Hôm nay đi Lễ tôi được nghe Cha giảng đề tài về người cha nhân ngày Lễ Hiền Phụ, tôi cũng lấy được ít nhiều ý từ đó và có một vài cảm nhận riêng về người cha trong vai trò của Thánh Cả Giuse rất đáng làm gương cho các người cha trong gia đình.
Đầu tiên là câu: "Công cha như núi thái sơn" tôi thấy ông bà mình xưa ví dụ thật hay. Lấy núi để so sánh với người cha thì không còn gì hay hơn bằng, vì bản tánh của người cha bao giờ cũng cứng rắn để chống chọi với đời, với sương gió, và gánh vác công việc nặng nhọc mà chỉ có người cha là làm nổi.
Câu thứ hai là: "Không cha như nhà không nóc" lại một câu nữa tôi thấy hay quá là hay. Căn nhà mà thiếu nóc thì hẳn không nương tựa vào đâu cho được. Mưa xuống thì trốn lánh vào đâu? Nắng chiếu thẳng xuống đầu thì tránh bằng cách nào cho được? Rồi đêm hôm sương gió lạnh lẽo làm sao cho được ấm áp tấm thân? Rồi hẳn làm sao ngăn cấm trộm không leo vào nhà? Chỉ có nóc nhà mới cho ta tất cả mọi đầm ấm, an toàn, và giấc ngủ an lành.
Rồi cha nhắc đến gia đình Thánh Gia: Thánh Cả Giuse, Đức Mẹ Maria, và Chúa Con Giêsu. Quả thật nhờ có Thánh Cả Giuse là người cha rất mẫu mực và siêng năng. Luôn chu toàn bổn phận và trách nhiệm của mình là gia chủ trong gia đình. Cố gắng làm vui lòng Đức Mẹ, cố gắng dậy dỗ Chúa Giêsu và hết lòng yêu thương. Kiếm sống trong công việc vất vả của mình là một người thợ mộc làm ăn chất phát lương thiện. Ngài đã thực thi tất cả, cố gắng chu toàn tất cả, hy sinh tất cả, chỉ vì Ngài luôn biết kính sợ Thiên Chúa, yêu gia đình, và luôn giúp đỡ người nghèo khổ.
Vì biết kính sợ Thiên Chúa nên Ngài đã tuân giữ tất cả những giới răn của Chúa và làm gương sáng cho một gia đình Thánh để tất cả chúng ta học, bắt chước, và noi theo. Để trở nên một gia đình Thánh chúng ta cũng có thể cố gắng để bắt chước theo ít nhiều. Thứ nhất là tâm hồn của chúng ta luôn có Chúa ngự trị. Thứ hai là chúng ta phải làm tròn bổn phận ngôi thứ của mình từng cá nhân và chức vụ trong một gia đình. Người Cha phải làm tròn bổn phận của một người cha, có lúc cần phải cứng rắn để dậy dỗ con cái, hay khi cần phải lên tiếng cho êm cửa êm nhà, nhưng có lúc cũng cần phải biểu lộ tình yêu thương cho con cái của mình để chúng luôn tin tưởng và chạy đến khi chúng gặp chuyện không may trong đời và cần được hướng dẫn chỉ dậy của người cha.
Sở dĩ ông bà mình có câu "dậy dỗ" cũng có mục đích và tâm lý cả đấy!. Vì sao lại có câu dậy dỗ? Có phải vừa dậy mà lại vừa dỗ dành đấy không? Dậy chúng mà cho ăn cây hoài thì cũng không phải là thượng sách lắm đâu! Vì ăn cây riết chúng cũng lờn nếu không dùng tình cảm và lời nói dịu ngọt, vả trong vài quốc gia không cho dậy con nít bằng bạo lực vì bạo lực từ trong gia đình sẽ dậy cho con cái quen cái bạo lực và sẽ đem dùng cho ngoài xã hội. Nguy hiểm lắm thay!?
Nói cho cùng thì chúng ta cũng có những sai lầm khi dậy con cái trong những lúc giận quá mất khôn. Khi giận thì chúng ta đập nhà đập cửa, nói năng không tự chủ, phát ngôn bừa bãi, và nói thái quá cái tội của con làm, sau cơn giận thì nhà cửa không còn êm thắm được như trước nữa!?? Hình như gia đình của Thánh Gia không thấy nơi đâu viết về những lời nói nặng nề để sửa phạt Chúa Con? Và hòa khí trong gia đình của Thánh Gia như luôn luôn trong an bình và yêu thương.
Lậy Chúa! Chúng con là những người con khiếm khuyết và luôn có những khuyết điểm đối với mọi người thân thương trong gia đình và tất cả anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con biết noi gương của Gia Đình Thánh Gia luôn sống trong yêu thương và hòa thuận để chúng con cố gắng làm tròn bổn phận của mình. Chúa là đường, là sự sống, là sự thật, và là cùng đích của cuộc đời chúng con ngay tại đời này và cả ở đời sau. Xin cho chúng con cố gắng đem tình yêu và Tin Mừng của Chúa đến cho muôn người, để qua chúng con mà mọi người được nhận biết Thiên Chúa. Amen.
NHẬN & CHỐI
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.
Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.
Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào ?
Trang Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta về vấn nạn niềm tin. Chúa hỏi chúng ta rằng chúng ta có can đảm tuyên tín, tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ hay là chúng ta chối Chúa trước mặt thiên hạ ?
Tưởng chừng vấn nạn này đơn giản nhưng phải nói là vấn nạn này là vấn nạn lớn của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chưa đề cập đến lòng tin vào Thiên Chúa, chỉ đề cập đến đời sống thường nhật của chúng ta thôi chúng ta sẽ thấy một sự thật thật phũ phàng.
Phải nhìn nhận với nhau một điều là ngày hôm nay con người ta không biết do ảnh hưởng từ đâu mà người ta sống với nhau thật vô trách nhiệm, hay trốn tránh trách nhiệm. Nhan nhản các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo chí đưa tin đấy, quá nhiều, quá nhiều người đã không can đảm đón nhận sự thật, đón nhận trách nhiệm của mình và cứ cố đẩy đưa trách nhiệm cho người khác được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Không biết thời trước có vậy không nhưng thời này con người sống thiếu trách nhiệm quá ! cái sự vô trách nhiệm hình như nó được luyện từ ngày còn bé thì phải. Nhiều và nhiều vị phụ huynh có con trẻ, khi cho chúng ăn, khi cho chúng chạy nhảy, khi cho chúng chơi … thế nào chúng cũng bị vấp té. Vấp té vì hấp tấp, vì lăng tăng, vì thiếu quan sát chướng ngại vật của trẻ vậy mà đa số các ông bố, các bà mẹ sau khi thấy con té thì vực con dậy và lấy tay đập vào cạnh bàn, đập vào cái ghế và dạy cho con trẻ biết rằng nó chính là thủ phạm gây cho con trẻ té chứ không phải là lỗi do chính con trẻ.
Tưởng chừng là chuyện nhỏ nhưng dần dần cái lối sống, lối nghĩ, lối hành động của trẻ nó sẽ in sâu vào tư tưởng của trẻ là vô trách nhiệm, chối bây bẩy những hành vi của mình. Từ những chuyện nhỏ đó nó vô tình đã dẫn đến cho con người tác hại vô cùng to lớn đó là trốn trách trách nhiệm.
Nhìn rộng hơn một chút chúng ta sẽ thấy ngay trong gia đình ngày hôm nay. Khi vui, khi hạnh phúc thì ai cũng giành phần của mình rằng mình là tác nhân mang đến hạnh phúc trong gia đình nhưng khi khốn khó một chút, khi gặp điều chẳng may chẳng lành thì từ chồng đến vợ đến con chẳng ai dám đứng ra lãnh cái trách nhiệm về mình cả. Vì trốn tránh trách nhiệm, từ chối bổn phận của mình trong gia đình nên rồi chuyện nhỏ nó xé ra thật to. Lỗ nó nhỏ vậy mà nó gây đắm thuyền ngày nào không hay. Mạnh chồng chồng chối, mạnh vợ vợ chối, mạnh con con chối bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để rồi dẫn nhau ra toà. Ra đến toà cũng chẳng tránh khỏi cái kịch bản chối.
Ngày hôm nay, nhiều đôi hôn phối chia ly vì cái nguyên nhân căn bản đó là chẳng ai chịu nhìn vào bổn phận và vị trí phải có của mình trong gia đình. Vì chối từ đời sống gia đình thì chẳng chóng thì chày một ngày nào đó cũng chia tay.
Mở rộng ra một chút, khi sống trong xã hội, hoà nhập với xã hội trong công việc làm ăn. Thử hỏi mấy người trong công ty, trong xí nghiệp dám đứng ra lãnh phần trách nhiệm của mình sau khi để lại hậu quả không tốt. Buồn cười ở chỗ là khi có nguồn lợi, khi đạt thành tích thì ai ai cũng đua nhau chen vai vào giành một phần của mình đã đóng góp để được cái thành tích ấy. Để rồi cuối cùng con người cứ quấn quýt với nhau trong cái vòng xoắn của sự vô trách nhiệm.
Nhìn lên một chút nữa, những vị có trách nhiệm với nước với dân. Đã là người thì chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, sơ xuất nhưng nhiều vụ án, nhiều sự việc xảy ra để lại những hậu quả khôn lường vậy mà người ta chỉ bị khiển trách vì vô ý đã gây hậu quả to lớn cho dân và cho nước.
Nhìn vào đời sống kitô hữu, lời Chúa trong trang Tin mừng hôm nay quả là một lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta. Chúng ta là công dân Việt nam: Đúng ! nhưng thật sự nó chỉ đúng ở khía cạnh vật chất, khía cạnh con người còn khía cạnh tâm linh, thiêng liêng thì phải nói chúng ta là công dân nước trời. Nước Trời có Thiên Chúa làm chủ như Chúa Giêsu nói Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian vì nước của chúng ta không thuộc về thế gian này như Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Chúng ta được Chúa mời gọi là chúng ta phải tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này để mai kia Chúa cũng sẽ tuyên xưng chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha.
Quả thật, chuyện tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta phải làm chứng về Chúa như vị mục sư đã can đảm tuyên xưng lòng tin vào Chúa trước mặt thế gian dẫu rằng họng súng, cái chết gần kề với ông.
Chúa Giêsu không thử thách chúng ta nghiệt ngã như viên sĩ quan thử thách vị mục sư kia là phải chết nếu không tuyên xưng. Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Chúa ngay trong đời sống thường nhật nhỏ bé hằng ngày.
Có nhiều người ngày hôm nay không dám làm dấu Thánh giá trước khi ăn cơm vì ngại ! Dấu Thánh Giá và lời tạ ơn trước khi ăn là một nghĩa cử đẹp của một người biết ơn và một người nhìn nhận Chúa là Chúa của đời mình. Biết ơn trước mỗi bữa ăn điều này thật đúng và phải đạo vì lẽ ta có bữa ăn tạm gọi là cũng chẳng cao lương mỹ vị gì nhưng nhiều người khó nghèo hơn chúng ta, những nạn nhân của những cơn bão lụt, những vụ động đất làm gì mà có như ta, họ nằm mơ cũng chẳng có được như ta để rồi ta cảm ơn cũng chẳng thừa. Khi làm dấu ta tuyên xưng Chúa là chủ đời ta cũng đúng thôi vì thật ra cuộc đời của ta có nằm ngoài bàn tay của Chúa đâu như Chúa nhắc chúng ta: “thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu của anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30.31).
Có người thì tham dự Thánh lễ cắt đầu cắt đuôi. Có khi cha giảng mới đến và khi mọi người rước lễ thì kéo nhau về. Hành động như thế tự nó nó nói lên sự chối Chúa trước mặt người đời. Thử hỏi ai trong chúng ta đãi tiệc mà thực khách đến muộn về sớm không ? Thử hỏi Chúa có buồn không khi con cái Chúa cư xử với Chúa như vậy ?
Chưa hết, không phải đi lễ cắt trước cắt sau như thế mà thậm chí còn bỏ lễ Chúa nhật. Người ta vẫn thường nói “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để rồi có những người vô tư bỏ lễ Chúa nhật. Vì lẽ thường thì bỏ một lần xong lại cứ bỏ tiếp thôi, dần dần cái thói quen xấu bỏ lễ nó thâm nhập vào người ta lúc nào mà người ta không biết. Giữ đạo như thế phải chăng là một cách chối Chúa trước mặt người đời.
Còn những người đi lễ, thật sự thì có đi lễ đấy nhưng có làm cho thánh lễ nối dài trong cuộc sống hay là bước chân ra khỏi nhà thờ thì mọi chuyện đâu vào đấy. Sống Thánh lễ nối dài đó chính là một cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Chắc có lẽ Chúa không đòi buộc con cái Chúa sau khi tham dự Thánh lễ ra khỏi cổng nhà thờ là hô hoán lên rằng tôi mới đi lễ xong, tôi là người Công Giáo. Ngày nay cũng chẳng còn cấm đạo như thời Minh Mạng hay những thời khó khăn để Chúa đòi hỏi kitô hữu phải đổ máu đào để minh chứng về Chúa.
Phải nhìn nhận thẳng rằng chính những lúc cấm đạo, những lúc bắt đạo thì đời sống đạo của Kitô hữu rất cao, không chỉ là đời sống đạo mà cách hành đạo rất tốt. Ngày xưa càng cấm đạo người ta càng giữ đạo và càng làm chứng về đạo. Ngày nay tình hình tự do tôn giáo được mở ra một chút thì đời sống đạo lại tụt dốc. Ngày hôm nay có nhiều phương tiện hơn, có nhiều cơ hội đến nhà thờ hơn nhưng người ta lại ít đến với nhà thờ hơn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng ngày nay người ta không cần thầy dạy nữa mà người ta cần chứng nhân ! Chứng nhân của Chúa là gì ? nhận Chúa là Chúa, là chủ tể đời mình là gì ? Phải chăng đó chính là ăn tiếng nói, cư xử, hành vi của kitô hữu mới chính là cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Và Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ, nhắc nhở mọi người chúng ta: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau”.
Chúa cũng sẽ chất vấn chúng ta về hành vi, về thái độ làm chứng hay chối Chúa trước mặt người đời trong ngày sau hết. Chắc có lẽ, tự vấn lòng mình, tự soi vào tận sâu thẳm lòng mình chúng ta chúng ta mới biết được là mối tình giữa chúng ta và Chúa nó được bao nhiêu hay là nó phai tàn theo năm tháng và sợ nó không còn nữa. Nếu nó mờ đi thì chúng ta phải tìm cách để cho nó sáng hơn để cho mọi người nhìn vào ta họ thấy có sự hiện diện của Chúa trong đời ta.
Làm chứng cho Chúa, làm chứng có Chúa chính là sống đời sống bác ái yêu thương.
Nguyện xin Chúa là chủ, là Chúa của Tình Yêu tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta tình yêu dạt dạo của Chúa và xin cho mỗi người chúng ta biết rộng mở tấm lòng để chia sẻ tình yêu mà chúng ta nhận được từ Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng về Chúa trước mặt người đời bằng cách ăn nết ở của chúng ta để ngày kia trên Thiên quốc Chúa cũng làm chứng cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã hứa.
Nơi thành phố Louvain, thuộc vương quốc Bỉ, có một phụ nữ Công Giáo vừa đạo đức vừa giàu có. Bà tên Catarina. Bà Catarina đặc biệt có lòng kính mến Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Bà thường xuyên thi hành việc đạo đức tham dự Thánh Lễ và rước lễ trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp.
Bỗng một ngày, bà Catarina cảm thấy mệt. Đó là ngày gần kề Thứ Sáu Đầu Tháng. Bà cảm thấy lo âu vì không thi hành được việc đạo đức theo thói quen vẫn làm. Bà xin người nhà rước Cha Sở đến cho bà lãnh nhận các Bí Tích Sau Cùng. Cha Sở vội vàng đến ngay. Cha giải tội cho bà theo lòng bà ước nguyện. Nhưng Cha quyết liệt từ chối không trao Mình Thánh Chúa cho bà cũng không ban cho bà Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Cha nói:
- Bà không đau nặng đến nỗi cần phải lãnh nhận ”Của-Ăn-Đàng” và chịu phép ”Xức Dầu” lần cuối. .
Để trấn an bệnh nhân, Cha Sở cho mời bác sĩ Levebre đến. Bác sĩ là giảng sư nổi tiếng của đại học Công Giáo thành phố Louvain. Vừa trông thấy bác sĩ, bà Catarina vội vàng nói:
- Thưa bác sĩ, tôi đang đi vào giai đoạn cuối đời, do đó, tôi ước ao lãnh 2 Bí Tích Thánh Thể và Xức Dầu.
Nghe bệnh nhân nói thế, bác sĩ đáp:
- Thưa bà, để lãnh các Bí Tích sau cùng, cần phải ở trong tình trạng nguy cấp. Trong khi bà vẫn khỏe mạnh, không gặp hiểm nguy nào cả. Vì thế, tôi hoàn toàn đồng ý với Cha Sở, từ chối ban cho bà các Bí Tích sau cùng.
Mặc dầu nghe bác sĩ nói vậy, bà Catarina vẫn một mực cả quyết mạng sống bà lâm nguy. Rồi bà nài nĩ xin Cha Sở ban các Bí Tích cho bà. Bà khẩn khoản đến nỗi Cha sở xiêu lòng. Cha mang Mình Thánh Chúa cho bà. Vừa rước Đức Chúa GIÊSU xong, bỗng bà Catarina hoàn toàn bị kiệt lực. Cha sở tức tốc ban phép Xức Dầu cho bà. Chịu phép Xức Dầu xong, bà Catarina thều thào:
- Giờ đây, phải bỏ lại tất cả!
Và sự thật đúng như câu bà Catarina nói. Bà ra đi để lại hiền phu trung hậu với 4 đứa con ngoan hiền và một tài sản kếch sù!
Bà Catarina lập lại một lần nữa:
- Giờ đây, phải bỏ lại tất cả! Đó chính là thánh ý THIÊN CHÚA. Tâm lòng tôi bằng an!
Nói xong, bà êm ái trút hơi thở cuối cùng, trước sự hiện diện của Cha Sở, bác sĩ Levebre, người chồng yêu dấu và bốn đứa con.
Câu chuyện bà Catarina được ơn chết lành, vì đã sốt sắng thi hành việc đạo đức tham dự Thánh Lễ và rước lễ trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp, thực hiện lời Đức Chúa GIÊSU KITÔ long trọng nói với thánh nữ Marguerite-Marie Alacoque (1647-1690), trong lần hiện ra vào một ngày thứ Sáu năm 1688:
- Trong mức độ tột cùng lòng từ bi Trái Tim Cha, Cha hứa với con rằng: ”Tình Yêu Toàn Năng của Cha sẽ ban ơn hoán cải sau cùng cho những ai rước lễ 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp. Những người này sẽ không chết khi còn mắc tội trọng nhưng sẽ được lãnh nhận các Bí Tích và trong giờ sau hết, Trái Tim Cha sẽ là nơi nương náu vững vàng nhất”.
... ”Tôi là kẻ hèn nhất trong các thánh, nhưng đã được ơn này là rao giảng cho dân ngoại những sự giàu có không thể hiểu thấu được, và soi sáng cho mọi người biết cách thức phân phát mầu nhiệm đã được giấu ẩn từ muôn thưở trong THIÊN CHÚA, Đấng Tạo Thành vạn vật: khiến các chủ thần và quyền thần thiên quốc đều phải nhờ Hội Thánh mới biết được sự khôn ngoan muôn hình vạn trạng của THIÊN CHÚA, thể theo dự định từ trước muôn đời mà Ngài đã thi hành trong Đức GIÊSU KITÔ, Chúa chúng ta. Trong Người, chúng ta được cậy trông và nhờ lòng tin vào Ngài, chúng ta mạnh dạn đến cùng Ngài. Nhân vì lẽ ấy, tôi quỳ gối trước mặt Cha Đức GIÊSU KITÔ, Chúa chúng ta. Ngài là nguồn gốc mọi danh phận làm Cha trên trời dưới đất. Xin Ngài chiếu theo sự giàu có vinh quang của Ngài và nhờ Thánh Thần của Ngài, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Đức Chúa GIÊSU KITÔ ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Đức Chúa GIÊSU KITÔ vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của THIÊN CHÚA” (Thư gửi tín hữu Êphêsô 3,8-12.14-19).
(”Sembra Impossibile. . eppure è così”, Editrice Comunità, 1992, trang 158-159)
351. Hoài bảo lớn nhất của Chúa Giêsu khi xuống trần gian nầy
Khi xuống trần gian nầy, hoài bảo lớn nhất của Chúa Giêsu là giải phóng tất cả mọi người khỏi ách ma quỷ và tội lỗi, giành lại cho họ quyền độc lập tự do hạnh phúc của người con của Cha Ngài trên trời.
Hoài bảo nầy được Chúa Giêsu nói ra trước cái chết cứu chuộc của Ngài: “Đây là máu đổ ra để cứu chuộc nhiều người.”
Hoài bảo nầy cũng được Chúa Giêsu nói ra trước khi ngự về trời với Cha Ngài: “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
352. Giáo Hội xem hoạt động truyền giáo là căn bản, cao cả và thánh thiện nhất
Trong Công Đồng Vatican II, Giáo Hội đã từng long trọng tuyên bố: “Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội là bổn phận căn bản của Dân Chúa”, là “bổn phận cao cả và thánh thiện nhất của Giáo Hội.”
353. Xây dựng Nước Chúa theo ba chiều
- chiều cao: làm cho người ta vâng giữ luật Chúa và sống theo những gì Luật Chúa dạy
- chiều sâu: làm sao cho tinh thần của Đạo Chúa thấm nhập vào đời sống xã hội, ăn sâu vào tư tưởng, vào tập quán của xã hội, để xã hội trở nên môi trường thuận lợi cho Đạo Chúa nẩy nở
- chiều rộng: làm cho nhiều người thuộc vào Nước của Chúa, trở nên Dân của Chúa
354. Vì sao có khủng hoảng ơn thiên triệu?
Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới, có khủng hoảng về ơn thiên triệu: ít người đại độ dâng mình cho Chúa, một số đã dâng mình cho Chúa nhưng lại tìm cách rút lui, số người dâng mình cho Chúa bị các quyền lực thế trần hạn chế, các tu viện gặp khó khăn trong sinh hoạt v.v…
Đứng trước sự khủng hoảng về ơn thiên triệu, cũng như đứng trước những khó khăn về vấn đề nầy, tuy có lo âu khắc khoải, nhưng Giáo Hội vẫn không mất lòng trông cậy vào sự an bài toàn năng của Chúa vì Giáo Hội xác tín đây là ơn thiên triệu, nghĩa là do Chúa trệu tập, chứng không phải là ơn nhân triệu, nghĩa là do loài người triệu tập.
Vì thế, vấn đề ơn thiên triệu là vấn đề của đức tin: ơn thiện triệu khủng hoảng là vì thiếu đức tin, ơn thiên triệu phát triển là vì có đức tin.
355. Hãy sống đời mình trong thực tế và giữa thực tế
Trên đời nầy, ai cũng phải sống trong thực tế và giữa thực tế: thực tế của của gia đình, của xã hội, của lịch sử, của địa lý, của giáo dục, của môi trường, của chính cuộc sống của mình, v.v… Và mỗi người chúng ta hãy làm sao hoà hợp cho được tất cả những thực tế đó, hoà hợp một cách cao đẹp, hiên ngang, xứng với nhân phẩm, niềm tin, danh giá và danh dự của mình.
Âm nhạc thật thiên hình vạn trạng, nhưng quy tụ lại chỉ có 7 thực tế, đó là 7 nốt nhạc: do re mi fa sol la si. Nhưng vì biết hoà hợp 7 thực tế nầy mà nhiều ca sĩ, nhạc sĩ đã sáng tác ra được biết bao nhiêu bài hát rất hay.
356. Ai bay nhanh và bao cao đến với Chúa?
Thánh Phanxicô Salêsiô phân tích nhiều hạng giáo dân bay đến với Chúa như sau: “Đà điểu không bao giờ bay; gà mái có bay nhưng ít khi, mà có bay thì bay nặng nề và thấp lé đé; chỉ có phượng hoàng, bồ câu, én, nhạn mới năng bay, bay nhanh và bay cao…Cũng một lẽ đó, người tội lỗi không bay đến với Chúa; người xa lánh tội lỗi nhưng chưa trọn lành thì thỉnh thoản mới bay đến với Chúa, nhưng bay một cách nặng nề, chậm chạp; chỉ có những người đạo đức chân thật mới năng bay đến với Chúa, và bay nhanh, bay cao.”
357. Hãy làm chủ việc ăn uống của mình
Ăn hoặc uống khi không cần thiết, hoặc ăn hay uống một cách quá độ, đó là điều làm cho chúng ta mất đi nhiều ơn Chúa ban và làm cho chúng ta dễ bị cám dỗ, sa ngã.
Chúa Giêsu chúc dữ những người nào ăn uống quá độ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ đã được no nê!”
Thánh Phêrô cảnh cáo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức vì kẻ thù anh em là ma quỷ, hằng rảo quanh mình anh em như sư tử gầm gừ, chực rình cắn xé anh em.”
358. Các thánh lên án sự tham ăn mê uống
Thánh Ambrôsiô cảnh cáo: “Nếu ai muốn đi đàng nhân đức và trọn lành, thì trước hết phải đặc biệt chiến đấu với tính tham ăn.”
Thánh Grêgôriô quả quyết: “Kẻ nào không chiến thắng được tính tham ăn, kẻ đó không phải là một chiến sĩ của Chúa Kitô.”
Thánh Catarina thành Siêna ví kẻ tham ăn mê uống như một con tàu chở quá đầy, rất dễ bị chìm: “Kẻ nào ăn hoặc uống quá độ, kẻ đó giống như một con tàu chở quá đầy, dễ bị chìm khi một ngọn gió nổi lên.”
359. Thánh nào cũng cầu nguyện thật nhiều
Cây nào luôn được ánh mặt trời soi chiếu, cây đó mọc nhanh và sinh nhiều hoa trái. Người nào luôn cầu nguyện, người đó được mặt trời là Chúa, chiếu soi luôn mãi và làm cho họ tiến nhanh trên con đường trọn lành.
Thánh Anphongsô quả quyết: “Các thánh được thánh thiện là nhờ đời sống cầu nguyện của họ hơn là nhờ những hoạt động của họ.”
Bởi thế, chúng ta thấy các thánh, thánh nào cũng thích cầu nguyện, thánh nào cũng cầu nguyện thật nhiều.
360. Việc nhỏ làm cho chúng ta tiến tới một cách lạ lùng
Thánh Ambrôsiô nhận xét: “Phần nhiều những kẻ buôn bán trở nên giàu có vì họ biết tiết kiệm từng xu, từng đồng.”
Thánh Phanxicô Salêsiô cũng nhận xét như vậy: “Tất cả những gì to lớn đều do những cái nhỏ góp lại: một đống cát lớn do những hạt cát nhỏ góp lại, một giòng sông lớn do nhiều con suối nhỏ tạo nên, một thành phố lớn do có nhiều nhà người ta ở, một rừng rậm do có nhiều cây mọc.”
Vì thế, thánh Augustinô khuyên: “Bạn muốn trở nên cao cả, trọn lành, bạn hãy bắt đầu làm những cái nhỏ mọn.”
N2T |
Buổi sáng, mặt trời đỏ chiếu ấm địa cầu, gấu con mang cặp sách vừa chạy vừa nhảy đi đến trường.
Gấu mẹ nhìn bóng sau lưng của nó, nói với gấu ba: “Lạ thật, tôi mua cho gấu con cái cặp sách mới, hộp viết và dụng cụ học sinh nhưng nó đều không mang theo, nó xếp ngay ngắn trên kệ sách kìa, không biết tại sao lại như thế ?”
Gấu ba ngạc nhiên nói: “Thật sao ? Đợi nó đi học về thì hỏi xem sao !”
Khi mặt trời xuống núi, gấu con khe khẻ hát “Gấu cưng, gấu cưng, lòng gấu cưng tràn ngập yêu thương, ”và đẩy cánh cửa mở ra bước vào nhà.
Gấu ba nghe thì nhịn không được nên cười hô hô, rồi ẳm gấu con ngồi trên chân và hỏi: “Tại sao con không mang cặp sách mới, con không thích à ?”
- “Đương nhiên là thích chứ !”
- “Vậy thì tại sao không mang đi học ?”
- “Đó là bí mật !” gấu con nghịch ngợm nháy mắt với gấu ba. Cứ như thế, ngày ngày qua đi, gấu ba và gấu mẹ hình như cũng quên luôn chuyện cặp sách ấy.
Cho đến ngày tết nhi đồng, ngay từ sáng sớm gấu con đã thức dậy, nó lấy cặp sách mới, hộp bút chì và những dụng cụ học sinh, bỏ vào trong một cái hộp rất đẹp làm quà tặng cho thỏ trắng.
Hóa ra, thỏ trắng ngay từ nhỏ đã mất mẹ, thỏ ba từng chút từng chút nuôi nó lớn lên, hai cha con sống qua ngày rất cực khổ. Gấu con nhìn thấy thì nhất tâm muốn giúp người bạn nhỏ, thế là nó lấy cái cặp sách, hộp bút chì và những dụng cụ học sinh mà mẹ mua cho đều cất giữ lại, làm món quà ngày tết nhi đồng tặng cho thỏ trắng.
Khi gấu mẹ và gấu ba nhìn thấy bóng hình gấu con và thỏ trắng tay trong tay đi qua, thì họ đã hiểu rõ ràng. Gấu ba cười nhẹ nói với gấu mẹ: “Bí mật của gấu con là tấm lòng yêu thương.”
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
Giúp đỡ người khác là một loại đức tính tốt, khi người khác gặp khốn khó thì chúng ta phải bày tỏ lòng yêu thương của mình, giúp đỡ họ theo khả năng của mình có được.
Mỗi ngày làm một việc bác ái, đó chính là bông hoa, và là của lễ đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa của chúng ta.
Có một vài em nhỏ nói rằng mình không có tiền để làm việc bác ái, các em đừng lo, bởi vì tấm lòng yêu thương của các em chính là kho tàng vô giá mà các em đem tặng cho người khác, chẳng hạn như: một nụ cười tươi các em đem tặng cho người bạn đang gặp chuyện buồn, một cái bắt tay các em đem tặng cho người bạn mới gây gỗ với các em ngày hôm qua, một việc làm có ý nghĩa với người tàn tật.v.v...tất cả đều là hành vi do lòng bác ái mà ra, Thiên Chúa nhất định sẽ chúc phúc cho các em.
Gấu nhỏ đã biết cách lên kế hoạch cho việc làm bác ái của mình, bằng cách đem cái cặp sách mới, hộp bút chì mới và những dụng cụ học sinh mà mẹ mua cho, đem tặng cho thỏ trắng nhân ngày tết nhi đồng, việc làm của gấu con rất có ý nghĩa và đáng cho chúng ta bắt chước.
Các em thực hành:
- Mỗi ngày cố gắng làm một việc thiện.
- Mỗi ngày cố gắng đọc một kinh Lạy Cha cầu nguyện cho người bất hạnh.
- Mỗi ngày cố gắng tập nói một câu nói hay.
N2T |
20. Linh hồn của chúng ta giống như một vườn hoa, các loại đức hạnh đều là những bông hoa đẹp đẽ trong vườn hoa này, sức mạnh của suy niệm chính là giếng nước tưới vườn hoa này, không ngừng dùng nước để tưới thì các loại đức hạnh mới có thể phát triển xum xuê; mới có thể nở ra đóa hoa khiêm tốn nhẫn nại, kết trái tươi là dẹp bỏ mình để vâng lời; nếu dứt suy niệm thì linh hồn giống như đất ruộng khô cằn, giống đức hạnh trước đây như trăm hoa đua nở rất đẹp, bây giờ phải tàn rụng là tất yếu.
(Thánh Chrysogonus)Lời Tuyên Bố của Obama nhân dịp kỷ niệm 35 năm Phán Quyết Roe v. Wade
Chicago, IL, ngày 22 tháng 1, năm 2008
Chicago, IL – TNS Barack Obama hôm nay đã đưa ra lời tuyên bố dưới đây nhân dịp kỷ niệm 35 năm phán quyết Roe v Wade.
“Ba mươi lăm năm sau khi Tối Cao Pháp Viện đã quyết định về Rove v Wade, không có lúc nào giờ quan trọng hơn [bây giờ] về việc bảo vệ quyền chọn lựa của một phụ nữ. Năm vừa qua, Tối Cao Pháp Viện đẵ quyết định với 5-4 để duy trì luật Cấm Phá Thai của Liên Bang, và làm như thế là hạ thấp một nguyên tắc quan trọng của Roe v Wade: là chúng ta luôn luôn phải bảo vệ sức khoẻ của phụ nữ. Chỉ cần một ghế trống nữa ở Tối Cao Pháp Viện là chúng ta có thể thấy một đa số chống lại quyền chọn lựa căn bản của phụ nữ lần đầu tiên kể từ Roe v Wade. Vị Tổng Thống sắp tới có thể sẽ được mời để đề cử vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện ấy. Đó chính là điều đang bị đe dọa trong cuộc bầu cử này.
“Suốt cuộc đời nghề nghiệp của tôi, tôi đã kiên vững và mạnh mẽ hủng hộ công lý về việc sinh sản, và có một thành tích được điểm 100% phò chọn lựa đối với Planned Parenthood và NARAL-Pro-Choice America.
“Khi South Dakota thông qua luật cấm tất cả các cuộc phá thai với một cố gắng trực tiếp lật đổ Roe, Tôi đã là một ứng cử viên Tổng Thống duy nhất gây quỹ để giúp các công dân ở South Dakota đẩy lui luật ấy. Khi những người chống chọn lựa [chống phá thai] biểu tình ngăn cản việc mở cửa một bệnh xá của Planned Parenthood ở Illinois trong một cộng đồng là nơi không có đủ cơ quan săn sóc ý tế [nhà phá thai] giá phải chăng, tôi là một ứng cử viên Tổng Thống duy nhất đã lên tiếng phản đối điều ấy. Và tôi sẽ tiếp tục bảo vệ quyền này bằng cách thông qua dự luật Freedom of Choice Act [1] khi tôi là Tổng Thống.
“Hơn nữa, tôi tin vào và đã ủng hộ những giải pháp thông thường như là gia tăng việc dễ dàng có những phương tiện ngừa thai để giúp tránh có thai không chủ ý. Ở Thượng Viện tiều bang Illinois, khi Quốc Hội không đòi các chương trình bảo hiểm phải bao gồm thuốc ngừa thai được FDA cho phép, tôi đã làm hết sức để đảm bảo rằng bào hiểm trả tiền mua thuốc ngừa thai ở Illinois. Ở Thượng Viện, tôi đã làm việc với TNS Claire McCaskill (D-MO) về một dự luật giúp cho những phụ nữ lương bổng thấp và các phụ nữ ở đại học có phương tiện ngừa thai dễ dàng, và tôi cũng đã đưa ra Thượng Viện một dự luật tương tự như của Dân Biểu Hilda Solis để giảm bớt những vụ thụ thai ngoài ý muốn trong các cộng đồng dân da mầu. Là Tổng Thống, tôi sẽ cải tiến việc dễ dàng có những chăm sóc y tế và làm việc để đảm bảo rằng các trẻ em vị thành niên của chúng ta có được tin tức và các việc phục vụ [ngừa thai và phá thai] để được an toàn [không có bầu] và khẻo mạnh.
“Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng Roe v Wade còn [quan trọng] hơn cả quyền chọn lựa của phụ nữ; nó là về bình đẳng. Đó là việc các con gái của chúng ta có được cùng một cơ hội như các con trai của chúng ta. Cho nên để thật sư tôn trọng quyết định ấy, chúng ta phải cập nhật hóa khế ước xã hội để các phụ nữ có thể tự giải phóng họ và con cái họ, khỏi những liên hệ vũ phu; để một người mẹ có thể ở nhà với một đứa con bị ốm mà không sợ mất việc; để bà ấy có thể đi làm khi biết rằng có việc trông coi trẻ em giá phải chăng và có phẩm chất cho các con của bà; và để rồi giấc mơ của người Mỹ có thể ở trong tầm tay của từng gia đình trong đất nước này. Ngày kỷ niệm này nhắc cho chúng ta rằng bào vệ những gì chúng ta đã chiếm được trong quá khứ chưa đủ, mà chúng ta phải xây dựng một tương lai đầy hứa hẹn và có triển vọng cho tất cả mọi người Mỹ.”
Phaolô Phạm Xuân Khôi
dịch theo website của Obama: Obama Statement on 35th Anniversary of Roe v. Wade Decision
-------------------------------------------------------------
[1] Theo American Center for Law and Justice thì Freedom of Choice Act sẽ thiết lập quyền phá thai tuyệt đối và sẽ vô hiệu hóa hết các luật liên bang, tiểu bang và địa phương chống lại phá thai, kể cả luật cấm Phá Thai Bán Phần bởi vì chúng can thiệp vào quyền phá thai tuyệt đối này.
Linh mục Anthony Kelly, Dòng Chúa Cứu Thế, tiến sĩ thần học, từng học tại Rôma, Toronto và Paris, nguyên chủ tịch Hội Thần học Công giáo Úc, hiện là trưởng ngành triết và thần học và giáo sư thần học tại Viện Ðại Học Công giáo Úc, được đức Gioan Phalô II cử làm thành viên Ủy ban Thần học Quốc tế của Tòa thánh. Tháng 8 năm 2003, trên tạp chí Australian Ejournal of Theology, cha viết một bài kỷ niệm Công đồng Vatican II tròn 40 tuổi.
Gaudium et Spes dĩ nhiên có nghĩa là vui mừng và hy vọng. Khi nhìn lại 40 năm qua, ta thấy niềm vui quả có thực tế hơn, và niềm hy vọng thì càng lớn hơn nhiều. Biến cố Vatican II vẫn còn đang diễn tiến, dù rất có thể nó không tưởng tượng được thế giới sẽ biến đổi ra sao.
Ðối với những con người thuộc thế hệ tôi, Vatican II vẫn còn rất rõ trong trí nhớ riêng của họ.Trong thời gian Công đồng, Rôma là nơi người ta cần phải hiện diện. Tôi có dịp tình cờ được làm phó tế cho một thánh lễ khai diễn một phiên họp trong ngày. Quả là giây phút ngây ngất được đọc Phúc âm cho các Nghị phụ nhóm họp. Nhưng đừng vội phổng mũi. Vai trò của tôi cũng bao hàm việc phải đội mũ tế (mitre) lên đầu một vị giám mục thừa sai người Canada nói tiếng Pháp, chắc chắn đây là dịp long trọng đối với ngài. Chẳng may, chiếc mũ như có lò so bật khỏi đầu ngài như chiếc hỏa tiễn. Chắc ngài nguyền rủa anh chàng phó tế người miền đối cực này lắm lắm. Dù sao, tôi cũng được xua qua một bên và từ đấy chẳng dám hó hé chi. Phải mình đã vui mừng và hy vọng quá chăng?
Hiến chế Mục vụ, Giáo hội Trong Thế giới Ngày nay, được hoàn thành vào cuối Công đồng, đã đưa Dân Chúa vào một cuộc đối thoại đầy tự tin và rộng mở với thế giới đương đại. Những chữ đầu hết của nó là “Vui mừng và Hy vọng”, Gaudium et Spes; những chữ sau này trở thành tiêu đề cho Hiến chế. Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Công đồng khai mạc. Vậy mà ngày nay ta lại phải giáp mặt với một câu hỏi lạ: Có vui mừng quá và có hy vọng quá chăng?- vì cung cách thay đổi của thế giới, và cũng vì vậy mà ta thay đổi theo: tempora mutatur, et nos mutamur in illis như câu ngạn ngữ thường nói.
Từ ngày khai mạc Vatican II, một thế hệ rưỡi (một kiểu nói lạ lùng!) đã sinh ra. Cái thế hệ rưỡi ấy không biết đến Giáo hội ở bất cứ thời nào khác. Những người trẻ tuổi này thường bỡ ngỡ trước những hoài niệm lâu đời và những lòng trung thành kỳ dị của các lớp đàn anh. Họ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào một công đồng lại có thể là một cú sốc cho được, làm thế nào mà người ta lại có thể cuống cả lên, làm thế nào nó lại có thể trở thành một thách đố, một nguy cơ hoặc ngay cả một thất bại nữa…
Một thế hệ cũng đã ra đi. Họ là những người khôn ngoan khi công đồng bắt đầu – đó chính là các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng của Giáo hội, những thần học gia tài ba, các thành viên các hội dòng lớn, và một cộng đoàn rộng lớn gồm những người đàn ông và đàn bà từng hiến cả đời mình dưỡng dục con cái trong đức tin Công giáo.
Bây giờ tất cả những người ấy đã đi khỏi; được gom ra khỏi trần thế này nơi đầy những tra vấn, tìm tòi và chứng cớ nửa vời để bước vào huyền nhiệm sau hết. Nhiều người ra đi trong hy vọng, một hy vọng lớn hơn bao giờ hết. Nhưng tất cả đã ra đi khi chưa thấy giấc mơ lớn nào trở thành sự thực… Một số ra đi vỡ mộng và cay đắng vì số lượng, vận tốc và chiều sâu trong các thay đổi mong chờ.
Còn đối với chúng ta, những người sống hơn một thế hệ, có lẽ sự thật chính yếu của Công đồng nằm sâu trong chương 7 của tài liệu nói về Giáo hội: “Giáo hội lữ hành, trong các bí tích và định chế của mình, là những cái vốn thuộc thời đại này, mang theo mình dấu ấn trần gian, một dấu ấn sẽ qua đi, và chính Giáo hội cũng đứng vào hàng các tạo vật đang rên rỉ và đau đớn trong khi chờ đợi mạc khải của con cái Thiên Chúa”.
Chúng ta tiếp tục không được thừa hưởng chi ngoài Thiên Chúa, không được thừa hưởng chi ngoài ân sủng của Chúa Kitô, không được thừa hưởng chi ngoài những việc lạ lùng Chúa Thánh Thần có thể làm. Không Công đồng nào nói về Thiên Chúa, về mầu nhiệm Chúa Kitô và về đặc sủng Chúa Thánh Thần bằng Công đồng này. Con đường lữ hành của ta gặp rất nhiều khúc rẽ lạ trước khi giáp mặt với mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Các hy vọng của ta không nằm ở điều gì khác; không nằm trong việc tìm lại được thuở vàng son ngày cũ mà cũng không nằm trong việc dựng nên một hình ảnh tươi tốt hơn cho hiện tại cũng như một Giáo hội được hoạch định hoàn chỉnh cho tương lai.
Ta tưởng ta có thể du hành miễn phí vào tương lai bằng cách bắt kịp với “Thế giới Hiện đại”: aggiornamento là đủ rồi! Nhưng trong bốn mươi năm qua, cái thế giới hiện đại ấy đã trở thành “thế giới hậu hiện đại” mất rồi, một thế giới hậu hiện đại trong đó chính trị tan vỡ, kinh tế sụp đổ, môi sinh co giật. Người ta đang mơ một trật tự thế giới mới. Nhưng nếu không có một lịch sử lớn hơn hay một truyền thống ân phúc của tình người, những giấc mơ ấy mặc tình cho sức mạnh của luật lệ hay vũ lực khuynh đảo.
Tôi tin chắc rằng cùng với việc mở màn cho một thiên niên kỷ mới, các tài liệu của Vatican II sẽ được các thế hệ sắp sinh ra đọc lại một cách hân hoan. Lần này họ đọc với một đức tin nghịch thường nhẹ hơn đi một chút, với nhiều chấp nhận hơn con đường khiêm hạ lữ hành, và dáo dác hơn trong việc tìm gặp Ðấng Khách Lạ đang đứng chờ ta ở mọi khúc rẽ.
Bạn có thể đặt một câu hỏi trong đầu để thảo luận, tỷ như: trong 40 năm qua thế giới đã thay đổi ra sao đến độ chính Công đồng cũng có thể đã không dự đoán được? Hệ thống thông tin hoàn cầu (WWW), thống nhất Châu Âu ngày một mạnh, cộng sản Sô-viết sụp đổ, phong trào nữ quyền xuất hiện, ý thức mới về môi sinh, man vàn cuộc chiến tranh, phong trào khủng bố mọc lên, chủ nghĩa tư bản toàn thắng, nước Mỹ bá quyền không còn ai thách thức, văn hóa tiêu thụ thống trị, dân số nhanh chóng già đi, kỹ thuật sinh học xuất hiện, thảm họa AIDS, chấm dứt phân biệt chủng tộc (Apartheid), triều đại Gioan Phaolô II, diệt chủng tại Campuchia và Rwanda, phanh phui không ngừng các gương xấu của giáo sĩ… đấy mới chỉ là một số, bạn có thể điền cho đủ theo cách riêng của mình! Giáo hội quả thấy mình trong một thế giới thường được mệnh danh là ‘hậu hiện đại’.
Câu hỏi trên đây của chúng ta đáng được thảo luận. Vì dù sao, vui mừng và hy vọng cần thấm nhiễm ý thức Kitô hữu, nếu ta muốn tin vào chứng tá Thánh Kinh và sứ điệp Công đồng. Bạn có thể lựa một vài thánh vịnh và nhận ra một kinh nghiệm cổ điển về lòng hy vọng từng nâng đỡ biết bao thế hệ tín hữu trong suốt 2,700 năm qua, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu thuộc lòng, mà Ðức Maria từng đọc, lời cầu tán tụng và than vãn vốn là nòng cốt các Giờ Kinh Phụng Vụ của Giáo hội:
“Sự cứu độ của người công chính đến từ Chúa;
Ngài ở đấy chở che trong buổi nghặt nghèo;
Chúa phù trợ và Người giải thoát;
Giải thoát họ khỏi ác nhân và thương cứu họ
Bởi họ ẩn náu nơi Người” (Tv 37: 39-40)
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn? Sót sa phận mình?
Hãy cậy trông Thiên Chúa; vì tôi sẽ tán tụng Người,
Ðấng Cứu độ và Thiên Chúa của tôi.” (Tv 42: 6-7)
Ngoài ra, ta còn ca khúc diệu kỳ tán tụng lòng hy vọng trong thư Rôma đoạn 8, trong đó thánh Phalô miêu tả toàn bộ tạo vật đang rên xiết trong hành vi lâm bồn vĩ đại, chúng ta cũng cùng rên xiết và cả Chúa Thánh Thần nữa cũng cùng rên xiết với ta. Ngài viết: ‘trong hy vọng, chúng ta được cứu vớt’ (Rm 8:24). Và ngài tự hỏi: ‘Ai có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Phải chăng gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?’ (RM 8: 35). Tại sao ta không thêm ‘hay gương mù, khủng hỏang trung thành và lãnh đạo, hay bất cứ xụp đổ định chế hoặc bất cứ điều gì có thể đem xấu hổ, bối rối và tuyệt vọng đến cho ta’? Dù sao, Thánh Phaolô cũng rõ rệt ở chỗ này:
‘Nhưng không, trong mọi thử thách ấy, chúng ta là những kẻ chiến thắng nhờ Ðấng đã yêu thương chúng ta. Ðúng vậy, tôi tin chắc rằng cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương [=hiện trạng quỉ quái của bất cứ nền văn hóa đương đại nào], hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta’ (Rm 8: 37-39).
Có lẽ ta nghĩ mọi chuyện sẽ dễ dàng hoặc những lời mở đầu trong tài liệu vĩ đại kia của Công đồng chỉ là một lý tưởng lãng mạn không hơn không kém:
“Vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của con người thời nay, nhất là của những ai túng nghèo và khốn khó cách này cách khác, đều là vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của môn đệ Chúa Kitô” (GS #1).
Không hề có cách gì êm đẹp để ta cảm nghiệm sầu buồn, lắng lo, túng nghèo và khốn khó; cũng chẳng có cách gì dễ dàng để ta bước vào vui mừng và hy vọng như đã hứa. Tuy nhiên niềm hy vọng thì thật rộng lớn và tóm thu: “Khi ta gieo vãi khắp mặt địa cầu các hoa trái của thiên nhiên và lao công ta – nhân phẩm, hiệp thông huynh đệ, và tự do – theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thần Khí của Người, ta sẽ thấy chúng một lần nữa, được tẩy sạch mọi bợn nhơ tội lỗi, được rọi sáng và biến hình, lúc Chúa Kitô trình lên Chúa Cha vương quốc đời đời và phổ quát, vuơng quốc ‘của chân lý và công chính, vương quốc của thánh thiện và ân sủng, vương quốc của công bình, yêu thương và bình an’. Trên địa cầu này, vương quốc ấy hiện diện một cách huyền nhiệm; khi Chúa đến, vương quốc ấy bước vào hoàn hảo” (GS #39).
Ðiều ấy mời ta phải đọc kinh Lạy Cha một cách mới hẳn: ”Nguyện danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến” – không phải danh khác, càng không phải danh ta; không phải nước khác, càng không phải nước ta!
Thật dễ hiểu khi nhiều người trong ta có khuynh hướng cho rằng nếu ta thương thế gian, ắt hẳn thế gian sẽ thương ta, và nhìn nhận Giáo hội ngay tức khắc như là tác nhân tạo nên một nhân loại tuyệt vời.
Về vấn đề này, ta từng được khuyến cáo rất rõ. Các cộng đoàn bé nhỏ bị vây khốn cách nay 1900 năm vẫn hằng nhắc nhớ nhau lời Chúa nói trước khi Người chịu đóng đinh rằng: “nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó ghét ta trước khi ghét các con. Nếu các con thuộc thế gian, thế gian sẽ yêu thương các con như những gì thuộc về nó. Nhưng vì các con không thuộc thế gian, mà chính ta chọn các con từ thế gian này, cho nên thế gian ghét các con” (Ga 15:18-19). Ðiều này không bào chữa cho bệnh hoang tưởng (paranoia); nhưng nó đáng được ghi nhớ, vì văn hóa nhân bản vốn có yếu tố sâu xa muốn tìm chiên thế tội ngay trong nó: bất cứ ai hay bất cứ điều gì dám thách thức những chân lý tự phục vụ nó hiển nhiên phải bị thanh trừng; muốn sống yên, thì đừng thách thức.
Hẳn bạn còn nhớ những câu nói của Friedrich Nietzsche, một triết gia vốn đưa ra một nhận định gây hiệu quả mạnh mẽ trên nền văn hóa hiện đại, nhất là trong nền văn hóa chữ nghĩa của nước Úc. Trong tác phẩm cuối cùng trước khi bị bệnh tâm thần, nhà triết học hàm hồ mà cuồng nhiệt nhất trong số các triết gia này viết như sau: “Quan niệm Kitô giáo về Thiên Chúa – Thiên chúa như vị thần của người bệnh, Thiên chúa như con nhện, Thiên chúa như thần thiêng – là một trong những quan niệm hủ hóa nhất về thần linh chưa bao giờ có trên mặt địa cầu. Nó đại diện cho mức thấp nhất trong khai triển đi xuống về thần linh. Thiên chúa suy thoái xuống thành mâu thuẫn với sự sống, thay vì phải biến hình nó và là khẳng định đời đời của nó! Thiên chúa như tuyên chiến chống lại sự sống, chống lại thiên nhiên, chống lại ý chí muốn sống! Thiên chúa – công thức cho mọi vu khống chống ‘trần gian này’, cho mọi láo khoét về ‘cõi bên kia’! Thiên chúa thần thiêng hóa hư vô, ý chí hư vô được công bố là thánh thiện” (1).
Có lẽ bạn sẽ cho rằng Công đồng, và tất cả những công bố chính tiếp theo Công đồng, là để trả lời cho cuộc tấn công của Nietzsche. Trong việc tái xác định nền nhân bản Kitô giáo lần này, không cụm từ nào được trích dẫn bằng những lời sau đây của thánh Irenaeus: “vinh quang Thiên chúa là chính con người khi sống trọn vẹn” – dù những lời kế tiếp của vị giám mục tử đạo thế kỷ thứ ba này ít khi được trích thêm, “… và sự sống con người là được thấy Thiên chúa”. Con người nhân bản ‘sống trọn vẹn’ hay ‘chủ nghĩa nhân bản siêu việt và toàn diện’ mà các đức giáo hoàng thường nhắc đến luôn, là để chống lại bất cứ cách hiểu nào về con người trong tương phản với phẩm giá nhân vị hay đi ngược lại tính toàn bộ các giá trị từng đưa ra để phục vụ phúc lợi nhân bản. Như linh cảm trước cơn khủng hoảng sắp tới, thần học đã đi vào con đường giải phóng trong cố gắng đem lại cho con người, bất kể cảm nghiệm áp bức của họ ra sao, một thúc đẩy để hy vọng thực tiễn, dù niềm vui còn phải hoãn lại.
Sự thực ta từng vật lộn với khá nhiều nghĩa về thế gian trong Tân Ước. Một đàng, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16), và Chúa Kitô là ánh sáng và đấng cứu độ thế gian, tự hiến mình chuộc tội cho toàn thể thế gian, để biến đổi vũ trụ. Quả thật nhiều yêu thương ở đấy. Nhưng mặt khác, thế gian, dưới quyền lực sự ác, quả là kẻ thù tận mạng, một vương quốc mà không một môn đệ nào của Chúa Kitô có thể thuộc về, một kẻ thù mà Chúa Kitô đã toàn thắng. Như thế trong nó là cả một thảm kịch ánh sáng và bóng tối. Tân Ước không hề bận tâm đưa ra những phân biệt mà sau này người ta phải đưa ra: sự khác biệt giữa sáng tạo tốt đẹp của Chúa và những yếu tố trong văn hóa con người muốn loại bỏ Thiên Chúa và làm xấu diện mạo nhân bản, một lãnh vực tự phóng chiếu ngẫu thần và tự chiếm hữu ma quái dẫn đến tự hủy. Bất kể hy vọng có nghĩa như thế nào, bất kể vui mừng có nghĩa như thế nào, quả không khôn ngoan khi cho rằng cái vương quốc khác đang hiện hữu trong trái tim ta và trong lịch sử trong đó Giáo hội đang sống là một không gian của ngây thơ trong trắng và thiện tâm thiện chí. Ta không dám lý tưởng hóa hoàn cảnh dù vẫn tin vào tình yêu không điều kiện của Thiên Chúa đối với mọi tạo vật, và hân hoan vì sự kiện chiến thắng lớn đã đạt được mà không bị phản hồi trong việc phục sinh của đấng chịu đóng đinh: “can đảm lên; ta đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Ðường ta đi còn dài. Thực vậy, niềm hứng khởi gan dạ ‘rất can đảm’ (như Ngài Humphrey thường nói), rất hy vọng, rất hân hoan của Công đồng đến lúc này xem ra đã nhường bước cho một cái gì thận trọng hơn nhiều. Một phần, và có lẽ là phần lớn nhất của vấn đề, là ta đã không hiểu cái ‘thế giới hậu hiện đại’ đang thay đổi nhanh chóng kia sẽ ra như thế nào, nhất là khi các biên giới giữa Giáo hội và thế gian xem ra có rất nhiều lỗ thủng (porous). Theo một nghĩa nào đó, Giáo hội không là gì khác hơn cái thành phần thế gian sống cho mầu nhiệm ân sủng phổ quát hiện đang tác động giữa lòng lịch sử con người, khi cái thành phần ấy làm việc và cầu nguyện cho nước Cha trị đến. Theo một cách nhìn khác, Giáo hội, trong tư cách thành phần thế gian, phải giáp mặt với thứ ‘hắc tử’ văn hóa đang hoành hành, tương tự như số tử vong khủng khiếp của trận dịch Hắc Tử (Black Death) tại Âu Châu thế kỷ 14 giết hại đến 40% dân số lúc đó. Ðiều đang xẩy ra khiến tất cả chúng ta cảm thấy bất hạnh dù nhìn vào mình theo bình diện định chế (hôn nhân, gia đình, luật pháp, chính trị, trật tự thế giới, giáo dục, kinh tế) hay theo bình diện bản thân: làm thế nào chịu được bấy nhiêu vấn đề? Ta như cảm thấy nhu cầu phải bắt đầu lại từ đầu, nhưng lại thấy mình chẳng biết phải xây dựng trên cái gì, nhất là khi đã đánh mất ý thức lịch sử, ta như sống trong một nền văn hóa của quên lãng (amnesia) đối với quá khứ, một thứ bệnh Alzheimer có tính xã hội, phó mình hoàn toàn cho hiện tại thao túng. Vì thế càng cần phải chú tâm đến cái vương quốc khác kia, và cái ý chí khác kia, một ý chí thấu hiểu mọi thời mọi lúc.
Một cách nào đó, ta bắt đầu cảm thấy nhu cầu phải tươi sáng lên một chút, kẻo bị cái buồn của thế gian trấn áp mất. Dù sao, toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu đã được phát biểu qua những lời sau: “ta nói những điều này với các con để niềm vui của ta hiện diện trong các con, và để niềm vui của các con nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Hy vọng mà không vui mừng sẽ không là niềm hy vọng để thực thi, cùng lắm chỉ là niềm mong ước sao cho cái nhìn thảm hại của ta về sự vật không đến nỗi trật đường rầy. Vui mừng mà không hy vọng sẽ có tính áp chế (repressive), và là lời mời người ta rút lui khỏi cuộc đấu tranh. Chắc bạn sẽ cho hay cần cân bằng cả hai, nhưng phải là một cân bằng được duy trì bằng cách thèm muốn, ước ao và làm việc để hoàn tất ý thánh và ban sự sống của Chúa.
Một khía cạnh của niềm hy vọng đang phấp phới và của niềm vui liên hệ là đừng xem mình quá nghiêm chỉnh - đừng quá ý thức hệ. Tôi nhớ như in tôi đã cảm nhận hai mặt của một kinh nghiệm không cứu vãn được của thời gian sau Công đồng. Và rất ân hận về chúng. Một là việc áp đặt một thứ chuẩn mực chính trị (political correctness) cứng ngắc. Nó được biểu hiện qua việc phân chia vội vàng giữa những người cấp tiến và bảo thủ, mà không hề có ai thân hữu ở giữa. Công thức cho lời nói, cho cách ăn mặc, góc cạnh mới nhất, trở thành những phán định sau cùng và bất phản hồi. Tất cả chúng tôi đều có khuynh hướng nghĩ mình đã được Thánh Thần chân chính chiếm hữu để quản trị ân sủng Thiên Chúa và thi hành thánh ý Người, một thánh ý mà kỳ dị thay được đồng hóa với chính cách nhìn sự vật của riêng mình. Bây giờ thì điều đó có vẻ khôi hài trẻ con, nhưng tôi nhớ mình đã biện bác và cư xử nhân danh canh tân mà thực ra chẳng là chi khác ngoài cái thứ áp đặt và thao túng nông nổi điên khùng. Chúng tôi có cái nguy cơ gần như mất hết ý niệm dỡn đùa (humour), chỉ vì mình nghĩ về mình đầy ứ quá! Khi ta bỏ không thờ lạy ý Chúa, ta chẳng còn lại gì ngoài những kế hoạch nhỏ nhen muốn tạo tên tuổi hèn mọn cho chính mình… nhưng hãy nhớ: “nguyện danh Cha cả sáng”!
Chuyện nữa. Tôi nghĩ ít nhất tôi cũng đúng trong chuyện này, dù sai trong mọi vấn đề khác. Là một nhà thần học trẻ đi khắp nơi nói chuyện về các tài liệu của Công đồng, tôi nhớ lại đã có lúc mình đúng. Lúc đó chẳng ai nói về cầu nguyện nữa. Hứa hẹn canh tân chỉ là về những hình thức phụng vụ đúng, có một nền thần học đúng, và vân vân - những phương thức sâu sắc và nhẫn nại để cầu nguyện cũng như chú tâm xoáy vào Chúa và thánh ý Chúa Cha ít được đề cập tới, và theo tôi dường như chẳng còn ai thực hành nữa, khi các hình thức sùng kính cũ bị xóa bỏ. Trái lại, tôi coi việc này rất nghiêm chỉnh bởi lẽ cuốn sách đầu tiên tôi viết là về cầu nguyện (The Human Shape of Prayer: Giáng Dấp Nhân Bản của Cầu Nguyện). Một số người có lẽ đã đọc cuốn này, bởi lẽ một ấn bản lậu đã được in tại Ấn Ðộ. Dĩ nhiên, thời gian có thay đổi, vì ngày nay, thích thú cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa rất cao; linh đạo là một sự việc hơn là một thần học; hay đúng hơn, hơn là cái gì thuộc Giáo hội; và điều này làm nẩy sinh khá nhiều vấn đề: ‘linh đạo’ của riêng tôi hay ý Chúa Cha mới là việc trọng yếu? Nhưng rồi lại có việc hướng ngoại (extroversion) kỳ dị: hành động, cơ cấu đúng, công thức đúng trở thành điều cốt yếu. Tuy thế, một cách chậm chạp nhưng cương quyết, Chúa Thánh Thần dạy ta rằng chỉ có một đấng cứu vớt thế gian duy nhất, chứ không phải tôi hay anh, cũng chẳng phải Giáo Hoàng Gioan, hay Karl Rahner hoặc Yves Congar… cũng chẳng phải bất cứ ai trong vô số những nhà thời danh sẽ xuất hiện sau này. Chẳng cần phải khiêm nhượng nhiều tôi cũng thừa nhận rằng tôi đã phí quá nhiều thời gian đưa ra những nhận xét tiêu cực về người khác và các ý kiến của họ, mà không dành đủ thời gian để cổ vũ yếu tính và tâm điểm Phúc Âm. Ðấy là thời rất nhiều lời; cho đến cả bây giờ, ta vẫn thấy khó nói ra các sự việc một cách đơn giản. Nhưng kinh cầu thì vốn có một lời kinh hết sức đơn giản, “Nước Cha trị đến”. Sống cho trọn không phải do các ý niệm của ta mà có hay do các thiết kế về cơ cấu của ta mà đến, nhưng do hồng ân và hành động của Thiên chúa.
Ðồng thời, tôi nhớ lại ta thích nói về giáo dân biết là bao! Không phải nói về bạn đâu, mà là về cái lý tưởng vô vọng kia; một thứ giáo dân đúc khuôn từ phóng chiếu giáo sĩ, biết thế gian theo cách các linh mục và tu sĩ không biết tới, làm chứng cho Phúc âm theo cung cách các nhân vật ‘nhà thờ’ chúng tôi không tường, một nguồn tài nguyên từ trước đến nay chưa khai thác nhưng chứa chan hồng phúc Thánh Linh. Ðiều ấy dĩ nhiên đúng; nhưng vẫn còn một yếu tố vô thực tại nào đó ở đấy; và phải một thời gian liên hệ với các nhóm giáo dân ta mới hiểu ra sự kiện này là không một ai có đủ các câu trả lời, trái lại chúng ta hết thẩy đều cần tới nhau, cần đến nhau nhiều hơn là chính chúng ta vốn hiểu, và mỗi người trong chúng ta, xét cho cùng và ở mọi lúc, chỉ là những cành nhỏ của một cây nho hằng sống. Câu trả lời chỉ có khi ta phó mình cho Chúa Thánh Thần, theo chân Chúa Kitô và cầu nguyện với Người lời cầu nguyện mà chính Người dạy chúng ta: “nước Cha trị đến” !
Thế là chúng ta đang ở đây lúc này, 40 năm sau ngày khởi đầu của Công Ðồng, lúc này, chỗ này, với những con người này. Không, không bao giờ bạn có thể có quá nhiều vui mừng và hy vọng nếu ta hiểu các từ ngữ đó theo cảm nghiệm Kitô giáo. Tôi xin kết thúc với ba câu hỏi giúp niềm vui của ta trào dâng và niềm hy vọng của ta gia tăng:
1.Nay há không phải là lúc ta bắt đầu yêu lại Giáo hội sao, Người là mẹ chúng ta, là vương quốc của sự sống trong Chúa Thánh Thần, là cửa ngõ đưa ta tới Chúa Kitô, là nơi đại hiệp thông với cả đức Maria và các thánh, các tử đạo và tiên tri, những người thân yêu ra đi trước chúng ta, cả các thiên thần cùng tổng lãnh thiên thần (kh%C
Những người Công Giáo Tổ Chức việc Truyền Bá Phúc Âm thông qua các Phương Tiện Truyền Thông Mới
Willits là Giám Đốc Điều Hành của công ty truyền thông có tên là Star Quest Production Network (SQPN), người sẽ đứng ra điều hành Đại Hội Công Giáo qua Phương Tiện Truyền Thông Mới lần thứ 1 được tổ chức tại thành phố Atlanta vào ngày 22 tháng 6 tới, ngay sau khi kết thúc Đại Hội Thánh Thể hằng năm tại Tổng Giáo Phận Atlanta.
Đại Hội sẽ diễn ra trong một ngày, qua đó các tham dự viên cùng chia sẽ cho nhau về những kỷ thuật tân kỳ nhất được dùng một cách hết sức thông minh, sáng tạo và đầy hiệu quả để mời gọi tất cả những người khác cùng lớn lên trong đức tin Công Giáo thông qua những phương cách truyền thông mới, không chỉ nơi các giáo xứ và các giáo phận mà thôi, mà phải lan rộng ra trên khắp cả thế giới.
Chia sẽ với hãng tin Zenit, Anh Willits nói: "Châm ngôn của chúng tôi chính là: 'Hãy đến Tham Dự Đại Hội Thánh Thể,' và hãy ở lại để cùng Tổ Chức việc Truyền Bá Phúc Âm qua các Phương Tiện Truyền Thông Mới."
Anh nói tiếp:
"Thật là tuyệt vời khi có biết bao nhiêu phương tiện truyền thống mới, chẳng hạn như việc podcasting (tức việc tải âm thanh vào các thiết bị MP3, MP4, vân vân... để có thể nghe đi nghe lại vào bất kỳ lúc nào - ND) các trang blogs, và các kỷ thuật mới - đã giúp cho không biết bao nhiêu người lớn mạnh hơn về mặt đức tin và gần gũi với Thiên Chúa hơn. Do đó chúng tôi muốn việc tổ chức này chỉ hoàn thành chính xác những mục tiêu đó mà thôi bằng việc dùng đến kỷ thuật này cho những ai dùng đến chúng, hay cho cả những ai sáng tạo chúng."
Khi được hỏi về động cơ nào đã thúc đẩy Anh đưa ra chương trình tổ chức này, Willits cho biết:
"Cả Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã khuyến khích người tín hữu hãy năng động tham gia vào việc Tái Rao Giảng Phúc Âm Mới - để đến với cả thế giới vì lợi ích của Giáo Hội Công Giáo. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã gọi đó chính là một việc 'thực hiện trở lại việc rao giảng' và thậm chí vừa mới đây nhất vào Ngày Truyền Thông Thế Giới lần thứ 42, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 cụ thể đề cập đến việc dùng các phương tiện truyền thông mới và mạng Internet, và những phương tiện đó đã và đang làm đổi thay bộ mặt truyền thông đến như thế nào, hơn nữa, giờ đây chính là cơ hội thuận tiện nhất cho tất cả chúng ta - những người Công Giáo - hãy phục hồi lại hình dạng của những khí cụ này cho những mục đích cao cả của Giáo Hội. Ở cấp bậc con người và trần tục, thì ai cũng yêu thích các phương tiện truyền thông cả.
Họ thích được thư giản và gắn bó chung quanh họ nhiều dạng truyền thông khác nhau gần như 24 tiếng một ngày. Là những người Công Giáo, chúng ta có được một cơ hội rất lớn cũng như có trách nhiệm để dùng những tri thức, sự sáng tạo và kinh nghiệm tổng hợp của chúng ta để biến và tận dụng hết sức mạnh của truyền thông nhằm lôi kéo thêm nhiều linh hồn nữa trở về với Chúa Kitô. Nếu chúng ta không sử dụng đến những kỷ thuật này, thì chúng ta đã để cho mất đi biết bao nhiêu linh hồn rơi vào sự quyến rũ của nền văn hóa trần tục, vốn rất dễ dàng bị các phương tiện này lôi kéo vào những hình thức tội lỗi khác nữa."
Rosary Army - a Popular Podcast Show for Catholics & Everyone Alike! |
Anh Willits nhấn mạnh rằng:
"Kết quả của việc rao giảng Phúc Âm thông qua các phương tiện truyền thông mới không có điều gì là gây ra sự ngạc nhiên cả. Từ việc Podcast của Đạo Binh Mân Côi Công Giáo không thôi, chúng tôi liên tục nhận được những phản hồi tích cực từ phía các khán giả - những người đang khám phá ra một sự thích thú mới về Giáo Hội Công Giáo như là kết quả của những nổ lực này. Chúng tôi cũng đã nhận được các lời chứng thực từ vô số những người cải đạo sang CÔng Giáo, và những người quyết định quay trở về lại với Giáo Hội Công Giáo như là kết quả của việc họ đã lắng nghe hay nhìn thấy chúng tôi trên rất nhiều podcast, video, và trang blog Công Giáo khác nhau. Rõ ràng là ai nấy cũng sẽ tìm thấy được cái gì đó để giúp họ lớn mạnh và trở nên gần gũi hơn với Chúa Kitô."
Các thuyết trình viên của Đại Hội Truyền Bá Phúc Âm Công Giáo qua các Phương Tiện Truyền Thông Mới gồm có: Cô Amy Welborn; Linh Mục Leo Patalinghug từ chương trình "Ân Huệ Trước Các Bữa Ăn" (Graces Before Meals); Jerry Usher từ Mạng Catholic Answers Live; hai chuyên gia về Blog nổi tiếng đó là: Mark Shea và Jeff Miller; Linh Mục Roderick Vonhögen của Tờ Catholic Insider và Daily Breakfast; và Lino Rulli từ Kênh Viễn Thông Công Giáo (Sirius Sattelite Catholic Channel).
Đây sẽ là một kỳ Đại Hội rất hay và rất có giá trị tại Tổng Giáo Phận Atlanta, ngay sau khi kết thúc Đại Hội Thánh Thể hằng năm!
* Việc đăng ký tham dự Đại Hội này là miễn phí tại trang Web: celebration.sqpn.com
* Quý Vị cũng có thể biết qua SQPN bằng cách vào YouTube qua địa chỉ: www.youtube.com/watch?v=PAdcc3Z1_2s
* Chương Trình của Đại Hội như sau:
The Catholic New Media Celebration 2008 will take place in Atlanta, Georgia, at the Georgia International Convention Center (GICC).
Tentative Program of the Catholic New Media Celebration (Last Updated 5/15/08. Subject to change.)
June 22, 2008
08:00 - 09:00:
Registration of guests
09:00 - 09:10:
Welcome and Opening Prayer
09:10 - 09:30:
Festive Kick-Off with musical guests Popple!
09:30 - 10:10:
Keynote Speech: New Evangelization and New Media
Fr. Leo Patalinghug
10:10 - 11:15:
Old Media/New Media Panel
Moderator: Lino Rulli (Sirius Satellite’s The Catholic Guy)
Susan Gerdvil (Catholics Come Home)
Jessica Handley (Archdiocese of Atlanta)
Fr. Robert Reed (CatholicTV)
Jerry Usher (Catholic Answers Live)
Lisa Wheeler (Maximus Media Group)
11:15 - 11:35
Second musical set with Popple
11:35 - 11:50:
Break and Preparations for Sunday Mass
11:50 - 12:35:
Sunday Mass
12:35 - 1:45:
Lunch and information market
1:45 - 2:50:
Catholic Bloggers Panel
Lisa Hendey
Jeff Miller
Mark Shea
Amy Welborn
2:50 - 3:30:
How to Podcast with the Original Podcasting Priest
Fr. Roderick Vonhogen (Catholic Insider, Daily Breakfast)
3:30 - 3:45:
Break
3:45 - 4:50:
Catholic Podcasters Panel
Moderator: Lino Rulli (Sirius Satellite’s The Catholic Guy)
Paul Camarata (SaintCast)
David Sweeney (Catholic Family)
Kathryn Sweeney (Catholic Family Kids)
Javier Plumey (Hands and Feet)
Aneesa Plumey (Hands and Feet)
Joshua LeBlanc (CatholicUnderground)
Fr. Chris Decker (CatholicUnderground)
Joe McClane (Catholic Hack)
Fr. Jay Finelli (iPadre)
Fr. Seraphim Beshoner (Catholic: Under the Hood)
Steve Nelson (OnTheU)
4:50 - 5:30:
Video in the New Media
Greg and Jennifer Willits (That Catholic Show, Rosary Army)
5:30 - 5:45:
Final Words
5:45 -
Networking, Socializing and Clean-Up
In addition to this incredible schedule of events, there will also be plenty of surprises and new media presentations. Additionally, interactive demonstrations and information from Catholic New Media producers will be available throughout the day about podcasting and other Catholic New Media.
THÁNH BỘ TÍN LÝ ĐỨC
GHI CHÚ TÍN LÝ về một số vấn đề liên quan đến việc Tham Gia của người Công Giáo vào Đời Sống Chính Trị
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, sau khi nhận được ý kiến của Ủy Ban Giáo Hoàng về Giáo Dân, đã quyết định rằng việc ấn hành tài liệu Ghi Chú Tín Lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công Giáo và đời sống chính trị là cần thiết. Ghi Chú này nhắm vào các Giám Mục của Hội Thánh Công Giáo và, một cách đặc biệt, các chính trị gia Công Giáo và tất cả các thành phần tín hữu giáo dân được mời gọi tham gia một cách trung tín vào đời sống chính trị của những xã hội dân chủ. [Để tiện cho các độc giả tham khảo, chúng tôi để nguyên các ghi chú ở cuối bài (footnotes) bằng tiếng Anh).
I. Một giáo huấn kiên định
1. Quyết tâm của các Kitô hữu trên thế gian đã tìm được những cách diễn tả khác nhau trong vòng 2000 năm qua. Một trong những cách diễn tả ấy là việc tham gia của các Kitô hữu vào đời sống chính trị: Như một tác giả thời Hội Thánh Sơ Khai đã viết, các Kitô hữu “đóng trọn vẹn vai trò của họ như những công dân.”[1] Trong số các thánh, Hội Thánh kính nhiều thánh nam nữ đã phục vụ Thiên Chúa qua việc đại lượng dấn thân vào chính trị và chính quyền. Trong số các ngài, Thánh Thomas More, là đấng được tuyên phong làm Quan Thầy các chính khách và các chính trị gia, đã làm nhân chứng bằng việc tử đạo vì “phẩm giá không thể chuyển nhượng được của lương tâm con người.”[2] Mặc dù phải chịu nhiều hình thức áp lực tâm lý khác nhau, Thánh Thomas More đã nhất quyết không chịu nhượng bộ, không bao giờ từ bỏ “lòng trung thành kiên vững với quyền bính và tổ chức hợp pháp” làm cho ngài nổi bật; ngài đã dạy bằng đời sống và cái chết của ngài rằng “không ai có thể tách rời con người không khỏi Thiên Chúa, hay chính trị khỏi luân lý.”[3]
Điều đáng ca ngợi là trong các xã hội dân chủ ngày nay, mọi người được tham gia trực tiếp vào cơ cấu chính trị trong một bầu khí tự do thật sự.[4] Những xã hội như thế mời gọi các hình thức tham gia mới và trọn vẹn vào đời sống chính trị của các công dân Kitô giáo cũng như ngoài Kitô giáo. Quả thật, tất cả mọi người đều có thể đóng góp, bằng cách bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử cho những nhà lập pháp và các viên chức chính quyền, cũng như bằng những cách khác, để phát huy những giải pháp chính trị và những chọn lựa lập pháp, mà theo ý kiến họ, sẽ có lợi cho công ích.[5] Đời sống của một nền dân chủ không thể phong phú được nếu không có sự tham gia tích cực, có trách nhiệm và quảng đại của mọi người, “dù dưới những hình thức, mức độ, công tác và nhiệm vụ đa dạng và bổ túc cho nhau.”[6]
Qua việc làm tròn nhiệm vụ công dân. “được hướng dẫn bởi lương tâm Kitô hữu,”[7] phù hợp với những giá trị của nó, các tín hữu giáo dân thực thi công tác riêng của mình là truyền những giá trị Kitô giáo vào trật tự trần thế, đồng thời vẫn tôn trọng bản chất và quyền tự trị chính đáng của trật tự này,[8] cùng cộng tác với những công dân khác theo khả năng chuyên môn và trách nhiệm của họ.[9] Kết quả của giáo huấn căn bản của Công Đồng Vatican II này là “các tín hữu giáo dân không bao giờ phải từ bỏ việc tham gia của họ vào ‘đời sống công cộng’, nghĩa là, trong nhiều lãnh vực kinh tế, xã hội, lập pháp, hành chính và văn hóa, nhằm mục đích cổ võ công ích một cách hữu cơ và có tổ chức.”[10] Điều này phải bao gồm việc đẩy mạnh và bảo vệ những điều tốt lành như trật tự công cộng và hoà bình, tự do và bình đẳng, tôn trọng sự sống con người và môi sinh, công bằng và đoàn kết.
Ghi chú này không tìm cách trình bày toàn thể giáo huấn của Hội Thánh về vấn đề này, là điều được tóm lược cách cơ bản trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, nhưng chỉ nhằm mục đích nhắc lại một số nguyên tắc phù hợp với lương tâm Kitô giáo, gợi hứng cho những tham gia xã hội và chính trị của người Công Giáo trong những xã hội dân chủ.[11] Vì sự xuất hiện của những sự mơ hồ hay quan điểm đáng nghi ngờ trong trong những thời gian gần đây, thường do những áp lực của các biến cố trên thế giới, cho nên chúng tôi cần phải làm sáng tỏ một vài yếu tố quan trọng của giáo huấn Hội Thánh trong lãnh vực này.
II. Những điểm chính trong nền văn hóa và những tranh luận chính trị hiện đại
2. Xã hội dân sự ngày nay đang trải qua một tiến trình văn hóa phức tạp đánh dấu thời điểm cuối cùng của một thời đại và sự thiếu chắc chắn đối với những gì mới mẻ đang xuất hiện ở chân trời [dịch theo bản tiếng Ý thay vì tiếng Anh]. Những thành quả vĩ đại đạt được ở thời đại chúng ta làm chứng cho những tiến bộ của con người trong việc đạt được những điều kiện sống xứng hợp hơn với nhân phẩm. Sự tăng trưởng về ý thức trách nhiệm đối với các quốc gia đang trên đường phát triển chắc chắn là một dấu hiệu quan trọng, chứng tỏ có sự nhạy cảm hơn đối với công ích. Tuy nhiên, đồng thời người ta không thể nhắm mắt trước những nguy cơ thật sự mà một số khuynh hướng trong xã hội đang cổ võ qua lập pháp, hoặc có thể coi thường những hậu quả của nó đối với các thế hệ tương lai.
Ngày nay có một loại thuyết tương đối về văn hóa đang xuất hiện, bằng chứng là việc khái niệm hóa và bảo vệ một thuyết đa dạng về văn hóa, là thuyết chấp nhận việc làm cho lý trý và những nguyên tắc của luật luân lý tự nhiên ra suy đồi và bị tan rã. Hơn nữa, chúng ta cũng thường nghe những ý kiến được phát biểu trong phạm vi công cộng là thuyết đa dạng về luân lý như thế chính là điều kiện cho dân chủ.[12] Hậu quả là, các công dân cho rằng mình có toàn quyền tự quyết đối với những chọn lựa luân lý của họ, và các nhà lập pháp khăng khăng cho rằng mình tôn trọng sự tự do chọn lựa bằng cách ban hành những luật lệ coi thường những nguyên tắc theo luân thường đạo lý tự nhiên và đầu hàng nền văn hoá và những xu hướng luân lý chóng tàn,[13] như là mọi quan điểm về đời sống đều có cùng một giá trị. Đồng thời, giá trị của sự khoan dung thường được nại đến một cách gian manh khi mà một số lớn công dân, kể cả những người Công Giáo, bị đòi hỏi không được đặt nền tảng cho việc đóng góp của họ vào xã hội và đời sống chính trị - qua những phương tiện lập pháp mà mọi người trong chế độ dân chủ đều có thể có – trên sự hiểu biết riêng của họ về con người và công ích. Lịch sử của thế kỷ thứ 20 chứng tỏ rằng những công dân làm đúng là những người nhận ra sự giả trá của thuyết tương đối, và cùng với nó, khái niệm là không có luật luân lý nào bắt nguồn từ bản chất con người, là điều đáng lý ra phải điều khiển sự hiểu biết của chúng ta về con người, công ích và quốc gia.
3. Đương nhiên là một thuyết tương đối như thế không liên quan gì đến sự tự do chân chính của những người công dân Công Giáo trong việc chọn lựa giữa những ý kiến chính trị khác nhau, là những ý kiến phù hợp với đức tin và luật luân lý tự nhiên, và để chọn lựa, theo những điều kiện riêng của họ, điều gì là tốt nhất đối với nhu cầu của công ích. Tự do chính trị không phải – và cũng không có thể - dựa trên tư tưởng tương đối cho rằng mọi quan niệm về điều tốt cho con người đều có cùng một giá trị và chân lý, nhưng ngược lại, dựa trên sự thật là chính trị liên hệ đến việc thực hiện cụ thể điều tốt lành thật cho con người và xã hội trong những hoàn cảnh lịch sử, địa dư, kinh tế, kỹ thuật và văn hóa nhất định. Từ sự riêng biệt của công tác trên tay và sự khác biệt của các hoàn cảnh, đưa đến nhiều chính sách và giải pháp khác nhau có thể chấp nhận được. Hội Thánh không có công tác phải đưa ra những giải pháp chính trị - mà lại càng không có công tác đưa ra một giải pháp duy nhất như là giải pháp có thể chấp nhận được – cho những vấn đề trần thế mà Thiên Chúa đã để cho mỗi người quyết định dựa theo sự phán đoán tự do và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên Hội Thánh có quyền và nhiệm vụ đưa ra phán đoán luân lý về những vấn đề trần thế khi đức tin hay luật luân lý đòi hỏi điều ấy.[14] Nếu Các Kitô hữu “phải nhìn nhận sự hợp pháp của những quan điểm khác nhau về cách tổ chức những công việc trần thế,”[15] họ cũng được mời gọi để khai trừ một quan niệm đa nguyên phản ảnh thuyết tương đối về luân lý, là điều làm tổn thương đời sống dân chủ. Nền dân chủ phải được xây dựng trên trên một nền tảng chân chính và vững chắc của những nguyên tắc đạo đức không thể thương lượng được, là những nguyên tắc chống đỡ đời sống trong xã hội.
Về mức độ hành động chính trị cụ thể, thường thì có nhiều đảng chính trị mà người Công Giáo có thể thực thi – đặc biệt là qua nghành lập pháp - quyền lợi và nhiệm vụ của họ trong việc tham gia vào đời sống công cộng của quốc gia họ.[16] Điều này phát sinh bởi bản tính bất ngờ của một số chọn lựa về trật tự xã hội, nhiều chiến thuật khác nhau có thể để đạt được và đảm bảo cùng một giá trị căn bản, việc có thể giải thích cách khác nhau những nguyên tắc căn bản về thuyết chính trị, và sự phức tạp về kỹ thuật của nhiều vấn đề chính trị. Tuy nhiên, không được lẫn lộn với một thuyết đa nguyên mập mờ trong việc chọn lựa những nguyên tắc luân lý và những giá trị thiết yếu. Sự đa dạng hợp pháp của những chọn lựa trần thế nằm ở nguồn gốc của quyết tâm của người Công Giáo trong việc tham gia chính trị và liên hệ trực tiếp với giáo huấn Kitô về luân lý và xã hội. Chính trong ánh sáng của giáo huấn này mà tín hữu giáo dân Công Giáo phải đánh giá việc tham gia của mình và đời sống chính trị để chắc chắn rằng đời sống ấy được đánh dấu bằng một trách nhiệm chặt chẽ đối với thực tại trần thế.
Hội Thánh ý thức rằng trong khi dân chủ là một cách diễn tả tốt nhất của việc tham gia của các công dân vào những chọn lựa chính trị, nó chỉ thành công khi nó dựa vào một sự hiểu biết đúng đắn về con người.[17] Việc tham gia của người Công Giáo vào đời sống chính trị không thể làm tổn thương đến nguyên tắc này, nếu không thì việc làm chứng của Đức Tin Kitô trên thế gian, cũng như sự hợp nhất và kết hợp nội tâm của các tín hữu không còn tồn tại nữa. Các cơ cấu dân chủ mà trên đó quốc gia hiện đại được xây dựng sẽ rất mong manh nếu nền tảng không có trọng tâm là con người. Chính vì sự tôn trọng con người mà việc tham gia vào nền dân chủ có thể xảy ra. Như Công Đồng Vatican II dạy, việc bảo vệ “quyền của một người, quả thật, là một điều kiện cần thiết cho các công dân, cá nhân và tập thể, để đóng một phần chủ động trong đời sống và điều hành công cộng.”[18]
4. Hàng loạt những vấn đề phức tạp ngày nay được mọc ra ở đây, kể cả vài vấn đế mà những thế hệ trước không bao giờ phải đương đầu với. Những sự phát triển của khoa học đã đưa đến những kết quả tiến bộ làm xáo trộn lương tâm con người và đòi hỏi phải có những giải pháp tôn trọng những nguyên tắc luân lý một cách chặt chẽ và căn bản. Đồng thời, những dự luật được đưa ra trong đó không đếm xỉa gì đến hậu quả có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của những con người trong tương lai đối với việc hình thành nền văn hóa và cách xử thế trong xã hội, tấn công cả sự bất khả xâm phạm của sự sống con người. Trong hoàn cảnh khó khăn này, người Công Giáo có quyền và có nhiệm vụ phải nhắc lại cho xã hội một hiểu biết sâu xa hơn về đời sống con người và nhiệm vụ của mọi người trong vấn đề này. Tiếp nối những giáo huấn cố hữu của Hội Thánh, ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc lại nhiều lần rằng những ai trực tiếp liên hệ với những cơ quan lập pháp có “nhiệm vụ ngiêm trọng và rõ ràng phải chống lại” bất cứ luật lệ nào vi phạm đến sự sống của con người. Đối với họ, cũng như với tất cả mọi người Công Giáo, không thể nào cổ động cho những luật lệ ấy hoặc bỏ phiếu cho chúng.[19] Như ĐTC Gioan Phaolô II đã dạy trong Thông Điệp Evangelium vitae về trường hợp mà trong đó không thể nào lật đổ hay đẩy lui hoàn toàn một luật cho phép phá thai đang được thi hành hoặc sẽ được đưa ra bỏ phiếu, thì “một nhà dân cử, mà lập trường cá nhân tuyệt đối chống phá thai của người ấy được mọi người biết đến, có thể ủng hộ cách hợp pháp những dự luật nhằm mục đích giới hạn thiệt hại do những luật như thế gây ra và làm giảm bớt những hậu quả tiêu cực ngang hàng với tầm mức của công luận và nền luân lý của quần chúng.”[20]
Trong phạm vi này cũng cần phải ghi chú rằng một lương tâm Kitô hữu được đào luyện chu đáo không cho phép một người bỏ phiếu cho một chương trình chính trị hay một luật đặc biệt trái ngược với những nội dung căn bản của Đức Tin và luân lý. Đức Tin Kitô giáo là một tổng thể hợp nhất, và như thế việc cô lập hóa một vài yếu tố đặc biệt nào đó của nó là thiếu mạch lạc, và phương hại đến toàn thể tín lý Công Giáo. Một người quyết tâm theo đuổi một bình diện duy nhất riêng rẽ của học thuyết xã hội của Hội Thánh thì không làm tròn nhiệm vụ của mình đối với công ích. Người Công Giáo cũng không được nghĩ đến việc khoán trắng trách nhiệm Kitô hữu của mình cho người khác; trái lại, Tin Mừng của Chúa Giêsu trao cho người ấy một trọng trách, để chân lý về con người và thế gian được công bố và đưa đến hành động.
Khi hoạt động chính trị đi ngược lại những nguyên tắc luân lý là những nguyên tắc không cho phép có luật trừ, nhượng bộ hoặc hạ giá, quyết tâm của người Công Giáo trở nên rõ ràng hơn và trách nhiệm chồng chất hơn. Khi đối diện với những đòi hỏi đạo đức căn bản và không thể nhượng bộ được, các Kitô hữu phải nhận ra rằng điều đang bị lâm nguy là điều thiết yếu của luật luân lý, là luật liên quan đến toàn thể sự tốt lành của con người. Đó là trường hợp những luật lệ về phá thai và giết chết êm dịu (không nên lẫn lộn với việc từ chối những chữa trị đặc biệt khác thường, là điều được phép về luân lý). Những luật như thế phải bảo vệ quyền sống căn bản từ khi thụ thai đến lúc chết tự nhiên. Cũng thế, cần phải nhắc lại nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ quyền của phôi thai con người. Tương tự, cần phải bảo vệ và ủng hộ gia đình, dựa vào hôn nhân độc thê giữa một người nam và một người nữ, cùng bảo vệ sự hợp nhất và ổn định của gia đình trước luật lệ về li dị hiện đại: không thể nào đặt những hình thức chung sống khác ngang hàng với hôn nhân, hay công nhận chúng như thế theo luật pháp. Tự do của cha mẹ trong việc giáo dục con cái cũng thế; đó là một quyền không thể nhượng bộ được cũng được Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền công nhận. Cùng một cách đó, người ta phải nghĩ đến việc bảo vệ trẻ em của xã hội chống lại những hình thức nô lệ mới (thí dụ như nghiện ngập và mãi dâm). Thêm vào đó, còn có quyền tự do tôn giáo cùng việc phát triển một nền kinh tế nhằm phục vụ con người và công ích, trong đó việc tôn trọng công bằng xã hội, các nguyên tắc đoàn kết và hỗ trợ con người, theo đó “các quyền của cá nhân, gia đình, và tổ chức và việc áp dụng nó cách thực tế phải được nhìn nhận.”[21] Sau cùng là vấn đề hoà bình phải được nhắc đến. Một số nhãn quan lý tưởng về hòa bình đôi khi có khuynh hướng trần tục hóa giá trị của hòa bình, trong khi ở những trường hợp khác, có vấn đề đơn giản hoá những phán đoán về đạo đức mà quên sự phức tạp của những vấn đề liên quan. Hoà bình luôn luôn là “công việc của công lý và ảnh hưởng của đức bác ái.”[22] Nó đòi hỏi một sự tuyệt đối từ chối bạo động và khủng bố cùng đòi hỏi một quyết tâm kiên định và tỉnh thức về phiá tất cả các nhà chính trị.
III. Những nguyên tắc của học thuyết Công Giáo về sự tự trị của trật tự trần thế và về thuyết đa nguyên.
5. Trong khi sự đa dạng của các phương pháp suy nghĩ về những cảm giác và văn hóa có thể hợp luật trong việc tiếp cận những vấn đề như thế, không một người Công Giáo nào được phép dựa vào nguyên tắc đa nguyên và tự trị của việc tín hữu giáo dân tham gia vào đời sống chính trị mà ủng hộ những chính sách ảnh hưởng đến công ích, là những chính sách làm tổn thương hoặc hạ giá những đòi hỏi căn bản về đạo đức. Tự bản chất của chúng, đây không phải là vấn đề của “những giá trị giáo điều”, bởi vì những quan niệm đạo đức như thế bắt nguồn từ chính bản chất con người và thuộc về luật luân lý tự nhiên. Chúng không bắt những người bảo vệ chúng phải tuyên xưng Đức Tin Kitô giáo, mặc dù giáo huấn Hội Thánh chứng thực và bảo vệ chúng luôn luôn và khắp nơi như là một phần của việc phục vụ chân lý về con người và công ích của xã hội của mình. Hơn nữa, không thể chối cãi rằng chính trị phải dựa trên những nguyên tắc có giá trị tuyệt đối chính vì những nguyên tắc này được dùng để phục vụ nhân phẩm và sự tiến bộ chân chính của con người.
6. Lời chống đỡ mà người ta thường nại vào là “quyền tự trị chính đáng trong việc tham gia của tín hữu giáo dân Công Giáo” vào chính trị cần phải được làm sáng tỏ. Việc vận động cho công ích của xã hội theo lương tâm của một người, không liên quan gì đến “chủ trương tín điều” hoặc việc thiếu khoan dung về tôn giáo. Đới với thuyết luân lý Công Giáo, trong phạm vi chính trị hay dân sự, người ta có quyền tự trị mà không lệ thuộc vào tôn giáo hay Hội Thánh – nhưng vẫn phải lệ thuộc vào luân lý – là giá trị đạt được và thừa nhận bởi Hội Thánh Công Giáo cùng thuộc về di sản của nền văn hóa hiện đại.[23] ĐTC Gioan Phaolô II đã nhiều lần cảnh cáo về những nguy cơ do việc lẫn lộn giữa phạm vi tôn giáo và chính trị gây ra. “Những trường hợp cực kỳ nghiêm trọng xảy ra khi luật của một tôn giáo đặc biệt trở thành luật của quốc gia mà không đếm xỉa gì đến việc phân biệt giữa những phạm vi thích đáng với tôn giáo và với xã hội chính trị. Trên thực hành, việc đồng hóa luật tôn giáo với dân luật không những bóp nghẹt tự do tôn giáo, mà còn có thể đi đến chỗ giới hạn hay từ chối những quyền không thể nhượng bộ được của con người.”[24] Tất cả mọi tín hữu đều ý thức rằng các sinh hoạt tôn giáo (như tuyên xưng đức tin, phụng tự, thi hành các bí tích, các tin lý thần học, sự trao đổi giữa những nhà cầm quyền tôn giáo và các thành phần của các tôn giáo) hoàn toàn ở ngoài vòng trách nhiệm của quốc gia. Quốc gia không được can thiệp, hoặc đòi hỏi hay cấm đoán những sinh hoạt này, trừ khi nó là vấn đề trật tự công cộng. Việc công nhận những quyền dân sự hay chính trị, cũng như phân phối các công việc chung không được tùy thuộc vào các xác tin hoặc các hoạt động tôn giáo của các công dân.
Quyền lợi và nhiệm vụ của người Công Giáo và của tất cả công dân là chân thành tìm chân lý cùng cổ động và bảo vệ, bằng những phương tiện hợp pháp, những chân lý về luân lý có ảnh hưởng đến xã hội, công lý, tự do, tôn trọng sự sống con người và các quyền khác của con người, là điều hoàn toàn khác. Sự kiện là một số những chân lý này có thể cũng được Hội Thánh dạy không làm giảm bớt tính hợp pháp về chính trị hay “quyền tự quyết” chính đáng của đóng góp của những người công dân ấy, là những người đã cam kết với chúng, bất kể vai trò của những điều tra theo lý trí hoặc việc xác nhận của Đức Tin Kitô giáo có thể có trong việc công nhận những chân lý như thế. “Sự tự trị” ấy trước hết ám chỉ thái độ của một người tôn trọng các chân lý được phát sinh từ kiến thức tự nhiên về đời sống con người trong xã hội, mặc dù những chân lý như thế cũng có thể được một tôn giáo đặc biệt nào đó dạy, bởi vì chân lý là một. Thật là một sai lầm khi lẫn lộn giữa quyền tự trị chính đáng của người Công Giáo với việc tự nhận rằng có một nguyên tắc không cần xét đến những giáo huấn về luân lý và xã hội của Hội Thánh.
Qua việc can thiệp vào lãnh vực này, Huấn Quyền của Hội Thánh không muốn thực thi quyền chính trị hoặc không cho người Công Giáo có quyền tự do phát biểu ý kiến về những vấn đề không ngờ trước được. Thay vào đó, Huấn Quyền có ý – theo chức năng chính đáng của mình – giáo huấn và soi sáng lương tâm của các tín hữu, đặc biệt là những người tham gia vào đời sống chính trị, ngõ hầu những hành động của họ luôn phục vụ toàn bộ việc ủng hộ con người và công ích. Học thuyết xã hội của Hội Thánh không phải là một việc xâm phạm vào việc cai trị của từng quốc gia. Nó là vấn đề nhiệm vụ của người giáo dân Công Giáo phải mạch lạc về luân lý, được tìm thấy trong lương tâm một người, duy nhất và không thể phân chia được. “Không thể có hai đời sống hiện hữu song song với nhau: một đời sống gọi là ‘đời sống tâm linh’ với những giá trị và đòi hỏi của nó; và đằng khác có một đời sống gọi là đời sống ‘thế tục’, nghĩa là đời sống trong gia đình, ở sở làm, ở các trách nhiệm xã hội, ở các trách nhiệm trong đời sống công cộng và văn hóa. Cái cành được tháp vào cây nho là Đức Kitô, sinh hoa trái trong mọi lãnh vực của sự hiện hữu và hoạt động. Thực ra, trong tất cả mọi lãnh vực của đời sống người tín hữu giáo dân, dù có khác nhau thế nào đi nữa, cũng đi vào chương trình của Thiên Chúa, là Đấng muốn rằng chính những lãnh vực này phải là ‘những nơi đúng kỳ hạn’ là nơi mà tình yêu của Đức Kitô được tỏ lộ và thể hiện để vừa vinh danh Chúa Cha vừa phục vụ tha nhân. Mọi hoạt động, mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ chính xác – thí dụ như là, tài năng và sự đoàn kết trong công việc, tình yêu và sự tân tâm trong gia đình và việc giáo dục con cái, việc phục vụ xã hội và đời sống công cộng cùng việc quảng bá chân lý trong lãnh vực văn hóa – là những dịp mà Chúa Quan Phòng đã định liệu để ‘tiếp tục thực hành Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến’ (Apostolicam actuositatem, 4)”[25] Sống và hành động theo lương tâm của mình trong những vấn đề chính trị không phải là việc chấp cách mù quáng những lập trường xa lạ với chính trị hoặc một loại chủ nghĩa tín điều, nhưng trái lại là một cách mà trong đó các Kitô hữu đóng góp một cách cụ thể để rồi, qua đời sống chính trị, xã hội sẽ trở nên công bình hơn và phù hợp hơn với phẩm giá của con người.
Trong những xã hội dân chủ, tất cả mọi dự luật đều được thảo luận và xem xét tự do. Những người, dựa trên căn bản là tôn trọng lương tâm cá nhân, coi trách nhiệm luân lý của các Kitô hữu phải hành động theo lương tâm như một dữ kiện để cho rằng họ không đủ tư cách tham gia vào đời sống chính trị, hành vi chối từ sự hợp pháp của việc tham gia chính trị của họ vì họ làm theo những xác tín của họ về công ích, là mắc tội dưới dạng thiếu khoan dung theo thuyết thế tục. Lập trường như thế chẳng những chỉ tìm cách không cho Kitô giáo tham gia vào đời sống công cộng hay chính trị, mà còn có thể nhắm đến cả luân thường đạo lý tự nhiên. Trong trường hợp đó, một con đường sẽ được mở ra cho những xáo trộn về luân lý, tức là chẳng còn gì khác nữa mà chỉ còn chủ thuyết đa nguyên là hợp pháp. Hậu quả đương nhiên sẽ là việc kẻ mạnh hà hiếp người yếu. Hơn nữa việc loại Kitô giáo ra ngoài lề sẽ không báo trước một điềm hay cho tương lai của xã hội hoặc cho sự đồng tâm giữa các dân tộc; thật ra, nó sẽ đe dọa chính nền tảng tinh thần và văn hóa của nền văn minh.[26]
IV. Những điều đáng lưu ý về những bình diện đặc biệt
7. Trong những năm gần đây, đã có những trường hợp trong một số tổ chức được thành lập trên những nguyên tắc Công Giáo, mà trong đó họ đã ủng hộ những động lực chính trị hay phong trào có lập trường trái ngược với giáo huấn về luân lý và xã hội của Hội Thánh trên những vấn đề đạo đức căn bản. Các hoạt động như thế là đối nghịch với những nguyên tắc căn bản của lương tâm Kitô giáo, cũng không phù hợp với thành phần trong những tổ chức hoặc những đoàn thể tự coi mình là Công Giáo. Tương tự, một số báo chí Công Giáo trong một số quốc gia đã diễn đạt những quan điểm về chọn lựa chính trị mù mờ hoặc sai lầm, qua việc giải thích sai lạc tư tưởng tự trị về chính trị mà các người Công Giáo được hưởng mà không đếm xỉa gì đến những nguyên tắc được nhắc đến ở trên.
Đức Tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14:6), mời gọi các Kitô hữu cố gắng nhiều hơn nữa để xây dựng một nền văn hóa, được gợi hứng bởi Tin Mừng. Một nền văn hóa sẽ phục hồi các giá trị và nội dung của Truyền Thống Công Giáo. Việc trình bày hoa quả của gia sản tinh thần, trí thức và luân lý của đạo Công Giáo bằng những ngôn từ dễ hiểu đối với nền văn hóa thời đại là một công tác rất khẩn thiết ngày nay, cũng là để tránh một loại lưu vong văn hóa Công Giáo. Hơn nữa, những thành quả văn hóa và kinh nghiệm trưởng thành của những người Công Giáo trong đời sống chính trị trong một vài quốc gia, đặc biệt là từ Thế Chiến Thứ Hai, không cho phép những ‘tự ti mặc cảm’ trong việc so sánh với những chương trình chính trị mà lịch sử gần đây đã chứng tỏ là yếu đuối và hoàn toàn tai hại. Nghĩ rằng quyết tâm của người Công Giáo trong xã hội chỉ giới hạn trong việc biến đổi các cơ cấu mà thôi thì chưa đủ và quá hạn hẹp, bởi vì nếu ở mức độ căn bản không có nền văn hóa đủ khả năng lãnh nhận, chứng minh và đưa ra thực hành những chủ trương được khai triển từ Đức Tin và luân lý, thì những thay đổi này luôn được xây dựng trên một nền tảng không vững chắc.
Đức Tin Kitô giáo chưa bao giờ được coi là áp đặt một khung cứng ngắt trên những vấn đề xã hội và chính trị, ý thức rằng bình diện lịch sử đòi buộc con người phải sống trong những hoàn cảnh không hoàn hảo, và cũng dễ thay đổi nhanh chóng. Vì lý do đó mà các Kitô hữu phải gạt đi những lập trường và hoạt động chính trị được cảm hứng bởi nhãn quan không tưởng (utopia), là nhãn quan biến truyền thống của Đức Tin vào Thánh Kinh thành một loại nhãn quan tiên tri mà không có Thiên Chúa, sử dụng sai lầm tôn giáo bằng cách hướng lương tâm về một hy vọng chỉ thuần túy thế tục và vô hiệu hóa hoặc giải thích lại cố gắng tìm về đời sống vĩnh cửu của các Kitô hữu.
Đồng thời, Hội Thánh dạy rằng không có tự do chân chính nếu không có chân lý. “Chân lý và tự do hoặc tay trong tay đồng hành với nhau hoặc chúng sẽ cùng nhau hư mất trong đau thương.”[27] Trong một xã hội mà trong đó người ta không nói đến chân lý mà cũng không đi tìm chân lý, mọi hình thức thực thi tự do chân chính đều bị yếu đi, mở đường cho những méo mó phóng đãng và theo cá nhân chủ nghĩa, cùng ngấm ngầm phá hủy việc bảo vệ những điều tốt lành của con người và toàn thể xã hội.
8. Về mặt này, thật có ích khi nhắc lại một chân lý mà ngày nay người ta thường không nhận thức được hoặc hình thành đúng trong dư luận quần chúng: quyền tự do lương tâm và, một cách đặc biệt, quyền tự do tôn giáo, được dạy trong Tuyên Ngôn Dignitatis humanae của Công Đồng Vaticanô II, được dựa trên phẩm giá của con người theo bản thể học chứ không phải một sự bình đẳng không tưởng giữa các hệ thống tôn giáo hay văn hóa do con người tạo ra.[28] Khi suy tư về vấn đề này, ĐTC Phaolô VI đã dạy rằng “Công Đồng không đời nào dựa quyền tự do tôn giáo này trên sự thể là tất cả các tôn giáo và mọi giáo huấn, kể cả những giáo huấn sai lầm, đều nhiều hay ít có giá trị ngang nhau; nhưng dựa vào phẩm giá của con người, là điều đòi hỏi rằng người ấy không bị lệ thuộc vào những giới hạn bên ngoài là điều có khuynh hướng chèn ép lương tâm trong việc tìm kiếm tôn giáo chân chính hoặc gắn bó với nó.”[29] Cho nên giáo huấn về tự do lương tâm và tự do tôn giáo không trái với việc tín lý Công Giáo kết án chủ thuyết trung lập và chủ nghĩa tương đối về tôn giáo;[30] ngược lại, nó hoàn toàn phù hợp với việc kết án này.
V. Kết luận
9. Những nguyên tắc trong Ghi Chú này nhằm mục đích chiếu sáng trên một trong những bình diện quan trọng nhất của sự thống nhất của đời sống Kitô hữu: là việc gắn bó giữa Đức Tin và đời sống, giữa Tin Mừng và văn hóa, như Công Đồng Vaticanô II đã nhắc lại. Công Đồng đã khuyến khích các Kitô hữu “trung thành chu toàn các nhiệm vụ trần thế thế của họ trong tinh thần của Tin Mừng. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, bởi vì chúng ta không có một thành vĩnh cửu ở đây, nhưng đang tìm một thành sắp đến, chúng ta có thể xao lãng các bổn phận trần thế của mình; như thế là quên rằng chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó cách hoàn hảo hơn tùy theo ơn gọi của mỗi người... Chớ gì các Kitô hữu.. . hãnh diện vì có dịp thực thi các hoạt động trần thế một cách đặc biệt là liên kết thành một tổng thể các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo, và dưới sự điều hướng tối cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về vinh danh Thiên Chúa.”[31]
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong buổi Triều Yết ngày 22 tháng 11, năm 2002, đã phê chuẩn Ghi Chú này, được công nhận trong Buổi Họp Thường Niên của Thánh Bộ này, và ra lệnh phát hành.
Roma, từ Văn Phòng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, ngày 24 tháng 11, năm 2002, Ngày Đại Lễ Kính Đức Kitô Vua.
+ ĐHY Giuse J. Ratzinger
Bộ Trưởng
[1] Letter to Diognetus, 5,5; Cf. Catechism of the Catholic Church, No. 2240.
[2] John Paul II, Apostolic Letter Motu Proprio Proclaiming Saint Thomas More Patron of Statesmen and Politicians, 1: AAS 93 (2001), 76.
[3] Ibid., 4.
[4] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 31; Catechism of the Catholic Church, No. 1915.
[5] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[6] John Paul II, Apostolic Exhortation, Christifideles laici, 42: AAS 81 (1989), 472. The present doctrinal Note refers to the involvement in political life of lay members of the faithful. The Bishops of the Church have the right and the duty to set out the moral principles relating to the social order; «Nevertheless active participation in political parties is reserved to the lay faithful» (ibid., 60). Cf. Congregation for the Clergy, Directory for the Ministry and Life of Priests (March 31, 1994), 33.
[7] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[8] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 36.
[9] Cf. Second Vatican Council, Decree Apostolicam actuositatem, 7; Dogmatic Constitution Lumen gentium, 36; Pastoral Constitution Gaudium et spes, 31 and 43.
[10] John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 42.
[11] In the last two centuries, the Papal Magisterium has spoken on the principal questions regarding the social and political order. Cf. Leo XIII, Encyclical Letter Diuturnum illud: ASS 14 (1881–1882), 4 ff; Encyclical Letter Immortale Dei: ASS 18 (1885–1886), 162ff; Encyclical Letter Libertas præstantissimum: ASS 20 (1887–1888), 593ff; Encyclical Letter Rerum novarum: ASS 23 (1890–1891), 643ff; Benedict XV, Encyclical Letter Pacem Dei munus pulcherrimum: AAS 12 (1920), 209ff; Pius XI, Encyclical Letter Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), 190ff; Encyclical Letter Mit brennender Sorge: AAS 29 (1937), 145–167; Encyclical Letter Divini Redemptoris: AAS 29 (1937), 78ff; Pius XII, Encyclical Letter Summi Pontificatus: AAS 31 (1939), 423ff; Radiomessaggi natalizi 1941–1944; John XXIII, Encyclical Letter Mater et magistra: AAS 53 (1961), 401–464; Encyclical Letter Pacem in terris: AAS 55 (1963), 257–304; Paul VI, Encyclical Letter Populorum progressio: AAS 59 (1967), 257–299; Apostolic Letter Octogesima adveniens: AAS 63 (1971), 401–441.
[12] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Centesimus annus, 46: AAS 83 (1991); Encyclical Letter Veritatis splendor, 101: AAS 85 (1993), 1212–1213; Discourse to the Italian Parliament, 5: L’Osservatore Romano (
[13] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 22: AAS 87 (1995), 425–426.
[14] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[15] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[16] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43 and 75.
[17] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 25.
[18] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 73.
[19] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 73.
[20] Ibid.
[21] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[22] Catechism of the Catholic Church,No. 2304.
[23] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[24] John Paul II, Message for the 1991 World Day of Peace: «If you want peace, respect the conscience of every person», 4: AAS 83 (1991), 414–415.
[25] John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 59.
[26] Cf. John Paul II, Address to the Diplomatic Corps accredited to the Holy See: L’Osservatore Romano (
[27] John Paul II, Encyclical Letter Fides et ratio, 90: AAS 91 (1999), 75.
[28] Cf. Second Vatican Council, Declaration Dignitatis humanae, 1: «This Sacred Council begins by professing that God himself has made known to the human race how men by serving him can be saved and reach the state of the blessed. We believe that this one true religion subsists in the Catholic and
[29] Paul VI, Address to the Sacred College and to the Roman Prelature: in Insegnamenti di Paolo VI, 14 (1976), 1088–1089.
[30] Cf. Pius IX, Encyclical Letter Quanta cura: ASS 3 (1867), 162; Leo XIII, Encyclical Letter Immortale Dei: ASS 18 (1885), 170–171; Pius XI, Encyclical Letter Quas primas: AAS 17 (1925), 604–605; Catechism of the Catholic Church, No. 2108; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Dominus Iesus, 22.
[31] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43; see also John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 59.