Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:50 31/05/2014
NGUYÊN TẮC CỦA CON ẾCH
Con ếch khinh miệt nói với con thỏ mà không thèm để ý:
- “Anh xem, con trăn dáng bộ ra vẻ vênh vang, nhưng thực ra tài năng của nó là giả dối, loại người ấy, thật tôi nhìn không thuận mắt.”
Nói qua nói lại, tự nhiên có con trăn đi qua trước mặt chúng nó, con ếch vừa thấy, lập tức bỏ mũ hỏi thăm:
- “Anh trăn, anh khoẻ chứ ? Anh vừa thay quần áo mới thật là phù hợp, vừa rất mốt lại vừa đẹp nữa ạ!”
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Mỗi quốc gia đều có luật lệ riêng.
Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng.
Mỗi gia đình có gia phong riêng.
Mỗi cá nhân có cách sống không giống nhau.
Chúng ta gọi đó là nguyên tắc.
- Nguyên tắc sống của người thông minh là dành nhiều thời gian để học hành, đọc sách, nghiên cứu.
- Nguyên tắc làm việc của người buôn bán là: khách hàng + lợi nhuận = làm giàu.
Ai cũng có nguyên tắc của mình, nhưng người quân tử thì khác tiểu nhân, nguyên tắc của người quân tử là mực thước, nguyên tắc của tiểu nhân là nịnh.
Chúng ta –những người Ki-tô hữu- có nguyên tắc riêng mà người đời nghe qua đều ngạc nhiên, thấy qua là giật mình, nguyên tắc đó là: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37), và “ai tát má bên phải, thì giơ cả má bên trái ra nữa…” (Mt 5, 39).
Đúng là một nguyên tắc mà ai thấy cũng phải thán phục, đố các bạn biết tại sao ? Thưa, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã giảng và đã thực hành nguyên tắc ấy.
Làm người Ki-tô hữu thì không ai muốn có nguyên tắc như con ếch, đó là nói xấu người khác sau lưng họ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
N2T |
Con ếch khinh miệt nói với con thỏ mà không thèm để ý:
- “Anh xem, con trăn dáng bộ ra vẻ vênh vang, nhưng thực ra tài năng của nó là giả dối, loại người ấy, thật tôi nhìn không thuận mắt.”
Nói qua nói lại, tự nhiên có con trăn đi qua trước mặt chúng nó, con ếch vừa thấy, lập tức bỏ mũ hỏi thăm:
- “Anh trăn, anh khoẻ chứ ? Anh vừa thay quần áo mới thật là phù hợp, vừa rất mốt lại vừa đẹp nữa ạ!”
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Mỗi quốc gia đều có luật lệ riêng.
Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng.
Mỗi gia đình có gia phong riêng.
Mỗi cá nhân có cách sống không giống nhau.
Chúng ta gọi đó là nguyên tắc.
- Nguyên tắc sống của người thông minh là dành nhiều thời gian để học hành, đọc sách, nghiên cứu.
- Nguyên tắc làm việc của người buôn bán là: khách hàng + lợi nhuận = làm giàu.
Ai cũng có nguyên tắc của mình, nhưng người quân tử thì khác tiểu nhân, nguyên tắc của người quân tử là mực thước, nguyên tắc của tiểu nhân là nịnh.
Chúng ta –những người Ki-tô hữu- có nguyên tắc riêng mà người đời nghe qua đều ngạc nhiên, thấy qua là giật mình, nguyên tắc đó là: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37), và “ai tát má bên phải, thì giơ cả má bên trái ra nữa…” (Mt 5, 39).
Đúng là một nguyên tắc mà ai thấy cũng phải thán phục, đố các bạn biết tại sao ? Thưa, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã giảng và đã thực hành nguyên tắc ấy.
Làm người Ki-tô hữu thì không ai muốn có nguyên tắc như con ếch, đó là nói xấu người khác sau lưng họ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (Lễ Thăng Thiên)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:53 31/05/2014
Chúa Nhật VII PHỤC SINH
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Tin mừng : Lc 28, 16-20.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Nhật này là lễ Đức Chúa Giê-su thăng thiên, tức là –nói theo các thần học gia- Đức Chúa Giê-su về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại ở trần gian, nhưng sự cứu độ của Ngài vẫn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các tông đồ: Hãy đi giảng dạy muôn dân làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mệnh lệnh này Đức Chúa Giê-su cũng trao cho chúng ta là những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Ngài tại trần gian này.
Lên trời hay lên thiên đàng là mục đích sống của chúng ta ở trần gian này: chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm lành tránh dữ, chúng ta làm việc bác ái.v.v... đều là vì mục đích ấy, là được lên thiên đàng hưởng phúc với Đức Chúa Giê-su sau khi từ giả cuộc đời này. Do đó, theo tôi, chúng ta có hai bước phải làm để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su:
1. Hãy đi giảng dạy.
Chúng ta không giảng dạy như các linh mục là dâng lễ Mi-sa, chúng ta cũng không làm việc tông đồ như các nữ tu nơi các trường học, bệnh viện.v.v... nhưng chúng ta rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống của mình, chẳng hạn như: trong gia đình cha mẹ con cái yêu thương nhau, bà con hàng xóm giúp đỡ nhau, siêng năng đi lễ nhà thờ.v.v... đó chính là cách làm chứng hay nhất cho Đức Chúa Giê-su .
2. Chu toàn bổn phận của mình.
Cha mẹ lo chu toàn bổn phận của mình là dạy dỗ con cái biết sống kính mến Thiên Chúa, dạy chúng nó biết yêu quý thánh lễ Mi-sa và rước lễ, dạy chúng nó trở nên người tốt; con cái phải làm tròn bổn phận của mình là thảo kính cha mẹ và giúp đỡ cha mẹ, anh chị em yêu thương nhau, bởi vì cha mẹ và con cái sẽ phải chịu phán xét trước mặt Thiên Chúa về những bổn phận của mình.
Đức Chúa Giê-su lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng, muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời, đó là yêu thương và phục vụ tha nhân như Đức Chúa Giê-su đã làm.
Anh chị em thân mến,
Đức Chúa Giê-su lên trời là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta, bởi vì nếu Ngài không lên trời thì chúng ta không biết cuộc sống hôm nay của nhân loại sẽ đi về đâu, và đức tin của chúng ta tin vào Ngài chỉ là huyền hoặc mà thôi. Nhưng Đức Chúa Giê-su đã lên trời thật như lời hai thiên thần nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Chúa Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời.”
Đức Chúa Giê-su đã lên trời, nhưng Ngài sẽ lại đến trong vinh quang trong ngày tận thế để phán xét người sống cũng như kẻ chết, đó chính là lúc Ngài bày tỏ sự công bằng, nhân từ và uy nghiêm của Ngài cho nhân loại được biết.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta...
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Tin mừng : Lc 28, 16-20.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Nhật này là lễ Đức Chúa Giê-su thăng thiên, tức là –nói theo các thần học gia- Đức Chúa Giê-su về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại ở trần gian, nhưng sự cứu độ của Ngài vẫn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các tông đồ: Hãy đi giảng dạy muôn dân làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mệnh lệnh này Đức Chúa Giê-su cũng trao cho chúng ta là những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Ngài tại trần gian này.
Lên trời hay lên thiên đàng là mục đích sống của chúng ta ở trần gian này: chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm lành tránh dữ, chúng ta làm việc bác ái.v.v... đều là vì mục đích ấy, là được lên thiên đàng hưởng phúc với Đức Chúa Giê-su sau khi từ giả cuộc đời này. Do đó, theo tôi, chúng ta có hai bước phải làm để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su:
1. Hãy đi giảng dạy.
Chúng ta không giảng dạy như các linh mục là dâng lễ Mi-sa, chúng ta cũng không làm việc tông đồ như các nữ tu nơi các trường học, bệnh viện.v.v... nhưng chúng ta rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống của mình, chẳng hạn như: trong gia đình cha mẹ con cái yêu thương nhau, bà con hàng xóm giúp đỡ nhau, siêng năng đi lễ nhà thờ.v.v... đó chính là cách làm chứng hay nhất cho Đức Chúa Giê-su .
2. Chu toàn bổn phận của mình.
Cha mẹ lo chu toàn bổn phận của mình là dạy dỗ con cái biết sống kính mến Thiên Chúa, dạy chúng nó biết yêu quý thánh lễ Mi-sa và rước lễ, dạy chúng nó trở nên người tốt; con cái phải làm tròn bổn phận của mình là thảo kính cha mẹ và giúp đỡ cha mẹ, anh chị em yêu thương nhau, bởi vì cha mẹ và con cái sẽ phải chịu phán xét trước mặt Thiên Chúa về những bổn phận của mình.
Đức Chúa Giê-su lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng, muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời, đó là yêu thương và phục vụ tha nhân như Đức Chúa Giê-su đã làm.
Anh chị em thân mến,
Đức Chúa Giê-su lên trời là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta, bởi vì nếu Ngài không lên trời thì chúng ta không biết cuộc sống hôm nay của nhân loại sẽ đi về đâu, và đức tin của chúng ta tin vào Ngài chỉ là huyền hoặc mà thôi. Nhưng Đức Chúa Giê-su đã lên trời thật như lời hai thiên thần nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Chúa Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời.”
Đức Chúa Giê-su đã lên trời, nhưng Ngài sẽ lại đến trong vinh quang trong ngày tận thế để phán xét người sống cũng như kẻ chết, đó chính là lúc Ngài bày tỏ sự công bằng, nhân từ và uy nghiêm của Ngài cho nhân loại được biết.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta...
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:55 31/05/2014
N2T |
20. Kỳ vọng càng lớn thì càng giảm bớt đau khổ, cung cấp năng lực cũng càng lớn.
(Thánh Laurence Giustiniani)------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:58 31/05/2014
YÊU MẾN THÁNH LỄ
Cha sở kiêm thêm hai giáo họ có số giáo dân đi lễ rất ít, chỉ một vài giáo dân, ban hành giáo của giáo xứ đề nghị với cha sở là đừng đến dâng thánh lễ ở giáo họ nữa, vì mất thời gian mà chẳng có mấy giáo dân. Cha sở trả lời:
- “Chỉ có thánh lễ mới có khả năng tập họp cộng đoàn dân Chúa lại, thấy họ ít mà mình bỏ họ thì làm sao họ biết được ích lợi của thánh lễ được, hơn nữa, làm cha sở mà lười làm lễ thì giáo dân làm sao yêu mến thánh lễ được chứ !”
-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Cha sở kiêm thêm hai giáo họ có số giáo dân đi lễ rất ít, chỉ một vài giáo dân, ban hành giáo của giáo xứ đề nghị với cha sở là đừng đến dâng thánh lễ ở giáo họ nữa, vì mất thời gian mà chẳng có mấy giáo dân. Cha sở trả lời:
- “Chỉ có thánh lễ mới có khả năng tập họp cộng đoàn dân Chúa lại, thấy họ ít mà mình bỏ họ thì làm sao họ biết được ích lợi của thánh lễ được, hơn nữa, làm cha sở mà lười làm lễ thì giáo dân làm sao yêu mến thánh lễ được chứ !”
-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Kiên nhẩn chờ đợi ơn Thánh Thẩn
Lm Jude Siciliano OP
06:20 31/05/2014
Chúa Nhật CHÚA THĂNG THIÊN (A)
Công vụ 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêxô 1: 17-23; Mátthêu 28: 16-20
KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI ƠN THÁNH THẦN
Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu với một lệnh truyền của Đức Kitô phục sinh, bảo phải chờ đợi. Tôi thắc mắc tự hỏi, trước một lệnh truyền như thế của Chúa, thì trong cộng đoàn sơ khởi khi ấy liệu những người đang nóng lòng muốn làm một cái gì đó có cảm thấy thất vọng hay không. Như bạn thấy đó, họ háo hức muốn bắt tay thay đổi mọi chuyện – và rõ là họ hoàn toàn sai lầm trong nhận định. Chính câu hỏi họ đặt ra, cho thấy họ đang lạc hướng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Dĩ nhiên, họ chỉ có ý nói tới một vương quốc Israel hùng mạnh hiểu theo nghĩa trần tục, chính trị và quân sự. Đức Giêsu cho họ biết, không phải như thế, và họ phải chờ đợi phép rửa của Thánh Thần, rồi khi ấy họ mới hiểu được làm chứng cho Đức Giêsu nghĩa là thế nào, và biết được họ phải làm chứng ở đâu.
Đức Giêsu muốn họ thoát ra khỏi lối nhìn hạn hẹp, những thành kiến, những lệch lạc khi nhận định về ý nghĩa, và mục đích cuộc đời của Người. Người cũng muốn họ đi xa hơn, ra khỏi biên cương của Israel để làm chứng cho Người. Người nói họ sẽ là những chứng nhân của Người: “Trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Để thực hiện được tất cả những điều này, họ cần phải được trợ lực, bởi vậy, họ đã ý thức là mình phải biết cậy dựa vào Thiên Chúa, và chờ đợi niềm vui của Thiên Chúa đổ tràn, niềm vui đó chính là sức mạnh trợ giúp họ.
Chúng ta không mấy kiên trì trong việc chờ đợi. Nếu chờ đợi mà không có kết quả ngay thì ta dễ mệt mỏi. Nào là xếp hàng chờ đến phiên, chờ đèn đường, chờ đám trẻ đi chơi về, đưa cha mẹ già đến phòng mạch và chờ khám bệnh, chờ mong chiến tranh Syria chấm dứt. Thú thực, chúng ta không kiên nhẫn trong chờ đợi. Tại sao chờ đợi lại mệt mỏi như thế? Bởi vì, chờ đợi nghĩa là, ai đó hoặc một quyền lực nào đó nắm quyền chủ động chứ không phải chúng ta. Chuyện mất quyền kiểm soát và trở thành đối tượng để cho những sức mạnh khác điều khiển nhắc nhớ chúng ta về sự hữu hạn và mỏng manh của mình.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải “chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa”. Họ không thể tự ý mình, ra đi loan báo về cuộc phục sinh của Người. Họ là một nhóm người nhỏ bé, nhát đảm đến độ chẳng đủ sức để tự lập, tự quyết được, và như các sách Tin Mừng cho thấy, họ dễ sai lệch, hiểu sai hoàn toàn sứ điệp của Đức Giêsu. Và hơn thế nữa, họ còn tháo chạy khi cơn khốn khó xảy đến. Cậy dựa vào sức riêng mình, họ sẽ hoá ra lầm lạc, và có thể sa đà, thoả hiệp chấp nhận những cách thế không phải của Đức Giêsu. Trong quá khứ, chẳng phải chúng ta đã từng phạm phải những sai lỗi khá là nặng nề khi quan niệm, nhìn nhận về sứ điệp và những cách thế của Người hay sao? Trong quá khứ, đã khối lần chúng ta khuếch trương tôn giáo của mình bằng rửa tội cưỡng bức, và chà đạp phẩm giá, cũng như coi thường văn hoá của những nền văn minh. Ngoài ra, giống như các môn đệ thuở ban đầu, những lúc phải thể hiện can đảm thì chúng ta lại tỏ ra hèn nhát.
Giống như các môn đệ, chúng ta cũng phải biết “dừng lại”, kiềm chế và chờ đợi điều Thiên Chúa hứa được thực hiện. Hơn nữa, mọi chuyện sẽ được thực hiện vào đúng kỳ hạn theo như sự hoạch định của Thiên Chúa, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta lúc nào cũng chỉ sốt ruột để hành động, có đúng thế không? Chúng ta có những dự tính, kế hoạch của riêng mình, và chúng ta muốn mọi chuyện được xúc tiến. Ngay cả khi những kế hoạch và ý định của chúng ta tốt đẹp, hướng tới một mục tiêu tốt lành, thì những kế hoạch và ý định ấy nằm ở đâu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Liệu chúng ta có biết điều này không? Đã bao giờ chúng ta thắc mắc tìm hiểu chưa? Đã bao giờ chúng ta lắng nghe để được hướng dẫn? Có lẽ chúng ta cần học biết, chẳng những là mau mắn thực thi các công việc, mà còn phải học biết chờ đợi nữa. Không chỉ biết cắm cúi làm việc, nhưng còn phải biết cách ở yên! Chờ đợi Thánh Thần là một đảo phách trong nhịp hoạt động bình thường của chúng ta.
Ngay cả khi Đức Kitô nói với các môn đệ về sứ mệnh được mở rộng “đến tận cùng trái đất” của họ, thánh Luca cũng không muốn chúng ta bỏ quên những chuyện xảy ra ở Giêrusalem. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện trên đường Emmau (Lc 24,13-35, Chúa Nhật III Phục Sinh) cùng với sự thất vọng, ngã lòng của các môn đệ trong cuộc. “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng…”, hai môn đệ nói với Người Khách Lạ như vậy. Hy vọng của họ, chắc chắn được đóng khung bởi cách họ quan niệm về sự chiến thắng, sự thành công của Đức Giêsu, cũng như cách họ nhìn nhận về bản thân nữa. Nhưng qua việc giải thích Sách Thánh cho họ “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ”, Đức Giêsu đã nhắc cho họ nhớ rằng, đau khổ là một phần trong sứ mệnh và đời sống của Người. Giờ đây, qua phần nội dung sách Công vụ Tông đồ được trích đọc hôm nay, thánh Luca cũng nhắc nhớ chúng ta một lần nữa, về mối liên hệ đó, mối liên hệ giữa sứ mệnh và những đau khổ của Đức Giêsu, khi tác giả thuật lại rằng, Đức Kitô đã “dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình”. Đức Giêsu, và giờ là các tông đồ, không thể nào tránh khỏi những đau khổ vốn gắn liền với lời rao giảng. Bởi thế, với các môn đệ, là những người sẽ sống và loan báo Tin Mừng, đau khổ là cái giá mà họ và cả chúng ta nữa phải trả cho niềm tin và sứ mệnh của mình.
Chúng ta cần phải chờ đợi để đón nhận được hồng ân của Thánh Thần, Đấng bảo bọc và kiện cường chúng ta khi mọi chuyện hoá ra khốn đốn cùng cực. Chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho Đức Giêsu, qua việc sống trọn vẹn cuộc đời của mình, cũng như dấn thân theo những đường lối của Người. Nếu chúng ta trung tín tuân giữ những gì Thánh Thần chỉ bảo chúng ta, khi chúng ta làm việc, cư xử với gia đình, khi chúng ta đến trường, khi chúng ta hoạt động chính trị,… thì chắc chắn sẽ có những đau khổ. Hay thậm chí tệ hại hơn nữa, chúng ta bị coi thường, bị khinh khi như những kẻ không thực tế, bị loại ra như những kẻ mơ mộng hão huyền. Chúng ta cần được đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần – và sự chờ đợi sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Thomas Troeger, một mục sư và nhà giảng thuyết thuộc phái Trưởng Lão, trong một bài giảng lễ Thăng Thiên, [năm 1982], đã mô tả lại tâm trạng hoang mang của các môn đệ và hội thánh sơ khai, trong khi mong chờ ngày hoàn tất Triều Đại của Thiên Chúa. Ông nói, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hiểu được hoang mang nghĩa là thế nào. Sau khi đã trao gửi cuộc đời mình cho Đức Giêsu Kitô, những gì chúng ta nghiệm thấy không phải là sự chiến thắng, nhưng là một sự pha trộn giữa chiến thắng và thất bại. Đã có gì thực sự thay đổi chưa? Niềm tin mà chúng ta có, đã giúp tạo ra điều chi khác biệt chưa? Ông thắc mắc tự hỏi, “Khi nào mọi thứ mới hoà hợp thống nhất với nhau một cách bền lâu?” Tiếp đến, vị mục sư Troeger trích dẫn những dòng thơ của Yeats để mô tả thế giới của chúng ta rằng:
Mọi thứ sụp đổ tan tành;
cây cột chính không chống đỡ nổi;
Sự hỗn loạn lan tràn cõi đất,
Cơn thuỷ triều hắc huyết tràn dâng lên, và mọi nơi…
Mọi thứ tinh tuyền, tốt đẹp bị vùi lấp;
Điều tốt lành nhất thiếu thuyết phục,
trong khi thứ tệ hại nhất lại lên ngôi.
(Trích thi phẩm Đến Lần Thứ Hai của William Butler Yeats)
Chúng ta hóa ra mệt mỏi vì chờ đợi. Cùng với Yeats, chúng ta nói lên niềm khát mong của mình, “Chắc chắn có điều gì đó sắp được tỏ ra; không nghi ngờ gì nữa Ngày Quang Lâm đã gần kề”. Đó là lời than van, một lời cầu xin khẩn thiết và phó thác. Chúng ta cần được giúp đỡ, một sự giúp đỡ trợ lực, mà tự sức mình, chúng ta không tài nào có được hay chiếm lĩnh được. Mục sư Troeger mời gọi chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa, điều mà hội thánh sơ khai đã nghe được, giữa cơn khốn quẫn và chờ mong của mình. “Chúa Cha đã hoạch định thời cuộc, vận số ra sao; điều đó bạn không cần quan tâm, bạn không cần biết”… Thật khó để chấp nhận những lời này, khi mà nhan nhản quanh chúng ta, những thứ mà chúng ta tai nghe mắt thấy hằng ngày trên kênh tin tức mỗi tối: hình ảnh và tiếng ồn ã của nhiều ngàn người tị nạn Syria, cảnh các cô gái bị bắt cóc ở Nigeria, xác chết của một vụ xả súng giết người hàng loạt khác ở trường cao đẳng Santa Barbara, cùng với những cảnh nghèo đói dai dẳng ngay giữa một đất nước phồn vinh như nước Mỹ. Mục sư Troeger nhắc nhớ chúng ta, về những gì chúng ta đang có, đó là niềm tin tưởng rằng, Đức Giêsu hằng hiển trị, và Người sẽ sai Thánh Thần đến, giúp chúng ta sống như chúng ta được đòi hỏi. Chúng ta không thể cưỡng bách, hay thúc ép Thánh Thần được, vì đó là một ân huệ vẫn hằng tuôn đổ trên chúng ta. Nhưng dầu vậy, đó vẫn là một hồng ân đòi hỏi nơi chúng ta sự kiên nhẫn chờ đợi.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
The Ascension of the Lord (A)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23; Matthew 28: 16-20
The Acts of the Apostles starts with an injunction by the risen Christ to wait. I wonder if the activists in that early community weren’t frustrated by his directive. You can see that they were ready to get on with things – and they would have gotten it all wrong. It’s their question that reveals their mis-direction, "Lord are you at this time going to restore the kingdom of Israel?" Of course, they mean a purely external, politically and militarily dominant kingdom of Israel. No, Jesus tells them, they have to wait for the baptism with the Holy Spirit, then they will know how and where to be Jesus’ witnesses.
He wants them to break free of their limited view, their biases and tendency to misinterpret the meaning of his life. What he also wants is that they witness to him far beyond the boundaries of Israel. They will, he says, have to be, "my witnessers in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth." For all this they will need help, so they must acknowledge their dependence on God and wait for God’s pleasure to pour that help out on them.
We are not good at waiting. We tire out if we do not get quick results. Waiting on lines, for lights, for our children to come home from the dance, with our aging parents at the doctor’s office, for the war to end in Syria. Waiting is not what we do well. Why is waiting so frustrating? Because it means someone else or some other power is in charge, not us. And being out of control and subject to other forces reminds us of our finiteness, and vulnerability.
Jesus tells the disciples to "wait for the promise of the Father." They cannot go off spreading the news of his resurrection on their own. They are a small, fearful community that has no power on its own and, as the Gospels showed, they have a tendency to get Jesus’ message all wrong. What’ s more, they flee when things get tough. Relying on themselves they will be misguided, perhaps engage in ways that are not of Jesus. Haven’t we made some pretty big mistakes in our history about his message and ways? In our history are the tales of promoting our religion by forced baptisms and by trampling over the dignity and cultures of whole civilizations. In addition, like the original disciples, we have been cowardly when courage was required.
So the disciples and we must "hold our horses," restrain ourselves and wait for God’ promise to be fulfilled. What’s more, the fulfillment will come at God’s timing, not our own. We are action-oriented aren’t we? We have our projects and plans, we want to get on with things. Even when our plans and intentions are noble and serve a good purpose, how does God figure into them? Do we know? Have we asked? Do we wait for an answer, some direction? Maybe we have to "hurry up and wait." "Don’t just do something, stand there!" Waiting on the Spirit is a reversal of our usual mode of operating.
Even as Christ talks to the disciples about their mission to the "ends of the earth," Luke is making sure that we do not forget what had happened in Jerusalem. We recall the Emmaus story (Luke 24: 13-35, Third Sunday of Easter) and the failed and frustrated hopes of the disciples on the road. "We had hoped," they tell the Stranger. What they had hoped for was their version of triumph and success for Jesus – and themselves. But Jesus had to remind them, by interpreting the scriptures "beginning with Moses and all the prophets," that suffering was to be part of his life and mission. Here in today’s section of Acts, Luke reminds us again of that link between Jesus’ mission and suffering when he says that Christ "presented himself alive to them by many proofs AFTER he had suffered." Jesus, and now the disciples, cannot escape the suffering that comes with fidelity to the message. Even in the presence of the risen Lord they are not far from the reality of suffering . So, for the disciples who will have to live out and proclaim the Good News, suffering will be the price they and we pay for our belief and for the mission.
We need to wait for the gift of the Spirit who sustains us when the going gets rough. We will be witnesses to Jesus by the integrity of our lives and the commitment to his ways. If we are faithful to what his Spirit teaches us at work, and with our families, in school, in the political arena, etc., there will be suffering. Or maybe worse, we will just be ignored, discounted as unrealistic and dismissed as impossible idealists. We will need the gift of the Spirit – the wait is worth it.
Thomas Troeger, the Presbyterian preacher and homiletician, in a sermon preached on Ascension Day, recalls the frustration of the disciples and the early church in their waiting and longing for the fulfillment of the reign of God. He says we too know that frustration. After having given our lives over to Jesus Christ, we experience not triumph, but a mixture of triumph and defeat. Has anything really changed? What difference does our faith make? "When will things come together in some whole and enduring pattern?" he wonders. And then Troeger quotes Yeats’ lines to describe our world:
"Things fall apart; the center cannot hold;
Mere anarchy is loosed upon the world,
the blood dimmed tide is loosed, and everywhere
the ceremony of innocence is drowned;
the best lack all conviction, while the worst
are full of passionate intensity."
(from, "The Second Coming")
We are wearied by our waiting. With Yeats we voice our longing, "Surely some revelation is at hand; Surely the Second Coming is at hand." It’s a lament, a prayer of need and dependence. We need help that we cannot provide for ourselves. Troeger invites us to hear again what the early church heard in its anguish and yearning, "It is not for you to know the times or seasons that the Father has established by [God’s] own authority." How difficult it is for us to hear these words surrounded, as we are, by the kind of events we see and hear on the evening news: pictures and sounds of tens of thousands of Syrian refugees, pictures of abducted girls in Nigeria, the remains of another mass shooting in Santa Barbara and the scenes of poverty that persist in our prosperous nation. What we have, Troeger reminds us, is the belief that Christ reigns and will send the Holy Spirit to help us live as we must. We cannot force the hand of this Spirit, it is a gift constantly coming upon us. And one that still requires waiting.
Công vụ 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêxô 1: 17-23; Mátthêu 28: 16-20
KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI ƠN THÁNH THẦN
Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu với một lệnh truyền của Đức Kitô phục sinh, bảo phải chờ đợi. Tôi thắc mắc tự hỏi, trước một lệnh truyền như thế của Chúa, thì trong cộng đoàn sơ khởi khi ấy liệu những người đang nóng lòng muốn làm một cái gì đó có cảm thấy thất vọng hay không. Như bạn thấy đó, họ háo hức muốn bắt tay thay đổi mọi chuyện – và rõ là họ hoàn toàn sai lầm trong nhận định. Chính câu hỏi họ đặt ra, cho thấy họ đang lạc hướng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Dĩ nhiên, họ chỉ có ý nói tới một vương quốc Israel hùng mạnh hiểu theo nghĩa trần tục, chính trị và quân sự. Đức Giêsu cho họ biết, không phải như thế, và họ phải chờ đợi phép rửa của Thánh Thần, rồi khi ấy họ mới hiểu được làm chứng cho Đức Giêsu nghĩa là thế nào, và biết được họ phải làm chứng ở đâu.
Đức Giêsu muốn họ thoát ra khỏi lối nhìn hạn hẹp, những thành kiến, những lệch lạc khi nhận định về ý nghĩa, và mục đích cuộc đời của Người. Người cũng muốn họ đi xa hơn, ra khỏi biên cương của Israel để làm chứng cho Người. Người nói họ sẽ là những chứng nhân của Người: “Trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Để thực hiện được tất cả những điều này, họ cần phải được trợ lực, bởi vậy, họ đã ý thức là mình phải biết cậy dựa vào Thiên Chúa, và chờ đợi niềm vui của Thiên Chúa đổ tràn, niềm vui đó chính là sức mạnh trợ giúp họ.
Chúng ta không mấy kiên trì trong việc chờ đợi. Nếu chờ đợi mà không có kết quả ngay thì ta dễ mệt mỏi. Nào là xếp hàng chờ đến phiên, chờ đèn đường, chờ đám trẻ đi chơi về, đưa cha mẹ già đến phòng mạch và chờ khám bệnh, chờ mong chiến tranh Syria chấm dứt. Thú thực, chúng ta không kiên nhẫn trong chờ đợi. Tại sao chờ đợi lại mệt mỏi như thế? Bởi vì, chờ đợi nghĩa là, ai đó hoặc một quyền lực nào đó nắm quyền chủ động chứ không phải chúng ta. Chuyện mất quyền kiểm soát và trở thành đối tượng để cho những sức mạnh khác điều khiển nhắc nhớ chúng ta về sự hữu hạn và mỏng manh của mình.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải “chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa”. Họ không thể tự ý mình, ra đi loan báo về cuộc phục sinh của Người. Họ là một nhóm người nhỏ bé, nhát đảm đến độ chẳng đủ sức để tự lập, tự quyết được, và như các sách Tin Mừng cho thấy, họ dễ sai lệch, hiểu sai hoàn toàn sứ điệp của Đức Giêsu. Và hơn thế nữa, họ còn tháo chạy khi cơn khốn khó xảy đến. Cậy dựa vào sức riêng mình, họ sẽ hoá ra lầm lạc, và có thể sa đà, thoả hiệp chấp nhận những cách thế không phải của Đức Giêsu. Trong quá khứ, chẳng phải chúng ta đã từng phạm phải những sai lỗi khá là nặng nề khi quan niệm, nhìn nhận về sứ điệp và những cách thế của Người hay sao? Trong quá khứ, đã khối lần chúng ta khuếch trương tôn giáo của mình bằng rửa tội cưỡng bức, và chà đạp phẩm giá, cũng như coi thường văn hoá của những nền văn minh. Ngoài ra, giống như các môn đệ thuở ban đầu, những lúc phải thể hiện can đảm thì chúng ta lại tỏ ra hèn nhát.
Giống như các môn đệ, chúng ta cũng phải biết “dừng lại”, kiềm chế và chờ đợi điều Thiên Chúa hứa được thực hiện. Hơn nữa, mọi chuyện sẽ được thực hiện vào đúng kỳ hạn theo như sự hoạch định của Thiên Chúa, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta lúc nào cũng chỉ sốt ruột để hành động, có đúng thế không? Chúng ta có những dự tính, kế hoạch của riêng mình, và chúng ta muốn mọi chuyện được xúc tiến. Ngay cả khi những kế hoạch và ý định của chúng ta tốt đẹp, hướng tới một mục tiêu tốt lành, thì những kế hoạch và ý định ấy nằm ở đâu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Liệu chúng ta có biết điều này không? Đã bao giờ chúng ta thắc mắc tìm hiểu chưa? Đã bao giờ chúng ta lắng nghe để được hướng dẫn? Có lẽ chúng ta cần học biết, chẳng những là mau mắn thực thi các công việc, mà còn phải học biết chờ đợi nữa. Không chỉ biết cắm cúi làm việc, nhưng còn phải biết cách ở yên! Chờ đợi Thánh Thần là một đảo phách trong nhịp hoạt động bình thường của chúng ta.
Ngay cả khi Đức Kitô nói với các môn đệ về sứ mệnh được mở rộng “đến tận cùng trái đất” của họ, thánh Luca cũng không muốn chúng ta bỏ quên những chuyện xảy ra ở Giêrusalem. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện trên đường Emmau (Lc 24,13-35, Chúa Nhật III Phục Sinh) cùng với sự thất vọng, ngã lòng của các môn đệ trong cuộc. “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng…”, hai môn đệ nói với Người Khách Lạ như vậy. Hy vọng của họ, chắc chắn được đóng khung bởi cách họ quan niệm về sự chiến thắng, sự thành công của Đức Giêsu, cũng như cách họ nhìn nhận về bản thân nữa. Nhưng qua việc giải thích Sách Thánh cho họ “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ”, Đức Giêsu đã nhắc cho họ nhớ rằng, đau khổ là một phần trong sứ mệnh và đời sống của Người. Giờ đây, qua phần nội dung sách Công vụ Tông đồ được trích đọc hôm nay, thánh Luca cũng nhắc nhớ chúng ta một lần nữa, về mối liên hệ đó, mối liên hệ giữa sứ mệnh và những đau khổ của Đức Giêsu, khi tác giả thuật lại rằng, Đức Kitô đã “dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình”. Đức Giêsu, và giờ là các tông đồ, không thể nào tránh khỏi những đau khổ vốn gắn liền với lời rao giảng. Bởi thế, với các môn đệ, là những người sẽ sống và loan báo Tin Mừng, đau khổ là cái giá mà họ và cả chúng ta nữa phải trả cho niềm tin và sứ mệnh của mình.
Chúng ta cần phải chờ đợi để đón nhận được hồng ân của Thánh Thần, Đấng bảo bọc và kiện cường chúng ta khi mọi chuyện hoá ra khốn đốn cùng cực. Chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho Đức Giêsu, qua việc sống trọn vẹn cuộc đời của mình, cũng như dấn thân theo những đường lối của Người. Nếu chúng ta trung tín tuân giữ những gì Thánh Thần chỉ bảo chúng ta, khi chúng ta làm việc, cư xử với gia đình, khi chúng ta đến trường, khi chúng ta hoạt động chính trị,… thì chắc chắn sẽ có những đau khổ. Hay thậm chí tệ hại hơn nữa, chúng ta bị coi thường, bị khinh khi như những kẻ không thực tế, bị loại ra như những kẻ mơ mộng hão huyền. Chúng ta cần được đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần – và sự chờ đợi sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Thomas Troeger, một mục sư và nhà giảng thuyết thuộc phái Trưởng Lão, trong một bài giảng lễ Thăng Thiên, [năm 1982], đã mô tả lại tâm trạng hoang mang của các môn đệ và hội thánh sơ khai, trong khi mong chờ ngày hoàn tất Triều Đại của Thiên Chúa. Ông nói, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hiểu được hoang mang nghĩa là thế nào. Sau khi đã trao gửi cuộc đời mình cho Đức Giêsu Kitô, những gì chúng ta nghiệm thấy không phải là sự chiến thắng, nhưng là một sự pha trộn giữa chiến thắng và thất bại. Đã có gì thực sự thay đổi chưa? Niềm tin mà chúng ta có, đã giúp tạo ra điều chi khác biệt chưa? Ông thắc mắc tự hỏi, “Khi nào mọi thứ mới hoà hợp thống nhất với nhau một cách bền lâu?” Tiếp đến, vị mục sư Troeger trích dẫn những dòng thơ của Yeats để mô tả thế giới của chúng ta rằng:
Mọi thứ sụp đổ tan tành;
cây cột chính không chống đỡ nổi;
Sự hỗn loạn lan tràn cõi đất,
Cơn thuỷ triều hắc huyết tràn dâng lên, và mọi nơi…
Mọi thứ tinh tuyền, tốt đẹp bị vùi lấp;
Điều tốt lành nhất thiếu thuyết phục,
trong khi thứ tệ hại nhất lại lên ngôi.
(Trích thi phẩm Đến Lần Thứ Hai của William Butler Yeats)
Chúng ta hóa ra mệt mỏi vì chờ đợi. Cùng với Yeats, chúng ta nói lên niềm khát mong của mình, “Chắc chắn có điều gì đó sắp được tỏ ra; không nghi ngờ gì nữa Ngày Quang Lâm đã gần kề”. Đó là lời than van, một lời cầu xin khẩn thiết và phó thác. Chúng ta cần được giúp đỡ, một sự giúp đỡ trợ lực, mà tự sức mình, chúng ta không tài nào có được hay chiếm lĩnh được. Mục sư Troeger mời gọi chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa, điều mà hội thánh sơ khai đã nghe được, giữa cơn khốn quẫn và chờ mong của mình. “Chúa Cha đã hoạch định thời cuộc, vận số ra sao; điều đó bạn không cần quan tâm, bạn không cần biết”… Thật khó để chấp nhận những lời này, khi mà nhan nhản quanh chúng ta, những thứ mà chúng ta tai nghe mắt thấy hằng ngày trên kênh tin tức mỗi tối: hình ảnh và tiếng ồn ã của nhiều ngàn người tị nạn Syria, cảnh các cô gái bị bắt cóc ở Nigeria, xác chết của một vụ xả súng giết người hàng loạt khác ở trường cao đẳng Santa Barbara, cùng với những cảnh nghèo đói dai dẳng ngay giữa một đất nước phồn vinh như nước Mỹ. Mục sư Troeger nhắc nhớ chúng ta, về những gì chúng ta đang có, đó là niềm tin tưởng rằng, Đức Giêsu hằng hiển trị, và Người sẽ sai Thánh Thần đến, giúp chúng ta sống như chúng ta được đòi hỏi. Chúng ta không thể cưỡng bách, hay thúc ép Thánh Thần được, vì đó là một ân huệ vẫn hằng tuôn đổ trên chúng ta. Nhưng dầu vậy, đó vẫn là một hồng ân đòi hỏi nơi chúng ta sự kiên nhẫn chờ đợi.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
The Ascension of the Lord (A)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23; Matthew 28: 16-20
The Acts of the Apostles starts with an injunction by the risen Christ to wait. I wonder if the activists in that early community weren’t frustrated by his directive. You can see that they were ready to get on with things – and they would have gotten it all wrong. It’s their question that reveals their mis-direction, "Lord are you at this time going to restore the kingdom of Israel?" Of course, they mean a purely external, politically and militarily dominant kingdom of Israel. No, Jesus tells them, they have to wait for the baptism with the Holy Spirit, then they will know how and where to be Jesus’ witnesses.
He wants them to break free of their limited view, their biases and tendency to misinterpret the meaning of his life. What he also wants is that they witness to him far beyond the boundaries of Israel. They will, he says, have to be, "my witnessers in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth." For all this they will need help, so they must acknowledge their dependence on God and wait for God’s pleasure to pour that help out on them.
We are not good at waiting. We tire out if we do not get quick results. Waiting on lines, for lights, for our children to come home from the dance, with our aging parents at the doctor’s office, for the war to end in Syria. Waiting is not what we do well. Why is waiting so frustrating? Because it means someone else or some other power is in charge, not us. And being out of control and subject to other forces reminds us of our finiteness, and vulnerability.
Jesus tells the disciples to "wait for the promise of the Father." They cannot go off spreading the news of his resurrection on their own. They are a small, fearful community that has no power on its own and, as the Gospels showed, they have a tendency to get Jesus’ message all wrong. What’ s more, they flee when things get tough. Relying on themselves they will be misguided, perhaps engage in ways that are not of Jesus. Haven’t we made some pretty big mistakes in our history about his message and ways? In our history are the tales of promoting our religion by forced baptisms and by trampling over the dignity and cultures of whole civilizations. In addition, like the original disciples, we have been cowardly when courage was required.
So the disciples and we must "hold our horses," restrain ourselves and wait for God’ promise to be fulfilled. What’s more, the fulfillment will come at God’s timing, not our own. We are action-oriented aren’t we? We have our projects and plans, we want to get on with things. Even when our plans and intentions are noble and serve a good purpose, how does God figure into them? Do we know? Have we asked? Do we wait for an answer, some direction? Maybe we have to "hurry up and wait." "Don’t just do something, stand there!" Waiting on the Spirit is a reversal of our usual mode of operating.
Even as Christ talks to the disciples about their mission to the "ends of the earth," Luke is making sure that we do not forget what had happened in Jerusalem. We recall the Emmaus story (Luke 24: 13-35, Third Sunday of Easter) and the failed and frustrated hopes of the disciples on the road. "We had hoped," they tell the Stranger. What they had hoped for was their version of triumph and success for Jesus – and themselves. But Jesus had to remind them, by interpreting the scriptures "beginning with Moses and all the prophets," that suffering was to be part of his life and mission. Here in today’s section of Acts, Luke reminds us again of that link between Jesus’ mission and suffering when he says that Christ "presented himself alive to them by many proofs AFTER he had suffered." Jesus, and now the disciples, cannot escape the suffering that comes with fidelity to the message. Even in the presence of the risen Lord they are not far from the reality of suffering . So, for the disciples who will have to live out and proclaim the Good News, suffering will be the price they and we pay for our belief and for the mission.
We need to wait for the gift of the Spirit who sustains us when the going gets rough. We will be witnesses to Jesus by the integrity of our lives and the commitment to his ways. If we are faithful to what his Spirit teaches us at work, and with our families, in school, in the political arena, etc., there will be suffering. Or maybe worse, we will just be ignored, discounted as unrealistic and dismissed as impossible idealists. We will need the gift of the Spirit – the wait is worth it.
Thomas Troeger, the Presbyterian preacher and homiletician, in a sermon preached on Ascension Day, recalls the frustration of the disciples and the early church in their waiting and longing for the fulfillment of the reign of God. He says we too know that frustration. After having given our lives over to Jesus Christ, we experience not triumph, but a mixture of triumph and defeat. Has anything really changed? What difference does our faith make? "When will things come together in some whole and enduring pattern?" he wonders. And then Troeger quotes Yeats’ lines to describe our world:
"Things fall apart; the center cannot hold;
Mere anarchy is loosed upon the world,
the blood dimmed tide is loosed, and everywhere
the ceremony of innocence is drowned;
the best lack all conviction, while the worst
are full of passionate intensity."
(from, "The Second Coming")
We are wearied by our waiting. With Yeats we voice our longing, "Surely some revelation is at hand; Surely the Second Coming is at hand." It’s a lament, a prayer of need and dependence. We need help that we cannot provide for ourselves. Troeger invites us to hear again what the early church heard in its anguish and yearning, "It is not for you to know the times or seasons that the Father has established by [God’s] own authority." How difficult it is for us to hear these words surrounded, as we are, by the kind of events we see and hear on the evening news: pictures and sounds of tens of thousands of Syrian refugees, pictures of abducted girls in Nigeria, the remains of another mass shooting in Santa Barbara and the scenes of poverty that persist in our prosperous nation. What we have, Troeger reminds us, is the belief that Christ reigns and will send the Holy Spirit to help us live as we must. We cannot force the hand of this Spirit, it is a gift constantly coming upon us. And one that still requires waiting.
Kiên nhẩn chờ đợi ơn Thánh Thẩn
Lm Jude Siciliano OP
06:22 31/05/2014
Chúa Nhật CHÚA THĂNG THIÊN (A)
Công vụ 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêxô 1: 17-23; Mátthêu 28: 16-20
KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI ƠN THÁNH THẦN
Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu với một lệnh truyền của Đức Kitô phục sinh, bảo phải chờ đợi. Tôi thắc mắc tự hỏi, trước một lệnh truyền như thế của Chúa, thì trong cộng đoàn sơ khởi khi ấy liệu những người đang nóng lòng muốn làm một cái gì đó có cảm thấy thất vọng hay không. Như bạn thấy đó, họ háo hức muốn bắt tay thay đổi mọi chuyện – và rõ là họ hoàn toàn sai lầm trong nhận định. Chính câu hỏi họ đặt ra, cho thấy họ đang lạc hướng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Dĩ nhiên, họ chỉ có ý nói tới một vương quốc Israel hùng mạnh hiểu theo nghĩa trần tục, chính trị và quân sự. Đức Giêsu cho họ biết, không phải như thế, và họ phải chờ đợi phép rửa của Thánh Thần, rồi khi ấy họ mới hiểu được làm chứng cho Đức Giêsu nghĩa là thế nào, và biết được họ phải làm chứng ở đâu.
Đức Giêsu muốn họ thoát ra khỏi lối nhìn hạn hẹp, những thành kiến, những lệch lạc khi nhận định về ý nghĩa, và mục đích cuộc đời của Người. Người cũng muốn họ đi xa hơn, ra khỏi biên cương của Israel để làm chứng cho Người. Người nói họ sẽ là những chứng nhân của Người: “Trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Để thực hiện được tất cả những điều này, họ cần phải được trợ lực, bởi vậy, họ đã ý thức là mình phải biết cậy dựa vào Thiên Chúa, và chờ đợi niềm vui của Thiên Chúa đổ tràn, niềm vui đó chính là sức mạnh trợ giúp họ.
Chúng ta không mấy kiên trì trong việc chờ đợi. Nếu chờ đợi mà không có kết quả ngay thì ta dễ mệt mỏi. Nào là xếp hàng chờ đến phiên, chờ đèn đường, chờ đám trẻ đi chơi về, đưa cha mẹ già đến phòng mạch và chờ khám bệnh, chờ mong chiến tranh Syria chấm dứt. Thú thực, chúng ta không kiên nhẫn trong chờ đợi. Tại sao chờ đợi lại mệt mỏi như thế? Bởi vì, chờ đợi nghĩa là, ai đó hoặc một quyền lực nào đó nắm quyền chủ động chứ không phải chúng ta. Chuyện mất quyền kiểm soát và trở thành đối tượng để cho những sức mạnh khác điều khiển nhắc nhớ chúng ta về sự hữu hạn và mỏng manh của mình.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải “chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa”. Họ không thể tự ý mình, ra đi loan báo về cuộc phục sinh của Người. Họ là một nhóm người nhỏ bé, nhát đảm đến độ chẳng đủ sức để tự lập, tự quyết được, và như các sách Tin Mừng cho thấy, họ dễ sai lệch, hiểu sai hoàn toàn sứ điệp của Đức Giêsu. Và hơn thế nữa, họ còn tháo chạy khi cơn khốn khó xảy đến. Cậy dựa vào sức riêng mình, họ sẽ hoá ra lầm lạc, và có thể sa đà, thoả hiệp chấp nhận những cách thế không phải của Đức Giêsu. Trong quá khứ, chẳng phải chúng ta đã từng phạm phải những sai lỗi khá là nặng nề khi quan niệm, nhìn nhận về sứ điệp và những cách thế của Người hay sao? Trong quá khứ, đã khối lần chúng ta khuếch trương tôn giáo của mình bằng rửa tội cưỡng bức, và chà đạp phẩm giá, cũng như coi thường văn hoá của những nền văn minh. Ngoài ra, giống như các môn đệ thuở ban đầu, những lúc phải thể hiện can đảm thì chúng ta lại tỏ ra hèn nhát.
Giống như các môn đệ, chúng ta cũng phải biết “dừng lại”, kiềm chế và chờ đợi điều Thiên Chúa hứa được thực hiện. Hơn nữa, mọi chuyện sẽ được thực hiện vào đúng kỳ hạn theo như sự hoạch định của Thiên Chúa, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta lúc nào cũng chỉ sốt ruột để hành động, có đúng thế không? Chúng ta có những dự tính, kế hoạch của riêng mình, và chúng ta muốn mọi chuyện được xúc tiến. Ngay cả khi những kế hoạch và ý định của chúng ta tốt đẹp, hướng tới một mục tiêu tốt lành, thì những kế hoạch và ý định ấy nằm ở đâu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Liệu chúng ta có biết điều này không? Đã bao giờ chúng ta thắc mắc tìm hiểu chưa? Đã bao giờ chúng ta lắng nghe để được hướng dẫn? Có lẽ chúng ta cần học biết, chẳng những là mau mắn thực thi các công việc, mà còn phải học biết chờ đợi nữa. Không chỉ biết cắm cúi làm việc, nhưng còn phải biết cách ở yên! Chờ đợi Thánh Thần là một đảo phách trong nhịp hoạt động bình thường của chúng ta.
Ngay cả khi Đức Kitô nói với các môn đệ về sứ mệnh được mở rộng “đến tận cùng trái đất” của họ, thánh Luca cũng không muốn chúng ta bỏ quên những chuyện xảy ra ở Giêrusalem. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện trên đường Emmau (Lc 24,13-35, Chúa Nhật III Phục Sinh) cùng với sự thất vọng, ngã lòng của các môn đệ trong cuộc. “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng…”, hai môn đệ nói với Người Khách Lạ như vậy. Hy vọng của họ, chắc chắn được đóng khung bởi cách họ quan niệm về sự chiến thắng, sự thành công của Đức Giêsu, cũng như cách họ nhìn nhận về bản thân nữa. Nhưng qua việc giải thích Sách Thánh cho họ “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ”, Đức Giêsu đã nhắc cho họ nhớ rằng, đau khổ là một phần trong sứ mệnh và đời sống của Người. Giờ đây, qua phần nội dung sách Công vụ Tông đồ được trích đọc hôm nay, thánh Luca cũng nhắc nhớ chúng ta một lần nữa, về mối liên hệ đó, mối liên hệ giữa sứ mệnh và những đau khổ của Đức Giêsu, khi tác giả thuật lại rằng, Đức Kitô đã “dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình”. Đức Giêsu, và giờ là các tông đồ, không thể nào tránh khỏi những đau khổ vốn gắn liền với lời rao giảng. Bởi thế, với các môn đệ, là những người sẽ sống và loan báo Tin Mừng, đau khổ là cái giá mà họ và cả chúng ta nữa phải trả cho niềm tin và sứ mệnh của mình.
Chúng ta cần phải chờ đợi để đón nhận được hồng ân của Thánh Thần, Đấng bảo bọc và kiện cường chúng ta khi mọi chuyện hoá ra khốn đốn cùng cực. Chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho Đức Giêsu, qua việc sống trọn vẹn cuộc đời của mình, cũng như dấn thân theo những đường lối của Người. Nếu chúng ta trung tín tuân giữ những gì Thánh Thần chỉ bảo chúng ta, khi chúng ta làm việc, cư xử với gia đình, khi chúng ta đến trường, khi chúng ta hoạt động chính trị,… thì chắc chắn sẽ có những đau khổ. Hay thậm chí tệ hại hơn nữa, chúng ta bị coi thường, bị khinh khi như những kẻ không thực tế, bị loại ra như những kẻ mơ mộng hão huyền. Chúng ta cần được đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần – và sự chờ đợi sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Thomas Troeger, một mục sư và nhà giảng thuyết thuộc phái Trưởng Lão, trong một bài giảng lễ Thăng Thiên, [năm 1982], đã mô tả lại tâm trạng hoang mang của các môn đệ và hội thánh sơ khai, trong khi mong chờ ngày hoàn tất Triều Đại của Thiên Chúa. Ông nói, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hiểu được hoang mang nghĩa là thế nào. Sau khi đã trao gửi cuộc đời mình cho Đức Giêsu Kitô, những gì chúng ta nghiệm thấy không phải là sự chiến thắng, nhưng là một sự pha trộn giữa chiến thắng và thất bại. Đã có gì thực sự thay đổi chưa? Niềm tin mà chúng ta có, đã giúp tạo ra điều chi khác biệt chưa? Ông thắc mắc tự hỏi, “Khi nào mọi thứ mới hoà hợp thống nhất với nhau một cách bền lâu?” Tiếp đến, vị mục sư Troeger trích dẫn những dòng thơ của Yeats để mô tả thế giới của chúng ta rằng:
Mọi thứ sụp đổ tan tành;
cây cột chính không chống đỡ nổi;
Sự hỗn loạn lan tràn cõi đất,
Cơn thuỷ triều hắc huyết tràn dâng lên, và mọi nơi…
Mọi thứ tinh tuyền, tốt đẹp bị vùi lấp;
Điều tốt lành nhất thiếu thuyết phục,
trong khi thứ tệ hại nhất lại lên ngôi.
(Trích thi phẩm Đến Lần Thứ Hai của William Butler Yeats)
Chúng ta hóa ra mệt mỏi vì chờ đợi. Cùng với Yeats, chúng ta nói lên niềm khát mong của mình, “Chắc chắn có điều gì đó sắp được tỏ ra; không nghi ngờ gì nữa Ngày Quang Lâm đã gần kề”. Đó là lời than van, một lời cầu xin khẩn thiết và phó thác. Chúng ta cần được giúp đỡ, một sự giúp đỡ trợ lực, mà tự sức mình, chúng ta không tài nào có được hay chiếm lĩnh được. Mục sư Troeger mời gọi chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa, điều mà hội thánh sơ khai đã nghe được, giữa cơn khốn quẫn và chờ mong của mình. “Chúa Cha đã hoạch định thời cuộc, vận số ra sao; điều đó bạn không cần quan tâm, bạn không cần biết”… Thật khó để chấp nhận những lời này, khi mà nhan nhản quanh chúng ta, những thứ mà chúng ta tai nghe mắt thấy hằng ngày trên kênh tin tức mỗi tối: hình ảnh và tiếng ồn ã của nhiều ngàn người tị nạn Syria, cảnh các cô gái bị bắt cóc ở Nigeria, xác chết của một vụ xả súng giết người hàng loạt khác ở trường cao đẳng Santa Barbara, cùng với những cảnh nghèo đói dai dẳng ngay giữa một đất nước phồn vinh như nước Mỹ. Mục sư Troeger nhắc nhớ chúng ta, về những gì chúng ta đang có, đó là niềm tin tưởng rằng, Đức Giêsu hằng hiển trị, và Người sẽ sai Thánh Thần đến, giúp chúng ta sống như chúng ta được đòi hỏi. Chúng ta không thể cưỡng bách, hay thúc ép Thánh Thần được, vì đó là một ân huệ vẫn hằng tuôn đổ trên chúng ta. Nhưng dầu vậy, đó vẫn là một hồng ân đòi hỏi nơi chúng ta sự kiên nhẫn chờ đợi.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
The Ascension of the Lord (A)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23; Matthew 28: 16-20
The Acts of the Apostles starts with an injunction by the risen Christ to wait. I wonder if the activists in that early community weren’t frustrated by his directive. You can see that they were ready to get on with things – and they would have gotten it all wrong. It’s their question that reveals their mis-direction, "Lord are you at this time going to restore the kingdom of Israel?" Of course, they mean a purely external, politically and militarily dominant kingdom of Israel. No, Jesus tells them, they have to wait for the baptism with the Holy Spirit, then they will know how and where to be Jesus’ witnesses.
He wants them to break free of their limited view, their biases and tendency to misinterpret the meaning of his life. What he also wants is that they witness to him far beyond the boundaries of Israel. They will, he says, have to be, "my witnessers in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth." For all this they will need help, so they must acknowledge their dependence on God and wait for God’s pleasure to pour that help out on them.
We are not good at waiting. We tire out if we do not get quick results. Waiting on lines, for lights, for our children to come home from the dance, with our aging parents at the doctor’s office, for the war to end in Syria. Waiting is not what we do well. Why is waiting so frustrating? Because it means someone else or some other power is in charge, not us. And being out of control and subject to other forces reminds us of our finiteness, and vulnerability.
Jesus tells the disciples to "wait for the promise of the Father." They cannot go off spreading the news of his resurrection on their own. They are a small, fearful community that has no power on its own and, as the Gospels showed, they have a tendency to get Jesus’ message all wrong. What’ s more, they flee when things get tough. Relying on themselves they will be misguided, perhaps engage in ways that are not of Jesus. Haven’t we made some pretty big mistakes in our history about his message and ways? In our history are the tales of promoting our religion by forced baptisms and by trampling over the dignity and cultures of whole civilizations. In addition, like the original disciples, we have been cowardly when courage was required.
So the disciples and we must "hold our horses," restrain ourselves and wait for God’ promise to be fulfilled. What’s more, the fulfillment will come at God’s timing, not our own. We are action-oriented aren’t we? We have our projects and plans, we want to get on with things. Even when our plans and intentions are noble and serve a good purpose, how does God figure into them? Do we know? Have we asked? Do we wait for an answer, some direction? Maybe we have to "hurry up and wait." "Don’t just do something, stand there!" Waiting on the Spirit is a reversal of our usual mode of operating.
Even as Christ talks to the disciples about their mission to the "ends of the earth," Luke is making sure that we do not forget what had happened in Jerusalem. We recall the Emmaus story (Luke 24: 13-35, Third Sunday of Easter) and the failed and frustrated hopes of the disciples on the road. "We had hoped," they tell the Stranger. What they had hoped for was their version of triumph and success for Jesus – and themselves. But Jesus had to remind them, by interpreting the scriptures "beginning with Moses and all the prophets," that suffering was to be part of his life and mission. Here in today’s section of Acts, Luke reminds us again of that link between Jesus’ mission and suffering when he says that Christ "presented himself alive to them by many proofs AFTER he had suffered." Jesus, and now the disciples, cannot escape the suffering that comes with fidelity to the message. Even in the presence of the risen Lord they are not far from the reality of suffering. So, for the disciples who will have to live out and proclaim the Good News, suffering will be the price they and we pay for our belief and for the mission.
We need to wait for the gift of the Spirit who sustains us when the going gets rough. We will be witnesses to Jesus by the integrity of our lives and the commitment to his ways. If we are faithful to what his Spirit teaches us at work, and with our families, in school, in the political arena, etc., there will be suffering. Or maybe worse, we will just be ignored, discounted as unrealistic and dismissed as impossible idealists. We will need the gift of the Spirit – the wait is worth it.
Thomas Troeger, the Presbyterian preacher and homiletician, in a sermon preached on Ascension Day, recalls the frustration of the disciples and the early church in their waiting and longing for the fulfillment of the reign of God. He says we too know that frustration. After having given our lives over to Jesus Christ, we experience not triumph, but a mixture of triumph and defeat. Has anything really changed? What difference does our faith make? "When will things come together in some whole and enduring pattern?" he wonders. And then Troeger quotes Yeats’ lines to describe our world:
"Things fall apart; the center cannot hold;
Mere anarchy is loosed upon the world,
the blood dimmed tide is loosed, and everywhere
the ceremony of innocence is drowned;
the best lack all conviction, while the worst
are full of passionate intensity."
(from, "The Second Coming")
We are wearied by our waiting. With Yeats we voice our longing, "Surely some revelation is at hand; Surely the Second Coming is at hand." It’s a lament, a prayer of need and dependence. We need help that we cannot provide for ourselves. Troeger invites us to hear again what the early church heard in its anguish and yearning, "It is not for you to know the times or seasons that the Father has established by [God’s] own authority." How difficult it is for us to hear these words surrounded, as we are, by the kind of events we see and hear on the evening news: pictures and sounds of tens of thousands of Syrian refugees, pictures of abducted girls in Nigeria, the remains of another mass shooting in Santa Barbara and the scenes of poverty that persist in our prosperous nation. What we have, Troeger reminds us, is the belief that Christ reigns and will send the Holy Spirit to help us live as we must. We cannot force the hand of this Spirit, it is a gift constantly coming upon us. And one that still requires waiting.
Công vụ 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêxô 1: 17-23; Mátthêu 28: 16-20
KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI ƠN THÁNH THẦN
Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu với một lệnh truyền của Đức Kitô phục sinh, bảo phải chờ đợi. Tôi thắc mắc tự hỏi, trước một lệnh truyền như thế của Chúa, thì trong cộng đoàn sơ khởi khi ấy liệu những người đang nóng lòng muốn làm một cái gì đó có cảm thấy thất vọng hay không. Như bạn thấy đó, họ háo hức muốn bắt tay thay đổi mọi chuyện – và rõ là họ hoàn toàn sai lầm trong nhận định. Chính câu hỏi họ đặt ra, cho thấy họ đang lạc hướng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Dĩ nhiên, họ chỉ có ý nói tới một vương quốc Israel hùng mạnh hiểu theo nghĩa trần tục, chính trị và quân sự. Đức Giêsu cho họ biết, không phải như thế, và họ phải chờ đợi phép rửa của Thánh Thần, rồi khi ấy họ mới hiểu được làm chứng cho Đức Giêsu nghĩa là thế nào, và biết được họ phải làm chứng ở đâu.
Đức Giêsu muốn họ thoát ra khỏi lối nhìn hạn hẹp, những thành kiến, những lệch lạc khi nhận định về ý nghĩa, và mục đích cuộc đời của Người. Người cũng muốn họ đi xa hơn, ra khỏi biên cương của Israel để làm chứng cho Người. Người nói họ sẽ là những chứng nhân của Người: “Trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Để thực hiện được tất cả những điều này, họ cần phải được trợ lực, bởi vậy, họ đã ý thức là mình phải biết cậy dựa vào Thiên Chúa, và chờ đợi niềm vui của Thiên Chúa đổ tràn, niềm vui đó chính là sức mạnh trợ giúp họ.
Chúng ta không mấy kiên trì trong việc chờ đợi. Nếu chờ đợi mà không có kết quả ngay thì ta dễ mệt mỏi. Nào là xếp hàng chờ đến phiên, chờ đèn đường, chờ đám trẻ đi chơi về, đưa cha mẹ già đến phòng mạch và chờ khám bệnh, chờ mong chiến tranh Syria chấm dứt. Thú thực, chúng ta không kiên nhẫn trong chờ đợi. Tại sao chờ đợi lại mệt mỏi như thế? Bởi vì, chờ đợi nghĩa là, ai đó hoặc một quyền lực nào đó nắm quyền chủ động chứ không phải chúng ta. Chuyện mất quyền kiểm soát và trở thành đối tượng để cho những sức mạnh khác điều khiển nhắc nhớ chúng ta về sự hữu hạn và mỏng manh của mình.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải “chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa”. Họ không thể tự ý mình, ra đi loan báo về cuộc phục sinh của Người. Họ là một nhóm người nhỏ bé, nhát đảm đến độ chẳng đủ sức để tự lập, tự quyết được, và như các sách Tin Mừng cho thấy, họ dễ sai lệch, hiểu sai hoàn toàn sứ điệp của Đức Giêsu. Và hơn thế nữa, họ còn tháo chạy khi cơn khốn khó xảy đến. Cậy dựa vào sức riêng mình, họ sẽ hoá ra lầm lạc, và có thể sa đà, thoả hiệp chấp nhận những cách thế không phải của Đức Giêsu. Trong quá khứ, chẳng phải chúng ta đã từng phạm phải những sai lỗi khá là nặng nề khi quan niệm, nhìn nhận về sứ điệp và những cách thế của Người hay sao? Trong quá khứ, đã khối lần chúng ta khuếch trương tôn giáo của mình bằng rửa tội cưỡng bức, và chà đạp phẩm giá, cũng như coi thường văn hoá của những nền văn minh. Ngoài ra, giống như các môn đệ thuở ban đầu, những lúc phải thể hiện can đảm thì chúng ta lại tỏ ra hèn nhát.
Giống như các môn đệ, chúng ta cũng phải biết “dừng lại”, kiềm chế và chờ đợi điều Thiên Chúa hứa được thực hiện. Hơn nữa, mọi chuyện sẽ được thực hiện vào đúng kỳ hạn theo như sự hoạch định của Thiên Chúa, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta lúc nào cũng chỉ sốt ruột để hành động, có đúng thế không? Chúng ta có những dự tính, kế hoạch của riêng mình, và chúng ta muốn mọi chuyện được xúc tiến. Ngay cả khi những kế hoạch và ý định của chúng ta tốt đẹp, hướng tới một mục tiêu tốt lành, thì những kế hoạch và ý định ấy nằm ở đâu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Liệu chúng ta có biết điều này không? Đã bao giờ chúng ta thắc mắc tìm hiểu chưa? Đã bao giờ chúng ta lắng nghe để được hướng dẫn? Có lẽ chúng ta cần học biết, chẳng những là mau mắn thực thi các công việc, mà còn phải học biết chờ đợi nữa. Không chỉ biết cắm cúi làm việc, nhưng còn phải biết cách ở yên! Chờ đợi Thánh Thần là một đảo phách trong nhịp hoạt động bình thường của chúng ta.
Ngay cả khi Đức Kitô nói với các môn đệ về sứ mệnh được mở rộng “đến tận cùng trái đất” của họ, thánh Luca cũng không muốn chúng ta bỏ quên những chuyện xảy ra ở Giêrusalem. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện trên đường Emmau (Lc 24,13-35, Chúa Nhật III Phục Sinh) cùng với sự thất vọng, ngã lòng của các môn đệ trong cuộc. “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng…”, hai môn đệ nói với Người Khách Lạ như vậy. Hy vọng của họ, chắc chắn được đóng khung bởi cách họ quan niệm về sự chiến thắng, sự thành công của Đức Giêsu, cũng như cách họ nhìn nhận về bản thân nữa. Nhưng qua việc giải thích Sách Thánh cho họ “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ”, Đức Giêsu đã nhắc cho họ nhớ rằng, đau khổ là một phần trong sứ mệnh và đời sống của Người. Giờ đây, qua phần nội dung sách Công vụ Tông đồ được trích đọc hôm nay, thánh Luca cũng nhắc nhớ chúng ta một lần nữa, về mối liên hệ đó, mối liên hệ giữa sứ mệnh và những đau khổ của Đức Giêsu, khi tác giả thuật lại rằng, Đức Kitô đã “dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình”. Đức Giêsu, và giờ là các tông đồ, không thể nào tránh khỏi những đau khổ vốn gắn liền với lời rao giảng. Bởi thế, với các môn đệ, là những người sẽ sống và loan báo Tin Mừng, đau khổ là cái giá mà họ và cả chúng ta nữa phải trả cho niềm tin và sứ mệnh của mình.
Chúng ta cần phải chờ đợi để đón nhận được hồng ân của Thánh Thần, Đấng bảo bọc và kiện cường chúng ta khi mọi chuyện hoá ra khốn đốn cùng cực. Chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho Đức Giêsu, qua việc sống trọn vẹn cuộc đời của mình, cũng như dấn thân theo những đường lối của Người. Nếu chúng ta trung tín tuân giữ những gì Thánh Thần chỉ bảo chúng ta, khi chúng ta làm việc, cư xử với gia đình, khi chúng ta đến trường, khi chúng ta hoạt động chính trị,… thì chắc chắn sẽ có những đau khổ. Hay thậm chí tệ hại hơn nữa, chúng ta bị coi thường, bị khinh khi như những kẻ không thực tế, bị loại ra như những kẻ mơ mộng hão huyền. Chúng ta cần được đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần – và sự chờ đợi sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Thomas Troeger, một mục sư và nhà giảng thuyết thuộc phái Trưởng Lão, trong một bài giảng lễ Thăng Thiên, [năm 1982], đã mô tả lại tâm trạng hoang mang của các môn đệ và hội thánh sơ khai, trong khi mong chờ ngày hoàn tất Triều Đại của Thiên Chúa. Ông nói, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hiểu được hoang mang nghĩa là thế nào. Sau khi đã trao gửi cuộc đời mình cho Đức Giêsu Kitô, những gì chúng ta nghiệm thấy không phải là sự chiến thắng, nhưng là một sự pha trộn giữa chiến thắng và thất bại. Đã có gì thực sự thay đổi chưa? Niềm tin mà chúng ta có, đã giúp tạo ra điều chi khác biệt chưa? Ông thắc mắc tự hỏi, “Khi nào mọi thứ mới hoà hợp thống nhất với nhau một cách bền lâu?” Tiếp đến, vị mục sư Troeger trích dẫn những dòng thơ của Yeats để mô tả thế giới của chúng ta rằng:
Mọi thứ sụp đổ tan tành;
cây cột chính không chống đỡ nổi;
Sự hỗn loạn lan tràn cõi đất,
Cơn thuỷ triều hắc huyết tràn dâng lên, và mọi nơi…
Mọi thứ tinh tuyền, tốt đẹp bị vùi lấp;
Điều tốt lành nhất thiếu thuyết phục,
trong khi thứ tệ hại nhất lại lên ngôi.
(Trích thi phẩm Đến Lần Thứ Hai của William Butler Yeats)
Chúng ta hóa ra mệt mỏi vì chờ đợi. Cùng với Yeats, chúng ta nói lên niềm khát mong của mình, “Chắc chắn có điều gì đó sắp được tỏ ra; không nghi ngờ gì nữa Ngày Quang Lâm đã gần kề”. Đó là lời than van, một lời cầu xin khẩn thiết và phó thác. Chúng ta cần được giúp đỡ, một sự giúp đỡ trợ lực, mà tự sức mình, chúng ta không tài nào có được hay chiếm lĩnh được. Mục sư Troeger mời gọi chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa, điều mà hội thánh sơ khai đã nghe được, giữa cơn khốn quẫn và chờ mong của mình. “Chúa Cha đã hoạch định thời cuộc, vận số ra sao; điều đó bạn không cần quan tâm, bạn không cần biết”… Thật khó để chấp nhận những lời này, khi mà nhan nhản quanh chúng ta, những thứ mà chúng ta tai nghe mắt thấy hằng ngày trên kênh tin tức mỗi tối: hình ảnh và tiếng ồn ã của nhiều ngàn người tị nạn Syria, cảnh các cô gái bị bắt cóc ở Nigeria, xác chết của một vụ xả súng giết người hàng loạt khác ở trường cao đẳng Santa Barbara, cùng với những cảnh nghèo đói dai dẳng ngay giữa một đất nước phồn vinh như nước Mỹ. Mục sư Troeger nhắc nhớ chúng ta, về những gì chúng ta đang có, đó là niềm tin tưởng rằng, Đức Giêsu hằng hiển trị, và Người sẽ sai Thánh Thần đến, giúp chúng ta sống như chúng ta được đòi hỏi. Chúng ta không thể cưỡng bách, hay thúc ép Thánh Thần được, vì đó là một ân huệ vẫn hằng tuôn đổ trên chúng ta. Nhưng dầu vậy, đó vẫn là một hồng ân đòi hỏi nơi chúng ta sự kiên nhẫn chờ đợi.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
The Ascension of the Lord (A)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23; Matthew 28: 16-20
The Acts of the Apostles starts with an injunction by the risen Christ to wait. I wonder if the activists in that early community weren’t frustrated by his directive. You can see that they were ready to get on with things – and they would have gotten it all wrong. It’s their question that reveals their mis-direction, "Lord are you at this time going to restore the kingdom of Israel?" Of course, they mean a purely external, politically and militarily dominant kingdom of Israel. No, Jesus tells them, they have to wait for the baptism with the Holy Spirit, then they will know how and where to be Jesus’ witnesses.
He wants them to break free of their limited view, their biases and tendency to misinterpret the meaning of his life. What he also wants is that they witness to him far beyond the boundaries of Israel. They will, he says, have to be, "my witnessers in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth." For all this they will need help, so they must acknowledge their dependence on God and wait for God’s pleasure to pour that help out on them.
We are not good at waiting. We tire out if we do not get quick results. Waiting on lines, for lights, for our children to come home from the dance, with our aging parents at the doctor’s office, for the war to end in Syria. Waiting is not what we do well. Why is waiting so frustrating? Because it means someone else or some other power is in charge, not us. And being out of control and subject to other forces reminds us of our finiteness, and vulnerability.
Jesus tells the disciples to "wait for the promise of the Father." They cannot go off spreading the news of his resurrection on their own. They are a small, fearful community that has no power on its own and, as the Gospels showed, they have a tendency to get Jesus’ message all wrong. What’ s more, they flee when things get tough. Relying on themselves they will be misguided, perhaps engage in ways that are not of Jesus. Haven’t we made some pretty big mistakes in our history about his message and ways? In our history are the tales of promoting our religion by forced baptisms and by trampling over the dignity and cultures of whole civilizations. In addition, like the original disciples, we have been cowardly when courage was required.
So the disciples and we must "hold our horses," restrain ourselves and wait for God’ promise to be fulfilled. What’s more, the fulfillment will come at God’s timing, not our own. We are action-oriented aren’t we? We have our projects and plans, we want to get on with things. Even when our plans and intentions are noble and serve a good purpose, how does God figure into them? Do we know? Have we asked? Do we wait for an answer, some direction? Maybe we have to "hurry up and wait." "Don’t just do something, stand there!" Waiting on the Spirit is a reversal of our usual mode of operating.
Even as Christ talks to the disciples about their mission to the "ends of the earth," Luke is making sure that we do not forget what had happened in Jerusalem. We recall the Emmaus story (Luke 24: 13-35, Third Sunday of Easter) and the failed and frustrated hopes of the disciples on the road. "We had hoped," they tell the Stranger. What they had hoped for was their version of triumph and success for Jesus – and themselves. But Jesus had to remind them, by interpreting the scriptures "beginning with Moses and all the prophets," that suffering was to be part of his life and mission. Here in today’s section of Acts, Luke reminds us again of that link between Jesus’ mission and suffering when he says that Christ "presented himself alive to them by many proofs AFTER he had suffered." Jesus, and now the disciples, cannot escape the suffering that comes with fidelity to the message. Even in the presence of the risen Lord they are not far from the reality of suffering. So, for the disciples who will have to live out and proclaim the Good News, suffering will be the price they and we pay for our belief and for the mission.
We need to wait for the gift of the Spirit who sustains us when the going gets rough. We will be witnesses to Jesus by the integrity of our lives and the commitment to his ways. If we are faithful to what his Spirit teaches us at work, and with our families, in school, in the political arena, etc., there will be suffering. Or maybe worse, we will just be ignored, discounted as unrealistic and dismissed as impossible idealists. We will need the gift of the Spirit – the wait is worth it.
Thomas Troeger, the Presbyterian preacher and homiletician, in a sermon preached on Ascension Day, recalls the frustration of the disciples and the early church in their waiting and longing for the fulfillment of the reign of God. He says we too know that frustration. After having given our lives over to Jesus Christ, we experience not triumph, but a mixture of triumph and defeat. Has anything really changed? What difference does our faith make? "When will things come together in some whole and enduring pattern?" he wonders. And then Troeger quotes Yeats’ lines to describe our world:
"Things fall apart; the center cannot hold;
Mere anarchy is loosed upon the world,
the blood dimmed tide is loosed, and everywhere
the ceremony of innocence is drowned;
the best lack all conviction, while the worst
are full of passionate intensity."
(from, "The Second Coming")
We are wearied by our waiting. With Yeats we voice our longing, "Surely some revelation is at hand; Surely the Second Coming is at hand." It’s a lament, a prayer of need and dependence. We need help that we cannot provide for ourselves. Troeger invites us to hear again what the early church heard in its anguish and yearning, "It is not for you to know the times or seasons that the Father has established by [God’s] own authority." How difficult it is for us to hear these words surrounded, as we are, by the kind of events we see and hear on the evening news: pictures and sounds of tens of thousands of Syrian refugees, pictures of abducted girls in Nigeria, the remains of another mass shooting in Santa Barbara and the scenes of poverty that persist in our prosperous nation. What we have, Troeger reminds us, is the belief that Christ reigns and will send the Holy Spirit to help us live as we must. We cannot force the hand of this Spirit, it is a gift constantly coming upon us. And one that still requires waiting.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha nhắc nhở các Giám Mục phục vụ
LM. Trần Đức Anh OP
11:10 31/05/2014
VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các GM luôn cảnh giác canh chừng đối với bản thân và Dân Chúa trong tinh thần phục vụ.
Trong bài giảng thánh lễ truyền chức cho Đức tân GM Fabio Fabene, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, chiều ngày 30-5-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC nói đến nghĩa vụ của các GM, nối tiếp các thánh Tông Đồ trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và thánh hóa các tín hữu nhờ các bí tích đức tin.
Ngài đặc biệt nhắn nhủ tiến chức về nghĩa vụ chủ chăn: đừng bao giờ để sự háo danh và kiêu ngạo xảy đến trong tâm hồn: GM được chọn để phục vụ con người và phải luôn có thái độ phục vụ như Chúa Giêsu. Chức GM là danh xưng của một sự phục vụ, không phải là vinh dư, vì GM có nhiệm vụ phục vụ hơn là thống trị, như lời Chúa dạy: ”Ai là kẻ lớn nhất trong các con, thì hãy trở thành người bé nhỏ nhất, ai cai quản thì hãy trở thành như người phục vụ”.
ĐTC cũng giải thích rằng GM là người canh chừng chính mình và dân Chúa. Sự canh chừng này có nghĩa là canh thức, chú ý để bảo vệ bản thân khỏi bao nhiêu tội lỗi và những thái độ trần tục, và để bảo vệ dân Chúa khỏi những chó sói.. Canh chừng trên dân Chúa cũng có nghĩa là cầu nguyện, như Môisê đã làm xưa kia, giơ hai tay lên cao, chuyển cầu cho dân Chúa.
Tham dự thánh lễ truyền chức có hàng ngàn tín hữu, cùng với hàng chục HY, GM và hơn 100 LM đồng tế với ĐTC.
Đức tân GM Fabene sinh tại Roma cách đây 55 năm (1959) nhưng nhập tịch giáo phận Viterbo ở mạn bắc Roma, thụ phong linh mục năm 1984, và từng giữ chức chánh văn phòng tại Bộ giám Mục. Hồi đầu tháng 2 năm nay, cha được ĐTC bổ nhiệm làm Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới ngày 8-4 vừa qua, ngài nâng cha lên hàng GM.
Cho đến nay vị giữ chức vụ này thường không phải là GM, nhưng trong thư gửi đến ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, để thông báo việc nâng Đức Ông Fabio Fabene lên hàng GM, ĐTC Phanxicô giải thích rằng việc bổ nhiệm này muốn nêu đề cao chức năng của Thượng HĐGM như phương tiện góp phần vào cuộc đối thoại giữa người kế nhiệm thánh Phêrô và giám mục đoàn. (SD 31-5-2014)
Trong bài giảng thánh lễ truyền chức cho Đức tân GM Fabio Fabene, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, chiều ngày 30-5-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC nói đến nghĩa vụ của các GM, nối tiếp các thánh Tông Đồ trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và thánh hóa các tín hữu nhờ các bí tích đức tin.
Ngài đặc biệt nhắn nhủ tiến chức về nghĩa vụ chủ chăn: đừng bao giờ để sự háo danh và kiêu ngạo xảy đến trong tâm hồn: GM được chọn để phục vụ con người và phải luôn có thái độ phục vụ như Chúa Giêsu. Chức GM là danh xưng của một sự phục vụ, không phải là vinh dư, vì GM có nhiệm vụ phục vụ hơn là thống trị, như lời Chúa dạy: ”Ai là kẻ lớn nhất trong các con, thì hãy trở thành người bé nhỏ nhất, ai cai quản thì hãy trở thành như người phục vụ”.
ĐTC cũng giải thích rằng GM là người canh chừng chính mình và dân Chúa. Sự canh chừng này có nghĩa là canh thức, chú ý để bảo vệ bản thân khỏi bao nhiêu tội lỗi và những thái độ trần tục, và để bảo vệ dân Chúa khỏi những chó sói.. Canh chừng trên dân Chúa cũng có nghĩa là cầu nguyện, như Môisê đã làm xưa kia, giơ hai tay lên cao, chuyển cầu cho dân Chúa.
Tham dự thánh lễ truyền chức có hàng ngàn tín hữu, cùng với hàng chục HY, GM và hơn 100 LM đồng tế với ĐTC.
Đức tân GM Fabene sinh tại Roma cách đây 55 năm (1959) nhưng nhập tịch giáo phận Viterbo ở mạn bắc Roma, thụ phong linh mục năm 1984, và từng giữ chức chánh văn phòng tại Bộ giám Mục. Hồi đầu tháng 2 năm nay, cha được ĐTC bổ nhiệm làm Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới ngày 8-4 vừa qua, ngài nâng cha lên hàng GM.
Cho đến nay vị giữ chức vụ này thường không phải là GM, nhưng trong thư gửi đến ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, để thông báo việc nâng Đức Ông Fabio Fabene lên hàng GM, ĐTC Phanxicô giải thích rằng việc bổ nhiệm này muốn nêu đề cao chức năng của Thượng HĐGM như phương tiện góp phần vào cuộc đối thoại giữa người kế nhiệm thánh Phêrô và giám mục đoàn. (SD 31-5-2014)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Phúc Lâm bế mạc Tháng Hoa Đức Mẹ
Laurenso Hoàng Bá Qúy
11:03 31/05/2014
HỐ NAI - Chiều thứ Sáu 30/5/2014, trong tâm tình của những ngày cuối Tháng Hoa, tháng Đức Mẹ, Giáo xứ Phúc Lâm, hạt Hố Nai, Giáo phận Xuân Lộc long trọng tổ chức dâng hoa, rước kiệu Đức Mẹ và thánh lễ tạ ơn.
Hình ảnh
Được cha Giuse Ngô Quốc Thạnh, chánh xứ nhắc nhở trước, nên cộng đoàn hân hoan mỗi người một bông hoa tươi, hiệp cùng các em đội hoa dâng lên Đức Mẹ trong buổi giã hoa.
Đoàn rước do giới trẻ và thiếu nhi phụ trách, bắt đầu từ Đền Thánh Mẫu tọa lạc trong khuôn viên nhà thờ tiến vào thánh đường, trước tượng Đức Mẹ, cha xứ cùng mọi người cung kính dâng tiến hoa, tôn vinh, ngợi khen và cảm tạ kết thúc tháng hoa Đức Mẹ.
“Màu tươi thắm hương ngát tốt xinh
Hoa muôn sắc con dâng trước tòa
Còn thua kém tươi Mẹ Chúa Thiên đình…”
Âm vang lời ca tôn vinh Mẹ Maria, các em thiếu nhi không chỉ dâng lên Đức Mẹ những đóa hoa tươi thắm mà còn thay mặt cộng đoàn dâng lên Đức Mẹ những đóa hoa lòng được thể hiện qua những lời ca tiếng hát, những điệu vũ uyển chuyển phát xuất từ tấm lòng đơn sơ, trong trắng, hồn nhiên của các em.
Là người mục tử chăn dắt đoàn chiên, cha xứ khấn nguyện dâng lên Mẹ quê hương đất nước được thanh bình thịnh vượng, hợp cùng những bông hoa tươi thắm, xin dâng lên Mẹ cuộc đời của mỗi người và cả xứ đạo, xin Mẹ nâng đỡ chở che.
Buổi giã hoa khép lại, cộng đoàn sốt sắng tham dự thánh lễ tạ ơn.
Trước khi kết thúc thánh lễ, cha xứ thay lời cộng đoàn cảm ơn các em đội hoa, quý vị ban trương, các bậc phụ huynh và hết mọi người cộng tác lo liệu tổ chức Tháng Hoa Đức Mẹ được tốt đẹp.
Lạy Mẹ Maria, tháng hoa đến và tháng hoa đi, nhưng Mẹ ngàn hoa vẫn luôn thắm tươi tình mến và sắt son Tình Mẫu Tử. Xin Mẹ tiếp tục chở che nâng đỡ, để gia đình, giáo họ, giáo xứ chúng con trở thành cộng đoàn sống chứng tá đức tin, cộng đoàn đạo đức, yêu thương, hiệp nhất chan hòa ánh sáng Chúa Kito phục sinh.
Hình ảnh
Được cha Giuse Ngô Quốc Thạnh, chánh xứ nhắc nhở trước, nên cộng đoàn hân hoan mỗi người một bông hoa tươi, hiệp cùng các em đội hoa dâng lên Đức Mẹ trong buổi giã hoa.
Đoàn rước do giới trẻ và thiếu nhi phụ trách, bắt đầu từ Đền Thánh Mẫu tọa lạc trong khuôn viên nhà thờ tiến vào thánh đường, trước tượng Đức Mẹ, cha xứ cùng mọi người cung kính dâng tiến hoa, tôn vinh, ngợi khen và cảm tạ kết thúc tháng hoa Đức Mẹ.
“Màu tươi thắm hương ngát tốt xinh
Hoa muôn sắc con dâng trước tòa
Còn thua kém tươi Mẹ Chúa Thiên đình…”
Âm vang lời ca tôn vinh Mẹ Maria, các em thiếu nhi không chỉ dâng lên Đức Mẹ những đóa hoa tươi thắm mà còn thay mặt cộng đoàn dâng lên Đức Mẹ những đóa hoa lòng được thể hiện qua những lời ca tiếng hát, những điệu vũ uyển chuyển phát xuất từ tấm lòng đơn sơ, trong trắng, hồn nhiên của các em.
Là người mục tử chăn dắt đoàn chiên, cha xứ khấn nguyện dâng lên Mẹ quê hương đất nước được thanh bình thịnh vượng, hợp cùng những bông hoa tươi thắm, xin dâng lên Mẹ cuộc đời của mỗi người và cả xứ đạo, xin Mẹ nâng đỡ chở che.
Buổi giã hoa khép lại, cộng đoàn sốt sắng tham dự thánh lễ tạ ơn.
Trước khi kết thúc thánh lễ, cha xứ thay lời cộng đoàn cảm ơn các em đội hoa, quý vị ban trương, các bậc phụ huynh và hết mọi người cộng tác lo liệu tổ chức Tháng Hoa Đức Mẹ được tốt đẹp.
Lạy Mẹ Maria, tháng hoa đến và tháng hoa đi, nhưng Mẹ ngàn hoa vẫn luôn thắm tươi tình mến và sắt son Tình Mẫu Tử. Xin Mẹ tiếp tục chở che nâng đỡ, để gia đình, giáo họ, giáo xứ chúng con trở thành cộng đoàn sống chứng tá đức tin, cộng đoàn đạo đức, yêu thương, hiệp nhất chan hòa ánh sáng Chúa Kito phục sinh.
Đại Hội Đức Mẹ Trà Kiệu 2014
Toma Trương Văn Ân
16:55 31/05/2014
Như những ngày cuối tháng 5 nhiều năm trước, gia đình Tôi hành hương về Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu (TTTM TK) vào sáng 31.5.2014 trong niềm vui hạnh phúc được về với Mẹ, đến với anh em bà con bạn bè thân quen, như bao gia đình trong ngoài Giáo phận Đà Nẵng.
Hình ảnh
Cái nắng nóng khô khốc như thiêu đốt vẫn không làm chùng bước các gia đình, với những bước chân hối hả về với Mẹ để yêu mến Mẹ, vâng lời Mẹ, học gương nhân đức và đời sồng vâng nghe Lời Chúa như Mẹ qua Tin Mừng và hướng dẫn của Giáo Hội. Trong năm 2014 này, Giáo Hội đã chọn làm Năm Thánh Hóa Đời Sống Gia Đình.
Thánh lễ khai mạc Đại hội Đức Mẹ Trà Kiệu năm nay từ lúc 17 giờ ngày 30.5.2014 do Cha Tổng Đại diện Giáo phận chủ sự tại sân nhà thờ giáo xứ TTTM TK, với đông đảo anh chị các đoàn hành hương từ nhiều giáo phận và cộng đoàn giáo xứ Trà Kiệu. 19 giờ 30 cùng ngày, cuộc cung nghinh Thánh Thể trọng thể từ đền Tri Ân Đức Mẹ ( khu vực nhà thờ Thạnh Quang xưa) về nhà thờ chính giáo xứ do Cha Phao-lô Đoàn Quang Dân, Quản xứ Trà Kiệu chủ sự.
Sáng 31.5.2014, tại nhà thờ trên đồi Bửu Châu, các Giáo hạt trong Giáo phận chia phiên chầu Mình Thánh Chúa; trong sân TTTM và nhà thờ chính giáo xứ, các Cha miệt mài ban phép Xá giải cho hối nhân. Đặc biệt trong sân me của nhà thờ giáo xứ, Đức Giám Mục Giáo phận, Cha P.X Nguyễn Văn Thịnh ( đặc trách Giáo dân) và Cha Phao-lô Nguyễn Hữu Trường Sơn ( đặc trách Mục vụ gia đình) đã cho các gia đình đến dự nhiều huấn từ của Chúa, của Giáo Hội về đời sống gia đình, để mỗi thành viên ngày càng hoàn thiện mình, sống Thánh giữa đời để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình, của gia đình mình cho anh em Lương dân xung quanh và cùng với tất cả các thành viên trong gia đình mình dắt nhau nên Thánh. Các Ngài cùng cầu nguyện với các gia đình và đã phân tích, chia sẻ những khó khăn lo âu, tìm những giải pháp tháo gỡ những cạm bẫy do ảnh hưởng nhiều yếu tố khác nhau của xã hội, làm tục hóa đời sống gia đình Công Giáo, dẫn đến nguy cơ làm mất hạnh phúc gia đình.
Trong dòng người đông đảo, trên bậc cấp gồng mình quá tải, dẫn lên đỉnh đồi Bửu Châu, gia đình tôi cũng đến được sân nhà thờ đỉnh đồi. Tôi xót xa nhận ra một mảng đồi bên trái ( đi từ dưới lên) sạt lở nghiêm trọng. Anh bạn ( ủy viên HĐMV GX Trà Kiệu) đi bên cạnh kể rằng: “ mùa mưa năm 2013 vừa qua, lụt làm nước dâng lên một phần chân đồi, nước chảy xiết từ đỉnh đồi xuống làm sạt lỡ nghiêm trọng, ảnh hưởng tới khuôn viên nhà thờ đỉnh đồi, gây nguy hiểm cho khách hành hương đến với Mẹ…theo kế hoạch, ngày 2 /6 /2014 sẽ khởi công xây lại chân đồi, nơi bị sạt lở ” . Trong lời nguyện dâng lên Mẹ: xin Mẹ cầu cùng Chúa cho gia đình tôi và mọi gia đình biết yêu thương nhau, biết sống Lời Chúa, biết cầu nguyện chung với nhau, biết làm gương sáng là cách truyền giáo cho anh em xung quanh, biết quảng đại và giáo dục hướng dẫn con cái sống dâng mình cho Chúa cho Giáo Hội, chúng tôi còn cầu xin Chúa và Mẹ cho gia đình tôi và mọi gia đình biết quảng đại góp 1 viên gạch tu bổ xây lại chân đồi Thánh Thiêng của Mẹ.
Lúc 14 giờ chiều, tại sân nhà thờ chính giáo xứ, Cha Quản xứ Trà Kiệu tuyên bố khai mạc giờ cung nghinh Đức Mẹ, tiếp đó Cha Tổng Đại diện xông hương và đọc lời nguyện khai mạc trước lúc đội vũ của Giáo xứ Trà Kiệu hoạt vũ các ca khúc, giai điệu mượt mà êm dịu về đề tài gia đình, Hôm Nay Con Muốn Sống Như Mẹ, ca từ như mời gọi mỗi gia đình noi gương Mẹ sống Lời Chúa như Mẹ.
Cuộc cung nghinh được bắt đầu bằng Thánh giá đèn hầu, tiếp đó 50 lá cờ ghi các nhân đức của Mẹ tượng trưng cho 50 giáo xứ trong giáo phận, Giáo dân hành hương, quý Nữ tu, quý Thầy, Đức Giám Mục (ĐGM) Giáo phận, Cha Tổng Đại diện, đội dâng hoa, xe kiệu Mẹ và cuối cùng đoàn quý Cha đồng tế trong ngoài giáo phận. Đoàn kiệu đến lễ đài trung tâm, đội dâng hoa tung muôn hoa ca khen tôn vinh Mẹ và vài gia đình đại diện cho tất các gia đình tiến đến chân kiệu Mẹ dâng những ước nguyện, để mỗi thành viên và gia đình sống ngày càng hoàn thiện và sống Thánh giữa đời trong ơn gọi đời sống gia đình của mình.
Tiếp đó, ĐGM đã chủ sự Thánh lễ trọng thể. Trong phần mở đầu, Ngài mời gọi cộng đoàn vui mừng trong ngày lễ Đức Me thăm viếng bà Elisabet; cầu nguyện cho tất cả các gia đình và gia đình Giáo phận; cầu cho hòa bình trên thế giới, cách riêng cho đất nước Việt Nam thân yêu; cầu cho các Nhà Lãnh đạo được ơn khôn ngoan để tìm ra các giải pháp hòa bình cho nền hòa bình Đất nước; mỗi người Giáo dân sống theo tinh thần thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, mỗi người cùng chung tay góp phần vào công việc bảo vệ chủ quyền đất nước bằng việc làm cụ thể.
Trong bài chia sẻ, ĐGM nhấn mạnh cần cải đổi tinh thần, sống tốt hơn mỗi ngày, gia đình yêu thương nhau, biết cầu nguyện, biết chia sẻ cảm thông nâng đỡ nhau, biết thông truyền Đức Tin cho con cái, biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống mẫu mực của mình, biết hướng dẫn giáo dục con cái sống đúng nhân bản, không chạy theo thành tích kiến thức mà bỏ quyên, xem thường việc giáo dục nhân bản đạo đức, cụ thể qua các giờ học Giáo lý cho con cái. Ngài ví tựa như người có đôi chân, một chân kiến thức khoa học xã hội và một chân nhân bản đạo đức. Nếu thiếu hoặc xem thường một trong hai, hệ lụy mất cân bằng, bất ổn gia đình và xã hội trong tương lai là điều tất yếu.
Ngài chia sẻ niềm vui về đại hội Đức Mẹ Trà Kiệu lần thứ 2 tại Giáo xứ Bình Thuận, Tổng Giáo phận Sài Gòn, quy tụ anh chị em Giáo dân Giáo phận Đà Nẵng đi làm và sinh sống tại các Giáo phận miền nam Việt Nam.
Trước lúc kết thúc Thánh lễ, Cha Quản xứ Trà Kiệu cám ơn ĐGM, Quý Cha đồng tế, Chính Quyền, quý Nữ Tu cộng đoàn Phao-lô và cộng đoàn Mến Thánh Giá Trà Kiệu, quý Giáo xứ, quý đoàn thể ban ngành, quý ân nhân xa gần, công ty âm thanh ánh sáng Hoàng Long và tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau đã góp công góp của cho dịp đại hội thành công tốt đẹp.
ĐGM đã Đại diện cộng đoàn phụng vụ đáp lời cám ơn Cha Quản xứ, Hội Đồng Mục Vụ và các ban nghành đoàn thể Giáo xứ Trà Kiệu, đã hy sinh rất nhiều trong thời gian dài cho đại hội được tốt đẹp.
Anh bạn ngồi cạnh tôi còn cho biết: “… năm nay Giáo xứ chuẩn bị rất kỹ: toàn bộ nước cung cấp cho khách hành hương là nước sạch tinh lọc, khâu hậu cần, y tế, vệ sinh, trật tự, trang trí…. Thật tuyệt vời…”
Sau đó ĐGM đã giới thiệu và xin cộng đoàn cầu nguyện cho Cha Simon Đinh Hưng Lợi dịp mừng 60 năm Linh Mục và Cha GB Nguyễn Văn Đán trong dịp mừng 50 năm Linh Mục, Ngài là giáo sư của nhiều Linh Mục trong Giáo phận Đà Nẵng. Đáp lời, Ngài thật khiêm tốn, chỉ xin cộng đoàn cầu nguyện và tha thứ những thiếu sót do lỗi trong bổn phận và cám ơn, thật mẫu gương bậc thầy về giáo dục.
Ca đoàn ( giáo xứ Tam Tòa ) cất lên bài hát: Lạy Mẹ Trà Kiệu Mến Yêu, toàn không gian TTTM vang dội tâm tình gia đình con thảo, nguyện xin Mẹ đoái thương cho Nước Việt và gia đình sống trong tình Mẹ yêu…
Một kỷ niệm đáng nhớ trong đời của gia đình tôi.
Hình ảnh
Cái nắng nóng khô khốc như thiêu đốt vẫn không làm chùng bước các gia đình, với những bước chân hối hả về với Mẹ để yêu mến Mẹ, vâng lời Mẹ, học gương nhân đức và đời sồng vâng nghe Lời Chúa như Mẹ qua Tin Mừng và hướng dẫn của Giáo Hội. Trong năm 2014 này, Giáo Hội đã chọn làm Năm Thánh Hóa Đời Sống Gia Đình.
Thánh lễ khai mạc Đại hội Đức Mẹ Trà Kiệu năm nay từ lúc 17 giờ ngày 30.5.2014 do Cha Tổng Đại diện Giáo phận chủ sự tại sân nhà thờ giáo xứ TTTM TK, với đông đảo anh chị các đoàn hành hương từ nhiều giáo phận và cộng đoàn giáo xứ Trà Kiệu. 19 giờ 30 cùng ngày, cuộc cung nghinh Thánh Thể trọng thể từ đền Tri Ân Đức Mẹ ( khu vực nhà thờ Thạnh Quang xưa) về nhà thờ chính giáo xứ do Cha Phao-lô Đoàn Quang Dân, Quản xứ Trà Kiệu chủ sự.
Sáng 31.5.2014, tại nhà thờ trên đồi Bửu Châu, các Giáo hạt trong Giáo phận chia phiên chầu Mình Thánh Chúa; trong sân TTTM và nhà thờ chính giáo xứ, các Cha miệt mài ban phép Xá giải cho hối nhân. Đặc biệt trong sân me của nhà thờ giáo xứ, Đức Giám Mục Giáo phận, Cha P.X Nguyễn Văn Thịnh ( đặc trách Giáo dân) và Cha Phao-lô Nguyễn Hữu Trường Sơn ( đặc trách Mục vụ gia đình) đã cho các gia đình đến dự nhiều huấn từ của Chúa, của Giáo Hội về đời sống gia đình, để mỗi thành viên ngày càng hoàn thiện mình, sống Thánh giữa đời để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình, của gia đình mình cho anh em Lương dân xung quanh và cùng với tất cả các thành viên trong gia đình mình dắt nhau nên Thánh. Các Ngài cùng cầu nguyện với các gia đình và đã phân tích, chia sẻ những khó khăn lo âu, tìm những giải pháp tháo gỡ những cạm bẫy do ảnh hưởng nhiều yếu tố khác nhau của xã hội, làm tục hóa đời sống gia đình Công Giáo, dẫn đến nguy cơ làm mất hạnh phúc gia đình.
Trong dòng người đông đảo, trên bậc cấp gồng mình quá tải, dẫn lên đỉnh đồi Bửu Châu, gia đình tôi cũng đến được sân nhà thờ đỉnh đồi. Tôi xót xa nhận ra một mảng đồi bên trái ( đi từ dưới lên) sạt lở nghiêm trọng. Anh bạn ( ủy viên HĐMV GX Trà Kiệu) đi bên cạnh kể rằng: “ mùa mưa năm 2013 vừa qua, lụt làm nước dâng lên một phần chân đồi, nước chảy xiết từ đỉnh đồi xuống làm sạt lỡ nghiêm trọng, ảnh hưởng tới khuôn viên nhà thờ đỉnh đồi, gây nguy hiểm cho khách hành hương đến với Mẹ…theo kế hoạch, ngày 2 /6 /2014 sẽ khởi công xây lại chân đồi, nơi bị sạt lở ” . Trong lời nguyện dâng lên Mẹ: xin Mẹ cầu cùng Chúa cho gia đình tôi và mọi gia đình biết yêu thương nhau, biết sống Lời Chúa, biết cầu nguyện chung với nhau, biết làm gương sáng là cách truyền giáo cho anh em xung quanh, biết quảng đại và giáo dục hướng dẫn con cái sống dâng mình cho Chúa cho Giáo Hội, chúng tôi còn cầu xin Chúa và Mẹ cho gia đình tôi và mọi gia đình biết quảng đại góp 1 viên gạch tu bổ xây lại chân đồi Thánh Thiêng của Mẹ.
Lúc 14 giờ chiều, tại sân nhà thờ chính giáo xứ, Cha Quản xứ Trà Kiệu tuyên bố khai mạc giờ cung nghinh Đức Mẹ, tiếp đó Cha Tổng Đại diện xông hương và đọc lời nguyện khai mạc trước lúc đội vũ của Giáo xứ Trà Kiệu hoạt vũ các ca khúc, giai điệu mượt mà êm dịu về đề tài gia đình, Hôm Nay Con Muốn Sống Như Mẹ, ca từ như mời gọi mỗi gia đình noi gương Mẹ sống Lời Chúa như Mẹ.
Cuộc cung nghinh được bắt đầu bằng Thánh giá đèn hầu, tiếp đó 50 lá cờ ghi các nhân đức của Mẹ tượng trưng cho 50 giáo xứ trong giáo phận, Giáo dân hành hương, quý Nữ tu, quý Thầy, Đức Giám Mục (ĐGM) Giáo phận, Cha Tổng Đại diện, đội dâng hoa, xe kiệu Mẹ và cuối cùng đoàn quý Cha đồng tế trong ngoài giáo phận. Đoàn kiệu đến lễ đài trung tâm, đội dâng hoa tung muôn hoa ca khen tôn vinh Mẹ và vài gia đình đại diện cho tất các gia đình tiến đến chân kiệu Mẹ dâng những ước nguyện, để mỗi thành viên và gia đình sống ngày càng hoàn thiện và sống Thánh giữa đời trong ơn gọi đời sống gia đình của mình.
Tiếp đó, ĐGM đã chủ sự Thánh lễ trọng thể. Trong phần mở đầu, Ngài mời gọi cộng đoàn vui mừng trong ngày lễ Đức Me thăm viếng bà Elisabet; cầu nguyện cho tất cả các gia đình và gia đình Giáo phận; cầu cho hòa bình trên thế giới, cách riêng cho đất nước Việt Nam thân yêu; cầu cho các Nhà Lãnh đạo được ơn khôn ngoan để tìm ra các giải pháp hòa bình cho nền hòa bình Đất nước; mỗi người Giáo dân sống theo tinh thần thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, mỗi người cùng chung tay góp phần vào công việc bảo vệ chủ quyền đất nước bằng việc làm cụ thể.
Trong bài chia sẻ, ĐGM nhấn mạnh cần cải đổi tinh thần, sống tốt hơn mỗi ngày, gia đình yêu thương nhau, biết cầu nguyện, biết chia sẻ cảm thông nâng đỡ nhau, biết thông truyền Đức Tin cho con cái, biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống mẫu mực của mình, biết hướng dẫn giáo dục con cái sống đúng nhân bản, không chạy theo thành tích kiến thức mà bỏ quyên, xem thường việc giáo dục nhân bản đạo đức, cụ thể qua các giờ học Giáo lý cho con cái. Ngài ví tựa như người có đôi chân, một chân kiến thức khoa học xã hội và một chân nhân bản đạo đức. Nếu thiếu hoặc xem thường một trong hai, hệ lụy mất cân bằng, bất ổn gia đình và xã hội trong tương lai là điều tất yếu.
Ngài chia sẻ niềm vui về đại hội Đức Mẹ Trà Kiệu lần thứ 2 tại Giáo xứ Bình Thuận, Tổng Giáo phận Sài Gòn, quy tụ anh chị em Giáo dân Giáo phận Đà Nẵng đi làm và sinh sống tại các Giáo phận miền nam Việt Nam.
Trước lúc kết thúc Thánh lễ, Cha Quản xứ Trà Kiệu cám ơn ĐGM, Quý Cha đồng tế, Chính Quyền, quý Nữ Tu cộng đoàn Phao-lô và cộng đoàn Mến Thánh Giá Trà Kiệu, quý Giáo xứ, quý đoàn thể ban ngành, quý ân nhân xa gần, công ty âm thanh ánh sáng Hoàng Long và tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau đã góp công góp của cho dịp đại hội thành công tốt đẹp.
ĐGM đã Đại diện cộng đoàn phụng vụ đáp lời cám ơn Cha Quản xứ, Hội Đồng Mục Vụ và các ban nghành đoàn thể Giáo xứ Trà Kiệu, đã hy sinh rất nhiều trong thời gian dài cho đại hội được tốt đẹp.
Anh bạn ngồi cạnh tôi còn cho biết: “… năm nay Giáo xứ chuẩn bị rất kỹ: toàn bộ nước cung cấp cho khách hành hương là nước sạch tinh lọc, khâu hậu cần, y tế, vệ sinh, trật tự, trang trí…. Thật tuyệt vời…”
Sau đó ĐGM đã giới thiệu và xin cộng đoàn cầu nguyện cho Cha Simon Đinh Hưng Lợi dịp mừng 60 năm Linh Mục và Cha GB Nguyễn Văn Đán trong dịp mừng 50 năm Linh Mục, Ngài là giáo sư của nhiều Linh Mục trong Giáo phận Đà Nẵng. Đáp lời, Ngài thật khiêm tốn, chỉ xin cộng đoàn cầu nguyện và tha thứ những thiếu sót do lỗi trong bổn phận và cám ơn, thật mẫu gương bậc thầy về giáo dục.
Ca đoàn ( giáo xứ Tam Tòa ) cất lên bài hát: Lạy Mẹ Trà Kiệu Mến Yêu, toàn không gian TTTM vang dội tâm tình gia đình con thảo, nguyện xin Mẹ đoái thương cho Nước Việt và gia đình sống trong tình Mẹ yêu…
Một kỷ niệm đáng nhớ trong đời của gia đình tôi.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Mầu nhiệm lên trời: các hoa trái đầu tiên của xác thịt và thần khí (1)
Vũ Văn An
06:13 31/05/2014
“Lên Trời là một bước tiến nữa trong việc thâm hậu hóa sợi dây liên kết của Chúa Kitô với Giáo Hội, và qua Giáo Hội, với toàn thể vũ trụ: ‘Người đã lên… để làm cho vũ trụ được viên mãn’ (Eph 4:10)”.
Thế kỷ thứ tư, một mệnh phụ Rôma giầu có tên là Poemenia đã cho xây một nhà thờ trên Núi Cây Dầu, nơi Chúa Kitô về trời. Thánh điện này có một tháp vòm lộ thiên để tín hữu có thể ngắm bầu trời trong khi cử hành phụng vụ. Ở các thánh điểm khác tại Đất Thánh, khách hành hương luôn tìm cách bước theo dấu chân Chúa Giêsu; còn ở đây, họ ngước mắt hướng lên bầu trời nơi, theo trình thuật của Thánh Luca, Thầy Chí Thánh ra đi lúc Người thăng thiên. Theo lời thầy Luis de León, việc chia tay này với Chúa Giêsu cũng như đám mây “quyện lấy Người” đem Người đi khỏi tầm nhìn của ta cho phép ta đọc mầu nhiệm này trong hoài nhớ. Dòng Thánh Augustinô có dành một bài thơ cho Thăng Thiên để trách Chúa Giêsu ra đi: “Còn Ngài, hỡi Mục Tử thánh thiện, bỏ đoàn chiên Ngài ở lại thung lũng này, sâu hoắm và tối đen, trong cô đơn và sầu khổ, xé nát bầu khí thanh trong, Ngài trẩy về chốn bất tử, an tòan và an ninh ư?”. Bài thơ này tiếp tục than vãn nỗi bất hạnh của những kẻ mất Thầy, những kẻ tội nghiệp và sầu khổ, không còn biết quay về đâu. Thi sĩ Péguy cũng phát biểu cùng một tình cảm này trong Mầu Nhiệm Bác Ái Của Gioan Thành Arc. Các nhà thờ trong thế giới Kitô Giáo, với những đền thánh vĩ đại và các bổn mạng danh tiếng, chẳng bao giờ so sánh được với những người và những nơi từng được chứng kiến từng bước chân của Chúa Giêsu, từng cầu khẩn Người và thậm chí còn được đụng tới vạt áo Người:
“Hỡi các giáo xứ Pháp, giáo xứ ấy đã được ban điều chưa bao giờ được ban cho các ngươi, điều từ thuở đời đời chưa bao giờ được ban cho bất cứ giáo xứ nào khác… Hạnh phúc thay người phụ nữ đã đổ dầu thơm lên chân Người, đã xức thuốc thơm lên đầu Người… lên chân Người, lên đầu thân thể Người… Mọi đấng thánh nam thánh nữ đang chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ngự bên tay phải Chúa Cha. Và ở đó, ở thiên đàng, Người có, người có thân xác làm người của Người, thân xác nhân bản trong trạng thái vinh hiển, vì Người là thế nào thì Người lên Thiên Đàng thế ấy, vào ngày thăng thiên. Nhưng ngươi, chỉ một mình ngươi, ngươi được thấy, ngươi được rờ, người nắm được thân xác nhân bản ấy trong tính nhân loại của nó, trong tính nhân loại chung, từng bước đi ngồi xuống trên mảnh đất chung của chúng ta này”.
Tuy nhiên, các Tin Mừng từng thuật lại việc ra đi của Chúa Kitô không hề cho phép ta đọc cuộc Thăng Thiên một cách hoàn toàn hoài nhớ. Thánh Luca, chẳng hạn, nhấn mạnh tới niềm vui các tông đồ đem trở lại Giêrusalem, một niềm vui lớn gợi nhớ lại việc Đấng Mêxia sinh ra, và do đó đem việc hạ sinh này tới chỗ hoàn tất (xem Lc 2:10 và 24:52). Đây là niềm vui của những người từng gặp gỡ đức tin (xem Cv 8:8 và 15:3), thực sự đã dự phóng niềm vui trọn vẹn của Chúa Thánh Thần, được Chúa Giêsu nói cho các tông đồ hay ở Buổi Tiệc Ly (Ga 16:24 và 17:13). Như thế, các tông đồ đâu có hiểu Thăng Thiên như một mất mát; đúng hơn, các ngài đã được ban cho một dư thừa mới. Chính Chúa Giêsu bảo đảm với các ngài rằng “Thầy đi thì tốt hơn cho các con” (Ga 16:7). Điều này có nghĩa: trong mọi mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu, Thăng Thiên gần gũi nhất đối với chúng ta; nó là khởi điểm của Đức Tin và của Chúa Kitô và của việc chiêm ngắm con người và việc làm của Người. Như Romano Guardini từng nhận định, trong các trước tác Tân Ước, các thư của Thánh Phaolô, trên thực tế, dễ hiểu nhất đối với người tin, bất chấp tính phức tạp biểu kiến của chúng. Chỉ khi nào lấy giáo huấn của Thánh Phaolô làm hậu cảnh, tín hữu mới có thể tiếp cận các tin mừng nhất lãm mà không sợ giải thích sai lầm chúng.
Dù điều này xem ra nghịch lý, nó vẫn có ý nghĩa sâu xa: kinh nghiệm của Thánh Phaolô giống kinh nghiệm của ta nhiều hơn cả. Ngài không thấy cũng chẳng rờ được Chúa Giêsu, như những người khác lúc Người còn trên cõi thế; đúng hơn, ngài biết Người qua ánh sáng đức tin và quyền lực Chúa Thánh Thần. Trong khi thánh nữ Maria Mađalêna muốn bám lấy Chúa Kitô phục sinh (xem Ga 20:17) để thánh nữ tiếp tục có được các tiếp xúc với Người theo cách quen thuộc xưa nay, thì thánh Phaolô viết rằng “dù có lần ta đã biết Chúa Kitô theo thân xác, thì nay, ta không còn biết Người như thế nữa” (2Cor 5:16). Không lạ gì Thánh Augustinô coi Lễ Thăng Thiên là đỉnh cao của năm phụng vụ.
Nguồn suối sự sống Kitô Giáo phát nguyên từ đây, trong cách thế hiện diện khác biệt của Chúa Giêsu, một sự hiện diện đã được khai mạc trên Núi Cây Dầu. Ở lúc Thăng Thiên, tín hữu nhận được các phương hướng chính cho cuộc sống của mình với Chúa Kitô; cấu trúc của nhiệm cục bí tích và của ý nghĩa cùng sứ mệnh của Giáo Hội; và đặc điểm mới của kỷ nguyên Kitô Giáo, trong đó, thời cuối cùng đã khởi đầu. Ta phải hiểu ra sao về tính đồng thời của việc vừa hiện diện vừa vắng bóng được biến cố Thăng Thiên này làm chứng? Để trả lời cho câu hỏi này, ta hãy bắt đầu nghiên cứu trình thuật của Thánh Luca.
1. Trình thuật Lên Trời
Thánh Luca không phải là tác giả duy nhất kể với chúng ta việc Chúa Kitô lên trời. Sự kiện này được làm chứng dưới hình thức này hay hình thức nọ trong toàn bộ Tân Ước. Nó là thành phần trong trình thuật sơ truyền (kerygmatic) thuật lại cuộc đời Chúa Giêsu và sau này, nó đã bước vào Kinh Tin Kính. Tuy thế, tin mừng gia thứ ba là người thuật lại biến cố này một cách chi tiết hơn cả và đem lại cho nó một tầm quan trọng dứt khoát trong công trình soạn tác của mình. Khung cảnh diễn ra tại Giêrusalem, vốn là điểm đến của Chúa Giêsu và là điểm phát khởi sứ mệnh của Giáo Hội. Chính vì thế, Thánh Luca có thể kết thúc tin mừng của ngài bằng biến cố này, rồi thuật lại nó một lần nữa như một thứ khai mào cho Công Vụ. Thăng Thiên là một mầu nhiệm, giống như thần Janus, nhìn cả đàng sau lẫn đàng trước.
Trước nhất, mầu nhiệm này đi vào quá khứ, đem hành trình của Chúa Kitô đến chỗ hoàn tất. Thánh Luca trình bày cảnh này như để kết thúc đoạn lồng vào (inclusion) thật dài, bắt đầu với các trình thuật tuổi thơ. Ở đây, một lần nữa, Thánh Luca nói tới “niềm vui lớn” từng dùng để mô tả biến cố Truyền Tin (xem Lc 2:10 và 24:52). Mọi sự đều được định vị gần Đền Thờ, nơi các môn đệ thường tới lui để cầu nguyện, và là nơi diễn ra câu truyện của Giacaria, được Thánh Luca sử dụng để khởi đầu tin mừng của ngài. Đàng khác, ta còn được kể về lời chúc lành cuối cùng của Chúa Giêsu, lời chúc lành mà thân phụ Tẩy Giả đã không thể nào ban cho dân chúng được vì ông thiếu đức tin.
Điều đặc biệt quan trọng là phải chú ý tới mối liên kết giữa Phục Sinh và các lần Chúa Kitô hiện ra. Trình thuật của Thánh Luca cho ta cảm tưởng này: Chúa Giêsu đã sống lại, hiện ra với các môn đệ và lên trời vào ngày thứ nhất trong tuần. Như thế, trình thuật đã làm nổi mối liên kết rất chặt chẽ giữa mọi biến cố vượt qua. Do đó, Thăng Thiên đã kết thúc mọi cuộc hiện ra của Chúa Kitô. Cũng một Chúa Giêsu từng đồng hành với các môn đệ trên đường Emmau và hiện ra với các môn đệ ở Phòng Trên Lầu, đã tự để Người được thấy, được tiếp xúc, đã ăn uống với các môn đệ (Cv 10:41), nay kết thúc thời kỳ mầu nhiệm hiện ra trong thân xác phục sinh của Người. Sự kiện này làm mầu nhiệm Thăng Thiên khác hẳn các trình thuật ngoại giáo về việc được đưa lên trời, và khác với các cuộc lên trời khác được kể trong Cựu Ước, như cuộc lên trời của Tiên Tri Êligia: ở đây, Đấng lên trời là Đấng đã phục sinh; thân xác Người đã chiếm hữu được đặc tính phi thường của thân xác đã được thiêng liêng hóa, đầy vinh quang. Thân xác mất hút sau đám mây là thân xác đã chiến thắng cái chết.
Thứ hai, Thăng Thiên cũng được cột chặt với lịch sử tiếp theo, được kể trong Tông Đồ Công Vụ. Ở đây, ta nên nhắc lại việc chúc phúc vĩ đại ở đoạn kết Tin Mừng Luca, một chúc phúc trùng hợp với biến cố Thăng Thiên, và do đó được bất tử hóa trong tâm trí các chứng nhân tận mắt (Lc 24:50). Chúa Giêsu ra đi trong một tư thế đáng lưu ý, với đôi tay trải rộng trên các môn đệ. Ta nên hiểu rằng trong Cựu Ước, chúc phúc là một hình thức Thiên Chúa liên tục hiện diện với dân Người giữa mọi thăng trầm của cuộc đời, đặc biệt bao lâu sự hiện diện này đem lại sự sống: Giavê giáng phúc cho mưa cho nắng, làm ruộng đồng mầu mỡ, ban con cháu cho súc vật và con người. Như thế, quả là lầm lẫn khi coi Thăng Thiên như một kết thúc. Đúng hơn, nó đánh dấu buổi đầu của một thời đại tăng trưởng và mầu mỡ mới. Như thế, chương mở đầu Sách Công Vụ không phải là một lặp lại dư thừa: dù nó thuật lại cùng một mầu nhiệm, nhưng đã thuật lại dưới một ánh sáng mới, với một vọng nhìn về tương lai, về các hiệu quả mà mầu nhiệm này sẽ phát sinh trong đời sống Giáo Hội. Khi Chúa Kitô ngự bên tay phải Chúa Cha, tức biến cố đánh dấu đỉnh cao của Thăng Thiên, ta sẽ thấy rõ ta phải hiểu Thăng Thiên như là mầu nhiệm việc Thầy chí thánh tiếp tục hiện diện với các môn đệ suốt giòng lịch sử. Thánh Máccô làm nổi bật viêc này ở phần kết luận Tin Mừng của ngài: sau khi lên trời, Chúa “cùng hoạt động với các môn đệ” (Mc 16:20). Còn trong Công Vụ, chủ đề nước Thiên Chúa và địa vị chúa tể lịch sử của Người (xem Cv 1:6: “thưa Thầy, có phải lúc này là lúc Thầy sắp sửa khôi phục vương quyền cho Israel không?”) đã được tách biệt khỏi quan tâm quá đáng về việc tính toán ngày giờ chính xác cho biến cố tận thế, để hiểu chúng dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đấng sẽ ban cho các tông đồ quyền lực của Người: “Các con không cần biết thời giờ hay kỳ hạn… Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các con” (Cv 1:7).
Tính đặc thù của mầu nhiệm này nêu lên nhiều câu hỏi. Trước nhất, là câu hỏi về mối tương quan giữa Thăng Thiên và Phục Sinh. Thăng Thiên có đem lại điều gì mới không? Hay nó chỉ là một khía cạnh khác của Phục Sinh, tức việc nâng Chúa Giêsu lên vinh quang Chúa Cha? Và đâu là ý nghĩa của 40 ngày hiện ra với các môn đệ mà theo Thánh Luca đã kết thúc với việc Chúa Kitô lên trời? Đàng khác, ta cũng phải tìm hiểu mối liên hệ giữa Thăng Thiên và thời của Giáo Hội: Chúa Giêsu hiện diện cách mới mẻ ra sao với các môn đệ đến nỗi họ tràn ngập niềm vui khi thấy Người ra đi (Lc 24:52)? Tại sao Người cần phải ra đi, tại sao sứ mệnh của Người cần được trải dài đến lúc này khi “chúng tôi yêu mến Chúa Giêsu, dù không thấy Người” (xem 1 Pr 1:8)? Trước nhất, ta hãy xem xét mối liên kết giữa Thăng Thiên và Phục Sinh.
2. Phục Sinh và Thăng Thiên
Hiện nay, đang có lối giải thích rất phổ thông coi Thăng Thiên chỉ là một khía cạnh của Phục Sinh. Nhiều đoạn trong Tân Ước trình bày Phục Sinh như việc trở lại với sự sống và được hiển dương hay được tôn vinh trên cao. Từ đó có thể nói rằng nếu Phục Sinh tự nó đã là việc được nâng cao lên với Chúa Cha rồi, thì biến cố có tính lịch sử là Thăng Thiên đâu có thêm điều gì có tính yếu tính cho Phục Sinh nữa. Thực vậy, Chúa Kitô không cần phải lên trời, nghĩa là bước vào lãnh vực Thần Linh, vì điều này chính là điều đã xẩy ra rồi trong việc phục sinh của thân xác Người.
Để hỗ trợ cho quan điểm này, ta cần phải nói rằng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không được hiểu đơn giản chỉ là việc “trở lại với sự sống”. Một điều có tính yếu tính vốn phân biệt nó với các phép lạ khác như việc làm cho Ladarô hay làm cho con trai bà góa Thành Naim sống lại. Thân xác ra khỏi mồ của Chúa Giêsu là thân xác không thể hư nát được nữa; thân xác vinh hiển của Người đã tham dự vào sự sống của Thiên Chúa và do đó đã đạt được lối hiện hữu không thể bị khuất phục nữa, một lối hiện hữu được phát sinh mới mẻ cho Thiên Chúa nhờ Thần Khí thánh thiện (xem Rm 1:4).
Ấy thế nhưng điều này khiến ta tự hỏi: điều gì đặc trưng đối với mầu nhiệm Thăng Thiên? Có thể có những câu trả lời như sau. Ta có thể bác bỏ ngay từ đầu bất cứ lý thuyết nào cho rằng đây chỉ là một việc bất hợp pháp vì đã biến chân lý Kitô Giáo thành một huyền thoại theo kiểu các tôn giáo Hy Lạp lúc ấy. Thực vậy, điều đứng đàng sau hậu cảnh của trình thuật Tân Ước là chứng từ của Cựu Ước, vốn phản ảnh lịch sử của một dân tộc đang lên đường tiến về hướng Giavê; và mục đích của hoạt cảnh Thăng Thiên chính là tính cụ thể hoàn toàn của lịch sử cứu độ, hoàn toàn ngược lại với huyền thoại. Như Walter Kasper từng viết, ở đây mythica antimythica dicunt (huyền thoại bị chính ngôn từ huyền thoại tiêu diệt).
Tuy nhiên, dù bác bỏ giả thuyết vừa kể, người ta vẫn có thể cho rằng Thánh Luca đơn thuần sáng chế ra một lý thuyết thần học để giải thích điều xẩy ra lúc Phục Sinh, tách biệt hóa một số khía cạnh của mầu nhiệm để rồi khai triển chi tiết cái hiểu của riêng ngài về lịch sử cứu độ. Thời của Chúa Giêsu được nối tiếp bằng thời của Giáo Hội; và Thăng Thiên đảm bảo liên tục tính giữa hai thời này. Tự nó, Thăng Thiên không có vị trí gì cả ngoại trừ để phát biểu cách cụ thể một chân lý nền tảng. Nếu phải rút ra luận lý học của quan điểm này, thì hẳn nhiên đây là một bác bỏ không những chân lý Thăng Thiên như là một biến cố lịch sử cụ thể, mà còn bác bỏ luôn các lần hiện ra sau Phục Sinh nữa. Điều này đặt đức tin vào chỗ sai lầm của thuyết huyễn tượng (docetism); đối với thuyết này, Phục Sinh là một biến cố hoàn toàn nội tâm.
Một khả thể khác là chấp nhận rằng các lần hiện ra có diễn ra, nhưng phải coi chúng như một thứ quá trình thích nghi của các môn đệ. Họ cần có thời gian để hiểu Phục Sinh, là biến cố đảo lộn hết cái hiểu của họ về thế giới, về con người, và về Thiên Chúa. Họ cần vững tâm đối với chân lý Phục Sinh của Chúa Giêsu, được đụng chạm vào Người bằng thân xác; và điều này đơn thuần đòi một kiên nhẫn thích đáng đối với thân xác. Lối nhìn này có tính đến một sự kiện quan trọng và có lưu tâm thoả đáng tới tính thể xác của Phục Sinh. Tuy nhiên, điều đáng để ý ở đây là: Thăng Thiên không được coi như có liên hệ tới chính Chúa Kitô. Nó chỉ là lần hiện ra cuối cùng sau Phục Sinh, chỉ là một hiện ra nữa trong một loạt hiện ra, chỉ khác biệt vì nó được dùng để kết thúc thời kỳ cần thiết cho việc thiết lập các trụ cột cho Giáo Hội. Tức là, lối giải thích này không phân biệt Phục Sinh và Thăng Thiên trong liên hệ với chính Chúa Giêsu, nhưng chỉ liên hệ tới việc tiếp nhận các biến cố vượt qua của các môn đệ mà thôi. Trong lối nhìn này, trọng điểm của Thăng Thiên chỉ có tính giáo huấn.
Vấn đề bao quanh sự dị biệt giữa Phục Sinh và Thăng Thiên khá tế vi. Quả là khó khi cố gắng hiểu thân xác vinh hiển là như thế nào, càng khó hơn nữa là muốn hiểu một thứ trạng thái trung gian, tức trạng thái Chúa Giêsu từ từ được vinh hiển hóa trong thân xác của Người; khó mà có sự gia tăng gì nơi Người vì Người là Đấng đã hưởng trọn sự viên mãn cuối cùng, tức sự viên mãn dứt khoát và không thể vượt qua được. Tuy nhiên, trước khi giải quyết các khó khăn liên quan tới các quan niệm này, tưởng nên tìm hiểu các từ ngữ của vấn đề, hiểu rõ hơn ở đây muốn nói tới điều gì.
Một đàng, điều chủ yếu là phải nhấn mạnh tới mối liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm này. Trình thuật của Thánh Luca không tách rời chúng, dù có phân biệt. Một động lực duy nhất đã phát khởi từ Vọng Phục Sinh, kéo dài suốt thời gian có các cuộc hiện ra, và lên tới tột đỉnh ở lúc Thăng Thiên. Ta có thể nói rằng khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, thì Người luôn như một Đấng “đang ở trên đường” từ từ tiến về Chúa Cha; ta không thể “bám” vào Người. Khó có thể nhận ra mặt Người vì đây là gương mặt đang chuyển động hướng về Chúa Cha trên cao; gương mặt Người đã thay đổi, như một âm thanh khi nguồn của nó di chuyển xa ta.
Như thế, điều chủ yếu là duy trì sự thống nhất của hai mầu nhiệm, như các sách Tin Mừng vốn làm, luôn trình bày Phục Sinh như một sự tôn vinh, hay một việc lên trời, dù chưa minh nhiên dùng chữ Thăng Thiên. Đàng khác, tính thống nhất này ngăn cản ta không được quên sự thật của Phục Sinh, vốn không đơn thuần chỉ là việc trở lại với sự sống, mà đúng hơn là sự viên mãn trong liên hệ với Chúa Cha; sự bất tử vốn được hiểu là việc con người trở thành con cái mới của Thiên Chúa.
Đàng khác, hai biến cố vẫn cần được phân biệt với nhau. Cho dù phải bênh vực tính thống nhất của Phục Sinh và Thăng Thiên, ta cũng vẫn phải tránh không được che dấu việc Chúa tỏ mình ra cho các môn đệ và việc này nữa: các lần Người hiện ra với các môn đệ đều diễn tiến trong một diễn trình thời gian. Theo tác phẩm của Đức HY Walter Kasper về vấn đề này, câu hỏi của chúng ta ở đây được nối kết với đặc điểm lịch sử của Kitô Giáo. Ơn cứu rỗi diễn ra trong lịch sử và do đó sở hữu được tính mới mẻ và bất phản hồi riêng của nó; thực vậy, đó chính là điều bảo đảm cho tính nhưng không của ơn cứu rỗi, không thể coi nó như một điều Thiên Chúa mắc nợ con người, như một điều gì con người có “quyền”, như một nhu cầu mà bản chất của tạo dựng đòi phải có. Như đã nhận định trên đây, chủ trương Thăng Thiên có đặc điểm lịch sử là bác bỏ bất cứ lối giải thích nào muốn biến nó thành một thứ huyền thoại. Vì não trạng huyền thoại nhìn lịch sử chỉ như một chu kỳ lặp đi lặp lại một mẫu biến cố đã được ấn định từ thuở đời đời, một chu kỳ bắt buộc phải diễn ra theo một thứ tất yếu bi thảm nào đó.
Ý niệm sau đây, một ý niệm được Kaspers nhấn mạnh, có tính hết sức chủ yếu: Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không làm mất thời gian tính của bản tính nhân loại nơi Người; dù đã được hiển vinh, Chúa Giêsu vẫn không bước sang một thứ cảnh vực bên ngoài lịch sử. Nhà thần học người Đức này cho rằng “sự kiện Thánh Luca mô tả việc Chúa Giêsu lên hưởng vinh quang Thiên Chúa như một con đường, theo chúng tôi, có nghĩa là trong và qua sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu không những tiếp nhận cho mình không gian mà cả thời gian nữa và Người dấu thời gian này trong Thiên Chúa, để đưa ra ánh sáng sự viên mãn của mọi thời gian và kết hợp các thời gian này trong chính Người”. Kasper không nói rõ thêm về sự phân biệt giữa Phục Sinh và Thăng Thiên, dù ngài quả có kết luận rằng sự phân biệt giữa hai mầu nhiệm do Thánh Luca đưa ra nói lên một khía cạnh nền tảng của Phục Sinh, và do đó, hợp lý.
Một cuộc nghiên cứu gần đây của D.Farrow đã nhấn mạnh tới sự khác nhau giữa hai mầu nhiệm và nhận định rằng làm mờ đường răn giữa hai mầu nhiệm này là một điều nguy hiểm. Thí dụ, Farrow cho rằng có thể có cái nguy cơ thiêng liêng hóa sự Phục Sinh. Nếu Thăng Thiên thực sự không xẩy ra, thì giá trị của khoảng thời gian sau Phục Sinh khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ cũng sẽ không còn; vì lúc đó, người ta có thể giải thích những lần hiện ra này chỉ như những cảm nghiệm chủ quan của các môn đệ mà thôi. Điều này dễ dàng dẫn tới ý tưởng sau: điều xảy ra lúc Phục Sinh là một biến cố ngoại sử (extra-historical), chứ không hẳn là cơ sở và là sự viên mãn của chính lịch sử. Nghĩa là: nếu ta đánh mất Thăng Thiên, thì việc này chắc chắn sẽ dẫn tới một thứ “huyễn tượng luận cánh chung” (eschatological docetism) tức là ta sẽ đánh mất sức nặng và sự rắn chắc của thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu. Càng duy trì được tính hiện thực của những lần hiện ra sau Phục Sinh và của Thăng Thiên, ta càng khó bị rơi vào những mơ hồ vừa kể.
Farrow cũng nhấn mạnh rằng hòa lẫn hai biến cố thành một sẽ rơi vào một lầm lẫn có tính Giáo Hội học. Thực vậy, Thăng Thiên giúp ta nhìn nhận sự kiện này: Chúa Giêsu lìa khỏi ta. Và làm thế, nó bảo đảm sự phân biệt giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu không đơn thuần hiện diện một cách hoàn toàn trong Giáo Hội. Nhìn dưới ánh sáng này, các lời than van của Thầy Luis de Leon, mà chúng ta nhắc tới ở đâu bài này, xem ra không hoàn toàn không có căn bản.
Farrow cho rằng nếu ta bỏ Thăng Thiên đi, thì điều này sẽ dẫn tới việc tuyệt đối hóa Giáo Hội, như thể sự hiện diện của Chúa Giêsu đã bị Giáo Hội hoàn toàn hoàn hợp (consummated), như thể Giáo Hôi phần nào thay thế hẳn cho Thầy Chí Thánh. Nhờ phân biệt hai cách thế gặp gỡ Chúa Kitô, tức cách gặp gỡ của các nhân chứng đầu tiên và cách gặp gỡ của các tín hữu khác, Thăng Thiên nhắc ta nhớ rằng cách ta tìm thấy Chúa Giêsu không đơn thuần nhờ Phục Sinh, mà nhờ tất cả những gì tiếp theo sau việc Thăng Thiên; ta là những người “không thấy mà tin” (Ga 20:29).
Ta phải nói gì về đề xuất này? Dù nhận cho quan tâm của Farrow có giá trị đi chăng nữa, ta vẫn phải nói rằng ông đã không lưu ý đủ tới một điểm quan trọng: cách Chúa Giêsu hiện diện với ta sau Thăng Thiên thực ra hoàn hảo hơn cách Người hiện diện với các môn đệ trước Thăng Thiên, và tính vô hình của sự hiện diện này không làm nó bớt có tính xác thân (corporeal).
Ta phải hòa giải việc cần phải duy trì tính thống nhất của hai mầu nhiệm này với việc cần phải phân biệt chúng ra sao? Tìm hiểu 40 ngày Chúa Giêsu sống với các môn đệ sau Phục Sinh sẽ giúp ta trả lời câu hỏi này.
Còn tiếp
Thế kỷ thứ tư, một mệnh phụ Rôma giầu có tên là Poemenia đã cho xây một nhà thờ trên Núi Cây Dầu, nơi Chúa Kitô về trời. Thánh điện này có một tháp vòm lộ thiên để tín hữu có thể ngắm bầu trời trong khi cử hành phụng vụ. Ở các thánh điểm khác tại Đất Thánh, khách hành hương luôn tìm cách bước theo dấu chân Chúa Giêsu; còn ở đây, họ ngước mắt hướng lên bầu trời nơi, theo trình thuật của Thánh Luca, Thầy Chí Thánh ra đi lúc Người thăng thiên. Theo lời thầy Luis de León, việc chia tay này với Chúa Giêsu cũng như đám mây “quyện lấy Người” đem Người đi khỏi tầm nhìn của ta cho phép ta đọc mầu nhiệm này trong hoài nhớ. Dòng Thánh Augustinô có dành một bài thơ cho Thăng Thiên để trách Chúa Giêsu ra đi: “Còn Ngài, hỡi Mục Tử thánh thiện, bỏ đoàn chiên Ngài ở lại thung lũng này, sâu hoắm và tối đen, trong cô đơn và sầu khổ, xé nát bầu khí thanh trong, Ngài trẩy về chốn bất tử, an tòan và an ninh ư?”. Bài thơ này tiếp tục than vãn nỗi bất hạnh của những kẻ mất Thầy, những kẻ tội nghiệp và sầu khổ, không còn biết quay về đâu. Thi sĩ Péguy cũng phát biểu cùng một tình cảm này trong Mầu Nhiệm Bác Ái Của Gioan Thành Arc. Các nhà thờ trong thế giới Kitô Giáo, với những đền thánh vĩ đại và các bổn mạng danh tiếng, chẳng bao giờ so sánh được với những người và những nơi từng được chứng kiến từng bước chân của Chúa Giêsu, từng cầu khẩn Người và thậm chí còn được đụng tới vạt áo Người:
“Hỡi các giáo xứ Pháp, giáo xứ ấy đã được ban điều chưa bao giờ được ban cho các ngươi, điều từ thuở đời đời chưa bao giờ được ban cho bất cứ giáo xứ nào khác… Hạnh phúc thay người phụ nữ đã đổ dầu thơm lên chân Người, đã xức thuốc thơm lên đầu Người… lên chân Người, lên đầu thân thể Người… Mọi đấng thánh nam thánh nữ đang chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ngự bên tay phải Chúa Cha. Và ở đó, ở thiên đàng, Người có, người có thân xác làm người của Người, thân xác nhân bản trong trạng thái vinh hiển, vì Người là thế nào thì Người lên Thiên Đàng thế ấy, vào ngày thăng thiên. Nhưng ngươi, chỉ một mình ngươi, ngươi được thấy, ngươi được rờ, người nắm được thân xác nhân bản ấy trong tính nhân loại của nó, trong tính nhân loại chung, từng bước đi ngồi xuống trên mảnh đất chung của chúng ta này”.
Tuy nhiên, các Tin Mừng từng thuật lại việc ra đi của Chúa Kitô không hề cho phép ta đọc cuộc Thăng Thiên một cách hoàn toàn hoài nhớ. Thánh Luca, chẳng hạn, nhấn mạnh tới niềm vui các tông đồ đem trở lại Giêrusalem, một niềm vui lớn gợi nhớ lại việc Đấng Mêxia sinh ra, và do đó đem việc hạ sinh này tới chỗ hoàn tất (xem Lc 2:10 và 24:52). Đây là niềm vui của những người từng gặp gỡ đức tin (xem Cv 8:8 và 15:3), thực sự đã dự phóng niềm vui trọn vẹn của Chúa Thánh Thần, được Chúa Giêsu nói cho các tông đồ hay ở Buổi Tiệc Ly (Ga 16:24 và 17:13). Như thế, các tông đồ đâu có hiểu Thăng Thiên như một mất mát; đúng hơn, các ngài đã được ban cho một dư thừa mới. Chính Chúa Giêsu bảo đảm với các ngài rằng “Thầy đi thì tốt hơn cho các con” (Ga 16:7). Điều này có nghĩa: trong mọi mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu, Thăng Thiên gần gũi nhất đối với chúng ta; nó là khởi điểm của Đức Tin và của Chúa Kitô và của việc chiêm ngắm con người và việc làm của Người. Như Romano Guardini từng nhận định, trong các trước tác Tân Ước, các thư của Thánh Phaolô, trên thực tế, dễ hiểu nhất đối với người tin, bất chấp tính phức tạp biểu kiến của chúng. Chỉ khi nào lấy giáo huấn của Thánh Phaolô làm hậu cảnh, tín hữu mới có thể tiếp cận các tin mừng nhất lãm mà không sợ giải thích sai lầm chúng.
Dù điều này xem ra nghịch lý, nó vẫn có ý nghĩa sâu xa: kinh nghiệm của Thánh Phaolô giống kinh nghiệm của ta nhiều hơn cả. Ngài không thấy cũng chẳng rờ được Chúa Giêsu, như những người khác lúc Người còn trên cõi thế; đúng hơn, ngài biết Người qua ánh sáng đức tin và quyền lực Chúa Thánh Thần. Trong khi thánh nữ Maria Mađalêna muốn bám lấy Chúa Kitô phục sinh (xem Ga 20:17) để thánh nữ tiếp tục có được các tiếp xúc với Người theo cách quen thuộc xưa nay, thì thánh Phaolô viết rằng “dù có lần ta đã biết Chúa Kitô theo thân xác, thì nay, ta không còn biết Người như thế nữa” (2Cor 5:16). Không lạ gì Thánh Augustinô coi Lễ Thăng Thiên là đỉnh cao của năm phụng vụ.
Nguồn suối sự sống Kitô Giáo phát nguyên từ đây, trong cách thế hiện diện khác biệt của Chúa Giêsu, một sự hiện diện đã được khai mạc trên Núi Cây Dầu. Ở lúc Thăng Thiên, tín hữu nhận được các phương hướng chính cho cuộc sống của mình với Chúa Kitô; cấu trúc của nhiệm cục bí tích và của ý nghĩa cùng sứ mệnh của Giáo Hội; và đặc điểm mới của kỷ nguyên Kitô Giáo, trong đó, thời cuối cùng đã khởi đầu. Ta phải hiểu ra sao về tính đồng thời của việc vừa hiện diện vừa vắng bóng được biến cố Thăng Thiên này làm chứng? Để trả lời cho câu hỏi này, ta hãy bắt đầu nghiên cứu trình thuật của Thánh Luca.
1. Trình thuật Lên Trời
Thánh Luca không phải là tác giả duy nhất kể với chúng ta việc Chúa Kitô lên trời. Sự kiện này được làm chứng dưới hình thức này hay hình thức nọ trong toàn bộ Tân Ước. Nó là thành phần trong trình thuật sơ truyền (kerygmatic) thuật lại cuộc đời Chúa Giêsu và sau này, nó đã bước vào Kinh Tin Kính. Tuy thế, tin mừng gia thứ ba là người thuật lại biến cố này một cách chi tiết hơn cả và đem lại cho nó một tầm quan trọng dứt khoát trong công trình soạn tác của mình. Khung cảnh diễn ra tại Giêrusalem, vốn là điểm đến của Chúa Giêsu và là điểm phát khởi sứ mệnh của Giáo Hội. Chính vì thế, Thánh Luca có thể kết thúc tin mừng của ngài bằng biến cố này, rồi thuật lại nó một lần nữa như một thứ khai mào cho Công Vụ. Thăng Thiên là một mầu nhiệm, giống như thần Janus, nhìn cả đàng sau lẫn đàng trước.
Trước nhất, mầu nhiệm này đi vào quá khứ, đem hành trình của Chúa Kitô đến chỗ hoàn tất. Thánh Luca trình bày cảnh này như để kết thúc đoạn lồng vào (inclusion) thật dài, bắt đầu với các trình thuật tuổi thơ. Ở đây, một lần nữa, Thánh Luca nói tới “niềm vui lớn” từng dùng để mô tả biến cố Truyền Tin (xem Lc 2:10 và 24:52). Mọi sự đều được định vị gần Đền Thờ, nơi các môn đệ thường tới lui để cầu nguyện, và là nơi diễn ra câu truyện của Giacaria, được Thánh Luca sử dụng để khởi đầu tin mừng của ngài. Đàng khác, ta còn được kể về lời chúc lành cuối cùng của Chúa Giêsu, lời chúc lành mà thân phụ Tẩy Giả đã không thể nào ban cho dân chúng được vì ông thiếu đức tin.
Điều đặc biệt quan trọng là phải chú ý tới mối liên kết giữa Phục Sinh và các lần Chúa Kitô hiện ra. Trình thuật của Thánh Luca cho ta cảm tưởng này: Chúa Giêsu đã sống lại, hiện ra với các môn đệ và lên trời vào ngày thứ nhất trong tuần. Như thế, trình thuật đã làm nổi mối liên kết rất chặt chẽ giữa mọi biến cố vượt qua. Do đó, Thăng Thiên đã kết thúc mọi cuộc hiện ra của Chúa Kitô. Cũng một Chúa Giêsu từng đồng hành với các môn đệ trên đường Emmau và hiện ra với các môn đệ ở Phòng Trên Lầu, đã tự để Người được thấy, được tiếp xúc, đã ăn uống với các môn đệ (Cv 10:41), nay kết thúc thời kỳ mầu nhiệm hiện ra trong thân xác phục sinh của Người. Sự kiện này làm mầu nhiệm Thăng Thiên khác hẳn các trình thuật ngoại giáo về việc được đưa lên trời, và khác với các cuộc lên trời khác được kể trong Cựu Ước, như cuộc lên trời của Tiên Tri Êligia: ở đây, Đấng lên trời là Đấng đã phục sinh; thân xác Người đã chiếm hữu được đặc tính phi thường của thân xác đã được thiêng liêng hóa, đầy vinh quang. Thân xác mất hút sau đám mây là thân xác đã chiến thắng cái chết.
Thứ hai, Thăng Thiên cũng được cột chặt với lịch sử tiếp theo, được kể trong Tông Đồ Công Vụ. Ở đây, ta nên nhắc lại việc chúc phúc vĩ đại ở đoạn kết Tin Mừng Luca, một chúc phúc trùng hợp với biến cố Thăng Thiên, và do đó được bất tử hóa trong tâm trí các chứng nhân tận mắt (Lc 24:50). Chúa Giêsu ra đi trong một tư thế đáng lưu ý, với đôi tay trải rộng trên các môn đệ. Ta nên hiểu rằng trong Cựu Ước, chúc phúc là một hình thức Thiên Chúa liên tục hiện diện với dân Người giữa mọi thăng trầm của cuộc đời, đặc biệt bao lâu sự hiện diện này đem lại sự sống: Giavê giáng phúc cho mưa cho nắng, làm ruộng đồng mầu mỡ, ban con cháu cho súc vật và con người. Như thế, quả là lầm lẫn khi coi Thăng Thiên như một kết thúc. Đúng hơn, nó đánh dấu buổi đầu của một thời đại tăng trưởng và mầu mỡ mới. Như thế, chương mở đầu Sách Công Vụ không phải là một lặp lại dư thừa: dù nó thuật lại cùng một mầu nhiệm, nhưng đã thuật lại dưới một ánh sáng mới, với một vọng nhìn về tương lai, về các hiệu quả mà mầu nhiệm này sẽ phát sinh trong đời sống Giáo Hội. Khi Chúa Kitô ngự bên tay phải Chúa Cha, tức biến cố đánh dấu đỉnh cao của Thăng Thiên, ta sẽ thấy rõ ta phải hiểu Thăng Thiên như là mầu nhiệm việc Thầy chí thánh tiếp tục hiện diện với các môn đệ suốt giòng lịch sử. Thánh Máccô làm nổi bật viêc này ở phần kết luận Tin Mừng của ngài: sau khi lên trời, Chúa “cùng hoạt động với các môn đệ” (Mc 16:20). Còn trong Công Vụ, chủ đề nước Thiên Chúa và địa vị chúa tể lịch sử của Người (xem Cv 1:6: “thưa Thầy, có phải lúc này là lúc Thầy sắp sửa khôi phục vương quyền cho Israel không?”) đã được tách biệt khỏi quan tâm quá đáng về việc tính toán ngày giờ chính xác cho biến cố tận thế, để hiểu chúng dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đấng sẽ ban cho các tông đồ quyền lực của Người: “Các con không cần biết thời giờ hay kỳ hạn… Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các con” (Cv 1:7).
Tính đặc thù của mầu nhiệm này nêu lên nhiều câu hỏi. Trước nhất, là câu hỏi về mối tương quan giữa Thăng Thiên và Phục Sinh. Thăng Thiên có đem lại điều gì mới không? Hay nó chỉ là một khía cạnh khác của Phục Sinh, tức việc nâng Chúa Giêsu lên vinh quang Chúa Cha? Và đâu là ý nghĩa của 40 ngày hiện ra với các môn đệ mà theo Thánh Luca đã kết thúc với việc Chúa Kitô lên trời? Đàng khác, ta cũng phải tìm hiểu mối liên hệ giữa Thăng Thiên và thời của Giáo Hội: Chúa Giêsu hiện diện cách mới mẻ ra sao với các môn đệ đến nỗi họ tràn ngập niềm vui khi thấy Người ra đi (Lc 24:52)? Tại sao Người cần phải ra đi, tại sao sứ mệnh của Người cần được trải dài đến lúc này khi “chúng tôi yêu mến Chúa Giêsu, dù không thấy Người” (xem 1 Pr 1:8)? Trước nhất, ta hãy xem xét mối liên kết giữa Thăng Thiên và Phục Sinh.
2. Phục Sinh và Thăng Thiên
Hiện nay, đang có lối giải thích rất phổ thông coi Thăng Thiên chỉ là một khía cạnh của Phục Sinh. Nhiều đoạn trong Tân Ước trình bày Phục Sinh như việc trở lại với sự sống và được hiển dương hay được tôn vinh trên cao. Từ đó có thể nói rằng nếu Phục Sinh tự nó đã là việc được nâng cao lên với Chúa Cha rồi, thì biến cố có tính lịch sử là Thăng Thiên đâu có thêm điều gì có tính yếu tính cho Phục Sinh nữa. Thực vậy, Chúa Kitô không cần phải lên trời, nghĩa là bước vào lãnh vực Thần Linh, vì điều này chính là điều đã xẩy ra rồi trong việc phục sinh của thân xác Người.
Để hỗ trợ cho quan điểm này, ta cần phải nói rằng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không được hiểu đơn giản chỉ là việc “trở lại với sự sống”. Một điều có tính yếu tính vốn phân biệt nó với các phép lạ khác như việc làm cho Ladarô hay làm cho con trai bà góa Thành Naim sống lại. Thân xác ra khỏi mồ của Chúa Giêsu là thân xác không thể hư nát được nữa; thân xác vinh hiển của Người đã tham dự vào sự sống của Thiên Chúa và do đó đã đạt được lối hiện hữu không thể bị khuất phục nữa, một lối hiện hữu được phát sinh mới mẻ cho Thiên Chúa nhờ Thần Khí thánh thiện (xem Rm 1:4).
Ấy thế nhưng điều này khiến ta tự hỏi: điều gì đặc trưng đối với mầu nhiệm Thăng Thiên? Có thể có những câu trả lời như sau. Ta có thể bác bỏ ngay từ đầu bất cứ lý thuyết nào cho rằng đây chỉ là một việc bất hợp pháp vì đã biến chân lý Kitô Giáo thành một huyền thoại theo kiểu các tôn giáo Hy Lạp lúc ấy. Thực vậy, điều đứng đàng sau hậu cảnh của trình thuật Tân Ước là chứng từ của Cựu Ước, vốn phản ảnh lịch sử của một dân tộc đang lên đường tiến về hướng Giavê; và mục đích của hoạt cảnh Thăng Thiên chính là tính cụ thể hoàn toàn của lịch sử cứu độ, hoàn toàn ngược lại với huyền thoại. Như Walter Kasper từng viết, ở đây mythica antimythica dicunt (huyền thoại bị chính ngôn từ huyền thoại tiêu diệt).
Tuy nhiên, dù bác bỏ giả thuyết vừa kể, người ta vẫn có thể cho rằng Thánh Luca đơn thuần sáng chế ra một lý thuyết thần học để giải thích điều xẩy ra lúc Phục Sinh, tách biệt hóa một số khía cạnh của mầu nhiệm để rồi khai triển chi tiết cái hiểu của riêng ngài về lịch sử cứu độ. Thời của Chúa Giêsu được nối tiếp bằng thời của Giáo Hội; và Thăng Thiên đảm bảo liên tục tính giữa hai thời này. Tự nó, Thăng Thiên không có vị trí gì cả ngoại trừ để phát biểu cách cụ thể một chân lý nền tảng. Nếu phải rút ra luận lý học của quan điểm này, thì hẳn nhiên đây là một bác bỏ không những chân lý Thăng Thiên như là một biến cố lịch sử cụ thể, mà còn bác bỏ luôn các lần hiện ra sau Phục Sinh nữa. Điều này đặt đức tin vào chỗ sai lầm của thuyết huyễn tượng (docetism); đối với thuyết này, Phục Sinh là một biến cố hoàn toàn nội tâm.
Một khả thể khác là chấp nhận rằng các lần hiện ra có diễn ra, nhưng phải coi chúng như một thứ quá trình thích nghi của các môn đệ. Họ cần có thời gian để hiểu Phục Sinh, là biến cố đảo lộn hết cái hiểu của họ về thế giới, về con người, và về Thiên Chúa. Họ cần vững tâm đối với chân lý Phục Sinh của Chúa Giêsu, được đụng chạm vào Người bằng thân xác; và điều này đơn thuần đòi một kiên nhẫn thích đáng đối với thân xác. Lối nhìn này có tính đến một sự kiện quan trọng và có lưu tâm thoả đáng tới tính thể xác của Phục Sinh. Tuy nhiên, điều đáng để ý ở đây là: Thăng Thiên không được coi như có liên hệ tới chính Chúa Kitô. Nó chỉ là lần hiện ra cuối cùng sau Phục Sinh, chỉ là một hiện ra nữa trong một loạt hiện ra, chỉ khác biệt vì nó được dùng để kết thúc thời kỳ cần thiết cho việc thiết lập các trụ cột cho Giáo Hội. Tức là, lối giải thích này không phân biệt Phục Sinh và Thăng Thiên trong liên hệ với chính Chúa Giêsu, nhưng chỉ liên hệ tới việc tiếp nhận các biến cố vượt qua của các môn đệ mà thôi. Trong lối nhìn này, trọng điểm của Thăng Thiên chỉ có tính giáo huấn.
Vấn đề bao quanh sự dị biệt giữa Phục Sinh và Thăng Thiên khá tế vi. Quả là khó khi cố gắng hiểu thân xác vinh hiển là như thế nào, càng khó hơn nữa là muốn hiểu một thứ trạng thái trung gian, tức trạng thái Chúa Giêsu từ từ được vinh hiển hóa trong thân xác của Người; khó mà có sự gia tăng gì nơi Người vì Người là Đấng đã hưởng trọn sự viên mãn cuối cùng, tức sự viên mãn dứt khoát và không thể vượt qua được. Tuy nhiên, trước khi giải quyết các khó khăn liên quan tới các quan niệm này, tưởng nên tìm hiểu các từ ngữ của vấn đề, hiểu rõ hơn ở đây muốn nói tới điều gì.
Một đàng, điều chủ yếu là phải nhấn mạnh tới mối liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm này. Trình thuật của Thánh Luca không tách rời chúng, dù có phân biệt. Một động lực duy nhất đã phát khởi từ Vọng Phục Sinh, kéo dài suốt thời gian có các cuộc hiện ra, và lên tới tột đỉnh ở lúc Thăng Thiên. Ta có thể nói rằng khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, thì Người luôn như một Đấng “đang ở trên đường” từ từ tiến về Chúa Cha; ta không thể “bám” vào Người. Khó có thể nhận ra mặt Người vì đây là gương mặt đang chuyển động hướng về Chúa Cha trên cao; gương mặt Người đã thay đổi, như một âm thanh khi nguồn của nó di chuyển xa ta.
Như thế, điều chủ yếu là duy trì sự thống nhất của hai mầu nhiệm, như các sách Tin Mừng vốn làm, luôn trình bày Phục Sinh như một sự tôn vinh, hay một việc lên trời, dù chưa minh nhiên dùng chữ Thăng Thiên. Đàng khác, tính thống nhất này ngăn cản ta không được quên sự thật của Phục Sinh, vốn không đơn thuần chỉ là việc trở lại với sự sống, mà đúng hơn là sự viên mãn trong liên hệ với Chúa Cha; sự bất tử vốn được hiểu là việc con người trở thành con cái mới của Thiên Chúa.
Đàng khác, hai biến cố vẫn cần được phân biệt với nhau. Cho dù phải bênh vực tính thống nhất của Phục Sinh và Thăng Thiên, ta cũng vẫn phải tránh không được che dấu việc Chúa tỏ mình ra cho các môn đệ và việc này nữa: các lần Người hiện ra với các môn đệ đều diễn tiến trong một diễn trình thời gian. Theo tác phẩm của Đức HY Walter Kasper về vấn đề này, câu hỏi của chúng ta ở đây được nối kết với đặc điểm lịch sử của Kitô Giáo. Ơn cứu rỗi diễn ra trong lịch sử và do đó sở hữu được tính mới mẻ và bất phản hồi riêng của nó; thực vậy, đó chính là điều bảo đảm cho tính nhưng không của ơn cứu rỗi, không thể coi nó như một điều Thiên Chúa mắc nợ con người, như một điều gì con người có “quyền”, như một nhu cầu mà bản chất của tạo dựng đòi phải có. Như đã nhận định trên đây, chủ trương Thăng Thiên có đặc điểm lịch sử là bác bỏ bất cứ lối giải thích nào muốn biến nó thành một thứ huyền thoại. Vì não trạng huyền thoại nhìn lịch sử chỉ như một chu kỳ lặp đi lặp lại một mẫu biến cố đã được ấn định từ thuở đời đời, một chu kỳ bắt buộc phải diễn ra theo một thứ tất yếu bi thảm nào đó.
Ý niệm sau đây, một ý niệm được Kaspers nhấn mạnh, có tính hết sức chủ yếu: Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không làm mất thời gian tính của bản tính nhân loại nơi Người; dù đã được hiển vinh, Chúa Giêsu vẫn không bước sang một thứ cảnh vực bên ngoài lịch sử. Nhà thần học người Đức này cho rằng “sự kiện Thánh Luca mô tả việc Chúa Giêsu lên hưởng vinh quang Thiên Chúa như một con đường, theo chúng tôi, có nghĩa là trong và qua sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu không những tiếp nhận cho mình không gian mà cả thời gian nữa và Người dấu thời gian này trong Thiên Chúa, để đưa ra ánh sáng sự viên mãn của mọi thời gian và kết hợp các thời gian này trong chính Người”. Kasper không nói rõ thêm về sự phân biệt giữa Phục Sinh và Thăng Thiên, dù ngài quả có kết luận rằng sự phân biệt giữa hai mầu nhiệm do Thánh Luca đưa ra nói lên một khía cạnh nền tảng của Phục Sinh, và do đó, hợp lý.
Một cuộc nghiên cứu gần đây của D.Farrow đã nhấn mạnh tới sự khác nhau giữa hai mầu nhiệm và nhận định rằng làm mờ đường răn giữa hai mầu nhiệm này là một điều nguy hiểm. Thí dụ, Farrow cho rằng có thể có cái nguy cơ thiêng liêng hóa sự Phục Sinh. Nếu Thăng Thiên thực sự không xẩy ra, thì giá trị của khoảng thời gian sau Phục Sinh khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ cũng sẽ không còn; vì lúc đó, người ta có thể giải thích những lần hiện ra này chỉ như những cảm nghiệm chủ quan của các môn đệ mà thôi. Điều này dễ dàng dẫn tới ý tưởng sau: điều xảy ra lúc Phục Sinh là một biến cố ngoại sử (extra-historical), chứ không hẳn là cơ sở và là sự viên mãn của chính lịch sử. Nghĩa là: nếu ta đánh mất Thăng Thiên, thì việc này chắc chắn sẽ dẫn tới một thứ “huyễn tượng luận cánh chung” (eschatological docetism) tức là ta sẽ đánh mất sức nặng và sự rắn chắc của thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu. Càng duy trì được tính hiện thực của những lần hiện ra sau Phục Sinh và của Thăng Thiên, ta càng khó bị rơi vào những mơ hồ vừa kể.
Farrow cũng nhấn mạnh rằng hòa lẫn hai biến cố thành một sẽ rơi vào một lầm lẫn có tính Giáo Hội học. Thực vậy, Thăng Thiên giúp ta nhìn nhận sự kiện này: Chúa Giêsu lìa khỏi ta. Và làm thế, nó bảo đảm sự phân biệt giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu không đơn thuần hiện diện một cách hoàn toàn trong Giáo Hội. Nhìn dưới ánh sáng này, các lời than van của Thầy Luis de Leon, mà chúng ta nhắc tới ở đâu bài này, xem ra không hoàn toàn không có căn bản.
Farrow cho rằng nếu ta bỏ Thăng Thiên đi, thì điều này sẽ dẫn tới việc tuyệt đối hóa Giáo Hội, như thể sự hiện diện của Chúa Giêsu đã bị Giáo Hội hoàn toàn hoàn hợp (consummated), như thể Giáo Hôi phần nào thay thế hẳn cho Thầy Chí Thánh. Nhờ phân biệt hai cách thế gặp gỡ Chúa Kitô, tức cách gặp gỡ của các nhân chứng đầu tiên và cách gặp gỡ của các tín hữu khác, Thăng Thiên nhắc ta nhớ rằng cách ta tìm thấy Chúa Giêsu không đơn thuần nhờ Phục Sinh, mà nhờ tất cả những gì tiếp theo sau việc Thăng Thiên; ta là những người “không thấy mà tin” (Ga 20:29).
Ta phải nói gì về đề xuất này? Dù nhận cho quan tâm của Farrow có giá trị đi chăng nữa, ta vẫn phải nói rằng ông đã không lưu ý đủ tới một điểm quan trọng: cách Chúa Giêsu hiện diện với ta sau Thăng Thiên thực ra hoàn hảo hơn cách Người hiện diện với các môn đệ trước Thăng Thiên, và tính vô hình của sự hiện diện này không làm nó bớt có tính xác thân (corporeal).
Ta phải hòa giải việc cần phải duy trì tính thống nhất của hai mầu nhiệm này với việc cần phải phân biệt chúng ra sao? Tìm hiểu 40 ngày Chúa Giêsu sống với các môn đệ sau Phục Sinh sẽ giúp ta trả lời câu hỏi này.
Còn tiếp
Mầu nhiệm lên trời: các hoa trái đầu tiên của xác thịt và thần khí (2)
Vũ Văn An
06:15 31/05/2014
3. Bốn mươi ngày sau Phục Sinh của Chúa Giêsu
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu cho phép các môn đệ đước thấy và rờ tới Người; Người ăn uống với họ (Cv 10:41) cho tới ngày Người lên trời. Cái khó mà chúng ta đã thảo luận trên đây, là phải hiểu như thế nào về sự viên mãn vốn đã có ở lúc Phục Sinh dưới ánh sáng sự tôn vinh Chúa Giêsu từ từ diễn ra sau đó. Trong khoảng thời gian tiếp sau cuộc Phục Sinh, có thể nào Thầy Chí Thánh trải nghiệm một sự gia tăng trong vinh quang của Người, cho tới độ điều ta thấy trên Núi Cây Dầu tương ứng thực sự với điều Con Thiên Chúa trải nghiệm?
Bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi trên phải bắt đầu với thân xác phục sinh của Chúa Giêsu, là thân xác, khi được hiển vinh, không trở thành thứ thân xác có tính siêu trần (ethereal corporeality), một thân xác ta khó có thể gọi được là thân xác đúng nghĩa. Đúng hơn, nó là sự viên mãn của điều ta vốn hiểu như là hiện hữu thân xác. Nếu đúng như thế, thì, vì mối liên kết giữa thân xác và thời gian, thời gian tính của thân xác phục sinh không thể đơn thuần biến mất được. Trái lại, lúc này, thân xác vẫn phải có tính “thời gian” một cách càng sâu xa hơn nữa. Chúa Giêsu phục sinh tiếp tục “có” thời gian vì nhân loại và với nhân loại.
Chiều kích này, một chiều kích ta đã nghiên cứu trên đây nhờ các tìm tòi của Kasper, cũng đã được nhấn mạnh trong nền thần học lịch sử của Hans Urs von Balthasar. Đối với thần học gia này, bốn mươi ngày giữa Phục Sinh và Thăng Thiên là giai đoạn quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của khoảng thời gian này? Balthasar làm nổi bật sự kiện này: Đấng Sống Lại không sống “bên ngoài” thời gian, trong một vĩnh cửu phi thời gian. Trái lại, nay là lúc Người chiếm hữu một thứ thời gian mới, một thứ thời gian đã được làm hoàn hảo, và do đó thoát khỏi mọi thiếu sót vốn là đặc điểm của thời gian tính bằng lịch của ta. Chính lúc hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu muốn xác nhận với họ sự hiện diện liên tục của Người trong lịch sử, một hiện diện đã được làm cho trọn vẹn nhờ sự phục sinh của Người.
Nhà thần học Basel nhấn mạnh tới khả năng của Chúa Giêu trong việc đồng hành với ta trong chính thời gian của ta; ông thấy chứng cớ rõ ràng nhất của khả năng ấy trong 40 ngày này. Như Balthasar từng giải thích, vì sự viên mãn của thời gian trong đó Chúa Giêsu sống sau Phục Sinh không thể thay đổi được, nên việc hiện ra sau Phục Sinh giúp ta hiểu được cách thế Người hiện diện thực sự với ta sau Thăng Thiên. Do đó, Giáo Hội có thể chắc mẩm rằng, bất chấp tính vô hình của Thầy Chí Thánh mình, Chúa Giêsu vẫn đồng hành với Giáo Hội trong cuộc lữ thứ trần gian. Tuy nhiên, đối với Balthasar, có một dị biệt quan trọng ở đây: trong khi Chúa Giêsu cho phép các môn đệ thấy và rờ tới Người trong 40 ngày này, thì nay Người hiện diện với ta trong các bí tích. Nhưng, trong căn bản, vẫn có sự đồng nhất giữa hai giai đoạn này.
Và vì hình thức thời gian thuộc về Chúa Kitô phục sinh không thể nào thay đổi với việc Thăng Thiên của Người, nên điều cần thiết phải nắm vững là: hình thức thời gian được tỏ hiện trong thời gian 40 ngày này mãi là nền tảng cho mọi hình thức hiện diện khác của Người trong thời gian, trong Giáo Hội, và trong thế giới. Cách thế hiện diện của Người, được tỏ bày trong 40 ngày này, là hình thức tối hậu của thực tại nơi Người. Việc Thăng Thiên của Người không làm Người ra xa lạ với thế giới. Người lồng 40 ngày này giữa Phục Sinh và Thăng Thiên để chỉ cho các môn đệ thấy một cách trực tiếp và rờ mó được thực tại mà với nó Người sẽ mãi mãi ở với họ “mọi ngày cho tới lúc tận cùng thế giới” (Mt 28:20).
Ta phải nhấn mạnh với Balthasar sự viên mãn của Chúa Giêsu phục sinh, cũng như tính liên tục của việc Người hiện diện cả trước và sau khi lên trời. Tuy nhiên, ta vẫn cần phải tìm hiểu một cách thật chi tiết đâu là sự khác biệt giữa các lần Chúa Kitô hiện ra sau Phục Sinh, và sự hiện diện có tính bí tích của Chúa Giêsu đã lên trời. Há sự thay đổi trong cung cách các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu không có nghĩa một thay đổi ngay trong sự hiện hữu của Thầy Chí Thánh đó sao? Để trả lời câu hỏi này, ta phải đào sâu hơn nữa sự phân tích của ta về bản chất thời gian của Chúa Giêsu sau Phục Sinh.
Ta nên mô tả ra sao cách thế mới Chúa Kitô cảm nghiệm thời gian? Trước nhất, không hề có đặc điểm “tiêu cực” nào trong cảm nghiệm này cả. Thời gian của Chúa Kitô phục sinh là thời gian đã được thể hiện một cách hết sức viên mãn. Do đó, Chúa Giêsu không “chịu” sự tiếp diễn của thời gian; đúng hơn, thời gian hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của Người. Vì thời gian sau Phục Sinh của Người dư tràn sự sống, nên ta có thể nói rằng Người xác định cách thế để tuôn đổ sự hiện diện của Người ra trong lịch sử, một cách tự quyền như vua chúa. Thời gian này không áp đặt lên Chúa Giêsu như một gánh nặng, mà nó cũng không phải là một vết thương mở toang để qua đó, sự hiện hữu lọt vào. Nó là một thời gian không biết tới buồn chán hay vội vã. Như thế, ta phải nghĩ lại cảm nghiệm của ta về thời gian và nhìn nó dưới một ánh sáng mới, một thời gian đã được gạn sạch mọi tha hóa (alienation) từng xẩy ra cho ta sau Cơn Sa Ngã của nguyên tổ. Nếu lý tưởng cứu rỗi của ta là tuyệt đối kiểm soát được đời mình, thì chắc chắn ta muốn được giải thoát khỏi thời gian, vì giòng chẩy của thời gian không hề nằm dưới quyền thống trị của ta. Việc này đưa tới một quan điểm lý tưởng hóa về cứu rỗi, tức thoát khỏi mọi may rủi tùy thể của lịch sử. Dĩ nhiên, cảm nghiệm của ta về thời gian cũng có thể được nhìn cách khác. Thời gian xem ra có vẻ mâu thuẫn với ảo giác của ta muốn kiểm soát hoàn toàn các khả năng cũng như các liên hệ của ta với thế giới. Bất cứ ai biết nhìn nhận rằng căn tính của họ bị cột vào thời gian đều luôn phải đấu tranh với các yếu tố ở bên ngoài các kế sách riêng của họ: quá khứ đã vượt quá tầm kiểm soát, còn tương lai thì mãi mãi là chuyện họ không biết chắc. Như thế, thời gian bắt ta phải hiểu sự sống như một điều gì đó cởi mở, như một điều gì đó có tương quan. Trong một tầm nhìn như thế, ta có thể thấy thời gian như một mở cửa chào đón người khác, như một hình thức hiện hữu có tính bản vị sẵn sàng chào đón hiệp thông và nhờ thế tự nâng cao hơn chính mình. Thí dụ, thời gian giúp tôi tương quan với những ai đi trước tôi trong đời, mà từ họ, tôi đã nhận được các điều kiện để triển khai lịch sử riêng của tôi. Đàng khác, hiện hữu trong thời gian là điều đem lại sự mới mẻ và sự ngạc nhiên đầy ơn phúc cho từng cuộc gặp gỡ, điều mà tôi vốn không thể nào diễn dịch từ bất cứ tiền đề quá khứ nào. Điều này nữa: sống trong thời gian khiến ta tin chắc rằng chỉ có tình yêu, chỉ có cảm nghiệm hứa hẹn, mới đáp ứng được nhu cầu thống nhất của ta và mới vượt qua được sự phân chia cuộc sống ta thành quá khứ, hiện tại và tương lai.
Điều trên mang lại cho ta một giải thích tích cực về thời gian. Trước nhất, thời gian, khi dõi nhìn về quá khứ, tự ý thức được việc mình có nguồn gốc từ người khác. Trên căn bản này, thời gian giúp ta khám phá ra: Thiên Chúa là nguồn sự sống và giúp ta biết lắng nghe tiếng gọi của Người và kế hoạch của Người dành cho ta. Điều này có giúp ta hiểu việc Chúa Giêsu sống chiều kích thời gian này như thế nào không? Đấng Sống Lại sống thời gian của Người trong một tâm tình con thảo trong sáng, như cơ hội để Người tiếp nhận các hồng phúc của Chúa Cha; quá khứ của Người khiến Người nhìn nhận rằng Chúa Cha là Nguồn Gốc không ngừng sinh ra Người, luôn luôn hiện diện và luôn luôn hoạt động. Thứ hai, trong chiều kích tương lai của nó, thời gian được coi như một cơ hội đem sự sống đến cho một điều gì đó, mà khi từ ta phát sinh ra, nó sẽ lớn hơn chính ta: đây chính là cảm nghiệm mầu mỡ (fecundity), hay khả năng đem lại sự sống, trao ban cho người khác điều ta đã tiếp nhận được từ Thiên Chúa. Sống hướng về tương lai có nghĩa: sự hiện hữu của ta sẵn sàng mở cửa đón chào việc sinh hoa kết trái. Một lần nữa, Chúa Giêsu cũng đã sống chiều kích này một cách viên mãn. Qua sự Phục Sinh của Người, Người là chính sự hiến tặng sự sống trọn vẹn, một nguồn suối tự thông truyền cho Giáo Hội và sinh hạ Giáo Hội cho Thiên Chúa. Thứ ba, trong giòng chẩy hiện tại của nó, thời gian của ta là một đơn nhất trong đa dạng, một diễn tiến liên tục của quá khứ, hiện tại và tương lai. Ta chỉ có thể vượt qua được sự ngắt quãng hiện nay giữa quá khứ và tương lai, giữa tương lai và hiện tại, nhờ một lời hứa được đưa ra và được duy trì, vì lời hứa bảo đảm tính liên tục cho căn tính của ta trong thời gian. Và bởi thế, lúc Phục Sinh, Chúa Giêsu sống thời gian của Người theo lời hứa hẹn của Thiên Chúa, như một thời gian đã được thống nhất hóa nhờ lòng trung thành của Chúa Cha và nhờ đáp trả trung tín của Chúa Con.
Như thế, với Phục Sinh, thời gian của Chúa Giêsu đã vượt qua được cửa ngõ sự chết và trở thành một thời gian mới, sống trọn vẹn trong tình yêu dành cho Chúa Cha, Đấng được thừa nhận là Nguồn Gốc và Đích Đến. Phục Sinh đem tới một thời gian thiêng liêng, nghĩa là một thời gian được sống như một cởi mở trọn vẹn cho tương quan (với Chúa Cha và với con người). Theo nghĩa này, ta có thể nói rằng thời gian đã đi vào vĩnh cửu, một vĩnh cửu hiểu như là một trao đổi yêu thương liên tục và năng động giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Thời gian phục sinh hay thời gian thiêng liêng là thời gian trong đó, quá khứ được giải thích theo cách thế sinh làm con (filiality), như việc được hạ sinh từ Chúa Cha; tương lai được giải thích như khả năng trao ban sự sống; còn hiện tại được giải thích như một nối kết lòng trung thành với một lời hứa, trong đó, trọn vẹn sự đáp trả của Chúa Con tương ứng với hồng phúc của Chúa Cha. Các phân biệt riêng của thòi gian vẫn không biến mất; thực vậy, các phân biệt này rất chủ yếu nếu ta biết tôn trọng thứ bậc và tính năng động của việc các ngôi vị hiệp thông với nhau. Nhờ sự viên mãn của thời gian, Chúa Giêsu trở thành Chúa của thời gian: Chúa của quá khứ, một quá khứ đến trước Người, trở lui tới tận Ađam, và Chúa của tương lai, một tương lai diễn ra giữa việc Phục Sinh của Người và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang.
Đến đây, ta có thể trở lại với câu hỏi của ta liên quan tới sự phân biệt giữa thời gian trước và thời gian sau Thăng Thiên. Ta đã cho rằng thời gian thiêng liêng của Chúa Kitô đã trở thành sự viên mãn của sức mạnh tương quan. Nó không phải là một trạng thái không có thời gian nhân bản, mà thực ra có nghĩa này: Chúa Kitô đồng hành theo nhịp thời gian của ta một cách còn gần gũi hơn nữa. Bởi thế, Phục Sinh không đem Chúa Kitô ra khỏi thời gian, mà đúng hơn là điều giúp Người dìm mình trọn vẹn hơn trong thời gian. Thực vậy, ta mới là những kẻ không sống trong cái viên mãn của thời gian; chính ta mới là những kẻ đôi lúc cảm thấy thời gian đã qua khỏi ta. Như nhân vật trong tiểu thuyết của Vassily Grossman, chính ta mới là những kẻ xem ra thời gian đã bỏ xa, và nay ta chỉ là “những đứa con ghẻ của thời gian”.
Thiển nghĩ đặc điểm tương quan này của thời gian nhân bản, một đặc điểm đã nên trọn trong Chúa Giêsu, đã mở ra khả thể có nhiều giai đoạn trong việc Chúa Kitô được tôn vinh. Ở đây, chúng ta không có ý quả quyết rằng thời gian của Chúa Kitô, tự nó, vẫn còn cần được thống nhất và viên mãn. Đúng hơn, chúng ta muốn xem sét thời gian của Chúa Kitô trong tương quan với mọi người đồng loại khác của Người, một tương quan vốn nội tại trong chính thời gian tính. Xét như thế, chỉ khi nào lịch sử đã hoàn toàn chung cục thì thời gian của Chúa Giêsu mới chung cục. Quan niệm thời gian này khiến ta có thể quả quyết rằng Thăng Thiên làm gia tăng sự tôn vinh của Chúa Con. Một gia tăng như thế không nhất thiết hàm nghĩa Chúa Kitô không làm chủ thời gian; đúng hơn, nó cho thấy tình yêu khiêm tốn của Người, Đấng, dù trong vinh quang, vẫn sống phù hợp, trong mọi sự, với sự khiêm tốn nơi các môn đệ của Người là những kẻ vẫn còn sống trong thân xác. Tóm lại, nếu cách thế trong đó Giáo Hội sống thời gian của mình thay đổi, thì sự thay đổi này cũng được phản ảnh nơi Chúa Giêsu. Và do đó, chính chiều kích tương quan trong thời gian của Chúa Kitô đã tạo ra sự tuần tự gồm các giai đoạn khác nhau trong cuộc hiện hữu sau Phục Sinh của Người, mà nổi bật nhất là việc Thăng Thiên và việc Người sẽ đến lại trong vinh quang, vì các thay đổi quan trọng do hai biến cố này đem lại cho đời sống các môn đệ.
Để hiểu các giai đoạn khác nhau này một cách chi tiết hơn, ta phải lưu ý tới các thay đổi trong phương cách Chúa Giêsu hiện diện với các môn đệ sau khi Người sống lại. Các bản văn Tin Mừng phân biệt thời gian các lần Chúa Kitô hiện ra với thời gian sau khi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha: chúng là hai cách Người hiện hữu và hành động. Một đàng, thời gian thứ hai hoàn thiện hóa thời gian thứ nhất; nó là sự hiện diện sâu sắc hơn, nhờ đó Kitô hữu có thể đụng chạm tới Chúa Giêsu (xem Ga 20:17), cảm nhận được cảm tình của Người (Ph 2:5) và cùng một tâm trí với Người (xem 1Cor 2:16), vì tiếp nhận được Thánh Thần của Người. Đàng khác, sự giao tiếp này diễn ra nhờ đức tin, chứ không nhờ thị giác (xem Ga 20:29: “Phúc cho những ai không thấy nhưng tin”): có một khoảng cách giữa tín hữu và Chúa Giêsu, đến nỗi bốn mươi ngày cũng có thể được coi như một dự ứng, một ứng trước của sự hoàn hảo hóa trong tương lai, của việc nên trọn sẽ diễn ra vào ngày quang lâm (parousia), vốn là cuộc hiện ra lần chót của Chúa Giêsu (Cv 1:11: “[Người] sẽ trở lại y như cách các ông thấy Người ra đi”).
Quan điểm coi bốn mươi ngày như một dự ứng của cánh chung này từng được Karl Barth nhấn mạnh trong khảo luận của ông về Thăng Thiên. Barth cho rằng có hai dấu chỉ không thể tách biệt nhau đi theo Đấng Sống Lại: ngôi mộ trống một bên và bên kia là việc Người lên trời. Dấu chỉ thứ nhất là dấu chỉ có thể nói là nhìn xuống; bởi thế nó là một dấu chỉ tiêu cực, muốn tuyên xưng rằng Người không còn ở trong số người chết nữa. Không có dấu chỉ này, việc phục sinh của thân xác khó có thể phân biệt được với tính bất tử của linh hồn thiêng liêng; việc phục sinh, trong trường hợp này, chắc chắn sẽ phải giải thích theo lối của phái Ngộ Đạo. Nhưng bên cạnh dấu chỉ này còn một dấu chỉ khác, đó là Thăng Thiên, một dấu chỉ hướng mắt ta lên cao, lên cao mãi, tới tận trời nơi Chúa Giêsu bay lên, và tới tận tương lai, lúc Người trở lại. Dấu chỉ này cho ta thấy rõ: không thể hiểu việc phục sinh của thân xác chỉ như việc trở lại với sự sống nơi dương thế, cho dù sự sống này được quan niệm là tốt hơn sự sống trước đó, không còn lo lắng mà có đầy khả năng. Đúng hơn, trong sự sống Phục Sinh, Thiên Chúa đã chiếm hữu thân xác, đã hoàn toàn dìm thân xác vào trong thể thần linh. Dấu chỉ Thăng Thiên cũng thế, cũng có nghĩa rằng Phục Sinh không phải là việc thoát khỏi lịch sử: vì Phục Sinh tạo ra tương lai tối hậu cho thời gian, nó công bố rằng sự sống của Chúa Giêsu bao hàm trong nó sự chung cục của mọi thế kỷ và vì thế Kitô hữu là người biết tương lai, và biết được tương lai là nhờ ký ức về Thầy Chí Thánh của mình. Như thế, đâu là mối tương quan giữa việc Thăng Thiên của Chúa Giêsu và sự sống mà các môn đệ của Người vẫn đang trải nghiệm trong thời gian?
4. Thăng Thiên và thời của Giáo Hội
Câu hỏi của chúng ta về ý nghĩa của Thăng Thiên phải được hiểu dưới ánh sáng thời gian nó khai sáng. Vì phần chủ yếu của mầu nhiệm này là việc Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha, một việc được Tân Ước liên kết với sứ mệnh Giáo Hội. Cái hiểu của các sách tin mừng và của nền thần học giáo phụ đã theo sát nút trình tự của thánh vịnh: “Hãy tiếp nhận ngai tòa của Con bên tay phải Ta, trong khi Ta biến các địch thù của Con thành ghế Con tựa chân. Vương trượng quyền uy thống trị của Con Chúa sẽ mở rộng từ Xion” (Tv 110:1-2). Các giáo phụ hiểu “vương trượng” này là sức mạnh vô địch của Giáo Hội truyền giáo, tức việc rao giảng lời bắt đầu từ Giêrusalem nhằm truyền bá Tin Mừng ra khắp mặt đất.
Như thế, Thăng Thiên không chủ yếu nói tới việc Chúa Giêsu vắng mặt, mà đúng hơn nói tới việc Người hiện diện cách mạnh mẽ giữa dân của Người. Ngữ cảnh phụng vụ trong trình thuật Luca làm nổi bật mối liên kết giữa Thăng Thiên và Giáo Hội. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu ra đi trong lúc ban phép lành, với cánh tay giương cao, một cử chỉ khiến ta nhớ tới việc tư tế chúc lành trong sách Huấn Ca (Hc 50:20-21). Vì lý do này, Heinrich Schlier đã có thể nói rằng đối với Thánh Luca, Thăng Thiên và chúc lành trùng khớp với nhau: cử chỉ trong lúc Chúa Giêsu ra đi là hình ảnh cuối cùng sẽ còn mãi với các môn đệ; Người ra đi trong khi, chứ không sau khi, chúc lành cho các ông. Ta đã nhận xét trên đây rằng trong Cựu Ước, việc Thiên Chúa chúc lành đem lại sự hiện diện liên tục của Người, một sự hiện diện trở thành nội tại nơi các tạo vật, ban cho chúng sự mầu mỡ và phát triển. Thành thử dễ hiểu lý do tại sao hành vi này tạo cơ sở cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Trình thuật Luca vì thế phù hợp với câu kết luận của Tin Mừng Mátthêu: “Thầy ở với các con mãi mãi, cho tới ngày tận thế” (Mt 28:20).
Sự chúc lành này được tiếp liền với việc các môn đệ có mặt tại Đền Thờ. Sau đó, họ họp nhau cầu nguyện với Đức Maria, Đấng, mà theo Thánh Luca, vốn là hình ảnh của Tân Xion. Ở đây, một lần nữa, Thánh Luca lại nhắc lại tên của nhóm Mười Hai, như thể họ được đặt làm cột trụ của Giáo Hội. Nếu ơn gọi nguyên thủy của họ phát khởi từ lời cầu nguyện của Chúa Kitô (Lc 6:12-16), thì nay ơn gọi này được liên kết với việc Người lên trời. Phụng vụ Kitô Giáo phát sinh từ lời cầu nguyện sau khi Chúa Giêsu ra đi này...
Liệu ta có thể nói rõ thêm về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được trình thuật Luca nhắc tới không? Sự quan trọng được Thánh Luca gán cho Đền Thờ cho ta một chỉ dẫn. Tin Mừng Luca kết thúc bằng cách cho ta thấy các môn đệ ca tụng Chúa trong Đền Thờ. Khởi đầu của Công Vụ cũng diễn ra tại đây. Sau đó, trong các chương bẩy và tám của sách Công Vụ, chúng ta được nghe về cái chết của Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Trước khi bị giết, ngài đọc một diễn văn dài nhằm nói với những người Do Thái đang mưu toan bắt giam ngài. Các lời tố cáo nói rằng ngài có ý định phá hủy Đền Thờ và phá hoại Lề Luật. Để trả lời, Stêphanô đưa ra một trình thuật về lịch sử cứu rỗi, tập trung vào Đền Thờ.
Lãnh thổ mà Thiên Chúa hứa ban cho Ápraham, mảnh đất thánh thiêng mà trên đó Môsê dấn bước khi chứng kiến gụi gai bừng cháy, đều đáng được ngụ cư vì đó là nơi Thiên Chúa cắm lều. Bài diễn văn của Stêphanô kể lại lịch sử của Môsê và Salômông; nó cũng nhắc tới Chúa Giêsu, Đấng mà vị tử đạo trông thấy đang ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (Cv 7:56). Lời cáo buộc phạm thượng mang một ý nghĩa đặc biệt nếu đem so sánh với lời cáo buộc Chúa Giêsu trong lúc Người bị vị thượng phẩm xét xử. Cũng bị tố cáo mưu toan phá hủy Đền Thờ, Chúa Giêsu nói tới việc Con Người sẽ tới, ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (xem Mt 26:64; Lc 22:69). Stêphanô và Chúa của ngài đều bị kết án vì người Do Thái coi việc đồng hóa giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa là điều không thể dung thứ được. Họ hiểu rằng ngồi bên hữu Chúa Cha là ngang hàng với Người. Ở hậu cảnh, là chủ trương cho rằng Thiên Chúa đang xây một Đền Thờ mới, một đền thờ không do bàn tay con người làm nên, mà là chính thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu. Đó chính là điều Stêphanô được chiêm ngưỡng khi ngước mắt nhìn lên cao: Đấng được hiển dương, đang ngự bên hữu Thiên Chúa chính là “Đất Thánh” dứt khoát. Người là chung cục việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người, và là nơi thờ phượng của Kitô hữu.
Các suy tư của Thánh Phaolô giúp ta thâm hậu hóa hơn nữa các tầm nhìn thông sáng trên của Thánh Luca. Ở đây, chúng tôi xin đơn cử một đoạn quan trọng trong thư gửi tín hữu Êphêsô, là đoạn xoay quanh mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Phaolô trích dẫn Tv 68, câu 19 mà ngài cho là áp dụng vào việc Chúa Giêsu lên trời và sau đó việc Chúa Thánh Thần hiện xuống: “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người ban ơn huệ cho con người” (Eph 4:8). Đoạn trích Thánh Vịnh ở ngôi thứ hai, để chỉ Giavê: “Ngài đã lên cao… tiếp nhận lễ dâng của con người”. Ấy thế nhưng phái giáo sĩ Do Thái (rabbi) cho rằng đoạn này nói về Môsê và họ viết là “ban ơn huệ” chứ không “tiếp nhận lễ dâng”, theo nghĩa ban Lề Luật cho dân. Để biến Chúa Kitô thành chủ từ và để chứng minh sự khác nhau giữa Người và Môsê, Thánh Phaolô chú giải rằng Người cần phải đi xuống trước khi có thể đi lên: “ ‘Người đã lên’ nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất?” (Eph 4:9). Xem ra có lý khi cho rằng ở đây, thánh Phaolô có ý nhắc đến việc Nhập Thể (“các vùng sâu thẳm” là trái đất) là việc tương đương với việc Lên Trời để ban ơn huệ cho tín hữu. Các ơn huệ này là để xây dựng Giáo Hội, một điều được Thánh Tông Đồ nói tới ngay sau đó (Eph 4:11-13). Như thế, Thánh Phaolô vừa chứng thực trình thuật của Thánh Luca vừa thêm vào đó một sự kiện quan trọng: mục đích của Thăng Thiên là để Chúa Giêsu “làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4:10). Ở đây, Thánh Phaolô sử dụng một động từ hết sức cô đọng về ý nghĩa, cũng cùng từ một gốc với danh từ pleroma từng xuất hiện trước đó trong thư (xem Eph 1:22-23) và sẽ xuất hiện lần nữa ở bên dưới (Eph 4:13: “tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô”). Ở đầu thư của ngài, Thánh Phaolô quả quyết rằng Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô, “là sự viên mãn của Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Eph 1:23). Ở đây, ta thấy một nền thần học già dặn về Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, một thân thể tiếp nhận sự sống từ chính Đầu của mình là Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hoàn tất hình ảnh hữu cơ của thân thể bằng hình ảnh phu thê vốn bổ túc cho nó (xem Eph 5:21-23). Giáo Hội là một với Chúa Kitô, không những theo nghĩa hợp nhất mọi chi thể với nhau, mà còn theo nghĩa hiệp thông một thân xác theo kiểu Ađam và Evà. Evà là sự viên mãn của Ađam vừa vì lý do nàng đã trở nên một thân xác với chàng, vừa vì nàng là người sẽ cưu mang dòng dõi chàng, dòng dõi sẽ tràn đầy mặt đất. Ở đây, thân thể xuất hiện như là chiều kích tương quan vì sự sống con người, và do đó như là điều giúp cá nhân vượt quá các biên giới của chính họ: sự kết hợp giữa người đàn bà và người đàn ông để sản sinh ra con cái là nền tảng tối hậu để hiểu tư cách bản vị tập thể của Dân Chúa mà Chúa Giêsu đã nâng lên một bình diện mới qua việc Người Nhập Thể và Thăng Thiên.
Như thế, sự viên mãn của Chúa Kitô là điều sẽ tạo ra và mở rộng sự hiện diện của Giáo Hội ra khắp thế giới, trong tư cách hiền thê của Người. Dưới ánh sáng này, Eph 4:10 (Thăng Thiên như giây phút Chúa Kitô làm mọi sự nên viên mãn) là nền tảng của Eph 1:22-23 (Giáo Hội là sự viên mãn của Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha lập làm Đầu). Vì Thân Thể Chúa Kitô ở trong Thiên Chúa, vì Chúa Kitô đã lên trời, thậm chí vào tận trung tâm sự sống Thiên Chúa, nên nay Người có thể làm mọi sự, kể cả chính vũ trụ, nên viên mãn, qua Thân Thể Người là Giáo Hội.
Như thế, một cách rõ ràng, việc Chúa Giêsu lên trời không làm Người tách khỏi thế giới. Vì nay, Đấng Cứu Thế đã bước vào chiều sâu thẳm của Hữu Thể Thiên Chúa, mà từ đó, trọn thế giới đều được Người tới lui. Điều này không có nghĩa Người tan biến vào sự hiện diện khắp nơi của một thuần thần: Người vẫn duy trì mãi mãi đặc điểm xác thân của Người và vì lý do này, cách thế hiện diện mới của Người cũng phải có tính xác thân, không bị giản lược vào sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa mà cũng không tách rời khỏi không gian và thời gian. Đúng hơn, một tính xác thân như thế hàm nghĩa một sự biến đổi không gian và thời gian, là những điều nay được nối kết với thân xác và thời gian do Phục Sinh khai sáng.
Như thế, ta hiểu được sự đóng góp chuyên biệt của mầu nhiệm Thăng Thiên. Như đã nói, nhìn dưới ánh sáng của việc Chúa Giêsu trở thành người con tối cao trong thân xác (Rm 1:4; Cv 13:33), Phục Sinh đã là một “việc bước vào trong” Thiên Chúa rồi. Chiếm hữu một thân xác thiêng liêng hóa chỉ có thể có được vì một thời điểm nhất định, tức cánh chung, đã được khai sáng. Thực tại này làm ta khó tưởng tượng được một điều gì mới có thể xẩy ra cho Chúa Giêsu, bất kể trong các lần hiện ra hay trong biến cố Thăng Thiên. Tất cả dường như chủ yếu chỉ là một thao tác sư phạm, một thích nghi đối với nhu cầu của môn đệ. Tuy nhiên, giải thích sư phạm này không phải là giải thích khả hữu duy nhất.
Ta từng nói rằng thân xác, vốn chìm ngập trong thời gian, là cơ sở cho tính tương quan của sự sống con người. Do đó, thân xác Chúa Giêsu không bao giờ cô đơn cả mà đúng hơn mang trong mình cả một dây nối kết với toàn bộ nhân loại và toàn bộ tạo vật. Sự tròn đầy tuyệt đối của thân xác Người, một vinh quang không nhận bất cứ một gia tăng nào hơn nữa, chỉ có thể đạt được khi thân xác Người, trong sự vinh quang của nó, mặc lấy thân xác của Giáo Hội, và trong thân xác này, mặc lấy toàn bộ vũ trụ.
Với Phục Sinh, Chúa Kitô đã trọn vẹn ở trong liên hệ với Cha Người rồi, đã thủ đắc được một thân xác vinh hiển, một thân xác có thể thông truyền cách hữu hiệu sự siêu việt của Thiên Chúa. Ấy thế nhưng thân xác này vẫn chưa làm cho mọi sự nên viên mãn nhờ sự hiện diện của Người; quyền lực ban sự sống của Người chưa mở rộng ra khắp vũ trụ. Điều này không nên gán cho bất cứ thiếu sót nào nơi Chúa Giêsu, mà đúng hơn cho sự nhẫn nại đối với sự sống trong thân xác mà các môn đệ của Người cũng như toàn thể Giáo Hội vẫn còn đang phải sống. Vì các môn đệ của Chúa Kitô trước hết phải nắm vững sự thật liên quan đến việc Phục Sinh của Chúa Kitô, họ phải thấy rõ thân xác Người không xa lạ với thân xác ta. Họ vẫn còn cần hiểu ra rằng thân xác này đã mặc lấy toàn thể tạo vật. Do đó, sự tôn vinh thân xác Chúa Kitô không tự động bao hàm việc biến đổi thế giới.
Ngay cả sau khi các môn đệ đã được chuẩn bị, hai điều vẫn cần phải xẩy ra trước khi vũ trụ được biến đổi: điều thứ nhất, vũ trụ phải đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Chúa Kitô và thứ hai, phải giúp vũ trụ tham dự vào Thần Trí Chúa Kitô. Điều đầu tiên đã diễn ra với việc Lên Trời; điều thứ hai diễn ra lúc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Hai mầu nhiệm này nối kết với nhau rất mật thiết.
Do đó, như Balthasar từng chỉ ra, bốn mươi ngày này nói lên nền sư phạm của thân xác Chúa Giêsu. Nền sư phạm này làm các môn đệ tràn ngập đức tin, giúp các ông rờ mó được Người, thấy Người, lắng nghe giọng nói của Người một cách mới mẻ. Chính điều này lập các ông thành các trụ cột cho đức tin của Giáo Hội. Thăng Thiên là một bước tiến nữa trong việc thâm hậu hóa mối dây nối kết của Chúa Kitô với Giáo Hội, và qua Giáo Hội, với toàn thể vũ trụ: “Người lên trời… để làm cho mọi sự nên viên mãn” (Eph 4:10). Với chuyển động này, Chúa Kitô vào sâu trong thực tại, chính vì Người đã đạt tới chiều cao của Thiên Chúa. Như thế, không phải Người không ở nơi Thiên Chúa khi lên trời (việc Sống Lại của Người đã là việc Người hoàn toàn ở trong Chúa Cha rồi) nhưng lúc Lên Trời, tương quan mà thân xác Người có với Chúa Cha thủ đắc được chiều kích vũ trụ. Điều này có nghĩa: lúc Lên Trời, Chúa Kitô nhận được từ Chúa Cha một hồng ân mới: qua thân xác Chúa Kitô, Thiên Chúa trở thành hiện diện trong mọi tạo vật; Người sở hữu mọi tạo vật, chiếu sáng mọi nơi còn tối tăm, tăng cường sự hiện diện của Thiên Chúa.
Việc trên chưa xẩy ra vào Chúa Nhật Phục Sinh và do đó, sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa các môn đệ mang nhiều đặc điểm khác nhau. Một đàng, nó kém sâu sắc, kém có tính bao trùm toàn thể hiện sinh. Đàng khác, nó lại tỏ hiện hơn, rờ mó được hơn, như một hiện diện dự ứng cho chung cục, cho thấy: tuy Chúa Giêsu đã có sự sống viên mãn rồi, nhưng sở dĩ Người còn dấu kín là do tình yêu khiêm tốn của Người đối với con người.
Thiết nghĩ đến đây ta phải giải quyết một luận bác có thể có. Quả thật, với mầu nhiệm Nhập Thể, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với thân xác của mọi con người nhân bản; ở trong thân xác có nghĩa là trở nên một với các anh chị em mình, vì đều là con của cùng một gia đình nhân loại. Tuy nhiên, các cách thức trong đó một kết hợp có thể diễn ra trong thân xác thay đổi khá nhiều, tùy theo các đặc điểm trong mối liên hệ bản thân. Sự kết hợp giữa mẹ và con khác với sự kết hợp giữa anh chị em, và cả hai kết hợp này lại khác với sự kết hợp thành một thân xác giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Sự kết hợp của những người sinh ra từ cùng một thân xác khác với sự kết hợp của những người phải cùng nhau đối diện với cái chết thể xác. Theo cách này, ta có thể hiểu được thứ hợp nhất mới mẻ của thân xác Chúa Kitô với thân xác của mọi người trên căn bản Thăng Thiên, với Chúa Cha như là cùng đích tối hậu của nhân sinh. Điều này giúp ta có được sự phân biệt sau đây. Từ lúc Nhập Thể trở đi, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với mọi người vì cùng có Chúa Cha làm nguồn gốc; sự kiện này trở nên hiển nhiên với việc sinh hạ đồng trinh bởi Đức Mẹ. Từ lúc Thăng Thiên, Người nhận được một cách kết hợp mới, một sự kết hợp liên quan tới Chúa Cha như là đích đến tối hậu. Chúa Kitô liên kết thân xác tạo dựng với chính Người, với sự hoàn thành cuối cùng hướng về Thiên Chúa của thân xác này. Đây chính là căn bản của dây nối kết mà các giáo phụ vốn nhấn mạnh giữa Thăng Thiên và Nhập Thể; một số vị đưa ra điều này làm lý do giải thích tại sao Lễ Thăng Thiên đã được cử hành đầu tiên tại Bêlem.
Chỉ khi nào thực hiện được sự kết hợp kép này với chúng ta, trong nguồn gốc và trong đích đến của ta, Chúa Giêsu mới có thể sai Chúa Thánh Thần đến với ta; vì Chúa Thánh Thần là Đấng có thể thực hiện được việc lịch sử trở nên đồng hình đồng dạng với tính vĩnh cửu của Thiên Chúa. Sự kết hợp mật thiết giữa Thăng Thiên và Hiện Xuống phát sinh từ điều này. Vì Chúa Kitô, từ trong trái tim Thiên Chúa, đã đụng tới trái tim của vũ trụ, vì thân xác Người đã thông truyền cho vũ trụ đích đến mới nơi Chúa Cha, thì nay, Người có thể sai Thánh Thần của Người xuống thế gian để ban ân huệ của Người cho mọi người. Chúa Kitô và Giáo Hội, do đó, đã tạo nên một thân xác và một Thần Trí (xem Eph 4:4, liên quan tới sự kết hợp giữa các Kitô hữu). Khi nhắc tới các hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần, mà chính Thánh Phaolô đã nói tới, và là những hoa trái đã được ban cho tín hữu lúc Hiện Xuống, Tertulianô nói đến các hoa trái đầu tiên của thân xác, được Chúa Kitô hiển dương lúc Thăng Thiên như sau: “Như thế, Người để lại cho chúng ta các hoa trái đầu tiên của Thần Khí thế nào, thì Người cũng đã tiếp nhận từ chúng ta các hoa trái đầu tiên của thân xác như vậy”.
Còn tiếp....
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu cho phép các môn đệ đước thấy và rờ tới Người; Người ăn uống với họ (Cv 10:41) cho tới ngày Người lên trời. Cái khó mà chúng ta đã thảo luận trên đây, là phải hiểu như thế nào về sự viên mãn vốn đã có ở lúc Phục Sinh dưới ánh sáng sự tôn vinh Chúa Giêsu từ từ diễn ra sau đó. Trong khoảng thời gian tiếp sau cuộc Phục Sinh, có thể nào Thầy Chí Thánh trải nghiệm một sự gia tăng trong vinh quang của Người, cho tới độ điều ta thấy trên Núi Cây Dầu tương ứng thực sự với điều Con Thiên Chúa trải nghiệm?
Bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi trên phải bắt đầu với thân xác phục sinh của Chúa Giêsu, là thân xác, khi được hiển vinh, không trở thành thứ thân xác có tính siêu trần (ethereal corporeality), một thân xác ta khó có thể gọi được là thân xác đúng nghĩa. Đúng hơn, nó là sự viên mãn của điều ta vốn hiểu như là hiện hữu thân xác. Nếu đúng như thế, thì, vì mối liên kết giữa thân xác và thời gian, thời gian tính của thân xác phục sinh không thể đơn thuần biến mất được. Trái lại, lúc này, thân xác vẫn phải có tính “thời gian” một cách càng sâu xa hơn nữa. Chúa Giêsu phục sinh tiếp tục “có” thời gian vì nhân loại và với nhân loại.
Chiều kích này, một chiều kích ta đã nghiên cứu trên đây nhờ các tìm tòi của Kasper, cũng đã được nhấn mạnh trong nền thần học lịch sử của Hans Urs von Balthasar. Đối với thần học gia này, bốn mươi ngày giữa Phục Sinh và Thăng Thiên là giai đoạn quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của khoảng thời gian này? Balthasar làm nổi bật sự kiện này: Đấng Sống Lại không sống “bên ngoài” thời gian, trong một vĩnh cửu phi thời gian. Trái lại, nay là lúc Người chiếm hữu một thứ thời gian mới, một thứ thời gian đã được làm hoàn hảo, và do đó thoát khỏi mọi thiếu sót vốn là đặc điểm của thời gian tính bằng lịch của ta. Chính lúc hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu muốn xác nhận với họ sự hiện diện liên tục của Người trong lịch sử, một hiện diện đã được làm cho trọn vẹn nhờ sự phục sinh của Người.
Nhà thần học Basel nhấn mạnh tới khả năng của Chúa Giêu trong việc đồng hành với ta trong chính thời gian của ta; ông thấy chứng cớ rõ ràng nhất của khả năng ấy trong 40 ngày này. Như Balthasar từng giải thích, vì sự viên mãn của thời gian trong đó Chúa Giêsu sống sau Phục Sinh không thể thay đổi được, nên việc hiện ra sau Phục Sinh giúp ta hiểu được cách thế Người hiện diện thực sự với ta sau Thăng Thiên. Do đó, Giáo Hội có thể chắc mẩm rằng, bất chấp tính vô hình của Thầy Chí Thánh mình, Chúa Giêsu vẫn đồng hành với Giáo Hội trong cuộc lữ thứ trần gian. Tuy nhiên, đối với Balthasar, có một dị biệt quan trọng ở đây: trong khi Chúa Giêsu cho phép các môn đệ thấy và rờ tới Người trong 40 ngày này, thì nay Người hiện diện với ta trong các bí tích. Nhưng, trong căn bản, vẫn có sự đồng nhất giữa hai giai đoạn này.
Và vì hình thức thời gian thuộc về Chúa Kitô phục sinh không thể nào thay đổi với việc Thăng Thiên của Người, nên điều cần thiết phải nắm vững là: hình thức thời gian được tỏ hiện trong thời gian 40 ngày này mãi là nền tảng cho mọi hình thức hiện diện khác của Người trong thời gian, trong Giáo Hội, và trong thế giới. Cách thế hiện diện của Người, được tỏ bày trong 40 ngày này, là hình thức tối hậu của thực tại nơi Người. Việc Thăng Thiên của Người không làm Người ra xa lạ với thế giới. Người lồng 40 ngày này giữa Phục Sinh và Thăng Thiên để chỉ cho các môn đệ thấy một cách trực tiếp và rờ mó được thực tại mà với nó Người sẽ mãi mãi ở với họ “mọi ngày cho tới lúc tận cùng thế giới” (Mt 28:20).
Ta phải nhấn mạnh với Balthasar sự viên mãn của Chúa Giêsu phục sinh, cũng như tính liên tục của việc Người hiện diện cả trước và sau khi lên trời. Tuy nhiên, ta vẫn cần phải tìm hiểu một cách thật chi tiết đâu là sự khác biệt giữa các lần Chúa Kitô hiện ra sau Phục Sinh, và sự hiện diện có tính bí tích của Chúa Giêsu đã lên trời. Há sự thay đổi trong cung cách các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu không có nghĩa một thay đổi ngay trong sự hiện hữu của Thầy Chí Thánh đó sao? Để trả lời câu hỏi này, ta phải đào sâu hơn nữa sự phân tích của ta về bản chất thời gian của Chúa Giêsu sau Phục Sinh.
Ta nên mô tả ra sao cách thế mới Chúa Kitô cảm nghiệm thời gian? Trước nhất, không hề có đặc điểm “tiêu cực” nào trong cảm nghiệm này cả. Thời gian của Chúa Kitô phục sinh là thời gian đã được thể hiện một cách hết sức viên mãn. Do đó, Chúa Giêsu không “chịu” sự tiếp diễn của thời gian; đúng hơn, thời gian hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của Người. Vì thời gian sau Phục Sinh của Người dư tràn sự sống, nên ta có thể nói rằng Người xác định cách thế để tuôn đổ sự hiện diện của Người ra trong lịch sử, một cách tự quyền như vua chúa. Thời gian này không áp đặt lên Chúa Giêsu như một gánh nặng, mà nó cũng không phải là một vết thương mở toang để qua đó, sự hiện hữu lọt vào. Nó là một thời gian không biết tới buồn chán hay vội vã. Như thế, ta phải nghĩ lại cảm nghiệm của ta về thời gian và nhìn nó dưới một ánh sáng mới, một thời gian đã được gạn sạch mọi tha hóa (alienation) từng xẩy ra cho ta sau Cơn Sa Ngã của nguyên tổ. Nếu lý tưởng cứu rỗi của ta là tuyệt đối kiểm soát được đời mình, thì chắc chắn ta muốn được giải thoát khỏi thời gian, vì giòng chẩy của thời gian không hề nằm dưới quyền thống trị của ta. Việc này đưa tới một quan điểm lý tưởng hóa về cứu rỗi, tức thoát khỏi mọi may rủi tùy thể của lịch sử. Dĩ nhiên, cảm nghiệm của ta về thời gian cũng có thể được nhìn cách khác. Thời gian xem ra có vẻ mâu thuẫn với ảo giác của ta muốn kiểm soát hoàn toàn các khả năng cũng như các liên hệ của ta với thế giới. Bất cứ ai biết nhìn nhận rằng căn tính của họ bị cột vào thời gian đều luôn phải đấu tranh với các yếu tố ở bên ngoài các kế sách riêng của họ: quá khứ đã vượt quá tầm kiểm soát, còn tương lai thì mãi mãi là chuyện họ không biết chắc. Như thế, thời gian bắt ta phải hiểu sự sống như một điều gì đó cởi mở, như một điều gì đó có tương quan. Trong một tầm nhìn như thế, ta có thể thấy thời gian như một mở cửa chào đón người khác, như một hình thức hiện hữu có tính bản vị sẵn sàng chào đón hiệp thông và nhờ thế tự nâng cao hơn chính mình. Thí dụ, thời gian giúp tôi tương quan với những ai đi trước tôi trong đời, mà từ họ, tôi đã nhận được các điều kiện để triển khai lịch sử riêng của tôi. Đàng khác, hiện hữu trong thời gian là điều đem lại sự mới mẻ và sự ngạc nhiên đầy ơn phúc cho từng cuộc gặp gỡ, điều mà tôi vốn không thể nào diễn dịch từ bất cứ tiền đề quá khứ nào. Điều này nữa: sống trong thời gian khiến ta tin chắc rằng chỉ có tình yêu, chỉ có cảm nghiệm hứa hẹn, mới đáp ứng được nhu cầu thống nhất của ta và mới vượt qua được sự phân chia cuộc sống ta thành quá khứ, hiện tại và tương lai.
Điều trên mang lại cho ta một giải thích tích cực về thời gian. Trước nhất, thời gian, khi dõi nhìn về quá khứ, tự ý thức được việc mình có nguồn gốc từ người khác. Trên căn bản này, thời gian giúp ta khám phá ra: Thiên Chúa là nguồn sự sống và giúp ta biết lắng nghe tiếng gọi của Người và kế hoạch của Người dành cho ta. Điều này có giúp ta hiểu việc Chúa Giêsu sống chiều kích thời gian này như thế nào không? Đấng Sống Lại sống thời gian của Người trong một tâm tình con thảo trong sáng, như cơ hội để Người tiếp nhận các hồng phúc của Chúa Cha; quá khứ của Người khiến Người nhìn nhận rằng Chúa Cha là Nguồn Gốc không ngừng sinh ra Người, luôn luôn hiện diện và luôn luôn hoạt động. Thứ hai, trong chiều kích tương lai của nó, thời gian được coi như một cơ hội đem sự sống đến cho một điều gì đó, mà khi từ ta phát sinh ra, nó sẽ lớn hơn chính ta: đây chính là cảm nghiệm mầu mỡ (fecundity), hay khả năng đem lại sự sống, trao ban cho người khác điều ta đã tiếp nhận được từ Thiên Chúa. Sống hướng về tương lai có nghĩa: sự hiện hữu của ta sẵn sàng mở cửa đón chào việc sinh hoa kết trái. Một lần nữa, Chúa Giêsu cũng đã sống chiều kích này một cách viên mãn. Qua sự Phục Sinh của Người, Người là chính sự hiến tặng sự sống trọn vẹn, một nguồn suối tự thông truyền cho Giáo Hội và sinh hạ Giáo Hội cho Thiên Chúa. Thứ ba, trong giòng chẩy hiện tại của nó, thời gian của ta là một đơn nhất trong đa dạng, một diễn tiến liên tục của quá khứ, hiện tại và tương lai. Ta chỉ có thể vượt qua được sự ngắt quãng hiện nay giữa quá khứ và tương lai, giữa tương lai và hiện tại, nhờ một lời hứa được đưa ra và được duy trì, vì lời hứa bảo đảm tính liên tục cho căn tính của ta trong thời gian. Và bởi thế, lúc Phục Sinh, Chúa Giêsu sống thời gian của Người theo lời hứa hẹn của Thiên Chúa, như một thời gian đã được thống nhất hóa nhờ lòng trung thành của Chúa Cha và nhờ đáp trả trung tín của Chúa Con.
Như thế, với Phục Sinh, thời gian của Chúa Giêsu đã vượt qua được cửa ngõ sự chết và trở thành một thời gian mới, sống trọn vẹn trong tình yêu dành cho Chúa Cha, Đấng được thừa nhận là Nguồn Gốc và Đích Đến. Phục Sinh đem tới một thời gian thiêng liêng, nghĩa là một thời gian được sống như một cởi mở trọn vẹn cho tương quan (với Chúa Cha và với con người). Theo nghĩa này, ta có thể nói rằng thời gian đã đi vào vĩnh cửu, một vĩnh cửu hiểu như là một trao đổi yêu thương liên tục và năng động giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Thời gian phục sinh hay thời gian thiêng liêng là thời gian trong đó, quá khứ được giải thích theo cách thế sinh làm con (filiality), như việc được hạ sinh từ Chúa Cha; tương lai được giải thích như khả năng trao ban sự sống; còn hiện tại được giải thích như một nối kết lòng trung thành với một lời hứa, trong đó, trọn vẹn sự đáp trả của Chúa Con tương ứng với hồng phúc của Chúa Cha. Các phân biệt riêng của thòi gian vẫn không biến mất; thực vậy, các phân biệt này rất chủ yếu nếu ta biết tôn trọng thứ bậc và tính năng động của việc các ngôi vị hiệp thông với nhau. Nhờ sự viên mãn của thời gian, Chúa Giêsu trở thành Chúa của thời gian: Chúa của quá khứ, một quá khứ đến trước Người, trở lui tới tận Ađam, và Chúa của tương lai, một tương lai diễn ra giữa việc Phục Sinh của Người và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang.
Đến đây, ta có thể trở lại với câu hỏi của ta liên quan tới sự phân biệt giữa thời gian trước và thời gian sau Thăng Thiên. Ta đã cho rằng thời gian thiêng liêng của Chúa Kitô đã trở thành sự viên mãn của sức mạnh tương quan. Nó không phải là một trạng thái không có thời gian nhân bản, mà thực ra có nghĩa này: Chúa Kitô đồng hành theo nhịp thời gian của ta một cách còn gần gũi hơn nữa. Bởi thế, Phục Sinh không đem Chúa Kitô ra khỏi thời gian, mà đúng hơn là điều giúp Người dìm mình trọn vẹn hơn trong thời gian. Thực vậy, ta mới là những kẻ không sống trong cái viên mãn của thời gian; chính ta mới là những kẻ đôi lúc cảm thấy thời gian đã qua khỏi ta. Như nhân vật trong tiểu thuyết của Vassily Grossman, chính ta mới là những kẻ xem ra thời gian đã bỏ xa, và nay ta chỉ là “những đứa con ghẻ của thời gian”.
Thiển nghĩ đặc điểm tương quan này của thời gian nhân bản, một đặc điểm đã nên trọn trong Chúa Giêsu, đã mở ra khả thể có nhiều giai đoạn trong việc Chúa Kitô được tôn vinh. Ở đây, chúng ta không có ý quả quyết rằng thời gian của Chúa Kitô, tự nó, vẫn còn cần được thống nhất và viên mãn. Đúng hơn, chúng ta muốn xem sét thời gian của Chúa Kitô trong tương quan với mọi người đồng loại khác của Người, một tương quan vốn nội tại trong chính thời gian tính. Xét như thế, chỉ khi nào lịch sử đã hoàn toàn chung cục thì thời gian của Chúa Giêsu mới chung cục. Quan niệm thời gian này khiến ta có thể quả quyết rằng Thăng Thiên làm gia tăng sự tôn vinh của Chúa Con. Một gia tăng như thế không nhất thiết hàm nghĩa Chúa Kitô không làm chủ thời gian; đúng hơn, nó cho thấy tình yêu khiêm tốn của Người, Đấng, dù trong vinh quang, vẫn sống phù hợp, trong mọi sự, với sự khiêm tốn nơi các môn đệ của Người là những kẻ vẫn còn sống trong thân xác. Tóm lại, nếu cách thế trong đó Giáo Hội sống thời gian của mình thay đổi, thì sự thay đổi này cũng được phản ảnh nơi Chúa Giêsu. Và do đó, chính chiều kích tương quan trong thời gian của Chúa Kitô đã tạo ra sự tuần tự gồm các giai đoạn khác nhau trong cuộc hiện hữu sau Phục Sinh của Người, mà nổi bật nhất là việc Thăng Thiên và việc Người sẽ đến lại trong vinh quang, vì các thay đổi quan trọng do hai biến cố này đem lại cho đời sống các môn đệ.
Để hiểu các giai đoạn khác nhau này một cách chi tiết hơn, ta phải lưu ý tới các thay đổi trong phương cách Chúa Giêsu hiện diện với các môn đệ sau khi Người sống lại. Các bản văn Tin Mừng phân biệt thời gian các lần Chúa Kitô hiện ra với thời gian sau khi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha: chúng là hai cách Người hiện hữu và hành động. Một đàng, thời gian thứ hai hoàn thiện hóa thời gian thứ nhất; nó là sự hiện diện sâu sắc hơn, nhờ đó Kitô hữu có thể đụng chạm tới Chúa Giêsu (xem Ga 20:17), cảm nhận được cảm tình của Người (Ph 2:5) và cùng một tâm trí với Người (xem 1Cor 2:16), vì tiếp nhận được Thánh Thần của Người. Đàng khác, sự giao tiếp này diễn ra nhờ đức tin, chứ không nhờ thị giác (xem Ga 20:29: “Phúc cho những ai không thấy nhưng tin”): có một khoảng cách giữa tín hữu và Chúa Giêsu, đến nỗi bốn mươi ngày cũng có thể được coi như một dự ứng, một ứng trước của sự hoàn hảo hóa trong tương lai, của việc nên trọn sẽ diễn ra vào ngày quang lâm (parousia), vốn là cuộc hiện ra lần chót của Chúa Giêsu (Cv 1:11: “[Người] sẽ trở lại y như cách các ông thấy Người ra đi”).
Quan điểm coi bốn mươi ngày như một dự ứng của cánh chung này từng được Karl Barth nhấn mạnh trong khảo luận của ông về Thăng Thiên. Barth cho rằng có hai dấu chỉ không thể tách biệt nhau đi theo Đấng Sống Lại: ngôi mộ trống một bên và bên kia là việc Người lên trời. Dấu chỉ thứ nhất là dấu chỉ có thể nói là nhìn xuống; bởi thế nó là một dấu chỉ tiêu cực, muốn tuyên xưng rằng Người không còn ở trong số người chết nữa. Không có dấu chỉ này, việc phục sinh của thân xác khó có thể phân biệt được với tính bất tử của linh hồn thiêng liêng; việc phục sinh, trong trường hợp này, chắc chắn sẽ phải giải thích theo lối của phái Ngộ Đạo. Nhưng bên cạnh dấu chỉ này còn một dấu chỉ khác, đó là Thăng Thiên, một dấu chỉ hướng mắt ta lên cao, lên cao mãi, tới tận trời nơi Chúa Giêsu bay lên, và tới tận tương lai, lúc Người trở lại. Dấu chỉ này cho ta thấy rõ: không thể hiểu việc phục sinh của thân xác chỉ như việc trở lại với sự sống nơi dương thế, cho dù sự sống này được quan niệm là tốt hơn sự sống trước đó, không còn lo lắng mà có đầy khả năng. Đúng hơn, trong sự sống Phục Sinh, Thiên Chúa đã chiếm hữu thân xác, đã hoàn toàn dìm thân xác vào trong thể thần linh. Dấu chỉ Thăng Thiên cũng thế, cũng có nghĩa rằng Phục Sinh không phải là việc thoát khỏi lịch sử: vì Phục Sinh tạo ra tương lai tối hậu cho thời gian, nó công bố rằng sự sống của Chúa Giêsu bao hàm trong nó sự chung cục của mọi thế kỷ và vì thế Kitô hữu là người biết tương lai, và biết được tương lai là nhờ ký ức về Thầy Chí Thánh của mình. Như thế, đâu là mối tương quan giữa việc Thăng Thiên của Chúa Giêsu và sự sống mà các môn đệ của Người vẫn đang trải nghiệm trong thời gian?
4. Thăng Thiên và thời của Giáo Hội
Câu hỏi của chúng ta về ý nghĩa của Thăng Thiên phải được hiểu dưới ánh sáng thời gian nó khai sáng. Vì phần chủ yếu của mầu nhiệm này là việc Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha, một việc được Tân Ước liên kết với sứ mệnh Giáo Hội. Cái hiểu của các sách tin mừng và của nền thần học giáo phụ đã theo sát nút trình tự của thánh vịnh: “Hãy tiếp nhận ngai tòa của Con bên tay phải Ta, trong khi Ta biến các địch thù của Con thành ghế Con tựa chân. Vương trượng quyền uy thống trị của Con Chúa sẽ mở rộng từ Xion” (Tv 110:1-2). Các giáo phụ hiểu “vương trượng” này là sức mạnh vô địch của Giáo Hội truyền giáo, tức việc rao giảng lời bắt đầu từ Giêrusalem nhằm truyền bá Tin Mừng ra khắp mặt đất.
Như thế, Thăng Thiên không chủ yếu nói tới việc Chúa Giêsu vắng mặt, mà đúng hơn nói tới việc Người hiện diện cách mạnh mẽ giữa dân của Người. Ngữ cảnh phụng vụ trong trình thuật Luca làm nổi bật mối liên kết giữa Thăng Thiên và Giáo Hội. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu ra đi trong lúc ban phép lành, với cánh tay giương cao, một cử chỉ khiến ta nhớ tới việc tư tế chúc lành trong sách Huấn Ca (Hc 50:20-21). Vì lý do này, Heinrich Schlier đã có thể nói rằng đối với Thánh Luca, Thăng Thiên và chúc lành trùng khớp với nhau: cử chỉ trong lúc Chúa Giêsu ra đi là hình ảnh cuối cùng sẽ còn mãi với các môn đệ; Người ra đi trong khi, chứ không sau khi, chúc lành cho các ông. Ta đã nhận xét trên đây rằng trong Cựu Ước, việc Thiên Chúa chúc lành đem lại sự hiện diện liên tục của Người, một sự hiện diện trở thành nội tại nơi các tạo vật, ban cho chúng sự mầu mỡ và phát triển. Thành thử dễ hiểu lý do tại sao hành vi này tạo cơ sở cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Trình thuật Luca vì thế phù hợp với câu kết luận của Tin Mừng Mátthêu: “Thầy ở với các con mãi mãi, cho tới ngày tận thế” (Mt 28:20).
Sự chúc lành này được tiếp liền với việc các môn đệ có mặt tại Đền Thờ. Sau đó, họ họp nhau cầu nguyện với Đức Maria, Đấng, mà theo Thánh Luca, vốn là hình ảnh của Tân Xion. Ở đây, một lần nữa, Thánh Luca lại nhắc lại tên của nhóm Mười Hai, như thể họ được đặt làm cột trụ của Giáo Hội. Nếu ơn gọi nguyên thủy của họ phát khởi từ lời cầu nguyện của Chúa Kitô (Lc 6:12-16), thì nay ơn gọi này được liên kết với việc Người lên trời. Phụng vụ Kitô Giáo phát sinh từ lời cầu nguyện sau khi Chúa Giêsu ra đi này...
Liệu ta có thể nói rõ thêm về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được trình thuật Luca nhắc tới không? Sự quan trọng được Thánh Luca gán cho Đền Thờ cho ta một chỉ dẫn. Tin Mừng Luca kết thúc bằng cách cho ta thấy các môn đệ ca tụng Chúa trong Đền Thờ. Khởi đầu của Công Vụ cũng diễn ra tại đây. Sau đó, trong các chương bẩy và tám của sách Công Vụ, chúng ta được nghe về cái chết của Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Trước khi bị giết, ngài đọc một diễn văn dài nhằm nói với những người Do Thái đang mưu toan bắt giam ngài. Các lời tố cáo nói rằng ngài có ý định phá hủy Đền Thờ và phá hoại Lề Luật. Để trả lời, Stêphanô đưa ra một trình thuật về lịch sử cứu rỗi, tập trung vào Đền Thờ.
Lãnh thổ mà Thiên Chúa hứa ban cho Ápraham, mảnh đất thánh thiêng mà trên đó Môsê dấn bước khi chứng kiến gụi gai bừng cháy, đều đáng được ngụ cư vì đó là nơi Thiên Chúa cắm lều. Bài diễn văn của Stêphanô kể lại lịch sử của Môsê và Salômông; nó cũng nhắc tới Chúa Giêsu, Đấng mà vị tử đạo trông thấy đang ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (Cv 7:56). Lời cáo buộc phạm thượng mang một ý nghĩa đặc biệt nếu đem so sánh với lời cáo buộc Chúa Giêsu trong lúc Người bị vị thượng phẩm xét xử. Cũng bị tố cáo mưu toan phá hủy Đền Thờ, Chúa Giêsu nói tới việc Con Người sẽ tới, ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (xem Mt 26:64; Lc 22:69). Stêphanô và Chúa của ngài đều bị kết án vì người Do Thái coi việc đồng hóa giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa là điều không thể dung thứ được. Họ hiểu rằng ngồi bên hữu Chúa Cha là ngang hàng với Người. Ở hậu cảnh, là chủ trương cho rằng Thiên Chúa đang xây một Đền Thờ mới, một đền thờ không do bàn tay con người làm nên, mà là chính thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu. Đó chính là điều Stêphanô được chiêm ngưỡng khi ngước mắt nhìn lên cao: Đấng được hiển dương, đang ngự bên hữu Thiên Chúa chính là “Đất Thánh” dứt khoát. Người là chung cục việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người, và là nơi thờ phượng của Kitô hữu.
Các suy tư của Thánh Phaolô giúp ta thâm hậu hóa hơn nữa các tầm nhìn thông sáng trên của Thánh Luca. Ở đây, chúng tôi xin đơn cử một đoạn quan trọng trong thư gửi tín hữu Êphêsô, là đoạn xoay quanh mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Phaolô trích dẫn Tv 68, câu 19 mà ngài cho là áp dụng vào việc Chúa Giêsu lên trời và sau đó việc Chúa Thánh Thần hiện xuống: “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người ban ơn huệ cho con người” (Eph 4:8). Đoạn trích Thánh Vịnh ở ngôi thứ hai, để chỉ Giavê: “Ngài đã lên cao… tiếp nhận lễ dâng của con người”. Ấy thế nhưng phái giáo sĩ Do Thái (rabbi) cho rằng đoạn này nói về Môsê và họ viết là “ban ơn huệ” chứ không “tiếp nhận lễ dâng”, theo nghĩa ban Lề Luật cho dân. Để biến Chúa Kitô thành chủ từ và để chứng minh sự khác nhau giữa Người và Môsê, Thánh Phaolô chú giải rằng Người cần phải đi xuống trước khi có thể đi lên: “ ‘Người đã lên’ nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất?” (Eph 4:9). Xem ra có lý khi cho rằng ở đây, thánh Phaolô có ý nhắc đến việc Nhập Thể (“các vùng sâu thẳm” là trái đất) là việc tương đương với việc Lên Trời để ban ơn huệ cho tín hữu. Các ơn huệ này là để xây dựng Giáo Hội, một điều được Thánh Tông Đồ nói tới ngay sau đó (Eph 4:11-13). Như thế, Thánh Phaolô vừa chứng thực trình thuật của Thánh Luca vừa thêm vào đó một sự kiện quan trọng: mục đích của Thăng Thiên là để Chúa Giêsu “làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4:10). Ở đây, Thánh Phaolô sử dụng một động từ hết sức cô đọng về ý nghĩa, cũng cùng từ một gốc với danh từ pleroma từng xuất hiện trước đó trong thư (xem Eph 1:22-23) và sẽ xuất hiện lần nữa ở bên dưới (Eph 4:13: “tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô”). Ở đầu thư của ngài, Thánh Phaolô quả quyết rằng Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô, “là sự viên mãn của Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Eph 1:23). Ở đây, ta thấy một nền thần học già dặn về Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, một thân thể tiếp nhận sự sống từ chính Đầu của mình là Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hoàn tất hình ảnh hữu cơ của thân thể bằng hình ảnh phu thê vốn bổ túc cho nó (xem Eph 5:21-23). Giáo Hội là một với Chúa Kitô, không những theo nghĩa hợp nhất mọi chi thể với nhau, mà còn theo nghĩa hiệp thông một thân xác theo kiểu Ađam và Evà. Evà là sự viên mãn của Ađam vừa vì lý do nàng đã trở nên một thân xác với chàng, vừa vì nàng là người sẽ cưu mang dòng dõi chàng, dòng dõi sẽ tràn đầy mặt đất. Ở đây, thân thể xuất hiện như là chiều kích tương quan vì sự sống con người, và do đó như là điều giúp cá nhân vượt quá các biên giới của chính họ: sự kết hợp giữa người đàn bà và người đàn ông để sản sinh ra con cái là nền tảng tối hậu để hiểu tư cách bản vị tập thể của Dân Chúa mà Chúa Giêsu đã nâng lên một bình diện mới qua việc Người Nhập Thể và Thăng Thiên.
Như thế, sự viên mãn của Chúa Kitô là điều sẽ tạo ra và mở rộng sự hiện diện của Giáo Hội ra khắp thế giới, trong tư cách hiền thê của Người. Dưới ánh sáng này, Eph 4:10 (Thăng Thiên như giây phút Chúa Kitô làm mọi sự nên viên mãn) là nền tảng của Eph 1:22-23 (Giáo Hội là sự viên mãn của Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha lập làm Đầu). Vì Thân Thể Chúa Kitô ở trong Thiên Chúa, vì Chúa Kitô đã lên trời, thậm chí vào tận trung tâm sự sống Thiên Chúa, nên nay Người có thể làm mọi sự, kể cả chính vũ trụ, nên viên mãn, qua Thân Thể Người là Giáo Hội.
Như thế, một cách rõ ràng, việc Chúa Giêsu lên trời không làm Người tách khỏi thế giới. Vì nay, Đấng Cứu Thế đã bước vào chiều sâu thẳm của Hữu Thể Thiên Chúa, mà từ đó, trọn thế giới đều được Người tới lui. Điều này không có nghĩa Người tan biến vào sự hiện diện khắp nơi của một thuần thần: Người vẫn duy trì mãi mãi đặc điểm xác thân của Người và vì lý do này, cách thế hiện diện mới của Người cũng phải có tính xác thân, không bị giản lược vào sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa mà cũng không tách rời khỏi không gian và thời gian. Đúng hơn, một tính xác thân như thế hàm nghĩa một sự biến đổi không gian và thời gian, là những điều nay được nối kết với thân xác và thời gian do Phục Sinh khai sáng.
Như thế, ta hiểu được sự đóng góp chuyên biệt của mầu nhiệm Thăng Thiên. Như đã nói, nhìn dưới ánh sáng của việc Chúa Giêsu trở thành người con tối cao trong thân xác (Rm 1:4; Cv 13:33), Phục Sinh đã là một “việc bước vào trong” Thiên Chúa rồi. Chiếm hữu một thân xác thiêng liêng hóa chỉ có thể có được vì một thời điểm nhất định, tức cánh chung, đã được khai sáng. Thực tại này làm ta khó tưởng tượng được một điều gì mới có thể xẩy ra cho Chúa Giêsu, bất kể trong các lần hiện ra hay trong biến cố Thăng Thiên. Tất cả dường như chủ yếu chỉ là một thao tác sư phạm, một thích nghi đối với nhu cầu của môn đệ. Tuy nhiên, giải thích sư phạm này không phải là giải thích khả hữu duy nhất.
Ta từng nói rằng thân xác, vốn chìm ngập trong thời gian, là cơ sở cho tính tương quan của sự sống con người. Do đó, thân xác Chúa Giêsu không bao giờ cô đơn cả mà đúng hơn mang trong mình cả một dây nối kết với toàn bộ nhân loại và toàn bộ tạo vật. Sự tròn đầy tuyệt đối của thân xác Người, một vinh quang không nhận bất cứ một gia tăng nào hơn nữa, chỉ có thể đạt được khi thân xác Người, trong sự vinh quang của nó, mặc lấy thân xác của Giáo Hội, và trong thân xác này, mặc lấy toàn bộ vũ trụ.
Với Phục Sinh, Chúa Kitô đã trọn vẹn ở trong liên hệ với Cha Người rồi, đã thủ đắc được một thân xác vinh hiển, một thân xác có thể thông truyền cách hữu hiệu sự siêu việt của Thiên Chúa. Ấy thế nhưng thân xác này vẫn chưa làm cho mọi sự nên viên mãn nhờ sự hiện diện của Người; quyền lực ban sự sống của Người chưa mở rộng ra khắp vũ trụ. Điều này không nên gán cho bất cứ thiếu sót nào nơi Chúa Giêsu, mà đúng hơn cho sự nhẫn nại đối với sự sống trong thân xác mà các môn đệ của Người cũng như toàn thể Giáo Hội vẫn còn đang phải sống. Vì các môn đệ của Chúa Kitô trước hết phải nắm vững sự thật liên quan đến việc Phục Sinh của Chúa Kitô, họ phải thấy rõ thân xác Người không xa lạ với thân xác ta. Họ vẫn còn cần hiểu ra rằng thân xác này đã mặc lấy toàn thể tạo vật. Do đó, sự tôn vinh thân xác Chúa Kitô không tự động bao hàm việc biến đổi thế giới.
Ngay cả sau khi các môn đệ đã được chuẩn bị, hai điều vẫn cần phải xẩy ra trước khi vũ trụ được biến đổi: điều thứ nhất, vũ trụ phải đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Chúa Kitô và thứ hai, phải giúp vũ trụ tham dự vào Thần Trí Chúa Kitô. Điều đầu tiên đã diễn ra với việc Lên Trời; điều thứ hai diễn ra lúc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Hai mầu nhiệm này nối kết với nhau rất mật thiết.
Do đó, như Balthasar từng chỉ ra, bốn mươi ngày này nói lên nền sư phạm của thân xác Chúa Giêsu. Nền sư phạm này làm các môn đệ tràn ngập đức tin, giúp các ông rờ mó được Người, thấy Người, lắng nghe giọng nói của Người một cách mới mẻ. Chính điều này lập các ông thành các trụ cột cho đức tin của Giáo Hội. Thăng Thiên là một bước tiến nữa trong việc thâm hậu hóa mối dây nối kết của Chúa Kitô với Giáo Hội, và qua Giáo Hội, với toàn thể vũ trụ: “Người lên trời… để làm cho mọi sự nên viên mãn” (Eph 4:10). Với chuyển động này, Chúa Kitô vào sâu trong thực tại, chính vì Người đã đạt tới chiều cao của Thiên Chúa. Như thế, không phải Người không ở nơi Thiên Chúa khi lên trời (việc Sống Lại của Người đã là việc Người hoàn toàn ở trong Chúa Cha rồi) nhưng lúc Lên Trời, tương quan mà thân xác Người có với Chúa Cha thủ đắc được chiều kích vũ trụ. Điều này có nghĩa: lúc Lên Trời, Chúa Kitô nhận được từ Chúa Cha một hồng ân mới: qua thân xác Chúa Kitô, Thiên Chúa trở thành hiện diện trong mọi tạo vật; Người sở hữu mọi tạo vật, chiếu sáng mọi nơi còn tối tăm, tăng cường sự hiện diện của Thiên Chúa.
Việc trên chưa xẩy ra vào Chúa Nhật Phục Sinh và do đó, sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa các môn đệ mang nhiều đặc điểm khác nhau. Một đàng, nó kém sâu sắc, kém có tính bao trùm toàn thể hiện sinh. Đàng khác, nó lại tỏ hiện hơn, rờ mó được hơn, như một hiện diện dự ứng cho chung cục, cho thấy: tuy Chúa Giêsu đã có sự sống viên mãn rồi, nhưng sở dĩ Người còn dấu kín là do tình yêu khiêm tốn của Người đối với con người.
Thiết nghĩ đến đây ta phải giải quyết một luận bác có thể có. Quả thật, với mầu nhiệm Nhập Thể, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với thân xác của mọi con người nhân bản; ở trong thân xác có nghĩa là trở nên một với các anh chị em mình, vì đều là con của cùng một gia đình nhân loại. Tuy nhiên, các cách thức trong đó một kết hợp có thể diễn ra trong thân xác thay đổi khá nhiều, tùy theo các đặc điểm trong mối liên hệ bản thân. Sự kết hợp giữa mẹ và con khác với sự kết hợp giữa anh chị em, và cả hai kết hợp này lại khác với sự kết hợp thành một thân xác giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Sự kết hợp của những người sinh ra từ cùng một thân xác khác với sự kết hợp của những người phải cùng nhau đối diện với cái chết thể xác. Theo cách này, ta có thể hiểu được thứ hợp nhất mới mẻ của thân xác Chúa Kitô với thân xác của mọi người trên căn bản Thăng Thiên, với Chúa Cha như là cùng đích tối hậu của nhân sinh. Điều này giúp ta có được sự phân biệt sau đây. Từ lúc Nhập Thể trở đi, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với mọi người vì cùng có Chúa Cha làm nguồn gốc; sự kiện này trở nên hiển nhiên với việc sinh hạ đồng trinh bởi Đức Mẹ. Từ lúc Thăng Thiên, Người nhận được một cách kết hợp mới, một sự kết hợp liên quan tới Chúa Cha như là đích đến tối hậu. Chúa Kitô liên kết thân xác tạo dựng với chính Người, với sự hoàn thành cuối cùng hướng về Thiên Chúa của thân xác này. Đây chính là căn bản của dây nối kết mà các giáo phụ vốn nhấn mạnh giữa Thăng Thiên và Nhập Thể; một số vị đưa ra điều này làm lý do giải thích tại sao Lễ Thăng Thiên đã được cử hành đầu tiên tại Bêlem.
Chỉ khi nào thực hiện được sự kết hợp kép này với chúng ta, trong nguồn gốc và trong đích đến của ta, Chúa Giêsu mới có thể sai Chúa Thánh Thần đến với ta; vì Chúa Thánh Thần là Đấng có thể thực hiện được việc lịch sử trở nên đồng hình đồng dạng với tính vĩnh cửu của Thiên Chúa. Sự kết hợp mật thiết giữa Thăng Thiên và Hiện Xuống phát sinh từ điều này. Vì Chúa Kitô, từ trong trái tim Thiên Chúa, đã đụng tới trái tim của vũ trụ, vì thân xác Người đã thông truyền cho vũ trụ đích đến mới nơi Chúa Cha, thì nay, Người có thể sai Thánh Thần của Người xuống thế gian để ban ân huệ của Người cho mọi người. Chúa Kitô và Giáo Hội, do đó, đã tạo nên một thân xác và một Thần Trí (xem Eph 4:4, liên quan tới sự kết hợp giữa các Kitô hữu). Khi nhắc tới các hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần, mà chính Thánh Phaolô đã nói tới, và là những hoa trái đã được ban cho tín hữu lúc Hiện Xuống, Tertulianô nói đến các hoa trái đầu tiên của thân xác, được Chúa Kitô hiển dương lúc Thăng Thiên như sau: “Như thế, Người để lại cho chúng ta các hoa trái đầu tiên của Thần Khí thế nào, thì Người cũng đã tiếp nhận từ chúng ta các hoa trái đầu tiên của thân xác như vậy”.
Còn tiếp....