Phụng Vụ - Mục Vụ
Phúc Âm Nhật Ký - Tin Mừng Cho Người Thời Đại - Chuột Sa Chĩnh Gạo
Lm. Do Van Luc, op.
05:36 20/04/2008
CHUỘT SA CHĨNH GẠO
(Ga 14:1-12)
Trong sứ điệp gởi cho người Công giáo và dân chúng Hoa Kỳ, ÐGH Bênêđictô XVI viết: « Cùng với các Giám mục, tôi chọn chủ đề 3 chữ đơn giản nhưng thiết yếu cho cuộc tông du: «Christ Our Hope.» (Ðức Kitô, Niềm Hy vọng chúng ta.) Theo chân các vị tiền nhiệm đáng kính, Ðức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tôi sẽ đến Hiệp Chủng Quốc lần đầu tiên với tư cách Giáo hoàng, để công bố chân lý vĩ đại này: Chúa Giêsu Kitô là niềm hy vọng cho mọi người thuộc mọi ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa và hoàn cảnh xã hội.»[1]
Ðâu là niềm hy vọng lớn lao nhất của nhân loại nếu không phải tự do ? Làm sao có tự do đích thực, nếu Chúa Giêsu không chết trên thập giá. Quả thực,“chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1) Khi xuống trần gian, Chúa Giêsu đã tự xưng là con đường dẫn đến sự thật và sự sống tự do trong Chúa Cha. Chính vì thế mà Người trở thành niềm hy vọng chúng ta.
CHIỀU SÂU NƯỚC TRỜI
Sống giữa trần gian, Chúa Giêsu vẫn còn là một ẩn số, ngay cả với các môn đệ. Dù sau khi tự mạc khải vừa là cứu cánh và vừa là phương tiện giúp con người tới Chúa Cha, Người vẫn còn là một mầu nhiệm đối với các ông. Bằng chứng, Người giải thích mãi các ông vẫn chưa nhận ra sự thật về Người. Một phần cũng vì những lời mạc khải có phần trừu tượng. Một phần vì những mầu nhiệm quá ẩn sâu trong Chúa Cha.
Nhưng nhờ thời gian chung sống với Chúa, các môn đệ nhận ra phần nào sự thật về Thày. Chắc chắn phải đợi Thần Khí ngự xuống, các ông mới được mạc khải hoàn toàn. Dầu thế, Chúa không muốn các ông quá lo lắng về số phận ngày mai …
Dù vắng bóng Thày, cuộc đời vẫn không ngừng trôi. Bởi thế, các môn đệ cần xác định rõ phương hướng và tỉnh thức trước những âm mưu đen tối của kẻ thù. Dù đang trong giai đoạn nào, họ vẫn luôn là lữ khách trên trần gian. Họ đang đi trên con đường dẫn về nhà Cha hay Nước Thiên Chúa. Con đường đó chính là Ðức Kitô (x. Ga 14:6). Ngoài con đường đó, họ không thể sống tự do, hạnh phúc và bình an. Chắc chắn đó là con đường giải thoát, vì Người là chân lý. Theo con đường đó, họ không thể bị lầm lạc. Hơn nữa, họ sẽ mãn nguyện khi “biết” và “thấy” Chúa Cha nơi Chúa Con. Như thế, con đường đó sẽ dẫn họ vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Còn gì hạnh phúc hơn !
Con đường đó sẽ bảo đảm cho họ một cuộc sống bình an, vì Người là Ðấng Công Chính (x. Cv 3:14). Người sẽ công chính hóa bất cứ ai bước vào con đường của Người. Ðó là con đường công lý dẫn đến bình an cho muôn người. Muốn có công lý, cần tôn trọng tha nhân với những khác biệt của họ, vì “trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở.” (Ga 14:2) Nói khác, trong Nhà Cha có nhiều khác biệt nhưng vẫn hiệp nhất. Không tôn trọng sự khác biệt ấy, không thể sống trong Nhà Cha.
Chính vì không tôn trọng sự khác biệt của nhau, nên mới có cảnh “các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” (Cv 6:1) Thật là bất công ! Nếu cảnh bất công này kéo dài, cộng đoàn tiên khởi sẽ mất bình an. Công cuộc truyền giáo sẽ bị ảnh hưởng. Rất may sự phân công rõ ràng đã tháo gỡ bế tắc. Tất cả đều được giải quyết dựa trên quyền tối ưu của “việc rao giảng Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2) Nhờ Lời Chúa, Giáo hội mới có đủ sáng suốt để trình bày những khác biệt một cách một cách trung thực và tìm cách giải quyết những bất đồng mà vẫn tôn trọng mọi người.
Ðó là con đường đầy ắp tình Chúa và tình người. Ði vào con đường đó, Giáo hội đã tìm kiếm được chân lý, công lý, sự sống, tự do và bình an. Ðó là “những việc lớn hơn nữa” do cộng đoàn những người “tin vào Thày” (Ga 14:12) thực hiện, đúng như Chúa hứa. Còn niềm vui nào lớn hơn ! Niềm vui ấy thật sung mãn vì Thiên Chúa “đã gọi anh em. .. vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.”(1 Pr 2:9)
Ánh sáng diệu huyền đó chỉ chiếu soi những ai tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu đã chết và sống lại vì họ. Chúa đã trải qua trước tiên để mở đường khai lối cho những người em nhân loại, để “dọn chỗ” (Ga 14:2) cho họ trong nhà Cha. Nhà Cha chính là trái tim Chúa. Quả thế, Chúa nói rõ: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.” (Ga 14:11) Ðó là việc cư ngụ trong trái tim, sự hiện diện sâu xa, sự hiệp thông với tình yêu vĩnh cửu là chính Thiên Chúa.
Tình yêu sung mãn đó đã hiện rõ trên dung nhan Chúa Kitô. Không cần đợi thấy Chúa Cha mới mãn nguyện vì “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Khi nhắc bảy lần câu văn đơn sơ đó trong một đoạn văn ngắn, Chúa có ý cảnh giác các môn đệ: họ là những con “chuột sa chĩnh gạo” mà không hay ! Họ đã tìm thấy một con đường dẫn đến chân lý giải thoát và sự sống sung mãn trong Thiên Chúa tình yêu. Sống trong hạnh phúc tuyệt vời như thế, họ còn đòi hỏi gì nữa ?! Chúa là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Người là mạc khải trọn vẹn về bản chất Thiên Chúa. Cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, chân lý và thực tại ngừng lại nơi Ðức Kitô (x. Cl 1:15; Dt 1:1-4).
Nhờ quyền lực Thần Khí, các môn đệ sẽ hoạt động để đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa ra khỏi lãnh thổ Palestine và đưa vào thế giới. Mọi người sẽ mãn nguyện vì “Chúa Giêsu là con đường dẫn tới Chúa Cha. Như chân lý, Người đến thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa. Như sự sống, Người nối kết sự sống Thiên Chúa với sự sống chúng ta, từ đây cho tới muôn đời.”[2] Nhờ đó, con người tìm được một lối sống hạnh phúc.
QUYỀN NĂNG
Chúa Giêsu là con đường đưa vào chiều sâu thẳm thẳm của Nước Trời hay dẫn tới cuộc hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Mọi người sẽ mãn nguyện vì sẽ “khám phá ý nghĩa sau cùng của cuộc đời trong Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng nhất qua Mạc khải của Con Thiên Chúa làm người. Thực vậy, Tin mừng ‘loan báo và công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa. Tin Mừng không chấp nhận mọi hình thức nô lệ tội lỗi. Tin mừng tuyệt đối kính trọng phẩm giá và tự do lựa chọn của lương tâm. Tin Mừng không ngừng khuyến khích con người dùng tài năng phục vụ Thiên Chúa và con người. Sau cùng, Tin Mừng thúc đẩy mỗi người yêu thương mọi người cách quảng đại.’”[3]
Bao giờ những giấc mơ đó trở thành sự thật ? Con người quá bị giới hạn đến nỗi nhiều khi không thể thực hiện những dự định nhỏ nhất. Muốn thoát khỏi giới hạn đó, con người cần phải gia nhập gia đình Thiên Chúa để “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:20) Ðó là cuộc hiệp thông đem lại sức mạnh kỳ diệu cho những ai muốn làm cuộc cách mạng trần thế.
Cuộc cách mạng đó là giải thoát nhân loại khỏi những áp bức bất công. Nhân loại chỉ hoàn toàn tự do, khi các môn đệ Chúa Kitô biết “tin vào Thầy.”(Ga 14:12) Có tin vào Thày, họ mới “làm được những việc Thầy làm,” và “còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:12) Trong cuộc hiệp thông đó, con người có thể hành động hữu hiệu. Mối hiệp thông kỳ diệu đó có tên gọi là Thần Khí. Chính nhờ Thần Khí, Thiên Chúa hiện diện và gắn bó với chúng ta. Không có Vị Thiên Chúa hiệp thông đó, sự sống thần thiêng hay thiêng liêng không thể lưu chảy trong tâm hồn con người.
Không những đưa con người vào cuộc hiệp thông kỳ diệu với Thiên Chúa, Thần Khí còn nối kết con người với nhau. Hơn bao giờ, nhân loại cần Thần Khí để “hợp tác thực sự với nhau trên mức độ toàn cầu để có thể đạt tới công ích cho toàn thể nhân loại và cho các thế hệ tương lai.”[4] Không nhắm công ích, không thể giải quyết các vấn đề căn bản của nhân loại.
Muốn giải quyết những vấn đề căn bản đó, nhân loại không thể cậy dựa vào sức mạnh quân sự, kinh tế, nhưng cá nhân cần phải ý thức trách nhiệm đối với tự do. ÐGH Bênêđictô XVI lưu ý mọi người rằng tự do không phải chỉ là một hồng ân, nhưng cũng là lời “mời gọi cá nhân phải có tinh thần trách nhiệm.”[5] Ðiều đó đòi hỏi phải có thời gian kiên trì giáo dục quần chúng. Thực vậy, “muốn duy trì tự do, con người cần phải tập luyện nhân đức, tự kỷ luật, hy sinh cho công ích và ý thức trách nhiệm đối với những người kém may mắn. Tự do cũng đòi hỏi con người can đảm dấn thân vào đời sống công dân và đem những niềm tin và giá trị sâu thẳm nhất ra tranh luận công khai. Tóm lại, tự do mãi mãi mới mẻ. Ðó là một thách đố cho từng thế hệ, và vì công ích, mọi người phải nỗ lực đạt đến tự do.”[6]
Muốn có tự do, con người phải tôn trọng sự thật, vì chỉ sự thật mới có sức mạnh giải thoát (x. Ga 8:32). Thực vậy, “trong một thế giới không có sự thật, tự do đánh mất nền tảng, và nếu không có những giá trị thực sự, một nền dân chủ có thể mất chính linh hồn mình.”[7] ÐGH Bênêđictô XVI nhắc lại lời khẳng quyết tương tự của TT George Washington: “Tôn giáo và luân lý tiêu biểu cho ‘những hỗ trợ cần thiết’ giúp nền chính trị được hưng thịnh.”[8] Càng tránh né hay che đậy sự thật, con người càng bị sa lầy và lụn bại. Không có sự thật, không thể có tự do. Không có tự do, không thể phát triển.
Tự do là quyền căn bản nhất của con người. Trong buổi nói truyện với các nhà ngoại giao tại Liên Hiệp Quốc ngày 18.04.2008, ÐGH Bênêđictô XVI đã mạnh mẽ đề cao nhân quyền như một đường lối ngăn ngừa bạo động, khủng bố và chiến tranh. Người nói: “Cổ võ nhân quyền vẫn còn là chiến lược hữu hiệu để giảm bớt những bất bình đẳng giữa các quốc gia và các nhóm xã hội, và tăng cường an ninh.”[9] Càng chà đạp nhân quyền, càng tạo nhiều bất ổn trong xã hội. Những yếu tố kinh tế, chính trị, quân sự … không đủ để tạo nên công ích.
Hơn nữa, “những đòi hỏi của công ích tùy thuộc những hoàn cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử và liên hệ chặt chẽ với việc kính trọng và thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền căn bản của con người. Trên hết, những đòi hỏi này liên hệ tới cam kết thực thi hòa bình, tổ chức các quyền lực Quốc gia, một hệ thống pháp lý lành mạnh, việc bảo vệ môi trường, việc cung cấp những dịch vụ thiết yếu cho mọi người, một số trong những việc đó đồng thời là nhân quyền: thực phẩm, nhà cửa, việc làm, giáo dục, văn hóa, vận chuyển, việc chăm sóc cơ bản cho sức khỏe, tự do truyền thông và ngôn luận, việc bảo vệ tự do tôn giáo.”[10] Nhân quyền là một đòi hỏi khẩn thiết của công ích. Khi nhân quyền không được tôn trọng, quyền lợi quốc gia sẽ biến thành sức mạnh củng cố những tư lợi cá nhân hay bè phái. Chỉ khi đạt tới công ích, quyền lợi mọi người mới được tôn trọng. Nhân dân mới thoát khỏi cảnh lầm than. Mọi người thực sự vui hưởng tự do, dân chủ và hòa bình.
CON ÐƯỜNG SỐNG
Muốn đạt tới công ích, trước hết cần nhận định rõ về tình trạng thế giới hôm nay. Theo ÐGH Bênêđictô XVI, “nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang sống trong tình trạng căng thẳng và chiến tranh. Tuy nhiên, ngay cả những nơi không có thảm họa chiến tranh, cũng tràn lan những cảm giác sợ hãi và bất an. Hơn nữa, hiện tượng khủng bố toàn cầu làm cho người ta khó phân biệt hòa bình và chiến tranh, tác hại trầm trọng niềm hy vọng của nhân loại vào tương lai.”[11] Nhân loại đang lạc vào mê lộ kinh hồn.
Ðâu là con đường dẫn nhân loại thoát khỏi những bế tắc hôm nay ? “Làm cách nào đáp ứng những thử thách đó ? Làm sao chúng ta có thể nhận ra ‘các dấu chỉ thời đại’? Chắc chắn hành động phối hợp trên bình diện chính trị, kinh tế và pháp luật là điều cần thiết, nhưng, trước hết, cần cùng suy tư về mặt luân lý và tinh thần. Điều thìết yếu hơn nữa là xiển dương một ‘nền nhân bản mới’.”[12] Ðây là lúc nhân loại phải trở về với những giá trị tinh thần, chứ không phải chỉ có vật chất, để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc đích thực. Quả thế, ÐGH cảnh giác, chúng ta không thể hiểu “chủ nghĩa nhân bản mới” này chỉ thu gọn sự phát triển vào ‘sự lớn mạnh về kinh tế,’ nhưng phải gồm chiều kích luân lý và tinh thần. Ðồng thời, một nền nhân bản toàn diện đích thực cũng phải biểu lộ tình đoàn kết.”[13] Nói khác, chỉ có thể hạnh phúc và bình an nếu biết quan tâm đển những giá trị siêu việt và sống trong tình liên đới với người khác.
Vào thực tế, ÐGH Bênêđictô quả quyết: “Hoà bình đích thực và lâu dài là chuyện không tưởng nếu không phát triển từng cá nhân và cả các dân tộc.” Thế nhưng, “suy tư về việc cắt giảm vũ khí là điều không thể hiểu nổi, nếu trước nhất chúng ta không loại trừ bạo lực tận gốc rễ, nếu trước tiên con người không cương quyết đi tìm hòa bình, tìm điều thiện hảo và công lý.”[14] Ðây là một trách nhiệm nặng nề và khó thực hiện, vì con người chỉ thấy cái lợi trước mắt và không thấy hết những liên hệ tinh thần trong công cuộc xây dựng cộng đồng nhân loại. Những ai đang nắm quyền trong xã hội đạo đời cần phải ý thức rằng “quyền con người được hưởng hòa bình là điều thiết yếu và không thể bị tước đoạt, và sự thực thi tất cả các quyền khác đều tùy thuộc vào quyền này.”[15]
Trong cuộc tông du Hoa kỳ, sau khi đọc kinh chiều với các giám mục ÐGH Bênêđictô XVI ban huấn từ: « Trong một xã hội đề cao tự do cá nhân và sự tự lập, không dễ gì thấy sự lệ thuộc và trách nhiệm chúng ta đối với tha nhân. Sự chú trọng vào cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng cả đến Giáo Hội (x Spe Salvei, 13-15), khiến nó phát sinh một loại đạo đức quá chú trọng tới liên hệ riêng tư với Thiên Chúa, mà quên mất tiếng gọi trở nên thành phần của một cộng đồng cứu độ. Nhưng ngay từ đầu, Thiên Chúa thấy rằng « con người ở một mình không tốt. » (St 2: 18) Chúng ta được dựng nên như những sinh vật có tính xã hội, chỉ hoàn chỉnh trong tình yêu - đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu thực sự chú tâm đến Chúa là nguồn vui, chúng ta cần phải hành động như những thành phần dân Chúa (x. Spe Salvi).»[16]
Quả thực, nếu không gột bỏ tính ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa ra khỏi văn hóa, chúng ta phải đối đầu với rất nhiều thảm họa cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Không biết từ bao giờ, nền văn hóa Việt Nam đã nhuốm đầy màu sắc tư kỷ. Biết bao công ích đã bị tiêu hủy trong nền văn hóa chúng ta ! Biết bao giá trị tinh thần phải hy sinh vì nền văn hóa còn nhuốm đầy mùi vật chất. Ðã đến lúc cần lên kế hoạch Phúc âm hóa văn hóa Việt Nam. Nếu không, đợi đến bao giờ chúng ta mới bắt đầu làm cho Tin Mừng nhập cuộc vào đời sống của dân tộc chúng ta ? Nếu mỗi Kitô hữu Việt Nam tích cực sống đạo hơn một chút, nền văn hóa dân tộc sẽ mau được thanh tẩy khỏi những vết nhơ do nền văn hóa tư kỷ và vô thần gây nên.
Chào mừng ÐGH Bênêđictô XVI đến Hoa kỳ tông du, TT Bush phát biểu: “Chúng tôi cần sứ điệp của ngài để phi bác thuyết tương đối độc tôn và hướng theo một nền văn hóa của công lý và sự thật. Trong một thế giới có một số người coi tự do chỉ là quyền làm bất cứ điều gì theo ý mình, chúng tôi cần ngài công bố cho mọi người sứ điệp, tự do đích thực đòi chúng ta không chỉ sống tự do cho mình mà thôi.”[17] Sau cuộc đàm đạo với ÐGH, chắc TT Bush thấy ÐGH đáp ứng được niềm mong đợi của ông.
Tóm lại, nhân loại đang tìm một con đường sống tự do. Hơn ai hết, Chúa Kitô là con đường dẫn chúng ta đến cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa và đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mới có thể tìm được những giá trị tinh thần đích thực và cần thiết để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay và ngày mai.
Lạy Chúa, giữa muôn bế tắc trong cuộc sống hôm nay, xin mạc khải cho chúng con thấy rõ Chúa Giêsu « là con đường, sự thật và sự sống, » để chúng con sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc và bình an. Amen.
20.04.2008
(Ga 14:1-12)
Trong sứ điệp gởi cho người Công giáo và dân chúng Hoa Kỳ, ÐGH Bênêđictô XVI viết: « Cùng với các Giám mục, tôi chọn chủ đề 3 chữ đơn giản nhưng thiết yếu cho cuộc tông du: «Christ Our Hope.» (Ðức Kitô, Niềm Hy vọng chúng ta.) Theo chân các vị tiền nhiệm đáng kính, Ðức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tôi sẽ đến Hiệp Chủng Quốc lần đầu tiên với tư cách Giáo hoàng, để công bố chân lý vĩ đại này: Chúa Giêsu Kitô là niềm hy vọng cho mọi người thuộc mọi ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa và hoàn cảnh xã hội.»[1]
Ðâu là niềm hy vọng lớn lao nhất của nhân loại nếu không phải tự do ? Làm sao có tự do đích thực, nếu Chúa Giêsu không chết trên thập giá. Quả thực,“chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1) Khi xuống trần gian, Chúa Giêsu đã tự xưng là con đường dẫn đến sự thật và sự sống tự do trong Chúa Cha. Chính vì thế mà Người trở thành niềm hy vọng chúng ta.
CHIỀU SÂU NƯỚC TRỜI
Sống giữa trần gian, Chúa Giêsu vẫn còn là một ẩn số, ngay cả với các môn đệ. Dù sau khi tự mạc khải vừa là cứu cánh và vừa là phương tiện giúp con người tới Chúa Cha, Người vẫn còn là một mầu nhiệm đối với các ông. Bằng chứng, Người giải thích mãi các ông vẫn chưa nhận ra sự thật về Người. Một phần cũng vì những lời mạc khải có phần trừu tượng. Một phần vì những mầu nhiệm quá ẩn sâu trong Chúa Cha.
Nhưng nhờ thời gian chung sống với Chúa, các môn đệ nhận ra phần nào sự thật về Thày. Chắc chắn phải đợi Thần Khí ngự xuống, các ông mới được mạc khải hoàn toàn. Dầu thế, Chúa không muốn các ông quá lo lắng về số phận ngày mai …
Dù vắng bóng Thày, cuộc đời vẫn không ngừng trôi. Bởi thế, các môn đệ cần xác định rõ phương hướng và tỉnh thức trước những âm mưu đen tối của kẻ thù. Dù đang trong giai đoạn nào, họ vẫn luôn là lữ khách trên trần gian. Họ đang đi trên con đường dẫn về nhà Cha hay Nước Thiên Chúa. Con đường đó chính là Ðức Kitô (x. Ga 14:6). Ngoài con đường đó, họ không thể sống tự do, hạnh phúc và bình an. Chắc chắn đó là con đường giải thoát, vì Người là chân lý. Theo con đường đó, họ không thể bị lầm lạc. Hơn nữa, họ sẽ mãn nguyện khi “biết” và “thấy” Chúa Cha nơi Chúa Con. Như thế, con đường đó sẽ dẫn họ vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Còn gì hạnh phúc hơn !
Con đường đó sẽ bảo đảm cho họ một cuộc sống bình an, vì Người là Ðấng Công Chính (x. Cv 3:14). Người sẽ công chính hóa bất cứ ai bước vào con đường của Người. Ðó là con đường công lý dẫn đến bình an cho muôn người. Muốn có công lý, cần tôn trọng tha nhân với những khác biệt của họ, vì “trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở.” (Ga 14:2) Nói khác, trong Nhà Cha có nhiều khác biệt nhưng vẫn hiệp nhất. Không tôn trọng sự khác biệt ấy, không thể sống trong Nhà Cha.
Chính vì không tôn trọng sự khác biệt của nhau, nên mới có cảnh “các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” (Cv 6:1) Thật là bất công ! Nếu cảnh bất công này kéo dài, cộng đoàn tiên khởi sẽ mất bình an. Công cuộc truyền giáo sẽ bị ảnh hưởng. Rất may sự phân công rõ ràng đã tháo gỡ bế tắc. Tất cả đều được giải quyết dựa trên quyền tối ưu của “việc rao giảng Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2) Nhờ Lời Chúa, Giáo hội mới có đủ sáng suốt để trình bày những khác biệt một cách một cách trung thực và tìm cách giải quyết những bất đồng mà vẫn tôn trọng mọi người.
Ðó là con đường đầy ắp tình Chúa và tình người. Ði vào con đường đó, Giáo hội đã tìm kiếm được chân lý, công lý, sự sống, tự do và bình an. Ðó là “những việc lớn hơn nữa” do cộng đoàn những người “tin vào Thày” (Ga 14:12) thực hiện, đúng như Chúa hứa. Còn niềm vui nào lớn hơn ! Niềm vui ấy thật sung mãn vì Thiên Chúa “đã gọi anh em. .. vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.”(1 Pr 2:9)
Ánh sáng diệu huyền đó chỉ chiếu soi những ai tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu đã chết và sống lại vì họ. Chúa đã trải qua trước tiên để mở đường khai lối cho những người em nhân loại, để “dọn chỗ” (Ga 14:2) cho họ trong nhà Cha. Nhà Cha chính là trái tim Chúa. Quả thế, Chúa nói rõ: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.” (Ga 14:11) Ðó là việc cư ngụ trong trái tim, sự hiện diện sâu xa, sự hiệp thông với tình yêu vĩnh cửu là chính Thiên Chúa.
Tình yêu sung mãn đó đã hiện rõ trên dung nhan Chúa Kitô. Không cần đợi thấy Chúa Cha mới mãn nguyện vì “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Khi nhắc bảy lần câu văn đơn sơ đó trong một đoạn văn ngắn, Chúa có ý cảnh giác các môn đệ: họ là những con “chuột sa chĩnh gạo” mà không hay ! Họ đã tìm thấy một con đường dẫn đến chân lý giải thoát và sự sống sung mãn trong Thiên Chúa tình yêu. Sống trong hạnh phúc tuyệt vời như thế, họ còn đòi hỏi gì nữa ?! Chúa là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Người là mạc khải trọn vẹn về bản chất Thiên Chúa. Cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, chân lý và thực tại ngừng lại nơi Ðức Kitô (x. Cl 1:15; Dt 1:1-4).
Nhờ quyền lực Thần Khí, các môn đệ sẽ hoạt động để đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa ra khỏi lãnh thổ Palestine và đưa vào thế giới. Mọi người sẽ mãn nguyện vì “Chúa Giêsu là con đường dẫn tới Chúa Cha. Như chân lý, Người đến thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa. Như sự sống, Người nối kết sự sống Thiên Chúa với sự sống chúng ta, từ đây cho tới muôn đời.”[2] Nhờ đó, con người tìm được một lối sống hạnh phúc.
QUYỀN NĂNG
Chúa Giêsu là con đường đưa vào chiều sâu thẳm thẳm của Nước Trời hay dẫn tới cuộc hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Mọi người sẽ mãn nguyện vì sẽ “khám phá ý nghĩa sau cùng của cuộc đời trong Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng nhất qua Mạc khải của Con Thiên Chúa làm người. Thực vậy, Tin mừng ‘loan báo và công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa. Tin Mừng không chấp nhận mọi hình thức nô lệ tội lỗi. Tin mừng tuyệt đối kính trọng phẩm giá và tự do lựa chọn của lương tâm. Tin Mừng không ngừng khuyến khích con người dùng tài năng phục vụ Thiên Chúa và con người. Sau cùng, Tin Mừng thúc đẩy mỗi người yêu thương mọi người cách quảng đại.’”[3]
Bao giờ những giấc mơ đó trở thành sự thật ? Con người quá bị giới hạn đến nỗi nhiều khi không thể thực hiện những dự định nhỏ nhất. Muốn thoát khỏi giới hạn đó, con người cần phải gia nhập gia đình Thiên Chúa để “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:20) Ðó là cuộc hiệp thông đem lại sức mạnh kỳ diệu cho những ai muốn làm cuộc cách mạng trần thế.
Cuộc cách mạng đó là giải thoát nhân loại khỏi những áp bức bất công. Nhân loại chỉ hoàn toàn tự do, khi các môn đệ Chúa Kitô biết “tin vào Thầy.”(Ga 14:12) Có tin vào Thày, họ mới “làm được những việc Thầy làm,” và “còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:12) Trong cuộc hiệp thông đó, con người có thể hành động hữu hiệu. Mối hiệp thông kỳ diệu đó có tên gọi là Thần Khí. Chính nhờ Thần Khí, Thiên Chúa hiện diện và gắn bó với chúng ta. Không có Vị Thiên Chúa hiệp thông đó, sự sống thần thiêng hay thiêng liêng không thể lưu chảy trong tâm hồn con người.
Không những đưa con người vào cuộc hiệp thông kỳ diệu với Thiên Chúa, Thần Khí còn nối kết con người với nhau. Hơn bao giờ, nhân loại cần Thần Khí để “hợp tác thực sự với nhau trên mức độ toàn cầu để có thể đạt tới công ích cho toàn thể nhân loại và cho các thế hệ tương lai.”[4] Không nhắm công ích, không thể giải quyết các vấn đề căn bản của nhân loại.
Muốn giải quyết những vấn đề căn bản đó, nhân loại không thể cậy dựa vào sức mạnh quân sự, kinh tế, nhưng cá nhân cần phải ý thức trách nhiệm đối với tự do. ÐGH Bênêđictô XVI lưu ý mọi người rằng tự do không phải chỉ là một hồng ân, nhưng cũng là lời “mời gọi cá nhân phải có tinh thần trách nhiệm.”[5] Ðiều đó đòi hỏi phải có thời gian kiên trì giáo dục quần chúng. Thực vậy, “muốn duy trì tự do, con người cần phải tập luyện nhân đức, tự kỷ luật, hy sinh cho công ích và ý thức trách nhiệm đối với những người kém may mắn. Tự do cũng đòi hỏi con người can đảm dấn thân vào đời sống công dân và đem những niềm tin và giá trị sâu thẳm nhất ra tranh luận công khai. Tóm lại, tự do mãi mãi mới mẻ. Ðó là một thách đố cho từng thế hệ, và vì công ích, mọi người phải nỗ lực đạt đến tự do.”[6]
Muốn có tự do, con người phải tôn trọng sự thật, vì chỉ sự thật mới có sức mạnh giải thoát (x. Ga 8:32). Thực vậy, “trong một thế giới không có sự thật, tự do đánh mất nền tảng, và nếu không có những giá trị thực sự, một nền dân chủ có thể mất chính linh hồn mình.”[7] ÐGH Bênêđictô XVI nhắc lại lời khẳng quyết tương tự của TT George Washington: “Tôn giáo và luân lý tiêu biểu cho ‘những hỗ trợ cần thiết’ giúp nền chính trị được hưng thịnh.”[8] Càng tránh né hay che đậy sự thật, con người càng bị sa lầy và lụn bại. Không có sự thật, không thể có tự do. Không có tự do, không thể phát triển.
Tự do là quyền căn bản nhất của con người. Trong buổi nói truyện với các nhà ngoại giao tại Liên Hiệp Quốc ngày 18.04.2008, ÐGH Bênêđictô XVI đã mạnh mẽ đề cao nhân quyền như một đường lối ngăn ngừa bạo động, khủng bố và chiến tranh. Người nói: “Cổ võ nhân quyền vẫn còn là chiến lược hữu hiệu để giảm bớt những bất bình đẳng giữa các quốc gia và các nhóm xã hội, và tăng cường an ninh.”[9] Càng chà đạp nhân quyền, càng tạo nhiều bất ổn trong xã hội. Những yếu tố kinh tế, chính trị, quân sự … không đủ để tạo nên công ích.
Hơn nữa, “những đòi hỏi của công ích tùy thuộc những hoàn cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử và liên hệ chặt chẽ với việc kính trọng và thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền căn bản của con người. Trên hết, những đòi hỏi này liên hệ tới cam kết thực thi hòa bình, tổ chức các quyền lực Quốc gia, một hệ thống pháp lý lành mạnh, việc bảo vệ môi trường, việc cung cấp những dịch vụ thiết yếu cho mọi người, một số trong những việc đó đồng thời là nhân quyền: thực phẩm, nhà cửa, việc làm, giáo dục, văn hóa, vận chuyển, việc chăm sóc cơ bản cho sức khỏe, tự do truyền thông và ngôn luận, việc bảo vệ tự do tôn giáo.”[10] Nhân quyền là một đòi hỏi khẩn thiết của công ích. Khi nhân quyền không được tôn trọng, quyền lợi quốc gia sẽ biến thành sức mạnh củng cố những tư lợi cá nhân hay bè phái. Chỉ khi đạt tới công ích, quyền lợi mọi người mới được tôn trọng. Nhân dân mới thoát khỏi cảnh lầm than. Mọi người thực sự vui hưởng tự do, dân chủ và hòa bình.
CON ÐƯỜNG SỐNG
Muốn đạt tới công ích, trước hết cần nhận định rõ về tình trạng thế giới hôm nay. Theo ÐGH Bênêđictô XVI, “nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang sống trong tình trạng căng thẳng và chiến tranh. Tuy nhiên, ngay cả những nơi không có thảm họa chiến tranh, cũng tràn lan những cảm giác sợ hãi và bất an. Hơn nữa, hiện tượng khủng bố toàn cầu làm cho người ta khó phân biệt hòa bình và chiến tranh, tác hại trầm trọng niềm hy vọng của nhân loại vào tương lai.”[11] Nhân loại đang lạc vào mê lộ kinh hồn.
Ðâu là con đường dẫn nhân loại thoát khỏi những bế tắc hôm nay ? “Làm cách nào đáp ứng những thử thách đó ? Làm sao chúng ta có thể nhận ra ‘các dấu chỉ thời đại’? Chắc chắn hành động phối hợp trên bình diện chính trị, kinh tế và pháp luật là điều cần thiết, nhưng, trước hết, cần cùng suy tư về mặt luân lý và tinh thần. Điều thìết yếu hơn nữa là xiển dương một ‘nền nhân bản mới’.”[12] Ðây là lúc nhân loại phải trở về với những giá trị tinh thần, chứ không phải chỉ có vật chất, để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc đích thực. Quả thế, ÐGH cảnh giác, chúng ta không thể hiểu “chủ nghĩa nhân bản mới” này chỉ thu gọn sự phát triển vào ‘sự lớn mạnh về kinh tế,’ nhưng phải gồm chiều kích luân lý và tinh thần. Ðồng thời, một nền nhân bản toàn diện đích thực cũng phải biểu lộ tình đoàn kết.”[13] Nói khác, chỉ có thể hạnh phúc và bình an nếu biết quan tâm đển những giá trị siêu việt và sống trong tình liên đới với người khác.
Vào thực tế, ÐGH Bênêđictô quả quyết: “Hoà bình đích thực và lâu dài là chuyện không tưởng nếu không phát triển từng cá nhân và cả các dân tộc.” Thế nhưng, “suy tư về việc cắt giảm vũ khí là điều không thể hiểu nổi, nếu trước nhất chúng ta không loại trừ bạo lực tận gốc rễ, nếu trước tiên con người không cương quyết đi tìm hòa bình, tìm điều thiện hảo và công lý.”[14] Ðây là một trách nhiệm nặng nề và khó thực hiện, vì con người chỉ thấy cái lợi trước mắt và không thấy hết những liên hệ tinh thần trong công cuộc xây dựng cộng đồng nhân loại. Những ai đang nắm quyền trong xã hội đạo đời cần phải ý thức rằng “quyền con người được hưởng hòa bình là điều thiết yếu và không thể bị tước đoạt, và sự thực thi tất cả các quyền khác đều tùy thuộc vào quyền này.”[15]
Trong cuộc tông du Hoa kỳ, sau khi đọc kinh chiều với các giám mục ÐGH Bênêđictô XVI ban huấn từ: « Trong một xã hội đề cao tự do cá nhân và sự tự lập, không dễ gì thấy sự lệ thuộc và trách nhiệm chúng ta đối với tha nhân. Sự chú trọng vào cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng cả đến Giáo Hội (x Spe Salvei, 13-15), khiến nó phát sinh một loại đạo đức quá chú trọng tới liên hệ riêng tư với Thiên Chúa, mà quên mất tiếng gọi trở nên thành phần của một cộng đồng cứu độ. Nhưng ngay từ đầu, Thiên Chúa thấy rằng « con người ở một mình không tốt. » (St 2: 18) Chúng ta được dựng nên như những sinh vật có tính xã hội, chỉ hoàn chỉnh trong tình yêu - đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu thực sự chú tâm đến Chúa là nguồn vui, chúng ta cần phải hành động như những thành phần dân Chúa (x. Spe Salvi).»[16]
Quả thực, nếu không gột bỏ tính ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa ra khỏi văn hóa, chúng ta phải đối đầu với rất nhiều thảm họa cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Không biết từ bao giờ, nền văn hóa Việt Nam đã nhuốm đầy màu sắc tư kỷ. Biết bao công ích đã bị tiêu hủy trong nền văn hóa chúng ta ! Biết bao giá trị tinh thần phải hy sinh vì nền văn hóa còn nhuốm đầy mùi vật chất. Ðã đến lúc cần lên kế hoạch Phúc âm hóa văn hóa Việt Nam. Nếu không, đợi đến bao giờ chúng ta mới bắt đầu làm cho Tin Mừng nhập cuộc vào đời sống của dân tộc chúng ta ? Nếu mỗi Kitô hữu Việt Nam tích cực sống đạo hơn một chút, nền văn hóa dân tộc sẽ mau được thanh tẩy khỏi những vết nhơ do nền văn hóa tư kỷ và vô thần gây nên.
Chào mừng ÐGH Bênêđictô XVI đến Hoa kỳ tông du, TT Bush phát biểu: “Chúng tôi cần sứ điệp của ngài để phi bác thuyết tương đối độc tôn và hướng theo một nền văn hóa của công lý và sự thật. Trong một thế giới có một số người coi tự do chỉ là quyền làm bất cứ điều gì theo ý mình, chúng tôi cần ngài công bố cho mọi người sứ điệp, tự do đích thực đòi chúng ta không chỉ sống tự do cho mình mà thôi.”[17] Sau cuộc đàm đạo với ÐGH, chắc TT Bush thấy ÐGH đáp ứng được niềm mong đợi của ông.
Tóm lại, nhân loại đang tìm một con đường sống tự do. Hơn ai hết, Chúa Kitô là con đường dẫn chúng ta đến cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa và đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mới có thể tìm được những giá trị tinh thần đích thực và cần thiết để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay và ngày mai.
Lạy Chúa, giữa muôn bế tắc trong cuộc sống hôm nay, xin mạc khải cho chúng con thấy rõ Chúa Giêsu « là con đường, sự thật và sự sống, » để chúng con sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc và bình an. Amen.
20.04.2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần
LM Nguyễn Vinh Gioang
08:58 20/04/2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (28)
271. Trái tim của mình, chúng ta phải hết sức trân trọng
Chúng ta đừng coi trái tim của mình như một trái banh, để rồi đưa qua đưa lại cho người nầy người nọ một cách vô tư.
Trái tim của mình, chúng ta phải hết sức trân trọng.
Trước hết, chúng ta hãy dâng trái tim của mình cho Chúa Giêsu để Ngài làm chủ trái tim của chúng ta.
Tiếp đến, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu thánh hoá và siêu nhiên hoá tất cả mọi tình cảm nằm trong trái tim của chúng ta.
Sau cùng, chúng ta hãy dùng trái tim của mình, trái tim đã được dâng cho Chúa Giêsu, trái tim đã được Chúa Giêsu thánh hoá và siêu nhiên hoá, để thi hành Luật Vàng của Đạo Chúa là mến Chúa hết lòng và yêu thương mọi người hết tình vì Chúa.
272. Của ăn tinh thần và của ăn vật chất
Của ăn tinh thần và của ăn vật chất đều cần thiết, nhưng theo lời Chúa dạy, của ăn tinh thần là cần thiết hơn.
Con người không phải chỉ sống nhờ của ăn vật chất như con vật. Con người còn sống bằng của ăn tinh thần là tư tưởng. Và nhiều khi tư tưởng bên trong lại còn cần thiết hơn của ăn bên ngoài.
Người gặp cảnh buồn chán thất vọng, đôi khi không thiết gì đến ăn uống, nhưng nhờ có những tư tưởng lạc quan và thanh cao, họ có thể dễ dàng lướt thắng những nổi buồn chán và thất vọng của mình.
Người biếng nhác buông xuôi mọi công việc, nhưng những tư tưởng hăng hái và phục vụ có thể làm họ trở thành siêng năng.
Người truỵ lạc vùi thân trong tội lỗi, có thể trong một lúc thinh lặng nào đó, nhờ ơn Chúa giúp, những tư tưởng cao đẹp có thể làm lại cuộc đời của họ.
273. Luôn hướng về lý tưởng với bất cứ giá nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào
Chúng ta say mê và theo dõi lý tưởng của mình trong một vài ngày, trong một vài giờ thì dễ, nhưng nếu phải theo dõi lý tưởng của mình trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi.
Vì sao? Vì thực tế nhiều khi đầy phủ phàng, đầy chua chát mà một tâm hồn anh dũng đến đâu mặc lòng cũng có đôi lúc ngập ngừng chùn bước.
Vì thế, chúng ta phải luôn luôn tìm đủ mọi cách để nhen lại ngọn lửa hăng hái trong lòng mình.
Lý tưởng đầy cao đẹp của mình, chắc chắn là chúng ta không bao giờ đạt được hoàn toàn. Tuy thế, chúng ta không bao giờ được phép ngã lòng và chúng ta phải luôn cố gắng tiến tới lý tưởng của mình.
274. Thách đố về đời sống thiêng liêng của tu sĩ công giáo
Thách đố về đời sống thiêng liêng là thách đố chính yếu và quan trọng nhất đối với tu sĩ công giáo vì sự sống thiêng liêng là quả tim của đời sống thánh hiến của họ: không có sự sống thiêng liêng nầy, tu sĩ công giáo không thể nào có đời sống thánh hiến chân chính và chân thật được.
Đời sống thiêng liêng nầy được diễn tả ra bằng sự cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, sống đời nội tâm kết hiệp với Chúa, vâng phục luật dòng, tuân giữ ba lời khấn một cách trung thành, trọn vẹn và vui tươi.
Chính đời sống thiêng liêng nầy của tu sĩ là điều ích lợi nhất cho Giáo Hội và là nguồn gốc của mọi hoạt động tông đồ đắc lực của họ.
275.Chúa yêu thương chúng ta vô bờ vô bến
Vì yêu thương chúng ta vô cùng, Chúa đã dựng nên mọi sự cho chúng ta dùng: ngày sáng để chúng ta làm việc, đêm tối để chúng ta nghỉ ngơi; có khí để chúng ta thở kẻo chết; có nước để chúng ta uống cho được khoẻ mạnh; có nắng, có mưa, có gió để mùa màng được tươi tốt, đem lại cơm bánh cho chúng ta; có thú vật trên đất, có tôm cá dưới nước để làm của ăn cho chúng ta.
Thật Chúa nhân từ yêu thương chúng ta vô bờ vô bến.
276. Mọi sự trên đời nầy nào có ích gì?
Cho dù ta giàu có vô song, tiền rừng bạc bể, vàng bạc chất đống, cũng vô ích! Tiền bạc Giuđa đã được, có sinh ích gì cho ông ta đâu?
Cho dù ta hưởng được mọi sung sướng trên mặt đất nầy, cũng vô ích! Người giàu sang trong Tin Mừng kể lại, đêm ngày yến tiệc linh đình, nhưng khi chêt, số phận lại bất hạnh, khác xa số phận hạnh phúc của người nghèo khó Ladarô thường ngồi trước cửa của ông để lượm những mẩu bánh vụn rơi xuống.
Cho dù ta được những chức tước cao quý trên mặt đất nầy, cũng vô ích vì chúng không giúp ta được rỗi linh hồn.
277. Đời đáng chán hay không đáng chán?
Xét một cách nông cạn, thì đời đáng chán: đời quá vắn vỏi (trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì), đời quá đau khổ (khổ phần xác: bệnh tật, già yếu, đói khát, giặc giã, …; khổ phần hồn: buồn phiền, tê tái, thất vọng, cô đơn, …)
Nhưng xét một cách sâu xa thì đời không đáng chán: đời chỉ là nơi tạm gởi (sinh ký tử quy, quê hương thật của chúng ta là Quê Trời), đời là chiến trường (đánh trận ma quỷ, xác thịt, thế gian để lập công cho đời sau), đời là nơi đầy an ủi (Chúa Giêsu là bạn thân nhất của chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời nầy, chúng ta có Mẹ Maria vô vàn mến thương; chúng ta có Giáo Hội luôn thay mặt Chúa, săn sóc chúng ta từ khi nằm trong nôi cho đến khi xuôi tay trong quan tài….)
278. Hãy để cho Chúa lo
Vô số lo lắng tấn công chúng ta ngày đêm: lo ăn, lo mặc, lo cho có tiền, lo cho có sức khoẻ, lo già, lo chết, ….
Người nào cũng lo: con nít lo, người lớn lo, đàn ông lo, đàn bà lo, ai làm to cũng lo, dân ngu khu đen cũng lo, …
Sự lo lắng làm khô héo cuộc đời chúng ta, cướp mất sự an vui, làm chúng ta quên ăn mất ngủ.
Để tránh lo, nhiều người trong chúng ta đi coi bói, đi xem tướng số, lao mình vào những cuộc giải trí giải sầu.
Nhưng cho dù chúng ta có uống thúôc ngủ để quên lo, thì những nổi lo lắng cũng thức dậy một lượt với chúng ta.
Để hết lo, chúng ta chỉ có một cách: chạy đến với Chúa Giêsu và để cho Ngài lo: “Lòng các con đừng xao xuyến lo âu. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.”.
279. Sứ mạng của người nữ
Sứ mạng của người nữ là tạo nên một tổ ấm, một nơi đầy yêu thương, một nơi đầy dịu dàng, an vui. Bởi thế, thiếu sự hiện diện của người nữ, đời sống sẽ rất khô khan và buồn tẻ.
Thượng Đế đã dựng nên người nữ đầy dịu dàng, nhân ái, vui tươi. Họ là ánh đèn soi cho cuộc đời đen tối, là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời lạnh lẽo, là giòng nước đem lại tươi mát cho cuộc đời.
280. Người làm cha trong gia đình phải là một nhà giáo dục gương mẫu
Người làm cha trong gia đình không phải là một kẻ đi làm thuê để lấy tiền đem về nuôi gia đình.
Người làm cha trong gia đình không phải là một ông thầy đem các kiến thức của mình ra để đổi lấy tiền đem về nuôi gia đình.
Nhưng trước hết và trên hết, người làm cha trong gia đình phải là một nhà giáo dục gương mẫu.
271. Trái tim của mình, chúng ta phải hết sức trân trọng
Chúng ta đừng coi trái tim của mình như một trái banh, để rồi đưa qua đưa lại cho người nầy người nọ một cách vô tư.
Trái tim của mình, chúng ta phải hết sức trân trọng.
Trước hết, chúng ta hãy dâng trái tim của mình cho Chúa Giêsu để Ngài làm chủ trái tim của chúng ta.
Tiếp đến, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu thánh hoá và siêu nhiên hoá tất cả mọi tình cảm nằm trong trái tim của chúng ta.
Sau cùng, chúng ta hãy dùng trái tim của mình, trái tim đã được dâng cho Chúa Giêsu, trái tim đã được Chúa Giêsu thánh hoá và siêu nhiên hoá, để thi hành Luật Vàng của Đạo Chúa là mến Chúa hết lòng và yêu thương mọi người hết tình vì Chúa.
272. Của ăn tinh thần và của ăn vật chất
Của ăn tinh thần và của ăn vật chất đều cần thiết, nhưng theo lời Chúa dạy, của ăn tinh thần là cần thiết hơn.
Con người không phải chỉ sống nhờ của ăn vật chất như con vật. Con người còn sống bằng của ăn tinh thần là tư tưởng. Và nhiều khi tư tưởng bên trong lại còn cần thiết hơn của ăn bên ngoài.
Người gặp cảnh buồn chán thất vọng, đôi khi không thiết gì đến ăn uống, nhưng nhờ có những tư tưởng lạc quan và thanh cao, họ có thể dễ dàng lướt thắng những nổi buồn chán và thất vọng của mình.
Người biếng nhác buông xuôi mọi công việc, nhưng những tư tưởng hăng hái và phục vụ có thể làm họ trở thành siêng năng.
Người truỵ lạc vùi thân trong tội lỗi, có thể trong một lúc thinh lặng nào đó, nhờ ơn Chúa giúp, những tư tưởng cao đẹp có thể làm lại cuộc đời của họ.
273. Luôn hướng về lý tưởng với bất cứ giá nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào
Chúng ta say mê và theo dõi lý tưởng của mình trong một vài ngày, trong một vài giờ thì dễ, nhưng nếu phải theo dõi lý tưởng của mình trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi.
Vì sao? Vì thực tế nhiều khi đầy phủ phàng, đầy chua chát mà một tâm hồn anh dũng đến đâu mặc lòng cũng có đôi lúc ngập ngừng chùn bước.
Vì thế, chúng ta phải luôn luôn tìm đủ mọi cách để nhen lại ngọn lửa hăng hái trong lòng mình.
Lý tưởng đầy cao đẹp của mình, chắc chắn là chúng ta không bao giờ đạt được hoàn toàn. Tuy thế, chúng ta không bao giờ được phép ngã lòng và chúng ta phải luôn cố gắng tiến tới lý tưởng của mình.
274. Thách đố về đời sống thiêng liêng của tu sĩ công giáo
Thách đố về đời sống thiêng liêng là thách đố chính yếu và quan trọng nhất đối với tu sĩ công giáo vì sự sống thiêng liêng là quả tim của đời sống thánh hiến của họ: không có sự sống thiêng liêng nầy, tu sĩ công giáo không thể nào có đời sống thánh hiến chân chính và chân thật được.
Đời sống thiêng liêng nầy được diễn tả ra bằng sự cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, sống đời nội tâm kết hiệp với Chúa, vâng phục luật dòng, tuân giữ ba lời khấn một cách trung thành, trọn vẹn và vui tươi.
Chính đời sống thiêng liêng nầy của tu sĩ là điều ích lợi nhất cho Giáo Hội và là nguồn gốc của mọi hoạt động tông đồ đắc lực của họ.
275.Chúa yêu thương chúng ta vô bờ vô bến
Vì yêu thương chúng ta vô cùng, Chúa đã dựng nên mọi sự cho chúng ta dùng: ngày sáng để chúng ta làm việc, đêm tối để chúng ta nghỉ ngơi; có khí để chúng ta thở kẻo chết; có nước để chúng ta uống cho được khoẻ mạnh; có nắng, có mưa, có gió để mùa màng được tươi tốt, đem lại cơm bánh cho chúng ta; có thú vật trên đất, có tôm cá dưới nước để làm của ăn cho chúng ta.
Thật Chúa nhân từ yêu thương chúng ta vô bờ vô bến.
276. Mọi sự trên đời nầy nào có ích gì?
Cho dù ta giàu có vô song, tiền rừng bạc bể, vàng bạc chất đống, cũng vô ích! Tiền bạc Giuđa đã được, có sinh ích gì cho ông ta đâu?
Cho dù ta hưởng được mọi sung sướng trên mặt đất nầy, cũng vô ích! Người giàu sang trong Tin Mừng kể lại, đêm ngày yến tiệc linh đình, nhưng khi chêt, số phận lại bất hạnh, khác xa số phận hạnh phúc của người nghèo khó Ladarô thường ngồi trước cửa của ông để lượm những mẩu bánh vụn rơi xuống.
Cho dù ta được những chức tước cao quý trên mặt đất nầy, cũng vô ích vì chúng không giúp ta được rỗi linh hồn.
277. Đời đáng chán hay không đáng chán?
Xét một cách nông cạn, thì đời đáng chán: đời quá vắn vỏi (trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì), đời quá đau khổ (khổ phần xác: bệnh tật, già yếu, đói khát, giặc giã, …; khổ phần hồn: buồn phiền, tê tái, thất vọng, cô đơn, …)
Nhưng xét một cách sâu xa thì đời không đáng chán: đời chỉ là nơi tạm gởi (sinh ký tử quy, quê hương thật của chúng ta là Quê Trời), đời là chiến trường (đánh trận ma quỷ, xác thịt, thế gian để lập công cho đời sau), đời là nơi đầy an ủi (Chúa Giêsu là bạn thân nhất của chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời nầy, chúng ta có Mẹ Maria vô vàn mến thương; chúng ta có Giáo Hội luôn thay mặt Chúa, săn sóc chúng ta từ khi nằm trong nôi cho đến khi xuôi tay trong quan tài….)
278. Hãy để cho Chúa lo
Vô số lo lắng tấn công chúng ta ngày đêm: lo ăn, lo mặc, lo cho có tiền, lo cho có sức khoẻ, lo già, lo chết, ….
Người nào cũng lo: con nít lo, người lớn lo, đàn ông lo, đàn bà lo, ai làm to cũng lo, dân ngu khu đen cũng lo, …
Sự lo lắng làm khô héo cuộc đời chúng ta, cướp mất sự an vui, làm chúng ta quên ăn mất ngủ.
Để tránh lo, nhiều người trong chúng ta đi coi bói, đi xem tướng số, lao mình vào những cuộc giải trí giải sầu.
Nhưng cho dù chúng ta có uống thúôc ngủ để quên lo, thì những nổi lo lắng cũng thức dậy một lượt với chúng ta.
Để hết lo, chúng ta chỉ có một cách: chạy đến với Chúa Giêsu và để cho Ngài lo: “Lòng các con đừng xao xuyến lo âu. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.”.
279. Sứ mạng của người nữ
Sứ mạng của người nữ là tạo nên một tổ ấm, một nơi đầy yêu thương, một nơi đầy dịu dàng, an vui. Bởi thế, thiếu sự hiện diện của người nữ, đời sống sẽ rất khô khan và buồn tẻ.
Thượng Đế đã dựng nên người nữ đầy dịu dàng, nhân ái, vui tươi. Họ là ánh đèn soi cho cuộc đời đen tối, là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời lạnh lẽo, là giòng nước đem lại tươi mát cho cuộc đời.
280. Người làm cha trong gia đình phải là một nhà giáo dục gương mẫu
Người làm cha trong gia đình không phải là một kẻ đi làm thuê để lấy tiền đem về nuôi gia đình.
Người làm cha trong gia đình không phải là một ông thầy đem các kiến thức của mình ra để đổi lấy tiền đem về nuôi gia đình.
Nhưng trước hết và trên hết, người làm cha trong gia đình phải là một nhà giáo dục gương mẫu.
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:55 20/04/2008
CON CÁO CHIA BÁNH
Hai anh em gấu con đang tranh nhau một cái bánh, gấu em nói: “Mau đưa cho em, cái bánh là do em nhìn thấy trước.” Gấu anh nói: “Không đưa, anh thấy nó trước tiên.”
- “Đưa đây.”
- “Không đưa.”
Hai anh em giữ chặt cái bánh không thả ra.
Lúc ấy, thím cáo lắc la lắc lư đi ngang qua đó, cười híp mắt nói: “Tụi bây đang nhặt cái gì đó ?” hai anh em tranh nhau nói người này lấy bánh của người kia.
Thím cáo vừa nhìn thấy rán mỡ màu vàng óng ánh của cái bánh thì thèm chảy nước miếng, miệng bà ta nói ngọt xớt: “Cái này dễ làm mà, để thím giúp các cháu chia hai phần lớn nhỏ bằng nhau nhé !”
Gấu anh lấy cái bánh đưa cho thím cáo, nhưng bà ta lại cố ý chia bánh làm hai phần lớn nhỏ không đều nhau, sau đó kinh ngạc la lên: “A, lớn nhỏ không cân bằng, thím cắn một miếng nha!” Sau khi cắn xong một miếng, thì còn lại nhỏ hơn miếng kia, thế là bà ta lại nói: “Vẫn còn lớn nhỏ không giống nhau, không thể chia được.” Sau đó thím cao cắn miếng bánh bên trái, rồi lại cắn miếng bánh bên phải, hai miếng bánh trong tay bây giờ còn nhỏ chút xíu.
Lúc ấy, bà ta mới nhìn nhìn hai anh em gấu con, nói: “Này các con, cầm lấy ăn đi nhé ! Coi như là lớn giống nhau rồi.”
Hai anh em nhìn mẫu bánh nhỏ bị con cáo ăn còn lại thì rất hối hận, đáng lẽ miếng ăn ngon này là thuộc về chúng nó, thì lại bị con cáo ăn mất tiêu rồi.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
Hai anh em gấu nhỏ không đoàn kết, khi ăn thứ gì thì cũng so đo từng li từng tí, kết quả là để cho con cáo giảo hoạt chiếm cách rẻ mạt, đó chính là một bài học để cho chúng ta nhớ đời. Cho nên giữa anh em chị em và bạn bè với nhau, thì nên học cách cùng khiêm nhượng, đoàn kết, không nên để người xấu có cơ hội lợi dụng.
Ma quỷ là tên xấu xa quỷ quyệt, luôn lợi dụng lòng tham lam để gây xáo trộn mất đoàn kết trong lớp học, trong gia đình và giữa bạn bè với nhau.
Đôi lúc chỉ cần một sự yêu thương thiên vị của bố mẹ mà con cái mất đoàn kết; đôi lúc chỉ một sự quan tâm công khai của thầy cô với học sinh, thì cũng làm cho các em mất đoàn kết; đôi khi chỉ một cách xử sự không khéo tế nhị của bề trên, thì cũng làm cho ma quỷ lợi dụng dấy lên sự mất đoàn kết trong cộng đoàn và trong Giáo Hội.
Đoàn kết chính là nền tảng của sức mạnh kiên vững để xây dựng cộng đoàn và tình cảm bạn bè...
Các em thực hành:
- Chơi đùa thân thiện với bạn bè.
- Biết nhường nhịn bạn bè để giữ gìn sự đoàn kết.
- Luôn cầu nguyện cho mình có nhân đức nhường nhịn.
![]() |
N2T |
Hai anh em gấu con đang tranh nhau một cái bánh, gấu em nói: “Mau đưa cho em, cái bánh là do em nhìn thấy trước.” Gấu anh nói: “Không đưa, anh thấy nó trước tiên.”
- “Đưa đây.”
- “Không đưa.”
Hai anh em giữ chặt cái bánh không thả ra.
Lúc ấy, thím cáo lắc la lắc lư đi ngang qua đó, cười híp mắt nói: “Tụi bây đang nhặt cái gì đó ?” hai anh em tranh nhau nói người này lấy bánh của người kia.
Thím cáo vừa nhìn thấy rán mỡ màu vàng óng ánh của cái bánh thì thèm chảy nước miếng, miệng bà ta nói ngọt xớt: “Cái này dễ làm mà, để thím giúp các cháu chia hai phần lớn nhỏ bằng nhau nhé !”
Gấu anh lấy cái bánh đưa cho thím cáo, nhưng bà ta lại cố ý chia bánh làm hai phần lớn nhỏ không đều nhau, sau đó kinh ngạc la lên: “A, lớn nhỏ không cân bằng, thím cắn một miếng nha!” Sau khi cắn xong một miếng, thì còn lại nhỏ hơn miếng kia, thế là bà ta lại nói: “Vẫn còn lớn nhỏ không giống nhau, không thể chia được.” Sau đó thím cao cắn miếng bánh bên trái, rồi lại cắn miếng bánh bên phải, hai miếng bánh trong tay bây giờ còn nhỏ chút xíu.
Lúc ấy, bà ta mới nhìn nhìn hai anh em gấu con, nói: “Này các con, cầm lấy ăn đi nhé ! Coi như là lớn giống nhau rồi.”
Hai anh em nhìn mẫu bánh nhỏ bị con cáo ăn còn lại thì rất hối hận, đáng lẽ miếng ăn ngon này là thuộc về chúng nó, thì lại bị con cáo ăn mất tiêu rồi.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
Hai anh em gấu nhỏ không đoàn kết, khi ăn thứ gì thì cũng so đo từng li từng tí, kết quả là để cho con cáo giảo hoạt chiếm cách rẻ mạt, đó chính là một bài học để cho chúng ta nhớ đời. Cho nên giữa anh em chị em và bạn bè với nhau, thì nên học cách cùng khiêm nhượng, đoàn kết, không nên để người xấu có cơ hội lợi dụng.
Ma quỷ là tên xấu xa quỷ quyệt, luôn lợi dụng lòng tham lam để gây xáo trộn mất đoàn kết trong lớp học, trong gia đình và giữa bạn bè với nhau.
Đôi lúc chỉ cần một sự yêu thương thiên vị của bố mẹ mà con cái mất đoàn kết; đôi lúc chỉ một sự quan tâm công khai của thầy cô với học sinh, thì cũng làm cho các em mất đoàn kết; đôi khi chỉ một cách xử sự không khéo tế nhị của bề trên, thì cũng làm cho ma quỷ lợi dụng dấy lên sự mất đoàn kết trong cộng đoàn và trong Giáo Hội.
Đoàn kết chính là nền tảng của sức mạnh kiên vững để xây dựng cộng đoàn và tình cảm bạn bè...
Các em thực hành:
- Chơi đùa thân thiện với bạn bè.
- Biết nhường nhịn bạn bè để giữ gìn sự đoàn kết.
- Luôn cầu nguyện cho mình có nhân đức nhường nhịn.
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:57 20/04/2008
![]() |
N2T |
30. Có thể thích nghi lãnh nhận Thiên Chúa của mình, và lấy đó để linh hồn sung mãn niềm vui thần thánh thì thật có phúc.
(sách Gương Chúa Giê-su)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha: đừng để bóng tối bóp nghẹt hy vọng các con
Nguyễn Việt Nam
07:20 20/04/2008
![]() |
Đức Thánh Cha bắt tay các bạn trẻ |
![]() |
Các bạn trẻ New York cùng hát |
![]() |
Các thầy tại Đại Chủng Viện New York cùng hát |
![]() |
Những đôi mắt đẫm lệ theo dõi bài thuyết giảng của ĐTC |
![]() |
Rừng người hoan hô ĐTC |
![]() |
Một bạn trẻ hát chào mừng ĐTC |
Đức Thánh Cha cũng đã đề cập đến ‘những bóng tối” xem con người chỉ như “những đồ vật”, lèo lái, xuyên tạc và làm lu mờ sự thật, làm biến dạng cảm nhận về thực tại, về những hình ảnh và khát vọng của tuổi trẻ. Đức Thánh Cha cũng đã trình bày những suy tư về bản chất thực sự và những cảm nhận sai lạc về tự do.

Đức Thánh Cha đã nêu ra với cộng đoàn 6 bức tranh lớn về các thánh: Elizabeth Ann Seton, Frances Xavier Cabrini, John Neumann, Chân phước Kateri Tekakwitha, và hai vị Tôi Tớ Chúa là Pierre Toussaint, và Padre Felix Varela. Đức Thánh Cha nói: “Bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể trở nên một người trong số họ. Hãy can đảm và hãy hướng mắt nhìn về các thánh”.
Theo Đức Thánh Cha, các thánh tuy có những hoàn cảnh khác nhau nhưng các ngài “đều bùng cháy lửa yêu mến Chúa Giêsu.” Họ thực hiện “những hành vi từ bỏ chính mình” để dâng hiến cho Chúa.
Đức Thánh Cha cảnh cáo về “những hành vi và những não trạng đang bóp nghẹt hy vọng” qua những niềm hạnh phúc hời hợt và những thỏa mãn mà “chung cuộc chỉ kết thúc trong hoang mang và sợ hãi”.
Đức Thánh Cha cũng cho biết qua tuổi thơ của ngài dưới một chế độ Quốc Xã: “Thời niên thiếu của chính cha đã bị che phủ bởi một chế độ đe dọa. Nó tưởng rằng nó có mọi câu trả lời; ảnh hưởng của nó gia tăng – xâm nhập vào trường học và các cơ chế dân sự, cũng như chính trị và ngay cả trong phạm vi tôn giáo – trước khi người ta nhận thức đầy đủ về nó chỉ là một con quái vật. Nó loại bỏ Thiên Chúa và vì thế trở thành rào cản cho bất cứ điều gì là đúng đắn và tốt lành”.
Đức Thánh Cha cám ơn Thiên Chúa vì ngày nay thế hệ trẻ được hưởng nhiều quyền tự do “qua sự mở rộng dân chủ và sự tôn trọng nhân quyền”.
Tuy nhiên, “những thế lực hủy diệt vẫn còn”. Đức Thánh Cha cảnh cáo: “Làm bộ như nó không còn chỉ là tự lừa mình. Tuy thế, nó không chiến thắng. Nó bị đánh bại. Đó là yếu tính của niềm hy vọng định nghĩa chúng ta như những người Kitô hữu; và Giáo Hội nhắc lại điều này một cách ngoạn mục nhất trong Tam Nhật Phục sinh và cử hành với đầy tràn niềm vui trong mùa Phục sinh. Đấng chỉ cho chúng ta thấy con đường sau cái chết cũng là Đấng chỉ cho chúng ta thấy cách thế vượt qua hủy diệt và sợ hãi: vì thế chính Chúa Giêsu là thầy dạy chân thật về sự sống”.
Đức Thánh Cha đã đề cập đến những hiểm họa về “những giấc mơ và những trông đợi” của tuổi trẻ ngày nay như ma tuý, vô gia cư, bần cùng, phân biệt chủng tộc, bạo lực, sự hạ giá con người đặc biệt nơi phụ nữ.
“Trong khi nguồn gốc của những vấn đề này là phức hợp. Chúng có cùng một thái độ bị đầu độc trong đó con người bị đối xử chỉ như đồ vật”
Đức Thánh Cha cũng cảnh cáo một khía cạnh thứ hai thường ít ai để ý đến và vì thế “nó đáng sợ”. Đó là “sự lèo lái sự thật, xuyên tạc cảm nhận của chúng ta về thực tại, làm lu mờ trí tưởng tượng và khát vọng của chúng ta”.
Đức Thánh Cha sau đó đã đề cập đến gia đình như cái nôi của ơn gọi.
Trong buổi gặp gỡ này, Đức Thánh Cha đã ban phép lành cho 50 trẻ em khuyết tật và những người chăm sóc cho chúng. Các trẻ em này đã vui mừng được mặc áo đẹp và được Đức Thánh Cha đặt tay ban phép lành cho chúng. Tờ New York Thời Báo đã kể câu chuyện về một bé gái tên Lauren. “Em chỉ có thể nói được từ 20 đến 30 từ, nhưng nay em nói thêm được một từ mới”. Bà Beatrice Kurtz, mẹ của Lauren cho biết: “Giờ đây em nói được từ pope”.
Đại Chủng Viện Thánh Giuse tại New York đã được Đức Tổng Giám Mục Michael Corrigan của tổng giáo phận New York xây vào năm 1891 với hy vọng là do vị trí gần gũi Tổng Giám Mục ngài có thể chăm sóc chu đáo Đại Chủng Viện này. Năm năm sau đó, vào năm 1896, niên khóa đầu tiên đã được khai giảng với 96 thầy.
Vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm Đại Chủng Viện Thánh Giuse tại New York là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài đã đến thăm nơi này vào năm 1995. Đức Thánh Cha đương kim không phải người xa lạ với Đại Chủng Viện này vì trong thập niên 1990 ngài đã từng giảng dạy tại đây.
Diễn văn của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với các Giám Mục Hoa Kỳ
Lm. Phan Du Sinh, OFM dịch
12:56 20/04/2008
Đền thánh Đức Mẹ Vô Nhiệm tại Washington, D.C.
Thứ tư, 16/4/2008
Anh em Giám mục thân mến,
Cuộc gặp gỡ với anh em ngày hôm nay, khi bắt đầu chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, đem lại cho tôi một niềm vui lớn, và tôi cám ơn Hồng y George vì những lời tốt đẹp mà ngài đã gởi đến tôi nhân danh anh em. Tôi muốn cám ơn tất cả anh em, đặc biệt các viên chức của Hội đồng Giám mục, vì những công việc nặng nề nhằm chuẩn bị cuộc viếng thăm này. Sự cảm kích và biết ơn của tôi cũng hướng đến ban giám đốc và các thiện nguyện viên của Đền thánh Quốc gia, đã đón tiếp chúng tôi tại đây chiều hôm nay. Người Công giáo Hoa Kỳ nổi tiếng về lòng tận tuỵ trung thành với Toà Thánh. Chuộc viếng thăm mục vụ của tôi tại đây là một cơ hội để củng cố hơn nữa mối giây hiệp thông đã nối kết chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu bằng cách cử hành giờ Kinh Chiều trong Vương cung Thánh đường này dâng kính Đức Nữ Đồng Trinh Vô Nhiễm Maria, một đền thánh có ý nghĩa đặc biệt đối với người Công giáo Hoa Kỳ, ở ngay trung tâm Thủ đô. Tụ họp cầu nguyện với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chúng ta âu yếm giao phó cho Chúa Cha Dân Thiên Chúa tại mọi miền đất của Hoa Kỳ.
Đối với các cộng đoàn Công giáo ở Boston, New York, Philadelphia và Louisville, đây là một năm cử hành đặc biệt, đánh dấu kỷ niệm 200 năm thiết lập các Giáo hội địa phương này thành giáo phận. Tôi hiệp với anh em dâng lời cảm tạ vì muôn ơn lành đã ban xuống cho Giáo hội nơi đây suốt hai thế kỷ. Vì năm nay cũng đánh dấu kỷ niệm 200 năm nâng Toà giám mục Baltimore thành Tổng giáo phận, tôi có dịp nhắc lại với lòng thán phục và biết ơn cuộc đời và sứ vụ của John Carroll, vị giám mục đầu tiên của Baltimore – một vị lãnh đạo đáng kính trọng của cộng đoàn Công giáo trong quốc gia vừa mới độc lập của anh em. Những nỗ lực không mệt mỏi của ngài để loan truyền Tin mừng trong mảnh đất rộng lớn dưới sự chăm sóc của ngài đã đặt những nền tảng cho đời sống giáo hội và giúp cho Giáo hội tại Hoa Kỳ tăng trưởng đến mức trưởng thành. Hôm nay cộng đoàn Công giáo mà anh em phục vụ là một trong những cộng đoàn lớn nhất trên thế giới, và một trong những cộng đoàn có ảnh hưởng nhất. Vì thế quan trọng biết bao việc làm cho ánh sáng của anh em chiếu toả trước đồng bào của anh em và trước thế giới, “để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Nhiều dân tộc mà John Carroll và các đồng bạn Giám mục của ngài đã chăm sóc suốt hai thế kỷ qua đã làm cuộc hành trình từ những miền đất xa xôi. Sự khác biệt về nguồn gốc của họ đã được phản ánh trong sự đa dạng phong phú của đời sống giáo hội tại Hoa Kỳ ngày hôm nay. Anh em Giám mục thân mến, tôi muốn khích lệ anh em và cộng đoàn anh em tiếp tục chào đón người di dân đang gia nhập hàng ngũ của anh em hôm nay, để chia sẻ vui mừng và hy vọng của họ, nâng đỡ họ trong những sầu muộn và thử thách, và giúp họ triển nở trong quê hương mới. Quả vậy, đó chính là điều mà đồng bào của anh em đã từng làm qua bao thế hệ. Ngay từ đầu, họ đã mở cửa cho những người mệt mỏi, nghèo đói, “đám đông khao khát hít thở sự tự do” (x. Bài thơ khắc ghi trên tượng thần tự do). Đó là những dân tộc mà Hoa Kỳ đã đón nhận làm của mình.
Trong số những người đến đây để xây dựng một đời sống mới, nhiều người đã có khả năng tận dụng các tài nguyên và cơ hội gặp được, và đạt tới một mức độ sung túc cao. Quả thế, người dân xứ này nổi tiếng về sinh lực và sáng tạo. Họ cũng được biết đến do lòng quảng đại của họ. Sau cuộc tấn công toà tháp đôi tháng 9 năm 2001, và sau cơn bão Katrina năm 2005, người dân Mỹ đã tỏ ra sẵn sàng đến cứu giúp các anh chị em đang túng quẫn. Trên bình diện quốc tế, sự đóng góp của dân tộc Mỹ trong công tác cứu trợ sau cơn sóng thần tháng 12 năm 2004 là một minh hoạ thêm nữa về lòng thương xót ấy. Xin cho phép tôi được diễn tả sự cảm kích riêng của tôi vì nhiều hình thức cứu trợ nhân đạo mà người công giáo Hoa Kỳ cung cấp qua các tổ chức bác ái và các cơ quan khác. Lòng quảng đại của họ đã sinh hoa trái qua việc chăm lo đến những người nghèo và thiếu thốn, và qua hoạt động xây dựng mạng lưới toàn quốc các giáo xứ, bệnh viện, trường học và đại học công giáo. Tất cả những điều đó đem lại lý do lớn lao để tạ ơn.
Hoa Kỳ cũng còn là một miền đất có đức tin mãnh liệt. Dân tộc anh em rõ rệt có lòng nhiệt tình tôn giáo và hãnh diện vì thuộc về một cộng đoàn thờ phượng. Họ tin tưởng vào Thiên Chúa và không ngần ngại đưa ra những lý lẽ luân lý bén rễ từ đức tin Kinh Thánh trong các cuộc đàm luận công khai. Tôn trọng tự do tôn giáo ăn sâu trong ý thức của người Mỹ – một sự kiện đã góp phần làm cho quốc gia này trở nên lôi cuốn đối với những thế hệ các người di cư, khi họ tìm kiếm một ngôi nhà nơi đó họ có thể tự do thờ phượng theo niềm tin của họ.
Liên hệ tới điều đó, tôi sung sướng tỏ lòng biết ơn sự hiện diện giữa anh em của các giám mục từ tất cả các Giáo hội Đông phương đáng kính thông hiệp với Đấng kế vị thánh Phêrô, mà tôi chào thăm với niềm vui đặc biệt. Anh em thân mến, tôi xin anh em bảo đảm cho các cộng đoàn anh em về tình yêu sâu đậm và các lời cầu nguyện liên tục của tôi, cả cho họ lẫn cho những anh chị em của họ đang ở lại trong miền đất nguyên thuỷ của họ. Sự hiện diện nơi đây của anh em là một nhắc nhớ về chứng tá can đảm cho Đức Kitô của nhiều thành viên trong cộng đoàn anh em, thường sống trong đau khổ, trong các quê hương tương ứng của họ. Đây cũng là một sự phong phú lớn lao của đời sống Giáo hội tại Hoa Kỳ, khi trao ban một diễn tả sống động về tính công giáo của Giáo hội và sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ và thiêng liêng.
Anh em Giám mục thân mến, chính trong mảnh đất màu mỡ này, được nuôi dưỡng từ rất nhiều nguồn mạch khác nhau, mà tất cả anh em được mời gọi gieo vãi hạt giống Tin mừng ngày hôm nay. Điều này dẫn tôi đến việc đặt ra câu hỏi, làm thế nào để một giám mục trong thế kỷ XXI này có thể chu toàn cách tốt đẹp nhất lời kêu gọi “canh tân mọi sự trong Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta?” Làm thế nào để dẫn đưa đoàn chiên đến “gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống”, là nguồn mạch của niềm hy vọng biến đổi cuộc sống như Tin Mừng vẫn nói (Spe salvi,4)? Có lẽ giám mục cần bắt đầu bằng cách loại bỏ một số hàng rào ngăn cản cuộc gặp gỡ với Chúa. Tuy quốc gia này nổi bật về một tinh thần tôn giáo chân thành, nhưng ảnh hưởng tinh vi của trào lưu tục hóa có thể tác động tới cách thức dân chúng để cho niềm tin ảnh hưởng đến cách cư xử của họ. Có thích hợp không khi một đàng tuyên xưng đức tin ở nhà thờ vào ngày chúa nhật, và rồi trong tuần, lại làm ăn hoặc cổ võ những tiến trình y khoa trái ngược với niềm tin ấy? Có thích hợp không khi các tín hữu công giáo thực hành đạo không biết tới hoặc khai thác bóc lột người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cổ võ những lối sống tính dục trái ngược với giáo huấn luân lý Công giáo, hoặc chấp nhận những lập trường trái ngược với quyền sống của mỗi người, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên? Cần phải chống lại mọi xu hướng coi tôn giáo chỉ là một sự kiện riêng tư. Chỉ khi nào đức tin thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống, thì các tín hữu Kitô mới thực sự cởi mở đối với quyền năng biến đổi của Tin Mừng.
Đối với một xã hội sung túc, một chướng ngại khác cản trở cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống là ảnh hưởng tinh vi của chủ nghĩa duy vật, là quá dễ dãi tập trung chú ý vào phần gấp trăm mà Thiên Chúa hứa cho lúc này đây, mà quên đi sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa vào thời sẽ tới (Mc 10,30). Dân chúng ngày nay cần được nhắc nhở về mục đích tối hậu của đời sống họ. Họ cần nhìn nhận rằng cắm rễ sâu trong lòng họ là một niềm khao khát sâu xa đối với Chúa. Họ cần được những cơ hội để uống từ giếng tình yêu vô biên của Chúa. Người ta dễ bị cám dỗ vì khả năng hầu như vô giới hạn của khoa học và kỹ thuật mang lại cho chúng ta, và dễ đi tới sai lầm mà nghĩ rằng ta có thể thỏa mãn những nhu cầu sâu xa nhất với những cố gắng riêng của chúng ta. Đó là một ảo tưởng. Nếu không có Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể ban cho chúng ta điều mà tự mình chúng ta không thể đạt được (Spe salvi 31), thì cuộc sống chúng ta chỉ là trống rỗng. Dân chúng cần được thường xuyên nhắc nhở để vun trồng một tương quan với Người, Đấng đến để chúng ta có được sự sống dồi dào (x. Ga 10,10). Mục tiêu của công cuộc mục vụ và giáo lý chúng ta, đối tượng giảng thuyết của chúng ta, và chủ điểm của tác vụ bí tích của chúng ta phải là giúp đỡ dân chúng thiết lập và vun trồng mối tương giao sống động với “Đức Kitô Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta” (1 Tm 1,).
Trong một xã hội đề cao tự do và quyền tự quyết của cá nhân, thật dễ quên mất sự lệ thuộc của chúng ta vào người khác cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với họ. Sự nhấn mạnh tới cá nhân chủ nghĩa này cũng ảnh hưởng tới Giáo Hội (Spe Salvi 13-15), làm nảy sinh một hình thức đạo đức đôi khi nhấn mạnh quan hệ riêng tư với Thiên Chúa và gây thiệt hại cho lời kêu gọi trở thành những phần tử của một cộng đoàn được cứu chuộc. Song le ngay từ đầu, Thiên Chúa thấy rằng “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Chúng ta được tạo thành như những hữu thể xã hội, chỉ tìm được sự viên mãn trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu chúng ta thật sự hướng nhìn về Ngài, Đấng là nguồn mạch niềm vui chúng ta, chúng ta cần hành động như là thành viên của Dân Thiên Chúa (x. Spe Salvi, 14). Nếu điều đó có vẻ như đối lập với văn hoá, rõ ràng là có một nhu cầu cấp bách phải phúc âm hoá lại nền văn hoá.
Nơi Nước Mỹ này, anh em được chúc phúc với một tầng lớp giáo dân công giáo có một sự khác biệt văn hoá đáng kể, họ đặt các ân huệ đa dạng của họ để phục vụ Giáo hội và xã hội nói chung. Họ chờ mong anh em đem đến cho họ sự khích lệ, lãnh đạo và hướng dẫn. Trong một thời đại đầy dẫy thông tin, tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin đúng đắn về đức tin không phải là cường điệu. Người Công giáo Hoa Kỳ có truyền thống đề cao giá trị của nền giáo dục tôn giáo, cả trong các trường học và trong bối cảnh những chương trình huấn luyện cho người lớn. Những điều đó cần được bảo tồn và mở rộng. Đông đảo những người nam nữ quảng đại dấn thân cho các hoạt động từ thiện cần được giúp đỡ để canh tân sự dấn thân của họ nhờ việc “huấn luyện con tim”: “một sự gặp gỡ với Thiên Chúa trong Đức Kitô, làm thức tỉnh tình yêu và mở rộng tinh thần cho kẻ khác” (Deus Caritas Est, 31). Trong một thời buổi mà những tiến bộ y khoa đem lại niềm hy vọng mới cho nhiều người, chúng cũng làm nảy sinh những thách đố đạo đức trước đây không bao giờ nghĩ tới. Điều đó tạo nên sự cần thiết hơn bao giờ hết là mang lại cho những người công giáo dấn thân trong việc săn sóc sức khỏe một sự huấn luyện thấu đáo về giáo huấn luân lý của Giáo Hội. Những hướng dẫn khôn ngoan là cần thiết trong tất cả những công tác tông đồ này để chúng mang lại hoa trái; nếu đúng là cần phải cổ võ mặt tốt của con người thì cũng cần làm cho chúng mới mẻ trong Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta.
Là những người rao giảng Tin mừng và lãnh đạo cộng đoàn công giáo, anh em cũng được mời gọi tham gia vào việc trao đổi ý tưởng tại những nơi công cộng, khi định hình những thái độ văn hoá. Trong bối cảnh mà những phát biểu tự do được đề cao và những tranh luận sôi nổi và thẳng thắn được khuyến khích, tiếng nói của anh em là những tiếng nói đáng kính trọng có nhiều điều đóng góp cho cuộc tranh luận về những vấn đề xã hội và luân lý cấp bách của ngày nay. Bằng cách bảo đảm rằng Tin mừng được nghe cách rõ ràng, anh em không những đào tạo dân chúng thuộc về cộng đoàn của anh em, nhưng bởi vì sự vươn rộng toàn cầu của phương tiện truyền thông, anh em làm cho sứ điệp hy vọng kitô giáo lan rộng khắp trái đất.
Rõ ràng, ảnh hưởng của Giáo hội trên cuộc tranh luận công khai xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau. Tại Hoa Kỳ cũng như bất kỳ nơi nào khác, có những pháp luật hiện hành và được đề nghị đã gây ra những lý do quan tâm từ quan điểm luân lý, và cộng đoàn công giáo, dưới sự hướng dẫn của anh em, cần đưa ra một chứng tá rõ ràng và thống nhất về vấn đề ấy. Càng quan trọng hơn nữa là việc mở rộng dần dần tâm trí và con tim của cộng đoàn rộng lớn hơn cho chân lý luân lý. Nơi đây vẫn còn nhiều điều phải làm. Chủ yếu trong vấn đề này là vai trò của người giáo dân phải hành động như “men” trong xã hội. Tuy vậy không thể cho rằng mọi công dân công giáo đều suy nghĩ phù hợp với giáo huấn của Giáo hội về những vấn đề đạo đức chủ chốt của ngày hôm nay. Một lần nữa, anh em có nhiệm vụ đảm bảo cho việc huấn luyện luân lý ở mọi cấp độ trong đời sống Giáo hội phản ảnh giáo huấn chân chính của Tin Mừng sự sống.
Liên quan đến điều đó, một vấn đề mà chúng ta hết sức quan tâm là tình trạng của gia đình trong xã hội. Quả thế, Hồng y George đã đề cập trước rằng anh em đã bao gồm việc củng cố hôn nhân và đời sống gia đình vào trong các ưu tiên cần quan tâm trong những năm tới. Trong sứ điệp Ngày Quốc tế Hoà bình năm nay, tôi đã nói tới sự đóng góp thiết yếu mà đời sống gia đình lành mạnh đem lại cho hoà bình trong và giữa các quốc gia. Trong ngôi nhà gia đình, chúng ta kinh nghiệm “một vài yếu tố nền tảng của hoà bình: công bình và tình yêu giữa anh chị em, vai trò của quyền bính được các cha mẹ diễn tả, mối quan tâm yêu thương dành cho những thành viên yếu kém hơn vì tuổi trẻ, bệnh hoạn hay tuổi già, sự giúp đỡ lẫn nhau khi thiếu thốn trong cuộc đời, sẵn sàng chấp nhận nhau và nếu cần, tha thứ cho họ” (số 3). Gia đình cũng là nơi đầu tiên để phúc âm hoá, để tiến tới đức tin, để giúp người trẻ hiểu rõ giá trị và tầm quan trọng của các thực hành tôn giáo và giữ ngày Chúa nhật. Làm sao chúng ta có thể không băn khoăn khi thấy sự suy sụp đột ngột của gia đình như một yếu tố cơ bản của Giáo hội và xã hội? Ly dị và sự không chung thủy gia tăng, và nhiều người trẻ nam và nữ quyết định hoãn lại hôn phối hoặc coi như không có hôn phối. Đối với một số bạn trẻ Công giáo, mối dây bí tích hôn phối chẳng khác gì hôn phối dân sự, hoặc coi hôn phối chỉ là một sự thỏa thuận sống với nhau một cách hình thức và không bền vững. Vì thế, có sự giảm sút đáng báo động về hôn phối Công giáo tại Hoa kỳ, đồng thời có sự gia tăng các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn, trong đó sự hiến thân cho nhau của đôi vợ chồng noi gương Đức Kitô, được đóng ấn bởi lời hứa công khai thể hiện đòi buộc dấn thân không thể chia lìa suốt cuộc đời thì đơn giản vắng bóng. Trong hoàn cảnh đó, các trẻ em không có được môi trường an toàn mà chúng cần để đích thực triển nở như một con người, và xã hội không có được khối nhà vững chắc mà nó cần nếu sự dính kết và chú tâm luân lý của cộng đoàn cần được duy trì.
Như vị tiền nhiệm của tôi, Đức Gioan Phaolô II đã dạy: “Vị có trách nhiệm chính yếu trong Giáo phận về việc chăm sóc mục vụ gia đình là giám mục… ngài phải dành cho nó sự quan tâm cá nhân, chăm sóc, thời giờ, nhân sự và tài nguyên, nhưng trên hết sự nâng đỡ cá nhân đối với các gia đình và tất cả những ai… giúp đỡ ngài trong việc chăm sóc mục vụ các gia đình” (Familiaris Consortio, 73). Nhiệm vụ của anh em là mạnh dạn tuyên bố những lý lẽ từ đức tin và lý trí nhằm bảo vệ thể chế hôn nhân, được hiểu như sự dấn thân suốt đời giữa một người nam và một người nữ, hướng mở cho sự truyền sinh. Sứ điệp này phải vang vọng nơi dân chúng ngày hôm nay, bởi vì đây cốt yếu là một “tiếng xin vâng” vô điều kiện và không hạn chế cho sự sống, một “tiếng xin vâng” cho tình yêu, và một “tiếng xin vâng” cho những khát vọng trong con tim của nhân loại, khi chúng ta nỗ lực chu toàn khát vọng sâu xa của chúng ta muốn sống thân mật với người khác và với Chúa.
Trong số những dấu hiệu phản Tin mừng sự sống ở Hoa Kỳ và nơi khác có một dấu hiệu gây tủi hổ sâu xa: đó là sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Nhiều người trong anh em đã nói với tôi về nỗi đau khổ hết sức lớn lao mà cộng đồng anh em phải chịu khi giáo sĩ phản bội những bó buộc và nghĩa vụ của linh mục qua cách hành xử vô luân trầm trọng như vậy. Khi anh em nỗ lực tiêu diệt sự xấu này nơi nào nó xảy ra, anh em được bảo đảm bởi sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của Dân Thiên Chúa trên khắp thế giới. Thật là đúng đắn khi anh em ưu tiên chứng tỏ sự cảm thông và chăm sóc các nạn nhân. Trách vụ Chúa trao cho anh em như những chủ chăn, là băng bó các vết thương do sự hủy hoại sự tín nhiệm gây nên, thăng tiến sự chữa lành, cổ võ hòa giải và tìm gặp những người sai trái trầm trọng như vậy với lòng quan tâm yêu thương.
Đáp trả với hoàn cảnh ấy thì không phải dễ và, như vị Chủ tịch Hội đồng giám mục đã biểu lộ, “đôi khi rất khó mà giải quyết”. Giờ đây tầm mức và sự trầm trọng của vấn đề đã được hiểu biết rõ ràng hơn, anh em đã có thể đưa ra những giải pháp chữa trị và kỷ luật tập trung hơn và cổ võ một môi trường an toàn bảo vệ chắc chắn hơn người trẻ. Trong khi phải luôn ghi nhớ rằng đám đông trổi vượt các giáo sĩ và tu sĩ tại Hoa Kỳ thực hiện công việc nổi bật là đem sứ điệp giải phóng của Tin mừng cho người dân được phó cho sự chăm sóc của họ, vô cùng quan trọng là những người dễ bị tổn thương phải được bảo về khỏi những kẻ gây hãm hại. Như thế, những cố gắng chữa lành và bảo vệ của anh em đang đem lại những hoa quả lớn lao không những cho những ai đang hưởng trực tiếp sự chăm sóc mục vụ của anh em mà còn toàn thể xã hội nữa.
Tuy nhiên nếu gia đình phải hoàn thành mục tiêu trọn vẹn của nó, các chiến lược và chương trình anh em chọn cần được đặt vào trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Các trẻ em đáng được tăng trưởng trong sự hiểu biết lành mạnh về phái tính và chỗ đứng đúng đắn của tính dục trong quan hệ giữa con người với nhau. Chúng phải được tránh khỏi những biểu lộ hèn hạ và sự lôi kéo tục tằn của tính dục đang thịnh hành ngày hôm nay. Chúng có quyền được giáo dục trong những giá trị luân lý đích thực cắm rễ trong phẩm giá con người. Điều đó đem chúng ta trở lại cái nhìn xem gia đình ở trung tâm và nhu cầu cổ võ Tin mừng sự sống. Nói đến việc bảo vệ trẻ em còn có ý nghĩa gì không khi hình ảnh khiêu dâm và bạo lực có thể được xem thấy trong nhiều gia đình qua phương tiện truyền thông sẵn có và phổ biến ngày hôm nay? Chúng ta cần khẩn cấp đánh giá lại các giá trị chống đỡ xã hội, để một nền huấn luyện luân lý lành mạnh có thể trao ban cho người trẻ cũng như người lớn. Tất cả mọi người đều có một trách vụ phải chu toàn trong công việc này, không những các cha mẹ, các vị lãnh đạo tôn giáo, các thầy cô và giáo lý viên, nhưng cả các phương tiện truyền thông và kỹ nghệ giải trí nữa. Quả thế, mỗi thành viên trong xã hội đều có thể góp phần vào sự canh tân luân lý và được lợi ích từ sự canh tân ấy. Chăm lo đích thực đến người trẻ và tương lai của nền văn minh chúng ta có nghĩa là nhìn nhận trách nhiệm cổ võ và sống nhờ những giá trị luân lý đích thực, chỉ mình chúng mới làm cho con người triển nở. Trách nhiệm của anh em, những vị mục tử noi gương Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, là loan báo sứ điệp này cách lớn tiếng và rõ ràng, và vì thế nói đến tội lạm dụng trong bối cảnh rộng lớn hơn của luân lý phái tính. Hơn nữa, nhờ hiểu biết và đương đầu vấn đề khi nó xảy ra trong bối cảnh giáo hội, anh em có thể đưa ra một hướng dẫn cho người khác, bởi vì tai hoạ này không phải chỉ được tìm thấy trong các giáo phận, nhưng trong mọi lãnh vực của xã hội. Nó cần đến một đáp trả dứt khoát, tập thể.
Cả các linh mục nữa cũng cần tới sự hướng dẫn và gần gũi trong thời buổi khó khăn. Các ngài đã kinh nghiệm sự tủi hổ vì sự việc đã xảy ra và có những linh mục cảm thấy mất mát phần nào sự tin tưởng và kính trọng họ từng hưởng. Không ít anh em đang cảm nghiệm sự gần gũi với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn của Người khi chiến đấu để giải quyết các hậu quả của khủng hoảng. Giám mục, như người cha, người anh em và người bạn của các linh mục, có thể giúp họ rút ra được hoa trái thiêng liêng từ sự kết hiệp này với Đức Kitô bằng cách làm cho họ ý thức đến sự hiện diện tràn ngập an ủi giữa các đau khổ, và bằng cách khuyến khích họ cùng với Chúa bước đi trên nẻo đường hy vọng (x. Spe Salvi, 39). Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã lưu ý 6 năm trước: “Chúng ta phải tín thác rằng thời kỳ thử thách đau thương này sẽ mang lại một sự thanh tẩy cho toàn thể cộng đoàn Công giáo”, đưa tới “một hàng ngũ linh mục, giám mục và Giáo hội thánh thiện hơn” (Diễn văn gởi các Hồng y Hoa Kỳ, 23/4/2002, 4). Có nhiều dấu hiệu có thấy trong thời gian qua, sự thanh tẩy ấy đang xảy ra. Sự hiện diện âm thầm của Chúa Kitô giữa những đau khổ của chúng ta dần dần biến tăm tối của chúng ta thành ánh sáng: mọi sự đang được đổi mới trong Chúa Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta.
Vào thời điểm này một phần cốt yếu của nhiệm vụ anh em là tăng cường quan hệ với hàng giáo sĩ của mình, nhất là trong những trường hợp xảy ra căng thẳng giữa các linh mục và giám mục của mình. Điều quan trọng là anh em tiếp tục biểu lộ cho họ sự quan tâm, nâng đỡ họ và hướng dẫn họ bằng gương sáng. Như thế anh em chắc chắn sẽ giúp họ gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và hướng họ về niềm hy vọng biến đổi cuộc sống mà Tin mừng nói tới. Nếu chính anh em sống một cách đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, Đấng đã thí mạng sống vì đoàn chiên, anh em sẽ gợi hứng cho các anh em linh mục hiến dâng lại chính mình để phục vụ đoàn chiên với sự quảng đại giống như Đức Kitô. Quả thế một sự chú tâm rõ ràng hơn nhằm noi gương Đức Kitô trong đời sống thánh thiện là điều đang cần để chúng ta tiến lên phía trước. Chúng ta cần tái khám phá niềm vui sống của một cuộc đời lấy Đức Kitô làm trung tâm, vun trồng các nhân đức, và chìm sâu trong cầu nguyện. Khi người tín hữu biết vị mục tử của mình là một con người cầu nguyện và hiến dâng mạng sống để phục vụ họ, họ đáp lại với sự nồng ấm và tình cảm vốn nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống của toàn thể cộng đoàn.
Thời gian dành cho cầu nguyện thì không hề uổng công, dầu các nhiệm vụ cấp bách áp lực trên chúng ta từ mọi phía. Việc tôn thờ Đức Kitô, Chúa chúng ta, trong bí tích Thánh Thể kéo dài và tăng cường mối giây hiệp nhất với Người vốn được thiết lập qua việc cử hành Thánh lễ (x. Sacramentum Caritatis, 66). Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm mân côi giải toả tất cả quyền năng cứu độ của chúng và nó làm cho ta phù hợp, nối kết và thánh hiến chúng ta cho Đức Giêsu Kitô (x. Rosarium Virginis Mariae, 11, 15). Trung thành với Phụng vụ Các Giờ kinh bảo đảm rằng cả ngày sống của chúng ta được thánh hoá và nhắc nhở chúng ta nhu cầu luôn chú tâm đến sự thực hiện công việc của Thiên Chúa, dù những áp lực và những xao nhãng có thể nảy sinh từ công việc. Vì thế lòng đạo đức giúp chúng ta nói và hành động in persona Christi, dạy dỗ, cai trị và thánh hoá người tín hữu nhân danh Đức Giêsu, đem lại sự hoà giải, chữa lành và tình yêu cho mọi anh chị em yêu dấu. Sự đồng hình đồng dạng triệt để này với Đức Kitô, vị Mục tử nhân lành, nằm ở trung tâm thừa tác vụ mục vụ của chúng ta, và nếu chúng ta mở lòng nhờ lời cầu khẩn quyền năng của Thánh Linh, Người sẽ ban cho chúng ta ân huệ cần thiết để chu toàn nhiệm vụ gây nản chí của chúng ta, để chúng ta không bao giờ “lo lắng phải nói như thế nào và nói gì” (Mt 10,19).
Khi kết thúc những lời tôi nói với anh em chiều nay, tôi phó dâng Giáo hội trong đất nước anh em cách đặc biệt cho sự chăm sóc từ mẫu và lời chuyển cầu của Đức Maria Vô Nhiễm, Bổn mạng của Hoa Kỳ. Nguyện Mẹ là Đấng mang trong cung lòng Mẹ niềm Hy vọng của mọi quốc gia chuyển cầu cho dân chúng nước này, để mọi người được canh tân trong Đức Giêsu Kitô, Con Mẹ. Anh em Giám mục thân mến, tôi bảo đảm cho mọi anh em hiện diện tại đây tình bạn sâu xa và sự thông phần của tôi vào các mối quan tâm mục vụ của anh em. Cho tất cả anh em, cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của anh em, tôi chân thành ban phép lành Toà thánh như một bảo chứng của niềm vui và bình an của Chúa phục sinh.
© Copyright 2008 - Libreria Editrice Vaticana
Thứ tư, 16/4/2008
Anh em Giám mục thân mến,
Cuộc gặp gỡ với anh em ngày hôm nay, khi bắt đầu chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, đem lại cho tôi một niềm vui lớn, và tôi cám ơn Hồng y George vì những lời tốt đẹp mà ngài đã gởi đến tôi nhân danh anh em. Tôi muốn cám ơn tất cả anh em, đặc biệt các viên chức của Hội đồng Giám mục, vì những công việc nặng nề nhằm chuẩn bị cuộc viếng thăm này. Sự cảm kích và biết ơn của tôi cũng hướng đến ban giám đốc và các thiện nguyện viên của Đền thánh Quốc gia, đã đón tiếp chúng tôi tại đây chiều hôm nay. Người Công giáo Hoa Kỳ nổi tiếng về lòng tận tuỵ trung thành với Toà Thánh. Chuộc viếng thăm mục vụ của tôi tại đây là một cơ hội để củng cố hơn nữa mối giây hiệp thông đã nối kết chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu bằng cách cử hành giờ Kinh Chiều trong Vương cung Thánh đường này dâng kính Đức Nữ Đồng Trinh Vô Nhiễm Maria, một đền thánh có ý nghĩa đặc biệt đối với người Công giáo Hoa Kỳ, ở ngay trung tâm Thủ đô. Tụ họp cầu nguyện với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chúng ta âu yếm giao phó cho Chúa Cha Dân Thiên Chúa tại mọi miền đất của Hoa Kỳ.
Đối với các cộng đoàn Công giáo ở Boston, New York, Philadelphia và Louisville, đây là một năm cử hành đặc biệt, đánh dấu kỷ niệm 200 năm thiết lập các Giáo hội địa phương này thành giáo phận. Tôi hiệp với anh em dâng lời cảm tạ vì muôn ơn lành đã ban xuống cho Giáo hội nơi đây suốt hai thế kỷ. Vì năm nay cũng đánh dấu kỷ niệm 200 năm nâng Toà giám mục Baltimore thành Tổng giáo phận, tôi có dịp nhắc lại với lòng thán phục và biết ơn cuộc đời và sứ vụ của John Carroll, vị giám mục đầu tiên của Baltimore – một vị lãnh đạo đáng kính trọng của cộng đoàn Công giáo trong quốc gia vừa mới độc lập của anh em. Những nỗ lực không mệt mỏi của ngài để loan truyền Tin mừng trong mảnh đất rộng lớn dưới sự chăm sóc của ngài đã đặt những nền tảng cho đời sống giáo hội và giúp cho Giáo hội tại Hoa Kỳ tăng trưởng đến mức trưởng thành. Hôm nay cộng đoàn Công giáo mà anh em phục vụ là một trong những cộng đoàn lớn nhất trên thế giới, và một trong những cộng đoàn có ảnh hưởng nhất. Vì thế quan trọng biết bao việc làm cho ánh sáng của anh em chiếu toả trước đồng bào của anh em và trước thế giới, “để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Nhiều dân tộc mà John Carroll và các đồng bạn Giám mục của ngài đã chăm sóc suốt hai thế kỷ qua đã làm cuộc hành trình từ những miền đất xa xôi. Sự khác biệt về nguồn gốc của họ đã được phản ánh trong sự đa dạng phong phú của đời sống giáo hội tại Hoa Kỳ ngày hôm nay. Anh em Giám mục thân mến, tôi muốn khích lệ anh em và cộng đoàn anh em tiếp tục chào đón người di dân đang gia nhập hàng ngũ của anh em hôm nay, để chia sẻ vui mừng và hy vọng của họ, nâng đỡ họ trong những sầu muộn và thử thách, và giúp họ triển nở trong quê hương mới. Quả vậy, đó chính là điều mà đồng bào của anh em đã từng làm qua bao thế hệ. Ngay từ đầu, họ đã mở cửa cho những người mệt mỏi, nghèo đói, “đám đông khao khát hít thở sự tự do” (x. Bài thơ khắc ghi trên tượng thần tự do). Đó là những dân tộc mà Hoa Kỳ đã đón nhận làm của mình.
Trong số những người đến đây để xây dựng một đời sống mới, nhiều người đã có khả năng tận dụng các tài nguyên và cơ hội gặp được, và đạt tới một mức độ sung túc cao. Quả thế, người dân xứ này nổi tiếng về sinh lực và sáng tạo. Họ cũng được biết đến do lòng quảng đại của họ. Sau cuộc tấn công toà tháp đôi tháng 9 năm 2001, và sau cơn bão Katrina năm 2005, người dân Mỹ đã tỏ ra sẵn sàng đến cứu giúp các anh chị em đang túng quẫn. Trên bình diện quốc tế, sự đóng góp của dân tộc Mỹ trong công tác cứu trợ sau cơn sóng thần tháng 12 năm 2004 là một minh hoạ thêm nữa về lòng thương xót ấy. Xin cho phép tôi được diễn tả sự cảm kích riêng của tôi vì nhiều hình thức cứu trợ nhân đạo mà người công giáo Hoa Kỳ cung cấp qua các tổ chức bác ái và các cơ quan khác. Lòng quảng đại của họ đã sinh hoa trái qua việc chăm lo đến những người nghèo và thiếu thốn, và qua hoạt động xây dựng mạng lưới toàn quốc các giáo xứ, bệnh viện, trường học và đại học công giáo. Tất cả những điều đó đem lại lý do lớn lao để tạ ơn.

Liên hệ tới điều đó, tôi sung sướng tỏ lòng biết ơn sự hiện diện giữa anh em của các giám mục từ tất cả các Giáo hội Đông phương đáng kính thông hiệp với Đấng kế vị thánh Phêrô, mà tôi chào thăm với niềm vui đặc biệt. Anh em thân mến, tôi xin anh em bảo đảm cho các cộng đoàn anh em về tình yêu sâu đậm và các lời cầu nguyện liên tục của tôi, cả cho họ lẫn cho những anh chị em của họ đang ở lại trong miền đất nguyên thuỷ của họ. Sự hiện diện nơi đây của anh em là một nhắc nhớ về chứng tá can đảm cho Đức Kitô của nhiều thành viên trong cộng đoàn anh em, thường sống trong đau khổ, trong các quê hương tương ứng của họ. Đây cũng là một sự phong phú lớn lao của đời sống Giáo hội tại Hoa Kỳ, khi trao ban một diễn tả sống động về tính công giáo của Giáo hội và sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ và thiêng liêng.
Anh em Giám mục thân mến, chính trong mảnh đất màu mỡ này, được nuôi dưỡng từ rất nhiều nguồn mạch khác nhau, mà tất cả anh em được mời gọi gieo vãi hạt giống Tin mừng ngày hôm nay. Điều này dẫn tôi đến việc đặt ra câu hỏi, làm thế nào để một giám mục trong thế kỷ XXI này có thể chu toàn cách tốt đẹp nhất lời kêu gọi “canh tân mọi sự trong Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta?” Làm thế nào để dẫn đưa đoàn chiên đến “gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống”, là nguồn mạch của niềm hy vọng biến đổi cuộc sống như Tin Mừng vẫn nói (Spe salvi,4)? Có lẽ giám mục cần bắt đầu bằng cách loại bỏ một số hàng rào ngăn cản cuộc gặp gỡ với Chúa. Tuy quốc gia này nổi bật về một tinh thần tôn giáo chân thành, nhưng ảnh hưởng tinh vi của trào lưu tục hóa có thể tác động tới cách thức dân chúng để cho niềm tin ảnh hưởng đến cách cư xử của họ. Có thích hợp không khi một đàng tuyên xưng đức tin ở nhà thờ vào ngày chúa nhật, và rồi trong tuần, lại làm ăn hoặc cổ võ những tiến trình y khoa trái ngược với niềm tin ấy? Có thích hợp không khi các tín hữu công giáo thực hành đạo không biết tới hoặc khai thác bóc lột người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cổ võ những lối sống tính dục trái ngược với giáo huấn luân lý Công giáo, hoặc chấp nhận những lập trường trái ngược với quyền sống của mỗi người, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên? Cần phải chống lại mọi xu hướng coi tôn giáo chỉ là một sự kiện riêng tư. Chỉ khi nào đức tin thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống, thì các tín hữu Kitô mới thực sự cởi mở đối với quyền năng biến đổi của Tin Mừng.
Đối với một xã hội sung túc, một chướng ngại khác cản trở cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống là ảnh hưởng tinh vi của chủ nghĩa duy vật, là quá dễ dãi tập trung chú ý vào phần gấp trăm mà Thiên Chúa hứa cho lúc này đây, mà quên đi sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa vào thời sẽ tới (Mc 10,30). Dân chúng ngày nay cần được nhắc nhở về mục đích tối hậu của đời sống họ. Họ cần nhìn nhận rằng cắm rễ sâu trong lòng họ là một niềm khao khát sâu xa đối với Chúa. Họ cần được những cơ hội để uống từ giếng tình yêu vô biên của Chúa. Người ta dễ bị cám dỗ vì khả năng hầu như vô giới hạn của khoa học và kỹ thuật mang lại cho chúng ta, và dễ đi tới sai lầm mà nghĩ rằng ta có thể thỏa mãn những nhu cầu sâu xa nhất với những cố gắng riêng của chúng ta. Đó là một ảo tưởng. Nếu không có Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể ban cho chúng ta điều mà tự mình chúng ta không thể đạt được (Spe salvi 31), thì cuộc sống chúng ta chỉ là trống rỗng. Dân chúng cần được thường xuyên nhắc nhở để vun trồng một tương quan với Người, Đấng đến để chúng ta có được sự sống dồi dào (x. Ga 10,10). Mục tiêu của công cuộc mục vụ và giáo lý chúng ta, đối tượng giảng thuyết của chúng ta, và chủ điểm của tác vụ bí tích của chúng ta phải là giúp đỡ dân chúng thiết lập và vun trồng mối tương giao sống động với “Đức Kitô Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta” (1 Tm 1,).
Trong một xã hội đề cao tự do và quyền tự quyết của cá nhân, thật dễ quên mất sự lệ thuộc của chúng ta vào người khác cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với họ. Sự nhấn mạnh tới cá nhân chủ nghĩa này cũng ảnh hưởng tới Giáo Hội (Spe Salvi 13-15), làm nảy sinh một hình thức đạo đức đôi khi nhấn mạnh quan hệ riêng tư với Thiên Chúa và gây thiệt hại cho lời kêu gọi trở thành những phần tử của một cộng đoàn được cứu chuộc. Song le ngay từ đầu, Thiên Chúa thấy rằng “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Chúng ta được tạo thành như những hữu thể xã hội, chỉ tìm được sự viên mãn trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu chúng ta thật sự hướng nhìn về Ngài, Đấng là nguồn mạch niềm vui chúng ta, chúng ta cần hành động như là thành viên của Dân Thiên Chúa (x. Spe Salvi, 14). Nếu điều đó có vẻ như đối lập với văn hoá, rõ ràng là có một nhu cầu cấp bách phải phúc âm hoá lại nền văn hoá.
Nơi Nước Mỹ này, anh em được chúc phúc với một tầng lớp giáo dân công giáo có một sự khác biệt văn hoá đáng kể, họ đặt các ân huệ đa dạng của họ để phục vụ Giáo hội và xã hội nói chung. Họ chờ mong anh em đem đến cho họ sự khích lệ, lãnh đạo và hướng dẫn. Trong một thời đại đầy dẫy thông tin, tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin đúng đắn về đức tin không phải là cường điệu. Người Công giáo Hoa Kỳ có truyền thống đề cao giá trị của nền giáo dục tôn giáo, cả trong các trường học và trong bối cảnh những chương trình huấn luyện cho người lớn. Những điều đó cần được bảo tồn và mở rộng. Đông đảo những người nam nữ quảng đại dấn thân cho các hoạt động từ thiện cần được giúp đỡ để canh tân sự dấn thân của họ nhờ việc “huấn luyện con tim”: “một sự gặp gỡ với Thiên Chúa trong Đức Kitô, làm thức tỉnh tình yêu và mở rộng tinh thần cho kẻ khác” (Deus Caritas Est, 31). Trong một thời buổi mà những tiến bộ y khoa đem lại niềm hy vọng mới cho nhiều người, chúng cũng làm nảy sinh những thách đố đạo đức trước đây không bao giờ nghĩ tới. Điều đó tạo nên sự cần thiết hơn bao giờ hết là mang lại cho những người công giáo dấn thân trong việc săn sóc sức khỏe một sự huấn luyện thấu đáo về giáo huấn luân lý của Giáo Hội. Những hướng dẫn khôn ngoan là cần thiết trong tất cả những công tác tông đồ này để chúng mang lại hoa trái; nếu đúng là cần phải cổ võ mặt tốt của con người thì cũng cần làm cho chúng mới mẻ trong Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta.
Là những người rao giảng Tin mừng và lãnh đạo cộng đoàn công giáo, anh em cũng được mời gọi tham gia vào việc trao đổi ý tưởng tại những nơi công cộng, khi định hình những thái độ văn hoá. Trong bối cảnh mà những phát biểu tự do được đề cao và những tranh luận sôi nổi và thẳng thắn được khuyến khích, tiếng nói của anh em là những tiếng nói đáng kính trọng có nhiều điều đóng góp cho cuộc tranh luận về những vấn đề xã hội và luân lý cấp bách của ngày nay. Bằng cách bảo đảm rằng Tin mừng được nghe cách rõ ràng, anh em không những đào tạo dân chúng thuộc về cộng đoàn của anh em, nhưng bởi vì sự vươn rộng toàn cầu của phương tiện truyền thông, anh em làm cho sứ điệp hy vọng kitô giáo lan rộng khắp trái đất.
Rõ ràng, ảnh hưởng của Giáo hội trên cuộc tranh luận công khai xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau. Tại Hoa Kỳ cũng như bất kỳ nơi nào khác, có những pháp luật hiện hành và được đề nghị đã gây ra những lý do quan tâm từ quan điểm luân lý, và cộng đoàn công giáo, dưới sự hướng dẫn của anh em, cần đưa ra một chứng tá rõ ràng và thống nhất về vấn đề ấy. Càng quan trọng hơn nữa là việc mở rộng dần dần tâm trí và con tim của cộng đoàn rộng lớn hơn cho chân lý luân lý. Nơi đây vẫn còn nhiều điều phải làm. Chủ yếu trong vấn đề này là vai trò của người giáo dân phải hành động như “men” trong xã hội. Tuy vậy không thể cho rằng mọi công dân công giáo đều suy nghĩ phù hợp với giáo huấn của Giáo hội về những vấn đề đạo đức chủ chốt của ngày hôm nay. Một lần nữa, anh em có nhiệm vụ đảm bảo cho việc huấn luyện luân lý ở mọi cấp độ trong đời sống Giáo hội phản ảnh giáo huấn chân chính của Tin Mừng sự sống.
Liên quan đến điều đó, một vấn đề mà chúng ta hết sức quan tâm là tình trạng của gia đình trong xã hội. Quả thế, Hồng y George đã đề cập trước rằng anh em đã bao gồm việc củng cố hôn nhân và đời sống gia đình vào trong các ưu tiên cần quan tâm trong những năm tới. Trong sứ điệp Ngày Quốc tế Hoà bình năm nay, tôi đã nói tới sự đóng góp thiết yếu mà đời sống gia đình lành mạnh đem lại cho hoà bình trong và giữa các quốc gia. Trong ngôi nhà gia đình, chúng ta kinh nghiệm “một vài yếu tố nền tảng của hoà bình: công bình và tình yêu giữa anh chị em, vai trò của quyền bính được các cha mẹ diễn tả, mối quan tâm yêu thương dành cho những thành viên yếu kém hơn vì tuổi trẻ, bệnh hoạn hay tuổi già, sự giúp đỡ lẫn nhau khi thiếu thốn trong cuộc đời, sẵn sàng chấp nhận nhau và nếu cần, tha thứ cho họ” (số 3). Gia đình cũng là nơi đầu tiên để phúc âm hoá, để tiến tới đức tin, để giúp người trẻ hiểu rõ giá trị và tầm quan trọng của các thực hành tôn giáo và giữ ngày Chúa nhật. Làm sao chúng ta có thể không băn khoăn khi thấy sự suy sụp đột ngột của gia đình như một yếu tố cơ bản của Giáo hội và xã hội? Ly dị và sự không chung thủy gia tăng, và nhiều người trẻ nam và nữ quyết định hoãn lại hôn phối hoặc coi như không có hôn phối. Đối với một số bạn trẻ Công giáo, mối dây bí tích hôn phối chẳng khác gì hôn phối dân sự, hoặc coi hôn phối chỉ là một sự thỏa thuận sống với nhau một cách hình thức và không bền vững. Vì thế, có sự giảm sút đáng báo động về hôn phối Công giáo tại Hoa kỳ, đồng thời có sự gia tăng các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn, trong đó sự hiến thân cho nhau của đôi vợ chồng noi gương Đức Kitô, được đóng ấn bởi lời hứa công khai thể hiện đòi buộc dấn thân không thể chia lìa suốt cuộc đời thì đơn giản vắng bóng. Trong hoàn cảnh đó, các trẻ em không có được môi trường an toàn mà chúng cần để đích thực triển nở như một con người, và xã hội không có được khối nhà vững chắc mà nó cần nếu sự dính kết và chú tâm luân lý của cộng đoàn cần được duy trì.
Như vị tiền nhiệm của tôi, Đức Gioan Phaolô II đã dạy: “Vị có trách nhiệm chính yếu trong Giáo phận về việc chăm sóc mục vụ gia đình là giám mục… ngài phải dành cho nó sự quan tâm cá nhân, chăm sóc, thời giờ, nhân sự và tài nguyên, nhưng trên hết sự nâng đỡ cá nhân đối với các gia đình và tất cả những ai… giúp đỡ ngài trong việc chăm sóc mục vụ các gia đình” (Familiaris Consortio, 73). Nhiệm vụ của anh em là mạnh dạn tuyên bố những lý lẽ từ đức tin và lý trí nhằm bảo vệ thể chế hôn nhân, được hiểu như sự dấn thân suốt đời giữa một người nam và một người nữ, hướng mở cho sự truyền sinh. Sứ điệp này phải vang vọng nơi dân chúng ngày hôm nay, bởi vì đây cốt yếu là một “tiếng xin vâng” vô điều kiện và không hạn chế cho sự sống, một “tiếng xin vâng” cho tình yêu, và một “tiếng xin vâng” cho những khát vọng trong con tim của nhân loại, khi chúng ta nỗ lực chu toàn khát vọng sâu xa của chúng ta muốn sống thân mật với người khác và với Chúa.
Trong số những dấu hiệu phản Tin mừng sự sống ở Hoa Kỳ và nơi khác có một dấu hiệu gây tủi hổ sâu xa: đó là sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Nhiều người trong anh em đã nói với tôi về nỗi đau khổ hết sức lớn lao mà cộng đồng anh em phải chịu khi giáo sĩ phản bội những bó buộc và nghĩa vụ của linh mục qua cách hành xử vô luân trầm trọng như vậy. Khi anh em nỗ lực tiêu diệt sự xấu này nơi nào nó xảy ra, anh em được bảo đảm bởi sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của Dân Thiên Chúa trên khắp thế giới. Thật là đúng đắn khi anh em ưu tiên chứng tỏ sự cảm thông và chăm sóc các nạn nhân. Trách vụ Chúa trao cho anh em như những chủ chăn, là băng bó các vết thương do sự hủy hoại sự tín nhiệm gây nên, thăng tiến sự chữa lành, cổ võ hòa giải và tìm gặp những người sai trái trầm trọng như vậy với lòng quan tâm yêu thương.
Đáp trả với hoàn cảnh ấy thì không phải dễ và, như vị Chủ tịch Hội đồng giám mục đã biểu lộ, “đôi khi rất khó mà giải quyết”. Giờ đây tầm mức và sự trầm trọng của vấn đề đã được hiểu biết rõ ràng hơn, anh em đã có thể đưa ra những giải pháp chữa trị và kỷ luật tập trung hơn và cổ võ một môi trường an toàn bảo vệ chắc chắn hơn người trẻ. Trong khi phải luôn ghi nhớ rằng đám đông trổi vượt các giáo sĩ và tu sĩ tại Hoa Kỳ thực hiện công việc nổi bật là đem sứ điệp giải phóng của Tin mừng cho người dân được phó cho sự chăm sóc của họ, vô cùng quan trọng là những người dễ bị tổn thương phải được bảo về khỏi những kẻ gây hãm hại. Như thế, những cố gắng chữa lành và bảo vệ của anh em đang đem lại những hoa quả lớn lao không những cho những ai đang hưởng trực tiếp sự chăm sóc mục vụ của anh em mà còn toàn thể xã hội nữa.
Tuy nhiên nếu gia đình phải hoàn thành mục tiêu trọn vẹn của nó, các chiến lược và chương trình anh em chọn cần được đặt vào trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Các trẻ em đáng được tăng trưởng trong sự hiểu biết lành mạnh về phái tính và chỗ đứng đúng đắn của tính dục trong quan hệ giữa con người với nhau. Chúng phải được tránh khỏi những biểu lộ hèn hạ và sự lôi kéo tục tằn của tính dục đang thịnh hành ngày hôm nay. Chúng có quyền được giáo dục trong những giá trị luân lý đích thực cắm rễ trong phẩm giá con người. Điều đó đem chúng ta trở lại cái nhìn xem gia đình ở trung tâm và nhu cầu cổ võ Tin mừng sự sống. Nói đến việc bảo vệ trẻ em còn có ý nghĩa gì không khi hình ảnh khiêu dâm và bạo lực có thể được xem thấy trong nhiều gia đình qua phương tiện truyền thông sẵn có và phổ biến ngày hôm nay? Chúng ta cần khẩn cấp đánh giá lại các giá trị chống đỡ xã hội, để một nền huấn luyện luân lý lành mạnh có thể trao ban cho người trẻ cũng như người lớn. Tất cả mọi người đều có một trách vụ phải chu toàn trong công việc này, không những các cha mẹ, các vị lãnh đạo tôn giáo, các thầy cô và giáo lý viên, nhưng cả các phương tiện truyền thông và kỹ nghệ giải trí nữa. Quả thế, mỗi thành viên trong xã hội đều có thể góp phần vào sự canh tân luân lý và được lợi ích từ sự canh tân ấy. Chăm lo đích thực đến người trẻ và tương lai của nền văn minh chúng ta có nghĩa là nhìn nhận trách nhiệm cổ võ và sống nhờ những giá trị luân lý đích thực, chỉ mình chúng mới làm cho con người triển nở. Trách nhiệm của anh em, những vị mục tử noi gương Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, là loan báo sứ điệp này cách lớn tiếng và rõ ràng, và vì thế nói đến tội lạm dụng trong bối cảnh rộng lớn hơn của luân lý phái tính. Hơn nữa, nhờ hiểu biết và đương đầu vấn đề khi nó xảy ra trong bối cảnh giáo hội, anh em có thể đưa ra một hướng dẫn cho người khác, bởi vì tai hoạ này không phải chỉ được tìm thấy trong các giáo phận, nhưng trong mọi lãnh vực của xã hội. Nó cần đến một đáp trả dứt khoát, tập thể.
Cả các linh mục nữa cũng cần tới sự hướng dẫn và gần gũi trong thời buổi khó khăn. Các ngài đã kinh nghiệm sự tủi hổ vì sự việc đã xảy ra và có những linh mục cảm thấy mất mát phần nào sự tin tưởng và kính trọng họ từng hưởng. Không ít anh em đang cảm nghiệm sự gần gũi với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn của Người khi chiến đấu để giải quyết các hậu quả của khủng hoảng. Giám mục, như người cha, người anh em và người bạn của các linh mục, có thể giúp họ rút ra được hoa trái thiêng liêng từ sự kết hiệp này với Đức Kitô bằng cách làm cho họ ý thức đến sự hiện diện tràn ngập an ủi giữa các đau khổ, và bằng cách khuyến khích họ cùng với Chúa bước đi trên nẻo đường hy vọng (x. Spe Salvi, 39). Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã lưu ý 6 năm trước: “Chúng ta phải tín thác rằng thời kỳ thử thách đau thương này sẽ mang lại một sự thanh tẩy cho toàn thể cộng đoàn Công giáo”, đưa tới “một hàng ngũ linh mục, giám mục và Giáo hội thánh thiện hơn” (Diễn văn gởi các Hồng y Hoa Kỳ, 23/4/2002, 4). Có nhiều dấu hiệu có thấy trong thời gian qua, sự thanh tẩy ấy đang xảy ra. Sự hiện diện âm thầm của Chúa Kitô giữa những đau khổ của chúng ta dần dần biến tăm tối của chúng ta thành ánh sáng: mọi sự đang được đổi mới trong Chúa Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta.
Vào thời điểm này một phần cốt yếu của nhiệm vụ anh em là tăng cường quan hệ với hàng giáo sĩ của mình, nhất là trong những trường hợp xảy ra căng thẳng giữa các linh mục và giám mục của mình. Điều quan trọng là anh em tiếp tục biểu lộ cho họ sự quan tâm, nâng đỡ họ và hướng dẫn họ bằng gương sáng. Như thế anh em chắc chắn sẽ giúp họ gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và hướng họ về niềm hy vọng biến đổi cuộc sống mà Tin mừng nói tới. Nếu chính anh em sống một cách đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, Đấng đã thí mạng sống vì đoàn chiên, anh em sẽ gợi hứng cho các anh em linh mục hiến dâng lại chính mình để phục vụ đoàn chiên với sự quảng đại giống như Đức Kitô. Quả thế một sự chú tâm rõ ràng hơn nhằm noi gương Đức Kitô trong đời sống thánh thiện là điều đang cần để chúng ta tiến lên phía trước. Chúng ta cần tái khám phá niềm vui sống của một cuộc đời lấy Đức Kitô làm trung tâm, vun trồng các nhân đức, và chìm sâu trong cầu nguyện. Khi người tín hữu biết vị mục tử của mình là một con người cầu nguyện và hiến dâng mạng sống để phục vụ họ, họ đáp lại với sự nồng ấm và tình cảm vốn nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống của toàn thể cộng đoàn.
Thời gian dành cho cầu nguyện thì không hề uổng công, dầu các nhiệm vụ cấp bách áp lực trên chúng ta từ mọi phía. Việc tôn thờ Đức Kitô, Chúa chúng ta, trong bí tích Thánh Thể kéo dài và tăng cường mối giây hiệp nhất với Người vốn được thiết lập qua việc cử hành Thánh lễ (x. Sacramentum Caritatis, 66). Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm mân côi giải toả tất cả quyền năng cứu độ của chúng và nó làm cho ta phù hợp, nối kết và thánh hiến chúng ta cho Đức Giêsu Kitô (x. Rosarium Virginis Mariae, 11, 15). Trung thành với Phụng vụ Các Giờ kinh bảo đảm rằng cả ngày sống của chúng ta được thánh hoá và nhắc nhở chúng ta nhu cầu luôn chú tâm đến sự thực hiện công việc của Thiên Chúa, dù những áp lực và những xao nhãng có thể nảy sinh từ công việc. Vì thế lòng đạo đức giúp chúng ta nói và hành động in persona Christi, dạy dỗ, cai trị và thánh hoá người tín hữu nhân danh Đức Giêsu, đem lại sự hoà giải, chữa lành và tình yêu cho mọi anh chị em yêu dấu. Sự đồng hình đồng dạng triệt để này với Đức Kitô, vị Mục tử nhân lành, nằm ở trung tâm thừa tác vụ mục vụ của chúng ta, và nếu chúng ta mở lòng nhờ lời cầu khẩn quyền năng của Thánh Linh, Người sẽ ban cho chúng ta ân huệ cần thiết để chu toàn nhiệm vụ gây nản chí của chúng ta, để chúng ta không bao giờ “lo lắng phải nói như thế nào và nói gì” (Mt 10,19).
Khi kết thúc những lời tôi nói với anh em chiều nay, tôi phó dâng Giáo hội trong đất nước anh em cách đặc biệt cho sự chăm sóc từ mẫu và lời chuyển cầu của Đức Maria Vô Nhiễm, Bổn mạng của Hoa Kỳ. Nguyện Mẹ là Đấng mang trong cung lòng Mẹ niềm Hy vọng của mọi quốc gia chuyển cầu cho dân chúng nước này, để mọi người được canh tân trong Đức Giêsu Kitô, Con Mẹ. Anh em Giám mục thân mến, tôi bảo đảm cho mọi anh em hiện diện tại đây tình bạn sâu xa và sự thông phần của tôi vào các mối quan tâm mục vụ của anh em. Cho tất cả anh em, cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của anh em, tôi chân thành ban phép lành Toà thánh như một bảo chứng của niềm vui và bình an của Chúa phục sinh.
© Copyright 2008 - Libreria Editrice Vaticana
Đức Thánh Cha viếng thăm Ground Zero
Đặng Tự Do
13:47 20/04/2008
Đức Thánh Cha đã bắt đầu ngày cuối cùng trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ngài bằng cách thăm viếng Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế nơi quân khủng bố đã đâm hai máy bay vào Tòa Tháp Đôi ngày 11/9/2001.
Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Ground Zero đã diễn ra trong không khí trầm mặc trái hẳn với những buổi lễ tưng bừng với con số đông đảo người Công Giáo và không Công Giáo tại Hoa Kỳ chào đón ngài thật náo nhiệt trong những ngày qua. Bầu trời xám xịt giăng trên khung trời khu vực tài chính thế giới trong một ngày giá lạnh như chia sẻ lòng thương cảm đối với những nạn nhân của vụ tấn công khủng bố dã man này.
Xe của Đức Thánh Cha đã đi xuống dưới tầng hầm bằng đường đi chỉ dành cho các nhân viên kiến trúc đang xây dựng cao ốc 120 tầng, một khu vực tưởng niệm và một trạm chuyển tiếp. Thông thường, các buổi tưởng niệm các nạn nhân được cử hành bên trên ở khu vực trạm xe điện. Buổi cử hành của Đức Thánh Cha đã diễn ra bên dưới tầng hầm ngay tại địa điểm của Tòa Tháp phía Bắc.
Đức Thánh Cha đã quỳ gối cầu nguyện sau đó ngài thắp một ngọn nến tưởng niệm cho hơn 2900 nạn nhân bị giết tại đây, cũng như trong 4 vụ đâm máy bay và một vụ rớt máy bay của hãng hàng không United Airlines số 93 tại Shanksville, Pensylvania. Cho đến nay 1100 người vẫn không tìm thấy xác.
Đức Thánh Cha đã dâng lên cầu nguyện sau đây:
“Chúng con xin vì lòng nhân lành Chúa
ban ánh sáng và an bình trường cửu
cho những ai đã chết nơi đây -
những người anh hùng đã đáp lại đầu tiên:
những người lính cứu hỏa, những cảnh sát viên chúng con,
những nhân viên cấp cứu, và những nhân viên Port Authority,
cùng với tất cả những người nam nữ vô tội
là nạn nhân của thảm kịch này
chỉ vì công việc hay sự phục vụ của họ
đã đưa họ đến đây ngày 11/9/2001
Chúng con cậy vì lòng nhân từ của Chúa
xin mang ơn chữa lành đến những ai
vì sự hiện diện của họ trong ngày đó
chịu đựng những vết thương và đau yếu.
Xin Chúa cũng chữa lành đau thương của những gia đình than khóc
và của tất cả những ai mất đi người thân yêu trong thảm kịch này.
Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục cuộc sống với lòng can đảm và hy vọng.
Lạy Thiên Chúa của bình an, xin Chúa ban hòa bình cho thế giới bạo lực này của chúng con. Xin Chúa biến cải theo đường lối yêu thương của Chúa những tâm hồn và tâm trí chất chứa đầy thù hận”.
Sau lời nguyện Đức Thánh Cha đã rảy nước thánh ban phép lành cho địa điểm này và những người tham dự buổi cầu nguyện.
24 người có liên hệ trong vụ này gồm những nạn nhân sống sót, những thân nhân, và 4 người đến trợ giúp đã được mời để tham dự buổi cầu nguyện này cùng với ngài. Ngài hỏi han từng người một. Trong số họ cũng có những người không Công Giáo. Những người Công Giáo đã quỳ xuống hôn nhẫn ngài.
Ông James Riches, giám đốc Cứu Hỏa New York có người con cũng là lính cứu hỏa đã tử nạn trong vụ này nói rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha mang lại ủi an trong tâm hồn cho ông.
Hàng ngàn người đã đứng chung quanh khu vực cố nhìn cho được Đức Thánh Cha. Đức Hồng Y Edward Egan của tổng giáo phận New York, thị trưởng Michael Bloomberg, Thống Đốc New York David Paterson và Thống Đốc New Jersey Jon Corzine đã tháp tùng Đức Thánh Cha.
![]() |
Đức Thánh Cha xuống tận bên dưới nơi chân Tòa Tháp Đôi |
![]() |
Toàn cảnh khu vực |
![]() |
Đức Thánh Cha qùy cầu nguyện |
![]() |
Đức Thánh Cha gặp các nạn nhân |
![]() |
Đức Thánh Cha đốt nến tưởng niệm |
Xe của Đức Thánh Cha đã đi xuống dưới tầng hầm bằng đường đi chỉ dành cho các nhân viên kiến trúc đang xây dựng cao ốc 120 tầng, một khu vực tưởng niệm và một trạm chuyển tiếp. Thông thường, các buổi tưởng niệm các nạn nhân được cử hành bên trên ở khu vực trạm xe điện. Buổi cử hành của Đức Thánh Cha đã diễn ra bên dưới tầng hầm ngay tại địa điểm của Tòa Tháp phía Bắc.
Đức Thánh Cha đã quỳ gối cầu nguyện sau đó ngài thắp một ngọn nến tưởng niệm cho hơn 2900 nạn nhân bị giết tại đây, cũng như trong 4 vụ đâm máy bay và một vụ rớt máy bay của hãng hàng không United Airlines số 93 tại Shanksville, Pensylvania. Cho đến nay 1100 người vẫn không tìm thấy xác.
Đức Thánh Cha đã dâng lên cầu nguyện sau đây:
“Chúng con xin vì lòng nhân lành Chúa
ban ánh sáng và an bình trường cửu
cho những ai đã chết nơi đây -
những người anh hùng đã đáp lại đầu tiên:
những người lính cứu hỏa, những cảnh sát viên chúng con,
những nhân viên cấp cứu, và những nhân viên Port Authority,
cùng với tất cả những người nam nữ vô tội
là nạn nhân của thảm kịch này
chỉ vì công việc hay sự phục vụ của họ
đã đưa họ đến đây ngày 11/9/2001
Chúng con cậy vì lòng nhân từ của Chúa
xin mang ơn chữa lành đến những ai
vì sự hiện diện của họ trong ngày đó
chịu đựng những vết thương và đau yếu.
Xin Chúa cũng chữa lành đau thương của những gia đình than khóc
và của tất cả những ai mất đi người thân yêu trong thảm kịch này.
Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục cuộc sống với lòng can đảm và hy vọng.

Sau lời nguyện Đức Thánh Cha đã rảy nước thánh ban phép lành cho địa điểm này và những người tham dự buổi cầu nguyện.
24 người có liên hệ trong vụ này gồm những nạn nhân sống sót, những thân nhân, và 4 người đến trợ giúp đã được mời để tham dự buổi cầu nguyện này cùng với ngài. Ngài hỏi han từng người một. Trong số họ cũng có những người không Công Giáo. Những người Công Giáo đã quỳ xuống hôn nhẫn ngài.
Ông James Riches, giám đốc Cứu Hỏa New York có người con cũng là lính cứu hỏa đã tử nạn trong vụ này nói rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha mang lại ủi an trong tâm hồn cho ông.
Hàng ngàn người đã đứng chung quanh khu vực cố nhìn cho được Đức Thánh Cha. Đức Hồng Y Edward Egan của tổng giáo phận New York, thị trưởng Michael Bloomberg, Thống Đốc New York David Paterson và Thống Đốc New Jersey Jon Corzine đã tháp tùng Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tại sân vận động Yankee
Đặng Tự Do
16:56 20/04/2008
![]() |
![]() |
![]() |
Hoan hô Đức Thánh Cha |
![]() |
Nhiều người cảm động nhìn thấy Đức Thánh Cha |
![]() |
Một người cha và đứa con 7 tháng tuổi |
![]() |
Đức Thánh Cha chào anh chị em lúc đầu lễ |
![]() |
Lễ đài |
![]() |
Toàn cảnh sân vận động Yankee |
Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nói: “Chúa Kitô là con đường dẫn đến Chúa Cha, là sự thật mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại nhân loại, và là nguồn mạch của cuộc sống cũng là niềm vui bất tận cho tất cả các thánh trên nước Thiên Đàng”. Ngài thúc giục anh chị em tín hữu "hãy mau tìm kiếm nước Thiên Chúa".

Tuy nhiên trong thánh lễ bế mạc chuyến tông du Hoa Kỳ này, Đức Thánh Cha cũng nói rằng “sự tăng trưởng đầy ấn tượng” của Giáo Hội tại Hoa Kỳ “không phải là không có những thử thách” khi so sánh với những thách đố đối với “những căng thẳng về ngôn ngữ và văn hóa” nơi các Giáo Hội sơ khai. Đức Thánh Cha đã dùng cụm từ “những căng thẳng về ngôn ngữ và văn hóa” để giải thích về một đoạn trong bài Trích Sách Tông Đồ Công Vụ được đọc trong thánh lễ Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Phục Sinh hôm nay: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên” (Cv 6:1).
Đức Thánh Cha đã chỉ ra tính chất hiệp nhất của Giáo Hội thể hiện trong thánh lễ này. “Sự hiện diện chung quanh bàn thờ này của đấng Kế Vị Thánh Phêrô, các anh em Giám Mục và linh mục, các phó tế, các tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân từ khắp 50 tiểu bang của Hiệp Chủmg Quốc Hoa Kỳ, thể hiện hùng hồn sự hiệp thông trong đức tin Công Giáo đến với chúng ta từ các thánh Tông Đồ”.
Sân vận động 60,000 chỗ ngồi của thành phố New York đã không còn chỗ trống trong thánh lễ đánh dấu kỷ niệm 200 năm thành lập các tổng giáo phận New York, Boston, Philadelphia và Louisville, Ky. Tất cả đã được thành lập từ tổng giáo phận tiên khởi Baltimore.
“Trong 200 năm vừa qua, gương mặt của cộng đoàn Công Giáo trong xứ sở anh chị em đã thay đổi sâu xa. Chúng ta nghĩ đến làn sóng những người nhập cư mà truyền thống của họ đã phong phú hóa Giáo Hội tại Mỹ Châu”.
Đức Thánh Cha cũng đã ca ngợi “đức tin mạnh mẽ đã tạo nên mạng lưới những giáo đường, học đường, bệnh viện, và các cơ sở xã hội đã là dấu ấn lâu dài của Giáo Hội tại miền đất này.” Đức Thánh Cha cũng ca ngợi “cơ man những người cha, người mẹ đã truyền lại đức tin cho con cái họ, sự bền đỗ trong sứ vụ của đông đảo linh mục, những người tận hiến đời mình cho việc chăm sóc các linh hồn, và những đóng góp không thể tính được của đông đảo các nữ tu nam nữ”.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng lễ kỷ niệm 200 không phải chỉ là dịp để “bày tỏ lòng biết ơn về những hồng ân đã được lãnh nhận”.
“Đó cũng là một lời mời gọi để tiến bước với một quyết tâm mạnh mẽ để sử dụng khôn ngoan hồng ân tự do ngõ hầu xây đắp một tương lai đầy hy vọng cho những thế hệ sắp tới”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng tự do đích thật chỉ có khi con người từ bỏ chính mình và quay lưng lại với tội lỗi. Khi kêu gọi người Công Giáo Hoa Kỳ biết dùng cách khôn ngoan hồng ân tự do, Đức Thánh Cha khẳng định Chúa Kitô đã giải phóng con người khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết.
Trên khán đài được trang bị bởi những cờ quạt tím, vàng và trắng; những bông hoa trang điểm trên bàn thờ màu vàng và trắng trong khi lễ đài chính được trang trí bởi huy hiệu của Tòa Thánh và của tổng giáo phận New York.
Hiện diện trong thánh lễ có Đức Hồng Y Edward Egan, Tổng Giám Mục New York, Đức Hồng Y Sean O'Malley của giáo phận Boston, Đức Hồng Y Justin Rigali của tổng giáo phận Philadelphia, Đức Tổng Giám Mục Joseph E. Kurtz của tổng giáo phận Louisville, Ky, và một số các vị Giám Mục khác.
500 linh mục đã cùng dâng lễ với Đức Thánh Cha và trao Mình Thánh Chúa trong 14 phút.
Thánh lễ diễn ra lúc 2:30 nhưng từ 9 giờ sáng đông đảo anh chị em tín hữu đã tề tựu tại đây. Khoảng 10 giờ, các ban nhạc đã bắt đầu biểu diễn giúp vui với phần trình diễn của Stephanie Mills, Jose Feliciano, Ronan Tynan, và Harry Connick, Jr trong ban hợp tấu gọi là “Concert of Hope”. Sau phần trình diễn này là liên tiếp các phần trình diễn của các trường Công Giáo và các quận tại New York.
Lúc 2 giờ Đức Thánh Cha đã đến sân vận động và xe của ngài đã đi một vòng để chào thăm anh chị em tín hữu trong những tiếng reo hò vang dậy. Những làn sóng người đã đứng dậy múa theo nhịp điệu Mễ Tây Cơ để chào Đức Thánh Cha khi ngài đi gần đến họ. Trong khi đó khoảng 50 người đi vòng quanh lễ đài thả những chịm bồ câu tung bay lên trời xanh quang đãng trong một ngày nắng ấm dù buổi sáng trời âm u và lạnh lẽo.
Tại vận động trường khổng lồ này, nhiều màn ảnh truyền hình lớn đã được bố trí để anh chị em tín hữu có thể theo dõi thánh lễ và nhìn thấy Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI là vị Giáo Hoàng thứ ba cử hành thánh lễ tại sân vận động này. Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã cử hành thánh lễ tại đây năm 1964. Năm 1979, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã cử hành thánh lễ tại địa điểm này.
Sau thánh lễ, Đức Thánh Cha sẽ ra phi trường Kennedy vào lúc 8 giờ để về lại Rôma. Hơn 3000 người sẽ ra tiễn Đức Thánh Cha.
Top Stories
Pope Benedict praises American church in final US Mass
AP
17:30 20/04/2008
NEW YORK - Pope Benedict XVI celebrated his final Mass in the United States before a full house in storied Yankee Stadium on Sunday, blessing his enormous U.S. flock and telling Americans to use their freedoms wisely.
Benedict beamed at a joyous crowd of 57,000, hours after making a solemn stop to pray at the site of the Sept. 11, 2001, terrorist attacks on the World Trade Center.
He called the Mass "a summons to move forward with firm resolve to use wisely the blessings of freedom, in order to build a future of hope for coming generations."
And he repeated a core message of his six-day pilgrimage — that faith must play a role in public life, citing the need to oppose abortion.
The unwavering truth of the Roman Catholic message, he said, guarantees respect for the dignity of all "including the most defenseless of all human beings, the unborn child in the mother's womb." The crowd applauded the line.
Worshippers filled the seats, chanting, clapping and waving white and yellow handkerchiefs in the Vatican's colors as the white popemobile pulled in. At the end of the service, the German-born Benedict again processed out slowly as the strains of Beethoven's "Ode to Joy" serenaded him.
Outside the stadium, two yellow dump trucks filled with sand blockaded 161st Street before Mass, an extra level of security along with the heavy police presence. Pilgrims without tickets pushed up against metal police barricades, hoping to get a glimpse of the arriving pope.
Inside, ad-splashed outfield walls were draped in white with purple and yellow bunting. A white altar perched over second base, and the papal seal covered the pitcher's mound, suspended by white and yellow ribbons.
"I have never seen Yankee Stadium so beautiful, and I have season's tickets," said Philip Giordano, 49, a tax attorney from Greenwich, Conn., who won seats in the loge section behind home plate through a parish lottery. "It sure beats sitting in my local church."
Added his wife, Suzanne: "I'm hoping to feel something from (Benedict). Everyone who has seen him says they crumple, their knees buckle. You come away just feeling different."
The New Orleans crooner Harry Connick Jr., on the pre-Mass concert program, remarked that he is often asked if he's a practicing Catholic.
"Practicing?" he said. "I'm playing for the pope today."
Benedict seemed to enjoy his long procession to the altar in the popemobile, waving to people in the stands. From the altar, he stood to acknowledge the crowd's roar when New York Cardinal Edward Egan welcomed him.
He also praised the U.S. church, which has 65 million members, in his homily, saying that "in this land of freedom and opportunity, the church has united a widely diverse flock" and contributed greatly to American society.
Earlier, on a chilly, gray morning, the pope blessed the site of the terror attacks and pleaded with God to bring "peace to our violent world."
The visit by Benedict to ground zero was a poignant moment in a trip marked by unexpectedly festive crowds such as the one at Sunday's Mass.
Benedict was driven in the popemobile part-way down a ramp now used mostly by construction trucks to a spot by the north tower's footprint. He walked the final steps, knelt in silent prayer, then rose to light a memorial candle.
Addressing a group that included survivors, clergy and public officials, he acknowledged the many faiths of the victims at the "scene of incredible violence and pain."
The pope also prayed for "those who suffered death, injury and loss" in the attacks at the Pentagon and in the crash of United Airlines Flight 93 in Shanksville, Pa. More than 2,900 people were killed in the four crashes of the airliners hijacked by al-Qaida.
"God of peace, bring your peace to our violent world," the pope prayed. "Turn to your way of love those whose hearts and minds are consumed with hatred."
Benedict invited 24 people with ties to ground zero to join him: survivors, relatives of victims and four rescue workers. He greeted each member of the group individually as a string quartet played in the background. In his prayer, he also remembered those who, "because of their presence here that day, suffer from injuries and illness."
New York deputy fire chief James Riches, father of a fallen Sept. 11 firefighter, said the pope's visit gave him consolation.
"We said 'Where was God?' on 9/11, but he's come back here today and they've restored our faith," Riches said.
The site where the World Trade Center was destroyed is normally filled with hundreds of workers building a 102-story skyscraper, a memorial and transit hub. It bears little resemblance to the debris-filled pit where crews toiled to remove twisted steel and victims' remains.
The remains of more than 1,100 people have never been identified.
Benedict was joined by Egan, along with Mayor Michael Bloomberg, New York Gov. David Paterson and New Jersey Gov. Jon Corzine. The land is owned and managed by the Port Authority of New York & New Jersey.
Benedict has addressed terrorism several times during his six-day visit.
In a private meeting with President Bush, the two leaders "touched on the need to confront terrorism with appropriate means that respect the human person and his or her rights," according to a joint U.S.-Holy See statement.
Addressing the United Nations on Friday, Benedict said the way to peace was by ensuring respect for human dignity.
"The promotion of human rights remains the most effective strategy for eliminating inequalities between countries and social groups, and increasing security," the pope said.
Those whose rights are trampled, he said, "become easy prey to the call to violence and they then become violators of peace."
(Source: By Victor Simpson, Associated Press)
Benedict beamed at a joyous crowd of 57,000, hours after making a solemn stop to pray at the site of the Sept. 11, 2001, terrorist attacks on the World Trade Center.

And he repeated a core message of his six-day pilgrimage — that faith must play a role in public life, citing the need to oppose abortion.
The unwavering truth of the Roman Catholic message, he said, guarantees respect for the dignity of all "including the most defenseless of all human beings, the unborn child in the mother's womb." The crowd applauded the line.
Worshippers filled the seats, chanting, clapping and waving white and yellow handkerchiefs in the Vatican's colors as the white popemobile pulled in. At the end of the service, the German-born Benedict again processed out slowly as the strains of Beethoven's "Ode to Joy" serenaded him.
Outside the stadium, two yellow dump trucks filled with sand blockaded 161st Street before Mass, an extra level of security along with the heavy police presence. Pilgrims without tickets pushed up against metal police barricades, hoping to get a glimpse of the arriving pope.
Inside, ad-splashed outfield walls were draped in white with purple and yellow bunting. A white altar perched over second base, and the papal seal covered the pitcher's mound, suspended by white and yellow ribbons.
"I have never seen Yankee Stadium so beautiful, and I have season's tickets," said Philip Giordano, 49, a tax attorney from Greenwich, Conn., who won seats in the loge section behind home plate through a parish lottery. "It sure beats sitting in my local church."
Added his wife, Suzanne: "I'm hoping to feel something from (Benedict). Everyone who has seen him says they crumple, their knees buckle. You come away just feeling different."
The New Orleans crooner Harry Connick Jr., on the pre-Mass concert program, remarked that he is often asked if he's a practicing Catholic.
"Practicing?" he said. "I'm playing for the pope today."
Benedict seemed to enjoy his long procession to the altar in the popemobile, waving to people in the stands. From the altar, he stood to acknowledge the crowd's roar when New York Cardinal Edward Egan welcomed him.
He also praised the U.S. church, which has 65 million members, in his homily, saying that "in this land of freedom and opportunity, the church has united a widely diverse flock" and contributed greatly to American society.
Earlier, on a chilly, gray morning, the pope blessed the site of the terror attacks and pleaded with God to bring "peace to our violent world."
The visit by Benedict to ground zero was a poignant moment in a trip marked by unexpectedly festive crowds such as the one at Sunday's Mass.
Benedict was driven in the popemobile part-way down a ramp now used mostly by construction trucks to a spot by the north tower's footprint. He walked the final steps, knelt in silent prayer, then rose to light a memorial candle.
Addressing a group that included survivors, clergy and public officials, he acknowledged the many faiths of the victims at the "scene of incredible violence and pain."
The pope also prayed for "those who suffered death, injury and loss" in the attacks at the Pentagon and in the crash of United Airlines Flight 93 in Shanksville, Pa. More than 2,900 people were killed in the four crashes of the airliners hijacked by al-Qaida.
"God of peace, bring your peace to our violent world," the pope prayed. "Turn to your way of love those whose hearts and minds are consumed with hatred."
Benedict invited 24 people with ties to ground zero to join him: survivors, relatives of victims and four rescue workers. He greeted each member of the group individually as a string quartet played in the background. In his prayer, he also remembered those who, "because of their presence here that day, suffer from injuries and illness."
New York deputy fire chief James Riches, father of a fallen Sept. 11 firefighter, said the pope's visit gave him consolation.
"We said 'Where was God?' on 9/11, but he's come back here today and they've restored our faith," Riches said.
The site where the World Trade Center was destroyed is normally filled with hundreds of workers building a 102-story skyscraper, a memorial and transit hub. It bears little resemblance to the debris-filled pit where crews toiled to remove twisted steel and victims' remains.
The remains of more than 1,100 people have never been identified.
Benedict was joined by Egan, along with Mayor Michael Bloomberg, New York Gov. David Paterson and New Jersey Gov. Jon Corzine. The land is owned and managed by the Port Authority of New York & New Jersey.
Benedict has addressed terrorism several times during his six-day visit.
In a private meeting with President Bush, the two leaders "touched on the need to confront terrorism with appropriate means that respect the human person and his or her rights," according to a joint U.S.-Holy See statement.
Addressing the United Nations on Friday, Benedict said the way to peace was by ensuring respect for human dignity.
"The promotion of human rights remains the most effective strategy for eliminating inequalities between countries and social groups, and increasing security," the pope said.
Those whose rights are trampled, he said, "become easy prey to the call to violence and they then become violators of peace."
(Source: By Victor Simpson, Associated Press)
'Move forward' in faith, pope urges Catholics at Yankee Stadium Mass
Catholic News Service
20:05 20/04/2008
NEW YORK (CNS) -- At Yankee Stadium, transformed into an open-air church April 20, Pope Benedict XVI urged more than 57,000 Catholics to "move forward with firm resolve" in continuing the legacy of faith set in motion by the country's first Catholics.
"Follow faithfully in the footsteps of those who have gone before you!" he told the stadium congregation on a cool, breezy and overcast afternoon.
"Past generations have left you an impressive legacy," he said, adding that "on these solid foundations the future of the church in America, must even now begin to rise."
The congregation welcomed the pope to by waving gold and white handkerchiefs and cheering "Benedetto" ("Benedict" in Italian) upon his arrival and immediately after his homily.
They cheered loudly and yelled, "We love you" while waving handkerchiefs upon the pope's final procession from the ball field on his last Mass during his six-day visit to the United States.
During the pope's homily they applauded his message of defending the rights of "unborn child in the mother's womb" and his encouragement to young men and young women to "follow in the footsteps of Christ, who was willing to lay down his life for his friends."
The crowd also applauded at the pope's final words of his homily, saying that Jesus is the way that leads to eternal happiness.. . and the life who brings ever new joy and hope, to us and to our world."
The pope made several references to freedom and said society "rightly places a high value on personal freedom," yet he cautioned that American Catholics should "use wisely the blessings of freedom" to "build a future of hope for coming generations."
The Mass was a celebration of the 200th anniversaries of the archdioceses of New York, Boston, Philadelphia and Louisville, Ky., and of the elevation of Baltimore to an archdiocese. It was from Baltimore, the nation's first diocese, that the other four were created.
Banners covering the scoreboard and located near the jumbo screens honored each archdiocese; each was named in welcoming remarks by New York Cardinal Edward M. Egan.
The ballpark, known by many as the "house that Ruth built," a reference to famous Yankee Babe Ruth, took on a entirely different look with an altar and papal throne placed over second base and all billboards covered with cloth. Pennant flags were replaced with flags of purple, yellow and white.
The pope and U.S. cardinals emerged for the opening procession from the players' dugout. Papal Masses are not new to this stadium, which was built in 1923 and is in its last season. A new stadium is being built right beside it. Pope Paul VI celebrated Mass at the stadium in 1965 and Pope John Paul II did in 1979.
Prior to the beginning of Mass, the congregation lined the concourses for food and some purchased rosaries and T-shirts commemorating Pope Benedict's U.S. visit.
Sister Thomas Donohue, a Sister of Charity from Nanuet, N.Y., who wore a gold kerchief around her neck, said before the Mass that she had a "sense of God's presence here."
"There is a sense of peace, a sense of the Holy Spirit being with us," she told Catholic News Service. Although she eagerly anticipated seeing the pope, she was inspired to see so many in the stadium, especially those who traveled great distances.
"They have a need to be in this man's presence," she said, "and he is able to bring us God's spirit."
In his homily, the pope praised the early church in the United States for establishing "a network of churches, educational, health care and social institutions which have long been the hallmarks of the church in this land." He also noted that "in this land of religious liberty," early Catholics found freedom not only to practice their faith fur but participate fully in public life.
"From a small flock," he said, the U.S. church has been united in its profession of faith and "contributed significantly to the growth of American society as a whole."
The pope acknowledged that the apostles and then the early church in the U.S. faced challenges in living out their faith, not unlike U.S. Catholics today.
For men and women to truly live out their faith, he said, Catholics must face challenges with confidence and "not lose heart in the face of resistance, adversity and scandal."
Although he alluded to scandal in a general way, he did not speak of the church's sexual abuse scandal as he did in many other venues during his U.S. visit.
Pope Benedict praised the U.S. Catholic Church for being "outstanding in its prophetic witness in the defense of life, in the education of the young, in care for the poor, the sick and the stranger in your midst."
He urged Catholics to pray fervently for the coming of the kingdom but urged them to at the same time be "constantly alert for the signs of its presence and working for its growth in every sector of society."
This "means overcoming every separation between faith and life and countering the false gospels of freedom and happiness," he said. "It also means rejecting a false dichotomy between faith and political life and.. . working to enrich American society and culture" as well as "never losing sight of that great hope which gives meaning and value to all other hopes which inspire our lives."
The pope made a special appeal to young people, urging them to "step forward and take up the responsibility which your faith in Christ sets before you."
"Young men and women of America, I urge you; open your hearts to the Lord's call to follow him in the priesthood and religious life."
He also urged other Catholics to give these young people, whom he called "the future of the church," all the prayer and support they can give them.
The message echoed what he had told them the previous night at a rally for seminarians and young people at St. Joseph's Seminary in Yonkers.
Trish Bailey, a 32-year-old from Rochester, who attended the rally and also was at the Yankee Stadium Mass, said: "It feels like a tremendous privilege that the Holy Father takes such interest in America and youth."
The pope's message of encouragement to young people "needs to be heard," she said. "He believes in us more than we believe in ourselves," she added.
(Source: By Carol Zimmermann /Catholic News Service)
"Follow faithfully in the footsteps of those who have gone before you!" he told the stadium congregation on a cool, breezy and overcast afternoon.
"Past generations have left you an impressive legacy," he said, adding that "on these solid foundations the future of the church in America, must even now begin to rise."
The congregation welcomed the pope to by waving gold and white handkerchiefs and cheering "Benedetto" ("Benedict" in Italian) upon his arrival and immediately after his homily.
They cheered loudly and yelled, "We love you" while waving handkerchiefs upon the pope's final procession from the ball field on his last Mass during his six-day visit to the United States.
During the pope's homily they applauded his message of defending the rights of "unborn child in the mother's womb" and his encouragement to young men and young women to "follow in the footsteps of Christ, who was willing to lay down his life for his friends."
The crowd also applauded at the pope's final words of his homily, saying that Jesus is the way that leads to eternal happiness.. . and the life who brings ever new joy and hope, to us and to our world."
The pope made several references to freedom and said society "rightly places a high value on personal freedom," yet he cautioned that American Catholics should "use wisely the blessings of freedom" to "build a future of hope for coming generations."
The Mass was a celebration of the 200th anniversaries of the archdioceses of New York, Boston, Philadelphia and Louisville, Ky., and of the elevation of Baltimore to an archdiocese. It was from Baltimore, the nation's first diocese, that the other four were created.
Banners covering the scoreboard and located near the jumbo screens honored each archdiocese; each was named in welcoming remarks by New York Cardinal Edward M. Egan.
The ballpark, known by many as the "house that Ruth built," a reference to famous Yankee Babe Ruth, took on a entirely different look with an altar and papal throne placed over second base and all billboards covered with cloth. Pennant flags were replaced with flags of purple, yellow and white.
The pope and U.S. cardinals emerged for the opening procession from the players' dugout. Papal Masses are not new to this stadium, which was built in 1923 and is in its last season. A new stadium is being built right beside it. Pope Paul VI celebrated Mass at the stadium in 1965 and Pope John Paul II did in 1979.
Prior to the beginning of Mass, the congregation lined the concourses for food and some purchased rosaries and T-shirts commemorating Pope Benedict's U.S. visit.
Sister Thomas Donohue, a Sister of Charity from Nanuet, N.Y., who wore a gold kerchief around her neck, said before the Mass that she had a "sense of God's presence here."
"There is a sense of peace, a sense of the Holy Spirit being with us," she told Catholic News Service. Although she eagerly anticipated seeing the pope, she was inspired to see so many in the stadium, especially those who traveled great distances.
"They have a need to be in this man's presence," she said, "and he is able to bring us God's spirit."
In his homily, the pope praised the early church in the United States for establishing "a network of churches, educational, health care and social institutions which have long been the hallmarks of the church in this land." He also noted that "in this land of religious liberty," early Catholics found freedom not only to practice their faith fur but participate fully in public life.
"From a small flock," he said, the U.S. church has been united in its profession of faith and "contributed significantly to the growth of American society as a whole."
The pope acknowledged that the apostles and then the early church in the U.S. faced challenges in living out their faith, not unlike U.S. Catholics today.
For men and women to truly live out their faith, he said, Catholics must face challenges with confidence and "not lose heart in the face of resistance, adversity and scandal."
Although he alluded to scandal in a general way, he did not speak of the church's sexual abuse scandal as he did in many other venues during his U.S. visit.
Pope Benedict praised the U.S. Catholic Church for being "outstanding in its prophetic witness in the defense of life, in the education of the young, in care for the poor, the sick and the stranger in your midst."
He urged Catholics to pray fervently for the coming of the kingdom but urged them to at the same time be "constantly alert for the signs of its presence and working for its growth in every sector of society."
This "means overcoming every separation between faith and life and countering the false gospels of freedom and happiness," he said. "It also means rejecting a false dichotomy between faith and political life and.. . working to enrich American society and culture" as well as "never losing sight of that great hope which gives meaning and value to all other hopes which inspire our lives."
The pope made a special appeal to young people, urging them to "step forward and take up the responsibility which your faith in Christ sets before you."
"Young men and women of America, I urge you; open your hearts to the Lord's call to follow him in the priesthood and religious life."
He also urged other Catholics to give these young people, whom he called "the future of the church," all the prayer and support they can give them.
The message echoed what he had told them the previous night at a rally for seminarians and young people at St. Joseph's Seminary in Yonkers.
Trish Bailey, a 32-year-old from Rochester, who attended the rally and also was at the Yankee Stadium Mass, said: "It feels like a tremendous privilege that the Holy Father takes such interest in America and youth."
The pope's message of encouragement to young people "needs to be heard," she said. "He believes in us more than we believe in ourselves," she added.
(Source: By Carol Zimmermann /Catholic News Service)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hướng Về Trăm Năm Giáo Xứ Trì Chính, Phát Diệm
Teresa Avila Pham Thuy Chi
05:27 20/04/2008
HƯỚNG VỀ TRĂM NĂM TRÌ CHÍNH
Hồng ân Thiên Chúa tràn trào
Tri ân, cảm tạ, dạt dào niềm vui.
Linh mục Hồng Phúc
Nhà thờ Giáo xứ Trì Chính

Kể từ sau ngày lễ Chầu lượt giáo xứ Trì Chính hôm Chúa nhật XXX Thường niên năm C, ngày 28.10.2007 năm vừa rồi, cho tới nay, em có về Giáo phận Phát Diệm nhiều lần nhưng chưa có dịp trở lại thăm giáo xứ Trì Chính. Trong ngày lễ Chúa Chiên Lành năm nay, em về Phát Diệm vào chiều thứ Bảy để hôm sau tham dự lễ Chầu lượt xứ Tôn Đạo. Và được sự cho phép của Cha Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, chính xứ Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm kiêm phụ trách hai xứ Trì Chính và xứ Phát Vinh, em đã tới tham dự lễ sáng Chúa nhật lễ Chúa Chiên Lành tại giáo xứ Trì Chính nhân dịp giáo xứ đang chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ, năm 1908 – 2008.
Nhà thờ Trì Chính nằm ở trong khu dân cư thuộc xã Kim Chính, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Nhà thờ Trì Chính cách Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm hơn 1000m, phía bên kia sông Vạc. Theo lời kể của ông Chánh trương Giuse Đỗ Văn Bằng thì vào năm 1908 thành lập Giáo xứ Trì Chính đã có ngôi Nhà thờ này. Nhà thờ được xây dựng đặt hướng nhìn ra dòng sông Vạc. Sông Vạc nối tiếp bởi sông Luồn và sông Chanh thuộc sông Hoàng Long. Dòng sông Vạc chảy qua thành phố Ninh Bình và còn là ranh giới của hai huyện Yên Khánh với huyện Yên Mô chảy tới thị trấn Kim Sơn dọc qua hai xã Kim Chính và xã Thượng Kiệm rồi nhập vào sông Đáy, từ sông Đáy chảy ra Biển Đông. Em đã đọc bài viết “Quê Hương Yêu Dấu” của Kim Ân đăng trên www.dunglac.org thì được hiểu hơn vì sao các dòng sông của huyện Kim Sơn nhiều phù sa đến thế. Trong bài, ngài viết: “Đất quê ta lật lên có màu đỏ sậm. Thủa ấu thơ tôi vẫn tin rằng đất ở đâu mà chẳng thế. Mãi tới khi lưu lạc tha hương tôi mới nhận ra rằng cũng là đất nhưng có chỗ màu vàng, có nơi màu nâu, lại có chỗ màu đen hay màu sám. Màu đất nạc đỏ sậm là nét đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là màu nặng trĩu muôn triệu hạt phù sa. Thiên nhiên vốn trường cửu và cứ bình thản theo nhịp sống của riêng mình để những dải đất phì nhiêu sậm đỏ cứ lớn dần lớn dần về phía biển.
Tôi từng đọc sử hai triều Đinh – Lê. Thời đó ngọn núi mà bây giờ có tên Non Nước được gọi là Trấn Hải Đài. Như vậy thì cửa biển hẳn là cách đó chẳng bao xa. Cứ theo đó mà tính thì trong khoảng ngàn năm, phù sa đã bồi đắp một dải đất chừng 50 cây số. Quê hương yêu dấu vẫn còn lưu giữ lại nhiều vết tích về công việc âm thầm nhưng thật mạnh mẽ của các dòng sông cùng với công sức khai hoang lấn biển của con người.”
Ngài viết về sự hình thành quốc lộ 10:
“Từ thị xã Ninh Bình đi theo đường số 10 chừng 15 cây số, ta gặp một con đường cắt ngang mà những bậc cao niên nay vẫn còn gọi là Đê Hồng Đức. Con đường mang tên gọi này vì đây chính là con đê lấn biển được đắp vào năm Tân Mão 1471, thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 2.
Rồi tiếp tục xuôi theo quốc lộ 10 chừng 4 cây số nữa, ta lại gặp một con đường cắt ngang nhỏ hơn có tên gọi Đường Quan. Tương truyền đó chính là con đê được quan đại thần thời Trịnh Sâm là Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, cho đắp vào năm Quý Tỵ 1773, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34. Tên gọi Đường Quan dường như có liên quan gì đó với đại thần Nguyễn Nghiễm. Cũng nên biết thêm rằng chữ Thần viết trên vách núi ở cửa biển Thần Phù khi xưa chính là bút tích của vị đại thần này. Tuy nhiên, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục lại chép rằng người được Trịnh Sâm cử đi lo việc khai khẩn là Phó đô ngự sử Nguyễn Lệ.
Còn con đường huyết mạch nối Bến Đò Mười với huyện Nga Sơn Thanh Hoá, chính là con đê được đắp vào năm Kỷ Sửu 1829, năm Minh Mạng thứ 10. Cùng với con đê này, diện mạo căn bản về địa lý huyện Kim Sơn như ta thấy ngày nay cũng đã được hình thành từ thời đó.”
Khách hành hương đến Nhà thờ Trì Chính có thể đứng trên bờ sông Vạc, lối rẽ vào Nhà thờ hay đứng gần tượng Chúa Giêsu sẽ nhìn thấy được toàn cảnh Nhà thờ. Ngôi Nhà thờ thực sự nhỏ bé về diện tích, kiến trúc giản dị, khiêm tốn so với kiến trúc độc đáo của quần thể Nhà thờ Phát Diệm. Chiều dài Nhà thờ Trì Chính là 29m và chiều rộng dài 12,5m. Tháp chuông Nhà thờ được xây vào năm 1914 (có ghi năm xây dựng trên mặt tiền của tháp). Phía bên trong Nhà thờ, Cung Thánh được lát lại nền bằng gạch men; gác đàn bằng gỗ vẫn được giữ lại. Trước năm 1954, giáo xứ Trì Chính có diện tích là 4 mẫu nhưng đến nay tổng diện tích còn là gần 2 mẫu. Số giáo dân cũng có ba lần thay đổi lớn về nhân danh trong 6 họ: Trị Sở, Kiến Thái, Thủy Cơ, Kim Đại, Xuân Đài, Tân Chính.
- Lần thứ nhất từ năm 1908 đến năm 1954 có hơn 1700 tín hữu;
- Lần thứ hai từ năm 1954 số giáo dân di cư vào miền Nam gần 1000 tín hữu nên giáo xứ chỉ còn khoảng 800 tín hữu;
- Lần thứ ba là năm 2007 thành lập giáo xứ mới là giáo xứ Phát Vinh, tách ba giáo họ Kim Đại, Xuân Đài, Tân Chính nên số giáo xứ Trì Chính giờ có 1300 tín hữu.
Mặc dầu công việc mục vụ nhiều vô kể, Cha Hồng Phúc vẫn quan tâm và lo chu đáo công việc tại giáo xứ Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm và công việc mục vụ cho hai xứ Trì Chính và xứ Phát Vinh. Ngày mồng 01.03.2004 Cha Hồng Phúc về nhận xứ Phát Diệm, thì một tháng sau Cha đã thực hiện công việc cho giáo xứ Trì Chính có được khu đất với diện tích 1.380m2 do người dân lấn chiếm trong khu đất của Nhà thờ. Bốn năm sau, ngay khi nhận lại được khu đất, Cha tiến hành công việc làm hồ và đường xung quanh hồ. Cha cũng đã cho xây lễ đài để chuẩn bị mừng lễ kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ vì chưa có điều kiện để xây dựng được ngôi Nhà thờ mới. Công việc xây dựng hồ và lễ đài vẫn chưa thể hoàn tất trước ngày đại lễ do kinh phí còn thiếu nhiều, nhưng các công trình xây dựng tại giáo xứ Trì Chính là bước đánh dấu sự tồn tại và phát triển của một giáo xứ mà trong đó là rất nhiều sự nỗ lực của các Cha từng coi sóc giáo xứ và những cố gắng quyết tâm sống Đạo của giáo dân đã giữ vững đời sống Đạo từ suốt một trăm năm nay.
Trời hôm nay chuyển gió và có lất phất mưa trong cái rét của tháng Ba âm lịch. Thánh lễ lúc 5 giờ sáng Chúa nhật lễ Chúa Chiên Lành do Cha Hồng Phúc dâng lễ. Còn 15 phút nữa mới đến giờ lễ nhưng giáo dân trong xứ đang tấp nập đến Nhà thờ mỗi lúc một đông hơn. Trong Nhà thờ thì các dãy ghế chật kín người ngồi, phía ngoài sân và cuối Nhà thờ giáo dân xếp ghế nhựa để ngồi, khi số ghế nhựa cũng hết thì một số người phải đứng để tham dự thánh lễ. Các em thiếu nhi được ưu tiên ngồi ở ba dãy ghế của hai bên và ngồi ở chiếu trải phía thềm gần Cung Thánh. Em bước vào Nhà thờ và thấy có một bác chỉ chỗ cho ngồi ở hàng ghế thứ tư tính từ Cung Thánh xuống. Trong Nhà thờ thật ấm và càng ấm hơn trong tình người của giáo dân xứ Trì Chính, em nghe thấy mấy tiếng thì thầm của các bà hỏi thăm nhau nhưng tiếng đọc Kinh ngày Chúa nhật và Kinh Năm Thánh vẫn âm vang, trầm bổng.
Thánh lễ được bắt đầu trong tiếng hát cất lên của ca đoàn giáo xứ với bài Thánh ca “Chúa chăn nuôi tôi”. Niềm vui hân hoan của ngày lễ Chúa Chiên Lành có trong từng lời cầu nguyện của giáo dân đang hướng về kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ Trì Chính, và đặc biệt là bài giảng lễ của Cha Hồng Phúc, Cha quảng diễn Tình Yêu của Đức Giêsu Kitô, Ngài là Chúa Chiên Lành, là Mục tử nhân hậu của đàn chiên:
“Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành vì Đức Giêsu tự xưng mình là Mục tử tốt lành “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Không phải Chúa tự xưng thì chúng ta mới biết, nhưng là Chúa đã tự hạ và dẫn dắt chúng ta. Có một điều, một mối tương quan trong tình yêu không chỉ là đơn phương, tình yêu đáp đền bằng tình yêu. Chúa không tuyên xưng, tuyên bố thì mình cũng thấy Chúa là Mục tử tốt lành. Nhưng điều quan trọng là: Mục tử tốt lành thì chiên phải biết người Mục tử. Đối với người Do Thái thì mối tương quan giữa chủ chiên với đàn chiên không chỉ là một mối tương quan trong tình giữa chủ và đàn vật nhưng là cả một sự sống, cả một gia tài liên đới với người chủ chiên. Người Do Thái coi con chiên là tình bạn, là gia tài, thậm chí là cả một phần sự sống của họ. Như chúng ta vẫn nói, sự sống của người Do Thái là dân du mục, phụ thuộc vào đàn chiên.
Người Việt Nam chúng ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp của nhà nông”, và vì thế người ta nói với trâu như nói với bạn:
“Trâu ơi! Ta bảo trâu này: trâu ăn no cỏ, trâu cày với ta.”
Người Do Thái còn nói với đàn chiên thân thiết hơn nhiều. Bởi lẽ, đối với con chiên của người Do Thái thì người chăn chiên với con chiên; người chăn trâu với con trâu. Người chăn trâu Việt Nam cầm cái roi đi sau con trâu còn người chăn chiên cầm cái gậy đi trước đàn chiên. Lý do, người chăn trâu cầm roi để đánh trâu, trâu đau thì trâu mới đi. Còn ngược lại, người chăn chiên cầm gậy đi trước không bao giờ để đánh chiên mà để đánh chó sói, bảo vệ cho đàn chiên. Tại sao người Việt Nam không làm như thế? Vì con trâu không dễ nghe như con chiên; người chăn chiên đi đâu thì chiên theo đó, vì chiên hiền lành đến nỗi tiên tri Isaia đã sánh ví rằng: “Như con chiên bị đem đi xén lông làm thịt, Người không la lối, không thoá mạ” ám chỉ về Đấng Mesia, Đấng xưng mình là Chiên Thiên Chúa.
Và như vậy, thì việc đàn chiên đi theo Chúa chiên tới đồng cỏ xanh tươi là những hình ảnh đẹp tuyệt vời đối với người Do Thái. Chúng ta nghe Thánh vịnh và chúng ta thấy điều đó:
“Chúa chăn nuôi tôi
Tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh rì
Người thả cho tôi nằm nghỉ.
Đến nguồn nước chỗ nghỉ ngơi
Người hướng dẫn tôi,
Tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính
sở dĩ vì uy danh Người,
Dù bước đi trong thung lũng tối
Tôi không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng tôi.”
Tv 22
Cây roi và cái gậy của Người đó là điều an ủi lòng tôi. Không bao giờ cây roi và cái gậy là điều sợ hãi mà đó là điều an ủi lòng tôi, vì cây roi và cái gậy ấy đánh chó sói bảo vệ cho đàn chiên. Không những thế, trong cách diễn tả của người Do Thái, có một niềm tự hào thật đáng yêu:
“Người dọn cho tôi mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương;
đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm;
chén rượu tôi đầy tràn chan chứa.”
Tv 22
Một dân Do Thái xưa cảm nghiệm rất rõ bàn tay của Thiên Chúa, mặc dầu khi đó Thiên Chúa đến với họ qua lời các tiên tri. Còn một dân Do Thái hiện đại thì không cảm thấy tấm lòng, bàn tay của Thiên Chúa đang hiện diện với họ qua Đức Giêsu Kitô. Thành thử, Đức Giêsu tuyên bố “Ta biết chiên của Ta và chiên Ta phải biết Ta” đấy mới là điều quan trọng. Ông Pascan nói rằng: “Đức Chúa Trời phải được cảm nghiệm bằng trái tim.””
Bài giảng lễ của Cha Hồng Phúc kết thúc trong câu chuyện kể về đoàn từ thiện của Mỹ mới đến Phát Diệm vào chiều thứ Bảy ngày 12.4.2008 gồm ba người, hai người thì mới đến lần đầu tiên, nhưng một người thì đến lần thứ hai, và ông nói chuyện với Cha: “Lần trước tôi đến đây dự lễ ở Nhà thờ Chính toà Phát Diệm này, người đông đến nỗi người ta ngồi đầy trong Nhà thờ, người ta còn ngồi ra cả ngoài hè. Thành thử, tôi có cảm nhận rằng chính những người ngồi ngoài hè làm cho Nhà thờ rộng ra.” Tấm lòng của những người ngồi ngoài hè làm cho lòng Nhà thờ rộng thêm gấp bao nhiêu lần. Cha ân cần và trìu mến nói với cộng đoàn: “Hôm nay, chúng ta cũng phải nói như vậy với Trì Chính rằng Nhà thờ chúng ta bé nhưng tấm lòng của những người Kitô hữu chúng ta cũng có thể làm cho Nhà thờ của chúng ta rộng lên gấp nhiều lần. Và Chúa đang chờ đợi những tấm lòng rộng rãi đó của đàn chiên đối với Chúa Chiên. Chúng ta hãy bày tỏ, lòng kính mến của chúng ta trong lời Kinh Tin Kính mà giờ đây tôi mời gọi tất cả chúng ta cùng tuyên xưng.”
Lời Kinh Tin Kính đã được Cha Hồng Phúc cất xướng, giọng Cha khiêm tốn, mạch lạc, bình tĩnh và rất mạnh mẽ đã hướng cộng đoàn vào niềm tin và phó thác trong tâm tình yêu mến Chúa, thể hiện đức tin đích thực trong lời tuyên xưng của Hội Thánh trước Chúa, trước cộng đoàn và chính mình. Những hình ảnh và công việc rao giảng Tin Mừng của các Thánh Tông Đồ được ghi lại trong Kinh Thánh, những công việc truyền giáo của các vị thánh nam nữ, đời sống Đức Tin của các thánh Tử Đạo Việt Nam trong đó biết bao nhiêu vị Thừa Sai cùng các Đấng là người Việt Nam, của những người Kitô hữu Việt Nam, của những tín hữu thuộc Giáo phận Phát Diệm và đặc biệt là nơi Giáo xứ Trì Chính dần hiện lên trong tâm trí em. Em được nghe kể về Đức Cha Gioan Maria Phan Đình Phùng ( 24.12.1891 – 28.4.1944) là Giám Mục phó Giáo phận Phát Diệm (1940 – 1944), quê ở họ Kiến Thái, giáo xứ Trì Chính. Ngôi mộ của Đức Cha Phùng được đặt trong Cung Thánh của Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm, ngôi mộ thứ hai tính từ trái sang. Người thứ hai em được biết là Mẹ Bề Trên Tổng Quyền Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm đương nhiệm Maria Phan thị Mai, quê tại họ Thủy Cơ, giáo xứ Trì Chính. Các ngài cùng với các đấng đã và đang coi sóc giáo xứ Trì Chính luôn sẵn sàng giúp cho giáo dân trong giáo xứ sống trung thành với Đức Tin tuyên xưng vào Thiên Chúa, theo thời gian, theo năm tháng, các ngài là gương nhân đức tuyệt vời cho biết bao người cùng tin theo, cùng sống, cùng cảm nghiệm, cùng chia sẻ…
Cuối Thánh lễ, sau khi Cha Hồng Phúc chúc lành xong, Cha đọc danh sách “Nhịp Cầu Thân Yêu”, đó là các gia đình ở Trì Chính có những người thân ở các xứ xa, con cái đã trưởng thành nhớ về quê hương và cùng hướng về trăm năm Trì Chính. Em nghe thấy có nhiều giáo dân ở các giáo xứ trong miền Nam như: Giáo xứ Phú Nhuận, Quảng Tân, Bình Minh, Bắc Hà, Bình Triệu, Định Quán, Dốc Mơ, Phú Lâm, Túc Trưng… em cũng cảm thấy trong lòng vui tươi cùng với giáo dân giáo xứ Trì Chính.
Điều mong mỏi từ nhiều năm nay của Cha xứ và giáo dân xứ Trì Chính là mong xây dựng được ngôi Nhà thờ mới, đủ rộng để giáo dân trong đến thờ phượng Chúa, không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày đông giá rét nữa; không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày mưa phùn gió bấc khí hậu khắc nghiệt nữa; không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày trời năng chang chang như đổ lửa nữa. Và những cuộc Rước sẽ rất trọng thể khi có con đường bằng phẳng, không gồ ghề, không còn bức tường ngăn giữa Nhà thờ với con đường của Chúa; con đường mà hai bên có cỏ và hoa thiên nhiên; con đường mà từng bước chân đặt lên đó là những bước chân loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa là Tình Yêu; con đường đó dẫn ta đến gần Chúa, dẫn ta vào Nhà Chúa. Và điều quan trọng chính là làm sao để tất cả đều cùng được quây quần bên Bàn Tiệc Thánh, chia sẻ yêu thương và quan tâm tới nhau qua lời cầu nguyện tâm tình hiệp thông với Chúa, tạ ơn Chúa.
Chỉ năm ngày nữa thôi là Giáo xứ Trì Chính mừng lễ Kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ, một ngày trọng đại của cả trăm năm mới có, là của giáo xứ Trì Chính, là của giáo phận Phát Diệm và biết bao tín hữu đang ở trong nước cũng như ngoài nước cùng hướng về. em lắng nghe lời mời của Cha Hồng Phúc và ông Chánh trương, em thấy hồi hộp lạ lùng sao ấy! Những hình dung về ngày lễ trọng đại của Giáo xứ Trì Chính…
Và cùng với quý Cha, quý khách em cũng đang hướng về Trì Chính.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2008
Teresa Avila Thuỳ Chi
CHƯƠNG TRÌNH
LỄ KHAI MẠC NĂM THÁNH GIÁO XỨ TRÌ CHÍNH
Nhờ Hồng ân Thiên Chúa qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria
và Thánh Quan thầy Phêrô, với tình thương hiền mẫu của Tòa Thánh:
ĐỨC CHA GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH
Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam
Giám mục Giáo Phận Thanh Hóa
Giám quản Giáo Phận Phát Diệm
Sẽ Chủ sự Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh
Mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo xứ Trì Chính
Vào hồi 15h00’ ngày 23 tháng 4 năm 2008
tại Nhà thờ Giáo xứ Trì Chính
xã Kim Chính, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chương trình:
14h00’: Đón tiếp
- Quý Cha, quý Thầy;
- Quý Hội Dòng
- Quý tu sĩ nam nữ;
- Quý khách
14h45’: Rước đoàn Đồng tế
15h00’: Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh.
Thay mặt Giáo xứ:
Linh mục phụ trách xứ Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Điện thoại: 091.3344.103
Chánh Trương Giuse Đỗ văn Bằng
Điện thoại: 097.7019.791
KINH NĂM THÁNH GIÁO XỨ TRÌ CHÍNH
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng hằng hữu,
Chúng con xin tạ ơn Chúa vì yêu thương và muốn cứu độ loài người,
Chúa đã sai Con Một Chúa xuống trần gian,
Qua lòng Đức Trinh Nữ Maria, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Chúng con xin cảm tạ Chúa,
Vì từ gần bốn trăm năm qua,
nhờ sự hy sinh nhiệt thành của các nhà truyền giáo và các đấng các bậc,
Đạo Thánh Chúa được gieo trồng,
trổ bông và kết trái trên mảnh đất Phát Diệm này.
Và cũng nhờ đó, giáo xứ Trì Chính chúng con sau này đã được khai sinh.
Suốt một trăm năm qua, qua bao nhiêu biến cố thăng trầm,
với bao nhiêu chông gai thử thách,
Chúa luôn yêu thương, phù trì, che chở giáo xứ chúng con.
Trước muôn vàn hồng ân ấy,
nay chúng con mừng kỷ niệm một trăm năm thành lập giáo xứ Trì Chính. Hầu mỗi người chúng con cảm nghiệm sâu sắc hơn
tình thương của Chúa đã dành cho chúng con.
Xin Chúa thương tiếp tục gìn giữ
các thế hệ Trì Chính khỏi mọi cám dỗ làm xa lìa Thiên Chúa
mà tôn thờ tiền bạc, danh vọng, lạc thú.
Xin Chúa cho các vị chủ chăn được thêm thánh thiện, khôn ngoan;
cho các tu sĩ được trung thành với ơn gọi tu trì;
cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng cho con cái;
cho những người trẻ biết sống có lý tưởng, sống trong sáng,
không ngừng học hỏi, lao động, xây dựng cuộc đời theo tinh tần Kitô giáo.
Xin Chúa cho mọi người biết sống yêu thương bác ái.
Nhờ đó, diện mạo của Hội Thánh mỗi ngày một thêm rạng rỡ.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và thánh Phêrô Quan thầy,
chúng con cầu xin Chúa cho mỗi người chúng con thêm lòng tin sắt son,
lòng cậy vững bền, lòng mến tha thiết.
Để nhờ Năm Thánh này, chúng con được biến đổi như lòng Chúa mong ước,
hầu mang lại những lợi ích cho Hội Thánh
và cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng con. Amen.
Hồng ân Thiên Chúa tràn trào
Tri ân, cảm tạ, dạt dào niềm vui.
Linh mục Hồng Phúc
Nhà thờ Giáo xứ Trì Chính

Kể từ sau ngày lễ Chầu lượt giáo xứ Trì Chính hôm Chúa nhật XXX Thường niên năm C, ngày 28.10.2007 năm vừa rồi, cho tới nay, em có về Giáo phận Phát Diệm nhiều lần nhưng chưa có dịp trở lại thăm giáo xứ Trì Chính. Trong ngày lễ Chúa Chiên Lành năm nay, em về Phát Diệm vào chiều thứ Bảy để hôm sau tham dự lễ Chầu lượt xứ Tôn Đạo. Và được sự cho phép của Cha Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, chính xứ Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm kiêm phụ trách hai xứ Trì Chính và xứ Phát Vinh, em đã tới tham dự lễ sáng Chúa nhật lễ Chúa Chiên Lành tại giáo xứ Trì Chính nhân dịp giáo xứ đang chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ, năm 1908 – 2008.
Nhà thờ Trì Chính nằm ở trong khu dân cư thuộc xã Kim Chính, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Nhà thờ Trì Chính cách Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm hơn 1000m, phía bên kia sông Vạc. Theo lời kể của ông Chánh trương Giuse Đỗ Văn Bằng thì vào năm 1908 thành lập Giáo xứ Trì Chính đã có ngôi Nhà thờ này. Nhà thờ được xây dựng đặt hướng nhìn ra dòng sông Vạc. Sông Vạc nối tiếp bởi sông Luồn và sông Chanh thuộc sông Hoàng Long. Dòng sông Vạc chảy qua thành phố Ninh Bình và còn là ranh giới của hai huyện Yên Khánh với huyện Yên Mô chảy tới thị trấn Kim Sơn dọc qua hai xã Kim Chính và xã Thượng Kiệm rồi nhập vào sông Đáy, từ sông Đáy chảy ra Biển Đông. Em đã đọc bài viết “Quê Hương Yêu Dấu” của Kim Ân đăng trên www.dunglac.org thì được hiểu hơn vì sao các dòng sông của huyện Kim Sơn nhiều phù sa đến thế. Trong bài, ngài viết: “Đất quê ta lật lên có màu đỏ sậm. Thủa ấu thơ tôi vẫn tin rằng đất ở đâu mà chẳng thế. Mãi tới khi lưu lạc tha hương tôi mới nhận ra rằng cũng là đất nhưng có chỗ màu vàng, có nơi màu nâu, lại có chỗ màu đen hay màu sám. Màu đất nạc đỏ sậm là nét đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là màu nặng trĩu muôn triệu hạt phù sa. Thiên nhiên vốn trường cửu và cứ bình thản theo nhịp sống của riêng mình để những dải đất phì nhiêu sậm đỏ cứ lớn dần lớn dần về phía biển.
Tôi từng đọc sử hai triều Đinh – Lê. Thời đó ngọn núi mà bây giờ có tên Non Nước được gọi là Trấn Hải Đài. Như vậy thì cửa biển hẳn là cách đó chẳng bao xa. Cứ theo đó mà tính thì trong khoảng ngàn năm, phù sa đã bồi đắp một dải đất chừng 50 cây số. Quê hương yêu dấu vẫn còn lưu giữ lại nhiều vết tích về công việc âm thầm nhưng thật mạnh mẽ của các dòng sông cùng với công sức khai hoang lấn biển của con người.”
Ngài viết về sự hình thành quốc lộ 10:
“Từ thị xã Ninh Bình đi theo đường số 10 chừng 15 cây số, ta gặp một con đường cắt ngang mà những bậc cao niên nay vẫn còn gọi là Đê Hồng Đức. Con đường mang tên gọi này vì đây chính là con đê lấn biển được đắp vào năm Tân Mão 1471, thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 2.
Rồi tiếp tục xuôi theo quốc lộ 10 chừng 4 cây số nữa, ta lại gặp một con đường cắt ngang nhỏ hơn có tên gọi Đường Quan. Tương truyền đó chính là con đê được quan đại thần thời Trịnh Sâm là Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, cho đắp vào năm Quý Tỵ 1773, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34. Tên gọi Đường Quan dường như có liên quan gì đó với đại thần Nguyễn Nghiễm. Cũng nên biết thêm rằng chữ Thần viết trên vách núi ở cửa biển Thần Phù khi xưa chính là bút tích của vị đại thần này. Tuy nhiên, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục lại chép rằng người được Trịnh Sâm cử đi lo việc khai khẩn là Phó đô ngự sử Nguyễn Lệ.
Còn con đường huyết mạch nối Bến Đò Mười với huyện Nga Sơn Thanh Hoá, chính là con đê được đắp vào năm Kỷ Sửu 1829, năm Minh Mạng thứ 10. Cùng với con đê này, diện mạo căn bản về địa lý huyện Kim Sơn như ta thấy ngày nay cũng đã được hình thành từ thời đó.”
Khách hành hương đến Nhà thờ Trì Chính có thể đứng trên bờ sông Vạc, lối rẽ vào Nhà thờ hay đứng gần tượng Chúa Giêsu sẽ nhìn thấy được toàn cảnh Nhà thờ. Ngôi Nhà thờ thực sự nhỏ bé về diện tích, kiến trúc giản dị, khiêm tốn so với kiến trúc độc đáo của quần thể Nhà thờ Phát Diệm. Chiều dài Nhà thờ Trì Chính là 29m và chiều rộng dài 12,5m. Tháp chuông Nhà thờ được xây vào năm 1914 (có ghi năm xây dựng trên mặt tiền của tháp). Phía bên trong Nhà thờ, Cung Thánh được lát lại nền bằng gạch men; gác đàn bằng gỗ vẫn được giữ lại. Trước năm 1954, giáo xứ Trì Chính có diện tích là 4 mẫu nhưng đến nay tổng diện tích còn là gần 2 mẫu. Số giáo dân cũng có ba lần thay đổi lớn về nhân danh trong 6 họ: Trị Sở, Kiến Thái, Thủy Cơ, Kim Đại, Xuân Đài, Tân Chính.
- Lần thứ nhất từ năm 1908 đến năm 1954 có hơn 1700 tín hữu;
- Lần thứ hai từ năm 1954 số giáo dân di cư vào miền Nam gần 1000 tín hữu nên giáo xứ chỉ còn khoảng 800 tín hữu;
- Lần thứ ba là năm 2007 thành lập giáo xứ mới là giáo xứ Phát Vinh, tách ba giáo họ Kim Đại, Xuân Đài, Tân Chính nên số giáo xứ Trì Chính giờ có 1300 tín hữu.
Mặc dầu công việc mục vụ nhiều vô kể, Cha Hồng Phúc vẫn quan tâm và lo chu đáo công việc tại giáo xứ Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm và công việc mục vụ cho hai xứ Trì Chính và xứ Phát Vinh. Ngày mồng 01.03.2004 Cha Hồng Phúc về nhận xứ Phát Diệm, thì một tháng sau Cha đã thực hiện công việc cho giáo xứ Trì Chính có được khu đất với diện tích 1.380m2 do người dân lấn chiếm trong khu đất của Nhà thờ. Bốn năm sau, ngay khi nhận lại được khu đất, Cha tiến hành công việc làm hồ và đường xung quanh hồ. Cha cũng đã cho xây lễ đài để chuẩn bị mừng lễ kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ vì chưa có điều kiện để xây dựng được ngôi Nhà thờ mới. Công việc xây dựng hồ và lễ đài vẫn chưa thể hoàn tất trước ngày đại lễ do kinh phí còn thiếu nhiều, nhưng các công trình xây dựng tại giáo xứ Trì Chính là bước đánh dấu sự tồn tại và phát triển của một giáo xứ mà trong đó là rất nhiều sự nỗ lực của các Cha từng coi sóc giáo xứ và những cố gắng quyết tâm sống Đạo của giáo dân đã giữ vững đời sống Đạo từ suốt một trăm năm nay.
Trời hôm nay chuyển gió và có lất phất mưa trong cái rét của tháng Ba âm lịch. Thánh lễ lúc 5 giờ sáng Chúa nhật lễ Chúa Chiên Lành do Cha Hồng Phúc dâng lễ. Còn 15 phút nữa mới đến giờ lễ nhưng giáo dân trong xứ đang tấp nập đến Nhà thờ mỗi lúc một đông hơn. Trong Nhà thờ thì các dãy ghế chật kín người ngồi, phía ngoài sân và cuối Nhà thờ giáo dân xếp ghế nhựa để ngồi, khi số ghế nhựa cũng hết thì một số người phải đứng để tham dự thánh lễ. Các em thiếu nhi được ưu tiên ngồi ở ba dãy ghế của hai bên và ngồi ở chiếu trải phía thềm gần Cung Thánh. Em bước vào Nhà thờ và thấy có một bác chỉ chỗ cho ngồi ở hàng ghế thứ tư tính từ Cung Thánh xuống. Trong Nhà thờ thật ấm và càng ấm hơn trong tình người của giáo dân xứ Trì Chính, em nghe thấy mấy tiếng thì thầm của các bà hỏi thăm nhau nhưng tiếng đọc Kinh ngày Chúa nhật và Kinh Năm Thánh vẫn âm vang, trầm bổng.
Thánh lễ được bắt đầu trong tiếng hát cất lên của ca đoàn giáo xứ với bài Thánh ca “Chúa chăn nuôi tôi”. Niềm vui hân hoan của ngày lễ Chúa Chiên Lành có trong từng lời cầu nguyện của giáo dân đang hướng về kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ Trì Chính, và đặc biệt là bài giảng lễ của Cha Hồng Phúc, Cha quảng diễn Tình Yêu của Đức Giêsu Kitô, Ngài là Chúa Chiên Lành, là Mục tử nhân hậu của đàn chiên:
“Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành vì Đức Giêsu tự xưng mình là Mục tử tốt lành “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Không phải Chúa tự xưng thì chúng ta mới biết, nhưng là Chúa đã tự hạ và dẫn dắt chúng ta. Có một điều, một mối tương quan trong tình yêu không chỉ là đơn phương, tình yêu đáp đền bằng tình yêu. Chúa không tuyên xưng, tuyên bố thì mình cũng thấy Chúa là Mục tử tốt lành. Nhưng điều quan trọng là: Mục tử tốt lành thì chiên phải biết người Mục tử. Đối với người Do Thái thì mối tương quan giữa chủ chiên với đàn chiên không chỉ là một mối tương quan trong tình giữa chủ và đàn vật nhưng là cả một sự sống, cả một gia tài liên đới với người chủ chiên. Người Do Thái coi con chiên là tình bạn, là gia tài, thậm chí là cả một phần sự sống của họ. Như chúng ta vẫn nói, sự sống của người Do Thái là dân du mục, phụ thuộc vào đàn chiên.
Người Việt Nam chúng ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp của nhà nông”, và vì thế người ta nói với trâu như nói với bạn:
“Trâu ơi! Ta bảo trâu này: trâu ăn no cỏ, trâu cày với ta.”
Người Do Thái còn nói với đàn chiên thân thiết hơn nhiều. Bởi lẽ, đối với con chiên của người Do Thái thì người chăn chiên với con chiên; người chăn trâu với con trâu. Người chăn trâu Việt Nam cầm cái roi đi sau con trâu còn người chăn chiên cầm cái gậy đi trước đàn chiên. Lý do, người chăn trâu cầm roi để đánh trâu, trâu đau thì trâu mới đi. Còn ngược lại, người chăn chiên cầm gậy đi trước không bao giờ để đánh chiên mà để đánh chó sói, bảo vệ cho đàn chiên. Tại sao người Việt Nam không làm như thế? Vì con trâu không dễ nghe như con chiên; người chăn chiên đi đâu thì chiên theo đó, vì chiên hiền lành đến nỗi tiên tri Isaia đã sánh ví rằng: “Như con chiên bị đem đi xén lông làm thịt, Người không la lối, không thoá mạ” ám chỉ về Đấng Mesia, Đấng xưng mình là Chiên Thiên Chúa.
Và như vậy, thì việc đàn chiên đi theo Chúa chiên tới đồng cỏ xanh tươi là những hình ảnh đẹp tuyệt vời đối với người Do Thái. Chúng ta nghe Thánh vịnh và chúng ta thấy điều đó:
“Chúa chăn nuôi tôi
Tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh rì
Người thả cho tôi nằm nghỉ.
Đến nguồn nước chỗ nghỉ ngơi
Người hướng dẫn tôi,
Tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính
sở dĩ vì uy danh Người,
Dù bước đi trong thung lũng tối
Tôi không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng tôi.”
Tv 22
Cây roi và cái gậy của Người đó là điều an ủi lòng tôi. Không bao giờ cây roi và cái gậy là điều sợ hãi mà đó là điều an ủi lòng tôi, vì cây roi và cái gậy ấy đánh chó sói bảo vệ cho đàn chiên. Không những thế, trong cách diễn tả của người Do Thái, có một niềm tự hào thật đáng yêu:
“Người dọn cho tôi mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương;
đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm;
chén rượu tôi đầy tràn chan chứa.”
Tv 22
Một dân Do Thái xưa cảm nghiệm rất rõ bàn tay của Thiên Chúa, mặc dầu khi đó Thiên Chúa đến với họ qua lời các tiên tri. Còn một dân Do Thái hiện đại thì không cảm thấy tấm lòng, bàn tay của Thiên Chúa đang hiện diện với họ qua Đức Giêsu Kitô. Thành thử, Đức Giêsu tuyên bố “Ta biết chiên của Ta và chiên Ta phải biết Ta” đấy mới là điều quan trọng. Ông Pascan nói rằng: “Đức Chúa Trời phải được cảm nghiệm bằng trái tim.””
Bài giảng lễ của Cha Hồng Phúc kết thúc trong câu chuyện kể về đoàn từ thiện của Mỹ mới đến Phát Diệm vào chiều thứ Bảy ngày 12.4.2008 gồm ba người, hai người thì mới đến lần đầu tiên, nhưng một người thì đến lần thứ hai, và ông nói chuyện với Cha: “Lần trước tôi đến đây dự lễ ở Nhà thờ Chính toà Phát Diệm này, người đông đến nỗi người ta ngồi đầy trong Nhà thờ, người ta còn ngồi ra cả ngoài hè. Thành thử, tôi có cảm nhận rằng chính những người ngồi ngoài hè làm cho Nhà thờ rộng ra.” Tấm lòng của những người ngồi ngoài hè làm cho lòng Nhà thờ rộng thêm gấp bao nhiêu lần. Cha ân cần và trìu mến nói với cộng đoàn: “Hôm nay, chúng ta cũng phải nói như vậy với Trì Chính rằng Nhà thờ chúng ta bé nhưng tấm lòng của những người Kitô hữu chúng ta cũng có thể làm cho Nhà thờ của chúng ta rộng lên gấp nhiều lần. Và Chúa đang chờ đợi những tấm lòng rộng rãi đó của đàn chiên đối với Chúa Chiên. Chúng ta hãy bày tỏ, lòng kính mến của chúng ta trong lời Kinh Tin Kính mà giờ đây tôi mời gọi tất cả chúng ta cùng tuyên xưng.”
Lời Kinh Tin Kính đã được Cha Hồng Phúc cất xướng, giọng Cha khiêm tốn, mạch lạc, bình tĩnh và rất mạnh mẽ đã hướng cộng đoàn vào niềm tin và phó thác trong tâm tình yêu mến Chúa, thể hiện đức tin đích thực trong lời tuyên xưng của Hội Thánh trước Chúa, trước cộng đoàn và chính mình. Những hình ảnh và công việc rao giảng Tin Mừng của các Thánh Tông Đồ được ghi lại trong Kinh Thánh, những công việc truyền giáo của các vị thánh nam nữ, đời sống Đức Tin của các thánh Tử Đạo Việt Nam trong đó biết bao nhiêu vị Thừa Sai cùng các Đấng là người Việt Nam, của những người Kitô hữu Việt Nam, của những tín hữu thuộc Giáo phận Phát Diệm và đặc biệt là nơi Giáo xứ Trì Chính dần hiện lên trong tâm trí em. Em được nghe kể về Đức Cha Gioan Maria Phan Đình Phùng ( 24.12.1891 – 28.4.1944) là Giám Mục phó Giáo phận Phát Diệm (1940 – 1944), quê ở họ Kiến Thái, giáo xứ Trì Chính. Ngôi mộ của Đức Cha Phùng được đặt trong Cung Thánh của Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm, ngôi mộ thứ hai tính từ trái sang. Người thứ hai em được biết là Mẹ Bề Trên Tổng Quyền Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm đương nhiệm Maria Phan thị Mai, quê tại họ Thủy Cơ, giáo xứ Trì Chính. Các ngài cùng với các đấng đã và đang coi sóc giáo xứ Trì Chính luôn sẵn sàng giúp cho giáo dân trong giáo xứ sống trung thành với Đức Tin tuyên xưng vào Thiên Chúa, theo thời gian, theo năm tháng, các ngài là gương nhân đức tuyệt vời cho biết bao người cùng tin theo, cùng sống, cùng cảm nghiệm, cùng chia sẻ…
Cuối Thánh lễ, sau khi Cha Hồng Phúc chúc lành xong, Cha đọc danh sách “Nhịp Cầu Thân Yêu”, đó là các gia đình ở Trì Chính có những người thân ở các xứ xa, con cái đã trưởng thành nhớ về quê hương và cùng hướng về trăm năm Trì Chính. Em nghe thấy có nhiều giáo dân ở các giáo xứ trong miền Nam như: Giáo xứ Phú Nhuận, Quảng Tân, Bình Minh, Bắc Hà, Bình Triệu, Định Quán, Dốc Mơ, Phú Lâm, Túc Trưng… em cũng cảm thấy trong lòng vui tươi cùng với giáo dân giáo xứ Trì Chính.
Điều mong mỏi từ nhiều năm nay của Cha xứ và giáo dân xứ Trì Chính là mong xây dựng được ngôi Nhà thờ mới, đủ rộng để giáo dân trong đến thờ phượng Chúa, không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày đông giá rét nữa; không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày mưa phùn gió bấc khí hậu khắc nghiệt nữa; không để ai phải ngồi ngoài trời trong những ngày trời năng chang chang như đổ lửa nữa. Và những cuộc Rước sẽ rất trọng thể khi có con đường bằng phẳng, không gồ ghề, không còn bức tường ngăn giữa Nhà thờ với con đường của Chúa; con đường mà hai bên có cỏ và hoa thiên nhiên; con đường mà từng bước chân đặt lên đó là những bước chân loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa là Tình Yêu; con đường đó dẫn ta đến gần Chúa, dẫn ta vào Nhà Chúa. Và điều quan trọng chính là làm sao để tất cả đều cùng được quây quần bên Bàn Tiệc Thánh, chia sẻ yêu thương và quan tâm tới nhau qua lời cầu nguyện tâm tình hiệp thông với Chúa, tạ ơn Chúa.
Chỉ năm ngày nữa thôi là Giáo xứ Trì Chính mừng lễ Kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ, một ngày trọng đại của cả trăm năm mới có, là của giáo xứ Trì Chính, là của giáo phận Phát Diệm và biết bao tín hữu đang ở trong nước cũng như ngoài nước cùng hướng về. em lắng nghe lời mời của Cha Hồng Phúc và ông Chánh trương, em thấy hồi hộp lạ lùng sao ấy! Những hình dung về ngày lễ trọng đại của Giáo xứ Trì Chính…
Và cùng với quý Cha, quý khách em cũng đang hướng về Trì Chính.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2008
Teresa Avila Thuỳ Chi
CHƯƠNG TRÌNH
LỄ KHAI MẠC NĂM THÁNH GIÁO XỨ TRÌ CHÍNH
Nhờ Hồng ân Thiên Chúa qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria
và Thánh Quan thầy Phêrô, với tình thương hiền mẫu của Tòa Thánh:
ĐỨC CHA GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH
Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam
Giám mục Giáo Phận Thanh Hóa
Giám quản Giáo Phận Phát Diệm
Sẽ Chủ sự Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh
Mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo xứ Trì Chính
Vào hồi 15h00’ ngày 23 tháng 4 năm 2008
tại Nhà thờ Giáo xứ Trì Chính
xã Kim Chính, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chương trình:
14h00’: Đón tiếp
- Quý Cha, quý Thầy;
- Quý Hội Dòng
- Quý tu sĩ nam nữ;
- Quý khách
14h45’: Rước đoàn Đồng tế
15h00’: Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh.
Thay mặt Giáo xứ:
Linh mục phụ trách xứ Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Điện thoại: 091.3344.103
Chánh Trương Giuse Đỗ văn Bằng
Điện thoại: 097.7019.791
KINH NĂM THÁNH GIÁO XỨ TRÌ CHÍNH
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng hằng hữu,
Chúng con xin tạ ơn Chúa vì yêu thương và muốn cứu độ loài người,
Chúa đã sai Con Một Chúa xuống trần gian,
Qua lòng Đức Trinh Nữ Maria, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Chúng con xin cảm tạ Chúa,
Vì từ gần bốn trăm năm qua,
nhờ sự hy sinh nhiệt thành của các nhà truyền giáo và các đấng các bậc,
Đạo Thánh Chúa được gieo trồng,
trổ bông và kết trái trên mảnh đất Phát Diệm này.
Và cũng nhờ đó, giáo xứ Trì Chính chúng con sau này đã được khai sinh.
Suốt một trăm năm qua, qua bao nhiêu biến cố thăng trầm,
với bao nhiêu chông gai thử thách,
Chúa luôn yêu thương, phù trì, che chở giáo xứ chúng con.
Trước muôn vàn hồng ân ấy,
nay chúng con mừng kỷ niệm một trăm năm thành lập giáo xứ Trì Chính. Hầu mỗi người chúng con cảm nghiệm sâu sắc hơn
tình thương của Chúa đã dành cho chúng con.
Xin Chúa thương tiếp tục gìn giữ
các thế hệ Trì Chính khỏi mọi cám dỗ làm xa lìa Thiên Chúa
mà tôn thờ tiền bạc, danh vọng, lạc thú.
Xin Chúa cho các vị chủ chăn được thêm thánh thiện, khôn ngoan;
cho các tu sĩ được trung thành với ơn gọi tu trì;
cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng cho con cái;
cho những người trẻ biết sống có lý tưởng, sống trong sáng,
không ngừng học hỏi, lao động, xây dựng cuộc đời theo tinh tần Kitô giáo.
Xin Chúa cho mọi người biết sống yêu thương bác ái.
Nhờ đó, diện mạo của Hội Thánh mỗi ngày một thêm rạng rỡ.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và thánh Phêrô Quan thầy,
chúng con cầu xin Chúa cho mỗi người chúng con thêm lòng tin sắt son,
lòng cậy vững bền, lòng mến tha thiết.
Để nhờ Năm Thánh này, chúng con được biến đổi như lòng Chúa mong ước,
hầu mang lại những lợi ích cho Hội Thánh
và cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng con. Amen.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tu viện dòng Thánh Phaolô bị nhà nước chiếm làm khách sạn
Người Lục Tỉnh
08:22 20/04/2008
![]() |
Cảnh hoang tàn sau khi bị nhà nước cưỡng chiếm |
![]() |
Nhà thờ cũng bị đập |
![]() |
Cửa nẻo bị trộm cắp |
![]() |
Nhà nước chuẩn bị xây khách sạn |
![]() |
Khách sạn 4 sao đấy |
![]() |
Cơ sở Tô thị Huỳnh giờ chỉ còn là đống gạch vụn |
Tiếp nối những tin tức về các sự kiện Dòng Chúa Cứu thế (Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt…), Dòng Nữ tử Bác ái Vinh Sơn (Sài Gòn), nay sự kiện các nữ tu Dòng Thánh Phaolô tại Vĩnh Long (thuộc Tỉnh dòng Phaolô Mỹ Tho) đòi lại tài sản đã bị chiếm đoạt, danh dự đã bị vu khống từng được nhiều người trong nước biết đến, nay đã đến lúc cần phải được đưa ra trước dư luận quốc tế.
Dư luận thấy rằng, sau một thời gian dài đấu tranh trong khuôn khổ XIN-CHO, làm đơn XIN chính quyền giải quyết CHO được lấy lại cơ sở tu viện ở Vĩnh Long đã bị… chính quyền cưỡng đoạt bằng sức mạnh và thủ đoạn của kẻ có quyền, các nữ tu hoàn toàn bị o ép, vì lẽ đó những người quan tâm đến tình hình sinh hoạt tôn giáo tại VN không thể không lên tiếng bênh vực các nữ tu.
Dòng Thánh Phaolô – Hơn một thế kỷ phục vụ tại mảnh đất Miền – Tây - Lục - Tỉnh
Năm 1860, theo yêu cầu của Đức Cha D. Lefèbre, hai nữ tu dòng Thánh Phaolô đặt chân lên đất Việt Nam với nhiệm vụ săn sóc trẻ em mồ côi tại Viện Thánh Nhi ở Sài Gòn.
Năm 1861, nữ tu Benjamin được bổ nhiệm làm bề trên miền Viễn Đông. Ngay trong năm 1861, dòng đến phục vụ tai Bệnh viện Biên Hòa và Mỹ Tho.
Các nữ tu Phaolô ở Mỹ Tho nhanh chóng tỏa đi khắp miền Lục tỉnh với nhiệm vụ giáo dục trẻ em, chăm sóc bệnh nhân, giúp đỡ những người bất hạnh, đặc biệt những người bị lãng quên.
Các nữ tu dòng Thánh Phaolô đã đến Vĩnh Long năm 1871.
Tại Vĩnh Long, Dòng thánh Phaolô đã hiện diện qua những hoạt động bác ái theo tôn chỉ của Hội Dòng. Năm 1874, các nữ tu đã mua được một miếng đất làm tu viện. Cơ sở này tọa lạc ở số 3 Nguyễn Trường Tộ (nay là số 3 Tô Thị Huỳnh), thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Cơ sở tu viện Dòng Thánh Phaolô Vĩnh Long là địa chỉ quen thuộc đối với nhiều thế hệ người dân thị xã Vĩnh Long trong suốt hơn một thế kỷ.
Mọi người đều biết đó là một tu viện của các nữ tu Công giáo, là nơi làm việc bác ái xã hội (nuôi dạy trẻ mồ côi, chăm sóc người bất hạnh…).
Thế nhưng, sau 1975, chính quyền tỉnh Cửu Long (tên hành chánh lúc đó của tỉnh Vĩnh Long hiện nay) lại cố tình không biết những hoạt động bác ái và cuộc sống tu trì của các nữ tu.
Ngày 7/9/1977 chính quyền tỉnh Cửu Long ra tay bắt bớ, giam cầm các nữ tu và tịch thu tu viện.
Ngày 7/9/1977 – Ngày tai họa giáng xuống các nữ tu Dòng Thánh Phaolô tại Vĩnh Long
Cuộc sống tu trì của các nữ tu Dòng thánh Phaolô tại tu viện trên đột nhiên bị xáo trộn bởi sự kiện 7/9/1977:
Ngày 7/9/1977, Công an thị xã Vĩnh Long vô cớ đột nhập vào tu viện Dòng Thánh Phaolô tại số 3 Nguyễn Trường Tộ (nay là số 3 Tô Thị Huỳnh), phường 1, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

Một tháng sau (tháng 10/1977), Công an thả 17 nữ tu, buộc về nguyên quán. Nữ tu phụ trách tu viện, Lê Thị Trạch, bị đưa về đồn Công an, bị giam nơi đây 2 tháng. Sau đó buộc chị phải về cư trú tại nhà Giám Tỉnh Dòng Thánh Phaolô, số 14 Hùng Vương, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang.
Thế là, sau khi bị bắt giam, các nữ tu Dòng Thánh Phaolô - những công dân Việt Nam, mặc dù không hề vi phạm bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp nào của Nhà nước Việt Nam - đã bị đuổi ra khỏi tu viện, nơi cư trú hợp pháp của mình, mà không hề được xét xử tại Tòa án, và tất nhiên đã không hề nhận được một văn bản pháp luật nào tuyên bố các nữ tu vi phạm pháp luật để đáng bị “trừng trị” một cách nặng nề:
- Tài sản nhà dòng bị tịch thu. Tu viện bị xóa sổ.
- Các nữ tu bị Công an giam cầm và bị Chính quyền ngăn cản không cho tiếp tục tu hành.
Sáu năm gửi đơn khiếu nại lên các cấp chính quyền – Sáu năm bị từ chối thẳng thừng – Chính quyền đưa ra những lý do vu vơ, vu khống
Sau 25 năm (đúng ¼ thế kỷ) sống trong im lặng, cam chịu nỗi bất công, sự phi lý và thực trạng phi pháp, các nữ tu Dòng Thánh Phaolô Vĩnh Long (thuộc tinh dòng Mỹ Tho) bắt đầu lên tiếng đòi trả lai tài sản và khôi phục danh dự.
Lên tiếng XIN lại tài sản của Nhà Dòng trong khuôn khổ được Nhà Nước CHO phép.
Các nữ tu làm đơn gửi các cấp chính quyền, từ địa phương đến trung ương, từ Vĩnh Long đến Hà Nội, từ cấp tỉnh (UBND tỉnh) đến cấp chính phủ (Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Xây dựng).
Các nữ tu lại chạy đến các đoàn thể quần chúng đươc Nhà Nước thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nước CHXHCN Việt Nam: Mặt trận Tổ Quốc, Ủy ban Đoàn kết Công giáo…
Lại còn nhờ báo chí trong nước hỗ trợ.
Cũng xin các vị có tên tuổi và uy tín lên tiếng nói (Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân, giám mục Vĩnh Long, các linh mục Huỳnh Công Minh, Thiện Cẩm, luật sư Nguyễn Văn Phương).
Các nhà báo Nguyễn Thanh Long, Khổng Thành Ngọc, Lâm Võ Hoàng… thấy sự thật về cảnh bất công mà các nữ tu phải chịu trong 25 năm, cũng đã vào cuộc, viết bài ủng hộ cuộc khiếu nại.
Biết bao đơn từ được gửi đi liên tục, không mệt mỏi, kéo dài suốt sáu năm, từ tháng 11/2002 đến nay (2008).
Rất nhiều bài báo đăng trên CG và DT phân tích sự kiện, đề nghị chính quyền giải quyết khiếu nại của các nữ tu.
Nhưng các cấp chính quyền đã không giải quyết một cách thỏa đáng.
Tỉnh Vĩnh Long phán quyết: Việc tịch thu tài sản là đúng chủ trương của Nhà Nước đối với các cơ sở tôn giáo.
Tỉnh Vĩnh Long khẳng định: (trích nguyên văn đoạn đầu tiên của Quyết định 1958/QĐ.UBT ngày 06/07/1977 của UBND tỉnh Cửu Long về việc tịch thu Tu viện):
“Xét vì cô nhi viện đường Nguyễn Trường Tộ là một cơ sở xã hội của 1 giòng (trích nguyên chính tả của văn bản!) tu ngoại quốc và xây cất nên do nguồn viện trợ ngoại bang, là nơi đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam”.
Quyết định trên được tỉnh Cửu Long soạn ra không biết vào lúc nào nhưng các nữ tu mãi 28 năm sau (ngày 27/8/2005) mới nhận được và lập tức nhận ra văn bản này gian trá từ nội dung đến hình thức.
Gian trá về nội dung: vu cáo Nhà Dòng là một tổ chức phản động: “xây cất nên do nguồn viện trợ ngoại bang, là nơi đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam” (sic).
Gian trá về hình thức: UBND tỉnh Vĩnh Long đương nhiệm đã có dấu hiệu gian trá khi can thiệp tùy tiện vào văn bản hành chánh của chính quyền tiền nhiệm Cửu Long (ở phần cuối của Quyết định, có thể nhìn bằng mắt thường cũng thấy rõ nét chữ mới được UBND tỉnh Vĩnh Long thêm vào, khiến cho một văn bản mang hai tuồng chữ khác nhau, một tuồng chữ của máy đánh chữ xưa (machine à écrire), một tuồng chữ của máy vi tính hiện đại).
Ở cấp chính quyền trung ương, Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Xây dựng cũng thẳng tay bác đơn khiếu nại.
Sự việc không dừng lại ở đó. UBND tỉnh Vĩnh Long còn quyết định giao đất ở số 3 Tô Thị Hùynh “đang có tranh chấp” này cho Công ty cổ phần Du lịch Sài Gòn - Vĩnh Long thuê trong 50 năm, để khai thác làm khách sạn 4 sao!
TU VIỆN BIẾN THÀNH KHÁCH SẠN!
NƠI TU HÀNH VÀ LÀM VIỆC THIỆN GIÚP MỌI NGƯỜI THÀNH CHỐN KINH DOANH LÀM GIÀU CHO MỘT SỐ NGƯỜI!
Sự việc sẽ đi về đâu?
Trước sự kiên nhẫn của các nữ tu, nhưng đồng thời cũng lại đứng trước món lợi béo bở do hợp đồng kinh doanh với Cty du lịch Sài Gòn – Vĩnh Long đem lại, UBND tỉnh Vĩnh Long đã chọn giải pháp vừa đấm vừa xoa.
Đấm bằng những quyết định và những lời giải thích trịch thượng và đầy tính chất vu khống (vu cho các nữ tu cái tội đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam).
Đấm bằng Quyết định của Bộ Xây dựng không trả lại tài sản cho Dòng Thánh Phaolô: “việc đòi lại nhà đất của Dòng Thánh Phaolô Mỹ Tho là không thể thực hiện” (Trích QĐ 88 của Bộ Xây Dựng ngày 18/01/2007).
Đấm rồi xoa.
Xoa bằng hứa hẹn cấp cho một miếng đất ở ven thị xã và 1,5 tỉ đồng VN để xây lại tu viện.
Nhưng các nữ tu không thể bị mắc lừa trước chiêu bài “dỗ dành” của UBND tỉnh Vĩnh Long.
Bởi một lẽ đơn giản:
Tu viện xưa ở đâu, nay phải trả về đó.
Lời vu cáo xưa phải được nói lại cho rõ.
Nói lại không chỉ bằng lời xin lỗi mà còn bằng sự sám hối.
Sám hối bằng tôn trọng Sự thật và Lẽ phải..
Văn Hóa
Lời yêu (thơ)
Nguyễn Thị Xuân
06:01 20/04/2008
Lời Yêu
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105)
Khi tôi mới là hình hài bé nhỏ
Trong nồng nàn của hơi thở Mẹ Cha
Lời yêu nào đã vọng đến thiết tha
Qua câu kinh đọc ngân nga sớm tối
Được sinh ra dù chưa tròn tháng tuổi
Mang phận người nên mắc tội tổ tông
Lời yêu nào dẫn tôi đến suối trong
Để tôi được nên tinh ròng giống Chúa
Thưở ấu thơ như ngọt ngào dòng sữa
Như sớm mai còn rực rỡ nắng xuân
Lời yêu nào trong những tiếng chuông ngân
Thúc giục tôi đến dự phần Tiệc Thánh
Vào Thiếu Nhi, tôi nhớ mình vui lắm
Gắng thi đua để được lãnh cờ đầu
Lời yêu nào trong tiếng ới gọi nhau
Đến viếng Chúa hãy đi mau kẻo trễ
Sáng tinh sương lo dọn mình rước lễ
Tìm thần lương là Thánh Thể trước tiên
Lời yêu nào giúp tôi sống bình yên
Chẳng vướng bận chuyện bạc tiền, cơm áo
Tuổi đôi mươi tôi rời xa xứ đạo
Sống xa nhà, thiếu dạy bảo khuyên răn
Lời yêu nào vẫn soi dẫn bước chân
Dìu dắt tôi qua khúc quanh, ngõ tối
Bước vào đời bao vũng lầy tội lỗi
Lắm đam mê trên những lối đi quen
Lời yêu nào luôn thắp sáng đêm đen
Để tôi khỏi vì yếu hèn, vấp ngã
Gánh nhọc nhằn, tôi thấy mình đuối quá
Giữa đường trần mà như đã hụt hơi
Lời yêu nào thêm sức mạnh trong tôi
Giúp nhẹ bớt cả gánh đời nặng trĩu
Càng đón nhận, hình như càng thấy thiếu
Tuổi chất chồng tôi mới hiểu thiệt hơn
Lời yêu nào trong những lúc cô đơn
Để nương tựa khi chán chường, bế tắc
Tôi sợ lắm những đêm dài thao thức
Đếm giọt buồn nhìn hạnh phúc tan nhanh
Lời yêu nào như một vị cứu tinh
Sớm hàn gắn chút ân tình gẫy đổ
Biển phải lặng dù bão bùng giông tố
Kẻ đui mù được sáng tỏ như ai
Lời yêu nào chỉ phán một, không hai
Người yếu liệt lại vươn vai vác chõng
“Thầy là đường và chính là sự sống” (Ga 14:6)
Là tin yêu, nguồn hy vọng đời con
Lời của Thầy từng chuyển núi, dời non
Xin hãy phán cho hồn con lành đã….
Vì LỜI YÊU của Thầy là tất cả!
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105)
Khi tôi mới là hình hài bé nhỏ
Trong nồng nàn của hơi thở Mẹ Cha
Lời yêu nào đã vọng đến thiết tha
Qua câu kinh đọc ngân nga sớm tối
Được sinh ra dù chưa tròn tháng tuổi
Mang phận người nên mắc tội tổ tông
Lời yêu nào dẫn tôi đến suối trong
Để tôi được nên tinh ròng giống Chúa
Thưở ấu thơ như ngọt ngào dòng sữa
Như sớm mai còn rực rỡ nắng xuân
Lời yêu nào trong những tiếng chuông ngân
Thúc giục tôi đến dự phần Tiệc Thánh
Vào Thiếu Nhi, tôi nhớ mình vui lắm
Gắng thi đua để được lãnh cờ đầu
Lời yêu nào trong tiếng ới gọi nhau
Đến viếng Chúa hãy đi mau kẻo trễ
Sáng tinh sương lo dọn mình rước lễ
Tìm thần lương là Thánh Thể trước tiên
Lời yêu nào giúp tôi sống bình yên
Chẳng vướng bận chuyện bạc tiền, cơm áo
Tuổi đôi mươi tôi rời xa xứ đạo
Sống xa nhà, thiếu dạy bảo khuyên răn
Lời yêu nào vẫn soi dẫn bước chân
Dìu dắt tôi qua khúc quanh, ngõ tối
Bước vào đời bao vũng lầy tội lỗi
Lắm đam mê trên những lối đi quen
Lời yêu nào luôn thắp sáng đêm đen
Để tôi khỏi vì yếu hèn, vấp ngã
Gánh nhọc nhằn, tôi thấy mình đuối quá
Giữa đường trần mà như đã hụt hơi
Lời yêu nào thêm sức mạnh trong tôi
Giúp nhẹ bớt cả gánh đời nặng trĩu
Càng đón nhận, hình như càng thấy thiếu
Tuổi chất chồng tôi mới hiểu thiệt hơn
Lời yêu nào trong những lúc cô đơn
Để nương tựa khi chán chường, bế tắc
Tôi sợ lắm những đêm dài thao thức
Đếm giọt buồn nhìn hạnh phúc tan nhanh
Lời yêu nào như một vị cứu tinh
Sớm hàn gắn chút ân tình gẫy đổ
Biển phải lặng dù bão bùng giông tố
Kẻ đui mù được sáng tỏ như ai
Lời yêu nào chỉ phán một, không hai
Người yếu liệt lại vươn vai vác chõng
“Thầy là đường và chính là sự sống” (Ga 14:6)
Là tin yêu, nguồn hy vọng đời con
Lời của Thầy từng chuyển núi, dời non
Xin hãy phán cho hồn con lành đã….
Vì LỜI YÊU của Thầy là tất cả!