PHÚC ÂM: Mc 10, 17-27
“Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ”. Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”. Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao”. Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”.
Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Đó là lời Chúa.
Kính thưa Anh Chị em,
Tương tự như hai anh em nhà Montgolfier, các tông đồ cũng đã hứng nhận ‘sức nóng của Thánh Thần’ trong ngày lễ Ngũ Tuần, ngày khai sinh Hội Thánh. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy một sự biến đổi lạ lùng bởi sức nóng ấy trên những con người sẽ ra đi sưởi ấm gian trần.
Tin Mừng cho biết, lúc ấy, “Cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín”. Tại sao phải đóng kín? Không chỉ vì sợ người Do Thái nhưng xem ra có một điều gì đó ngăn trở lớn hơn; một điều gì đó khiến cho người môn đệ của Chúa Kitô phải dừng lại lạnh lùng trên con đường dấn thân và hoán cải. Phải chăng, sự ì ạch thiêng liêng và thiếu nhiệt thành của các môn đệ cũng như của chúng ta không chỉ là những khiếm khuyết cá nhân, nhưng là bởi một sự mù quáng trước quyền năng sống động của một Đấng đã chịu đóng đinh nay sống lại. Ngài đang đến, mang theo ‘sức nóng của Thánh Thần!’.
Vậy mà như các môn đệ, chúng ta có thể rời khỏi ‘nhà tù tự tạo’ của mình, chỉ bằng cách mở lòng ra với một đức tin hoàn toàn vào Chúa Kitô. Hoàn toàn tin tưởng, bất chấp bối rối của hiện tại, lo lắng của tương lai; hy vọng hoàn toàn, bằng cách thoát khỏi việc lý tưởng hoá bản thân hầu cậy trông vào một mình Thiên Chúa; đồng thời, mặc lấy một sự tự tin để đón nhận ơn tha thứ, gạt bỏ tội lỗi của người khác cũng như những thất bại của chính mình, vốn là những gì khiến chúng ta mắc kẹt để có thể phóng chiếu một tầm nhìn mới mẻ về cuộc sống. Hôm nay, Chúa Phục Sinh đến qua những cánh cửa có chốt, Ngài yêu cầu chúng ta mở khoá bằng những kinh nghiệm đích thực về Ngài, Đấng mang theo ‘sức nóng của Thánh Thần’.
Không chỉ mang theo sức nóng, Chúa Phục Sinh còn mang theo bình an, “Bình an cho các con!”. Điều quan trọng là chúng ta phải kiểm tra “bình an” của mình, xem liệu nó có thực sự là ‘bình an của Phòng Tiệc Ly’ hay không; hay phải chăng đó chỉ là một sự ‘hài lòng’ chứ không phải ‘bình an đích thực’ một cách đầy tràn từ trong trái tim mình. Bình an trong tim mới là sự bình an chính hiệu mà Chúa Kitô mang lại qua các ân lộc của Thánh Thần. Một số thoả mãn đã qua là một phần của cuộc sống, chúng ta có thể biết ơn chúng; tuy nhiên, khi tìm kiếm chúng chỉ vì lợi ích riêng của chúng, chúng có thể dễ dàng lấn át sự sống đích thực của Thánh Linh, Đấng mang cho chúng ta sự bình an viên mãn sâu sắc trong cuộc sống. Vì thế, lễ Hiện Xuống phải thuyết phục chúng ta trên hết về sự cầu nguyện và lập lại trật tự cuộc sống vốn sẽ cho phép mỗi người tiếp xúc thường xuyên với nguồn ân sủng và sự linh ứng của Thánh Thần, Đấng sưởi ấm tâm hồn bằng sức nóng và bình an của Ngài.
Bài đọc thứ hai hôm nay nói, “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể”. Qua Bí tích Hoà Giải, chúng ta được tha tội nhờ tác động của Thánh Thần; chúng ta tin rằng, lòng thương xót Chúa sẽ thanh tẩy, nuôi dưỡng hy vọng và thay đổi tâm hồn mình. Vậy tại sao chúng ta không tin rằng, chính ân sủng này có thể biến đổi chúng ta trở thành những vị thánh anh hùng, chiến thắng trong thử thách, kiên nhẫn trong gian truân và hiệu quả hơn với tư cách là tông đồ. Chúa Kitô bảo đảm, quyền năng của Ngài sẽ không bao giờ rời bỏ chúng ta, vì vậy không có lý do gì để chúng ta ‘trung lập’ sau một vài sự cố tồi tệ trong đời. Đúng hơn, mục tiêu của Thánh Thần là biến chúng ta từ một con người được xót thương trở thành một ‘Chúa Kitô khác’, vốn cho phép chúng ta mang theo và bày tỏ vết thương của Ngài cho một thế giới không tin Ngài, Tin Mừng hôm nay nói, “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con!”.
Anh Chị em,
Hãy tin cậy vào ‘sức nóng của Thánh Thần’ và quyền năng Ngài để thay đổi chính mình hơn là những nỗ lực của bản thân. Chớ gì chúng ta biết phụ thuộc vào Ngài trong những gặp gỡ trực tiếp cần có với Ngài mỗi ngày. Lời cầu xin của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và xin canh tân bộ mặt trái đất”, canh tân trước hết, tâm hồn mỗi người.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin hãy để nguồn ân sủng thiêng liêng trở thành của ăn thực sự cho con; xin cho con đừng nuôi linh hồn mình bằng những thú vui chóng qua và những tham vọng viển vông, nhưng biết nuôi linh hồn con bằng ‘sức nóng của Thánh Thần’ và bình an của Ngài”, Amen.
(Tgp. Huế)
Đã gần một tháng nay khi đợt dịch thứ tư bắt đầu thâm nhập Việt Nam, nó đã làm thay đổi nhip điệu cuộc sống của đa số người Việt trên dải đất hình chữ S, được dự đoán là đợt bùng phát dịch nguy hiểm và phức tạp, với nhiều chủng SARS-nCoV-2 mới lây lan nhanh, mạnh hơn ba đợt dịch trước và biến đổi rất khó lường. Thật đúng vậy, trong vòng 25 ngày kể từ 27/4 - 23/5 biểu đồ đường đi của đợt dịch này đã tăng cao và đều, vọt lên đến 2165 ca nhiễm để nâng tổng số 3658 ca tại Việt Nam. Được xem là nước rất thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh nhờ vào ý thức phòng dịch của người dân và các biện pháp rất mạnh của chính phủ Trung Ương và các chính quyền địa phương, nhưng đợt dịch này cũng làm cho toàn xã hội lo lắng. Hầu hết các tỉnh thành đều nâng cao các biện pháp phòng ngừa với khẩu hiệu 5K (Khẩu Trang - Khử Khuẩn - Khai Báo Y Tế - Không Tụ Tập), riêng đối với những vùng dịch thì có những biện pháp mạnh hơn như tạm dừng các tụ điểm ăn uống vui chơi, cho học sinh nghỉ học, chỉ được phép bán đồ ăn uống mang đi, và dừng các sinh hoạt tôn giáo tập trung đông người... Đường xá vắng vẻ hơn, nỗi buồn và sự lo lắng bao trùm khắp nơi, nhiều người mất việc, mất cả tinh thần và định hướng khi con virus hiểm ác này đang đến rất gần, nhất là những gia đình có người thân nhiễm bệnh và những hộ trong khu vực cách ly. Trong bối cảnh đau buồn ấy, các giáo phận nằm trong vùng dịch cũng đã thông báo cho các nhà thờ tạm ngưng các thánh lễ tập trung đông người và theo sát sự chỉ đạo phòng chống dịch bệnh một cách cụ thể của từng địa phương. Kể từ đó cánh cửa nhà thờ tạm khép lại, con cái Chúa khắp nơi không được tập trung để đồng thanh hân hoan ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa qua các giờ lễ và các nghi thức phụng vụ khác, tất cả đều khép mình lại, hạn chế ra đường và chỉ tham dự các thánh lễ trực tuyến.
Thật vui mừng khi mà các cửa nhà đóng lại, thôn xóm khắp nơi yên ắng để lo tự phòng dịch, tự lo dự trữ lương thực, thực phẩm thì lời kinh tiếng hát lại vang đều khắp nơi trong các gia đình Công Giáo, Lời Chúa lại được truyền rao qua các kênh truyền thông của các giáo phận và nhà nhà lại quay quần bên nhau để đón nhận và suy gẫm Tin Mừng. Đặc biệt hơn là tại giáo phận Bắc Ninh, nơi mà hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh trở thành điểm nóng nhất Việt Nam trong những ngày vừa qua với những ổ dịch nguy hiểm lây lan trong các khu công nghiệp có hàng chục nghìn công nhân khắp nơi đang tập trung làm việc. Để bảo đảm phòng chống dịch thì chính quyền đã đóng cửa bốn khu công nghiệp và nhiều quận huyện phải ban bố tình trạng cách ly toàn xã hội. Nhà nhà lại đóng cửa, người người lại khép mình trong nhà với những nỗi bâng khuâng lo lắng và trong cái hoàn cảnh éo le đó, quý sơ của dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất (Mater Unitatis) ở xã Quảng Châu, huyện Việt Yên, tinh Bắc Giang thuộc giáo phận Bắc Ninh lại mở toang cánh cửa, dành riêng khuôn viên nhà trẻ của hội dòng để cho các trường hợp nghi nhiễm Covid (hay còn gọi là F1) đến trú ngụ trong thời gian các ly và theo dõi sức khỏe. Bên cạnh đó các sơ còn mở lòng phục vụ thức ăn, chăm lo chốn ở và cả chăm sóc các bệnh nhân cũng như lấy mẫu xét nghiệm y tế đối với các trường hợp F1 trong khu vực nhà dòng và cả những khu vực cách ly tập trung khác. Ngoài ra, các sơ còn lo nấu ăn và mang thực phẩm đến những hộ gia đình, những công nhân nghèo đang ở trong khu vực giãn cách xã hội chưa được nhận sự hỗ trợ nào từ bên ngoài. Như quý sơ đã bộc bạch: "Tình yêu Đức KiTô đã thôi thúc chúng tôi" làm cho quý sơ mạnh mẽ hơn, vượt qua sự sợ hãi để đến với những người đang gặp khó khăn, đang lo buồn do đại dịch Covid-19 gây ra. Các sơ đã làm việc vất vả cả ngày đêm, đem thực phẩm đến những nơi xa xôi và đã cảm nhận được tình thương, tình người trong ánh mắt nụ cười của họ, các sơ nói tiếp: "Trong hoàn cảnh hiện tại, thấy thương nhau lắm, xót xa lắm, nhất là những chị em công nhân đang mang bầu, những đứa trẻ phải theo cha mẹ sống trong những phòng trọ chật hẹp, trong cái nóng tháng 5 của miền bắc....không có việc làm, lo lắng sợ hãi vì địch bệnh, sống trong môi trường bí bách, nguồn thực phẩm phải phụ thuộc vào nguồn cứu trợ, bữa có bữa không...." và chẳng ai nói ai, các sơ hăng say làm việc: "Các chị em đồng lòng dấn thân vì lòng mến Chúa yêu người". Hôm nay trong ngày lễ trọng mừng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, rất nhiều nhà thờ trên toàn cõi Việt Nam vẫn không thể mở toang cánh cửa đón dân Chúa đến để hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu, nhưng chắc rằng với sự sốt sắng tham dự thánh lễ trực tuyến, xin Chúa Thánh Thần mở lòng mở trí để mỗi người chúng con rủ bỏ vỏ hẹp hòi sợ hãi, đủ can đảm và mạnh dạn đi đến những nơi khó khăn để đem tình yêu Chúa đến với những người đau khổ do đại dịch Covid-19 gây ra.
Được biết, Dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất trước đây là Tu hội Hiệp Nhất do Đức cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng thành lập sau năm 1954, và đức cố Giám mục Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến xin Tòa Thánh chuẩn nhận Tu Hội. Đến năm 2017, Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Đấng Bản Quyền giáo phận Bắc Ninh đã ký sắc lệnh "Phê Chuẩn Hiến Chương và Thiết lập Hiệp Hội Đức Mẹ Hiệp Nhất để hướng tới việc thiết lập Hội Dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất sau này thuộc quyền Giáo Phận Bắc Ninh. Hiện Hội Dòng có khoảng 200 nữ tu, tham gia mục vụ giáo xứ trong nhiều lĩnh vực và hoạt động khác nhau, y tế, giáo dục, khuyết tật và phục vụ trại phong.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần ban nguồn phúc ân dồi dào để các sơn luôn được bình an và tiếp tục dấn thân vào việc làm đầy ý nghĩa này
Andre Phong
3. Cái đáng sợ nhất chính là mất đi ngọn lửa nội tại và sự thất vọng của linh hồn.
(Thánh nữ Terese of Avila)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Giáp và Ất lần đầu tiên ăn trứng muối.
Giáp kinh ngạc nói:
- “Trước đây tôi ăn trứng toàn là nhạt, cái trứng này sao lại mặn như thế?”
Ất nói:
- “Chuyện này anh hỏi tôi là hỏi đúng chỗ rồi đó, tôi nói cho nghe, con vịt này là vịt mặn nên đẻ ra trứng mặn đấy.”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 54:
Con vịt thì đẻ ra trứng vịt, con gà thì đẻ ra trứng gà, không thể có con vịt mặn đẻ ra cái trứng mặn, và cũng không thể có con gà màu vàng đẻ ra cái trứng bằng vàng khối…
Nhưng có những gia đình nghèo lại có con cái học hành thành đạt, và có những gia đình cha mẹ thông minh nhưng con cái thì quá dốt, đó không phải là vì con vịt mặn đẻ ra cái trứng mặn, nhưng là do sự giáo dục của gia đình, cha mẹ có bao nhiêu phần trăm nhắc nhở con cái học hành và quan tâm đến chúng nó?
Hỏi là để biết, nhất là đối với trẻ em, nhưng ở trong gia đình con cái không biết hỏi ai khi mà cha mẹ quá lo kiếm tiền nên vắng nhà cả ngày, cho nên con cái mới đi hỏi bạn bè, và được bạn bè trả lời con vịt mặn thì đẻ ra trứng mặn, nghĩa là cha mẹ có tiền thì cứ ăn chơi xả láng, cha mẹ vắng nhà cả ngày thì cần gì phải về nhà, cha mẹ không quan tâm đến thì cần gì nghĩ đến họ.v.v…
Cần hỏi mà hỏi không đúng người đúng chỗ (hỏi nhằm người xấu) thì chẳng khác chi bán linh hồn cho ma quỷ vậy…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Giáo Hội Mẹ tại Giêrusalem đã cử hành Canh thức Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống tại Nhà thờ Thánh Stêphanô. Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là buổi lễ này được cử hành vào chiều thứ Bẩy 22 tháng 5 tại Giêrusalem.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời kêu gọi người Công Giáo trên toàn thế giới cùng tham gia vào buổi cầu nguyện này, cầu xin hòa bình bén rễ trên những vùng đất nơi Chúa Giêsu sinh sống.
Đức Thánh Cha đã bày tỏ lời mời gọi này vào ngày 21 tháng 5, khi kết thúc bài phát biểu trước các Đại sứ không thường trú mới được công nhận tại Tòa thánh.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Suy nghĩ của tôi đang hướng đến các sự kiện đang diễn ra trong những ngày này ở Thánh Địa”.
“Tôi cảm ơn Chúa vì quyết định ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang và hành động bạo lực, đồng thời tôi cầu nguyện cho việc theo đuổi các con đường đối thoại và hòa bình”.
“Tối mai, các Đấng Bản Quyền Công Giáo của Thánh Địa, cùng với các tín hữu của họ, sẽ tụ họp để cử hành Lễ Canh thức Hiện xuống tại Nhà thờ Thánh Stêphanô ở Giêrusalem và cầu xin ân ban hòa bình”.
Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Nhân cơ hội này, tôi yêu cầu tất cả các mục tử và tín hữu của Giáo Hội Công Giáo hiệp nhất với nhau về mặt tinh thần cho lời cầu nguyện này”.
“Xin anh chị em cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để người Israel và người Palestine có thể tìm thấy con đường đối thoại và tha thứ, xin cho họ là những người kiên nhẫn xây dựng hòa bình và công lý, và từng bước cởi mở với hy vọng chung, để có thể cùng tồn tại như anh chị em với nhau.”
Mở bài giảng thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa, là Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ La Tinh, nói:
Một lần nữa, chúng ta cùng nhau tụ họp trong Canh thức Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống để cầu nguyện cho ơn Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội và trên Thánh Địa của chúng ta.
Và một lần nữa, giống như trong quá khứ, chúng ta cũng có mặt ở đây để cầu nguyện cho hòa bình, cho công lý và cho bạo lực sớm chấm dứt. Đây không phải là lần đầu tiên chính vào dịp Canh thức Lễ Hiện xuống này, chúng ta thấy mình đang cầu nguyện và khẩn nài cho sự kết thúc của cuộc chiến trên đất nước của chúng ta. Trên tất cả, chúng ta hiệp nhất trong lời cầu nguyện với gia đình của những người bị thiệt mạng trong những ngày qua, với những người mất nhà cửa, với những người bị bỏ lại một mình và không có hy vọng nào trong cuộc sống của họ. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đồng Kitô nhỏ bé của chúng ta ở Gaza, đang hoang mang trước làn sóng bạo lực thứ mười một này, nhưng cũng cho tất cả cư dân ở đó, những người đã nhiều năm bị sỉ nhục, bị tước đoạt tự do, nhân phẩm và các quyền cơ bản. Sự tạm ngưng các hành vi thù địch hiện tại có lẽ đã mang lại một chút bình tĩnh cho các gia đình chúng ta, nhưng nó vẫn chưa giải quyết được những vấn đề mà bạo lực bắt nguồn từ đó.
Theo lời mời của Đức Thánh Cha Phanxicô, toàn thể Giáo Hội Công Giáo hiệp nhất trong bản hợp xướng cầu nguyện này với chúng ta cùng với Giáo hội Mẹ Giêrusalem. Chúng ta cảm ơn Đức Thánh Cha về sự quan tâm liên tục này đối với Giáo hội của chúng ta, đối với vùng đất của chúng ta và những người sống trên mảnh đất này. Kể từ khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của ngài, Đức Giáo Hoàng đã không ngừng khao khát hòa bình ở Thánh Địa, qua những lời cầu nguyện, những sáng kiến và những lời nhắc nhở liên tục. Khát vọng hòa bình của ngài cũng là của chúng ta. Cùng với ngài và toàn thể Giáo hội hoàn vũ, hôm nay trên hết chúng ta cầu nguyện ở đây cho sự hoán cải của chúng ta để chúng ta có thể thực sự tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ mang lại hòa bình. Tôi biết rõ rằng, trong hoàn cảnh của chúng ta, điều này có thể khó khăn để thực sự tin vào điều đó. Chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta có thể cùng nhau trở thành những người kiến tạo hòa bình và công lý trong vùng đất của chúng ta. Những lời đầu tiên Chúa Giêsu thốt ra trong Phòng Tiệc Ly sau khi Người sống lại, là “ Bình an cho anh em” và rồi Người thở ra Chúa Thánh Thần (Ga 20:19). Vì vậy, chúng ta đang tụ họp tại đây, theo cách thức của một Phòng Tiệc Ly mới, để cầu xin Chúa Phục Sinh ban sự bình an, là hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần.
Trong phụng vụ ngày mai, chúng ta sẽ đọc đoạn văn nổi tiếng trong sách Tông đồ Công vụ, trong đó các cư dân “từ mọi quốc gia dưới bầu trời” (Công vụ 2: 5) cùng nhau tiếp nhận, mỗi người bằng các ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống riêng của mình, sự công bố về “những việc làm vĩ đại của Thiên Chúa” (Cv 2:11). Mặc dù đa dạng, họ đã hiệp nhất trong sự hiểu biết lẫn nhau, trở thành các bộ phận của một cơ thể. Đây là hình ảnh đầu tiên về Giáo Hội mà Thánh Kinh ban cho chúng ta, và từ đó chúng ta đã thấy bản chất của toàn thể Giáo Hội, trong mọi lúc và mọi nơi: đó là đa dạng về ngôn ngữ, truyền thống, văn hóa và ân sủng, nhưng được kết hợp bởi Thần Khí xung quanh Chúa Kitô Phục Sinh; để làm chứng cho hy vọng, thống nhất và hòa bình trên thế giới. Đoạn Kinh thánh đó nhắc đặc biệt với chúng ta, Giáo hội Giêrusalem - Giáo hội Mẹ, Giáo hội đầu tiên. Ngày nay, tại Giêrusalem, mỗi người trong chúng ta có thể có văn hóa, ngôn ngữ và ân sủng riêng, nhưng trước hết chúng ta được kết hợp với Thánh Linh của Chúa Phục Sinh để cùng nhau làm chứng về ân sủng hiệp nhất và bình an. Và điều này càng đặc biệt hơn nữa trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, bị chia cắt bởi những hận thù và chia rẽ chính trị và tôn giáo. Đây có lẽ là sứ mệnh đầu tiên và là ơn gọi thích hợp của Giáo hội Mẹ: đó là làm chứng cho sự hiệp nhất và hòa bình.
Nhưng đoạn Kinh Thánh đó cũng nói về căn tính của Thành Thánh Giêrusalem, nơi mà ngay từ đầu đã được gọi là “ngôi nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is. 56: 7). Giáo Hội Giêrusalem là trái tim của sự mặc khải thiêng liêng, là người trông coi cuộc gặp gỡ giữa Chúa và nhân loại. Cho đến hôm nay, Giêrusalem đã tập hợp lại trong mình các tôn giáo, các nền văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống đa dạng, tất cả đều hợp nhất trong việc tìm kiếm cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Mỗi tín hữu là một công dân thiêng liêng của Giêrusalem, vì ở đây họ tìm thấy trái tim của mình. Giêrusalem tập hợp trong mình tất cả linh hồn của thế giới, và vì điều này, Giêrusalem được mở ra cho toàn thế giới. Tiếng chuông nhà thờ, tiếng kêu gọi cầu nguyện của người Hồi Giáo, tiếng tù và của người Do Thái Giáo… đó là giọng nói của Giêrusalem. Những khoảnh khắc cầu nguyện của người Do Thái, Kitô và Hồi giáo đánh dấu các khoảng khắc cầu nguyện của Giêrusalem. Thánh địa Giêrusalem là kho báu được các tín đồ đa dạng của cô ấy tranh nhau bảo vệ. Và tất cả cư dân của Giêrusalem ấy là một phần của một bức tranh ghép đầy màu sắc và thống nhất của cuộc sống; nơi tất cả gặp gỡ và va chạm, nơi mỗi người - bất chấp xuất xứ - là một phần của một thiết kế vĩ đại hơn, một tấm vải do chính Chúa thêu. Nó là một loại vải mỏng manh và dễ vỡ nên cần được bảo quản cẩn thận và chú ý.
Vì vậy, các nhà chức trách tôn giáo và chính trị có trách nhiệm phải hết sức thận trọng bảo vệ di sản độc nhất vô nhị này. Bất kỳ sự chiếm đoạt nào, bất kỳ sự chia rẽ nào, bất kỳ cử chỉ loại trừ và từ chối người khác, bất kỳ hình thức bạo lực nào… đều là vết thương sâu trong cuộc sống của Thành phố và là nguyên nhân gây đau đớn cho tất cả mọi người, bởi vì tất cả đều là một phần của một cơ thể. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà làn sóng bạo lực gần đây trên toàn bộ Thánh Địa đã bắt nguồn ngay tại Giêrusalem, chỉ cách chúng ta vài mét.
Không có sự áp đặt nào có thể có hiệu quả ở Giêrusalem. Chúng ta đã thường xuyên nhắc lại điều này và chúng ta vẫn làm cho đến ngày nay. Sự cân bằng giữa hai bên của Thành phố đã nhiều lần bị phá vỡ, gây đau đớn và thất vọng. Đây không phải là con đường để đi nếu chúng ta thực sự muốn hòa bình. Giêrusalem dành cho tất cả mọi người: Kitô hữu, người Do Thái và người Hồi giáo, người Israel và người Palestine. Tất cả đều có quyền và nhân phẩm bình đẳng, mọi công dân đều bình đẳng. Bất kỳ sự loại trừ hoặc áp đặt nào, đều làm tổn hại đến bản sắc của Thành phố và điều này không thể giữ im lặng cũng như không bỏ qua.
Tiên tri Isaiah, trong đoạn văn vừa được công bố, trình bày cho chúng ta một hình ảnh tuyệt vời về hành động của Thánh Linh của Chúa đối với Ghétsê, được Thiên Chúa sai đến.
Với sự công bình, ông ấy sẽ xét xử công minh cho kẻ thiếu thốn, với sự công bình, ông ấy sẽ đưa ra quyết định cho người nghèo trên trái đất… Sự công bình sẽ là thắt lưng của ông ấy… Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau; Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì đất sẽ tràn đầy sự hiểu biết về Chúa như nước bao phủ biển cả. (Is. 11: 2-9)
Chúng ta không chắc chính xác Tiên tri Isaiah đang ám chỉ ai trong đoạn văn này, “gốc rễ Ghétsê” này là ai. Giáo hội đã hiểu nhân vật này là Đấng Mêsia, như thánh sử Luca đã gợi ý (Lc 4, 17ff). Nhưng đây cũng là lời kêu gọi dành cho tất cả những ai đã nhận được Thánh Linh của Chúa. Đó là sự mô tả sứ mệnh của mọi tín hữu và của toàn thể Giáo hội. Phân đoạn này tạo nên một yếu tố trong căn tính của người tin Chúa: đó là làm việc liên tục vì công lý, tôn trọng người nghèo và người yếu thế, thẳng thắn trong việc đưa ra quyết định, không sống theo vẻ bề ngoài nhưng phục vụ Chúa.
Trong những ngày qua, chúng ta đã chứng kiến những căng thẳng to lớn ngay cả trong các thành phố của chúng ta, nơi người Do Thái và người Palestine sống cùng nhau. Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại đi ngược lại lời tiên tri Isiah, và cho thấy một sự bất an sâu sắc mà mọi người phải hết sức lưu ý. Rõ ràng, vẫn còn một chặng đường dài để sói, cừu, sư tử và bê con có thể sống cùng nhau. Chúng ta cần Thánh Linh giáng xuống mọi người để mọi người nhận ra họ là một phần của một cơ thể, mọi hình thức phân biệt đối xử phải biến mất và “những quyết định công bằng được đưa ra cho người hiền lành trên trái đất”. Cầu xin Thánh Linh mở mắt để chúng ta có thể thực sự nhận ra trong luật pháp, trong thái độ và lựa chọn tập thể và cá nhân của chúng ta, thực tại đa tôn giáo, đa văn hóa và đa bản sắc của xã hội chúng ta. Chúng ta phải lên án bạo lực vốn quá thường thấy trong ngôn ngữ đã tồn tại từ lâu, và có lẽ đã quá thường xuyên bị bỏ qua. Ngôn ngữ gây hấn chắc chắn dẫn đến bạo lực thể xác. Chúng ta phải làm việc với những người thuộc mọi tín ngưỡng, những người vẫn cùng nhau tin tưởng vào một tương lai và cùng nhau phấn đấu cho nó. Thật là vui khi thấy trong những ngày qua, giữa những căng thẳng và bạo lực bè phái, những cuộc biểu tình của tình liên đới và tình anh em giữa những người Israel gốc Do Thái và Palestine. Chúng là một dấu hiệu an ủi về sự hiện diện của Thánh Linh của Chúa giữa chúng ta… bất chấp mọi thứ.
Sau đây, tôi xin nhắc lại những điều tôi đã nói trong nhiều dịp khác nhau: mặc dù ngày nay việc nói những điều này xem ra không được ưa chuộng, chúng ta không được tận dụng và cũng không được để nảy sinh tình cảm thù hận. Chúng ta không được khiến bất cứ ai, dù là người Do Thái hay người Palestine, cảm thấy bị từ chối. Chúng ta phải rõ ràng hơn trong việc tố cáo bất cứ điều gì gây chia rẽ. Chúng ta không thể cứ hài lòng với các cuộc họp liên tôn về hòa bình, và nghĩ rằng như thế là đủ để giải quyết các vấn đề của sự chung sống. Thay vào đó, chúng ta phải cam kết thực hiện nhiệm vụ này trong các trường học, trong các viện nghiên cứu của chúng ta, trong các phương tiện truyền thông của chúng ta, trong chính trị và tại nơi thờ phượng, tất cả phải làm vang danh Thiên Chúa, tình anh em và sự cộng tác.
“Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin điều gì, thì Thầy sẽ ban cho” (Ga 14:14), Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng Thánh Gioan, và thêm rằng “ … Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy” (Ga 14:30).
Chúng ta không đơn độc. Trong Thánh Linh, Chúa Phục Sinh ở giữa chúng ta, an ủi và nâng đỡ chúng ta. Sự chết, tội lỗi, sự chia rẽ của chúng ta… những điều này không đủ để ngăn cản Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta. “nó không làm gì được Thầy”. Cái ác không thể thắng, ngay cả khi nó có vẻ là như vậy khi nó phá hủy các mối quan hệ của chúng ta. Các môn đệ, được đầy dẫy Chúa Thánh Thần, được sai đi để tiếp tục những gì họ đã thấy Chúa Giêsu làm, đó là đem lại sự sống ở nơi có sự chết, sự tha thứ ở nơi có tội lỗi.
Ngày nay, chúng ta được mời gọi từ bỏ nỗi sợ hãi, những “nhà cửa đóng kín” giống như các môn đệ trong Tin Mừng, để chúng ta có thể loan báo và làm chứng cho sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta và trong mọi người, hòa bình và hiệp nhất của nhân loại trong Chúa.
Khi nhìn thấy những vết thương của Chúa Phục sinh, các môn đệ tràn đầy niềm vui (Ga 20:20). Xin Thánh Linh giúp chúng ta có thể đọc được trong ánh sáng của Ơn Cứu Chuộc, thực tại ngày nay của chúng ta, và làm cho vết thương của chúng ta, giống như vết thương của Chúa Kitô, không phải là nguồn gây thất vọng và chán nản, nhưng là chất xúc tác để vượt ra ngoài và tạo ra những dịp vui vẻ, gặp gỡ, và an ủi.
Cầu mong cho chúng ta không nản lòng. Chúng ta đừng làm buồn lòng Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng bảo vệ chúng ta. Xin cho mọi cay đắng, giận dữ, thù địch và mọi cảm giác tiêu cực khác biến mất (xem Ep 4: 30-31). Chỉ có tình yêu, đồng nghĩa với Thần khí, mới có thể thay đổi trái tim con người. Chúng ta hãy cầu xin điều này cho chính chúng ta, cho Giáo hội của chúng ta và cho Giáo hội trên thế giới; và chúng ta hãy cầu xin điều này cho Thánh Địa của chúng ta, cho các chính phủ của chúng ta, cho các mục tử của chúng ta, cho những người nắm giữ trách nhiệm đối với các dân tộc và thể chế, để họ có thể được dẫn dắt bởi tình yêu của Thiên Chúa hơn là sự tính toán của con người, là những thứ không thể tạo ra sự sống như chúng ta đã thấy trong những ngày gần đây. Ước gì ân sủng của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu và soi sáng các ơn gọi cá nhân và giáo hội của chúng ta trong bối cảnh xã hội vừa đau thương vừa mệt mỏi này của chúng ta. Cầu mong điều đó làm cho chúng ta có thể chấp nhận thực tại của mình mà không dối trá hoặc ảo tưởng, đặt những lời an ủi trên môi, cho chúng ta can đảm để bảo vệ công lý mà không ảnh hưởng đến sự thật. Mong điều đó cho phép chúng ta tha thứ cho nhau.
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta, và là mẹ của Giáo hội, đấng như mọi người mẹ, luôn ôm ấp và chào đón tất cả con cái của mình. Đức Mẹ Palestine, bổn mạng của giáo phận chúng ta, và là Nữ Vương Hòa Bình, đã cầu bầu cho chúng ta với Thiên Chúa Tối Cao để cộng đồng của chúng ta tiếp tục sở hữu vòng tay rộng mở và trái tim chào đón. “Cầu mong Mẹ gìn giữ quê hương trần thế của Mẹ, che chở mảnh đất này bằng sự bảo vệ đặc biệt và xua tan bóng tối của lỗi lầm, nơi Mặt trời Vĩnh cửu của Công lý đã từng chiếu sáng”.
+ Pierbattista
Source:Latin Patriarchate Of Jerusalem
Chúa Nhật 23 tháng 5, Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Bài trích sách Tông Đồ Công Vụ mô tả cho chúng ta những gì đã xảy ra:
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói.
Khi ấy, cư ngụ tại Giêrusalem, có những người Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Mọi người đều sửng sốt và bỡ ngỡ nói rằng: “Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư? Nhưng tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pôntô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do-thái và tòng giáo, là người Crêta và Á-rập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa!”
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha nói:
Sách Tông đồ Công Vụ (xem 2: 1-11) kể lại những gì xảy ra tại Giêrusalem 50 ngày sau Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Các môn đệ đang tập trung trong Phòng Tiệc Ly, và Đức Trinh Nữ Maria ở với họ. Chúa Phục Sinh đã bảo họ ở lại thành phố cho đến khi họ nhận được ân sủng của Chúa Thánh Linh từ Trời. Và điều này đã được tỏ lộ với một “âm thanh” mà họ bất ngờ nghe thấy từ trời, giống như “cơn gió thổi mạnh” tràn ngập ngôi nhà họ đang ở (xem câu 2). Như thế, điều đó liên quan đến một trải nghiệm thực tế nhưng cũng mang tính biểu tượng; nói cách khác, một điều gì đó đã xảy ra nhưng cũng mang đến cho chúng ta một thông điệp mang tính biểu tượng cho cả cuộc đời của chúng ta.
Kinh nghiệm này cho thấy rằng Chúa Thánh Thần giống như một cơn gió mạnh và tự do thổi; nghĩa là, Ngài mang đến cho chúng ta sức mạnh và mang lại cho chúng ta sự tự do: một luồng gió mạnh mẽ và tự do. Ngài không thể bị kiểm soát, dừng lại, chẳng thể đo lường được; cũng chẳng thể nói trước được hướng đi của Ngài. Ngài không thể hiểu được trong khuôn khổ chật hẹp của loài người chúng ta - chúng ta luôn cố gắng đóng khung mọi thứ - Ngài không để bản thân bị đóng khung trong các phương pháp và định kiến của chúng ta. Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha và từ Con của Người là Đức Giêsu Kitô và bùng nổ trên Giáo hội; Thánh Linh bùng nổ trên mỗi người chúng ta, mang lại sự sống cho tâm trí và trái tim của chúng ta. Như Kinh Tin Kính nói: Chúa Thánh Thần là “Đấng ban sự sống”. Ngài đầy quyền năng bởi vì Ngài là Thiên Chúa, và Ngài ban sự sống.
Vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các môn đệ của Chúa Giêsu vẫn còn mất phương hướng và sợ hãi. Họ vẫn chưa có đủ can đảm để đi ra ngoài. Đôi khi chúng ta cũng thích ở trong những bức tường bảo vệ của môi trường xung quanh. Nhưng Chúa biết cách tiếp cận chúng ta và mở rộng cửa cho tâm hồn chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng bao phủ chúng ta và chế ngự mọi sự do dự của chúng ta, phá bỏ sự phòng thủ của chúng ta, phá bỏ những định kiến sai lầm của chúng ta. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở thành những con người mới, giống như Người đã làm ngày hôm đó với các Tông đồ: Người đổi mới chúng ta, những con người mới.
Sau khi nhận được Chúa Thánh Thần, họ không còn như trước nữa - Ngài đã thay đổi họ, nên họ tiến ra ngoài và bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu, rao giảng rằng Chúa Giêsu đã sống lại, rằng Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi người hiểu những lời các Tông đồ rao giảng bằng ngôn ngữ của riêng mình. Thánh Thần là phổ quát; Ngài không xóa bỏ những khác biệt về văn hóa hay những khác biệt về tư tưởng. Ngài được dành cho tất cả mọi người, nhưng mỗi người hiểu Ngài trong nền văn hóa của riêng mình, bằng ngôn ngữ của riêng mình. Thánh Thần thay lòng đổi dạ, mở rộng tầm nhìn cho các môn đệ. Ngài giúp họ có thể truyền đạt cho mọi người những công trình vĩ đại, vô hạn của Thiên Chúa, vượt qua những giới hạn văn hóa và tôn giáo mà họ đã quen trong suy nghĩ và lối sống. Ngài cho các Tông đồ khả năng thông đạt cho những người khác, trong khi tôn trọng khả năng lắng nghe và hiểu biết của họ, qua văn hóa và ngôn ngữ của mỗi người (câu 5-11). Nói cách khác, Chúa Thánh Thần đặt những người khác nhau vào tiến trình giao tiếp, đạt đến cả sự hiệp nhất lẫn tính phổ quát của Giáo hội.
Và ngày nay sự thật này, thực tại này của Chúa Thánh Thần, nói với chúng ta rất nhiều, vì trong Giáo Hội có những nhóm nhỏ luôn tìm cách chia rẽ, để tách mình ra khỏi những người khác. Đây không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. Thần Khí của Thiên Chúa là sự hòa hợp, là sự hợp nhất, hợp nhất những khác biệt. Một vị Hồng Y khả kính, người từng là Tổng Giám mục Genoa, đã nói rằng Giáo hội giống như một dòng sông: điều quan trọng là ở bên trong; nếu anh chị em có một chút ở bên đó và một chút ở bên kia thì điều đó không quan trọng; Chúa Thánh Thần tạo ra sự hiệp nhất. Vị Hồng Y đã sử dụng hình ảnh của một dòng sông Điều quan trọng là ở bên trong, trong sự hiệp nhất của Thánh Linh, và đừng nhìn vào những chi tiết nhỏ như bạn hơi ở bên này và một chút ở bên kia, rằng bạn cầu nguyện theo cách này hay cách khác…. Điều đó không quan trọng đối với Chúa. Giáo hội là của mọi người, vì mọi người, như Chúa Thánh Thần đã tỏ ra trong ngày Lễ Hiện Xuống.
Hôm nay, chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, cầu bầu để Chúa Thánh Thần hiện xuống dồi dào, đổ đầy tâm hồn các tín hữu và thắp lên ngọn lửa tình yêu của Người trong lòng mọi người.
Sau khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha nói tiếp:
Anh chị em thân mến! Tôi xin tất cả anh chị em cầu nguyện cho tình hình ở Colombia, nơi tình hình tiếp tục đáng lo ngại. Vào ngày Lễ Hiện Xuống trọng thể này, tôi cầu nguyện rằng những người Colombia yêu dấu có thể đón nhận các ân sủng của Chúa Thánh Thần để qua cuộc đối thoại nghiêm chỉnh, họ có thể tìm ra giải pháp cho nhiều vấn đề trong đó những người nghèo nhất đang phải gánh chịu do đại dịch. Vì lý do nhân đạo, tôi khuyến cáo mọi người tránh những hành vi gây tổn hại cho các cộng đồng dân cư trong khi thực hiện quyền biểu tình ôn hòa.
Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho những người dân ở thành phố Goma, thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo, buộc phải chạy trốn do hỏa diệm sơn ở Núi Nyiragongo phun trào.
Ngày mai, các tín hữu Công Giáo ở Trung Quốc cử hành Lễ của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng phù trợ các Kitô hữu và Đấng Bảo trợ trên Thiên Quốc của đất nước vĩ đại này. Mẹ của Chúa và của Giáo hội được tôn kính với lòng sùng kính đặc biệt tại đền thánh Đức Mẹ Xà Sơn ở Thượng Hải, và được các gia đình Công Giáo khẩn thiết cầu khẩn, trong những thử thách và hy vọng của cuộc sống hàng ngày. Thật tốt biết bao và cần thiết biết bao khi các thành viên của một gia đình và của một cộng đồng Kitô hữu ngày càng đoàn kết hơn trong tình yêu và đức tin! Bằng cách này, cha mẹ và con cái, ông bà và cháu chắt, các mục tử và các tín hữu có thể noi gương các môn đệ đầu tiên, những người, trong ngày lễ trọng Lễ Hiện Xuống, đã hiệp thông cầu nguyện với Mẹ Maria khi họ trông đợi Chúa Thánh Thần. Vì vậy, tôi mời anh chị em đồng hành trong lời cầu nguyện nhiệt thành đối với các tín hữu Kitô ở Trung Quốc, những người anh chị em thân yêu nhất của chúng ta, những người mà tôi luôn ghi nhớ trong sâu thẳm trái tim mình. Xin Chúa Thánh Thần, nhân vật chính trong sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới, hướng dẫn họ và giúp họ trở thành những người mang sứ điệp hạnh phúc, những chứng nhân của lòng tốt và bác ái, và những người xây dựng công lý và hòa bình trên đất nước của họ.
Và nói về lễ kỷ niệm ngày mai, Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, ý nghĩ của tôi hướng đến những linh mục, tu sĩ nam nữ Salêdiêng, những người làm việc rất nhiều trong Giáo hội cho những người ở xa nhất, cho những người bị thiệt thòi nhất, cho những người trẻ tuổi. Xin Chúa chúc lành và dẫn dắt anh chị em tiến về phía trước với nhiều ơn gọi thánh thiện!
Ngày mai “Năm Laudato Si” sẽ kết thúc. Tôi cảm ơn những người đã tham gia với nhiều sáng kiến trên khắp thế giới. Đó là một cuộc hành trình mà chúng ta phải tiếp tục cùng nhau, lắng nghe tiếng kêu của Trái đất và của những người nghèo. Vì lý do này, “Nền tảng Laudato Si”, một chương trình hoạt động kéo dài 7 năm, sẽ bắt đầu ngay lập tức để hướng dẫn các gia đình, cộng đồng giáo xứ và giáo phận, các trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, các nhóm, phong trào, tổ chức, các tu hội áp dụng một cách sống bền vững. Và xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả những hoạt náo viên hôm nay nhận được sứ mệnh truyền bá Tin Mừng Sáng Tạo và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.
Tôi thân ái chào tất cả anh chị em, những người đến từ Rôma, từ Ý và các nước khác. Tôi thấy ở đây Ba Lan, Mễ Tây Cơ, Chí Lợi, Panama và rất nhiều nước khác…. Tôi thấy những lá cờ ở đó: Colombia. Cảm ơn bạn đã ở đây! Đặc biệt tôi xin chào các bạn trẻ của Phong trào Focolare…. Những Focolari này đang huyên náo! Và những người tham gia cuộc đi bộ vì tình bạn.
Chúc mọi người một ngày Chúa Nhật vui vẻ. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc các bạn bữa trưa ngon miệng! Chào tạm biệt! Chào tất cả anh chị em!
Source:Holy See Press Office
Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 23 tháng 5, tại bàn thờ tuyên xưng đức tin trong Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự lễ trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Từ đầu đại dịch hồi tháng Ba năm ngoái, Đức Thánh Cha nhiều lần cử hành thánh lễ và các lễ nghi tại Bàn thờ Ngai tòa, trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Sáng 25 tháng 4 là lần đầu tiên ngài tái cử hành tại bàn thờ tuyên xưng Đức tin, là bàn thờ chính trên mộ thánh Phêrô, và có gần 3,000 người tham dự, giữ sự giãn cách và đeo khẩu trang.
Chúa Nhật 23 tháng 5 là lần thứ hai, Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tại bàn thờ chính của Đền Thờ với khoảng 30 Hồng Y, hơn 20 giám mục, và một số linh mục.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Đấng Bảo Trợ là Đấng an ủi. Tất cả chúng ta, đặc biệt vào những thời điểm khó khăn, như trong hoàn cảnh chúng ta đang trải qua đại dịch hiện nay, đều tìm kiếm sự an ủi. Tuy nhiên, thông thường, chúng ta chỉ hướng đến những an ủi trần thế, những an ủi phù du nhanh chóng lụi tàn. Hôm nay, Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự an ủi từ trời cao, là Chúa Thánh Thần, “Đấng an ủi tốt nhất” (Ca Tiếp Liên). Sự khác biệt là gì? Thưa: Những an ủi thế gian giống như một liều thuốc giảm đau: chúng có thể giúp giảm đau nhất thời, nhưng không chữa khỏi căn bệnh mà chúng ta mang sâu trong lòng. Chúng có thể xoa dịu chúng ta, nhưng không thể chữa lành chúng ta tận cốt lõi. Chúng hoạt động trên bề mặt, ở mức độ của các giác quan, nhưng hầu như không chạm đến trái tim của chúng ta. Chỉ ai đó khiến chúng ta cảm thấy được yêu vì chính con người của chúng ta mới có thể mang lại sự bình yên cho trái tim chúng ta. Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa, thực hiện chính xác điều đó. Ngài đi xuống trong chúng ta; với tư cách là Thánh Linh, Ngài hành động trong tinh thần của chúng ta. Ngài ngự xuống “trong trái tim”, là “vị khách được chào đón nhất của linh hồn” (thd). Ngài là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi chúng ta; bởi vì sự hiện diện với những người cô đơn tự nó đã là một nguồn an ủi.
Anh chị em thân mến, nếu anh chị em cảm thấy bóng tối của cô đơn, nếu anh chị em cảm thấy có các chướng ngại trong anh chị em cản trở con đường hướng đến hy vọng, nếu trái tim anh chị em có những vết thương đang mưng mủ, nếu anh chị em không thể thấy lối thoát, thì hãy mở rộng trái tim mình để đón nhận Chúa Thánh Thần. Thánh Bonaventura nói với chúng ta rằng, “nơi nào những thử thách lớn hơn, thì Ngài mang lại sự thoải mái hơn, không giống như thế gian, nơi an ủi và tâng bốc chúng ta khi mọi việc diễn ra tốt đẹp, nhưng lại chê bai và lên án chúng ta khi mọi sự không như ý” (Bài giảng trong Tuần Bát nhật Lễ Thăng thiên). Đó là những gì thế giới làm, đặc biệt là, những thần khí ác độc do ma quỷ xui khiến làm ra. Đầu tiên, nó tâng bốc chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy bất khả chiến bại, vì những lời tâng bốc của ma quỷ nuôi dưỡng thói phù phiếm của chúng ta; sau đó nó hạ gục chúng ta và khiến chúng ta cảm thấy rằng chúng ta là những người thất bại. Nó đùa giỡn trên chúng ta. Nó làm mọi cách để quật ngã chúng ta, trong khi Thánh Linh của Chúa Phục sinh muốn nâng chúng ta lên. Hãy nhìn các Tông đồ: họ đang cô đơn vào buổi sáng hôm đó, cô đơn và hoang mang, thu mình sau những cánh cửa đóng kín, sống trong sợ hãi và choáng ngợp trước những yếu đuối, thất bại và tội lỗi của họ, vì họ đã chối bỏ Chúa Kitô. Những năm họ đã trải qua với Chúa Giêsu không thay đổi họ: họ không khác bao nhiêu so với trước đó. Sau đó, họ nhận được Thánh Linh và mọi thứ thay đổi: các vấn đề và những thất bại vẫn còn, nhưng họ không còn sợ hãi trước những vấn nạn đó, cũng chẳng e ngại trước những ai thù địch với họ. Họ cảm nhận được sự an ủi bên trong và họ muốn gieo rắc sự an ủi của Thiên Chúa. Trước đây, họ sợ hãi; giờ đây nỗi sợ hãi duy nhất của họ là không làm chứng cho tình yêu mà họ đã nhận được. Chúa Giêsu đã báo trước điều này: “Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng.” (Ga 15: 26-27).
Chúng ta hãy bước thêm một bước nữa. Chúng ta cũng được kêu gọi để làm chứng trong Chúa Thánh Thần, trở thành những người giúp đỡ, và những người an ủi. Thánh Linh đang yêu cầu chúng ta thể hiện ơn an ủi mà Ngài mang lại. Làm thế nào chúng ta có thể làm điều này? Thưa: Không phải bằng cách tạo ra những bài phát biểu tuyệt vời, mà bằng cách thu hút người khác đến gần. Không phải bằng những lời sáo rỗng, mà bằng lời cầu nguyện và sự gần gũi. Chúng ta hãy nhớ rằng sự gần gũi, lòng từ bi và sự dịu dàng của Thiên Chúa luôn luôn là một “thương hiệu”. Đấng Bảo Trợ đang nói với Giáo hội rằng hôm nay là thời gian để an ủi. Đây là thời gian để hân hoan loan báo Tin Mừng hơn là chống lại các ngoại giáo. Đó là thời gian để mang lại niềm vui của Chúa Phục Sinh, chứ không phải để than thở về thảm kịch tục hóa. Đây là lúc để đổ tình yêu thương lên thế gian, nhưng không đón nhận tinh thần thế gian. Đây là thời gian để làm chứng cho lòng thương xót, hơn là khắc sâu các quy tắc và luật lệ. Đây là thời điểm của Đấng Bảo Trợ! Đây là thời gian của tự do của trái tim, trong Đấng Bảo Trợ.
Đấng Bảo Trợ cũng là Đấng Bênh Vực. Vào thời Chúa Giêsu, các trạng sư đã không hành động như ngày nay: thay vì nói thay cho bị cáo, họ chỉ đứng cạnh bị cáo và đề nghị những lý lẽ mà bị cáo có thể sử dụng để bào chữa cho chính mình. Đó là những gì Đấng Bênh Vực làm, vì Ngài là “thần khí của sự thật” (câu 26). Ngài không thay thế chúng ta, nhưng bảo vệ chúng ta khỏi sự lừa dối của điều ác bằng cách truyền cảm hứng cho những suy nghĩ và cảm xúc. Ngài làm như vậy một cách kín đáo, không ép buộc chúng ta: Ngài đề xuất nhưng không áp đặt. Thần gian dối, kẻ gian ác, làm ngược lại: nó cố gắng ép buộc chúng ta; nó muốn làm cho chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải luôn luôn chiều theo những quyến rũ và sự thúc đẩy của tội lỗi. Chúng ta hãy cố gắng đón nhận ba đề xuất tiêu biểu của Đấng Bảo Trợ, là Đấng Bảo Vệ của chúng ta. Chúng là ba liều thuốc giải độc cơ bản cho ba chước cám dỗ rất phổ biến ngày nay.
Lời khuyên đầu tiên mà Chúa Thánh Thần đưa ra là: “Hãy sống trong hiện tại”. Hiện tại, chứ không phải là quá khứ hay tương lai. Đấng Bảo Trợ khẳng định tính ưu việt của ngày hôm nay, chống lại cám dỗ để bản thân bị tê liệt bởi những cay đắng hoặc những hoài niệm của quá khứ, hoặc bởi sự bất định hoặc sợ hãi về tương lai. Thánh Linh nhắc nhở chúng ta về ân sủng của giây phút hiện tại. Không có thời điểm nào tốt hơn cho chúng ta: bây giờ, ở đây và ngay lúc này, là thời điểm duy nhất và độc đáo để làm điều thiện, để cuộc sống của chúng ta trở thành một ân sủng. Chúng ta hãy sống trong hiện tại!
Thánh Linh cũng nói với chúng ta rằng “Hãy nhìn toàn thể”. Nhìn toàn bộ, chứ không phải một phần. Thánh Thần không uốn nắn những cá nhân biệt lập, nhưng uốn nắn chúng ta thành một Giáo hội với muôn vàn đặc sủng của chúng ta, thành một thể thống nhất không bao giờ đồng nhất. Đấng Bảo Trợ khẳng định tính ưu việt của tổng thể. Ở đó, trong tổng thể, trong cộng đồng, Thánh Linh thích hoạt động và mang lại sự mới mẻ. Chúng ta hãy nhìn vào các Tông đồ. Tất cả đều hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, các ngài có Matthêu, một người thu thuế đã từng cộng tác với người La Mã, và Simôn thuộc nhóm Quá Khích, là người đã chiến đấu với họ. Họ có những ý tưởng chính trị trái ngược, những tầm nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, một khi họ nhận được Thánh Linh, họ học cách dành quyền ưu tiên không phải cho quan điểm của con người mà cho “toàn thể”, tức là cho kế hoạch của Thiên Chúa. Ngày nay, nếu chúng ta lắng nghe Thánh Linh, chúng ta sẽ không quan tâm đến những người bảo thủ và những người tiến bộ, những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người cách tân, cánh hữu và cánh tả. Khi những điều đó trở thành tiêu chí của chúng ta, thì Giáo hội đã quên Thánh Linh. Đấng Bảo Trợ thúc đẩy chúng ta hướng đến sự hiệp nhất, sự hòa hợp, sự hài hòa của sự đa dạng. Ngài khiến chúng ta thấy mình là những bộ phận của cùng một cơ thể, là anh chị em của nhau. Chúng ta hãy nhìn vào toàn bộ! Kẻ thù muốn sự đa dạng trở thành sự đối kháng và vì vậy nó khiến chúng trở thành những người ý thức hệ. Hãy nói không với ý thức hệ, và nói vâng với tổng thể.
Lời khuyên thứ ba của Thánh Linh là, “Hãy đặt Chúa trước mặt mình”. Đây là bước quyết định trong đời sống thiêng liêng. Đời sống thiêng liêng của chúng ta không phải là tổng hợp những công lao và thành tựu của chúng ta, mà là sự cởi mở khiêm nhường với Thiên Chúa. Thánh Linh khẳng định vị trí tối thượng của ân sủng. Chỉ bằng cách làm trống rỗng bản thân, chúng ta mới có chỗ dành cho Chúa; chỉ bằng cách hiến thân cho Ngài, chúng ta mới tìm thấy chính mình; chỉ bằng cách trở nên nghèo nàn về tinh thần, chúng ta mới trở nên giàu có trong Chúa Thánh Thần. Điều này cũng đúng với Giáo hội. Chúng ta không cứu được ai, kể cả chính chúng ta, bằng chính nỗ lực của chúng ta. Nếu chúng ta ưu tiên cho các dự án của chúng ta, các cơ cấu của chúng ta, các kế hoạch cải cách của chúng ta, chúng ta sẽ chỉ quan tâm đến hiệu lực, hiệu quả, chúng ta sẽ chỉ nghĩ theo chiều ngang và kết quả là chúng ta sẽ chẳng có kết quả gì cả. Một “-ism” là một ý thức hệ chia rẽ và tách biệt. Giáo hội là con người, nhưng không chỉ đơn thuần là một tổ chức của con người, mà còn là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mang ngọn lửa của Thánh Linh đến thế gian và Giáo hội được cải tổ bằng sự xức dầu của ân sủng, bằng tính nhưng không trong sự xức dầu của ân sủng, bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, niềm vui của sứ mệnh và vẻ đẹp của sự nghèo khó không so đo tính toán. Chúng ta hãy đặt Chúa ở vị trí đầu tiên!
Lạy Chúa Thánh Thần, Thần Khí Bảo Trợ, xin an ủi tâm hồn chúng con. Hãy biến chúng con thành những nhà truyền giáo loan truyền ơn an ủi của Người. Hãy biến chúng con thành những người bảo vệ lòng thương xót của Chúa trước thế giới. Lạy Đấng Bênh vực, nhà cố vấn tâm hồn ngọt ngào của chúng con, xin làm cho chúng con trở thành chứng nhân về “ngày hôm nay” của Thiên Chúa, thành những tiên tri cho sự hiệp nhất của Giáo hội và nhân loại, và trở thành các Tông đồ biết dựa trên ân sủng của Chúa, Đấng sáng tạo và đổi mới mọi sự. Amen.
Source:Libreria Editrice Vaticana
Tử vong toàn thế giới tính cho đến sáng thứ Sáu 21 tháng Năm, đã lên đến 3,444,656 người chết, trong số 165,842,599 trường hợp nhiễm coronavirus. Riêng tại Hoa Kỳ, tử vong đã lên đến 602,616 người chết, trong số 33,833,181 trường hợp nhiễm bệnh.
Tử vong tại Ấn Độ tính đến sáng ngày thứ Sáu 21 tháng 5 là 291,365 người chết trong số 26,030,674 người nhiễm bệnh. Trong vòng 24 giờ trước đó, con số tử vong và nhiễm bệnh vẫn đang ở mức kinh hoàng với 276,261 trường hợp nhiễm bệnh được chính thức ghi nhận, và 3,880 người chết. Con số thương vong thực sự cao hơn rất nhiều vì hệ thống y tế của Ấn Độ đã sụp đổ, hầu hết các bệnh viện không nhận thêm bệnh nhân, nên những người tự chống chọi với căn bệnh quái ác này không có trong các con số thống kê.
Trong bối cảnh kinh hoàng này, tờ New York Post số ra ngày 20 tháng Năm, cho biết các đảng viên Cộng hòa trong Ủy ban Tình báo Hạ viện nói rằng có “các bằng chứng hợp lý đáng kể” cho thấy coronavirus bắt nguồn từ các vụ rò rỉ tại Viện Vi rút học Vũ Hán của Trung Quốc và chính phủ Hoa Kỳ “có thể đã tài trợ hoặc hợp tác” trong việc nghiên cứu dẫn đến kết quả bi thảm ngày hôm nay.
Dân biểu Devin Nunes của Đảng Cộng Hòa đơn vị California, thành viên hàng đầu của Ủy ban và các thành viên Đảng Cộng hòa khác trong ủy ban đã công bố báo cáo do Fox News thu được, kết luận rằng các chuyên gia y tế và quan chức chính phủ cần phải hiểu cách thức hoạt động của loại virus chết người này, và nguồn gốc của nó để có thể ngăn chặn “hoặc nhanh chóng giảm thiểu nguy cơ của đại dịch trong tương lai”.
Báo cáo cho rằng “Các nỗ lực quốc tế nhằm tìm ra nguồn gốc thực sự của vi rút đã bị cản trở bởi sự thiếu hợp tác từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
“Tuy nhiên, có các bằng chứng hợp lý đáng kể làm dấy lên lo ngại nghiêm trọng rằng đợt bùng phát COVID-19 là do rò rỉ từ Viện Vi rút học Vũ Hán.”
Trích dẫn cảnh báo từ các nhà ngoại giao Mỹ tại Trung Quốc vào đầu năm 2017, các dân biểu cho biết Trung Quốc có “một lịch sử dầy những vụ rò rỉ phòng thí nghiệm dẫn đến nhiễm trùng cho các nhà nghiên cứu”.
Báo cáo nói tiếp rằng phòng thí nghiệm ở Vũ Hán đã tiến hành “những nghiên cứu nguy hiểm” về coronavirus mà không tuân theo “các quy trình an toàn cần thiết”, tạo ra nguy cơ bùng phát ngẫu nhiên.
Các nhà lập pháp của Đảng Cộng Hòa đã lưu ý trong báo cáo rằng “một số nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Vũ Hán đã bị ốm với các triệu chứng giống COVID-19” vào mùa thu năm 2019.
“Ngược lại, có rất ít bằng chứng khách quan hỗ trợ cho tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trung Hoa rằng COVID-19 là một sự xuất hiện tự nhiên, chuyển từ một số loài khác sang con người”
Họ cho rằng các nhà chức trách Trung Quốc “đã loanh quanh, không xác định được loài ban đầu được cho là đã lây lan vi-rút sang người, điều này rất quan trọng đối với lý thuyết truyền bệnh từ động vật sang người”.
Thậm chí nghiêm trọng hơn nữa, báo cáo còn khẳng định “những dấu hiệu rõ ràng” cho thấy các cơ quan chính phủ và tổ chức học thuật Hoa Kỳ “có thể đã tài trợ hoặc hợp tác trong nghiên cứu” tại phòng thí nghiệm Vũ Hán.
Họ cũng cho biết quân đội của Trung Quốc đã “tham gia” vào phòng thí nghiệm.
“Để bảo vệ công dân Mỹ khỏi các đại dịch trong tương lai, Chính phủ Mỹ phải gây áp lực nhiều hơn với Trung Quốc để cho phép các cuộc điều tra đầy đủ, đáng tin cậy về nguồn gốc của đại dịch COVID-19 và cho phép các cuộc thăm dò khả năng đại dịch coronavirus hiện nay là do rò rỉ từ phòng thí nghiệm”.
“Chính phủ Hoa Kỳ cũng phải minh bạch hóa đầy đủ bất kỳ sự hợp tác nào của Hoa Kỳ với các nghiên cứu coronavirus của phòng thí nghiệm Vũ Hán, bao gồm cả việc hỗ trợ các dự án này thông qua quỹ của Chính phủ Hoa Kỳ.”
Nunes và các thành viên Đảng Cộng hòa khác trong ban hội thẩm đã công bố báo cáo và một lá thư cho Tổng thống Biden và Giám đốc Tình báo Quốc gia Avril Haines, đổ lỗi cho họ vì đã không “thẳng thắn” đối với “tiến trình đưa ra những tuyên bố có thẩm quyền sớm về nguồn gốc của virus” trong khi tình trạng đại dịch vẫn đang hoàng hành kinh hoàng trên thế giới.
Đảng Cộng hòa muốn cộng đồng tình báo phải tiết lộ tất cả dữ liệu mà họ có về nguồn gốc của coronavirus, bao gồm bất kỳ báo cáo nào về khả năng “hợp tác” giữa phòng thí nghiệm Vũ Hán và quân đội Trung Quốc.
Họ ấn định thời hạn trả lời là ngày 31 tháng 5.
Dân biểu Jim Jordan của Đảng Cộng Hòa đơn vị Ohio đã yêu cầu điều tra Tiến sĩ Anthony Fauci với cáo buộc ông này đã trao cho phòng thí nghiệm Vũ Hán 700,000 Mỹ Kim.
“Hãy nhớ rằng, Tiến sĩ Anthony Fauci và tổ chức của ông đã phê duyệt 3 triệu đô la cho EcoHealth; và Ecohealth đã trao 700,000 đô la cho phòng thí nghiệm này”.
Dân biểu Jim Jordan đã nói trước Ủy ban và lập lại cáo buộc này với Maria Bartiromo của Fox Business trên “Mornings With Maria”.
Source:New York Post
Tổng giáo phận San Antonio, Texas lên tiếng kêu gọi cầu nguyện cho một phụ nữ bị tình nhân bắn nhiều phát súng sau khi từ chối phá thai. Người phụ nữ này đã may mắn được một tình nguyện viên phò sinh cứu mạng bên ngoài một phòng khám phá thai.
Cảnh sát San Antonio cho biết: Hôm thứ Bẩy 15 tháng 5, một phụ nữ bước vào phòng khám phá thai ở San Antonio. Chị ta đã dừng lại nói chuyện với một người biểu tình phò sinh, tỏ ý cần được giúp đỡ. Bất ngờ, một người đàn ông, là chồng hay tình nhân của chị ta, nhảy ra khỏi xe của cô và bắn nhiều loạt đạn vào cô.
Cathy Nix, giám đốc điều hành của Liên minh Phò sinh San Antonio, nói với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, rằng:
“Một nhân viên an ninh trong đoàn biểu tình phò sinh đã nổ súng cứu nguy cho người phụ nữ, nhờ đó cứu được mạng sống của cả mẹ lẫn con”.
Cảnh sát cho biết, nhân viên an ninh trong đoàn biểu tình có giấy phép mang súng lục, và không có ai bị thương trong vụ nổ súng.
Phát ngôn viên của Sở cảnh sát San Antonio, Chris Ramos cho biết hành động của nhân viên an ninh phò sinh này là “hợp lý”.
“Anh ấy nhìn thấy ai đó nổ súng. Vì thế, anh ấy đã can thiệp và nhờ đó đã ngăn chặn được thương vong trong vụ nổ súng,” Ramos nói.
Người phụ nữ đã được chở về trụ sở cảnh sát. Các nhà chức trách cho biết họ tin rằng vụ nổ súng có thể là một vụ bạo lực gia đình.
Đài truyền hình KSAT 12 cho biết thêm các nhà điều tra đã thu hồi một khẩu súng của thủ phạm khi chạy trốn khỏi hiện trường.
Kimberlyn Schwartz, giám đốc truyền thông của tổ chức Right to Life ở Texas, nói với CNA:
“Tôi nghĩ cốt lõi của câu chuyện này cho thấy mong muốn bảo vệ mạng sống của những người Phò Sinh. Mong muốn bảo vệ đó thể hiện hàng ngày trên vỉa hè khi chúng tôi tiếp cận với những người phụ nữ để bảo vệ họ khỏi nỗi đau phá thai và bảo vệ các thai nhi khỏi những cái chết kinh hoàng.”
“Chúng tôi cầu nguyện cho người phụ nữ này được an toàn và đứa con sơ sinh của cô ấy được chào đời. Chúng tôi cảm tạ Chúa vì đã bảo vệ cô ấy trong tình huống khủng khiếp này” Schwartz nói với CNA.
Jordan McMorrough, giám đốc truyền thông của Tổng giáo phận San Antonio, nói với CNA rằng “những lời cầu nguyện của chúng tôi dành cho người phụ nữ liên quan, vì các tường thuật trên các phương tiện truyền thông vào thời điểm này cho thấy vụ này đang được điều tra như một vụ bạo lực gia đình”.
Source:Catholic News Agency
Đã gần một tháng nay khi đợt dịch thứ tư bắt đầu thâm nhập Việt Nam, nó đã làm thay đổi nhip điệu cuộc sống của đa số người Việt trên dải đất hình chữ S, được dự đoán là đợt bùng phát dịch nguy hiểm và phức tạp, với nhiều chủng SARS-nCoV-2 mới lây lan nhanh, mạnh hơn ba đợt dịch trước và biến đổi rất khó lường. Thật đúng vậy, trong vòng 25 ngày kể từ 27/4 - 23/5 biểu đồ đường đi của đợt dịch này đã tăng cao và đều, vọt lên đến 2165 ca nhiễm để nâng tổng số 3658 ca tại Việt Nam. Được xem là nước rất thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh nhờ vào ý thức phòng dịch của người dân và các biện pháp rất mạnh của chính phủ Trung Ương và các chính quyền địa phương, nhưng đợt dịch này cũng làm cho toàn xã hội lo lắng. Hầu hết các tỉnh thành đều nâng cao các biện pháp phòng ngừa với khẩu hiệu 5K (Khẩu Trang - Khử Khuẩn - Khai Báo Y Tế - Không Tụ Tập), riêng đối với những vùng dịch thì có những biện pháp mạnh hơn như tạm dừng các tụ điểm ăn uống vui chơi, cho học sinh nghỉ học, chỉ được phép bán đồ ăn uống mang đi, và dừng các sinh hoạt tôn giáo tập trung đông người... Đường xá vắng vẻ hơn, nỗi buồn và sự lo lắng bao trùm khắp nơi, nhiều người mất việc, mất cả tinh thần và định hướng khi con virus hiểm ác này đang đến rất gần, nhất là những gia đình có người thân nhiễm bệnh và những hộ trong khu vực cách ly. Trong bối cảnh đau buồn ấy, các giáo phận nằm trong vùng dịch cũng đã thông báo cho các nhà thờ tạm ngưng các thánh lễ tập trung đông người và theo sát sự chỉ đạo phòng chống dịch bệnh một cách cụ thể của từng địa phương. Kể từ đó cánh cửa nhà thờ tạm khép lại, con cái Chúa khắp nơi không được tập trung để đồng thanh hân hoan ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa qua các giờ lễ và các nghi thức phụng vụ khác, tất cả đều khép mình lại, hạn chế ra đường và chỉ tham dự các thánh lễ trực tuyến.
Được biết, Dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất trước đây là Tu hội Hiệp Nhất do Đức cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng thành lập sau năm 1954, và đức cố Giám mục Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến xin Tòa Thánh chuẩn nhận Tu Hội. Đến năm 2017, Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Đấng Bản Quyền giáo phận Bắc Ninh đã ký sắc lệnh "Phê Chuẩn Hiến Chương và Thiết lập Hiệp Hội Đức Mẹ Hiệp Nhất để hướng tới việc thiết lập Hội Dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất sau này thuộc quyền Giáo Phận Bắc Ninh. Hiện Hội Dòng có khoảng 200 nữ tu, tham gia mục vụ giáo xứ trong nhiều lĩnh vực và hoạt động khác nhau, y tế, giáo dục, khuyết tật và phục vụ trại phong.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần ban nguồn phúc ân dồi dào để các sơn luôn được bình an và tiếp tục dấn thân vào việc làm đầy ý nghĩa này
Andre Phong
Hồ chí Minh
Hồ chí minh quê vùng Hà tĩnh,
Huyện Nam đàn thuộc tỉnh Nghệ an,
Đôi lòng nặng gánh giang san,
Căm hờn dưới ác lầm than cực hình.
Thuở niên thiếu học sinh trường Huế,
Xem diệt vọng như thể vết thương.
Chí trai hồ thỉ bốn phương,
Năm mười bảy tuổi xuất dương tung hoành,
Qua Tàu, Nhật, Xiêm, Anh, Mỹ, Pháp,
Trở về Nga khảo sát tình hình,
Kết giao những bậc văn thân,
Tìm tòi nghiên cứu phương châm hợp thời.
Người đã biết trên mười ngoại ngữ,
Cùng thông qua lịch sử năm châu,
Thấm nhuần tinh túy cao sâu,
Tài cao trí tuệ nhiệm mầu ai đường,
Một nhân vật trên trường quốc tế,
Hận phe giàu áp chế nước nghèo,
Ruổi rong u Á tuyên truyền,
Gieo mầm các mạng đòi quyền tự do.
Vô danh
*Khi còn đang theo học lớp ba trường huyện nhỏ, mỗi tuần vẫn phải học 1 giờ chữ Hán do thày Dương phụ trách. Thày rất đạo mạo, khăn đống áo dài thâm, cầm chiếc thước dài gõ vào bảng những chữ Hán, có ghi tiếng Việt dưới. Bọn chúng tôi mỗi lần ê a theo nhịp gõ thước của thày chỉ từng chữ đọc to : ‘Thiên là trời, địa đất, ngưu trâu, mã ngựa, khuyển chó, dương dê, ngư cá, điểu chim, khứ đi, hồi về…’ Cứ mỗi lần đọc đến chữ ‘dương là dê’ cả bọn lại cười ầm vì trùng tên thày.
Buổi tối về nhà đám thiếu nhi còn tụ tập sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của anh thanh niên đội võ trang tuyên truyền học tập tiểu sử bác Hồ cùng 5 điều bác dạy thiếu nhi ‘Yêu tổ quốc, yêu đồng bào- Học tập tốt, lao động tốt-Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt- Giữ gìn vệ sinh thật tốt- Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm’ và tập hát những bài như ‘Bác chúng em đã về, bác chúng em đã đến, vui vui thích thay bác em đã về. Là vì đàn cháu bác em ra đi, bác đi xa rồi lòng em mong nhớ, hôm nay bác về chúng em rất mừng’ (bác đi đâu, lúc nào, ai mà biết, dù giả dối cứ hát cổ võ cho vui). Rồi nghe đọc thơ…và bài thơ trên đã xuất phát từ những buổi sinh hoạt này. Sở dĩ tôi còn nhớ vì ai học thuộc sẽ được anh hướng dẫn thưởng cho mấy viên kẹo bi. Nên bọn nhi đồng chúng tôi cứ nhai đi nhai lại những bài hát và thơ ca tụng ‘bác Hồ kính yêu’ mà chúng tôi tin là thật.
Sau này di cư vào Miền Nam, trưởng thành dưới chính thể VNCH chúng tôi mới hiểu rõ bộ mặt giả dối lừa bịp của chế độ Cộng sản Bắc Việt.
Không biết bọn Việt Minh (tiền thân Việt Cộng) có đọc Cổ học tinh hoa Trung quốc không mà đem áp dụng thật giống như trong Cổ học - Truyện kể thời Xuân Thu mẹ của Tăng Sâm 2 lần được người ta báo Tăng Sâm giết người, bà vẫn bình thản ngồi dệt cửi vì tin vào sự hiền lành độ lượng của con mình. Nhưng đến lần thứ 3 người ta lại báo : ‘Tăng Sâm giết người’, bây giờ bà mới tin là thật, bỏ dệt mà chạy trốn. ( Cũng như thế, nếu ta cứ nghe theo lời tuyên truyền bịp bợm nhai đi nhai lại của việt cộng sẽ có ngày phải ‘bỏ của chạy lấy người’ )
Đó là lối tuyên truyền dối trá lừa bịp của bọn Việt cộng là cứ nói đi nói lại rồi cũng cón người tin.
Thời gian Việt Minh mới xuất hiện dưới chiêu bài chống thực dân Pháp nên nhiều người tham gia ủng hộ vì tinh thần yêu nước. Chúng tuyên truyền kêu gọi các đảng phái chính trị thành lập chính phủ liên hiệp chống thực dân Pháp. Nhưng dần dần các nhân vật thuộc đảng phái khác bị loại trừ và tiêu diệt. Trong các tôn giáo chúng biết Công Giáo là đối thủ mạnh nhất vì tổ chức thống nhất và đoàn kết, nên mời Giám Mục Lê Hữu Từ làm Cố vấn chính phủ, nhưng sau Ngài hiểu rõ bộ mặt thực của chúng đã từ chức và Phát Diệm trở thành yếu khu chống cộng mạnh nhất.
Qua bài thơ vô danh trên của một tên bồi bút ca tụng một tên giả dối với trăm tên nghìn mặt, chúng ta đi vào nội dung từng dòng thơ sẽ thấy đây là một bài thơ hoàn toàn lừa bịp.
-Hồ chí minh quê vùng Hà Tĩnh, Huyện Nam Đàn thuộc tỉnh Nghệ An, Đôi lòng nặng gánh giang san, Căm hờn dưới ách lầm than cực hình,
Không biết họ Hồ có sinh trưởng tại Nghệ An hay không, nhưng khi về thăm quê hắn không ghé tôn kính ngôi tổ đường và lúc bà chị ruột Nguyễn thị Thanh ra thủ đô Hà Nội ghé thăm hắn không tiếp đón. Điều này chẳng lạ gì vì hắn đã chối bỏ họ Hồ của ông nội là Hồ Sĩ Tạo mà đổi sang họ Nguyễn (Ái Quốc), rồi sau lại trở về gốc tổ là Hồ chí Minh. Lý lịch như vậy thật đáng nghi ngờ là dối trá !
Còn đôi lòng là gì? Phải chăng coi tình yêu tổ quốc nhẹ hơn tham vọng chính trị và dục vọng cá nhân? Vì thế đi đến đâu hắn cũng có người tình hay cưới vợ. Ở Pháp hắn tán tỉnh cô Bourdon, sang Tàu lấy Tăng Tuyết Minh, rồi để tránh trở ngại đổi tên là Lý Thụy cưới Li Sam. Cướp cả vợ của đồng chí, lấy Nguyễn thị Minh Khai. Khi về nước ở hang Pắc-Bó sống với Đỗ thị Lạc, về Hà Nội lấy Nông thị Xuân, đẻ ra tên Nông Đức Mạnh sau leo lên tới Tổng bí thư đảng. Và ngay cả những thiếu nữ từ Miền Nam ra thăm bác cũng không tha. Điển hình là Huỳnh thị Thanh Xuân, năm 1964 khi mới 15 tuổi từ Miền Nam ra thăm bác, đã bị hồ dâm tặc hãm hiếp mất cả tuổi thanh xuân…Thế mà ngày nay bọn cán ngố lưu manh lại phong thánh cho hắn, đem vào chùa ngồi ngang với Đức Phật. Quỉ vương dưới địa ngục cũng phải bật cười vi quỉ đỏ đàn em được tuyên dương tội trạng !
Vậy thử hỏi hắn căm hờn thực dân Pháp hay lợi dụng thời cơ thỏa mãn dục vọng cá nhân?
Thuở niên thiếu học sinh trường Huế, Xem diệt vong như thể vết thương, Chí trai hồ thỉ bốn phương, Năm mười bảy tuổi xuất dương tung hoành,
Lúc Hồ chí Minh đang theo học ở Huế có tham gia phong trào Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục không kết quả, nên hắn hướng vọng về Tây u và đổi tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Treville để có phương tiện chuồn ra nước ngoài. Hắn đã viết đơn cho Tổng Thống Pháp và Bộ trưởng thuộc địa kể lể sự nghèo khổ và hoàn cảnh khó khăn gia đình, xin được đặc cách theo học trường thuộc địa Paris, nơi đào tạo quan chức cho chính phủ thuộc địa, mong cuộc sống sau này khá hơn. Đơn bị từ chối không biết có phải vì vết nhơ của người cha là Nguyễn Sinh Sắc khi làm quan đã đánh tù cho đến chết, nên hắn sinh bất mãn xuống làm bồi tàu là lối thoát cuối cùng khỏi cảnh lang thang vất vưởng.
Tung hoành bốn phương đã làm được gì cho đất nước, ngoài việc làm đầy tớ tay sai và học được những lý thuyết vô nhân đạo đem về đàn áp đồng bào chính trên quê hương mình. Dùng những thuyết’Tam vô nhị các’ ( vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc và làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu ) chỉ là cái bánh vẽ giả dối, nhưng chúng lại không áp dụng cho mình. Vô gia đình nhưng nhiều người tình, vô tổ quốc chủ trương thế giới đại đồng, còn làm như trâu vẫn không đủ ăn vì nhà nước thu lại phân phát theo ý chúng.
Chỉ nói riêng về tôn giáo không tin tưởng, coi đạo như thuốc phiện làm mê say con người, nhưng HCM trước khi chết lại báo sẽ đi gặp Mác- Lê và đàn em tôn thờ hắn như vị thánh đem vào chùa ngồi ngang với đức Phật (tin tôn giáo rồi) - Mới đây người ta còn phát hiện ngôi mộ của tổng bí thư đảng CSVN với tên Thánh Phê-rô Trần Phú trở lại đạo Công Giáo và được an táng tại họ đạo Chợ Quán.
Qua Tàu, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp, Trở về Nga khảo sát tình hình, Kết giao những bậc văn thân, Tìm tòi nghiên cứu phương châm hợp thời,
Sau khi xin làm bồi tàu, hắn lang thang làm một cuộc viễn du hy vọng sẽ tìm được việc làm khả quan hơn. Còn việc kết giao với những người tai to mặt lớn cũng chẳng ai biết, chỉ thấy hắn khoe khoang khoác lác trong cuốn ‘Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch’ dưới bút hiệu giả danh Trần dân Tiên. Kết giao với những nhân vật nước ngoài thì không thấy rõ tên’ tuổi, chỉ nói đến những người tình tạm bợ.
Còn ở trong nước ‘kết giao’ có nghĩa là hòa hợp rồi ‘thủ tiêu’ và những người không đi theo đúng đường lối cộng sản bị diệt trừ như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Trương Tử Anh, Đức Thày đạo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, nhà văn Khái Hưng…
Tập đoàn CSVN chúng đâu cần ‘kết giao’ mà chỉ cần ‘kết hợp’ với nhau như một chiếc bè ràng buộc vào nhau khỏi tan rã để tha hồ vơ vét bóc lột dân chúng. Chính tên Tổng bí thư Nguyễn văn Linh đã nói một câu thật bỉ ối ”Tôi cũng biết rằng dựa vào Trung quốc sẽ mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mẩt đảng.”
-Người đã biết trên mười ngoại ngữ, Cùng thông qua lịch sử năm châu, Thấm nhuần tinh túy cao sâu, Tài cao trí tuệ nhiệm mầu ai đương,
Nếu hắn biết trên 10 thứ tiếng thì tại sao khi sống ở Pháp với vốn tiếng Tây giả cày đã phải ăn cắp nội dung cuốn ‘Đông dương chính trị luận’ của Phan Châu Trinh để viết sách. Nếu giỏi Hán tự đâu cần nhận vơ thi tập ‘Ngục trung thư’ là của mình. Khi sống tại Pháp, khả năng Pháp ngữ HCM còn kém được nhóm bạn người Việt nâng đỡ. Theo học giả Hồ Hữu Tường viết trong ‘ 41 năm làm báo ‘, ở Pháp lúc đó có nhóm ngũ long là cụ Phan Châu Trinh đứng đầu, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (HCM), cùng ký chung bút hiệu Nguyễn Ố Pháp, sau nhiều ý kiến đề nghị đổi là Nguyên Ái Quốc. Bài viết xong giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến tòa soạn. Về sau 4 người tách khỏi nhóm, chỉ còn lại mình Nguyễn Tất Thành và từ ngày đó hắn mạo danh là Nguyễn Ái Quốc.
Còn về lý thuyết thì chính Hồ chí Minh đã công nhận hắn chẳng có học thuyết gì cả, đó là lý thuyết Mác-Lê, sách lược Maoist, không có tư tưởng HCM. Hắn chỉ làm đầy tớ cho các nước đàn anh khối cộng sản, vì chính Lê Duẫn đàn em đã từng xác nhận ‘Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc’. Khi chính phủ Pháp khuyên HCM nên rời bỏ Quốc tế Cộng sản, nhưng Hồ đã từ chối và cả Võ nguyên Giáp cũng thẳng thừng tuyên bố dù cuộc chiến có giết cả triệu người Việt vẫn phải đạt được mục tiêu chính trị của tập đoàn vô luân Việt cộng.
Tài cao trí tuệ đã biến thái thành ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’, học mót các nước anh em cộng sản đem về áp dụng tại VN với những phong trào Cải Cách Ruộng Đất- Trăm Hoa Đua Nở- Nhân Văn Giai Phẩm… Ngay cả lá cờ màu đỏ sao vàng, chính Võ nguyên Giáp đã xác nhận là cờ Vạn lý trường chinh của Hồng quân Trung cộng mà HCM/Hồ Quang đem về làm đảng kỳ cho mặt trận Việt minh và sau thành quốc kỳ của CSVN như ngày nay… Học được những tà thuyết quái gở, dựng những màn đấu tố vô nhân đạo, đem cả cha mẹ ra xử tội như tên Trường Chinh hay quên ơn bạc nghĩa với người đã nuôi nấng giúp đỡ tiền vàng như bà Nguyễn thị Năm tên hiệu Cát Hanh Long, bị ghép tôi địa chủ gian ác đem ra xử bắn và tên hồ tặc lại giả vờ nhỏ nươc mẳt cá sấu khóc bà.
Bọn giặc hồ đã dùng mọi thủ đoạn lừa bịp gian ác vì chủ chương trước sau như một ‘cứu cánh biện minh phương tiện’.
-Một nhân vật trên trường quốc tế, Hận phe giàu áp chế nước nghèo, Ruổi Ruổi rong u Á tuyên truyền,
Gieo mầm cách mạng đòi quyền tự do.
Thực chất hắn có vĩ đại như lời tự phong mình và sự tuyên truyền dối trá bịp bợm của bọn đàn em dưới quyền hay hắn lại bị nhân loại phỉ nhổ kết tội như Hitler, Stalin, Ceaucescu, Pol Pot, Mao trạch Đông, Kim chính Nhật…Và mầm cách mạng hắn để lại cho dân Việt là sự nghèo khổ thù hận ngàn đời không thể nào quên.
Độc lập tự do ở đâu khi người dân sống trong chế độ kìm kẹp, tin tức bưng bít, kiểm soát hộ khẩu, bắt người bất đồng chính kiến xử theo luật rừng, người Việt đi ra nước ngoài thủ tục rắc rối, còn lũ Tàu dơ bẩn tràn ngập qua đường biên giới vào VN không cần giấy phép. Than ôi ! Rồi một ngày gần đây câu ‘Không có gì quí hơn độc lập tự do’ trở thành bỉ ổi trơ trẽn.
Bài thơ trên chỉ là tiêu biểu trong nhiều bài của những tên bồi bút ca tụng tên tội đồ dân tộc Hồ chí Minh. Sau khi khai thác nội dung bài thơ, ta có thể rút ra những nhận xét như sau :
-HCM là một tên kiêu ngạo, khoe khoang, tài đóng kịch. Kiêu ngạo khi hắn đứng trước đền thờ Đức Trần Hưng Đạo, so sánh mình còn hơn vị anh hùng vang danh thế giới, hắn thốt ra lời thơ ngạo mạn ‘Ngẫu hứng’ :
-Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi bác cùng chung nghiệp kiếm cung,
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng,
Bác đưa một nước qua nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng, Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Rằng tôi cách mạng đã thành công.
Đọc thấy khẩu khí giống bài thơ vô danh trên, nên rất có thể tên ẩn danh lại chính là HCM, vì đó là nghề của chàng mà ! Hồ nghi có thể biến thành sự thật đấy !
Với sự tuyên truyền bịp bợp, che giấu tội ác của HCM và bọn đàn em đã đánh lừa cả UNESCO, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ, tổ chức này đã vinh danh hắn là ‘Danh nhân văn hóa thế giới’, nhưng bị người Việt khắp nơi phản đối phải hủy bỏ.
Theo phong tục ta thường dùng tiếng ‘bác’ để xưng hô với người cao tuổi đáng kính, nhưng tên Hồ tặc tự xưng mình là bác khi mới 55 tuổi cả với những người đáng tuổi cha anh mình.
-Người muốn đề cao mình khi viết sách làm thơ, can đảm dùng tên thực không cần che giấu, trái lại HCM giả bút danh Trần dân Tiên ca ngợi mình. Đây là một hiện tượng tuyên truyền quái lạ bỉ ôi chưa từng thấy !
Còn tài đóng kịch khỏi phải chê, nên ký giả Bernard Fall đã gởi lời khen ‘Hồ là kịch sĩ có biệt tài đánh lừa người đối thoại’. Có thể ông ký giả này đã chứng kiến những giọt nước mắt giả dối khi bà Cát Hanh Long bị xử chết.
-Hành vi che đậy dối trá của Hồ từng chi tiết qua cuộc sống nhà sàn có đủ tiện nghi, hút thuốc ngoại, quần áo đại cán Tàu, đi dép râu chính hiệu (Loại mà Phạm Tuân đã đi vào không gian)…làm người ta lầm tưởng lối sống giản dị trong sạch của hắn.
- Dùng người từng giai đoạn, rồi vắt chanh bỏ vỏ cả với thuộc cấp và người tình như Trần huy Liệu, Huỳnh thúc Kháng, Phan Anh, tướng Nguyễn Bình, Võ nguyên Giáp, Nguyễn hữu Thọ, Nguyễn thị Bình, Nông thị Xuân…
-Sự tuyên truyền dối trá lừa bịp che lấp tội ác của Hồ và bọn đàn em làm băng hoại nối tiếp nhiều thế hệ trẻ VN, mà HCM ăn cắp câu của Quản Trọng Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Trung Hoa, để xác nhận qua câu ‘Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người’. Nhưng hắn cố quên là ‘Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinh trái xấu’. Điển hình nhất là nền giáo dục đồi trụy xuống cấp hiện nay tại VN.
Viết đến đây chợt nhớ đến nhân vật có thực trong phim mô tả về thảm họa bi đát khi nhà máy hạt nhân Chermobyl của Liên Sô phát nổ đã để lại hậu quả môi sinh bi đát kéo dài hàng thế kỷ, mà nhà cầm quyền độc tài vẫn cố tình che dấu bằng những lời dối trá. Nhân vật trong phim phát biểu ý kiến của mình như sau : “ Mỗi lời dối trá chúng ta nói là một món nợ của sự thật và dù sớm hay muộn món nợ đó sẽ phải trả. “
Đó cũng là bài học cho con cháu hồ tạc- bọn tà quyền độc tài lừa bịp đang gieo rắc bao đau thương trên dân tộc hiện nay phải biết phản tỉnh nếu không sẽ gặp quả báo nhãn tiền.
Nhìn vào hành động gian ác dối trá của HCM cùng tập đoàn CSVN khẳng định rằng :
-Sống mà gian ác làm chi,
Đến khi nằm xuống còn gì nữa đâu?
Sống mà lừa bịp mưu cầu,
Bị đời nguyền rủa, bao lâu xóa nhòa?
Còn muôn vạn điều về Hồ chí Minh không thể kể hết với ít dòng qua nội dung ‘Một bài thơ lừa bịp’
Mong thông cảm những điều thiếu sót.
Đinh văn Tiến Hùng
Ngài thấy đó,
“Ngôi làng thế giới” chúng con,
Bên Trung Đông,
một dải Gaza hoang tàn đổ nát…!
Những giọt nước mắt đau thương,
khóc người thân mới mất,
Tương lai mịt mờ, sự nghiệp trắng tay… !
Bên kia Hi-mã-lạp-sơn,
Népal, Ấn Độ… xác chết phơi đầy.
Những con đường Á, u,
lặng ngắt, thẫn thờ bóng “hắc thần Covid” !...
Người ta gieo đố kỵ, hận thù…,
nên bây giờ phải gặt hoả tiển, đạn bom, chết chóc…
Người ta gieo ác tâm, kiêu ngạo,
nên bây giờ gặt hái dịch bệnh, thương đau.
Người ta gieo ích kỷ, rẽ chia,
Nên hôm nay phải gặt cách ly, cô độc, xa nhau…
Người ta gieo hưởng thụ, tham lam,
Nên bây giờ phải gặt đói khát, hoang mang và… thất vọng ! (1)
Ngài “Khách trọ hiền lương” ơi,
“Ngôi làng thế giới” vẫn bao năm miệt mài trông ngóng,
Dẫu không hẹn chờ,
nhưng xin Ngài hãy vội đến viếng thăm !
Xin Ngài hãy đến đi,
Nơi đây có người mẹ, người cha nghèo khổ âm thầm,
Bên kia cánh đồng
đôi bạn trẻ công nhân vừa đến nhà thờ làm phép cưới…
Đâu đó, khắp nơi,
trên muôn nẻo đường xuôi ngược thế giới,
vẫn còn rất nhiều,
những bàn tay gieo hạt mầm công chính, thiện lương…
Nhưng chỉ có Ngài,
cỏ mới đơm hoa và cây mới kết trái yêu thương,
Người với người mới từ đây nhìn về một hướng. (2)
Dẫu không hẹn, những khấn xin Ngài “lại xuống”,
Suối linh ân xin tuôn chảy dạt dào,
Lửa hồng thiêng làm ấm lại những lạnh lẽo xanh xao,
Và “Ngọn gió dịu êm”,
Hãy tràn về “trên những cánh đồng đầy xương khô hoang phế” ! (3)
Hỡi “Người Khách Trọ Hiền lương”
Đấng Ủi an, Đấng Bảo Trợ đầy quyền năng triệt để,
Từ trời cao xin mau đến, xin hãy kíp quay về.
Để muôn dân quy tụ hợp đoàn,
Để đàn chiên lạc mau rời khỏi bến mê,
Để tất cả chúng con,
hoan hỉ reo mừng khúc “Trường ca Cứu Độ”.
Sơn Ca Linh (Hiện Xuống 2021)
GHI CHÚ:
(1) Gl 6,8; 5,19-21
(2) Gl 5,22-23
(3) Ed 37,1-10
Như trên đã nói, phần lớn các bản dịch sang tiếng Anh hiện nay dựa vào hình thức y như Pascal để lại, nghĩa là từng mảnh một, tuy phần đầu, có được ông sắp xếp thành một số đề mục. Hình thức này dĩ nhiên là để tôn trọng công trình của Pascal trong nguyên bản của nó, nhưng nó không cho biết đại cương ý hướng của tác giả tức việc hộ giáo. Bởi thế, trong chiều hướng trình bầy nền hộ giáo đặc biệt của Pascal, chúng tôi dựa vào bản tiếng Pháp xuất bản năm 1858 của Librairie De Firmin Didot Frères, Fils Et Cie, Imprimeurs De L'institut De France, để chuyển ngữ phần thứ hai của tác phẩm tức phần trực tiếp nói đến tôn giáo theo sắp xếp của Nhà Xuất Bản này. Cách sắp xếp theo ý hướng hộ giáo nói chung này chắc chắn phát xuất từ Tu Viện Port Royal, vì ngoài phần tiểu sử của Pascal do người chị ruột, Bà Périer, nhũ danh Gilberte Pascal, còn có một tuyển lựa một số bài viết của Pierre Nicole, một tu sĩ trụ cột của Tu Viện này, người mà Wikipedia cho rằng từng có công lớn trong việc thu thập các Lá Thư Gửi Người Ở Tỉnh của Pascal và dịch nó sang tiếng Latinh. Nicole cũng là người hơn bất cứ ai khác đã thành công trong việc trình bầy chủ trương của Tu viện Port Royal với thế giới. Chủ trương này là điều người ta vẫn gọi là phái Jansen (Jansénisme), một phái mà cả gia đình Pascal lui tới, sinh hoạt với, tham gia trực tiếp. Nếu có ai nắm bắt được tư duy hộ giáo của Pascal thì hẳn phải là những người lãnh đạo tu viện này.
Trong khi chuyển ngữ, chúng tôi có tham khảo bản dịch tiếng Anh năm 1958 của Nhà Xuất Bản E. P. Dutton & Co., Inc, New York với lời dẫn nhập của T.S. Eliot, bản dịch tiếng Anh của Tiến sĩ A.J.Krailsheimer do Penguin Books xuất bản năm 1966, và bản tiếng Anh của Isaac Taylor do William Collins, Glasgow, xuất bản năm 1838. Bản cuối cùng có cái lợi là theo thứ tự của bản tiếng Pháp chúng tôi dựa vào, nhưng xét về nội dung dịch, có phần lỏng lẻo hơn; vả lại, bản dịch được thực hiện phần nào do ảnh hưởng Thệ Phản vì dịch giả muốn Pascal là Thệ Phản hơn Công Giáo Rôma được dịch giả coi là “papism, romanism, popery...”, những hạn từ đôi chút hạ giá.
PHẦN THỨ HAI, CHỨA CÁC TƯ TƯỞNG TRỰC TIẾP LIÊN QUAN TỚI TÔN GIÁO.
MỤC THỨ NHẤT: Các mâu thuẫn gây ngạc nhiên tìm thấy trong bản tính con người đối với chân lý, hạnh phúc, và nhiều điều khác.
I. Không có gì kỳ lạ trong bản chất của con người hơn các mâu thuẫn người ta phát hiện ở đó liên quan tới mọi sự vật. Họ được tạo dựng để biết sự thật; họ khao khát nó một cách hăng say, họ tìm kiếm nó; tuy nhiên, khi cố gắng nắm bắt nó, họ bị choáng ngập và bối rối đến mức đặt thành chủ đề tranh cãi về việc nắm giữ nó. Đó là điều đã sinh ra hai phái là Pyrrhon và duy giáo điều, trong đó phái thì muốn cướp đi của con người mọi nhận thức về sự thật, nhóm lại cố gắng bảo đảm với họ về sự thật đó; nhưng mỗi nhóm có những lý do ít chân thực đến mức làm tăng thêm sự hàm hồ và bối rối của con người, khi không có ánh sáng nào khác ngoài ánh sáng họ tìm thấy trong bản chất con người.
Lý do chính của phái Pyrrhon là chúng ta không có gì chắc chắn về chân lý của các nguyên lý ngoài đức tin và mặc khải, nếu không là việc chúng ta cảm nhận chúng một cách tự nhiên bên trong chúng ta. Hay, họ nói, tình cảm tự nhiên này không phải là bằng chứng thuyết phục về sự thật của chúng, vì không có gì chắc chắn bên ngoài đức tin, liệu con người được tạo dựng bởi một vị thần tốt lành hay một con quỷ độc ác, liệu họ luôn luôn hiện hữu, hay chỉ được tạo ra cách tình cờ, họ nghi ngờ liệu những nguyên tắc được trao cho chúng ta này là đúng, hay sai, hay không chắc chắn, theo nguồn gốc của chúng ta. Hơn nữa, không ai có thể bảo đảm, ngoài đức tin, liệu mình đang thức hay đang ngủ, vì trong khi ngủ, người ta không ít tin một cách chắc chắn họ đang thức hơn là đang thức thực sự. Người ta tin mình thấy các không gian, các hình, các chuyển động; người ta cảm thấy thời gian trôi qua, người ta đo lường nó, và cuối cùng người ta hành động theo cách tương tự như lúc tỉnh táo. Đến nỗi, một nửa đời sống trôi qua trong giấc ngủ theo sự thừa nhận của chính chúng ta, trong đó, bất cứ điều gì xuất hiện với chúng ta, chúng ta đều không biết có thật hay không, mọi tâm tình của chúng ta lúc đó đều là ảo ảnh; ai biết được liệu nửa đời còn lại kia trong đó chúng ta nghĩ mình đang thức không phải là một giấc ngủ hơi khác giấc ngủ đầu, mà chúng ta thức khi nghĩ rằng mình ngủ, như người ta thường mơ thấy mình mơ, chồng chất hết giấc mơ lên giấc mơ nọ?
Tôi bỏ qua các phát biểu mà phái Pyrrhon đưa ra chống lại những ấn tượng về phong tục, giáo dục, cách cư xử, quốc gia và những điều tương tự khác, khiến hầu hết mọi người chỉ biết giáo điều hóa dựa trên những nền tảng viển vông này.
Điểm mạnh duy nhất của phái duy giáo điều là khi nói một cách ngay lành và chân thành, người ta không thể nghi ngờ các nguyên lý tự nhiên. Họ nói, chúng ta biết sự thật, không chỉ bằng lý luận, mà còn bằng tình cảm, và bằng trí hiểu sống động và sáng láng; và chính từ loại thứ hai này mà chúng ta biết những nguyên lý đầu hết. Thật vô dụng khi việc lý luận, vốn không dự phần vào đó, cố gắng chống trả chúng. Phái Pyrrhon, những người chỉ có điều này làm đối tượng, đã cố gắng ở điểm này một cách vô ích. Chúng ta biết rằng chúng ta không hề mơ, tuy nhiên chúng ta bất lực xiết bao trong việc chứng minh điều đó bằng lý trí. Sự bất lực này không kết luận điều gì khác ngoài sự yếu kém của lý trí chúng ta, nhưng không phải là sự không chắc chắn của mọi nhận thức của chúng ta, như họ tuyên bố: vì việc nhận thức các nguyên lý đầu hết, như có không gian, thời gian, chuyển động, số lượng, vật chất, chắc chắn như bất cứ nguyên lý nào lý luận đem đến cho chúng ta. Và chính trên các nhận thức của trí hiểu và tình cảm mà lý trí phải dựa vào, và nó đặt cơ sở cho mọi diễn ngôn của nó. Tôi cảm thấy có ba chiều trong không gian, và các con số là vô hạn; và sau đó, lý trí chứng minh rằng không hề có hai số bình phương mà số này lại gấp đôi số kia. Các nguyên lý tự cảm nhận, các định đề tự kết luận; tất cả đều chắc chắn, dù qua các con đường khác nhau. Và cũng thật nực cười khi lý trí đòi hỏi tình cảm và trí hiểu phải chứng minh những nguyên lý đầu hết này mới chịu chấp nhận chúng, thật nực cười khi trí hiểu yêu cầu lý trí một tình cảm về tất cả những mệnh đề mà nó chứng minh. Sự bất lực này do đó chỉ có thể làm lý trí phải khiêm nhường, một lý trí luôn muốn phán xét mọi sự; nhưng không phải để chống lại sự chắc chắn của chúng ta, như thể chỉ có lý trí mới có thể giáo huấn chúng ta. Trái lại, nhờ ơn Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ cần điều đó, và chúng ta biết mọi sự bằng bản năng và tình cảm! Nhưng bản nhiên đã bác bỏ chúng ta điều thiện hảo này, và nó cho chúng ta rất ít nhận thức thuộc loại này: tất cả những điều khác chỉ có thể đạt được bằng việc lý luận.
Đó là cuộc chiến tranh diễn ra giữa những con người. Mỗi người đều phải đứng về một phía, và nhất thiết phải đứng về phía duy giáo điều hay phía Pyrrhon; vì bất cứ ai nghĩ mình đứng trung lập sẽ là người thuộc phái Pyrrhon hạng nhất: tính trung lập này vốn là bản chất của phái Pyrrhon; ai không chống lại họ là ủng hộ họ cách tuyệt vời. Người ta sẽ làm gì trong trạng thái trên? Họ có nghi ngờ mọi sự không? Họ có nghi ngờ mình có đang thức hay không, có bị véo hay bị phỏng hay không? Có nghi ngờ là mình nghi ngờ hay không? Có nghi ngờ là mình hiện hữu hay không? Không ai tiến xa như thế; và tôi thực sự cho rằng chưa bao giờ có một người theo Pyrrhon hữu hiệu và hoàn toàn cả. Bản nhiên nâng đỡ lý trí bất lực, và ngăn nó không đi quá xa như thế. Ngược lại, người nào đó, nếu ít được thúc đẩy, có sẽ nói họ chắc chắn nắm được sự thật không khi không thể chứng minh được quả quyết của mình, và buộc phải buông tay?
Ai sẽ tháo gỡ sự rối bời này? Bản nhiên khiến phái Pyrrhon nhầm lẫn, và lý trí khiến phái duy giáo điều bối rối. Vậy, hỡi con người, ngươi sẽ ra sao, kẻ tìm kiếm thân phận thực sự của mình bằng lý trí tự nhiên? Ngươi không thể tránh khỏi một trong các phái này, cũng như không thể tồn tại trong bất cứ phái nào. Đó là điều con người đối xử với con người liên quan tới sự thật.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét con người, liên quan tới hạnh phúc mà họ rất tha thiết tìm kiếm trong mọi hành động của họ; vì mọi người đều mong muốn được hạnh phúc: điều này không có ngoại lệ. Bất kể phương tiện khác nhau được họ sử dụng vào đó, tất cả đều hướng đến mục tiêu đó. Điều khiến một ai đó lên đường tham chiến và ai kia không lên đường chính là do cùng một mong muốn như nhau này ở cả hai, chỉ là do những nẻo đường khác nhau mà thôi. Ý chí không bao giờ thực hiện một bước nhỏ nhất nào ngoại trừ hướng về đối tượng này. Đó là động cơ cho mọi hành động của mọi con người, kể cả những kẻ tự tử và tự treo cổ. Tuy nhiên, trong suốt bao nhiêu năm qua, chưa bao giờ có ai, không nhờ đức tin, đã từng đạt đến đối tượng này, nơi mọi người đều không ngừng hướng tới. Tất cả đều phàn nàn, hoàng tử, thần dân; quý tộc, thường dân; người già, người trẻ; kẻ mạnh người yếu; thông thái ngu dốt; khỏe khoắn ốm đau; thuộc bất cứ quốc gia nào, thuộc bất cứ thời nào; ở mọi lứa tuổi và mọi thân phận.
Một bằng chứng quá lâu dài, quá liên tục và quá độc dạng như thế, hẳn sẽ thuyết phục chúng ta về sự bất lực chúng ta không thể đạt được hạnh phúc bằng nỗ lực của mình: nhưng điển hình này không dạy chúng ta điều gì cả. Nó không bao giờ giống y như nhau đến mức không có một sự khác biệt tinh tế nào; và chính từ đó chúng ta mới mong rằng, hy vọng của chúng ta sẽ không bị thất vọng vào dịp này cũng như vào dịp khác. Vì vậy, hiện tại không bao giờ thỏa mãn chúng ta, hy vọng lừa bịp chúng ta, và, từ bất hạnh này sang bất hạnh khác, dẫn chúng ta đến cái chết, đó là đỉnh cao vĩnh cửu của nó.
Điều kỳ lạ là không có gì trong thiên nhiên có khả năng thế chỗ cho cùng đích và hạnh phúc của con người, các vì sao, các nguyên tố, thực vật, động vật, côn trùng, bệnh tật, chiến tranh, tệ nạn, tội ác, v.v. Vì con người đã rơi khỏi trạng thái tự nhiên của họ, nên không có gì không lừa bịp họ hướng tới. Vì họ đã đánh mất sự thiện đích thực, mọi sự đối với họ đều xem ra tốt lành, kể cả sự hủy diệt của họ, hoàn toàn trái ngược với lý trí và tự nhiên. Người thì tìm kiếm hạnh phúc trong quyền hành, người thì tìm kiếm nó trong sự tò mò và trong khoa học, lại có những người tìm nó trong khoái lạc. Ba tư dục này đã tạo nên ba phái; và những người được gọi là triết gia thực sự không làm gì khác ngoài việc tuân theo một trong ba phái. Những người đã tiếp cận chúng hơn cả đều cho rằng điều cần thiết là sự thiện phổ quát, mà mọi người đều mong muốn, và trong đó, mọi người đều phải có phần, không nên nằm trong bất cứ sự vật đặc thù nào mà một mình họ không thể sở hữu, và, là những điều đặc thù khi bị chia sẻ, sẽ làm khổ người chiếm hữu chúng nhiều hơn vì việc thiếu thốn phần họ không có, hơn là chúng thỏa mãn họ bằng cách hưởng thụ phần thuộc về họ. Họ hiểu rằng sự thiện đích thực phải như thế nào để mọi người có thể sở hữu nó cùng một lúc mà không bị suy giảm và không có sự đố kỵ, và không ai có thể đánh mất nó trái với ý muốn của họ. Họ hiểu điều đó, nhưng họ không thể tìm thấy nó: và thay vì một điều thiện vững chắc và hữu hiệu, họ chỉ ôm lấy hình ảnh trống rỗng của một nhân đức tuyệt vời.
Bản năng của chúng ta khiến chúng ta cảm thấy phải tìm kiếm hạnh phúc trong chính mình. Các đam mê của chúng ta đẩy chúng ta ra bên ngoài, ngay cả khi không có các đối tượng để kích thích chúng. Các đối tượng từ bên ngoài cám dỗ chúng ta và mời gọi chúng ta, ngay cả khi chúng ta không nghĩ tới chúng. Vì vậy, các triết gia nói một cách vô vọng: Hãy vào trong chính mình bạn, bạn sẽ thấy điều tốt của mình ở đó; không ai tin họ: và những người tin họ đều là những kẻ trống rỗng nhất và ngu ngốc nhất. Vì còn có gì lố bịch và viển vông hơn những gì các nhà Khắc kỷ đề xuất, và sai lầm hơn tất cả những lý luận của họ? Họ kết luận rằng chúng ta luôn có thể làm những gì chúng ta thỉnh thoảng làm được; và vì ham muốn vinh quang khiến thực hiện được một vài điều cho những người sở hữu nó, những người khác cũng có thể làm như vậy. Đó là những xuẩn động mà người lành mạnh không nên bắt chước.
II. Cuộc chiến tranh nội bộ của lý trí chống lại các đam mê khiến những người muốn có hòa bình bị chia thành hai phái. Một phái muốn từ bỏ đam mê và trở thành thần thánh; phái kia muốn từ bỏ lý trí và trở nên dã thú. Nhưng họ không thể làm thế được, không phải phái này cũng không phải phái kia; và lý trí vẫn luôn còn đó, để buộc tội tính hèn hạ và bất công của các đam mê, và gây rối sự an nghỉ của những kẻ phó mình theo chúng; và các đam mê vẫn luôn sống động trong chính những người muốn từ bỏ chúng.
III. Đó là điều con người có thể tự mình làm được và bằng nỗ lực của chính mình đối với điều chân và điều thiện. Chúng ta không có khả năng để chứng minh, bách chiến bách thắng đối với mọi chủ nghĩa giáo điều: chúng ta có ý niệm về sự thật, bách chiến bách thắng đối với mọi thuyết Pyrrhon. Chúng ta mong muốn sự thật, và chỉ tìm thấy trong mình sự không chắc chắn. Chúng ta tìm kiếm hạnh phúc, và không tìm thấy gì ngoài đau khổ. Chúng ta không thể không mong muốn sự thật và hạnh phúc, và chúng ta không có khả năng và sự chắc chắn cũng như hạnh phúc. Lòng mong ước này còn lại trong chúng ta để trừng phạt chúng ta cũng như khiến chúng ta cảm thấy mình đã từ nơi đâu sa xuống.
IV. Nếu con người không được tạo dựng cho Thiên Chúa, tại sao họ chỉ hạnh phúc trong Thiên Chúa? Nếu con người được tạo dựng cho Thiên Chúa, tại sao họ lại trái ngược với Thiên Chúa?
V. Con người không biết phải đặt mình vào hàng ngũ nào. Họ rõ ràng bị lạc đường, và cảm thấy bên trong mình vết tích của một trạng thái hạnh phúc, mà họ đã sa khỏi, và không thể phục hồi. Họ lo lắng tìm kiếm nó khắp mọi nơi và không thành công trong bóng tối không thể chọc thủng.
Đó chính là nguồn gốc của những cuộc đấu tranh nơi các triết gia, một số nhận nhiệm vụ đề cao con người bằng cách khám phá ra các sự vĩ đại của họ, và số khác hạ thấp con người bằng cách trình bày các khốn cùng của họ. Điều kỳ lạ nhất là mỗi bên sử dụng các lý lẽ của bên kia để thiết lập ra ý kiến của mình; vì sự khốn cùng của con người kết cục bằng sự vĩ đại của họ, và sự vĩ đại của họ kết cục bằng sự khốn cùng của họ. Vì vậy, một số người đã kết luận sự khốn cùng một cách tốt hơn nhiều khi họ lấy sự vĩ đại làm bằng chứng; và những người khác kết luận sự vĩ đại với nhiều sức mạnh hơn nhiều, khi họ dựa vào chính sự khốn cùng này. Tất cả những điều mà nhóm này đã nói để chứng minh sự vĩ đại chỉ là sử dụng lối lý luận của những người khác để kết luận về sự khốn cùng, vì càng từ trên cao xuống rơi xuống thì càng khốn khổ hơn: còn những người khác thì ngược lại. Họ vượt lên nhau trong một vòng tròn bất tận: chắc chắn khi con người có nhiều ánh sáng hơn, họ ngày càng khám phá ra nhiều hơn sự khốn cùng và vĩ đại nơi con người. Tóm lại, con người biết mình khốn cùng. Nên, họ khốn cùng, vì họ biết điều ấy; nhưng họ rất vĩ đại, vì họ biết họ khốn cùng. Vậy thì con người phù phiếm xiết bao? Mới lạ, hỗn loạn, mâu thuẫn xiết bao! Phán xét vạn vật, sâu giòi đần độn của trái đất, lưu giữ chân lý, đầy rẫy bất định, vinh quang và chối bỏ của vũ trụ: nếu họ tự huênh hoang, tôi sẽ hạ họ xuống; nếu họ tự hạ thấp, tôi sẽ khen ngợi họ; và luôn nói ngược lại họ, cho đến khi họ hiểu ra rằng họ là một con quái vật không thể hiểu nổi.
Kỳ tới: Mục II: Cần nghiên cứu tôn giáo
Giáo Hội Mẹ tại Giêrusalem đã cử hành Canh thức Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống tại Nhà thờ Thánh Stêphanô. Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là buổi lễ này được cử hành vào chiều thứ Bẩy 22 tháng 5 tại Giêrusalem.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời kêu gọi người Công Giáo trên toàn thế giới cùng tham gia vào buổi cầu nguyện này, cầu xin hòa bình bén rễ trên những vùng đất nơi Chúa Giêsu sinh sống.
Đức Thánh Cha đã bày tỏ lời mời gọi này vào ngày 21 tháng 5, khi kết thúc bài phát biểu trước các Đại sứ không thường trú mới được công nhận tại Tòa thánh.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Suy nghĩ của tôi đang hướng đến các sự kiện đang diễn ra trong những ngày này ở Thánh Địa”.
“Tôi cảm ơn Chúa vì quyết định ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang và hành động bạo lực, đồng thời tôi cầu nguyện cho việc theo đuổi các con đường đối thoại và hòa bình”.
“Tối mai, các Đấng Bản Quyền Công Giáo của Thánh Địa, cùng với các tín hữu của họ, sẽ tụ họp để cử hành Lễ Canh thức Hiện xuống tại Nhà thờ Thánh Stêphanô ở Giêrusalem và cầu xin ân ban hòa bình”.
Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Nhân cơ hội này, tôi yêu cầu tất cả các mục tử và tín hữu của Giáo Hội Công Giáo hiệp nhất với nhau về mặt tinh thần cho lời cầu nguyện này”.
“Xin anh chị em cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để người Israel và người Palestine có thể tìm thấy con đường đối thoại và tha thứ, xin cho họ là những người kiên nhẫn xây dựng hòa bình và công lý, và từng bước cởi mở với hy vọng chung, để có thể cùng tồn tại như anh chị em với nhau.”
Mở bài giảng thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa, là Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ La Tinh, nói:
Một lần nữa, chúng ta cùng nhau tụ họp trong Canh thức Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống để cầu nguyện cho ơn Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội và trên Thánh Địa của chúng ta.
Và một lần nữa, giống như trong quá khứ, chúng ta cũng có mặt ở đây để cầu nguyện cho hòa bình, cho công lý và cho bạo lực sớm chấm dứt. Đây không phải là lần đầu tiên chính vào dịp Canh thức Lễ Hiện xuống này, chúng ta thấy mình đang cầu nguyện và khẩn nài cho sự kết thúc của cuộc chiến trên đất nước của chúng ta. Trên tất cả, chúng ta hiệp nhất trong lời cầu nguyện với gia đình của những người bị thiệt mạng trong những ngày qua, với những người mất nhà cửa, với những người bị bỏ lại một mình và không có hy vọng nào trong cuộc sống của họ. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đồng Kitô nhỏ bé của chúng ta ở Gaza, đang hoang mang trước làn sóng bạo lực thứ mười một này, nhưng cũng cho tất cả cư dân ở đó, những người đã nhiều năm bị sỉ nhục, bị tước đoạt tự do, nhân phẩm và các quyền cơ bản. Sự tạm ngưng các hành vi thù địch hiện tại có lẽ đã mang lại một chút bình tĩnh cho các gia đình chúng ta, nhưng nó vẫn chưa giải quyết được những vấn đề mà bạo lực bắt nguồn từ đó.
Theo lời mời của Đức Thánh Cha Phanxicô, toàn thể Giáo Hội Công Giáo hiệp nhất trong bản hợp xướng cầu nguyện này với chúng ta cùng với Giáo hội Mẹ Giêrusalem. Chúng ta cảm ơn Đức Thánh Cha về sự quan tâm liên tục này đối với Giáo hội của chúng ta, đối với vùng đất của chúng ta và những người sống trên mảnh đất này. Kể từ khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của ngài, Đức Giáo Hoàng đã không ngừng khao khát hòa bình ở Thánh Địa, qua những lời cầu nguyện, những sáng kiến và những lời nhắc nhở liên tục. Khát vọng hòa bình của ngài cũng là của chúng ta. Cùng với ngài và toàn thể Giáo hội hoàn vũ, hôm nay trên hết chúng ta cầu nguyện ở đây cho sự hoán cải của chúng ta để chúng ta có thể thực sự tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ mang lại hòa bình. Tôi biết rõ rằng, trong hoàn cảnh của chúng ta, điều này có thể khó khăn để thực sự tin vào điều đó. Chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta có thể cùng nhau trở thành những người kiến tạo hòa bình và công lý trong vùng đất của chúng ta. Những lời đầu tiên Chúa Giêsu thốt ra trong Phòng Tiệc Ly sau khi Người sống lại, là “ Bình an cho anh em” và rồi Người thở ra Chúa Thánh Thần (Ga 20:19). Vì vậy, chúng ta đang tụ họp tại đây, theo cách thức của một Phòng Tiệc Ly mới, để cầu xin Chúa Phục Sinh ban sự bình an, là hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần.
Trong phụng vụ ngày mai, chúng ta sẽ đọc đoạn văn nổi tiếng trong sách Tông đồ Công vụ, trong đó các cư dân “từ mọi quốc gia dưới bầu trời” (Công vụ 2: 5) cùng nhau tiếp nhận, mỗi người bằng các ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống riêng của mình, sự công bố về “những việc làm vĩ đại của Thiên Chúa” (Cv 2:11). Mặc dù đa dạng, họ đã hiệp nhất trong sự hiểu biết lẫn nhau, trở thành các bộ phận của một cơ thể. Đây là hình ảnh đầu tiên về Giáo Hội mà Thánh Kinh ban cho chúng ta, và từ đó chúng ta đã thấy bản chất của toàn thể Giáo Hội, trong mọi lúc và mọi nơi: đó là đa dạng về ngôn ngữ, truyền thống, văn hóa và ân sủng, nhưng được kết hợp bởi Thần Khí xung quanh Chúa Kitô Phục Sinh; để làm chứng cho hy vọng, thống nhất và hòa bình trên thế giới. Đoạn Kinh thánh đó nhắc đặc biệt với chúng ta, Giáo hội Giêrusalem - Giáo hội Mẹ, Giáo hội đầu tiên. Ngày nay, tại Giêrusalem, mỗi người trong chúng ta có thể có văn hóa, ngôn ngữ và ân sủng riêng, nhưng trước hết chúng ta được kết hợp với Thánh Linh của Chúa Phục Sinh để cùng nhau làm chứng về ân sủng hiệp nhất và bình an. Và điều này càng đặc biệt hơn nữa trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, bị chia cắt bởi những hận thù và chia rẽ chính trị và tôn giáo. Đây có lẽ là sứ mệnh đầu tiên và là ơn gọi thích hợp của Giáo hội Mẹ: đó là làm chứng cho sự hiệp nhất và hòa bình.
Nhưng đoạn Kinh Thánh đó cũng nói về căn tính của Thành Thánh Giêrusalem, nơi mà ngay từ đầu đã được gọi là “ngôi nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is. 56: 7). Giáo Hội Giêrusalem là trái tim của sự mặc khải thiêng liêng, là người trông coi cuộc gặp gỡ giữa Chúa và nhân loại. Cho đến hôm nay, Giêrusalem đã tập hợp lại trong mình các tôn giáo, các nền văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống đa dạng, tất cả đều hợp nhất trong việc tìm kiếm cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Mỗi tín hữu là một công dân thiêng liêng của Giêrusalem, vì ở đây họ tìm thấy trái tim của mình. Giêrusalem tập hợp trong mình tất cả linh hồn của thế giới, và vì điều này, Giêrusalem được mở ra cho toàn thế giới. Tiếng chuông nhà thờ, tiếng kêu gọi cầu nguyện của người Hồi Giáo, tiếng tù và của người Do Thái Giáo… đó là giọng nói của Giêrusalem. Những khoảnh khắc cầu nguyện của người Do Thái, Kitô và Hồi giáo đánh dấu các khoảng khắc cầu nguyện của Giêrusalem. Thánh địa Giêrusalem là kho báu được các tín đồ đa dạng của cô ấy tranh nhau bảo vệ. Và tất cả cư dân của Giêrusalem ấy là một phần của một bức tranh ghép đầy màu sắc và thống nhất của cuộc sống; nơi tất cả gặp gỡ và va chạm, nơi mỗi người - bất chấp xuất xứ - là một phần của một thiết kế vĩ đại hơn, một tấm vải do chính Chúa thêu. Nó là một loại vải mỏng manh và dễ vỡ nên cần được bảo quản cẩn thận và chú ý.
Vì vậy, các nhà chức trách tôn giáo và chính trị có trách nhiệm phải hết sức thận trọng bảo vệ di sản độc nhất vô nhị này. Bất kỳ sự chiếm đoạt nào, bất kỳ sự chia rẽ nào, bất kỳ cử chỉ loại trừ và từ chối người khác, bất kỳ hình thức bạo lực nào… đều là vết thương sâu trong cuộc sống của Thành phố và là nguyên nhân gây đau đớn cho tất cả mọi người, bởi vì tất cả đều là một phần của một cơ thể. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà làn sóng bạo lực gần đây trên toàn bộ Thánh Địa đã bắt nguồn ngay tại Giêrusalem, chỉ cách chúng ta vài mét.
Không có sự áp đặt nào có thể có hiệu quả ở Giêrusalem. Chúng ta đã thường xuyên nhắc lại điều này và chúng ta vẫn làm cho đến ngày nay. Sự cân bằng giữa hai bên của Thành phố đã nhiều lần bị phá vỡ, gây đau đớn và thất vọng. Đây không phải là con đường để đi nếu chúng ta thực sự muốn hòa bình. Giêrusalem dành cho tất cả mọi người: Kitô hữu, người Do Thái và người Hồi giáo, người Israel và người Palestine. Tất cả đều có quyền và nhân phẩm bình đẳng, mọi công dân đều bình đẳng. Bất kỳ sự loại trừ hoặc áp đặt nào, đều làm tổn hại đến bản sắc của Thành phố và điều này không thể giữ im lặng cũng như không bỏ qua.
Tiên tri Isaiah, trong đoạn văn vừa được công bố, trình bày cho chúng ta một hình ảnh tuyệt vời về hành động của Thánh Linh của Chúa đối với Ghétsê, được Thiên Chúa sai đến.
Với sự công bình, ông ấy sẽ xét xử công minh cho kẻ thiếu thốn, với sự công bình, ông ấy sẽ đưa ra quyết định cho người nghèo trên trái đất… Sự công bình sẽ là thắt lưng của ông ấy… Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau; Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì đất sẽ tràn đầy sự hiểu biết về Chúa như nước bao phủ biển cả. (Is. 11: 2-9)
Chúng ta không chắc chính xác Tiên tri Isaiah đang ám chỉ ai trong đoạn văn này, “gốc rễ Ghétsê” này là ai. Giáo hội đã hiểu nhân vật này là Đấng Mêsia, như thánh sử Luca đã gợi ý (Lc 4, 17ff). Nhưng đây cũng là lời kêu gọi dành cho tất cả những ai đã nhận được Thánh Linh của Chúa. Đó là sự mô tả sứ mệnh của mọi tín hữu và của toàn thể Giáo hội. Phân đoạn này tạo nên một yếu tố trong căn tính của người tin Chúa: đó là làm việc liên tục vì công lý, tôn trọng người nghèo và người yếu thế, thẳng thắn trong việc đưa ra quyết định, không sống theo vẻ bề ngoài nhưng phục vụ Chúa.
Trong những ngày qua, chúng ta đã chứng kiến những căng thẳng to lớn ngay cả trong các thành phố của chúng ta, nơi người Do Thái và người Palestine sống cùng nhau. Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại đi ngược lại lời tiên tri Isiah, và cho thấy một sự bất an sâu sắc mà mọi người phải hết sức lưu ý. Rõ ràng, vẫn còn một chặng đường dài để sói, cừu, sư tử và bê con có thể sống cùng nhau. Chúng ta cần Thánh Linh giáng xuống mọi người để mọi người nhận ra họ là một phần của một cơ thể, mọi hình thức phân biệt đối xử phải biến mất và “những quyết định công bằng được đưa ra cho người hiền lành trên trái đất”. Cầu xin Thánh Linh mở mắt để chúng ta có thể thực sự nhận ra trong luật pháp, trong thái độ và lựa chọn tập thể và cá nhân của chúng ta, thực tại đa tôn giáo, đa văn hóa và đa bản sắc của xã hội chúng ta. Chúng ta phải lên án bạo lực vốn quá thường thấy trong ngôn ngữ đã tồn tại từ lâu, và có lẽ đã quá thường xuyên bị bỏ qua. Ngôn ngữ gây hấn chắc chắn dẫn đến bạo lực thể xác. Chúng ta phải làm việc với những người thuộc mọi tín ngưỡng, những người vẫn cùng nhau tin tưởng vào một tương lai và cùng nhau phấn đấu cho nó. Thật là vui khi thấy trong những ngày qua, giữa những căng thẳng và bạo lực bè phái, những cuộc biểu tình của tình liên đới và tình anh em giữa những người Israel gốc Do Thái và Palestine. Chúng là một dấu hiệu an ủi về sự hiện diện của Thánh Linh của Chúa giữa chúng ta… bất chấp mọi thứ.
Sau đây, tôi xin nhắc lại những điều tôi đã nói trong nhiều dịp khác nhau: mặc dù ngày nay việc nói những điều này xem ra không được ưa chuộng, chúng ta không được tận dụng và cũng không được để nảy sinh tình cảm thù hận. Chúng ta không được khiến bất cứ ai, dù là người Do Thái hay người Palestine, cảm thấy bị từ chối. Chúng ta phải rõ ràng hơn trong việc tố cáo bất cứ điều gì gây chia rẽ. Chúng ta không thể cứ hài lòng với các cuộc họp liên tôn về hòa bình, và nghĩ rằng như thế là đủ để giải quyết các vấn đề của sự chung sống. Thay vào đó, chúng ta phải cam kết thực hiện nhiệm vụ này trong các trường học, trong các viện nghiên cứu của chúng ta, trong các phương tiện truyền thông của chúng ta, trong chính trị và tại nơi thờ phượng, tất cả phải làm vang danh Thiên Chúa, tình anh em và sự cộng tác.
“Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin điều gì, thì Thầy sẽ ban cho” (Ga 14:14), Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng Thánh Gioan, và thêm rằng “ … Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy” (Ga 14:30).
Chúng ta không đơn độc. Trong Thánh Linh, Chúa Phục Sinh ở giữa chúng ta, an ủi và nâng đỡ chúng ta. Sự chết, tội lỗi, sự chia rẽ của chúng ta… những điều này không đủ để ngăn cản Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta. “nó không làm gì được Thầy”. Cái ác không thể thắng, ngay cả khi nó có vẻ là như vậy khi nó phá hủy các mối quan hệ của chúng ta. Các môn đệ, được đầy dẫy Chúa Thánh Thần, được sai đi để tiếp tục những gì họ đã thấy Chúa Giêsu làm, đó là đem lại sự sống ở nơi có sự chết, sự tha thứ ở nơi có tội lỗi.
Ngày nay, chúng ta được mời gọi từ bỏ nỗi sợ hãi, những “nhà cửa đóng kín” giống như các môn đệ trong Tin Mừng, để chúng ta có thể loan báo và làm chứng cho sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta và trong mọi người, hòa bình và hiệp nhất của nhân loại trong Chúa.
Khi nhìn thấy những vết thương của Chúa Phục sinh, các môn đệ tràn đầy niềm vui (Ga 20:20). Xin Thánh Linh giúp chúng ta có thể đọc được trong ánh sáng của Ơn Cứu Chuộc, thực tại ngày nay của chúng ta, và làm cho vết thương của chúng ta, giống như vết thương của Chúa Kitô, không phải là nguồn gây thất vọng và chán nản, nhưng là chất xúc tác để vượt ra ngoài và tạo ra những dịp vui vẻ, gặp gỡ, và an ủi.
Cầu mong cho chúng ta không nản lòng. Chúng ta đừng làm buồn lòng Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng bảo vệ chúng ta. Xin cho mọi cay đắng, giận dữ, thù địch và mọi cảm giác tiêu cực khác biến mất (xem Ep 4: 30-31). Chỉ có tình yêu, đồng nghĩa với Thần khí, mới có thể thay đổi trái tim con người. Chúng ta hãy cầu xin điều này cho chính chúng ta, cho Giáo hội của chúng ta và cho Giáo hội trên thế giới; và chúng ta hãy cầu xin điều này cho Thánh Địa của chúng ta, cho các chính phủ của chúng ta, cho các mục tử của chúng ta, cho những người nắm giữ trách nhiệm đối với các dân tộc và thể chế, để họ có thể được dẫn dắt bởi tình yêu của Thiên Chúa hơn là sự tính toán của con người, là những thứ không thể tạo ra sự sống như chúng ta đã thấy trong những ngày gần đây. Ước gì ân sủng của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu và soi sáng các ơn gọi cá nhân và giáo hội của chúng ta trong bối cảnh xã hội vừa đau thương vừa mệt mỏi này của chúng ta. Cầu mong điều đó làm cho chúng ta có thể chấp nhận thực tại của mình mà không dối trá hoặc ảo tưởng, đặt những lời an ủi trên môi, cho chúng ta can đảm để bảo vệ công lý mà không ảnh hưởng đến sự thật. Mong điều đó cho phép chúng ta tha thứ cho nhau.
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta, và là mẹ của Giáo hội, đấng như mọi người mẹ, luôn ôm ấp và chào đón tất cả con cái của mình. Đức Mẹ Palestine, bổn mạng của giáo phận chúng ta, và là Nữ Vương Hòa Bình, đã cầu bầu cho chúng ta với Thiên Chúa Tối Cao để cộng đồng của chúng ta tiếp tục sở hữu vòng tay rộng mở và trái tim chào đón. “Cầu mong Mẹ gìn giữ quê hương trần thế của Mẹ, che chở mảnh đất này bằng sự bảo vệ đặc biệt và xua tan bóng tối của lỗi lầm, nơi Mặt trời Vĩnh cửu của Công lý đã từng chiếu sáng”.
+ Pierbattista
Source:Latin Patriarchate Of Jerusalem
1. Ủy ban Tình báo Hạ viện nói về các bằng chứng đại dịch có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm Vũ Hán
Tử vong toàn thế giới tính cho đến sáng thứ Sáu 21 tháng Năm, đã lên đến 3,444,656 người chết, trong số 165,842,599 trường hợp nhiễm coronavirus. Riêng tại Hoa Kỳ, tử vong đã lên đến 602,616 người chết, trong số 33,833,181 trường hợp nhiễm bệnh.
Tử vong tại Ấn Độ tính đến sáng ngày thứ Sáu 21 tháng 5 là 291,365 người chết trong số 26,030,674 người nhiễm bệnh. Trong vòng 24 giờ trước đó, con số tử vong và nhiễm bệnh vẫn đang ở mức kinh hoàng với 276,261 trường hợp nhiễm bệnh được chính thức ghi nhận, và 3,880 người chết. Con số thương vong thực sự cao hơn rất nhiều vì hệ thống y tế của Ấn Độ đã sụp đổ, hầu hết các bệnh viện không nhận thêm bệnh nhân, nên những người tự chống chọi với căn bệnh quái ác này không có trong các con số thống kê.
Trong bối cảnh kinh hoàng này, tờ New York Post số ra ngày 20 tháng Năm, cho biết các đảng viên Cộng hòa trong Ủy ban Tình báo Hạ viện nói rằng có “các bằng chứng hợp lý đáng kể” cho thấy coronavirus bắt nguồn từ các vụ rò rỉ tại Viện Vi rút học Vũ Hán của Trung Quốc và chính phủ Hoa Kỳ “có thể đã tài trợ hoặc hợp tác” trong việc nghiên cứu dẫn đến kết quả bi thảm ngày hôm nay.
Dân biểu Devin Nunes của Đảng Cộng Hòa đơn vị California, thành viên hàng đầu của Ủy ban và các thành viên Đảng Cộng hòa khác trong ủy ban đã công bố báo cáo do Fox News thu được, kết luận rằng các chuyên gia y tế và quan chức chính phủ cần phải hiểu cách thức hoạt động của loại virus chết người này, và nguồn gốc của nó để có thể ngăn chặn “hoặc nhanh chóng giảm thiểu nguy cơ của đại dịch trong tương lai”.
Báo cáo cho rằng “Các nỗ lực quốc tế nhằm tìm ra nguồn gốc thực sự của vi rút đã bị cản trở bởi sự thiếu hợp tác từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
“Tuy nhiên, có các bằng chứng hợp lý đáng kể làm dấy lên lo ngại nghiêm trọng rằng đợt bùng phát COVID-19 là do rò rỉ từ Viện Vi rút học Vũ Hán.”
Trích dẫn cảnh báo từ các nhà ngoại giao Mỹ tại Trung Quốc vào đầu năm 2017, các dân biểu cho biết Trung Quốc có “một lịch sử dầy những vụ rò rỉ phòng thí nghiệm dẫn đến nhiễm trùng cho các nhà nghiên cứu”.
Báo cáo nói tiếp rằng phòng thí nghiệm ở Vũ Hán đã tiến hành “những nghiên cứu nguy hiểm” về coronavirus mà không tuân theo “các quy trình an toàn cần thiết”, tạo ra nguy cơ bùng phát ngẫu nhiên.
Các nhà lập pháp của Đảng Cộng Hòa đã lưu ý trong báo cáo rằng “một số nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Vũ Hán đã bị ốm với các triệu chứng giống COVID-19” vào mùa thu năm 2019.
“Ngược lại, có rất ít bằng chứng khách quan hỗ trợ cho tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trung Hoa rằng COVID-19 là một sự xuất hiện tự nhiên, chuyển từ một số loài khác sang con người”
Họ cho rằng các nhà chức trách Trung Quốc “đã loanh quanh, không xác định được loài ban đầu được cho là đã lây lan vi-rút sang người, điều này rất quan trọng đối với lý thuyết truyền bệnh từ động vật sang người”.
Thậm chí nghiêm trọng hơn nữa, báo cáo còn khẳng định “những dấu hiệu rõ ràng” cho thấy các cơ quan chính phủ và tổ chức học thuật Hoa Kỳ “có thể đã tài trợ hoặc hợp tác trong nghiên cứu” tại phòng thí nghiệm Vũ Hán.
Họ cũng cho biết quân đội của Trung Quốc đã “tham gia” vào phòng thí nghiệm.
“Để bảo vệ công dân Mỹ khỏi các đại dịch trong tương lai, Chính phủ Mỹ phải gây áp lực nhiều hơn với Trung Quốc để cho phép các cuộc điều tra đầy đủ, đáng tin cậy về nguồn gốc của đại dịch COVID-19 và cho phép các cuộc thăm dò khả năng đại dịch coronavirus hiện nay là do rò rỉ từ phòng thí nghiệm”.
“Chính phủ Hoa Kỳ cũng phải minh bạch hóa đầy đủ bất kỳ sự hợp tác nào của Hoa Kỳ với các nghiên cứu coronavirus của phòng thí nghiệm Vũ Hán, bao gồm cả việc hỗ trợ các dự án này thông qua quỹ của Chính phủ Hoa Kỳ.”
Nunes và các thành viên Đảng Cộng hòa khác trong ban hội thẩm đã công bố báo cáo và một lá thư cho Tổng thống Biden và Giám đốc Tình báo Quốc gia Avril Haines, đổ lỗi cho họ vì đã không “thẳng thắn” đối với “tiến trình đưa ra những tuyên bố có thẩm quyền sớm về nguồn gốc của virus” trong khi tình trạng đại dịch vẫn đang hoàng hành kinh hoàng trên thế giới.
Đảng Cộng hòa muốn cộng đồng tình báo phải tiết lộ tất cả dữ liệu mà họ có về nguồn gốc của coronavirus, bao gồm bất kỳ báo cáo nào về khả năng “hợp tác” giữa phòng thí nghiệm Vũ Hán và quân đội Trung Quốc.
Họ ấn định thời hạn trả lời là ngày 31 tháng 5.
Dân biểu Jim Jordan của Đảng Cộng Hòa đơn vị Ohio đã yêu cầu điều tra Tiến sĩ Anthony Fauci với cáo buộc ông này đã trao cho phòng thí nghiệm Vũ Hán 700,000 Mỹ Kim.
“Hãy nhớ rằng, Tiến sĩ Anthony Fauci và tổ chức của ông đã phê duyệt 3 triệu đô la cho EcoHealth; và Ecohealth đã trao 700,000 đô la cho phòng thí nghiệm này”.
Dân biểu Jim Jordan đã nói trước Ủy ban và lập lại cáo buộc này với Maria Bartiromo của Fox Business trên “Mornings With Maria”.
Source:New York Post
2. Phụ nữ không muốn phá thai bị tình nhân nổ súng sát hại
Tổng giáo phận San Antonio, Texas lên tiếng kêu gọi cầu nguyện cho một phụ nữ bị tình nhân bắn nhiều phát súng sau khi từ chối phá thai. Người phụ nữ này đã may mắn được một tình nguyện viên phò sinh cứu mạng bên ngoài một phòng khám phá thai.
Cảnh sát San Antonio cho biết: Hôm thứ Bẩy 15 tháng 5, một phụ nữ bước vào phòng khám phá thai ở San Antonio. Chị ta đã dừng lại nói chuyện với một người biểu tình phò sinh, tỏ ý cần được giúp đỡ. Bất ngờ, một người đàn ông, là chồng hay tình nhân của chị ta, nhảy ra khỏi xe của cô và bắn nhiều loạt đạn vào cô.
Cathy Nix, giám đốc điều hành của Liên minh Phò sinh San Antonio, nói với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, rằng:
“Một nhân viên an ninh trong đoàn biểu tình phò sinh đã nổ súng cứu nguy cho người phụ nữ, nhờ đó cứu được mạng sống của cả mẹ lẫn con”.
Cảnh sát cho biết, nhân viên an ninh trong đoàn biểu tình có giấy phép mang súng lục, và không có ai bị thương trong vụ nổ súng.
Phát ngôn viên của Sở cảnh sát San Antonio, Chris Ramos cho biết hành động của nhân viên an ninh phò sinh này là “hợp lý”.
“Anh ấy nhìn thấy ai đó nổ súng. Vì thế, anh ấy đã can thiệp và nhờ đó đã ngăn chặn được thương vong trong vụ nổ súng,” Ramos nói.
Người phụ nữ đã được chở về trụ sở cảnh sát. Các nhà chức trách cho biết họ tin rằng vụ nổ súng có thể là một vụ bạo lực gia đình.
Đài truyền hình KSAT 12 cho biết thêm các nhà điều tra đã thu hồi một khẩu súng của thủ phạm khi chạy trốn khỏi hiện trường.
Kimberlyn Schwartz, giám đốc truyền thông của tổ chức Right to Life ở Texas, nói với CNA:
“Tôi nghĩ cốt lõi của câu chuyện này cho thấy mong muốn bảo vệ mạng sống của những người Phò Sinh. Mong muốn bảo vệ đó thể hiện hàng ngày trên vỉa hè khi chúng tôi tiếp cận với những người phụ nữ để bảo vệ họ khỏi nỗi đau phá thai và bảo vệ các thai nhi khỏi những cái chết kinh hoàng.”
“Chúng tôi cầu nguyện cho người phụ nữ này được an toàn và đứa con sơ sinh của cô ấy được chào đời. Chúng tôi cảm tạ Chúa vì đã bảo vệ cô ấy trong tình huống khủng khiếp này” Schwartz nói với CNA.
Jordan McMorrough, giám đốc truyền thông của Tổng giáo phận San Antonio, nói với CNA rằng “những lời cầu nguyện của chúng tôi dành cho người phụ nữ liên quan, vì các tường thuật trên các phương tiện truyền thông vào thời điểm này cho thấy vụ này đang được điều tra như một vụ bạo lực gia đình”.
Source:Catholic News Agency
3. Tiến Sĩ George Weigel: Thư của ĐHY Ladaria là một sự can thiệp vô cùng không may từ Rôma
Ông Joe Biden luôn tự hào mình là người Công Giáo rất sùng đạo nhưng lại công khai ủng hộ phá thai hơn cả những vị tổng thống không Công Giáo. Trước gương mù tỏ tường này, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ dự định trong kỳ họp khoáng đại vào tháng 6 tới, sẽ thảo luận viễn ảnh đưa ra một tuyên bố về việc rước lễ của các chính trị gia phò phá thai cũng như “phò” nhiều vấn đề khác mâu thuẫn gay gắt với giáo huấn của Hội Thánh.
Trước khi có cuộc thảo luận này, Đức Tổng Giám Mục José Horacio Gómez, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã viết một lá thư xin ý kiến của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Thư phúc đáp của Đức Hồng Y Luis Ladaria đã gây xôn xao cho dư luận tại Hoa Kỳ, đặc biệt là sau khi nhân vật khét tiếng phò phá thai, Nancy Pelosi tuyên bố rất hài lòng với lá thư của Đức Hồng Y Luis Ladaria.
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có một bài nhận định đăng trên tờ First Things ngày 19 tháng 5, 2021.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
By George Weigel
Một sự can thiệp vô cùng không may từ Rôma
Vào ngày 7 tháng 5, Đức Hồng Y Luis Ladaria, SJ, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã gửi một bức thư cho Đức Tổng Giám Mục José Gomez, chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ. Nhìn chung, bức thư đó nhằm mục đích ngăn cản vô thời hạn một tuyên bố chung của các giám mục Hoa Kỳ về sự mạch lạc của bí tích Thánh Thể trong Giáo hội, đặc biệt liên hệ đến việc rước lễ của các quan chức Công Giáo đồng lõa với tội ác luân lý nghiêm trọng là phá thai: một vấn đề gần đây được đề cập đến rất hùng hồn bởi Đức Cha Thomas Paprocki của Springfield, Illinois; Đức Cha Thomas Olmsted của Phoenix; Đức Tổng Giám Mục Samuel Aquila của Denver; và Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco.
Thư Đức Hồng Y Ladaria bao gồm những tuyên bố không tự minh nhiên, một phần vì chúng xem ra không nhất quán với những gì Bộ Giáo Lý Đức Tin do ngài đứng đầu đã từng dạy vào năm 2002 trong “Lưu ý Tín lý,” có tựa đề “Sự tham gia của người Công Giáo trong Đời sống Chính trị”.
Ví dụ, lá thư của vị Hồng Y gửi cho Đức Tổng Giám Mục Gomez thúc giục các giám mục Hoa Kỳ tiến hành một cuộc “đối thoại” để “họ có thể đồng ý với tư cách là một Hội Đồng Giám Mục rằng việc ủng hộ những luật lệ phò lựa chọn là không tương thích với giáo huấn Công Giáo”. Tại sao lại cần có một cuộc đối thoại như thế? Tại lễ tấn phong của mình, các giám mục tuyên thệ long trọng đề cao giáo huấn của Giáo hội. Và như Lưu ý Tín lý năm 2002, khi trích dẫn thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống) năm 1995 của Đức Gioan Phaolô II, đã nói “những người trực tiếp tham gia vào việc xây dựng luật pháp có ‘nghĩa vụ nghiêm trọng và rõ ràng là phải chống lại’ bất kỳ luật lệ nào tấn công sự sống con người. Đối với các chính trị gia, cũng như đối với mọi người Công Giáo, không thể cổ vũ những luật đó hoặc bỏ phiếu cho chúng”.
Tuy nhiên, Đức Hồng Y viết rằng các giám mục nên “thảo luận và đồng ý” với giáo huấn đó. Có gì để “thảo luận” ở đây? Và nếu, chẳng may, một số giám mục thực sự không đồng ý với giáo huấn đó, thì tại sao sự từ khước của họ — hoặc thậm chí những hiểu lầm của họ về những tác động của nó — lại có thể ngăn cản phần lớn các giám mục chấp nhận giáo huấn đó không được tái khẳng định và sau đó áp dụng giáo huấn đó? Công Đồng Nicê thứ nhất đã không chờ cho những giám mục ủng hộ Ariô “đồng ý” rồi mới dạy sự thật về thần tính của Chúa Kitô. Công Đồng Êphêsô cũng đã không chờ đợi sự đồng ý của Nestoriô và các giám mục theo bè rối Nestoriô đồng ý trước khi giảng dạy sự thật rằng Đức Mẹ có thể được gọi một cách chính đáng là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa. Sự thật không thể bị đánh đổi để giành được sự nhất trí, phải không nào?
Một khi “thỏa thuận” giữa các giám mục về chân lý cơ bản của đức tin Công Giáo đã đạt được, Đức Hồng Y lại kêu gọi các giám mục địa phương phải “tham gia đối thoại với các chính trị gia Công Giáo trong địa phận của mình” như một “phương cách để hiểu bản chất các quan điểm và mức độ lĩnh hội giáo huấn Công Giáo của họ. Có lẽ Đức Hồng Y không biết rằng điều này đã được thực hiện. Có lẽ Đức Hồng Y không biết rằng vấn đề, tiêu biểu là, không phải các chính trị gia “ủng hộ phò lựa chọn” hiểu sai những gì Giáo hội dạy mà là họ [hiểu rất rõ nhưng] bác bỏ những giáo huấn đó - và vẫn khăng khăng thể hiện mình như những người Công Giáo nghiêm túc trong sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội. (Tuyên bố như vậy bây giờ là một chi tiết thường xuyên trong cuộc họp báo tại Tòa Bạch Ốc.) Có rất ít những gì là không rõ ràng ở đây, và tiếp tục “đối thoại” sẽ chẳng làm sáng tỏ bao nhiêu bất cứ điều gì.
Đức Hồng Y cũng lo ngại rằng bất kỳ “chính sách quốc gia nào về sự xứng đáng cho sự hiệp thông Thánh Thể” phải thể hiện “sự đồng thuận thực sự của các giám mục về vấn đề này”. Nhưng, một lần nữa, điều đó có nghĩa là một số các giám mục ít có cảm thức cấp bách về việc phải bảo vệ sự thật, áp dụng nó, và nhờ đó khôi phục tính mạch lạc Thánh Thể của Giáo hội, lại đâm ra là những người quyết định giai điệu cho tất cả các giám mục còn lại. Đây không phải là kiểu “đồng thuận” mà Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã tìm kiếm khi ngài nỗ lực hoạt động để Công đồng Vatican II thông qua Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo với tỷ số lớn nhất có thể. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục biết rằng Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre và những người cực đoan khác sẽ không bao giờ chấp nhận một tuyên bố như vậy, nhưng ngài không sẵn sàng trao cho họ quyền phủ quyết tuyên bố ấy dưới danh nghĩa “đồng thuận”. Tại sao ngày nay quyền phủ quyết như vậy lại được trao cho một số ít những người cực đoan trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ?
Lời kêu gọi của Đức Hồng Y Tổng trưởng rằng “mọi nỗ lực... phải được thực hiện” để “đối thoại” với “các Hội Đồng Giám Mục khác khi chính sách này được hình thành” cũng là một điều khó hiểu. Liệu Đức Hồng Y Ladaria có thực sự tin rằng một cuộc “đối thoại” với một Hội Đồng Giám Mục Đức không quan tâm gì đến việc bội giáo và đang quay cuồng bên bờ ly giáo sẽ tạo ra những kết quả tốt đẹp ở Hoa Kỳ? Nếu vậy, sẽ rất lý thú khi biết điều đó sẽ xảy ra như thế nào.
Chiến lược mà Đức Hồng Y Ladaria thúc giục trong lá thư của ngài sao chép các yếu tố chính trong cách tiếp cận của McCarrick đối với các chính trị gia Mỹ ủng hộ việc phá thai. Tôi tin rằng Đức Hồng Y Ladaria đã không biết về điều đó, nhưng dù thế nào đi nữa, cách tiếp cận chậm chạp, tẻ nhạt đối với một cuộc khủng hoảng mà ngài thúc giục các giám mục Hoa Kỳ đang bị đánh giá rất thấp.
Source:First Things