làm cho chúng ta chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng cách này, Hội Thánh thay vì bị ứ đọng, sẽ luôn luôn đón nhận các sự ngạc nhiên của Chúa.
TRONG CỘNG ĐỒNG
140. Thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về sự dữ cũng như những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ và tính ích kỷ của thế gian nếu chúng ta sống quá cô lập. Cuộc tấn công dụ dỗ chúng ta đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại và sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc thánh hoá là một hành trình trong cộng đồng, được thực thi từng cặp. Một số cộng đồng thánh phản ánh điều này. Trong vài trường hợp, Hội Thánh đã phong thánh cho toàn thể cộng đồng đã sống Tin Mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Thí dụ, hãy kể đến bảy vị thánh sáng lập của Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước của Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi vợ hay chồng trở thành một phương tiện mà Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một trong các môn đệ của ngài: “Con đang sống với người khác là để được đào luyện và thử thách” [104].
142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian thần học trong đó người ta có thể cảm nghiệm sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh” [105]. Cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Lễ nuôi dưỡng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustine và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng sống. “Khi gần đến ngày mà mẹ con sẽ từ giã cõi đời này, một ngày mà chỉ mình Ngài biết chứ không phải chúng con, ngày ấy đã xảy ra, bởi việc làm của Ngài, con tin là theo cách sắp đặt huyền nhiệm của Ngài, khi mẹ con và con đứng một mình tựa vào cửa sổ nhìn ra một khu vườn [...] Chúng con tha thiết mở miệng tâm hồn chúng con ra cho những dòng nước siêu nhiên của nguồn suối của Ngài, nguồn suối sự sống trong Ngài [...] Và khi chúng con nói chuyện và khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ thoáng nắm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột [… ngõ hầu] sự sống đời đời [giống như] trong giây phút trực giác ấy làm cho chúng con luyến tiếc” [106].
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đồng tôn giáo hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Điều này đúng với cộng đoàn thánh được hình thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, là cộng đồng đã phản ánh một cách gương mẫu vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Nó cũng đúng với cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và với những người bình thường.
144. Chúng ta hãy nhớ lại rằng Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết nhỏ về việc hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết nhỏ về việc chú ý đến người goá phụ dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết nhỏ về việc có dầu dự trữ cho đèn, trong trường hợp chàng rể đến chậm.
Chi tiết nhỏ về việc hỏi các môn đệ xem các ông có bao nhiêu ổ bánh.
Chi tiết nhỏ về việc đốt lửa và nướng cá khi Người chờ đợi các môn đệ lúc tinh sương.
145. Cộng đồng giữ gìn những chi tiết nhỏ về tình yêu [107], ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và Phúc Âm hoá, là nơi Chúa Phục Sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ món quà yêu thương của Chúa, chúng ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm an ủi giữa những chi tiết nho nhỏ này. “Một buổi tối mùa đông tôi đã làm việc phục vụ nhỏ của tôi như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy ở xa những âm thanh hài hòa của một nhạc cụ. Sau đó tôi tưởng tượng ra một phòng khách sáng sủa, lóng lánh vàng, đầy những phụ nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện với nhau và trao đổi những lời khen ngợi và những nhận xét khác thuộc về thế gian. Sau đó, ánh mắt của tôi nhìn đến một phụ nữ tàn tật nghèo mà tôi đang giúp đỡ. Thay vì những dòng nhạc xinh đẹp, tôi đôi khi chỉ nghe thấy những lời than van của bà ta [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi, điều tôi biết là Chúa đã soi sáng nó bằng những tia sáng chân lý vượt quá sự huy hoàng u ám của những lễ hội trần thế, mà tôi không thể tin được trong hạnh phúc của tôi” [108].
146. Trái ngược với chủ nghĩa tiêu thụ cá nhân đang càng ngày càng có khuynh hướng cô lập chúng ta trong một cuộc tìm kiếm hạnh phúc tách biệt khỏi tha nhân, con đường nên thánh của chúng ta không thể ngừng làm cho chúng ta đồng hoá với ước ao của Chúa Giêsu “xin cho tất cả được nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17:21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỶ
147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ như hiển nhiên, chúng ta phải nhớ rằng sự thánh thiện bao gồm việc thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và nhu cầu hiệp thông với Thiên Chúa. Các ngài không thể chịu nổi việc bị ngột ngạt trong nội tại đóng kín của thế giới này, giữa những nỗ lực và cam kết của các ngài, các ngài khao khát Chúa, các ngài ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin có sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, mặc dù lời cầu nguyện ấy không nhất thiết phải dài dòng hoặc liên quan đến những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, dù là thật, hay tưởng tượng, hoặc hiệp nhiệm, theo mức độ mà công việc của con cho phép” [109]. Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỷ, mà không bỏ nó giữa các công việc bề ngoài. Cho dù con ăn uống, nói chuyện với người khác, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và giữ Ngài trong tình quý mến của con tim” [110].
149. Tuy nhiên, để cho điều này có thể xảy ra, cần phải có một ít giây phút dành riêng cho Thiên Chúa, một mỉnh với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, cầu nguyện là “một tình bằng hữu mật thiết, và thường xuyên ở một mình đơn độc, với Đấng mà chúng ta biết rằng yêu thương chúng ta” [111]. Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một số ít người đặc quyền, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều cần sự im lặng đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” [112]. Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một đáp trả của một con tim mở ra để gặp Thiên Chúa mặt đối mặt, ở đó mọi tiếng nói đều im bặt để lắng nghe tiếng dịu dàng của Chúa vang lên giữa thinh lặng.
150. Trong sự thinh lặng ấy, chúng ta có thể phân biệt, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, con đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta. Nếu không, tất cả các quyết định của chúng ta chỉ là “các đồ trang trí” thay vì đề cao Tin Mừng trong đời sống chúng ta, sẽ che phủ hoặc làm ngạt thở nó. Đối với mỗi môn đệ, cần thiết phải ở với Thầy, để lắng nghe Người, và luôn luôn học từ Người. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả những lời của chúng ta sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô dụng.
151. Chúng ta hãy nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và sống lại, phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những khó nhọc của cuộc đời hoặc bị đánh dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được thuần hoá quyền năng của dung nhan Đức Kitô” [113]. Vì vậy, tôi xin hỏi anh chị em: Có những giây phút nào anh chị em đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, hoặc anh chị em nghỉ ngơi với Người, và anh chị em để cho mình được Người nhìn ngắm không? Anh chị em có để lửa của Người đốt cháy lòng anh chị em không? Nếu anh chị em không để cho Người nhóm lửa tình yêu và sự dịu hiền của Người, anh chị em sẽ không có lửa. Và như thế làm sao anh chị em có thể đốt cháy trái tim của những người khác bằng việc làm nhân chứng và lời nói của anh mình? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, anh chị em cảm thấy không thể để cho mình được chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm của Chúa, vào vết thương của Người, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa [114].
152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự im lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương Nga”, người đã đi bộ trong cầu nguyện liên tục, nói rằng cầu nguyện như vậy đã không tách rời ông ấy khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông. “Mọi người đều tử tế với tôi; như thể tất cả mọi người đều yêu tôi ... Không những tôi đã chỉ cảm thấy [hạnh phúc và an ủi] trong linh hồn, mà toàn thể thế giới bên ngoài đối với tôi dường như cũng đầy quyến rũ và thích thú” [115].
153. Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện, chính vì được nuôi dưỡng bằng hồng ân của Thiên Chúa được đổ vào cuộc đời chúng ta, nên phải luôn đầy kỷ niệm. Kỷ niệm về các công trình của Thiên Chúa là nền tảng của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa muốn đi vào lịch sử, và vì thế lời cầu nguyện của chúng ta được đan kết với những kỷ niệm. Không những chỉ nhớ về Lời được mạc khải của Ngài, mà còn về cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của tha nhân, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội Thánh của Người. Đó chính là trí nhớ biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã đề cập đến trong sách Chiêm niệm để đạt đến Tình yêu của ngài [116], khi ngài yêu cầu chúng ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Hãy nhìn đến lịch sử của chính mình khi anh chị em cầu nguyện, và ở đó anh chị em sẽ tìm thấy nhiều thương xót. Đồng thời, điều này cũng giúp anh chị em ý thức nhiều hơn rằng Chúa luôn quan tâm đến mình; Người không bao giờ quên anh chị em. Vì vậy, thật là có lý khi xin Người soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời mình, vì chúng không thoát khỏi [mắt] Người.
154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa và ý thức rằng mình không thể làm được một việc gì. Cuộc sống của dân trung tín của Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Chúng ta đừng coi thường lời khẩn nguyện, là điều thường làm dịu lòng chúng ta và giúp chúng ta kiên trì trong hy vọng. Chuyển cầu có giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả tình yêu đối với người lân cận của mình. Có những người nghĩ, dựa trên linh đạo một chiều, rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không bị phân tâm, như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ càng vui lỏng Thiên Chúa hơn và hiệu quả hơn cho sự lớn lên của chúng ta trong sự thánh thiện nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Cầu nguyện chuyển cầu là một quyết tâm dấn thân huynh đệ cho tha nhân khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu xa nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Trong số những người quảng đại hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Thánh Kinh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mac 15:14).
155. Nếu chúng ta thực sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ phượng Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân Phước Charles de Foucauld, người đã nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” [117]. Ngay cả trong đời sống của dân lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị của sự phụng thờ thuần khiết, như là “ánh mắt của một người hành hương nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” [118].
156. Việc đọc trong cầu nguyện Lời Chúa, “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119:103), nhưng là một “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4:12), cho phép chúng ta tạm dừng lại và lắng nghe tiếng của Thầy để Lời Chúa trở nên ngọn đèn soi bước chúng ta và ánh sáng soi đường chúng ta (x. Tv 119:105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “Việc tôn kính Lời Chúa không chỉ đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính, một việc đẹp đẽ nhưng tuỳ nghi chọn lựa. Nó thuộc về con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có trong chính Miình quyền năng biến đổi đời sống” [119].
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến Bí Tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì chính Đức Kitô là Đấng tự dâng hiến Mình. Khi chúng ta tiếp nhận Người trong việc Rước Lễ, chúng ta tái lập giao ước của mình với Người và để cho Người thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Người.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
(còn tiếp)
-------------------
[95] Có một số hình thức bắt nạt, trong khi có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm chí rất tâm linh, gây ra thiệt hại lớn cho sự tự trọng của người khác.
[96] Precautions, 13.
[97] Ibid., 13.
[98] X. Nhật Ký. Lòng Thương Xót trong Linh Hồn tôi, Stockbridge, 2000, t. 139 (300).
[99] TÔMA AQUINÔ, Tổng Lược Thần Học, I-II, q. 70, a. 3.
[100] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.
[101] Tôi đề nghị cầu nguyện bằng kinh được gán cho Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh hội, và cả điều để lĩnh hội. Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó. Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một linh hồn không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là ‘Con’. Lạy Chúa, xin cho con một trí hài hước tốt đẹp. Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác”. (Bản dịch trích trong Conggiao.info).
[102] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 110: AAS 108 (2016), 354.
[103] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12, 1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân Phước Phaolô VI iên kết chặt chẽ niềm vui với dũng cảm (parrhesía). Trong khi than phiền về sự “thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho viẽc Phúc Âm hoá, ngài đề cao “niềm vui thú vị và an ủi của việc Phúc Âm hoá”, được nối kết với “sự hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt được”. Điều này đảm bảo rằng thế gian không nhận được Tin Mừng từ “những người rao giảng Tin Mừng buồn nản [và] thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô đã dành Tông Huấn Gaudete in Domino của ngài cho niềm vui (9 tháng 5, 1975): AAS 67 (1975), 289-322.
[104] Những Đề Phòng - Precautions, 15.
[105] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata (25 tháng 3, 1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[106] Tự Thú, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.
[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời đúng nói đúng lúc, hằng ngày bảo vệ và nuôi nấng tình yêu”: Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[108] TÊREXA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thảo Bản C, 29 v-30r.
[109] Các mức độ Hoàn Thiện, 2.
[110] ID., Các Lời Khuyên một Tu Sĩ làm sao để Đạt Đến Hoàn Thiện, 9.
[111] Tự Thuật, 8, 5.
[112] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Orientale Lumen (2 tháng 5, 1995), 16: AAS 87 (1995), 762.
[113] Gặp Gỡ các Tham Dự Viên Đại Hội Giáo Hội Ý Đại Lợi Lần Thứ Năm, Florence, (10 tháng 11, 2015): AAS 107 (2015), 1284.
[114] X. BERNARĐÔ CLAIRVAUX, Các bài gảing về sách Nhã Ca (Canticum Canticorum), 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[115] Con Đường của một Lữ Kách - The Way of a Pilgrim, New York, 1965, tt. 17, 105-106.
[116] X. Linh Thao - Spiritual Exercises, 230-237.
[117] Thư gửi Henry de Castries, 14 Tháng 8, 1901.
[118] ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBBÊ, Tài liệu Aparecida (29 tháng 6, 2007), 259.
[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Công Giáo ẤN ĐỘ, Tuyên Ngôn Kết Thúc Đại Hội Thường Kỳ lần Thứ Hai Mươi Mốt, 18 tháng 2, 2009, 3.2.
Luật sư của ĐHY Pell lập luận rằng không có cơ sở pháp lý để xét xử.
Giuse Thẩm Nguyễn
21:56 17/04/2018
(EWTN News/CNA) Luật sư của ĐHY Pell đã nói với Tòa Án vào hôm thứ Ba ngay sau buổi điều trần kết thúc rằng những cáo buộc chống lại ĐHY đều dựa trên những tố cáo bịa đặt.
Luật sư Robert Richter, người đứng đầu tổ luật sư biện hộ cho ĐHY Pell đã nói với hãng tin Reuter vào ngày 17 tháng Tư rằng “Những cáo buộc là loại sản phẩm của óc tưởng tượng, của những kẻ có đầu óc bất thường và người khiếu nại có thể là có và cũng có thể là không, hoặc đơn thuần chỉ là bịa đặt nhằm đánh phá người đại diện cho Giáo Hội Công Giáo tại quốc gia này.
Ricchter nói thêm rằng cáo buộc nghiêm trọng nhất có thể là đã không xảy ra và ông cũng nói với tòa án rằng cáo buộc chống lại ĐHY, một “khuôn mặt có uy tín của Giáo Hội Công Giáo tại Úc phải được coi là không thể và nên hủy bỏ mà không cần phải suy nghĩ.”
Vị luật sư này cũng nêu ra sự đáng tin cậy của những người khiếu nại, làm rõ tính không nhất quán của họ về những ngày giờ xảy ra và rằng các trường hợp cáo buộc lạm dụng là “ không thể tin được,” vì những người cáo buộc vẫn “không chắc chắn nếu nó xảy ra.”
Richter nói với tòa rằng ĐHY Pell, hiện là Tổng Trưởng vụ viện Kinh Tế của Vatican, lẽ ra không nên đưa ngài ra tòa bởi vì những bằng chứng đã “không đủ giá trị để thuyết phục” và rằng một phiên tòa với những chứng cứ bất nhất như thế chỉ “làm mất thời gian, công sức và tiền bạc của người dân.”
Công tố viên Mark Gibson thì lại nói rằng những tuyên bố của Richter chỉ là suy đoán, rằng lý luận của phía biện hộ không có “ảnh hưởng cơ bản đến độ tin cậy các bằng chứng của người khiếu nại”. Ông ta cũng cho rằng những điều Richter phàn nàn về những người khiếu nại chỉ nhằm mục đích trả thù cho Giáo Hội là “chỉ là một mớ lý thuyết”
Thẩm phán Belinda Wallington thì nói rằng Richter rất có thể đã lập luận “quá xa”, rằng “những vấn đề đáng tin cậy là việc dành cho bồi thẩm đoàn.”
ĐHY Pell đã không có mặt trong ngày cuối của buổi điều trần ở tòa án Melbourne. Walling có thể sẽ định ngày ra tòa của ĐHY là ngày 01 tháng Năm.
ĐHY Pell đã bị vướng vào tiến trình tố tụng từ tháng Sáu năm 2017 khi ngài bị tố cáo về tội lạm dụng tình dục trong quá khứ ở tiểu bang Victoria của ngài vào thập niên 1970. Ngài vẫn vô tội và sẽ không nhận tội nếu vụ án tiến hành xét xử.
Vào tháng Sáu năm 2017, ĐHY Pell đã nói với các ký giả “Tôi vô tội với những cáo buộc giả tạo này.”
Trong buổi điều trần, Tòa án Melbourne đã nghe lời chứng của 50 người làm chứng. Trong thời gian này, Richter tung ra một cuộc phản công chống lại cảnh sát bang Victoria, những người đã mở một cuộc tuần hành đặc biệt vào năm 2013 để điều tra ĐHY. Richter gọi đó là “một cuộc tuần hành tìm kiếm một tội ác bởi vì không có tội ác nào bị báo cáo cả.”
ĐHY Pell đã thụ phong linh mục ở Ballarat vào năm 1966. Ngài là Tổng Trưởng vụ viện Kinh Tế của Vatican và là một trong chín vị Hồng Y cố vấn của ĐGH Phanxicô, nhưng đã tạm nghỉ việc từ mùa hè năm ngoái.
Giuse Thẩm Nguyễn.
Luật sư Robert Richter, người đứng đầu tổ luật sư biện hộ cho ĐHY Pell đã nói với hãng tin Reuter vào ngày 17 tháng Tư rằng “Những cáo buộc là loại sản phẩm của óc tưởng tượng, của những kẻ có đầu óc bất thường và người khiếu nại có thể là có và cũng có thể là không, hoặc đơn thuần chỉ là bịa đặt nhằm đánh phá người đại diện cho Giáo Hội Công Giáo tại quốc gia này.
Ricchter nói thêm rằng cáo buộc nghiêm trọng nhất có thể là đã không xảy ra và ông cũng nói với tòa án rằng cáo buộc chống lại ĐHY, một “khuôn mặt có uy tín của Giáo Hội Công Giáo tại Úc phải được coi là không thể và nên hủy bỏ mà không cần phải suy nghĩ.”
Vị luật sư này cũng nêu ra sự đáng tin cậy của những người khiếu nại, làm rõ tính không nhất quán của họ về những ngày giờ xảy ra và rằng các trường hợp cáo buộc lạm dụng là “ không thể tin được,” vì những người cáo buộc vẫn “không chắc chắn nếu nó xảy ra.”
Richter nói với tòa rằng ĐHY Pell, hiện là Tổng Trưởng vụ viện Kinh Tế của Vatican, lẽ ra không nên đưa ngài ra tòa bởi vì những bằng chứng đã “không đủ giá trị để thuyết phục” và rằng một phiên tòa với những chứng cứ bất nhất như thế chỉ “làm mất thời gian, công sức và tiền bạc của người dân.”
Công tố viên Mark Gibson thì lại nói rằng những tuyên bố của Richter chỉ là suy đoán, rằng lý luận của phía biện hộ không có “ảnh hưởng cơ bản đến độ tin cậy các bằng chứng của người khiếu nại”. Ông ta cũng cho rằng những điều Richter phàn nàn về những người khiếu nại chỉ nhằm mục đích trả thù cho Giáo Hội là “chỉ là một mớ lý thuyết”
Thẩm phán Belinda Wallington thì nói rằng Richter rất có thể đã lập luận “quá xa”, rằng “những vấn đề đáng tin cậy là việc dành cho bồi thẩm đoàn.”
ĐHY Pell đã không có mặt trong ngày cuối của buổi điều trần ở tòa án Melbourne. Walling có thể sẽ định ngày ra tòa của ĐHY là ngày 01 tháng Năm.
ĐHY Pell đã bị vướng vào tiến trình tố tụng từ tháng Sáu năm 2017 khi ngài bị tố cáo về tội lạm dụng tình dục trong quá khứ ở tiểu bang Victoria của ngài vào thập niên 1970. Ngài vẫn vô tội và sẽ không nhận tội nếu vụ án tiến hành xét xử.
Vào tháng Sáu năm 2017, ĐHY Pell đã nói với các ký giả “Tôi vô tội với những cáo buộc giả tạo này.”
Trong buổi điều trần, Tòa án Melbourne đã nghe lời chứng của 50 người làm chứng. Trong thời gian này, Richter tung ra một cuộc phản công chống lại cảnh sát bang Victoria, những người đã mở một cuộc tuần hành đặc biệt vào năm 2013 để điều tra ĐHY. Richter gọi đó là “một cuộc tuần hành tìm kiếm một tội ác bởi vì không có tội ác nào bị báo cáo cả.”
ĐHY Pell đã thụ phong linh mục ở Ballarat vào năm 1966. Ngài là Tổng Trưởng vụ viện Kinh Tế của Vatican và là một trong chín vị Hồng Y cố vấn của ĐGH Phanxicô, nhưng đã tạm nghỉ việc từ mùa hè năm ngoái.
Giuse Thẩm Nguyễn.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Ngày Gia Đình Tại Giáo Xứ Paris : Hội Luận Về Chủ Đề Di Dân Và Tị Nạn
Đinh Đức Huy
08:05 17/04/2018
Ngày Gia Đình Tại Giáo Xứ Paris : Hội Luận Về Chủ Đề Di Dân Và Tị Nạn
Buổi hội luận của nhóm Gia Đình Trẻ lần thứ 17 đã diễn ra vào Chúa Nhật 15/04/2018, do Phó tế Giang Minh Đức là trưởng ban điều khiển chương trình, quy tụ khoảng 30 người, gồm các thành viên trong nhóm Gia Đình Trẻ và Du Ca, cũng như những các thân hữu gần, xa về tham dự. Đặc biệt còn có sự hiện diện của Phó tế Sylvain, một người bạn Pháp của Thầy Đức cùng thụ phong phó tế trong năm qua, được mời đến để trình bày các sinh hoạt của Giáo xứ Saint-Anne (Paris) liên quan đến người di dân và tỵ nạn.
Đề tài trong buổi họp do Giáo sư Lê Đình Thông trình bầy là “Di dân và tị nạn qua lịch sử Giáo Hội và lịch sử cận đại”. Phần đầu GS Thông thuyết trình đề tài gồm hai tiếp cận :
- Căn tính của một người tín hữu qua lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại
- Vai trò và nhiệm vụ của giáo dân trong việc đón tiếp người di dân và tỵ nạn theo thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Sau đó là phần thảo luận và chia sẻ những ý kiến xoay quanh các biện pháp, khó khăn trong việc tiếp đón, hội nhập người di dân và tỵ nạn.
Trước khi đi vào trong nội dung chủ đề, Phó tế Đức đã mời anh Đại, một thành viên trong nhóm Gia Đình Trẻ, trình bày tổng quát về vấn đề di dân trong khuôn khổ lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô. Anh Đại đã nêu ra bối cảnh của lời kêu gọi này, các nguyên nhân chính trị, xã hội, kinh tế, chiến tranh của vấn đề di dân với mục đích giúp ta quán triệt hiện trạng vấn đề di dân.
Thuyết trình đề tài
GS Lê Đình Thông đã giới thiệu chủ đề gồm ba mục, được trình chiếu trên màn ảnh bằng PowerPoint : trước hết, định nghĩa các thuật ngữ liên hệ, tiếp theo là giải thích căn tính người tín hữu qua Cựu Ước, Tân Ước cũng như trong lịch sử hiện đại, và cuối cùng trình bày các giải pháp của Đức Thánh Cha Phanxicôvà Giáo Hội nhằm giúp những người di dân và tị nạn.
1. Định nghĩa các thuật ngữ liên quan đến di cư :
- Di tản (exode) : cuộc di tản quy mô của một dân tộc qua một nước khác, như cuộc di dân của dân Do Thái từ Ai Cập qua Israël dưới sự lãnh đạo của Moïse.
- Lưu đầy (exil) : một dân tộc bị ép buộc rời khỏi quê hương vì những lý do chiến tranh, chính trị, xã hội v.v., như cuộc lưu vong của dân Do Thái sang Babylone hồi thế kỷ thứ 6 trước công nguyên
-Tị nạn (refugié) áp dụng cho một nhóm người, phải trốn chạy qua một nước khác vì lý do chính trị, chiến tranh, xã hội, v.v., như trường hợp những người tị nạn chính trị Việt Nam
- Việt kiều : từ này thể hiện những người gốc Việt, hiện sinh sống, làm việc ở một quốc gia khác.
- Di trú (migration) : là những người đi tìm một quốc gia mới để tạm trú hoặc định cư
- Nhập cư (immigration) là một trường hợp một nhóm người định cư vào một nước nhất định
2. Căn tính của các tín hữu trong trong lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại :
Di dân và tị nạn không phải là vấn đề mới mẻ, nhưng có từ thời cổ đại. Cuộc di dân đầu tiên của dân Do Thái nhằm thoát ách nô lệ ở Ai Cập, di tản sang Israël dưới sự lãnh đạo của Moïse qua biển Đỏ, chiến thắng của Israël cũng như mười điều răn của Chúa Kitô được mô tả trong sách Xuất Hành (Livre de l'Exode). Trong Cựu Ước còn nói đến của sự lưu đầy của người Do Thái sang Babylone vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, sau thất bại của hai vương quốc Jérusalem, do nhà vua Nabuchodonosor II (605-562) lãnh đạo vương quốc Juda chủ xướng.
Tân Ước trình thuật việc Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse đều là những người tị nạn khi chạy trốn sang Ai Cập để thoát lệnh giết trẻ sơ sinh của vua Hêrôđê.
Trong Tân Ước, các Thánh sử Mátthêu, Máccô, Luca, Gioan đều viết về hành trình cứu độ của Chúa trên đất Israël : Ngài đã đi giảng dạy phúc âm từ nam đến bắc, rồi sau đó vinh quang chiến thắng, bước vào thành Giêrusalem, và cuối cùng đã hiến thân để gánh tội trần gian trên chặng đường Thánh giá.
Trong lịch sử hiện đại, ta có thể đề cấp đến hai làn sóng di cư kế tiếp tìm tự do của dân Việt Nam:
- đợt thứ nhất là cuộc di dân của gần một triệu người Bắc xuống miền Nam Việt Nam năm 1954 ;
- và đợt thứ hai là phong trào vượt biên tìm tự do của dân miền Nam kể từ năm 1975.
Hiện nay số liệu người tỵ nạn Việt Nam ở khắp nơi, từ Úc đến Mỹ qua Châu Âu, Châu Á với hơn bốn triệu người, đặc biệt bên Pháp có khoảng 250 000 người.
3. Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô về di dân và tị nạn :
Đối mặt với cuộc di dân khổng lồ của hai triệu người Syria, và trước bức ảnh của một em bé người Syria chết đuối, nằm úp mặt trên một bãi biển ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong khuôn khổ ngày di dân và tỵ nạn thế giới năm 2018, Đức Thánh Cha đã kêu gọi Giáo Hội và các giáo dân cần nỗ lực giúp đỡ người nhập cư. Thông điệp của Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải thực hiện bằng hành động, chứ không trong lời nói hay suy nghĩ nữa, bốn mục tiêu sau đây : Tiếp đón, Bảo vệ, Thăng tiến, Hội nhập những người di dân và tị nạn.
Trong khuôn khổ mục vụ di dân, Đức Thánh Cha khuyến khích chúng ta phải thay đổi cái nhìn và cách suy nghĩ đối với người di dân, chủ động tìm hiểu, cộng tác với các tổ chức từ thiện, đồng thời tìm hiểu các biện pháp mới về di dân (dự luật đang được Quốc Hội Pháp thảo luận) để có thể đóng góp cụ thể vào việc xây dựng một cuộc đời mới.
Theo Ngài, chúng ta phải phục vụ tha nhân, cũng như Chúa trước đây đã kiên quyết dâng hiến cả cuộc đời để cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi, như Thánh Phaolô đã nói ‘‘Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.’’ (Ep 2,19)
Chúng ta cần giúp họ, phát triển các hoạt động nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải. Tất cả các hoạt động này phải được thực hiện trong phạm vi của Giáo Hội, vì như Thánh Gioan Kim Khẩu (saint Jean Chrysostome) đã nói : "Giáo Hội là niềm hy vọng, cứu độ và là nơi con nương náu." (Spes tua Ecclesia, salus tua Ecclesia, refugium tuum).
Cuối cùng, GS Thông đã kết luận qua một bài thơ về chim phượng hoàng để gợi lên niềm hy vọng của những người di dân và tỵ nạn là sẽ có một ngày gần nào đó họ có thể trở về quê hương yêu quý, vì phượng hoàng chết thành tro tàn, và hồi sinh từ tro tàn này để trở thành con chim phượng hoàng mới :
Phương trì, Phượng trì, Phượng trì, Phượng trì
Cánh phượng hoàng vỗ cánh xóa bất công
Và tro tàn tham nhũng sẽ chìm sông
Phượng trì bay quy hướng đông lai tòng.
Ý kiến trao đổi trong cuộc họp
Sau thuyết trình đề tài của GS Lê Đình Thông, Phó tế Giang Minh Đức đã mời Phó tế Sylvain để trình bày quá trình hoạt động của anh cũng như thực trạng hiện nay về việc giúp những người di dân và tỵ nạn ở Giáo xứ Saint-Anne tại quận 13 ở Paris.
Chứng từ của Phó tế Sylvain
Sylvain góp phần giúp đỡ những người di dân, tỵ nạn tại giáo xứ Saint-Anne về các khía cạnh: tiếp nhận, hỗ trợ nhà ở, chuẩn bị bữa ăn, tham gia các hoạt động văn hóa xã hội, giảng dạy các khóa học tiếng Pháp. Theo Sylvain, tất cả những người nhập cư được giáo xứ Saint- Anne tiếp nhận là những người được chuyển đến theo lệnh của Préfecture de Paris.
Thầy Phó tế đã phải đương đầu với nhiều khó khăn. Thầy cho rằng xã hội hiện nay không có tinh thần khoan dung và đối xử bình đẳng với mọi người, và đặc biệt đối với người nhập cư, nhưng Giáo hội thực hiện nhân bản Công Giáo. Để đối phó với vấn nạn này cần có đủ nghị lực để vượt qua nhiều thách thức, khắc phục những luận điệu tiêu cực về di dân.
Vấn đề thứ hai là làm sao phát triển các hoạt động nhằm giúp của những người nhập cư sớm tự lập. Một trong các hoạt động này là sự phối hợp giữa Giáo xứ Saint-Anne và bốn Giáo xứ tại Paris về chủ yếu mặt tài chính để tìm kiếm những căn hộ nho nhỏ cho họ.
Khó khăn thứ ba liên quan đến việc giảng dạy tiếng Pháp, nhưng dù sao đi nữa, Thầy Sylvain tự hào khi hoàn thành nhiệm vụ tạo một khởi đầu mới trong việc xây dựng lại cuộc đời của họ ở bên Pháp, đúng theo thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Sau chia sẻ của Phó tế Sylvain, Thầy Đức đã mời Bà Vân Anh nói về di dân người Việt ở Calais.
Chia sẻ của Bà Vân Anh về di dân Việt Nam ở Calais:
Bà Vân Anh được thông báo về tình trạng người di dân Việt Nam ở thành phố Calais, phía bắc nước Pháp, qua một người bạn đang công tác ở Hồng Thập Tự Pháp. Những người di dân Việt còn rất trẻ dưới 18 tuổi. Họ đến Pháp để tìm đường sang Anh hay Đức, qua sự môi giới của bọn buôn người. Khi đến Calais, họ sống lén lút. Một số thiếu nữ còn bán thân để tồn tại. Họ không còn được hưởng quy chế tị nạn như giai đoạn sau năm 1975.
Kết luận:
Cuộc họp giúp ta suy nghĩ về di dân và tị nạn qua lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại. Sau buổi họp cử tọa đã nhận thức việc hỗ trợ những người nhập cư cần có sự phối hợp của các giáo xứ nhằm tuân thủ bốn mục tiêu của Đức Thánh Cha Phanxicô: Tiếp đón, Bảo vệ, Thăng tiến, Hội nhập.
Buổi hội luận kết thúc sau gần bốn tiếng đồng hồ trao đổi bằng song ngữ Việt Pháp.
Đinh Đức Huy
Hình ảnh : Nguyễn Ngọc Huy
Đề tài trong buổi họp do Giáo sư Lê Đình Thông trình bầy là “Di dân và tị nạn qua lịch sử Giáo Hội và lịch sử cận đại”. Phần đầu GS Thông thuyết trình đề tài gồm hai tiếp cận :
- Căn tính của một người tín hữu qua lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại
- Vai trò và nhiệm vụ của giáo dân trong việc đón tiếp người di dân và tỵ nạn theo thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Sau đó là phần thảo luận và chia sẻ những ý kiến xoay quanh các biện pháp, khó khăn trong việc tiếp đón, hội nhập người di dân và tỵ nạn.
Trước khi đi vào trong nội dung chủ đề, Phó tế Đức đã mời anh Đại, một thành viên trong nhóm Gia Đình Trẻ, trình bày tổng quát về vấn đề di dân trong khuôn khổ lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô. Anh Đại đã nêu ra bối cảnh của lời kêu gọi này, các nguyên nhân chính trị, xã hội, kinh tế, chiến tranh của vấn đề di dân với mục đích giúp ta quán triệt hiện trạng vấn đề di dân.
Thuyết trình đề tài
GS Lê Đình Thông đã giới thiệu chủ đề gồm ba mục, được trình chiếu trên màn ảnh bằng PowerPoint : trước hết, định nghĩa các thuật ngữ liên hệ, tiếp theo là giải thích căn tính người tín hữu qua Cựu Ước, Tân Ước cũng như trong lịch sử hiện đại, và cuối cùng trình bày các giải pháp của Đức Thánh Cha Phanxicôvà Giáo Hội nhằm giúp những người di dân và tị nạn.
1. Định nghĩa các thuật ngữ liên quan đến di cư :
- Di tản (exode) : cuộc di tản quy mô của một dân tộc qua một nước khác, như cuộc di dân của dân Do Thái từ Ai Cập qua Israël dưới sự lãnh đạo của Moïse.
- Lưu đầy (exil) : một dân tộc bị ép buộc rời khỏi quê hương vì những lý do chiến tranh, chính trị, xã hội v.v., như cuộc lưu vong của dân Do Thái sang Babylone hồi thế kỷ thứ 6 trước công nguyên
-Tị nạn (refugié) áp dụng cho một nhóm người, phải trốn chạy qua một nước khác vì lý do chính trị, chiến tranh, xã hội, v.v., như trường hợp những người tị nạn chính trị Việt Nam
- Việt kiều : từ này thể hiện những người gốc Việt, hiện sinh sống, làm việc ở một quốc gia khác.
- Di trú (migration) : là những người đi tìm một quốc gia mới để tạm trú hoặc định cư
- Nhập cư (immigration) là một trường hợp một nhóm người định cư vào một nước nhất định
2. Căn tính của các tín hữu trong trong lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại :
Di dân và tị nạn không phải là vấn đề mới mẻ, nhưng có từ thời cổ đại. Cuộc di dân đầu tiên của dân Do Thái nhằm thoát ách nô lệ ở Ai Cập, di tản sang Israël dưới sự lãnh đạo của Moïse qua biển Đỏ, chiến thắng của Israël cũng như mười điều răn của Chúa Kitô được mô tả trong sách Xuất Hành (Livre de l'Exode). Trong Cựu Ước còn nói đến của sự lưu đầy của người Do Thái sang Babylone vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, sau thất bại của hai vương quốc Jérusalem, do nhà vua Nabuchodonosor II (605-562) lãnh đạo vương quốc Juda chủ xướng.
Tân Ước trình thuật việc Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse đều là những người tị nạn khi chạy trốn sang Ai Cập để thoát lệnh giết trẻ sơ sinh của vua Hêrôđê.
Trong Tân Ước, các Thánh sử Mátthêu, Máccô, Luca, Gioan đều viết về hành trình cứu độ của Chúa trên đất Israël : Ngài đã đi giảng dạy phúc âm từ nam đến bắc, rồi sau đó vinh quang chiến thắng, bước vào thành Giêrusalem, và cuối cùng đã hiến thân để gánh tội trần gian trên chặng đường Thánh giá.
Trong lịch sử hiện đại, ta có thể đề cấp đến hai làn sóng di cư kế tiếp tìm tự do của dân Việt Nam:
- đợt thứ nhất là cuộc di dân của gần một triệu người Bắc xuống miền Nam Việt Nam năm 1954 ;
- và đợt thứ hai là phong trào vượt biên tìm tự do của dân miền Nam kể từ năm 1975.
Hiện nay số liệu người tỵ nạn Việt Nam ở khắp nơi, từ Úc đến Mỹ qua Châu Âu, Châu Á với hơn bốn triệu người, đặc biệt bên Pháp có khoảng 250 000 người.
3. Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô về di dân và tị nạn :
Trong khuôn khổ mục vụ di dân, Đức Thánh Cha khuyến khích chúng ta phải thay đổi cái nhìn và cách suy nghĩ đối với người di dân, chủ động tìm hiểu, cộng tác với các tổ chức từ thiện, đồng thời tìm hiểu các biện pháp mới về di dân (dự luật đang được Quốc Hội Pháp thảo luận) để có thể đóng góp cụ thể vào việc xây dựng một cuộc đời mới.
Theo Ngài, chúng ta phải phục vụ tha nhân, cũng như Chúa trước đây đã kiên quyết dâng hiến cả cuộc đời để cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi, như Thánh Phaolô đã nói ‘‘Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.’’ (Ep 2,19)
Chúng ta cần giúp họ, phát triển các hoạt động nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải. Tất cả các hoạt động này phải được thực hiện trong phạm vi của Giáo Hội, vì như Thánh Gioan Kim Khẩu (saint Jean Chrysostome) đã nói : "Giáo Hội là niềm hy vọng, cứu độ và là nơi con nương náu." (Spes tua Ecclesia, salus tua Ecclesia, refugium tuum).
Cuối cùng, GS Thông đã kết luận qua một bài thơ về chim phượng hoàng để gợi lên niềm hy vọng của những người di dân và tỵ nạn là sẽ có một ngày gần nào đó họ có thể trở về quê hương yêu quý, vì phượng hoàng chết thành tro tàn, và hồi sinh từ tro tàn này để trở thành con chim phượng hoàng mới :
Phương trì, Phượng trì, Phượng trì, Phượng trì
Cánh phượng hoàng vỗ cánh xóa bất công
Và tro tàn tham nhũng sẽ chìm sông
Phượng trì bay quy hướng đông lai tòng.
Ý kiến trao đổi trong cuộc họp
Sau thuyết trình đề tài của GS Lê Đình Thông, Phó tế Giang Minh Đức đã mời Phó tế Sylvain để trình bày quá trình hoạt động của anh cũng như thực trạng hiện nay về việc giúp những người di dân và tỵ nạn ở Giáo xứ Saint-Anne tại quận 13 ở Paris.
Chứng từ của Phó tế Sylvain
Sylvain góp phần giúp đỡ những người di dân, tỵ nạn tại giáo xứ Saint-Anne về các khía cạnh: tiếp nhận, hỗ trợ nhà ở, chuẩn bị bữa ăn, tham gia các hoạt động văn hóa xã hội, giảng dạy các khóa học tiếng Pháp. Theo Sylvain, tất cả những người nhập cư được giáo xứ Saint- Anne tiếp nhận là những người được chuyển đến theo lệnh của Préfecture de Paris.
Thầy Phó tế đã phải đương đầu với nhiều khó khăn. Thầy cho rằng xã hội hiện nay không có tinh thần khoan dung và đối xử bình đẳng với mọi người, và đặc biệt đối với người nhập cư, nhưng Giáo hội thực hiện nhân bản Công Giáo. Để đối phó với vấn nạn này cần có đủ nghị lực để vượt qua nhiều thách thức, khắc phục những luận điệu tiêu cực về di dân.
Vấn đề thứ hai là làm sao phát triển các hoạt động nhằm giúp của những người nhập cư sớm tự lập. Một trong các hoạt động này là sự phối hợp giữa Giáo xứ Saint-Anne và bốn Giáo xứ tại Paris về chủ yếu mặt tài chính để tìm kiếm những căn hộ nho nhỏ cho họ.
Khó khăn thứ ba liên quan đến việc giảng dạy tiếng Pháp, nhưng dù sao đi nữa, Thầy Sylvain tự hào khi hoàn thành nhiệm vụ tạo một khởi đầu mới trong việc xây dựng lại cuộc đời của họ ở bên Pháp, đúng theo thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Sau chia sẻ của Phó tế Sylvain, Thầy Đức đã mời Bà Vân Anh nói về di dân người Việt ở Calais.
Chia sẻ của Bà Vân Anh về di dân Việt Nam ở Calais:
Bà Vân Anh được thông báo về tình trạng người di dân Việt Nam ở thành phố Calais, phía bắc nước Pháp, qua một người bạn đang công tác ở Hồng Thập Tự Pháp. Những người di dân Việt còn rất trẻ dưới 18 tuổi. Họ đến Pháp để tìm đường sang Anh hay Đức, qua sự môi giới của bọn buôn người. Khi đến Calais, họ sống lén lút. Một số thiếu nữ còn bán thân để tồn tại. Họ không còn được hưởng quy chế tị nạn như giai đoạn sau năm 1975.
Kết luận:
Cuộc họp giúp ta suy nghĩ về di dân và tị nạn qua lịch sử Giáo hội và lịch sử cận đại. Sau buổi họp cử tọa đã nhận thức việc hỗ trợ những người nhập cư cần có sự phối hợp của các giáo xứ nhằm tuân thủ bốn mục tiêu của Đức Thánh Cha Phanxicô: Tiếp đón, Bảo vệ, Thăng tiến, Hội nhập.
Buổi hội luận kết thúc sau gần bốn tiếng đồng hồ trao đổi bằng song ngữ Việt Pháp.
Đinh Đức Huy
Hình ảnh : Nguyễn Ngọc Huy
Thánh Lễ Mừng 90 Năm Ngày Sinh Của Đấng Đáng Kính, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận Tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam Huế
Trương Cao Minh Trí
08:32 17/04/2018
Sáng ngày 170/4, tại Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam (Tổng Giáo phận Huế), Gia đình Cựu chủng sinh Huế cùng với cộng đoàn Giáo xứ đã hiệp dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho Đấng Đáng Kính, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, vị bề trên tiên khởi của Tiểu chủng viện Hoan Thiện (Huế) nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của Ngài. Thánh Lễ do Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải nguyên Giám đốc Tiểu chủng viện Hoan Thiện cùng khoảng 20 linh mục đồng tế.
Xem Hình
Mở đầu Thánh Lễ, cha chủ tế Phêrô Nguyễn Hữu Giải đã bày tỏ sự vui mừng và gửi lời tri ân đến Đức Tổng Giám Mục Giáo phận đã cho phép Gia đình Cựu Chủng sinh Huế tề tựu về Nhà thờ Chính tòa để cùng dâng lời cầu nguyện cho người con của Giáo xứ và Giáo phận, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Sau khi chia sẻ về một số kỷ niệm với Đức Cố Hồng Y trong những ngày đầu làm Giáo sư Tiểu Chủng viện Hoan Thiện, trong tâm tình cảm tạ và tri ân Thiên Chúa vì muôn ơn lành Ngài đã ban cho người tôi tớ là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, cha chủ tế Phêrô đã mời gọi cộng đoàn nhìn nhận tội lỗi để xứng đáng cử hành Mầu nhiệm Thánh.
Chia sẻ trong bài giảng lễ, linh mục Antôn Nguyễn Văn Tuyến, quản xứ Chính tòa Phủ Cam đã nói về cái chết của Thánh Têphanô. Thánh Têphanô là một tấm gương tuyệt vời trong việc chứng tá cho Đức Giêsu Kitô, Ngài đã anh dũng tử đạo để làm chứng cho sự Phục sinh vinh hiển của Thầy mình. Ngài cũng cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình, thật là một tấm lòng bao dung cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy cho mỗi chúng ta. Và qua hình ảnh của của Ngài, cha Antôn cũng nhìn thấy những sự tương đồng của Thánh Têphanô với Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Hành trình sống đời sống thánh của Đức Cố Hồng Y trải qua biết bao biến cố, gian truân, thử thách, nhưng Ngài vẫn một lòng phó thác cho Chúa. 13 năm tù đày là một khoảng thời gian dài dằng dặc, nhưng Đức Cố Hồng Y không một ngày quên Chúa, Ngài vẫn thường tự cử hành Thánh Lễ vào mỗi 3 giờ chiều hàng ngày.Cũng giống như Thánh Têphanô, trong tâm hồn Đức Cố Hồng Y không hề oán thán những kẻ đã và đang chống lại mình, ngược lại Ngài còn cầu nguyện với Chúa để họ sớm nhận ra lẽ phải và Đức Tin. Đời sống thánh của Ngài là mẫu gương tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai đang gặp đau khổ, thử thách. Để kết thúc bài giảng và tôn vinh những giá trị về tấm gương chứng tá cho cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Kitô của Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, cha quản xứ đã mời gọi các linh mục đồng tế và cộng đoàn hướng về Di ảnh của Đức Cố Hồng Y và dành những vỗ tay.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ, cha chủ tế Phêrô một lần nữa thay mặt cho các linh mục đồng tế và anh em Gia đình Cựu Chủng sinh Huế nói lời tri ân cha Quản xứ và hai cha Phó xứ Chính tòa Phủ Cam đã giúp đỡ để Thánh Lễ cầu nguyện nhân ngày sinh lần thứ 90 của Đấng Đáng Kính, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được diễn ra tốt đẹp. Ngài còn mời gọi cộng đoàn tiếp tục cầu nguyện để tiến trình phong Thánh cho Đức Cố Hồng Y có thêm nhiều tiến triển. Kết thúc Thánh Lễ, mọi người cùng nhau chụp ảnh lưu niệm với Di ảnh của Đức Cố Hồng Y.
TRƯƠNG CAO MINH TRÍ
Xem Hình
Mở đầu Thánh Lễ, cha chủ tế Phêrô Nguyễn Hữu Giải đã bày tỏ sự vui mừng và gửi lời tri ân đến Đức Tổng Giám Mục Giáo phận đã cho phép Gia đình Cựu Chủng sinh Huế tề tựu về Nhà thờ Chính tòa để cùng dâng lời cầu nguyện cho người con của Giáo xứ và Giáo phận, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Sau khi chia sẻ về một số kỷ niệm với Đức Cố Hồng Y trong những ngày đầu làm Giáo sư Tiểu Chủng viện Hoan Thiện, trong tâm tình cảm tạ và tri ân Thiên Chúa vì muôn ơn lành Ngài đã ban cho người tôi tớ là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, cha chủ tế Phêrô đã mời gọi cộng đoàn nhìn nhận tội lỗi để xứng đáng cử hành Mầu nhiệm Thánh.
Chia sẻ trong bài giảng lễ, linh mục Antôn Nguyễn Văn Tuyến, quản xứ Chính tòa Phủ Cam đã nói về cái chết của Thánh Têphanô. Thánh Têphanô là một tấm gương tuyệt vời trong việc chứng tá cho Đức Giêsu Kitô, Ngài đã anh dũng tử đạo để làm chứng cho sự Phục sinh vinh hiển của Thầy mình. Ngài cũng cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình, thật là một tấm lòng bao dung cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy cho mỗi chúng ta. Và qua hình ảnh của của Ngài, cha Antôn cũng nhìn thấy những sự tương đồng của Thánh Têphanô với Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Hành trình sống đời sống thánh của Đức Cố Hồng Y trải qua biết bao biến cố, gian truân, thử thách, nhưng Ngài vẫn một lòng phó thác cho Chúa. 13 năm tù đày là một khoảng thời gian dài dằng dặc, nhưng Đức Cố Hồng Y không một ngày quên Chúa, Ngài vẫn thường tự cử hành Thánh Lễ vào mỗi 3 giờ chiều hàng ngày.Cũng giống như Thánh Têphanô, trong tâm hồn Đức Cố Hồng Y không hề oán thán những kẻ đã và đang chống lại mình, ngược lại Ngài còn cầu nguyện với Chúa để họ sớm nhận ra lẽ phải và Đức Tin. Đời sống thánh của Ngài là mẫu gương tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai đang gặp đau khổ, thử thách. Để kết thúc bài giảng và tôn vinh những giá trị về tấm gương chứng tá cho cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Kitô của Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, cha quản xứ đã mời gọi các linh mục đồng tế và cộng đoàn hướng về Di ảnh của Đức Cố Hồng Y và dành những vỗ tay.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ, cha chủ tế Phêrô một lần nữa thay mặt cho các linh mục đồng tế và anh em Gia đình Cựu Chủng sinh Huế nói lời tri ân cha Quản xứ và hai cha Phó xứ Chính tòa Phủ Cam đã giúp đỡ để Thánh Lễ cầu nguyện nhân ngày sinh lần thứ 90 của Đấng Đáng Kính, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được diễn ra tốt đẹp. Ngài còn mời gọi cộng đoàn tiếp tục cầu nguyện để tiến trình phong Thánh cho Đức Cố Hồng Y có thêm nhiều tiến triển. Kết thúc Thánh Lễ, mọi người cùng nhau chụp ảnh lưu niệm với Di ảnh của Đức Cố Hồng Y.
TRƯƠNG CAO MINH TRÍ
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Lễ kính Chúa rơi vào thứ bảy được cử hành như thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
08:07 17/04/2018
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Một điều con cảm thấy bối rối là các dịp khi một ngày lễ kính Chúa (a feast of Lord) rơi vào ngày thứ bảy. Chẳng hạn, khi lễ ngày 6 tháng 8 rơi vào ngày thứ bảy, Thánh Lễ nào sẽ được cử hành vào chiều tối hôm đó – hoặc Lễ Chúa Nhật thường niên, hoặc Lễ Chúa Biến Hình? Mới đây, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã ban hành hướng dẫn về chủ đề này: http://www.usccb.org/about/divine-worship/newsletter/upload/newsletter-2016-05-and-06.pdf. Tuy nhiên, hướng dẫn này được dựa trên các nhận xét đã có từ nhiều thập kỷ trong Notitiae, vốn đối với con là mâu thuẫn hoặc ít nhất là thiếu sự đảm bảo. Hơn nữa, nó dường như đối với con là không phù hợp với định nghĩa của Bộ giáo luật về một ngày (Bộ giáo luật 202, § 1). Một ngày dường như có nghĩa là trọn một ngày, và nếu lễ Chúa Biến hình được chỉ định là ngày 6 tháng 8, và là ưu tiên hơn một Chúa Nhật trong Mùa Thường niên, thì theo theo con Thánh lễ Chúa Biến Hình nên được cử hành vào chiều tối thứ bảy, ngày 6 tháng 8, và như thế nó đáp ứng việc giữ luật buộc ngày Chúa Nhật nữa. - A. P., Lansing, Michigan, Hoa Kỳ.
Đáp: Trước tiên, tôi không tin rằng sự việc một câu trả lời chính thức của Tòa Thánh đã có từ nhiều thập niên trước đã tạo ra khác biệt cho giá trị của nó, trừ khi các trường hợp đã bị thay đổi trong thời gian đó đã làm cho nó không thể áp dụng được. Tuy nhiên, ‘các Quy luật Tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch’ đã có từ năm 1969, và chỉ có các sửa đổi nhỏ trong giai đoạn này.
Các quy luật nói trên có một hoặc hai điểm, vốn có thể giúp chúng tôi làm sáng tỏ câu trả lời của chúng tôi cho câu hỏi của bạn đọc này. Thứ nhất là định nghĩa một ngày như được áp dụng cho một lễ (như khác với ngày lễ buộc):
"13. Các lễ được cử hành trong giới hạn của ngày tự nhiên, và do đó không có Giờ Kinh Chiều I. Ngoại lệ là các lễ kính Chúa rơi vào Chúa Nhật trong Mùa Thường niên và trong mùa Giáng sinh, và thay thế cho Thần vụ Chúa Nhật".
Thứ hai, chúng ta có danh sách các lễ được xếp hạng như sau:
"5. Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.
"6. Các Chúa Nhật mùa Giáng sinh và mùa Thường niên”.
Các lễ kính Chúa được đề cập ở trên trong số 5, và được cử hành nếu trùng với Chúa Nhật mùa Thường niên, là: Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa (Chúa Nhật sau Lễ Hiển Linh, hoặc thứ hai sau lễ Hiển Linh nếu lễ trọng này rơi vào ngày 7 hoặc 8 tháng 1); Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh (Lễ Nến, ngày 2 tháng 2); Lễ Chúa Biến Hình (ngày 6 tháng 8); Lễ Suy tôn Thánh giá (ngày 14 tháng 9); Lễ cung hiến Thánh đường Latêranô (ngày 9 tháng 11, được xem như lễ kính Chúa vì tước hiệu chính thức đầu tiên của nhà thờ này là kính Đấng Cứu Thế Cực thánh); và lễ Thánh Gia (Chúa Nhật sau lễ Giáng sinh, hoặc ngày 30 tháng 12 nếu lễ Giáng sinh rơi vào ngày Chúa Nhật).
Các tài liệu của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ được tìm thấy trong địa chỉ liên kết mạng của bạn đọc trên cũng là hữu ích. Sự trình bày của khó khăn này cũng gợi ý một số giải pháp khả thi.
Nó nêu ra rằng sự khó khăn của sự xuất hiện của hai ngày lễ liên tiếp đã nhận được hai giải pháp khác nhau:
"Sau cuộc thảo luận dài ban đầu, Thánh Bộ Phượng tự đã thảo luận câu hỏi trong năm 1974 và đưa ra các hướng dẫn trong một Ghi chú ‘Về lễ ngày Chúa Nhật hay ngày lễ kính được dự đoán vào chiều tối hôm trước' (Notitiæ 10 [1974], 222-223). Ghi Chú này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xếp hạng trong Bảng các ngày Phụng vụ, trong ‘các Quy luật Tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch’, để lựa chọn việc cử hành thích hợp:
"Trong trường hợp một Chúa Nhật đi sau ngày một lễ trọng hoặc ngược lại, cách tốt nhất để chu toàn việc tuân giữ một ngày phụng vụ trọn vẹn, là áp dụng cho việc cử hành một Thánh lễ buổi tối điều đã được đặt ra trong trường hợp của Giờ Kinh Chiều, tức là: "...Nếu Giờ Kinh Chiều của Thần vụ của ngày hiện tại và Giờ Kinh Chiều I của ngày hôm sau được chỉ định cho việc cử hành trong cùng một ngày, thì Giờ Kinh Chiều của ngày lễ có ưu tiên cao hơn trong danh sách các lễ được xếp hạng là được ưu tiên hơn; trong các trường hợp xếp hạng ngang nhau, Giờ Kinh Chiều của ngày hiện tại được ưu tiên hơn. (số 2)”.
Tuy nhiên, 10 năm sau, trong một tài liệu ít được biết đến hơn, Thánh Bộ Phượng tự đã đưa ra một giải pháp mới, vốn không còn dựa trên bảng ưu tiên phụng vụ nữa.
"Thánh Bộ ... đã ban hành các tiêu chuẩn được sửa đổi, dựa trên nguyên tắc mà ưu tiên được trao cho 'lễ theo luật' (feast of precept, thường được dịch là một ngày lễ buộc), nghĩa là, ưu tiên cho việc cử hành ngày có tính buộc cho các tín hữu, để họ tham dự Thánh lễ. Không nghi ngờ rằng lý do này là nhằm phục vụ các nhu cầu mục vụ của tín hữu, nên một số người tham dự Thánh lễ buổi chiều Thứ Bảy là đã tham dự phụng vụ Chúa Nhật, và do đó thực hiện luật buộc dự lễ của họ rồi. Các hướng dẫn mới hơn ('De Calendario Liturgico Exarando pro Anno 1984-1985', Notitiæ 20 [1984], 603-605) là chỉ bằng tiếng Latinh, và do đó các quy định của nó ít được biết tới đối với các người không đọc tài liệu của Thánh Bộ, hoặc một bản dịch tiếng địa phương".
Các hướng dẫn của Thánh bộ Phượng tự, và hiện nay được áp dụng ở hầu hết các quốc gia, được tóm tắt trong bản tin của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ là như sau:
"1. Trong việc cử hành Thánh Lễ, ưu tiên luôn luôn được trao cho ('præcedentia semper danda est') ngày lễ buộc (lễ theo luật), không phân biệt sự xếp hạng của hai ngày lễ liên tiếp; và
"2. Trong việc cử hành Giờ Kinh Chiều vào một ngày lễ buộc, mà trong đó cộng đoàn tham dự, các hướng dẫn cũ vẫn còn được áp dụng, ngoại trừ các bản văn của Giờ Kinh Chiều I của ngày hôm sau có thể được thay thế bởi bản văn của Giờ Kinh Chiều II ngày hôm nay".
Vì có thể có nhiều loạt tình huống mục vụ và tập tục mục vụ của tín hữu, các tài liệu cũng nói rằng Giám mục giáo phận có nhiều quyền rộng rãi để quyết định phải làm gì, trong trường hợp có sự trùng hợp của các ngày lễ khác nhau. Và đây là lý do tại sao có thể có một số khác biệt nhỏ giữa một giáo phận này với một giáo phận khác. Hiện nay, hầu hết các giáo phận xuất bản một lịch phụng vụ hàng năm, nhằm hướng dẫn tín hữu trong khía cạnh này.
Do đó, nếu không có quyết định khác của một Giám mục, phải làm gì nếu lễ Chúa Biến Hình (ưu tiên hơn một Chúa Nhật mùa Thường niên) rơi vào ngày thứ Bảy?
Bởi vì ngày Chúa Nhật là một ngày lễ buộc, thì sự việc này có nghĩa rằng tài liệu năm 1984 được áp dụng cho việc cử hành Thánh Lễ, và Thánh Lễ Chúa Nhật được cử hành vào buổi chiều tối thứ bảy.
Tuy nhiên, đối với Các Giờ Kinh Phụng Vụ, bảng xếp hạng ưu tiên cần được áp dụng, sao cho Giờ Kinh Chiều thứ bảy vẫn còn sử dụng các bản văn của lễ Chúa Biến Hình do lễ này có ưu tiên cao hơn.
Mặc dù không bắt buộc chặt chẽ, trong trường hợp đó, có lẽ tốt hơn là nên đọc Giờ Kinh Chiều của lễ Chúa Biến Hình, trước khi cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật. (Zenit.org 17-4-2018)
Nguyễn Trọng Đa
Văn Hóa
Về Mau Đi, Hỡi Người Mục Tử !
Sơn Ca Linh
07:56 17/04/2018
Mục tử chiều nay nếu về e không gặp,
Bầy chiên ngoan cả bọn rủ đi rồi !
Bởi đồng cỏ xanh nay héo úa tơi bời,
Dòng sông cũ nay hoang tàn khô khốc !
Đã lâu rồi chiên nào cũng trơ xương gầy gộc,
Hết bọn con buôn với cỏ úa, nước khô,
Rồi bọn cướp, chiên xuống ruộng lên bờ,
Còn sống được là may thầy phước chủ !
Nên chiên tứ tản qua bao con đường lữ thứ,
Mang phận lưu đày moi móc kiếm ăn.
Bữa đói bữa no…nhục nhã, thấp hèn,
“Suối mát đồng xanh”… giờ hoang vu kỷ niệm !
Nếu có về, người ơi xin sục sạo tìm kiếm,
Nơi những con đường có “phố đèn đỏ” ô nhơ,
Nơi những khu nhà trọ đang đóng cửa đợi chờ,
Từng đàn chiên trở về từ những khu công nghiệp…
Cứ thẳng đường tới những căn hộ tồi tàn ọp ẹp,
Những quán cà-phê ôm, nhậu nhẹt, ka-ra-ô-kê…
Những chỗ ăn chơi… nói chung, đừng chỗ nào chê,
Địa chỉ của chiên, thời hôm nay lan tràn muôn nẻo !
Chưa kể những con chiên bệnh hoạn sức tàn khô héo,
Thoi thóp từng ngày trong nhức nhối cô đơn…
Có những con chiên buông trôi trong lạc thú điên cuồng,
Chả còn tha thiết đâu là bến bờ vĩnh cửu…!
Mục tử kia ơi, có nghe ngoài kia tiếng chiên nào kêu cứu,
Những con chiên ngoan hiền giữa ngục thẳm tối tăm,
Những phận đời vô danh, bé nhỏ, âm thầm,
những sinh linh mang ảnh hình Thượng Đế…!
Về mau đi, người chăn chiên ơi, nếu không sẽ trễ,
Sẽ không còn giờ “cấp cứu” để hồi sinh.
Bởi con đường đưa chiên sang bến đỗ thiên đình,
Vẫn lắm chông gai và xa xôi vời vợi…!
Sơn Ca Linh
Mùa Phục Sinh 2018