Phụng Vụ - Mục Vụ
Sức sống của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa
Lm Đan Vinh
03:05 15/06/2018
Chúa Nhật 11 Thường niên B
Ed 17,22-24; 2 Cr 5,6-10; Mc 4,26-34
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 4,26-34
26 Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
30 Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
2. Ý CHÍNH:
Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy cho dân chúng về Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập. Cụ thể trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đưa ra hai dụ ngôn để diễn tả về sự hình thành và phát triển của Nước Thiên Chúa: Một là dụ ngôn về hạt lúa. Ban đầu hạt lúa được người nông dân gieo trên ruộng đất rồi sau đó, hạt lúa tự mọc lên thành cây lúa và tới mùa ra bông kết trái được nhiều bông hạt. Hai là dụ ngôn về hạt cải: hạt cải tuy nhỏ bé nhất trong các hạt, nhưng sau một thời gian nó sẽ trở thành một cây cải cao lớn nhất, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ dưới bóng của nó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 26-29: + Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện của một người vãi hạt giống xuống đất: Dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với người nông dân, mà muốn so sánh với việc gieo hạt lúa của người nông dân để diễn tả về sức tăng trưởng của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập cũng có sức tăng trưởng âm thầm giống như những gì xảy ra cho cây lúa tự lớn lên và sinh hoa kết quả khi đến mùa gặt.
** Ý nghĩa dụ ngôn hạt giống Lời Chúa: Đức Giê-su công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần bên. Người ví hạt lúa giống như Lời Chúa. Hạt giống vốn có sức mạnh vô địch, mà khi đã được gieo vào lòng người thì sẽ vào trong tâm trí và con tim để biến đổi lòng họ. Hoa trái không lệ thuộc vào người gieo giống hay vào công việc rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống tự thân có trong nó. Chúng ta chỉ cần gieo Lời Chúa trên mảnh đất là những người được Chúa giao phó cho chúng ta, rồi kiên nhẫn chờ đợi tới lúc hạt giống đó phát sinh hoa trái dồi dào.
- C 30-32: + Hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng": Dụ ngôn thứ hai là hạt cải, cho thấy sức mạnh vô song của Nước Thiên Chúa và nhắm tới kết quả cuối cùng. Tác giả diến tả hai giai đoạn tăng trưởng của hạt cải: Ban đầu khi Tin Mừng mới được rao giảng thì Nước Thiên Chúa nhỏ bé như một hạt cải, nhưng sau đó nó sẽ dần lớn lên để trở thành một cây cải to lớn, có khả năng đón nhận chim chóc ám chỉ các dân tộc bay đến làm tổ trên cành của nó. Mặc dầu giai đoạn đầu của Nước Thiên Chúa là Hội thánh nhỏ bé, nhưng Tin Mừng vẫn phải được loan báo đến mọi dân tộc. Trước khi Con Người quang lâm, sẽ có nhiều cuộc bách hại và những cơn thử thách xảy ra cho các tín hữu. Trong cơn hoạn nạn đó, dụ ngôn hạt cải này sẽ giúp các tín hữu thêm lòng tin cậy vào quyền năng của Chúa và tin vào chiến thắng cuối cùng của Nước Thiên Chúa.
- C 33-34: + Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ: Cả hai dụ ngôn Hạt Lúa và Hạt Cải đều mời gọi các tín hữu chúng ta ý thức nhiệm vụ phải góp phần vào sứ vụ cứu rỗi nhân loại của Đức Giê-su để Nước Thiên Chúa được mau hiển trị.
4. CÂU HỎI: 1) Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa được trình bày trong bài Tin Mừng là hai dụ ngôn nào? 2) Hai dụ ngôn ấy giống và khác nhau ra sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải […] khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,31-32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ SỐNG BẮT NGUỒN TỪ THIÊN CHÚA:
Một hôm một ông giáo sư sinh học cầm một hạt lúa giống trong tay ngắm nghiá, và suy nghĩ: "Tôi biết chính xác các chất cấu tạo nên hạt lúa này. Nó gồm có Nitro, hidro, và carbon. Tôi biết rõ tỉ lệ từng đơn chất trong nó. Tôi có thể làm ra một hạt lúa giống y như thế. Nhưng khi tôi gieo hạt lúa do tôi làm ra xuống đất tôi không thấy nó nảy mầm và mọc lên thành cây! Sau một thời gian các chất cấu tạo nên nó bị tan biến hết. Ngược lại khi tôi gieo một hạt lúa tự nhiên. Tôi thấy nó nẩy mầm và mọc lên thành một cây lúa khoẻ mạnh. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tai sao hạt giống do tôi tạo ra đã không mang lại kết quả, còn hạt giống tự nhiên thì lại có kết quả thật kỳ diệu: Nó nảy mầm thành cây lúa rồi lớn lên, tới mùa phát sinh ra bông lúa nặng trĩu các hạt lúa! Tại sao vậy?
Thưa bởi vì trong hạt lúa tự nhiên có một nguyên lý bí mật mà người ta gọi là "nguyên lý của sự sống". Điều này cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa hạt giống do con người làm ra với hạt giống thiên nhiên do Thiên Chúa sáng tạo. Đó gọi là nguyên lý của sự sống.
2) HÃY GIEO NHỮNG LỜI KHEN THÀNH THẬT:
MAL-COLM DOL-KOFF là một nhà văn nổi tiếng đã viết nhiều chuyện ngắn. Khi còn bé, cậu có tính nhút nhát, dễ bị tổn thương nên ít khi giao tiếp với chúng bạn và thường hay lủi thủi một mình. Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn. Loài vật là bạn thân của con người, sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dol-koff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau.
Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo vẫn không có giá trị bằng mấy lời khen của cô giáo: “Em viết hay lắm!” Chính những lời khen đó đã làm thay đổi cuộc đời cậu bé. Sau lời khen của cô giáo, cậu bé đã chạy nhanh về nhà, phấn khởi bắt tay vào việc viết một câu truyện ngắn mà cậu đã từng nghĩ tới mà không dám viết. Cậu viết ngày càng nhiều hơn và cứ xong được một truyện nào là cậu lại mang tới cho cô giáo nhận xét.
Nhiều năm trôi qua, Mal-colm Dal-koff đã trở thành một nhà văn nổi tiếng. Cậu trở về thăm trường cũ và thăm lại cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu phải cảm ơn cô là nhờ những lời khen của cô “Em viết hay lắm!” Chính những lời ấy đã động viên và biến đổi cuộc đời của cậu.
Có những lời nói, cử chỉ tưởng như vô tình lại trở thành nguyên nhân thay đổi cho cả một đời người. Biết bao con cái rơi vào sự tự ti mặc cảm khi cha mẹ vô tình lặp lại lời chê trách đối với con. Biết bao con người trở thành hung dữ khi cha mẹ luôn gieo vào tâm trí trẻ thơ những lời nói việc làm chất chứa đầy hiềm khích, bất công. Và ngược lại, biết bao con người đã tránh được sự tự ti mặc cảm để can đảm bước vào đời, nhờ được người thân khích lệ. Những lời khen của ta sẽ âm thầm gieo vào lòng tha nhân có thể biến đổi họ ngày một lớn lên về nhân cách.
Cha ông ta vẫn thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đừng dùng lời nói làm đau lòng người khác, kết án anh em. Hãy trao tặng cho nhau những lời chân tình yêu thương. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta gieo vãi Lời Chúa. Nếu hôm nay chúng ta không gieo Lời Chúa thì làm sao có được cánh đồng bội thu sau này?
3) HẠT GIỐNG TIN MỪNG LUÔN TỒN TẠI VÀ CÓ NGÀY HỒI SINH:
Một hôm, cha PE-TIT JEAN đến giảng đạo tại NA-GA-SA-KI cho một số người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi họ :
- Anh em có thắc mắc gì không ?
Một người giơ tay xin đặt câu hỏi :
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không ? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không ?
- Có.
Câu hỏi thứ hai : các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không ?
- Có.
Câu hỏi thứ ba : Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không ?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi với ông là đồng đạo. Chúng tôi đây đều là người Công Giáo.
Cha Petit Jean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi :
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không ?
- Thưa cha, không có ai trong suốt hai thế kỷ qua ! Ban đầu ông bà tổ tiên của chúng con đã tin đạo và truyền lại, rồi chúng con cứ âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con: Sau này có ai đến giảng đạo thì hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận biết họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến hay không.
Giáo hội Nhật bản đã hồi sinh như thế đó.
4) CHÚA LUÔN CẦN CHÚNG TA CỘNG TÁC:
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đang đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi điều con mong ước.
Chị liền nói một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa…
Chúa mỉm cười và nói: Con thân mến. Ở đây, Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt lúa xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và phát sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng mỗi người cũng sẽ nảy mầm và phát sinh ra nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật cũng không ngừng tăng trưởng theo thời gian lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản được sự phát triển của Nước Thiên Chúa.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về Nước Thiên Chúa giống như hạt lúa được gieo xuống đất, rồi âm thầm mọc lên theo luật thiên nhiên, và như một hạt cải ban đầu nhỏ bé nhưng sau đó lớn lên thành cây cải to lớn đến nỗi “chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
1) Nước Thiên Chúa giống như hạt giống: Các tín hữu cần phải biết kiên nhẫn. Ðừng đòi nhìn thấy sự tăng trưởng trước mắt, nhưng cứ làm hết sức mình rồi chờ tới mùa gặt là ngày tận thế. Bấy giờ Thiên Chúa sẽ sai các thiên thần đi gặt hái: Lúa thóc ám chỉ các người lành thánh sẽ được hưởng hạnh phúc trong kho lẫm là Thiên đàng. Còn cỏ dại ám chỉ các kẻ làm điều gian ác sẽ bị thiêu cháy trong lửa hỏa ngục muôn đời. Trong thời gian chờ đợi này, mỗi người chúng ta cần chu toàn bổn phận xây dựng Nước Thiên Chúa, bằng việc sống giới răn yêu thương và thực thi công bình bác ái theo gương sáng và lời dạy của Đức Giê-su.
2) Nước Thiên Chúa giống như hạt cải: Các tín hữu chúng ta cần góp phần vào sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa mỗi ngày, năng cầu nguyện và thực hành bác ái phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ Chúa đang hiện thân trong những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi… Những hạt giống việc lành ấy sẽ góp phần làm tăng trưởng Hội thánh ngày một lớn lên theo thánh ý Chúa.
Như những hạt cải nhỏ bé, phải biết tự hủy mới mọc thành cây và lớn lên, các tín hữu cũng phải tập mỗi ngày chết đi cho các ý riêng ích kỷ và tự mãn, cho các đam mê nhục dục thấp hèn, cho các thói hư tật xấu của mình… Mỗi khi gặp sự chống đối hay thất bại, thay vì nản lòng thoái lui, chúng ta cần xác tín rằng: Nếu chúng ta biết sống khiêm tốn nhỏ bé, âm thầm cầu nguyện và can đảm dấn thân kèm theo sự tín thác cậy trông vào ơn Chúa giúp… chắc chắn việc tông đồ của chúng ta sẽ đạt kết quả đúng theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3) Mô hình tăng trưởng của Giáo Hội Hàn Quốc:
Theo linh mục Pi-e-ro Ghed-do, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Mi-la-no: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công Giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).
Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công Giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.
Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.
Đức Hồng Y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công Giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.
Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công Giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay để lên 10 triệu.
Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Đức Giê-su đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13), noi gương Đức Giê-su đã yêu thương chúng ta và đã phó nộp mình vì chúng ta (x. Gl 2,20).
4) Tích cực góp phần làm phát triển Nước Thiên Chúa:
- Mỗi ngày hãy năng đọc Kinh Lạy Cha với tâm tình sốt sắng, cầu xin cho Nước Cha mau trị đến nơi những anh chị em lương dân đang sống gần bên chúng ta.
- Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta hãy gieo ít nhất một lời khen thành thật, làm ít nhất một việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân nên cạnh. Những lời nói việc làm ấy giống như những hạt giống sẽ ân thầm mọc lên và có sức biến đổi lòng người nên tốt mà ta không ngờ.
- Hãy ý thức rằng: Nước Thiên Chúa vẫn có thể lớn lên trong những người lương chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, nhưng luôn theo lương tâm ăn ở ngay lành, hoặc đã vô tình nhìn thấy gương lành của các tín hữu như lời Chúa phán: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Vậy trong những ngày này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để gieo hạt giống Tin Mừng giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa?
4. THẢO LUẬN:
Khi làm việc tông đồ mà gặp chống đối hay thất bại, chúng ta cần phải làm gì noi gương Đức Giê-su?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha Toàn Năng, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng yêu thương và quan phòng của Cha trong công cuộc tông đồ. Dù chúng con chỉ làm được các việc nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng con tin rằng: Chính Cha sẽ làm cho các việc nhỏ bé tầm thường ấy phát sinh hiệu quả lớn lao cho Hội Thánh.
Lạy Cha, xin cho chúng con biết chu toàn sứ mệnh gieo Lời Cha khi tiếp xúc với tha nhân dù thuận lợi hay không thuận lợi, vì tin vào quyền năng và tình thương của Cha sẽ hoàn tất những gì còn thiếu sót nơi chúng con, như lời thánh Phao-lô: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Ed 17,22-24; 2 Cr 5,6-10; Mc 4,26-34
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 4,26-34
26 Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
30 Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
2. Ý CHÍNH:
Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy cho dân chúng về Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập. Cụ thể trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đưa ra hai dụ ngôn để diễn tả về sự hình thành và phát triển của Nước Thiên Chúa: Một là dụ ngôn về hạt lúa. Ban đầu hạt lúa được người nông dân gieo trên ruộng đất rồi sau đó, hạt lúa tự mọc lên thành cây lúa và tới mùa ra bông kết trái được nhiều bông hạt. Hai là dụ ngôn về hạt cải: hạt cải tuy nhỏ bé nhất trong các hạt, nhưng sau một thời gian nó sẽ trở thành một cây cải cao lớn nhất, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ dưới bóng của nó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 26-29: + Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện của một người vãi hạt giống xuống đất: Dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với người nông dân, mà muốn so sánh với việc gieo hạt lúa của người nông dân để diễn tả về sức tăng trưởng của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập cũng có sức tăng trưởng âm thầm giống như những gì xảy ra cho cây lúa tự lớn lên và sinh hoa kết quả khi đến mùa gặt.
** Ý nghĩa dụ ngôn hạt giống Lời Chúa: Đức Giê-su công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần bên. Người ví hạt lúa giống như Lời Chúa. Hạt giống vốn có sức mạnh vô địch, mà khi đã được gieo vào lòng người thì sẽ vào trong tâm trí và con tim để biến đổi lòng họ. Hoa trái không lệ thuộc vào người gieo giống hay vào công việc rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống tự thân có trong nó. Chúng ta chỉ cần gieo Lời Chúa trên mảnh đất là những người được Chúa giao phó cho chúng ta, rồi kiên nhẫn chờ đợi tới lúc hạt giống đó phát sinh hoa trái dồi dào.
- C 30-32: + Hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng": Dụ ngôn thứ hai là hạt cải, cho thấy sức mạnh vô song của Nước Thiên Chúa và nhắm tới kết quả cuối cùng. Tác giả diến tả hai giai đoạn tăng trưởng của hạt cải: Ban đầu khi Tin Mừng mới được rao giảng thì Nước Thiên Chúa nhỏ bé như một hạt cải, nhưng sau đó nó sẽ dần lớn lên để trở thành một cây cải to lớn, có khả năng đón nhận chim chóc ám chỉ các dân tộc bay đến làm tổ trên cành của nó. Mặc dầu giai đoạn đầu của Nước Thiên Chúa là Hội thánh nhỏ bé, nhưng Tin Mừng vẫn phải được loan báo đến mọi dân tộc. Trước khi Con Người quang lâm, sẽ có nhiều cuộc bách hại và những cơn thử thách xảy ra cho các tín hữu. Trong cơn hoạn nạn đó, dụ ngôn hạt cải này sẽ giúp các tín hữu thêm lòng tin cậy vào quyền năng của Chúa và tin vào chiến thắng cuối cùng của Nước Thiên Chúa.
- C 33-34: + Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ: Cả hai dụ ngôn Hạt Lúa và Hạt Cải đều mời gọi các tín hữu chúng ta ý thức nhiệm vụ phải góp phần vào sứ vụ cứu rỗi nhân loại của Đức Giê-su để Nước Thiên Chúa được mau hiển trị.
4. CÂU HỎI: 1) Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa được trình bày trong bài Tin Mừng là hai dụ ngôn nào? 2) Hai dụ ngôn ấy giống và khác nhau ra sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải […] khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,31-32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ SỐNG BẮT NGUỒN TỪ THIÊN CHÚA:
Một hôm một ông giáo sư sinh học cầm một hạt lúa giống trong tay ngắm nghiá, và suy nghĩ: "Tôi biết chính xác các chất cấu tạo nên hạt lúa này. Nó gồm có Nitro, hidro, và carbon. Tôi biết rõ tỉ lệ từng đơn chất trong nó. Tôi có thể làm ra một hạt lúa giống y như thế. Nhưng khi tôi gieo hạt lúa do tôi làm ra xuống đất tôi không thấy nó nảy mầm và mọc lên thành cây! Sau một thời gian các chất cấu tạo nên nó bị tan biến hết. Ngược lại khi tôi gieo một hạt lúa tự nhiên. Tôi thấy nó nẩy mầm và mọc lên thành một cây lúa khoẻ mạnh. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tai sao hạt giống do tôi tạo ra đã không mang lại kết quả, còn hạt giống tự nhiên thì lại có kết quả thật kỳ diệu: Nó nảy mầm thành cây lúa rồi lớn lên, tới mùa phát sinh ra bông lúa nặng trĩu các hạt lúa! Tại sao vậy?
Thưa bởi vì trong hạt lúa tự nhiên có một nguyên lý bí mật mà người ta gọi là "nguyên lý của sự sống". Điều này cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa hạt giống do con người làm ra với hạt giống thiên nhiên do Thiên Chúa sáng tạo. Đó gọi là nguyên lý của sự sống.
2) HÃY GIEO NHỮNG LỜI KHEN THÀNH THẬT:
MAL-COLM DOL-KOFF là một nhà văn nổi tiếng đã viết nhiều chuyện ngắn. Khi còn bé, cậu có tính nhút nhát, dễ bị tổn thương nên ít khi giao tiếp với chúng bạn và thường hay lủi thủi một mình. Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn. Loài vật là bạn thân của con người, sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dol-koff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau.
Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo vẫn không có giá trị bằng mấy lời khen của cô giáo: “Em viết hay lắm!” Chính những lời khen đó đã làm thay đổi cuộc đời cậu bé. Sau lời khen của cô giáo, cậu bé đã chạy nhanh về nhà, phấn khởi bắt tay vào việc viết một câu truyện ngắn mà cậu đã từng nghĩ tới mà không dám viết. Cậu viết ngày càng nhiều hơn và cứ xong được một truyện nào là cậu lại mang tới cho cô giáo nhận xét.
Nhiều năm trôi qua, Mal-colm Dal-koff đã trở thành một nhà văn nổi tiếng. Cậu trở về thăm trường cũ và thăm lại cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu phải cảm ơn cô là nhờ những lời khen của cô “Em viết hay lắm!” Chính những lời ấy đã động viên và biến đổi cuộc đời của cậu.
Có những lời nói, cử chỉ tưởng như vô tình lại trở thành nguyên nhân thay đổi cho cả một đời người. Biết bao con cái rơi vào sự tự ti mặc cảm khi cha mẹ vô tình lặp lại lời chê trách đối với con. Biết bao con người trở thành hung dữ khi cha mẹ luôn gieo vào tâm trí trẻ thơ những lời nói việc làm chất chứa đầy hiềm khích, bất công. Và ngược lại, biết bao con người đã tránh được sự tự ti mặc cảm để can đảm bước vào đời, nhờ được người thân khích lệ. Những lời khen của ta sẽ âm thầm gieo vào lòng tha nhân có thể biến đổi họ ngày một lớn lên về nhân cách.
Cha ông ta vẫn thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đừng dùng lời nói làm đau lòng người khác, kết án anh em. Hãy trao tặng cho nhau những lời chân tình yêu thương. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta gieo vãi Lời Chúa. Nếu hôm nay chúng ta không gieo Lời Chúa thì làm sao có được cánh đồng bội thu sau này?
3) HẠT GIỐNG TIN MỪNG LUÔN TỒN TẠI VÀ CÓ NGÀY HỒI SINH:
Một hôm, cha PE-TIT JEAN đến giảng đạo tại NA-GA-SA-KI cho một số người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi họ :
- Anh em có thắc mắc gì không ?
Một người giơ tay xin đặt câu hỏi :
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không ? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không ?
- Có.
Câu hỏi thứ hai : các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không ?
- Có.
Câu hỏi thứ ba : Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không ?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi với ông là đồng đạo. Chúng tôi đây đều là người Công Giáo.
Cha Petit Jean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi :
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không ?
- Thưa cha, không có ai trong suốt hai thế kỷ qua ! Ban đầu ông bà tổ tiên của chúng con đã tin đạo và truyền lại, rồi chúng con cứ âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con: Sau này có ai đến giảng đạo thì hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận biết họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến hay không.
Giáo hội Nhật bản đã hồi sinh như thế đó.
4) CHÚA LUÔN CẦN CHÚNG TA CỘNG TÁC:
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đang đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi điều con mong ước.
Chị liền nói một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa…
Chúa mỉm cười và nói: Con thân mến. Ở đây, Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt lúa xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và phát sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng mỗi người cũng sẽ nảy mầm và phát sinh ra nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật cũng không ngừng tăng trưởng theo thời gian lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản được sự phát triển của Nước Thiên Chúa.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về Nước Thiên Chúa giống như hạt lúa được gieo xuống đất, rồi âm thầm mọc lên theo luật thiên nhiên, và như một hạt cải ban đầu nhỏ bé nhưng sau đó lớn lên thành cây cải to lớn đến nỗi “chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
1) Nước Thiên Chúa giống như hạt giống: Các tín hữu cần phải biết kiên nhẫn. Ðừng đòi nhìn thấy sự tăng trưởng trước mắt, nhưng cứ làm hết sức mình rồi chờ tới mùa gặt là ngày tận thế. Bấy giờ Thiên Chúa sẽ sai các thiên thần đi gặt hái: Lúa thóc ám chỉ các người lành thánh sẽ được hưởng hạnh phúc trong kho lẫm là Thiên đàng. Còn cỏ dại ám chỉ các kẻ làm điều gian ác sẽ bị thiêu cháy trong lửa hỏa ngục muôn đời. Trong thời gian chờ đợi này, mỗi người chúng ta cần chu toàn bổn phận xây dựng Nước Thiên Chúa, bằng việc sống giới răn yêu thương và thực thi công bình bác ái theo gương sáng và lời dạy của Đức Giê-su.
2) Nước Thiên Chúa giống như hạt cải: Các tín hữu chúng ta cần góp phần vào sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa mỗi ngày, năng cầu nguyện và thực hành bác ái phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ Chúa đang hiện thân trong những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi… Những hạt giống việc lành ấy sẽ góp phần làm tăng trưởng Hội thánh ngày một lớn lên theo thánh ý Chúa.
Như những hạt cải nhỏ bé, phải biết tự hủy mới mọc thành cây và lớn lên, các tín hữu cũng phải tập mỗi ngày chết đi cho các ý riêng ích kỷ và tự mãn, cho các đam mê nhục dục thấp hèn, cho các thói hư tật xấu của mình… Mỗi khi gặp sự chống đối hay thất bại, thay vì nản lòng thoái lui, chúng ta cần xác tín rằng: Nếu chúng ta biết sống khiêm tốn nhỏ bé, âm thầm cầu nguyện và can đảm dấn thân kèm theo sự tín thác cậy trông vào ơn Chúa giúp… chắc chắn việc tông đồ của chúng ta sẽ đạt kết quả đúng theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3) Mô hình tăng trưởng của Giáo Hội Hàn Quốc:
Theo linh mục Pi-e-ro Ghed-do, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Mi-la-no: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công Giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).
Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công Giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.
Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.
Đức Hồng Y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công Giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.
Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công Giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay để lên 10 triệu.
Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Đức Giê-su đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13), noi gương Đức Giê-su đã yêu thương chúng ta và đã phó nộp mình vì chúng ta (x. Gl 2,20).
4) Tích cực góp phần làm phát triển Nước Thiên Chúa:
- Mỗi ngày hãy năng đọc Kinh Lạy Cha với tâm tình sốt sắng, cầu xin cho Nước Cha mau trị đến nơi những anh chị em lương dân đang sống gần bên chúng ta.
- Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta hãy gieo ít nhất một lời khen thành thật, làm ít nhất một việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân nên cạnh. Những lời nói việc làm ấy giống như những hạt giống sẽ ân thầm mọc lên và có sức biến đổi lòng người nên tốt mà ta không ngờ.
- Hãy ý thức rằng: Nước Thiên Chúa vẫn có thể lớn lên trong những người lương chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, nhưng luôn theo lương tâm ăn ở ngay lành, hoặc đã vô tình nhìn thấy gương lành của các tín hữu như lời Chúa phán: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Vậy trong những ngày này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để gieo hạt giống Tin Mừng giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa?
4. THẢO LUẬN:
Khi làm việc tông đồ mà gặp chống đối hay thất bại, chúng ta cần phải làm gì noi gương Đức Giê-su?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha Toàn Năng, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng yêu thương và quan phòng của Cha trong công cuộc tông đồ. Dù chúng con chỉ làm được các việc nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng con tin rằng: Chính Cha sẽ làm cho các việc nhỏ bé tầm thường ấy phát sinh hiệu quả lớn lao cho Hội Thánh.
Lạy Cha, xin cho chúng con biết chu toàn sứ mệnh gieo Lời Cha khi tiếp xúc với tha nhân dù thuận lợi hay không thuận lợi, vì tin vào quyền năng và tình thương của Cha sẽ hoàn tất những gì còn thiếu sót nơi chúng con, như lời thánh Phao-lô: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:15 15/06/2018
76. XƯƠNG CỦA NƯỚC
Tô Đông Pha hỏi ông Vương Kinh:
- “Chữ “pha“坡” nghĩa là gì ?”
Vương Kinh đáp:
- Chữ “pha”có “đất” ở phía sau là “da” của đất”. (1)
Đông Pha cười nói:
- “Theo ngài nói mà suy ra, chữ “hoạt 滑”có“ nước” ở phía sau tức là “xương” của nước sao ?” (2)
Vương Kinh không lời đáp lại.
(Tô Trường Công Ngoại kí)
Suy tư 76:
Nước thì không có xương cho nên nó ẻo lả mềm mại và dễ thương, nhưng nó lại có sức mạnh vô địch và không gì cản được nó khi cuồng phong bão tố nổi lên và do đó mà nó cũng rất dễ ghét.
Các thánh tử đạo là những giòng nước rất hiền hoà khi sống với mọi người, các ngài làm cho người đối diện hân hoan và tin tưởng vì cuộc sống của các ngài phản ảnh tinh thần của Phúc Âm, nhưng các ngài cũng là những cơn bảo tố làm kinh sợ những kẻ bách hại đạo của Đức Chúa Ki-tô, tức là tín ngưỡng niềm tin của các ngài, các ngài can đảm không uý kỵ cái chết, không sợ hãi trước những căm thù Thiên Chúa của những người ghét đạo, và khi mạng sống bị cướp đi, các ngài đã trở nên giòng suối mát ngọt ngào cho những ai đang bị bách hại vì sự công chính ở đời này...
Ân sủng của Thiên Chúa thì êm dịu và mát rượi như giòng nước mát chảy vào trong tâm hồn của chúng ta, hàng ngày chúng ta đều sống trong giòng nước ân sủng ấy, nhưng có mấy ai nhận ra đó là hồng ân của Thiên Chúa để mà cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Ngài ?
Nếu chúng ta không sử dụng ân sủng Chúa ban cho để sống đẹp lòng Ngài, thì chính ân sủng sẽ nhận chìm chúng ta trong lửa đời đời...
(1) Chữ 坡gồm chữ 土”đất” và chữ 皮”da” ghép lại mà thành, nên trả lời là “da của đất”, Vương Kinh nhất thời không giải thích được nên nói bừa.
(2) Chữ 滑gồm chữ “水nước” và chữ “骨xương” ghép lại mà thành, nên Tô Đông Pha ghẹo lại.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tô Đông Pha hỏi ông Vương Kinh:
- “Chữ “pha“坡” nghĩa là gì ?”
Vương Kinh đáp:
- Chữ “pha”có “đất” ở phía sau là “da” của đất”. (1)
Đông Pha cười nói:
- “Theo ngài nói mà suy ra, chữ “hoạt 滑”có“ nước” ở phía sau tức là “xương” của nước sao ?” (2)
Vương Kinh không lời đáp lại.
(Tô Trường Công Ngoại kí)
Suy tư 76:
Nước thì không có xương cho nên nó ẻo lả mềm mại và dễ thương, nhưng nó lại có sức mạnh vô địch và không gì cản được nó khi cuồng phong bão tố nổi lên và do đó mà nó cũng rất dễ ghét.
Các thánh tử đạo là những giòng nước rất hiền hoà khi sống với mọi người, các ngài làm cho người đối diện hân hoan và tin tưởng vì cuộc sống của các ngài phản ảnh tinh thần của Phúc Âm, nhưng các ngài cũng là những cơn bảo tố làm kinh sợ những kẻ bách hại đạo của Đức Chúa Ki-tô, tức là tín ngưỡng niềm tin của các ngài, các ngài can đảm không uý kỵ cái chết, không sợ hãi trước những căm thù Thiên Chúa của những người ghét đạo, và khi mạng sống bị cướp đi, các ngài đã trở nên giòng suối mát ngọt ngào cho những ai đang bị bách hại vì sự công chính ở đời này...
Ân sủng của Thiên Chúa thì êm dịu và mát rượi như giòng nước mát chảy vào trong tâm hồn của chúng ta, hàng ngày chúng ta đều sống trong giòng nước ân sủng ấy, nhưng có mấy ai nhận ra đó là hồng ân của Thiên Chúa để mà cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Ngài ?
Nếu chúng ta không sử dụng ân sủng Chúa ban cho để sống đẹp lòng Ngài, thì chính ân sủng sẽ nhận chìm chúng ta trong lửa đời đời...
(1) Chữ 坡gồm chữ 土”đất” và chữ 皮”da” ghép lại mà thành, nên trả lời là “da của đất”, Vương Kinh nhất thời không giải thích được nên nói bừa.
(2) Chữ 滑gồm chữ “水nước” và chữ “骨xương” ghép lại mà thành, nên Tô Đông Pha ghẹo lại.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:18 15/06/2018
26. Trong khi chúng ta trò chuyện thì thường muốn đề cập đến một vài tư tưởng có tính siêu việt; điều đó như một hạt giống tốt, tự nó sẽ sinh ra nhiều hoa trái.
(Thánh Don Bosco)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
--------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh lễ tại Santa Marta 11/6: Chúa Thánh Thần là nhân vật chính trong việc truyền giáo
Lệ Hằng, F.M.A.
00:36 15/06/2018
Hôm thứ Hai 11 tháng Sáu, nhân lễ kính Thánh Barnabas, trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày các suy tư của ngài trên ba khía cạnh của việc truyền giáo được nhắc đến trong các bài đọc của phụng vụ trong ngày: đó là công bố, phục vụ và tính chất nhưng không.
Công bố
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, các bài đọc được chọn cho lễ kính Thánh Barnabas (Công vụ 11: 21-26; 12: 1-3 và Mátthêu10: 7-13) chứng minh rằng Chúa Thánh Thần là “nhân vật chính” trong việc công bố Tin Mừng. Công bố Tin Mừng không giống như các loại truyền thông khác. Do tác động của Chúa Thánh Thần, việc công bố Tin Mừng có quyền năng “thay đổi con tim”. Đức Thánh Cha nhận xét rằng có những kế hoạch mục vụ dường như hoàn hảo, nhưng “những kế hoạch ấy lại không có khả năng thay đổi con tim” bởi vì chúng kết thúc nơi chính bản thân mình. “Chúng không phải là các công cụ truyền giáo”, Đức Thánh Cha khẳng định.
Công bố Tin Mừng không phải là một thái độ kinh doanh mà Chúa Giêsu gửi đến cho chúng ta. Không, công bố Tin Mừng là một hoạt động của Chúa Thánh Thần. Đó là lòng can đảm. Lòng dũng cảm thực sự bên trong việc truyền giáo không phải là sự bướng bỉnh của con người. Không, chính Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho chúng ta lòng dũng cảm và là người đưa anh chị em tiến về phía trước.
Sự phục vụ
Đức Thánh Cha Phanxicô xem phục vụ là chiều kích thứ hai của việc truyền giáo. Việc theo đuổi một sự nghiệp hay những thành công “trong Giáo Hội là một dấu hiệu chắc chắn rằng người đó không biết truyền giáo là gì vì người chỉ huy phải là người phục vụ”.
Đức Thánh Cha nói tiếp rằng:
“Chúng ta có thể nói những điều tốt đẹp nhưng khi không có sự phục vụ, thì đó không phải là công bố Tin Mừng. Nó có vẻ như thế, nhưng không phải, vì Chúa Thánh Thần không chỉ đưa anh chị em về phía trước để loan báo sự thật của Chúa và sự sống của Ngài, nhưng Chúa Thánh Thần cũng dẫn dắt anh chị em đến với sự phục vụ anh chị em của mình, ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất. Thật kinh khủng khi bạn tìm thấy những người truyền giáo mà lại bắt những người khác phải phục dịch họ và sống một cuộc sống thoải mái của kẻ được cung phụng. Họ giống như các hoàng tử truyền giáo - thật khủng khiếp.
Tin Mừng là nhưng không
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày tính nhưng không như khía cạnh thứ ba của việc truyền giáo vì không ai có thể được cứu chuộc bằng chính những công đức của mình. Chúa nhắc nhở chúng ta, “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10: 8).
Tất cả chúng ta đã được cứu rỗi cách nhưng không bởi Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, chúng ta phải cho đi nhưng không. Những ai thực hiện công việc mục vụ truyền giáo phải học được điều đó. Cuộc sống của họ phải là nhưng không, phải được trao ban cho tha nhân trong sự phục vụ, trong những lời công bố phát sinh từ Chúa Thánh Thần. Sự thanh bần cá nhân của họ mở lòng họ ra với Thánh Linh Thiên Chúa.
Source: Vatican NewsPope Francis: ‘the Holy Spirit – protagonist of evangelization’
Công bố
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, các bài đọc được chọn cho lễ kính Thánh Barnabas (Công vụ 11: 21-26; 12: 1-3 và Mátthêu10: 7-13) chứng minh rằng Chúa Thánh Thần là “nhân vật chính” trong việc công bố Tin Mừng. Công bố Tin Mừng không giống như các loại truyền thông khác. Do tác động của Chúa Thánh Thần, việc công bố Tin Mừng có quyền năng “thay đổi con tim”. Đức Thánh Cha nhận xét rằng có những kế hoạch mục vụ dường như hoàn hảo, nhưng “những kế hoạch ấy lại không có khả năng thay đổi con tim” bởi vì chúng kết thúc nơi chính bản thân mình. “Chúng không phải là các công cụ truyền giáo”, Đức Thánh Cha khẳng định.
Công bố Tin Mừng không phải là một thái độ kinh doanh mà Chúa Giêsu gửi đến cho chúng ta. Không, công bố Tin Mừng là một hoạt động của Chúa Thánh Thần. Đó là lòng can đảm. Lòng dũng cảm thực sự bên trong việc truyền giáo không phải là sự bướng bỉnh của con người. Không, chính Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho chúng ta lòng dũng cảm và là người đưa anh chị em tiến về phía trước.
Sự phục vụ
Đức Thánh Cha Phanxicô xem phục vụ là chiều kích thứ hai của việc truyền giáo. Việc theo đuổi một sự nghiệp hay những thành công “trong Giáo Hội là một dấu hiệu chắc chắn rằng người đó không biết truyền giáo là gì vì người chỉ huy phải là người phục vụ”.
Đức Thánh Cha nói tiếp rằng:
“Chúng ta có thể nói những điều tốt đẹp nhưng khi không có sự phục vụ, thì đó không phải là công bố Tin Mừng. Nó có vẻ như thế, nhưng không phải, vì Chúa Thánh Thần không chỉ đưa anh chị em về phía trước để loan báo sự thật của Chúa và sự sống của Ngài, nhưng Chúa Thánh Thần cũng dẫn dắt anh chị em đến với sự phục vụ anh chị em của mình, ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất. Thật kinh khủng khi bạn tìm thấy những người truyền giáo mà lại bắt những người khác phải phục dịch họ và sống một cuộc sống thoải mái của kẻ được cung phụng. Họ giống như các hoàng tử truyền giáo - thật khủng khiếp.
Tin Mừng là nhưng không
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày tính nhưng không như khía cạnh thứ ba của việc truyền giáo vì không ai có thể được cứu chuộc bằng chính những công đức của mình. Chúa nhắc nhở chúng ta, “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10: 8).
Tất cả chúng ta đã được cứu rỗi cách nhưng không bởi Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, chúng ta phải cho đi nhưng không. Những ai thực hiện công việc mục vụ truyền giáo phải học được điều đó. Cuộc sống của họ phải là nhưng không, phải được trao ban cho tha nhân trong sự phục vụ, trong những lời công bố phát sinh từ Chúa Thánh Thần. Sự thanh bần cá nhân của họ mở lòng họ ra với Thánh Linh Thiên Chúa.
Source: Vatican NewsPope Francis: ‘the Holy Spirit – protagonist of evangelization’
Thánh lễ tại Santa Marta 12/6: Chứng tá Kitô là muối, và ánh sáng cho đời
Lệ Hằng, F.M.A.
01:02 15/06/2018
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu là muối và ánh sáng cho đời qua các chứng tá cho Chúa Giêsu, chứ đừng thu hút sự chú ý của người khác nơi những giá trị của mình. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 12 tháng Sáu tại nhà nguyện Santa Marta.
Đức Thánh Cha nói các Kitô hữu được mời gọi để đưa ra các “chứng tá đơn giản như một thói quen” cho Chúa Giêsu. Ngài gọi đó là “sự thánh thiện hàng ngày”.
Chứng tá Kitô giáo, theo Đức Thánh Cha, có thể có nghĩa là tử vì đạo theo gương Chúa Giêsu. Nhưng cũng có một con đường khác hướng đến Chúa Kitô là sống thánh thiện trong những hành động thường nhật của chúng ta, khi chúng ta thức dậy, làm việc và đi ngủ.
“Nó có vẻ như một điều thật quá nhỏ nhặt, nhưng phép lạ được thực hiện thông qua những việc nhỏ như thế.”
Muối và ánh sáng cho người khác
Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chứng tá Kitô phải được xây dựng trên sự khiêm tốn, chúng ta phải là muối và ánh sáng đơn sơ cho những người khác.
“Muối cho người khác; ánh sáng cho người khác: Bởi vì muối không cung cấp hương vị cho chính nó nhưng phục vụ người khác. Ánh sáng không tự chiếu sáng chính mình mà phục vụ người khác… Các siêu thị bán muối với số lượng nhỏ, không bán từng tấn. Và muối không tự quảng bá chímh mình vì nó không tự phục vụ. Nó tồn tại để phục vụ người khác, bằng cách bảo tồn mọi thứ và tạo ra hương vị. Đây là chứng tá đơn giản.”
Chúng ta không có công đức cá nhân
Đức Thánh Cha cho biết chứng tá Kitô hàng ngày có nghĩa là trở nên ánh sáng cho người khác, “để giúp họ trong những giờ khắc đen tối nhất của họ.”
“Chúa phán: ‘Anh em hãy là muối; là ánh sáng. ’... Nhưng anh em làm như thế để người khác thấy và tôn vinh Thiên Chúa. Anh chị em thậm chí sẽ không nhận được bất kỳ điều gì. Khi chúng ta ăn, chúng ta không khen muối. Không, chúng ta nói mì ống hoặc thịt quá ngon ... Khi chúng ta đi ngủ vào ban đêm, chúng ta không nói ánh sáng là tốt. Chúng ta lờ ánh sáng đi, nhưng chúng ta sống bằng ánh sáng. Kitô hữu phải trở thành các chứng nhân ẩn danh.”
Sự thánh thiện hàng ngày
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo chúng ta chống lại cách hành động như người Pharisêu được nêu trong bài Tin Mừng, là người cảm tạ Chúa vì sự thánh thiện của người ấy. Ngài nói: “Chúng ta không phải là tác giả của những giá trị riêng mình.”
“Sự thánh thiện hàng ngày” có nghĩa là trở thành muối và ánh sáng cho người khác để vinh quang của Chúa, chứ không phải của mình, được tỏ hiện..
Source: Vatican NewsPope at Mass: ‘Christian witness is being salt, light’
Đức Thánh Cha nói các Kitô hữu được mời gọi để đưa ra các “chứng tá đơn giản như một thói quen” cho Chúa Giêsu. Ngài gọi đó là “sự thánh thiện hàng ngày”.
Chứng tá Kitô giáo, theo Đức Thánh Cha, có thể có nghĩa là tử vì đạo theo gương Chúa Giêsu. Nhưng cũng có một con đường khác hướng đến Chúa Kitô là sống thánh thiện trong những hành động thường nhật của chúng ta, khi chúng ta thức dậy, làm việc và đi ngủ.
“Nó có vẻ như một điều thật quá nhỏ nhặt, nhưng phép lạ được thực hiện thông qua những việc nhỏ như thế.”
Muối và ánh sáng cho người khác
Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chứng tá Kitô phải được xây dựng trên sự khiêm tốn, chúng ta phải là muối và ánh sáng đơn sơ cho những người khác.
“Muối cho người khác; ánh sáng cho người khác: Bởi vì muối không cung cấp hương vị cho chính nó nhưng phục vụ người khác. Ánh sáng không tự chiếu sáng chính mình mà phục vụ người khác… Các siêu thị bán muối với số lượng nhỏ, không bán từng tấn. Và muối không tự quảng bá chímh mình vì nó không tự phục vụ. Nó tồn tại để phục vụ người khác, bằng cách bảo tồn mọi thứ và tạo ra hương vị. Đây là chứng tá đơn giản.”
Chúng ta không có công đức cá nhân
Đức Thánh Cha cho biết chứng tá Kitô hàng ngày có nghĩa là trở nên ánh sáng cho người khác, “để giúp họ trong những giờ khắc đen tối nhất của họ.”
“Chúa phán: ‘Anh em hãy là muối; là ánh sáng. ’... Nhưng anh em làm như thế để người khác thấy và tôn vinh Thiên Chúa. Anh chị em thậm chí sẽ không nhận được bất kỳ điều gì. Khi chúng ta ăn, chúng ta không khen muối. Không, chúng ta nói mì ống hoặc thịt quá ngon ... Khi chúng ta đi ngủ vào ban đêm, chúng ta không nói ánh sáng là tốt. Chúng ta lờ ánh sáng đi, nhưng chúng ta sống bằng ánh sáng. Kitô hữu phải trở thành các chứng nhân ẩn danh.”
Sự thánh thiện hàng ngày
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo chúng ta chống lại cách hành động như người Pharisêu được nêu trong bài Tin Mừng, là người cảm tạ Chúa vì sự thánh thiện của người ấy. Ngài nói: “Chúng ta không phải là tác giả của những giá trị riêng mình.”
“Sự thánh thiện hàng ngày” có nghĩa là trở thành muối và ánh sáng cho người khác để vinh quang của Chúa, chứ không phải của mình, được tỏ hiện..
Source: Vatican NewsPope at Mass: ‘Christian witness is being salt, light’
Thánh lễ tại Santa Marta 14/6: Chúa Giêsu ao ước sự hòa giải
Lệ Hằng, F.M.A.
02:26 15/06/2018
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “hòa giải triệt để” với nhau. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 14 tháng Sáu tại nhà nguyện Santa Marta.
Trí khôn con người
Phân tích bài Tin Mừng trong ngày (Mt 5: 20-26), Đức Thánh Cha nhận xét rằng Chúa Giêsu đã sử dụng trí khôn con người trong việc tranh luận với các môn đệ. Để đưa họ về với giáo huấn của ngài liên quan đến các mối quan hệ yêu thương, Chúa sử dụng một “ví dụ trong cuộc sống hàng ngày ... đó là vấn đề lăng mạ”.
Khi ấy Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng
“Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”
Tội giết người
Đức Thánh Cha Phanxicô mỉm cười khi nói rằng danh sách những lời lăng mạ mà Chúa Giêsu trích dẫn là kinh điển, đời nào cũng có những kẻ lăng mạ người khác như thế. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những lời lăng mạ “mở ra một con đường dẫn đến giết người”. Chúng ta loại bỏ những người khác thông qua những lời lăng mạ. Chúng ta cướp mất đi sự tôn trọng họ đáng được hưởng. Khi xúc phạm người khác, chúng ta bịt miệng họ, chúng ta cướp đi tiếng nói của họ.
Lời lăng mạ dẫn đến ghen tỵ
Những lời lăng mạ rất nguy hiểm bởi vì theo Sách Khôn Ngoan chúng dẫn đến ghen tỵ, là cách ma quỷ bước vào thế giới. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng. “Khi một người khác làm điều gì đó tôi không thích ... hoặc khi ai đó đe dọa tôi, ghen tị xô đẩy tôi xúc phạm họ”.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng thật tốt khi tự hỏi mình:
Hôm nay tôi có xúc phạm ai không? Khi nào tôi dùng đến những lời lăng mạ? Khi nào tôi đóng trái tim của mình với người khác qua sự xúc phạm? Tôi có thể thấy được vị cay đắng của sự ghen tỵ ở đó khiến cho tôi mong muốn hủy diệt người khác để tránh những sự cạnh tranh, và ganh ghét, và những thứ đại loại như vậy. Không dễ tránh xa những những lời lăng mạ người khác. Nhưng chúng ta hãy nghĩ xem thật là đẹp đến mức nào nếu chúng ta không bao giờ sỉ nhục người khác. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng này.
Chúa Giêsu bẻ gãy vòng lẩn quẩn này
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta dừng lại vòng lẩn quẩn này.
Khi anh chị em đi dâng Thánh Lễ và anh chị em nhận thức được rằng một trong những anh chị em của mình có điều gì đó không hài lòng với mình, hãy đi và hòa giải với họ và với chính mình. Chúa Giêsu là người triệt để. Hòa giải không giống như một cách cư xử tốt. Không, hòa giải phải là một thái độ triệt để, một thái độ cố gắng tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của chính mình. Từ xúc phạm đến hòa giải, từ ghen tị với tình bạn - đây là bài học mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta hôm nay..
Source: Vatican NewsPope Francis at Mass: ‘Jesus desires reconciliation'
Trí khôn con người
Phân tích bài Tin Mừng trong ngày (Mt 5: 20-26), Đức Thánh Cha nhận xét rằng Chúa Giêsu đã sử dụng trí khôn con người trong việc tranh luận với các môn đệ. Để đưa họ về với giáo huấn của ngài liên quan đến các mối quan hệ yêu thương, Chúa sử dụng một “ví dụ trong cuộc sống hàng ngày ... đó là vấn đề lăng mạ”.
Khi ấy Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng
“Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”
Tội giết người
Đức Thánh Cha Phanxicô mỉm cười khi nói rằng danh sách những lời lăng mạ mà Chúa Giêsu trích dẫn là kinh điển, đời nào cũng có những kẻ lăng mạ người khác như thế. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những lời lăng mạ “mở ra một con đường dẫn đến giết người”. Chúng ta loại bỏ những người khác thông qua những lời lăng mạ. Chúng ta cướp mất đi sự tôn trọng họ đáng được hưởng. Khi xúc phạm người khác, chúng ta bịt miệng họ, chúng ta cướp đi tiếng nói của họ.
Lời lăng mạ dẫn đến ghen tỵ
Những lời lăng mạ rất nguy hiểm bởi vì theo Sách Khôn Ngoan chúng dẫn đến ghen tỵ, là cách ma quỷ bước vào thế giới. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng. “Khi một người khác làm điều gì đó tôi không thích ... hoặc khi ai đó đe dọa tôi, ghen tị xô đẩy tôi xúc phạm họ”.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng thật tốt khi tự hỏi mình:
Hôm nay tôi có xúc phạm ai không? Khi nào tôi dùng đến những lời lăng mạ? Khi nào tôi đóng trái tim của mình với người khác qua sự xúc phạm? Tôi có thể thấy được vị cay đắng của sự ghen tỵ ở đó khiến cho tôi mong muốn hủy diệt người khác để tránh những sự cạnh tranh, và ganh ghét, và những thứ đại loại như vậy. Không dễ tránh xa những những lời lăng mạ người khác. Nhưng chúng ta hãy nghĩ xem thật là đẹp đến mức nào nếu chúng ta không bao giờ sỉ nhục người khác. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng này.
Chúa Giêsu bẻ gãy vòng lẩn quẩn này
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta dừng lại vòng lẩn quẩn này.
Khi anh chị em đi dâng Thánh Lễ và anh chị em nhận thức được rằng một trong những anh chị em của mình có điều gì đó không hài lòng với mình, hãy đi và hòa giải với họ và với chính mình. Chúa Giêsu là người triệt để. Hòa giải không giống như một cách cư xử tốt. Không, hòa giải phải là một thái độ triệt để, một thái độ cố gắng tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của chính mình. Từ xúc phạm đến hòa giải, từ ghen tị với tình bạn - đây là bài học mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta hôm nay..
Source: Vatican NewsPope Francis at Mass: ‘Jesus desires reconciliation'
Nhà thần học nói với các bậc phu huynh: cho phép trẻ em bỏ Thánh Lễ thì giống như cho phép trẻ em không phải đánh răng vậy.
Giuse Thẩm Nguyễn
14:06 15/06/2018
Nhà thần học Irish là cha Oliver Treanor nói với các phụ huynh Công Giáo rằng họ phải bắt buộc con em của mình tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật dù ngay cả khi các em không muốn, giống như bắt các em phải đánh răng và tắm rửa mỗi ngày vậy.
Cha Oliver đã nói với các phụ huynh tập trung tại giáo phận Shrewsbury rằng điều quan trọng là truyền đức tin của họ cho con em. Theo như trang nhà của giáo phận, ngài nói rằng không những phụ huynh phải làm gương mẫu cho con em của mình, mà họ cũng cần giải thích về các việc làm của họ cũng như lý do họ cần tham dự Thánh Lễ.
Cha Oliver nói “Trẻ em vào cái tuổi đầu đời năm, sáu hay bẩy tuổi, cần học biết mối dây liên hệ với Đức Kitô, và nếu các em không đạt được điều đó thì sẽ khó khăn nhiều về sau này.”
Bởi vì lý do này, phụ huynh phải bảo đảm cho con em mình tham dự Thánh Lễ và không cho phép các em tư quyết định muốn đi hay không.
Cha Treanor nói rằng nhiều bậc phụ huynh ngày nay không muốn bắt con em mình làm những điều mà chúng không muốn.
Cha hỏi tiếp“Vậy quý vị có bắt con em mình phải đánh răng không? Hay bắt con em của quý vị tắm gội khi chúng nô đùa toát mồ hôi vào cái tuổi thiếu niên không? Dĩ nhiên là bắt buộc rồi.
“Có nhiều điều mà quý vị không đặt câu hỏi, “Chúng ta không có một nhiệm vụ với Chúa để vượt thắng những cảm xúc của chúng ta sao? Hãy mang con em đến tham dự Thánh Lễ, nhưng trong một cách ôn tồn và trong một thái độ cương quyết là việc mà chúng ta không cần bàn thảo.”
Ngài cũng lưu ý các bậc phụ huynh về việc nuôi dạy con em chủ yếu là qua những gương sáng và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giải thích về giáo lý Công Giáo cho chúng.
“Gương sáng là chủ yếu, nhưng đôi khi cũng cần lấy lời để giải thích ý nghĩa của việc làm. “Đó chính là cách Chúa Giê-su luôn áp dụng. Ngài giải thích mọi việc ngài đã làm.”
Cha Treanor đề cao tầm quan trọng của việc đặt ra một gương tốt cho trẻ em kết hợp với việc bảo đảm các em hiểu được giáo huấn của Giáo Hội. Điều này có thể đạt được bằng cách mang các em tới Thánh Lễ.
Source: Catholic Herald Allowing children to skip Mass is like letting them not brush their teeth, theologian tells parents
Cha Oliver đã nói với các phụ huynh tập trung tại giáo phận Shrewsbury rằng điều quan trọng là truyền đức tin của họ cho con em. Theo như trang nhà của giáo phận, ngài nói rằng không những phụ huynh phải làm gương mẫu cho con em của mình, mà họ cũng cần giải thích về các việc làm của họ cũng như lý do họ cần tham dự Thánh Lễ.
Cha Oliver nói “Trẻ em vào cái tuổi đầu đời năm, sáu hay bẩy tuổi, cần học biết mối dây liên hệ với Đức Kitô, và nếu các em không đạt được điều đó thì sẽ khó khăn nhiều về sau này.”
Bởi vì lý do này, phụ huynh phải bảo đảm cho con em mình tham dự Thánh Lễ và không cho phép các em tư quyết định muốn đi hay không.
Cha Treanor nói rằng nhiều bậc phụ huynh ngày nay không muốn bắt con em mình làm những điều mà chúng không muốn.
Cha hỏi tiếp“Vậy quý vị có bắt con em mình phải đánh răng không? Hay bắt con em của quý vị tắm gội khi chúng nô đùa toát mồ hôi vào cái tuổi thiếu niên không? Dĩ nhiên là bắt buộc rồi.
“Có nhiều điều mà quý vị không đặt câu hỏi, “Chúng ta không có một nhiệm vụ với Chúa để vượt thắng những cảm xúc của chúng ta sao? Hãy mang con em đến tham dự Thánh Lễ, nhưng trong một cách ôn tồn và trong một thái độ cương quyết là việc mà chúng ta không cần bàn thảo.”
Ngài cũng lưu ý các bậc phụ huynh về việc nuôi dạy con em chủ yếu là qua những gương sáng và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giải thích về giáo lý Công Giáo cho chúng.
“Gương sáng là chủ yếu, nhưng đôi khi cũng cần lấy lời để giải thích ý nghĩa của việc làm. “Đó chính là cách Chúa Giê-su luôn áp dụng. Ngài giải thích mọi việc ngài đã làm.”
Cha Treanor đề cao tầm quan trọng của việc đặt ra một gương tốt cho trẻ em kết hợp với việc bảo đảm các em hiểu được giáo huấn của Giáo Hội. Điều này có thể đạt được bằng cách mang các em tới Thánh Lễ.
Source: Catholic Herald Allowing children to skip Mass is like letting them not brush their teeth, theologian tells parents
Tòa Thánh đặt hy vọng lớn nơi cuộc gặp gỡ Trump-Un
Vũ Văn An
17:24 15/06/2018
Khỏi cần nói, Giáo Hội Nam Hàn hết sức hân hoan trước viễn ảnh cuộc gặp gỡ Trump-Un. Một ngày trước cuộc gặp gỡ này, Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, Giám Mục Daejeon, nói với AsiaNews rằng: “Dân tộc Triều Tiên, những người miền Nam và miền Bắc, muốn hòa bình, một nền hòa bình công chính. Các hạn chế và triển hạn phát xuất từ các cường quốc, là những nước vì quyền lợi riêng muốn giữ cho Bán Đảo Triều Tiên mãi chia rẽ. Nhưng ước vọng hòa bình của chúng tôi đã đẩy họ tới biến cố hôm nay, cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Trump và lãnh tụ Kim Jong-un”.
Đi bước trước
Tưởng cũng nên biết vị giám mục trên hiện là Chủ Tịch Ủy Ban Giám Mục lo về Xã Hội của Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn. Theo vị giám mục này, nỗi khốn khổ của dân tộc Triều Tiên chia rẽ là tại các cường quốc nhưng khi nói đến việc “đã đẩy họ tới biến cố hôm nay” thì Đức Cha lại chỉ nhắc đến Hoa Kỳ như 1 cường quốc, chứ “lãnh tụ” Un thì làm sao là một cường quốc cho được. Thành Thử trách nhiệm lớn nhất vẫn là Hoa Kỳ.
Ngược lại, Đức Cha Lazzaro You Heung Sik không ngần ngại cho hay: “Bắc Triều Tiên cũng đang diễn biến. Chúng ta đừng quên rằng Kim Jong-un đã làm hơn các vị tiền nhiệm của ông rất nhiều cho nhân dân của ông. Để tìm ra các giải pháp cho nỗi khốn cùng và thất bại của nền kinh tế, ông đã cấp đất cho nông dân, chỉ yêu cầu họ nộp 10% thu nhập cho Nhà Nước. Điều này, trên thực tế, đã tạo ra thị trường tự do, qua đó, người Bắc Triều Tiên lo liệu có được thực phẩm và trao đổi thặng dư lấy các hàng hóa khác. Cần phải nói rằng từ ngày Ông Kim Jong-un lên cầm quyền, ít có chết chóc hơn ở Bắc Triều Tiên và cũng ít mưu toan trốn ra nước ngoài nhiều hơn”.
Cảm tình dành cho Kim Jong-Un như trên phản ảnh điều được tờ Foreign Affairs xác nhận: “ngày nay, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy Kim được lòng dân ở Nam Hàn hơn Trump”. Nó cũng đã phản ảnh phần nào nhận định của sứ thần Tòa Thánh tại Nam Hàn. Thực vậy, Đức Tổng Giám Mục Alfred Xuereb, khi trả lời cuộc phỏng vấn của Vatican News, tỏ ý rất hy vọng ở cuộc gặp gỡ Trump-Un mà ngài cho là có tính “lịch sử thật sự”. Ngài nói: “Giáo Hội đầy hy vọng và tin tưởng”.
Ngài nói thêm: “chúng ta hy vọng vì khởi đầu này rất tích cực, rất tốt” và chúng ta đã chuyển từ những lời như “hỏa hào và cuồng nộ” (fire and fury) cũng như “hoàn toàn triệt phá Bắc Triều Tiên” qua những lời hòa giải nói tới hòa bình.
Những lời ngài trích dẫn là của Ông Trump. Không thấy ngài trích dẫn lời nào của Kim Jong-Un cả. Rõ ràng ám chỉ trách nhiệm lớn là của Hoa Kỳ.
Và đó hình như cũng là lập trường của Kim Jong-Un. Thực vậy, theo Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, điều Ông Un đòi trước nhất là an ninh cho cá nhân ông và an ninh cùng viện trợ kinh tế cho dân chúng ông. Trong khi Hoa Kỳ muốn ông từ bỏ vũ khí hạch nhân trước đã; trong tương lai mới có việc viện trợ kinh tế. Dung hoà, Un muốn hai việc tiến song hành với nhau. Đức Cha nhận định: “Tôi hy vọng rằng ở Tân Gia Ba, Hoa Kỳ sẽ chấp nhận giải pháp cuối cùng”.
Dưới góc độ ngắn hạn và thực tiễn, hình như Hoa Kỳ đã đáp ứng quá cả lòng mong ước của Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, khi đồng ý bảo toàn an ninh cho chế độ của ông Un: ngưng các cuộc thao diễn quân sự hỗn hợp hàng năm của lực lượng quân sự Hoa Kỳ và Nam Hàn trên bán đảo Triều Tiên, một điều bị Bắc Hàn nại ra trước đây để đe dọa hủy bỏ cuộc họp thượng đỉnh, mà cụ thể chưa thấy một nhượng bộ nào tức khắc từ phía Bắc Triều Tiên.
Dù Ông Trump bảo rằng hủy bỏ điều ông gọi là “trò chơi chiến tranh” tức các cuộc thao diễn quân sự hàng năm vì nó vừa rất tốn kém mà còn có tính khiêu khích, nhưng nhượng bộ này quả là bước trước của thiện chí vượt bực từ một chính trị gia trước đây chưa đầy nửa năm đưa ra những lời đe dọa được Đức Sứ Thần Tòa Thánh Xuereb nhắc lại! Mà có phải Ông Trump là tay mơ thương lượng đâu, ông ta vốn tự hào là vua thương lượng mà.
Thực ra, trước khi gặp Ông Trump, Ông Un cũng đã đi bước trước, bước mà chính Ông Trump cũng rất ngạc nhiên, là thả 3 người bị coi là gián điệp Mỹ, dù Ông Trump không công khai yêu cầu! Có thể để chứng minh mình không thua đi bước trước, mà lần này, ông đi một bước trước hết sức ngoạn mục. Nay là lúc Ông Un phải đáp lễ.
Khai phá hay lầm lỗi
Tạp chí Foreign Affairs dường như không đồng ý với nhận định trên, nên ký giả Daniel R. Russel của họ mới cho chạy hàng tít lớn: A Historic Breakthrough or a Historic Blunder in Singapore? Kim Jong Un May Have Outwitted Trump at the Summit (khai phá lịch sử hay lầm lỗi lịch sử ở Tân Gia Ba? Kim Jong Un có thể đã qua mặt Trump tại Cuộc Họp Thượng Đỉnh).
Trước nhất, theo ký giả trên, “không một tổng thống Hoa Kỳ nào trước đây cho là khôn ngoan khi dấn thân vào một cuộc họp thượng đỉnh mà lại ít chuẩn bị như thế hay trong những điều kiện thuận lợi như thế đối với phía bên kia, huống chi là đơn phương hứa hẹn gián đoạn các thao diễn quân sự phòng ngự hỗn hợp Hoa Kỳ - Nam Hàn trên Bán Đảo Triều Tiên”. Trong khi ấy, Kim có lý khi huênh hoang rằng ông ta đã đạt được điều cha ông và ông nội ông chỉ mới dám mơ ước mà thôi: đạt được mục tiêu song sinh là xây dựng khả năng vũ khí hạch nhân có giá trị và sau đó, được quốc tế nhìn nhận như một người cùng lứa “rất đáng kính” như nhà lãnh đạo thế giới tự do vừa khẳng định.
Ký giả này cũng cho rằng, so với các thỏa thuận trước đây, tuyên bố chung lần này là một dịch bản “đã pha loãng của nhiều văn kiện đầy hoài bão trong quá khứ từng được Bắc Hàn và các đối tác thương thuyết của nó đưa ra”.
Nó yếu ớt hơn các thỏa thuận Liên Triều, như Tuyên Bố Chung năm 1992 về Phi Hạch Nhân Hóa Bán Đảo Triều Tiên. Nó loãng hơn so với các cam kết trong các thỏa hiệp quốc tế như Khuôn Khổ Thỏa Thuận năm 1994 và tuyên bố chung năm 2005 sau vòng thứ tư của các cuộc thương thảo 6 bên. Vì nó để Bắc Triều Tiên lách khỏi cam kết trước đây của nó là “bãi bỏ mọi vũ khí hạch nhân và chương trình hạch nhân hiện hữu và trở về, trong một thời hạn sớm sủa, với Hiệp Ước Không Lan Tràn Vũ Khí Hạch Nhân”. Nó chỉ đưa ra lời hứa hẹn mơ hồ “cố gắng hướng tới việc hoàn toàn phi hạch nhân hóa”.
Foreign Affairs nhận định rằng: “Khó có thể suy diễn đây là một tiến bộ. Tuyên Bố Chung Tân Gia Ba im lặng một cách đáng lo ngại về hoả tiễn liên lục địa, huống chi vũ khí hóa học, chiến tranh mạng, lan tràn vũ khí hạch nhân, và (không ngạc nhiên chi) nhân quyền”.
Vả lại, tờ này cho rằng “ngay một tuyên bố cứng rắn hơn cũng khó có thể dùng làm định mức đáng tin để đo tiến bộ vì thành tích da báo của Bắc Triều Tiên trong việc tuân thủ và theo dõi”.
Thành thử, theo tờ báo này, giờ đây, dựa vào các mục tiêu mỗi bên mang theo khi đến bàn thượng đỉnh, đâu là tiến bộ của mỗi bên?
Các ưu tiên khẩn thiết nhất của Bắc Triều Tiên là nới lỏng gọng kìm cấm vận và giảm thiểu nguy cơ một cuộc tấn công phủ đầu hay một cuộc tấn công “đổ máu mũi” mà không buộc phải từ bỏ “lưỡi gươm qúy”, như lời Kim Jong Un nói, tức các vũ khí hạch nhân. Các ưu tiên khác là bao gồm và nhận được trợ giúp kinh tế và đầu tư theo các điều kiện nhất quán với việc kiểm soát và ổn định của chế độ. Bình Nhưỡng cũng hy vọng sẽ giảm nhẹ áp lực đối với vấn đề hạch nhân và lời phê phán thành tích nhân quyền của nó bằng việc tìm ra cách đập vụn tình liên đới giữa năm tay chơi chính: Trung Hoa, Nhật Bản, Nga, Nam Hàn và Hoa Kỳ. Kim tìm cách phân hóa họ và củng cố phe “thoả hiệp” ở Nam Hàn, một phe vốn coi liên minh giữa Nam Hàn và Hoa Kỳ là một trở ngại cho việc Nam Bắc Triều Tiên xích lại gần nhau.
Nếu thế, thì thượng đỉnh Tân Gia Ba quả là sức bật thành công của họ Kim.
Còn Hoa Kỳ. Trump cho rằng mình có đến 300 cấm vận mạnh mẽ trong túi quần, sẵn sàng triển khai nếu Bắc Triều Tiên chơi xấu. Nhưng thực tế cho thấy sau một thập niên gây áp lực cho nước này, Hoa Kỳ đã bắt họ phải chịu gần như mọi cấm vận nặng nề nhất mà Hoa Thịnh Đốn có thể đơn phương áp đặt. Trong khi ấy, cơ may để Trung Hoa và Nga chịu đồng thuận với các điều khoản cấm vận mạnh mẽ mới của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gần như số không. Mặt khác, áp lực có thực chất của cấm vận hệ ở việc nghiêm chỉnh thực thi của các nước Bắc Hàn buôn bán với, nhất là Trung Hoa. Cuộc tiếp đón thảm đỏ gần đây của Bắc Kinh dành cho Kim Jong-Un 2 lần trong cùng một tháng, sau nhiều năm ra xa lạ, và các tường trình cho thấy việc buôn bán đã trở lại ở khu biên giới rõ ràng chứng tỏ rằng thời yêu thương cho roi cho vọt của Trung Hoa đã hết rồi. Và cũng hết luôn sức mạnh của bất cứ cấm vận nào.
Nhiều người cho rằng việc Trump nói tới đánh cho chẩy “máu mũi” đã khiến Kim phải dừng lại. Nhưng theo ký giả này, khó mà chứng nghiệm được. Nhưng nếu diễn trình gặp trở ngại, Trump khó có thể khởi động lại đe dọa này khi Kim thực tế đã chiếm được cảm tình của nhiều người. Nói đâu xa, ngay như Nam Hàn, Trump cũng khó có thể mở một cuộc tấn công vào Bắc Hàn nếu không có sự ủng hộ và hỗ trợ của Nam Hàn, điều mà nay, hình như càng ngày càng mờ nhạt đi. Như trên đã nói, Kim hiện được lòng dân Nam Hàn hơn cả Trump.
Ký giả này cũng cho rằng việc thí quân để mở đường cho tướng tại thượng đỉnh rất có lợi cho Kim ở một điểm khác: Bắc Hàn đã thành công quá ước mơ khi đóng lại các cuộc thao diễn quân sự phòng ngự hỗn hợp Mỹ Nam Hàn được Trump coi là mắc mỏ. Trump bỏ con bài tẩy này mà không đòi Bắc Triều Tiên ngưng các cuộc thao diễn quy ước tương ứng của họ, hống chi là hoàn toàn ngưng các chương trình hạch nhân và hỏa tiễn của họ.
Tờ Foreign Affairs cho rằng một trong các mục tiêu dài hạn của họ là kéo Hoa Kỳ vào các cuộc thương thảo hiệp ước hòa bình một phần là để kết thúc liên minh quân sự Mỹ Nam Hàn. Nay có lẽ họ Kim không cần theo đuổi mục tiêu này nữa khi Trump hứa sẽ “đem binh sĩ của chúng ta ra khỏi”.
Tóm lại, theo tờ báo này, đây là thượng đỉnh đầu tiên tốt đẹp đối với Bắc Triều Tiên. Còn với Hoa Kỳ, theo Trump, ưu tiên là phi hạch nhân hóa. Nhưng ưu tiên này hình như có những dấu hiệu chống chọi nhau. Với cố vấn an ninh quốc gia, nó phải có mô hình sẵn sàng đầy đủ một lần trong hộp. Với bộ trưởng ngoại giao nó phải là mô hình CVID (Complete, Verifiable, Irreversible Denuclearization=phi hạch nhân hóa hoàn toàn, kiểm chứng được, bất phản hồi), nhưng Tổng Thống Trump nói với họ Kim: “ngài cứ từ từ phi hạch nhân hóa”.
Foreign Affairs có cảm tưởng Ông Trump đặt cày trước con trâu bằng cách như Robert Gates, cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ, nói: chất nhượng bộ lên trước để đổi lấy các lời hứa đơn thuần. Mọi sự đều tùy thuộc điều tờ này gọi là kiểm chứng (verification): liệu Bắc Hàn có chịu kê khai trọn vẹn kho và cơ sở hạch nhân của họ hay không và có chịu để quốc tế kiểm chứng việc họ “hoàn toàn phi hạch nhân hóa” hay không. Bắc Triều Tiên luôn tránh né chữ này, dù bộ trưởng Hoa Kỳ quả quyết: họ biết rõ phải có “kiểm chứng có chiều sâu” (in-depth verification).
Chính Tổng Thống Trump cho hay: cả việc ngưng thao diễn cũng có thể được hủy bỏ nếu Bắc Triều Tiên thiếu thiện chí.
Người Công Giáo vì thế một phần hy vọng ở thượng đỉnh Tân Gia Ba, nhưng phần lớn niềm hy vọng của họ đặt ở chỗ khác. Cả Đức Tổng Giám Mục Hán Thành lẫn Đức Tổng Giám Mục Sứ Thần đều nhấn mạnh đến tuần chín ngày mà Giáo Hội Đại Hàn sẽ thực hành cuối tháng này để cầu cho viễn ảnh hoà giải Triều Tiên.
Đi bước trước
Tưởng cũng nên biết vị giám mục trên hiện là Chủ Tịch Ủy Ban Giám Mục lo về Xã Hội của Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn. Theo vị giám mục này, nỗi khốn khổ của dân tộc Triều Tiên chia rẽ là tại các cường quốc nhưng khi nói đến việc “đã đẩy họ tới biến cố hôm nay” thì Đức Cha lại chỉ nhắc đến Hoa Kỳ như 1 cường quốc, chứ “lãnh tụ” Un thì làm sao là một cường quốc cho được. Thành Thử trách nhiệm lớn nhất vẫn là Hoa Kỳ.
Ngược lại, Đức Cha Lazzaro You Heung Sik không ngần ngại cho hay: “Bắc Triều Tiên cũng đang diễn biến. Chúng ta đừng quên rằng Kim Jong-un đã làm hơn các vị tiền nhiệm của ông rất nhiều cho nhân dân của ông. Để tìm ra các giải pháp cho nỗi khốn cùng và thất bại của nền kinh tế, ông đã cấp đất cho nông dân, chỉ yêu cầu họ nộp 10% thu nhập cho Nhà Nước. Điều này, trên thực tế, đã tạo ra thị trường tự do, qua đó, người Bắc Triều Tiên lo liệu có được thực phẩm và trao đổi thặng dư lấy các hàng hóa khác. Cần phải nói rằng từ ngày Ông Kim Jong-un lên cầm quyền, ít có chết chóc hơn ở Bắc Triều Tiên và cũng ít mưu toan trốn ra nước ngoài nhiều hơn”.
Cảm tình dành cho Kim Jong-Un như trên phản ảnh điều được tờ Foreign Affairs xác nhận: “ngày nay, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy Kim được lòng dân ở Nam Hàn hơn Trump”. Nó cũng đã phản ảnh phần nào nhận định của sứ thần Tòa Thánh tại Nam Hàn. Thực vậy, Đức Tổng Giám Mục Alfred Xuereb, khi trả lời cuộc phỏng vấn của Vatican News, tỏ ý rất hy vọng ở cuộc gặp gỡ Trump-Un mà ngài cho là có tính “lịch sử thật sự”. Ngài nói: “Giáo Hội đầy hy vọng và tin tưởng”.
Ngài nói thêm: “chúng ta hy vọng vì khởi đầu này rất tích cực, rất tốt” và chúng ta đã chuyển từ những lời như “hỏa hào và cuồng nộ” (fire and fury) cũng như “hoàn toàn triệt phá Bắc Triều Tiên” qua những lời hòa giải nói tới hòa bình.
Những lời ngài trích dẫn là của Ông Trump. Không thấy ngài trích dẫn lời nào của Kim Jong-Un cả. Rõ ràng ám chỉ trách nhiệm lớn là của Hoa Kỳ.
Và đó hình như cũng là lập trường của Kim Jong-Un. Thực vậy, theo Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, điều Ông Un đòi trước nhất là an ninh cho cá nhân ông và an ninh cùng viện trợ kinh tế cho dân chúng ông. Trong khi Hoa Kỳ muốn ông từ bỏ vũ khí hạch nhân trước đã; trong tương lai mới có việc viện trợ kinh tế. Dung hoà, Un muốn hai việc tiến song hành với nhau. Đức Cha nhận định: “Tôi hy vọng rằng ở Tân Gia Ba, Hoa Kỳ sẽ chấp nhận giải pháp cuối cùng”.
Dưới góc độ ngắn hạn và thực tiễn, hình như Hoa Kỳ đã đáp ứng quá cả lòng mong ước của Đức Cha Lazzaro You Heung Sik, khi đồng ý bảo toàn an ninh cho chế độ của ông Un: ngưng các cuộc thao diễn quân sự hỗn hợp hàng năm của lực lượng quân sự Hoa Kỳ và Nam Hàn trên bán đảo Triều Tiên, một điều bị Bắc Hàn nại ra trước đây để đe dọa hủy bỏ cuộc họp thượng đỉnh, mà cụ thể chưa thấy một nhượng bộ nào tức khắc từ phía Bắc Triều Tiên.
Dù Ông Trump bảo rằng hủy bỏ điều ông gọi là “trò chơi chiến tranh” tức các cuộc thao diễn quân sự hàng năm vì nó vừa rất tốn kém mà còn có tính khiêu khích, nhưng nhượng bộ này quả là bước trước của thiện chí vượt bực từ một chính trị gia trước đây chưa đầy nửa năm đưa ra những lời đe dọa được Đức Sứ Thần Tòa Thánh Xuereb nhắc lại! Mà có phải Ông Trump là tay mơ thương lượng đâu, ông ta vốn tự hào là vua thương lượng mà.
Thực ra, trước khi gặp Ông Trump, Ông Un cũng đã đi bước trước, bước mà chính Ông Trump cũng rất ngạc nhiên, là thả 3 người bị coi là gián điệp Mỹ, dù Ông Trump không công khai yêu cầu! Có thể để chứng minh mình không thua đi bước trước, mà lần này, ông đi một bước trước hết sức ngoạn mục. Nay là lúc Ông Un phải đáp lễ.
Khai phá hay lầm lỗi
Tạp chí Foreign Affairs dường như không đồng ý với nhận định trên, nên ký giả Daniel R. Russel của họ mới cho chạy hàng tít lớn: A Historic Breakthrough or a Historic Blunder in Singapore? Kim Jong Un May Have Outwitted Trump at the Summit (khai phá lịch sử hay lầm lỗi lịch sử ở Tân Gia Ba? Kim Jong Un có thể đã qua mặt Trump tại Cuộc Họp Thượng Đỉnh).
Trước nhất, theo ký giả trên, “không một tổng thống Hoa Kỳ nào trước đây cho là khôn ngoan khi dấn thân vào một cuộc họp thượng đỉnh mà lại ít chuẩn bị như thế hay trong những điều kiện thuận lợi như thế đối với phía bên kia, huống chi là đơn phương hứa hẹn gián đoạn các thao diễn quân sự phòng ngự hỗn hợp Hoa Kỳ - Nam Hàn trên Bán Đảo Triều Tiên”. Trong khi ấy, Kim có lý khi huênh hoang rằng ông ta đã đạt được điều cha ông và ông nội ông chỉ mới dám mơ ước mà thôi: đạt được mục tiêu song sinh là xây dựng khả năng vũ khí hạch nhân có giá trị và sau đó, được quốc tế nhìn nhận như một người cùng lứa “rất đáng kính” như nhà lãnh đạo thế giới tự do vừa khẳng định.
Ký giả này cũng cho rằng, so với các thỏa thuận trước đây, tuyên bố chung lần này là một dịch bản “đã pha loãng của nhiều văn kiện đầy hoài bão trong quá khứ từng được Bắc Hàn và các đối tác thương thuyết của nó đưa ra”.
Nó yếu ớt hơn các thỏa thuận Liên Triều, như Tuyên Bố Chung năm 1992 về Phi Hạch Nhân Hóa Bán Đảo Triều Tiên. Nó loãng hơn so với các cam kết trong các thỏa hiệp quốc tế như Khuôn Khổ Thỏa Thuận năm 1994 và tuyên bố chung năm 2005 sau vòng thứ tư của các cuộc thương thảo 6 bên. Vì nó để Bắc Triều Tiên lách khỏi cam kết trước đây của nó là “bãi bỏ mọi vũ khí hạch nhân và chương trình hạch nhân hiện hữu và trở về, trong một thời hạn sớm sủa, với Hiệp Ước Không Lan Tràn Vũ Khí Hạch Nhân”. Nó chỉ đưa ra lời hứa hẹn mơ hồ “cố gắng hướng tới việc hoàn toàn phi hạch nhân hóa”.
Foreign Affairs nhận định rằng: “Khó có thể suy diễn đây là một tiến bộ. Tuyên Bố Chung Tân Gia Ba im lặng một cách đáng lo ngại về hoả tiễn liên lục địa, huống chi vũ khí hóa học, chiến tranh mạng, lan tràn vũ khí hạch nhân, và (không ngạc nhiên chi) nhân quyền”.
Vả lại, tờ này cho rằng “ngay một tuyên bố cứng rắn hơn cũng khó có thể dùng làm định mức đáng tin để đo tiến bộ vì thành tích da báo của Bắc Triều Tiên trong việc tuân thủ và theo dõi”.
Thành thử, theo tờ báo này, giờ đây, dựa vào các mục tiêu mỗi bên mang theo khi đến bàn thượng đỉnh, đâu là tiến bộ của mỗi bên?
Các ưu tiên khẩn thiết nhất của Bắc Triều Tiên là nới lỏng gọng kìm cấm vận và giảm thiểu nguy cơ một cuộc tấn công phủ đầu hay một cuộc tấn công “đổ máu mũi” mà không buộc phải từ bỏ “lưỡi gươm qúy”, như lời Kim Jong Un nói, tức các vũ khí hạch nhân. Các ưu tiên khác là bao gồm và nhận được trợ giúp kinh tế và đầu tư theo các điều kiện nhất quán với việc kiểm soát và ổn định của chế độ. Bình Nhưỡng cũng hy vọng sẽ giảm nhẹ áp lực đối với vấn đề hạch nhân và lời phê phán thành tích nhân quyền của nó bằng việc tìm ra cách đập vụn tình liên đới giữa năm tay chơi chính: Trung Hoa, Nhật Bản, Nga, Nam Hàn và Hoa Kỳ. Kim tìm cách phân hóa họ và củng cố phe “thoả hiệp” ở Nam Hàn, một phe vốn coi liên minh giữa Nam Hàn và Hoa Kỳ là một trở ngại cho việc Nam Bắc Triều Tiên xích lại gần nhau.
Nếu thế, thì thượng đỉnh Tân Gia Ba quả là sức bật thành công của họ Kim.
Còn Hoa Kỳ. Trump cho rằng mình có đến 300 cấm vận mạnh mẽ trong túi quần, sẵn sàng triển khai nếu Bắc Triều Tiên chơi xấu. Nhưng thực tế cho thấy sau một thập niên gây áp lực cho nước này, Hoa Kỳ đã bắt họ phải chịu gần như mọi cấm vận nặng nề nhất mà Hoa Thịnh Đốn có thể đơn phương áp đặt. Trong khi ấy, cơ may để Trung Hoa và Nga chịu đồng thuận với các điều khoản cấm vận mạnh mẽ mới của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gần như số không. Mặt khác, áp lực có thực chất của cấm vận hệ ở việc nghiêm chỉnh thực thi của các nước Bắc Hàn buôn bán với, nhất là Trung Hoa. Cuộc tiếp đón thảm đỏ gần đây của Bắc Kinh dành cho Kim Jong-Un 2 lần trong cùng một tháng, sau nhiều năm ra xa lạ, và các tường trình cho thấy việc buôn bán đã trở lại ở khu biên giới rõ ràng chứng tỏ rằng thời yêu thương cho roi cho vọt của Trung Hoa đã hết rồi. Và cũng hết luôn sức mạnh của bất cứ cấm vận nào.
Nhiều người cho rằng việc Trump nói tới đánh cho chẩy “máu mũi” đã khiến Kim phải dừng lại. Nhưng theo ký giả này, khó mà chứng nghiệm được. Nhưng nếu diễn trình gặp trở ngại, Trump khó có thể khởi động lại đe dọa này khi Kim thực tế đã chiếm được cảm tình của nhiều người. Nói đâu xa, ngay như Nam Hàn, Trump cũng khó có thể mở một cuộc tấn công vào Bắc Hàn nếu không có sự ủng hộ và hỗ trợ của Nam Hàn, điều mà nay, hình như càng ngày càng mờ nhạt đi. Như trên đã nói, Kim hiện được lòng dân Nam Hàn hơn cả Trump.
Ký giả này cũng cho rằng việc thí quân để mở đường cho tướng tại thượng đỉnh rất có lợi cho Kim ở một điểm khác: Bắc Hàn đã thành công quá ước mơ khi đóng lại các cuộc thao diễn quân sự phòng ngự hỗn hợp Mỹ Nam Hàn được Trump coi là mắc mỏ. Trump bỏ con bài tẩy này mà không đòi Bắc Triều Tiên ngưng các cuộc thao diễn quy ước tương ứng của họ, hống chi là hoàn toàn ngưng các chương trình hạch nhân và hỏa tiễn của họ.
Tờ Foreign Affairs cho rằng một trong các mục tiêu dài hạn của họ là kéo Hoa Kỳ vào các cuộc thương thảo hiệp ước hòa bình một phần là để kết thúc liên minh quân sự Mỹ Nam Hàn. Nay có lẽ họ Kim không cần theo đuổi mục tiêu này nữa khi Trump hứa sẽ “đem binh sĩ của chúng ta ra khỏi”.
Tóm lại, theo tờ báo này, đây là thượng đỉnh đầu tiên tốt đẹp đối với Bắc Triều Tiên. Còn với Hoa Kỳ, theo Trump, ưu tiên là phi hạch nhân hóa. Nhưng ưu tiên này hình như có những dấu hiệu chống chọi nhau. Với cố vấn an ninh quốc gia, nó phải có mô hình sẵn sàng đầy đủ một lần trong hộp. Với bộ trưởng ngoại giao nó phải là mô hình CVID (Complete, Verifiable, Irreversible Denuclearization=phi hạch nhân hóa hoàn toàn, kiểm chứng được, bất phản hồi), nhưng Tổng Thống Trump nói với họ Kim: “ngài cứ từ từ phi hạch nhân hóa”.
Foreign Affairs có cảm tưởng Ông Trump đặt cày trước con trâu bằng cách như Robert Gates, cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ, nói: chất nhượng bộ lên trước để đổi lấy các lời hứa đơn thuần. Mọi sự đều tùy thuộc điều tờ này gọi là kiểm chứng (verification): liệu Bắc Hàn có chịu kê khai trọn vẹn kho và cơ sở hạch nhân của họ hay không và có chịu để quốc tế kiểm chứng việc họ “hoàn toàn phi hạch nhân hóa” hay không. Bắc Triều Tiên luôn tránh né chữ này, dù bộ trưởng Hoa Kỳ quả quyết: họ biết rõ phải có “kiểm chứng có chiều sâu” (in-depth verification).
Chính Tổng Thống Trump cho hay: cả việc ngưng thao diễn cũng có thể được hủy bỏ nếu Bắc Triều Tiên thiếu thiện chí.
Người Công Giáo vì thế một phần hy vọng ở thượng đỉnh Tân Gia Ba, nhưng phần lớn niềm hy vọng của họ đặt ở chỗ khác. Cả Đức Tổng Giám Mục Hán Thành lẫn Đức Tổng Giám Mục Sứ Thần đều nhấn mạnh đến tuần chín ngày mà Giáo Hội Đại Hàn sẽ thực hành cuối tháng này để cầu cho viễn ảnh hoà giải Triều Tiên.
Thánh lễ tại Santa Marta 15/6: Khai thác bóc lột phụ nữ là tội lỗi chống lại Thiên Chúa.
Lệ Hằng, F.M.A.
17:47 15/06/2018
Sáng thứ Sáu 15 tháng 6, tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra những suy tư của ngài dựa trên đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu, khi Chúa Kitô nói với đám đông dân chúng rằng: “ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” và “ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình”.
Bài suy niệm của ngài là một sự phản ánh về nhiều cách thế khác nhau mà những người phụ nữ đang bị khai thác và bóc lột trong xã hội ngày nay. Ngài than phiền về tình trạng nhiều phụ nữ bị lạm dụng, bỏ rơi và một số phụ nữ trẻ phải bán phẩm giá của mình để kiếm sống.
Chúa Giêsu thay đổi lịch sử
Đức Thánh Cha nhắc nhở cử tọa của ngài rằng phụ nữ là điều mà người nam còn thiếu để có thể là hình ảnh Thiên Chúa và giống với Thiên Chúa. Ngài giải thích Chúa Giêsu đã dùng những từ ngữ triệt để, dứt khoát và có tính chất “thay đổi lịch sử” như thế nào. Cho đến lúc đó, người phụ nữ chỉ được coi là công dân hạng hai trong xã hội, họ bị “nô lệ hóa”; và “thậm chí không được hưởng tự do hoàn toàn”.
Giáo huấn của Chúa Giêsu về phụ nữ thay đổi lịch sử. Quan điểm của nhân loại đối với phụ nữ trước Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu đã thay đổi. Chúa Giêsu mang lại phẩm giá cho phụ nữ và đặt họ ngang hàng với nam giới, bởi vì như lời đầu tiên của Ðấng Tạo Hóa cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, cả hai người nam nữ; không phải người nam trước rồi sau đó người phụ nữ thấp hơn một chút. Không! Cả hai! Và khi một người nam không có người nữ bên cạnh - dù như là một người mẹ, như một người chị, như một cô dâu, như một người bạn, hay như một người đồng nghiệp – thì người nam ấy tự chính mình không phải là hình ảnh của Thiên Chúa.
Ngày nay phụ nữ vẫn còn bị xem là những đồ giải trí trong xã hội chúng ta
Khi trình bày một cách đặc biệt về những từ ngữ trong Phúc Âm nói về những người đàn ông ham muốn phụ nữ, Đức Thánh Cha Phanxicô than thở về cách thức con người ngày nay đối xử với phụ nữ như các đối tượng của ham muốn tà dâm trên các phương tiện truyền thông; và những hình ảnh phụ nữ bị “làm nhục” hoặc “không mặc quần áo” thường được sử dụng để bán các sản phẩm.
Ngài chỉ ra rằng việc khai thác phụ nữ không xảy ra ở những nơi xa xôi. Nó xảy ở đây, chung quanh chúng ta, nơi chúng ta sống và ở nơi làm việc. Phụ nữ là đối tượng của “não trạng xài và quăng bỏ”, thậm chí không được coi là những con người.
Ðây là một tội chống lại Thiên Chúa Ðấng Tạo Hóa khi loại bỏ người phụ nữ, bởi vì không có phụ nữ, những người nam chúng ta, không thể là hình ảnh của Thiên Chúa. Có một sự tức giận và căm ghét chống lại người phụ nữ, một cơn giận dữ tệ hại. Ngay cả khi người ta không nói ra điều đó. .. Nhưng đã bao nhiêu lần các cô gái phải bán mình như một món đồ dùng rồi bỏ để tìm lấy một công việc? Ðã bao nhiêu lần? Có người nói: “Vâng, thưa cha, tôi biết điều này xảy ra ở một đất nước nào đó. ..” Không, chính ngay ở Rôma này. Không cần đi đâu xa.
Hãy nhìn quanh chúng ta để thấy sự khai thác bóc lột phụ nữ
Chuyển sang chủ đề bóc lột tình dục phụ nữ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu cử tọa cho biết họ thấy gì khi đi dạo vào ban đêm quanh một số khu vực của thành phố nơi có rất nhiều phụ nữ bao gồm nhiều phụ nữ di cư đang bị khai thác như trong một phiên chợ. Ngài chỉ ra rằng những người nam đến gần các phụ nữ này chào “Hello” với họ nhưng rồi lại hỏi tiếp họ đáng giá bao nhiêu và ru ngủ lương tâm mình rằng những phụ nữ ấy chỉ là gái điếm thôi mà.
Tất cả những điều này xảy ra ở đây, ở Roma này, cũng xảy ra tại mọi thành phố. Các phụ nữ, chúng ta có thể gọi họ là những phụ nữ vô danh, vì sự nhục nhã che phủ gương mặt của họ. Họ là các phụ nữ không biết cười và nhiều người trong họ không biết niềm vui được cho con bú, niềm vui được là một người mẹ. Nhưng ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, không cần đi đến những chỗ đó, cũng đã thấy cái tư tưởng tồi tệ loại bỏ phụ nữ, hay coi họ là “những con người thứ cấp”. Chúng ta phải suy tư kỹ về điều này. Khi làm điều này hay nói điều này, khi chấp nhận tư tưởng này, chúng ta khinh bỉ hình ảnh Thiên Chúa, Ðấng đã tạo nên người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nghĩ về việc buôn bán phụ nữ, khai thác và bóc lột phụ nữ. Người nữ bị chà đạp dưới chân chỉ vì họ là phụ nữ.
Đức Thánh Cha đã kết thúc bài giảng của ngài bằng cách nhấn mạnh rằng trong khi thi hành sứ vụ của Ngài trên dương thế, Chúa Giêsu đã gặp rất nhiều phụ nữ bị khinh bỉ, bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị loại bỏ; và với sự dịu dàng Người đã phục hồi phẩm giá của họ. Chúa Giêsu có một người mẹ và “nhiều bạn nữ theo Người để giúp Người trong sứ vụ của mình” và nâng đỡ cho Người.
Source: Vatican News Pope at Mass: exploiting women is a sin against God
Bài suy niệm của ngài là một sự phản ánh về nhiều cách thế khác nhau mà những người phụ nữ đang bị khai thác và bóc lột trong xã hội ngày nay. Ngài than phiền về tình trạng nhiều phụ nữ bị lạm dụng, bỏ rơi và một số phụ nữ trẻ phải bán phẩm giá của mình để kiếm sống.
Chúa Giêsu thay đổi lịch sử
Đức Thánh Cha nhắc nhở cử tọa của ngài rằng phụ nữ là điều mà người nam còn thiếu để có thể là hình ảnh Thiên Chúa và giống với Thiên Chúa. Ngài giải thích Chúa Giêsu đã dùng những từ ngữ triệt để, dứt khoát và có tính chất “thay đổi lịch sử” như thế nào. Cho đến lúc đó, người phụ nữ chỉ được coi là công dân hạng hai trong xã hội, họ bị “nô lệ hóa”; và “thậm chí không được hưởng tự do hoàn toàn”.
Giáo huấn của Chúa Giêsu về phụ nữ thay đổi lịch sử. Quan điểm của nhân loại đối với phụ nữ trước Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu đã thay đổi. Chúa Giêsu mang lại phẩm giá cho phụ nữ và đặt họ ngang hàng với nam giới, bởi vì như lời đầu tiên của Ðấng Tạo Hóa cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, cả hai người nam nữ; không phải người nam trước rồi sau đó người phụ nữ thấp hơn một chút. Không! Cả hai! Và khi một người nam không có người nữ bên cạnh - dù như là một người mẹ, như một người chị, như một cô dâu, như một người bạn, hay như một người đồng nghiệp – thì người nam ấy tự chính mình không phải là hình ảnh của Thiên Chúa.
Ngày nay phụ nữ vẫn còn bị xem là những đồ giải trí trong xã hội chúng ta
Khi trình bày một cách đặc biệt về những từ ngữ trong Phúc Âm nói về những người đàn ông ham muốn phụ nữ, Đức Thánh Cha Phanxicô than thở về cách thức con người ngày nay đối xử với phụ nữ như các đối tượng của ham muốn tà dâm trên các phương tiện truyền thông; và những hình ảnh phụ nữ bị “làm nhục” hoặc “không mặc quần áo” thường được sử dụng để bán các sản phẩm.
Ngài chỉ ra rằng việc khai thác phụ nữ không xảy ra ở những nơi xa xôi. Nó xảy ở đây, chung quanh chúng ta, nơi chúng ta sống và ở nơi làm việc. Phụ nữ là đối tượng của “não trạng xài và quăng bỏ”, thậm chí không được coi là những con người.
Ðây là một tội chống lại Thiên Chúa Ðấng Tạo Hóa khi loại bỏ người phụ nữ, bởi vì không có phụ nữ, những người nam chúng ta, không thể là hình ảnh của Thiên Chúa. Có một sự tức giận và căm ghét chống lại người phụ nữ, một cơn giận dữ tệ hại. Ngay cả khi người ta không nói ra điều đó. .. Nhưng đã bao nhiêu lần các cô gái phải bán mình như một món đồ dùng rồi bỏ để tìm lấy một công việc? Ðã bao nhiêu lần? Có người nói: “Vâng, thưa cha, tôi biết điều này xảy ra ở một đất nước nào đó. ..” Không, chính ngay ở Rôma này. Không cần đi đâu xa.
Hãy nhìn quanh chúng ta để thấy sự khai thác bóc lột phụ nữ
Chuyển sang chủ đề bóc lột tình dục phụ nữ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu cử tọa cho biết họ thấy gì khi đi dạo vào ban đêm quanh một số khu vực của thành phố nơi có rất nhiều phụ nữ bao gồm nhiều phụ nữ di cư đang bị khai thác như trong một phiên chợ. Ngài chỉ ra rằng những người nam đến gần các phụ nữ này chào “Hello” với họ nhưng rồi lại hỏi tiếp họ đáng giá bao nhiêu và ru ngủ lương tâm mình rằng những phụ nữ ấy chỉ là gái điếm thôi mà.
Tất cả những điều này xảy ra ở đây, ở Roma này, cũng xảy ra tại mọi thành phố. Các phụ nữ, chúng ta có thể gọi họ là những phụ nữ vô danh, vì sự nhục nhã che phủ gương mặt của họ. Họ là các phụ nữ không biết cười và nhiều người trong họ không biết niềm vui được cho con bú, niềm vui được là một người mẹ. Nhưng ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, không cần đi đến những chỗ đó, cũng đã thấy cái tư tưởng tồi tệ loại bỏ phụ nữ, hay coi họ là “những con người thứ cấp”. Chúng ta phải suy tư kỹ về điều này. Khi làm điều này hay nói điều này, khi chấp nhận tư tưởng này, chúng ta khinh bỉ hình ảnh Thiên Chúa, Ðấng đã tạo nên người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nghĩ về việc buôn bán phụ nữ, khai thác và bóc lột phụ nữ. Người nữ bị chà đạp dưới chân chỉ vì họ là phụ nữ.
Đức Thánh Cha đã kết thúc bài giảng của ngài bằng cách nhấn mạnh rằng trong khi thi hành sứ vụ của Ngài trên dương thế, Chúa Giêsu đã gặp rất nhiều phụ nữ bị khinh bỉ, bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị loại bỏ; và với sự dịu dàng Người đã phục hồi phẩm giá của họ. Chúa Giêsu có một người mẹ và “nhiều bạn nữ theo Người để giúp Người trong sứ vụ của mình” và nâng đỡ cho Người.
Source: Vatican News Pope at Mass: exploiting women is a sin against God
Tân thủ tướng vô thần Tây Ban Nha bắt đầu gây khó khăn cho Giáo Hội Công Giáo
Đặng Tự Do
23:06 15/06/2018
Khi tân thủ tướng vô thần Tây Ban Nha nhậm chức vào ngày 2 tháng Sáu, Giáo Hội Công Giáo đã cẩn thận nhấn mạnh sự sẵn sàng hợp tác với tân chính phủ. Tuy nhiên, chỉ trong vòng một tuần, căng thẳng đã bắt đầu nổi lên chung quanh các chính sách của Pedro Sánchez. Nhiều người Công Giáo tự hỏi liệu có phải những xung đột trong quá khứ dưới thờ đảng Công nhân Xã hội cầm quyền đang lũ lượt trở về hay không.
Tân thủ tướng, Pedro Sánchez, 46 tuổi, là một giáo sư kinh tế có lập trường thù địch công khai với Giáo Hội Công Giáo, đã tuyên thệ nhậm chức sau một diễn biến chưa từng có liên quan đến những cáo buộc tham nhũng trong nội các của thủ tướng Mariano Rajoy.
Ngày 31 tháng 5, Pedro Sánchez chủ tịch đảng Công nhân Xã hội, đưa ra tuyên bố bất tín nhiệm đảng cầm quyền. Một ngày sau, hôm 1 tháng Sáu, vua Felipe bổ nhiệm ông này làm thủ tướng thay thế cho thủ tướng Mariano Rajoy.
Ngày 2 tháng Sáu, Pedro Sánchez, tuyên thệ trước mặt nhà vua. Ông ta yêu cầu dẹp bỏ Thánh Giá và Thánh Kinh trên bàn. Pedro Sánchez là thủ tướng đầu tiên trong lịch sử của Tây Ban Nha hiện đại đã tuyên thệ không có Thánh Kinh hay Thánh Giá.
Đảng Công nhân Xã hội của Pedro Sánchez, gọi tắt là PSOE, chỉ chiếm được 84 ghế trong tổng số 350 ghế trong Quốc Hội Tây Ban Nha; và phải dựa vào sự hỗ trợ từ những người theo chủ nghĩa dân tộc Catalan và Basque. Sánchez chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện những lời hứa “giải quyết nhu cầu xã hội” và tình trạng kinh tế khó khăn.
Trong thời gian José Luis Rodríguez Zapatero cầm quyền từ năm 2004 đến 2011, PSOE đụng độ nhiều lần với Giáo hội trong nỗ lực hợp pháp hoá an tử và hôn nhân đồng giới bao gồm cả quyền nhận con nuôi. Tháng 2 năm 2010, PSOE thông qua được luật phá thai đến 14 tuần tuổi.
Danh sách các cải cách thế tục nhằm loại trừ ảnh hưởng của Giáo Hội khỏi xã hội và nền văn hóa Tây Ban Nha còn dài. Với số ghế khiêm nhường trong Quốc Hội, Sánchez sẽ gặp nhiều khó khăn hơn Zapatero. Tuy nhiên, trong tư cách là thủ tướng, ngay trong tuần đầu tiên Sánchez vẫn có thể đưa ra một chiến dịch chống lại việc tài trợ cho các trường Công Giáo và các hoạt động bác ái xã hội khác của Giáo Hội; và đòi loại bỏ các biểu tượng tôn giáo như thánh giá khỏi các trường công lập và các trụ sở công cộng.
Ở một đất nước mà tỷ lệ người Công Giáo tham dự Thánh lễ quá ít, và tuổi trung bình của các linh mục lên đến 65, mối thù của Sánchez chắc chắn sẽ gây cho Giáo hội Tây Ban Nha những nguy cơ đáng kể..
Source: Catholic Herald Spain’s new atheist Prime Minister spells trouble for the Church
Tân thủ tướng, Pedro Sánchez, 46 tuổi, là một giáo sư kinh tế có lập trường thù địch công khai với Giáo Hội Công Giáo, đã tuyên thệ nhậm chức sau một diễn biến chưa từng có liên quan đến những cáo buộc tham nhũng trong nội các của thủ tướng Mariano Rajoy.
Ngày 31 tháng 5, Pedro Sánchez chủ tịch đảng Công nhân Xã hội, đưa ra tuyên bố bất tín nhiệm đảng cầm quyền. Một ngày sau, hôm 1 tháng Sáu, vua Felipe bổ nhiệm ông này làm thủ tướng thay thế cho thủ tướng Mariano Rajoy.
Ngày 2 tháng Sáu, Pedro Sánchez, tuyên thệ trước mặt nhà vua. Ông ta yêu cầu dẹp bỏ Thánh Giá và Thánh Kinh trên bàn. Pedro Sánchez là thủ tướng đầu tiên trong lịch sử của Tây Ban Nha hiện đại đã tuyên thệ không có Thánh Kinh hay Thánh Giá.
Đảng Công nhân Xã hội của Pedro Sánchez, gọi tắt là PSOE, chỉ chiếm được 84 ghế trong tổng số 350 ghế trong Quốc Hội Tây Ban Nha; và phải dựa vào sự hỗ trợ từ những người theo chủ nghĩa dân tộc Catalan và Basque. Sánchez chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện những lời hứa “giải quyết nhu cầu xã hội” và tình trạng kinh tế khó khăn.
Trong thời gian José Luis Rodríguez Zapatero cầm quyền từ năm 2004 đến 2011, PSOE đụng độ nhiều lần với Giáo hội trong nỗ lực hợp pháp hoá an tử và hôn nhân đồng giới bao gồm cả quyền nhận con nuôi. Tháng 2 năm 2010, PSOE thông qua được luật phá thai đến 14 tuần tuổi.
Danh sách các cải cách thế tục nhằm loại trừ ảnh hưởng của Giáo Hội khỏi xã hội và nền văn hóa Tây Ban Nha còn dài. Với số ghế khiêm nhường trong Quốc Hội, Sánchez sẽ gặp nhiều khó khăn hơn Zapatero. Tuy nhiên, trong tư cách là thủ tướng, ngay trong tuần đầu tiên Sánchez vẫn có thể đưa ra một chiến dịch chống lại việc tài trợ cho các trường Công Giáo và các hoạt động bác ái xã hội khác của Giáo Hội; và đòi loại bỏ các biểu tượng tôn giáo như thánh giá khỏi các trường công lập và các trụ sở công cộng.
Ở một đất nước mà tỷ lệ người Công Giáo tham dự Thánh lễ quá ít, và tuổi trung bình của các linh mục lên đến 65, mối thù của Sánchez chắc chắn sẽ gây cho Giáo hội Tây Ban Nha những nguy cơ đáng kể..
Source: Catholic Herald Spain’s new atheist Prime Minister spells trouble for the Church
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Lời cầu cho quê hương: Xin Chúa nhậm lời chúng con
LM Giuseppe Bùi Tiếng
11:57 15/06/2018
Bản chất của dự luật đặc khu kinh tế tại Việt Nam là một âm mưu dọn đường cho ngoại bang thong dong vào xứ sở theo mô hình thương mại “thuê-rồi-sở-hữu-luôn” (rent-to-own). Ý đồ này đã nhanh chóng bị các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam vạch trần và phản kháng dưới nhiều hình thức, từ việc xuống đường của dân chúng khắp nơi cho đến tuyên bố sâu sắc trong thư gởi quốc hội của Uỷ ban Giám mục về Công lý và Hoà bình.
Tại hải ngoại thì có những đêm hướng về quê hương, tuyên ngôn của Liên hiệp Truyền thông Công Giáo VN hải ngoại, của Hội đồng Liên tôn VN tại Hoa Kỳ, văn thư của thượng nghị sĩ tiểu bang California, Janet Nguyễn, kêu gọi ngoại trưởng Mỹ gây áp lực với nhà cầm quyền Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhiều cộng đoàn xứ đạo đã tụ họp để cầu nguyện cho quê hương thoát khỏi hiểm hoạ do mưu mô của ngoại bang lẫn nội gian. Điều quan trọng là chúng ta hãy liên tục cầu nguyện hằng ngày tại nhà, và hợp với cộng đoàn của mình cầu nguyện mỗi tuần.
Với lời khích lệ “ai xin thì sẽ được” của Chúa Giêsu (Mt 7:7-8) và lời khuyên “cầu cho hết mọi người” của Thánh tông đồ Phaolô (1 Tm 2:1-3), chúng ta có những lời nguyện phổ quát hay lời nguyện tín hữu (universal prayer, prayer of the faithful) trong các Thánh lễ, khi kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa. Những lời nguyện này thường phản ảnh sứ điệp từ Lời Chúa hôm ấy và cầu nguyện cho bốn ý sau đây: (1) Cầu cho nhu cầu của Hội thánh, (2) Cầu cho nhà cầm quyền và cho toàn thế giới được ơn cứu độ, (3) Cầu cho những ai gặp khó khăn, (4) Cầu cho cộng đoàn địa phương.
Khi có những nơi bị chiến tranh, thiên tai, v.v., chúng ta cầu nguyện cho những nạn nhân theo ý số 2 hoặc số 3. Trong hoàn cảnh nguy khốn của Việt Nam hiện nay, chúng ta lại càng phải dâng lời cầu nguyện cho quê hương, cho đồng bào. Khi soạn lời nguyện, không cần dài giòng văn tự (ngoại lệ là những lời nguyện trọng thể ngày Thứ sáu Tuần thánh). Hãy trình bày cho Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự và ý hướng trong lòng mỗi người (Mt 6:6) một cách vắn gọn nhu cầu của dân tộc và quê hương là đủ.
Sau đây là một vài lời nguyện có thể dùng trong Thánh lễ, phần lời nguyện tín hữu hoặc lời nguyện phổ quát (lời nguyện thứ 3 – cầu cho những ai gặp khó khăn), đặc biệt là vào Chúa Nhật (chỉ cần dùng một lời cho mỗi tuần). Có thể thay đổi đôi chút cho hợp với văn phong (style) của các lời nguyện khác trong cùng Thánh lễ.
- Chúng ta hãy cầu xin, để đồng bào Việt Nam đồng lòng bảo vệ chủ quyền đất nước, và sự toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông đã gầy dựng. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu xin cho đất nước Việt Nam bảo tồn được tinh thần dân tộc, không nao núng giữa những áp lực gây tác hại cho chủ quyền, môi trường, và sự toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân nước Việt Nam, để nhân quyền được tôn trọng, các quyền tự do căn bản không bị chà đạp, và những giá trị văn hoá cao quý được phục hồi. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu xin cho đất nước Việt Nam, cho sự đoàn kết một lòng bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo toàn di sản văn hoá dân tộc. Chúng ta nguyện xin Chúa.
LM Giuseppe Bùi Tiếng
Tại hải ngoại thì có những đêm hướng về quê hương, tuyên ngôn của Liên hiệp Truyền thông Công Giáo VN hải ngoại, của Hội đồng Liên tôn VN tại Hoa Kỳ, văn thư của thượng nghị sĩ tiểu bang California, Janet Nguyễn, kêu gọi ngoại trưởng Mỹ gây áp lực với nhà cầm quyền Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhiều cộng đoàn xứ đạo đã tụ họp để cầu nguyện cho quê hương thoát khỏi hiểm hoạ do mưu mô của ngoại bang lẫn nội gian. Điều quan trọng là chúng ta hãy liên tục cầu nguyện hằng ngày tại nhà, và hợp với cộng đoàn của mình cầu nguyện mỗi tuần.
Với lời khích lệ “ai xin thì sẽ được” của Chúa Giêsu (Mt 7:7-8) và lời khuyên “cầu cho hết mọi người” của Thánh tông đồ Phaolô (1 Tm 2:1-3), chúng ta có những lời nguyện phổ quát hay lời nguyện tín hữu (universal prayer, prayer of the faithful) trong các Thánh lễ, khi kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa. Những lời nguyện này thường phản ảnh sứ điệp từ Lời Chúa hôm ấy và cầu nguyện cho bốn ý sau đây: (1) Cầu cho nhu cầu của Hội thánh, (2) Cầu cho nhà cầm quyền và cho toàn thế giới được ơn cứu độ, (3) Cầu cho những ai gặp khó khăn, (4) Cầu cho cộng đoàn địa phương.
Khi có những nơi bị chiến tranh, thiên tai, v.v., chúng ta cầu nguyện cho những nạn nhân theo ý số 2 hoặc số 3. Trong hoàn cảnh nguy khốn của Việt Nam hiện nay, chúng ta lại càng phải dâng lời cầu nguyện cho quê hương, cho đồng bào. Khi soạn lời nguyện, không cần dài giòng văn tự (ngoại lệ là những lời nguyện trọng thể ngày Thứ sáu Tuần thánh). Hãy trình bày cho Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự và ý hướng trong lòng mỗi người (Mt 6:6) một cách vắn gọn nhu cầu của dân tộc và quê hương là đủ.
Sau đây là một vài lời nguyện có thể dùng trong Thánh lễ, phần lời nguyện tín hữu hoặc lời nguyện phổ quát (lời nguyện thứ 3 – cầu cho những ai gặp khó khăn), đặc biệt là vào Chúa Nhật (chỉ cần dùng một lời cho mỗi tuần). Có thể thay đổi đôi chút cho hợp với văn phong (style) của các lời nguyện khác trong cùng Thánh lễ.
- Chúng ta hãy cầu xin, để đồng bào Việt Nam đồng lòng bảo vệ chủ quyền đất nước, và sự toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông đã gầy dựng. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu xin cho đất nước Việt Nam bảo tồn được tinh thần dân tộc, không nao núng giữa những áp lực gây tác hại cho chủ quyền, môi trường, và sự toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân nước Việt Nam, để nhân quyền được tôn trọng, các quyền tự do căn bản không bị chà đạp, và những giá trị văn hoá cao quý được phục hồi. Chúng ta nguyện xin Chúa.
- Chúng ta hãy cầu xin cho đất nước Việt Nam, cho sự đoàn kết một lòng bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo toàn di sản văn hoá dân tộc. Chúng ta nguyện xin Chúa.
LM Giuseppe Bùi Tiếng
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tông Huấn Vui Mừng Và Hân Hoan Của Đức Thánh Cha Phanxicô
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữPhaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
08:11 15/06/2018
Tông Huấn Vui Mừng Và Hân Hoan Của Đức Thánh Cha Phanxicô
1. “HÃY VUI MỪNG VÀ HÂN HOAN” (Mt 5,12). Đó là lời Chúa Giêsu nhắc bảo những người bị bách hại hoặc bị sỉ nhục vì Ngài. Chúa đòi mọi sự của ta, và đổi lại Ngài ban cho ta sự sống thật, là hạnh phúc Ngài muốn dành cho ta khi dựng nên ta. Ngài muốn ta phải là những vị thánh chứ không chỉ hài lòng với một cuộc sống tẻ nhạt và tầm thường. Ngay từ những trang đầu của Kinh thánh đã có tiếng gọi nên thánh theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn nơi lời Chúa phán với ông Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1).
2. Những điều sau đây không phải là một tiểu luận về sự thánh thiện, với những định nghĩa và những phân biệt hữu ích để hiểu chủ đề quan trọng này, hoặc với những phân tích về các phương tiện thánh hoá. Mục tiêu khiêm tốn của tôi là lặp lại tiếng gọi nên thánh cách thực tế cho thời đại chúng ta, với tất cả những rủi ro, thách đố và thuận lợi. Vì Chúa đã chọn mỗi người trong chúng ta để được “nên thánh và trọn lành trước mặt Ngài trong tình yêu” (Ep 1, 4).
CHƯƠNG 1
TIẾNG GỌI NÊN THÁNH
CÁC THÁNH ĐANG KHUYẾN KHÍCH TA VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI TA
3. Thư gửi tín hữu Do Thái nêu cho thấy có biết bao nhân chứng đang khích lệ ta “hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (12,1). Cụ thể như ông Abraham, bà Sara, ông Môsê, ông Ghiđêôn và những người khác (x. 11,1-12,3). Trên hết, ta cần nhận ra rằng có cả “một đám mây khổng lồ các nhân chứng” (12,1) đang không ngừng thúc đẩy ta tiến bước hướng về mục tiêu. Những nhân chứng ấy có thể là chính mẹ hay bà của ta hoặc những người thân yêu khác (x. 2 Tm 1,5). Cuộc sống của họ có thể không phải lúc nào cũng hoàn hảo, nhưng ngay cả giữa những khi lỗi lầm và thất bại, họ vẫn tiến về phía trước và sống đẹp lòng Chúa.
4. Các thánh hiện đang sống trước nhan Thiên Chúa nhưng vẫn giữ mối liên kết yêu thương và tình hiệp thông với ta. Sách Khải Huyền xác nhận điều ấy khi nói các vị tử vì đạo đang chuyển cầu cho ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử ’ ” (6,9-10). Mỗi chúng ta đều có thể nói mình “được các bạn hữu của Thiên Chúa bao quanh, dẫn dắt và định hướng... Tôi không phải một mình vác lấy điều mà thật ra, tôi chẳng bao giờ có thể vác nổi một mình. Đoàn ngũ các thánh của Thiên Chúa đang ở đó để bảo vệ, đỡ nâng và đưa tôi đi” .
5. Khi xúc tiến phong chân phước và hiển thánh cho ai, Hội thánh nhìn nhận nơi người ấy những dấu chỉ về nhân đức anh hùng, việc hy sinh chịu chết vì đạo, và trong một số trường hợp khác là liên lỉ hiến dâng cuộc sống cho tha nhân, cho đến chết. Sự hiến dâng ấy cho thấy người đó đã noi theo gương Chúa Kitô cách điển hình, đáng cho các tín hữu ngưỡng mộ . Chẳng hạn, ta có thể nhắc đến Chân phước Maria Gabriella Sagheddu, người đã hiến đời mình cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
NHỮNG VỊ THÁNH “SÁT BÊN NHÀ” CHÚNG TA
6. Đừng chỉ nghĩ riêng tới những vị đã được phong chân phước và hiển thánh. Chúa Thánh Thần tuôn tràn sự thánh thiện khắp dân Chúa là dân tộc thánh thiện và trung tín, vì “Thiên Chúa đã muốn thánh hóa và cứu độ con người, không phải như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong sự thánh thiện” . Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã cứu một dân tộc. Chúng ta chẳng bao giờ trọn vẹn là chính mình mà lại không thuộc về một dân tộc. Đó là lý do tại sao không ai được cứu một mình, như một cá nhân cô lập. Trái lại, Thiên Chúa kéo chúng ta đến với Ngài, với đủ thứ liên hệ phức tạp giữa người với người trong cộng đồng nhân loại. Thiên Chúa muốn bước vào cuộc sống và lịch sử đầy năng động của một dân tộc.
7. Tôi thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện trong cuộc sống kiên nhẫn của dân Chúa: nơi những bậc cha mẹ đang nuôi dạy con cái với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ đang chăm chỉ làm việc để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà lúc nào cũng cười tươi. Nơi những cảnh đời hàng ngày đang kiên trì tiến tới như thế, tôi nhìn thấy sự thánh thiện của Hội thánh chiến đấu. Rất thường thì đó là một sự thánh thiện được tìm thấy nơi những người sát ngay bên nhà chúng ta, những người đang sống giữa chúng ta, đang phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là “tầng lớp trung lưu của sự thánh thiện” .
8. Ta hãy để cho mình được khích lệ bởi những dấu chỉ của sự thánh thiện mà Chúa cho chúng ta thấy qua các phần tử khiêm tốn nhất của đoàn dân ấy, là đoàn dân “cũng chia sẻ chức năng ngôn sứ của Đức Kitô, thể hiện khắp nơi chứng từ sống động về Ngài, đặc biệt là bằng đời sống đức tin và đức ái” . Theo cách nói của Thánh nữ Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá đề nghị, ta cần để ý rằng chính là nhờ rất nhiều người như thế mà lịch sử đang thực sự trở thành lịch sử. Chị viết: “Chính từ giữa đêm tối sâu thẳm nhất đã xuất hiện những khuôn mặt ngôn sứ và thánh nhân vĩ đại nhất. Nhưng phần lớn dòng chảy đang làm nên cuộc sống thần bí như thế lại vô hình, không thấy được. Có những tâm hồn chẳng bao giờ được sách sử nào nhắc đến nhưng lại có ảnh hưởng quyết định tại những khúc ngoặt trong lịch sử hoàn vũ. Phải đợi đến ngày mà tất cả những gì ẩn giấu đều tỏ lộ, ta mới biết mình mắc nợ những ai tại những khúc ngoặt quyết định của đời ta” .
9. Sự thánh thiện là vẻ mặt đẹp nhất của Hội thánh. Thế nhưng ngay cả bên ngoài Hội thánh Công Giáo và cả nơi những môi trường rất khác biệt, Chúa Thánh Thần vẫn làm nổi bật lên “những dấu chỉ của sự hiện diện của Ngài, để giúp cho chính các môn đệ của Đức Kitô” . Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta rằng “chứng nhân cho Đức Kitô phải chịu ngay cả việc đổ máu đã trở thành một gia sản chung của người Công Giáo, Chính Thống, Anh giáo và Tin Lành” . Trong cuộc tưởng niệm đại kết cảm động được tổ chức tại Hý trường Colosseum trong năm Đại Toàn xá 2000, ngài đã tuyên bố rằng các vị tử đạo là “một di sản đang lên tiếng mạnh mẽ hơn tất cả những gì đã gây nên chia rẽ” .
CHÚA MỜI GỌI
10. Ở đây mọi chuyện đều quan trọng. Tuy nhiên, với Tông Huấn này, tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến lời mời gọi nên thánh mà Chúa đang nói thẳng với mỗi chúng ta, cũng là lời mời gọi Ngài đang đích thân nói với bạn: “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (Lv 11,44; xem 1Pr 1,16). Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả mọi tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa mời gọi, để mỗi người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn lành như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành” .
11. Công đồng nói, “mỗi người một cách”. Chúng ta không nên nản chí trước những mẫu gương thánh thiện có vẻ như không thể đạt được. Có một số chứng từ có thể hữu ích và gợi hứng cho chúng ta, nhưng không phải là để chúng ta sao chép, vì sao chép lắm khi còn có thể dẫn chúng ta đi sai con đường riêng mà Chúa có ý dành cho chúng ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu nhận rõ được con đường riêng của mình, rút ra được những điều tốt nhất của chính mình, những hồng ân cá nhân nhất mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng họ (xem 1Cr 12,7), thay vì cố gắng bắt chước vô vọng một điều gì đó không dành cho họ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm nhân chứng, nhưng có nhiều cách thực tế để làm nhân chứng . Thật vậy, khi nhà thần bí vĩ đại, Thánh Gioan Thánh Giá, viết quyển Ca Khúc Tâm Linh, ngài thường tránh đem những quy tắc cố định áp dụng chung cho mọi người. Ngài giải thích rằng các vần thơ của ngài được sáng tác để mỗi người có thể rút ra bài học “theo một cách riêng” . Vì sự sống của Thiên Chúa được truyền cho “kẻ thì cách này, người thì cách khác” .
12. Giữa những hình thức khác nhau ấy, tôi xin nhấn mạnh rằng “tài hoa nữ giới” cũng nổi rõ trong những phong cách thánh thiện đậm nữ tính, và cũng là những điều rất cần có để phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa trên trần gian này. Ngay cả trong những thời mà người ta có khuynh hướng gạt phụ nữ sang một bên, không nhìn đến, Chúa Thánh Thần vẫn làm nổi bật lên những vị thánh tỏa chiếu hào quang, tạo nên những năng động tinh thần mới mẻ và những cải cách quan trọng trong Hội thánh. Ta có thể nhắc đến Thánh Hildegard thành Bingen, Thánh Bigitta, Thánh Catarina thành Siena, Thánh Têrêxa thành Avila và Thánh Têrêxa thành Lisieux. Tôi còn muốn nói đến tất cả các phụ nữ vô danh hoặc bị quên lãng, mỗi người một cách, đã nâng đỡ và biến đổi các gia đình và cộng đồng bằng năng lực mà đời sống làm chứng của họ đem lại.
13. Điều ấy phải đem lại phấn khởi và phải khuyến khích ta dâng hiến tất cả và ôm lấy kế hoạch có một không hai mà Thiên Chúa đã muốn cho mỗi chúng ta từ muôn thủơ: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5).
CHO CẢ BẠN NỮA
14. Ðể nên thánh không cần phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút lui khỏi công việc bình thường để dành nhiều thời gian cầu nguyện. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh. Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung .
15. Hãy để ân sủng bạn đã nhận lúc lãnh bí tích Rửa Tội sinh hoa kết quả trên đường nên thánh. Hãy để mọi thứ được mở ra cho Thiên Chúa; dù ở tình huống nào vẫn hướng về Chúa. Đừng nản lòng, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần đang giúp bạn làm điều ấy, và cuối cùng, sự thánh thiện chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong đời bạn (x. Ga 5,22-23). Khi bạn cảm thấy bị cám dỗ ở lỳ trong sự yếu đuối của mình, thì hãy ngước mắt nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh và thưa: “Lạy Chúa, con là một kẻ tội lỗi đáng thương, nhưng Chúa có thể làm phép lạ để khiến con tốt hơn một chút”. Trong Hội thánh, tuy thánh thiện, nhưng bao gồm những người tội lỗi, bạn sẽ tìm thấy mọi điều bạn cần để lớn lên theo hướng thánh thiện. Chúa đã ban tặng cho Hội thánh đủ thứ ơn lành nơi Kinh thánh, các bí tích, các đền thánh, nơi các cộng đoàn sống động, chứng từ của các thánh và nơi vẻ đẹp muôn màu, bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, khiến Hội thánh khác nào “một cô dâu điểm trang lộng lẫy” (Is 61,10).
16. Sự thánh thiện Chúa đang mời gọi bạn như thế sẽ lớn lên bằng những cử chỉ nho nhỏ. Đây là một thí dụ: một phụ nữ đi mua sắm, gặp một người hàng xóm và bắt đầu nói chuyện, rồi việc bép xép bắt đầu. Nhưng chị ấy tự nhủ lòng: “Không, tôi sẽ không nói xấu ai cả”. Đây là một bước tiến trong sự thánh thiện. Sau đó, ở nhà, một đứa con của chị muốn nói chuyện với chị về những điều nó hy vọng và ước mơ, và mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống kiên nhẫn và ưu ái lắng nghe. Đó là một sự hy sinh khác mang lại sự thánh thiện. Sau đó, chị gặp đôi điều khiến phải lo âu, nhưng nhớ lại tình yêu của Đức Trinh Nữ Maria, chị lấy tràng hạt ra và cầu nguyện bằng đức tin. Lại một nẻo đường nên thánh nữa. Lát sau ra đường, gặp một người nghèo, chị dừng lại nói với người ấy một lời dịu dàng tử tế. Ấy là thêm một bước nữa.
17. Đôi khi, cuộc sống đặt ra những thách đố lớn, qua đó, một lần nữa Chúa lại mời gọi chúng ta hoán cải để ân sủng Ngài có thể nổi rõ hơn giữa đời ta “để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Ngài” (Hr 12,10). Lắm lúc, ta chỉ cần tìm cách hoàn hảo hơn để làm điều đang làm. “Nhiều lúc Chúa ban ơn soi sáng chỉ nhằm giúp ta làm những việc thông thường của đời mình với một sự hoàn thiện phi thường” . Khi Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn văn Thuận bị tù, ngài đã nhất định không để lãng phí thời giờ ngồi chờ ngày được trả tự do. Thay vào đó, ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại, đong đầy tình thương vào đó”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ nắm lấy những cơ hội đến với tôi mỗi ngày, để hoàn thành mọi hành vi bình thường một cách phi thường” .
18. Cứ thế, nhờ ơn Chúa hướng dẫn, từ nhiều cử chỉ nhỏ bé, ta sẽ dệt nên sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho ta, không phải với sự tự hào tự mãn nhưng như “những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Các giám mục Tân Tây Lan thật chí lý khi dạy rằng chúng ta có khả năng yêu thương với tình yêu vô điều kiện của Chúa, bởi vì chính Chúa Phục sinh đã chia sẻ sự sống mãnh liệt của Ngài với những mảnh đời yếu ớt của chúng ta: “Tình yêu của Ngài không giới hạn và, khi đã ban cho ta rồi, Ngài không bao giờ lấy lại. Đó là tình yêu không điều kiện và luôn trung tín. Để yêu được như thế không phải dễ, bởi vì chúng ta thường quá yếu đuối. Thế nhưng hãy cứ thử yêu như Đức Kitô yêu thương rồi sẽ thấy Đức Kitô đã chia sẻ sự sống lại của Ngài với ta như thế nào. Bằng cách ấy, cuộc sống của ta sẽ cho thấy quyền năng của Ngài đang hoạt động - ngay giữa sự yếu đuối của con người” .
SỨ VỤ CỦA BẠN TRONG ĐỨC KITÔ
19. Là Kitô hữu, hễ nghĩ đến sứ vụ của mình trên trần gian, ta phải thấy nó như một nẻo đường để nên thánh, vì “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx 4,3). Chúa Cha muốn sắp đặt để mỗi vị thánh là một sứ vụ, phản ánh và tiêu biểu một khía cạnh nào đó của Tin mừng, vào một thời điểm cụ thể trong lịch sử.
20. Sứ vụ ấy có được ý nghĩa trọn vẹn nhất trong Đức Kitô, và chỉ có thể hiểu được qua Ngài. Tự cốt lõi, thánh thiện chính là sống những mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô, trong sự kết hợp với Ngài. Sự thánh thiện kết nối ta với cái chết và sự phục sinh của Chúa một cách đích thân và độc đáo, liên tục chết và sống lại với Ngài. Điều này có thể còn đòi hỏi ta phải tái thể hiện nơi đời mình những khía cạnh khác nhau nơi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu: nếp sống ẩn dật của Chúa, nếp sống của Ngài trong cộng đồng, sự gần gũi với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói và những cách diễn tả khác được Ngài dùng để nói lên tình yêu tự hiến của Ngài. Theo giáo huấn của Thánh Ignatiô thành Loyola, sự chiêm niệm những mầu nhiệm ấy của Chúa đưa ta đến chỗ, qua những sự việc ấy, đích thân ta lặp lại những lựa chọn và thái độ của mình . Bởi vì “mọi sự trong đời sống của Chúa Giêsu đều là dấu chỉ về mầu nhiệm của Ngài” , “toàn thể đời sống của Đức Kitô đều là mặc khải về Chúa Cha” , “toàn thể cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc” , ‘toàn thể cuộc đời Đức Kitô là một mầu nhiệm về sự quy tụ muôn loài nơi Đức Kitô” . “Đức Kitô cho phép ta được sống nơi Ngài tất cả những gì chính Ngài đã sống và vẫn còn đang sống nơi ta” .
21. Kế hoạch của Chúa Cha là chính Đức Kitô và cả chúng ta trong Đức Kitô. Cuối cùng, sẽ là chính Đức Kitô yêu thương trong chúng ta, vì “sự thánh thiện không gì khác hơn là đức ái được sống thật tròn đầy” . Kết quả là, “tầm vóc sự thánh thiện nơi ta được đo theo tầm vóc của Đức Kitô mà ta đạt được nơi bản thân, là mức độ mà, dưới tác động của quyền năng Chúa Thánh Thần, ta đã khuôn đúc đời mình theo mẫu mực cuộc đời của Chúa” . Mỗi vị thánh là một sứ điệp được Chúa Thánh Thần múc lấy từ sự sung mãn của Chúa Giêsu Kitô để ban cho dân Ngài.
22. Để nhận ra đâu là lời Chúa muốn nói với ta qua một vị thánh của Ngài, ta đừng bận tâm đến các chi tiết, vì ở đó vẫn có thể gặp những sai lầm và thất bại. Không phải mọi lời một vị thánh nói ra đều chắc chắn trung thành với Tin mừng; không phải tất cả những gì ngài làm đều đích xác hay hoàn hảo. Điều ta cần chiêm ngắm là toàn thể cuộc đời ngài, toàn thể bước tiến của ngài trên đường lớn lên trong sự thánh thiện, là khuôn mặt ngài phản chiếu dung nhan Chúa Giêsu Kitô và lộ rõ khi ta hiểu ra ý nghĩa tối hậu ngài đã đạt được như một ngôi vị .
23. Đó là một lời hiệu triệu quyết liệt gửi đến tất cả chúng ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần phải nhìn toàn bộ đời mình như một sứ vụ. Hãy cố gắng làm điều ấy qua việc lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và qua việc nhận ra các dấu chỉ Ngài đang ban cho bạn. Hãy luôn hỏi Chúa Thánh Thần xem Chúa Giêsu đang mong đợi gì nơi bạn ở từng giây phút đời bạn và từng quyết định bạn đang phải đắn đo, để nhận rõ vị trí của nó trong sứ vụ bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần rèn đúc nơi bạn cái mầu nhiệm ngôi vị có thể phản chiếu cho thế giới ngày nay nhận biết Chúa Giêsu Kitô.
24. Mong sao bạn nhận ra lời ấy, nhận ra thông điệp của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa muốn dùng đời bạn để nói với thế giới. Hãy để cho chính bạn được biến đổi. Hãy để Chúa Thánh Thần đổi mới bản thân bạn để điều ấy có thể thành hiện thực và bạn khỏi bị thất bại trong sứ vụ cao quý của mình. Dù bạn có lỗi lầm hay sơ suất, Chúa sẽ vẫn đưa nó đến hoàn tất, miễn là bạn đừng từ bỏ con đường yêu thương nhưng luôn cho lòng rộng mở trước ân sủng siêu nhiên của Ngài, ân sủng luyện lọc và soi sáng.
HOẠT ĐỘNG GIÚP TA NÊN THÁNH
25. Bạn không thể hiểu được Đức Kitô nếu tách Ngài khỏi vương quốc Ngài mang đến. Cũng vậy, sứ vụ của bản thân bạn không thể tách khỏi việc xây dựng vương quốc ấy: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt6,33). Việc bạn tự đồng hoá với Đức Kitô và ý muốn của Ngài đòi bạn phải cam kết cùng Ngài xây dựng vương quốc Ngài, một vương quốc của yêu thương, công lý và hòa bình phổ quát. Chính Đức Kitô muốn cùng với bạn cảm nghiệm điều ấy trong tất cả những nỗ lực và hy sinh mà vương quốc ấy đòi hỏi, đồng thời trong tất cả niềm vui và sự phong phú mà vương quốc ấy mang đến. Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không đích thân hiến cả thân xác lẫn linh hồn, hiến hết tất cả những gì tốt đẹp nhất của bạn.
26. Thật không lành mạnh khi nhân danh sự thinh lặng để tránh gặp gỡ người khác, khi vì cầu an mà tránh hoạt động, vịn cớ cầu nguyện để khỏi phục vụ. Mọi sự đều có thể chấp nhận được và hòa nhập vào cuộc sống của ta trong thế giới này, để trở nên một phần của nẻo đường giúp ta nên thánh. Ta được mời gọi sống chiêm niệm ngay giữa hoạt động và được mời gọi lớn lên trong sự thánh thiện bằng cách thi hành sứ vụ riêng của mình cách hào hiệp và đầy trách nhiệm.
27. Liệu Chúa Thánh Thần có thúc giục ta thi hành một sứ vụ rồi liền sau đó lại đòi ta từ bỏ nó, hoặc thôi tích cực tham gia vào đó, để giữ lấy sự bình an nội tâm chăng? Thế nhưng lắm lúc chúng ta bị cám dỗ để đẩy lùi nhiệt tình mục vụ cũng như sự dấn thân vào đời xuống hàng thứ yếu, như thể chúng khiến chúng ta bị “sao nhãng” trên nẻo đường nên thánh và bình an nội tâm. Có lẽ ta đã quên mất rằng “cuộc sống không có một sứ vụ, mà chính nó là một sứ vụ” .
28. Chẳng cần phải nói, bất cứ điều gì chỉ làm vì lo âu, tự hào hoặc do nhu cầu gây ấn tượng với những người khác sẽ không dẫn đến sự thánh thiện. Thách đố của sự thánh thiện là ở chỗ phải cho thấy được mình đã dấn thân đến độ mọi sự mình làm đều thấm nhuần tinh thần Tin mừng và khiến mình ngày càng nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn. Chẳng hạn, ta thường nói về đường nên thánh của giáo lý viên, của linh mục triều, hoặc của công việc. Cũng vì lý do đó, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng tôi đã kết luận bằng cách nói về một đường nên thánh của sứ vụ, trong tông huấn Chúc Tụng Chúa (Laudato Si') về một đường nên thánh qua môi sinh, và trong tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về một đường nên thánh của đời sống gia đình.
29. Nói thế không có nghĩa là bỏ qua sự cần thiết của những giây phút yên tĩnh, cô tịch và im lặng trước Thiên Chúa. Ngược lại là khác. Chính vì lúc nào cũng có những vật dụng mới, sự lôi cuốn của du lịch và đủ thứ mặt hàng tiêu thụ thường không còn trừ lại chỗ nào cho ta nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Đâu đâu cũng tràn ngập những lời nói, những thú vui hời hợt và tiếng động ồn ã càng lúc càng tăng. Thay vì được đong đầy bằng niềm vui, ta lại thấy bị chất chứa cái bất mãn của những kẻ sống mà chẳng biết sống để làm gì. Làm sao ta không thấy cần kíp phải chặn ngay cuộc đua cuồng vội này để tìm lại không gian thân thiết cần có để đối thoại chân thành với Thiên Chúa? Có thể phải trầy vi tróc vảy mới tìm được khoảng không gian ấy nhưng bao giờ nó cũng đầy hoa trái. Sớm hay muộn, ta cũng phải đối diện với chính con người thật của mình và để cho Chúa vào chiếm ngự. Có thể ta sẽ chẳng gặp được điều ấy nếu như “không thấy như mình đang phải nhìn chằm chằm vào hố thẳm của một cám dỗ đáng sợ, hoặc cảm thấy chóng mặt bên cạnh bờ vực của tuyệt vọng, hoặc thấy mình hoàn toàn cô đơn và bị bỏ rơi” . Chính là trong những hoàn cảnh như vậy, ta mới tìm được động lực sâu xa nhất để dấn thân sống trọn vẹn cho những bổn phận của mình.
30. Cũng chính những trò vui tiêu khiển đang lan khắp thế giới ngày nay như vậy khiến ta có khuynh hướng coi thời gian rảnh rỗi như là chuyện bất khả xâm phạm, để rồi đắm mình cách vô độ vào những thứ chỉ giúp giải trí bằng những thú vui hời hợt chóng qua .
Hậu quả là, cuối cùng, ta cảm thấy sứ vụ cũng như sự dấn thân của mình bị bốc hơi dần, nghĩa khí và tinh thần phục vụ bị sa sút. Nó khiến cảm nghiệm tâm linh của ta bị biến chất. Rồi khi nhiệt tình loan Tin mừng và phục vụ người khác đã bạc nhược đến thế, hỏi liệu còn nhiệt huyết linh thiêng nào có thể đứng vững?
31. Ta cần một tinh thần thánh thiện có khả năng lấp đầy cả sự cô tịch lẫn việc phục vụ của ta, lấp đầy cả đời tư lẫn những nỗ lực loan Tin mừng của ta, để mỗi giây phút đều có thể là một biểu hiện của tình yêu tự hiến trong mắt Chúa. Có thế, mỗi giây phút đời ta mới có thể là một bước trên nẻo đường dẫn đến sự trưởng thành về thánh thiện.
SỐNG ĐỘNG HƠN, NHÂN BẢN HƠN
32. Đừng sợ sự thánh thiện. Nó sẽ không lấy mất chút năng lượng, sức sống hay niềm vui nào của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều Chúa Cha đã nghĩ đến khi tạo thành bạn, và sẽ trung thành với chính con người sâu thẳm nhất của mình. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa giải thoát ta khỏi mọi hình thức nô lệ và đưa ta đến chỗ nhận ra phẩm giá cao quý của mình. Ta thấy rõ điều ấy nơi Thánh Giôsêphina Bakhita: “Bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ khi mới lên bảy, chị đã phải chịu đựng rất nhiều trong tay của những chủ nhân độc ác. Thế nhưng rồi chị đã hiểu được chân lý sâu xa rằng không phải con người nhưng Thiên Chúa mới là Chủ Nhân thật của mọi hữu thể người, của mọi mạng sống con người. Kinh nghiệm ấy đã thành một nguồn khôn ngoan thật lớn lao cho cô gái Phi châu khiêm nhường bé bỏng” .
33. Càng lớn lên trong sự thánh thiện, mỗi Kitô hữu càng mang lại hoa trái lớn hơn cho thế giới của chúng ta. Các giám mục Tây Phi đã ghi nhận: “Trong tinh thần Tân Phúc âm hóa chúng tôi đang được mời gọi để cho chính mình được phúc âm hóa đồng thời phúc âm hóa thế giới qua những trách nhiệm Chúa đã giao cho tất cả các anh chị em, là những người đã lãnh phép Thánh tẩy, trong vai trò làm muối đất và ánh sáng thế gian ở bất cứ nơi nào anh chị em sống” .
34. Đừng sợ nhìn lên cao hơn, để cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương và giải phóng. Đừng sợ để cho mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự thánh thiện sẽ không khiến bạn trở thành kém chất người đi, vì nó là một cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối của bạn và quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Cuối cùng, như Léon Bloy đã nói, “trên đời chỉ có một bi kịch lớn nhất, ấy là không trở thành một vị thánh” .
CHƯƠNG 2
HAI KẺ THÙ TINH TẾ CỦA SỰ THÁNH THIỆN
35. Trong khung cảnh ấy, tôi muốn lưu ý đến hai thứ thánh thiện giả mạo có nguy cơ khiến chúng ta lầm lạc: thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô [Ghi chú của người dịch: Ngộ đạo, nói tắt là những người chạy theo sự bừng ngộ, tự cho là mình nhận được những hiểu biết sâu nhiệm và đặc biệt, hơn hẳn mọi người. Lạc thuyết Pelagiô là thái độ không tha thiết với ơn Chúa, chỉ dựa trên sức riêng mình]. Hai lạc thuyết này đã có từ thời Kitô giáo sơ khai, nhưng hiện vẫn hết sức đáng quan tâm. Ngay ở thời nay rất nhiều Kitô hữu vẫn bị những ý tưởng dối trá này lôi cuốn mà có lẽ không hề ngờ. Chúng được trá hình như là chân lý của Công Giáo nhưng thực ra chỉ là một thái độ nội tâm lấy con người làm chuẩn . Hai dạng trú ẩn an toàn cả về học thuyết lẫn thực hành này làm nảy sinh một chủ nghĩa ưu tuyển tự say mê mình và độc đoán, thay vì rao giảng Tin mừng, người ta tìm phân tích và xếp loại người khác, và thay vì mở lòng cho ân sủng, người ta dốc hết tâm lực ra để theo dõi và kiểm chứng. Trong cả hai trường hợp, người ta không thực sự quan tâm đến Chúa Giêsu Kitô hoặc tha nhân” .
THUYẾT NGỘ ĐẠO NGÀY NAY
36. Người ta rơi vào thuyết ngộ đạo khi chạy theo "một đức tin đóng kín trong cái chủ quan của mình, chỉ bận tâm đến một kinh nghiệm cụ thể nào đó hoặc một loạt các ý tưởng và một mớ kiến thức được coi là có sức nâng đỡ và soi sáng, nhưng lại nhốt kín người ta trong những tư tưởng hay cảm xúc riêng của họ" .
Một tinh thần không có Thiên Chúa và chối bỏ phận người
37. Cảm tạ Thiên Chúa, rõ ràng là suốt lịch sử Hội thánh bao giờ sự hoàn hảo của một người cũng được đo lường không phải bằng lượng thông tin hay kiến thức người ấy có được, nhưng bằng chiều sâu đức ái của người ấy. Những người “ngộ đạo” nhầm lẫn về điều đó, họ đánh giá người khác dựa vào khả năng hiểu được sự phức tạp của một học thuyết nào đó. Họ hình dung ra tinh thần như một thứ gì tách khỏi xác thịt, do đó không có khả năng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác, như thể bị giam hãm trong một cái rọ lý thuyết của những tư tưởng trừu tượng. Tách rời mầu nhiệm ra khỏi phận người có xác phàm, họ thích chạy theo “một Thiên Chúa không có Đức Kitô, một Đức Kitô không có Hội thánh, và một Hội thánh không có dân của mình” .
38. Cứ thế thì chắc chắn chỉ còn là một sự hời hợt hão huyền: có lắm biến chuyển ngoài bề mặt, nhưng tâm trí không hề được đánh động hoặc biến cải gì sâu xa. Tuy nhiên, tham vọng ngộ đạo lại cuốn hút khiến lắm người ngây ngất trong lầm lạc, vì nó khởi đầu cách nhặt nhiệm và thuần khiết, và hầu như cũng có một sự hài hòa hoặc trật tự nào đó bao gồm tất cả mọi sự.
39. Thế nhưng, xin lưu ý. Ở đây tôi không nhắm nói đến những người duy lý thù nghịch với đức tin Kitô giáo, hiện vẫn có thể đang có trong Hội thánh, cả nơi hàng ngũ giáo dân tại các giáo xứ lẫn nơi những giảng viên triết học và thần học ở các trung tâm đào tạo. Những người ngộ đạo nghĩ rằng các giải thích của họ có thể làm cho toàn bộ đức tin và Tin mừng trở nên hoàn toàn dễ hiểu. Họ tuyệt đối hóa các thuyết của họ và buộc những người khác phải chấp nhận cách suy nghĩ của họ. Sử dụng lý trí lành mạnh và khiêm tốn để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin mừng là một chuyện. Còn chủ trương giản lược giáo huấn của Chúa Giêsu xuống thành một lý luận lạnh lùng và cứng nhắc nhằm tìm cách thống trị mọi sự lại là chuyện khác .
Một học thuyết không có mầu nhiệm
40. Thuyết ngộ đạo là một trong những hệ tư tưởng tệ hại nhất, bởi vì, nó vừa tán dương một kiến thức hoặc một kinh nghiệm cụ thể, vừa coi cái nhìn riêng ấy về thực tại là tiêu biểu cho sự hoàn thiện. Như thế, có thể là người theo hệ tư tưởng này không hề ý thức được điều ấy, cứ tự loay hoay với mình, đến độ ngày càng trở nên thiển cận hơn. Hệ tư tưởng này có thể còn trở nên viển vông hơn nữa khi khoác lớp áo một nẻo đường tâm linh thoát tục. Thật vậy, “tự bản chất của nó thuyết ngộ đạo tìm cách uốn nắn để làm chủ mầu nhiệm” , dù đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, hay là những điều huyền nhiệm nơi cuộc đời những người khác.
41. Khi một người nào đó có một câu trả lời chung cho mọi vấn đề, đó là một dấu chỉ cho thấy họ không đi đúng đường. Họ có thể là ngôn sứ giả, những kẻ dùng tôn giáo cho mục đích riêng của họ, để quảng bá các lý thuyết riêng của họ về tâm lý hoặc về trí tuệ. Thiên Chúa cao vượt trên chúng ta đến vô cùng vô tận. Ngài đầy bất ngờ. Chẳng phải chúng ta là những người quyết định mình sẽ gặp Ngài khi nào và thế nào. Thời gian và địa điểm chính xác của cuộc gặp gỡ ấy không phụ thuộc vào chúng ta. Ai muốn đòi mọi sự đều phải rõ ràng và chắc nịch, ấy là đang đòi kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa.
42. Chúng ta cũng không có quyền nói là nơi nào không có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa hiện diện cách mầu nhiệm trong cuộc sống mỗi người, theo một cách mà chính Ngài chọn lựa, và chúng ta không thể loại trừ điều này bằng những điều mình cho là chắc chắn. Ngay cả khi đời sống của một người có vẻ hoàn toàn tan nát, ngay cả khi chúng ta thấy đời sống ấy bị các tật xấu hoặc nghiện ngập tàn phá, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn thay vì để cho các định kiến của chính mình khống chế, thì chúng ta có thể và phải cố gắng tìm kiếm Chúa trong mọi đời sống con người. Đây là một phần của mầu nhiệm mà một não trạng ngộ đạo không thể nào chấp nhận được, vì nằm ngoài sự kiểm soát của nó.
Giới hạn của lý trí
43. Chúng ta chỉ hiểu được rất nghèo nàn về chân lý mà chúng ta đã nhận được từ Chúa. Diễn tả được chân lý ấy lại càng khó hơn nữa. Vì vậy, chúng ta không thể tự cho phép mình dùng cách hiểu của mình để giám sát chặt chẽ cuộc sống của những người khác. Ở đây, tôi xin lưu ý rằng trong Hội thánh những cách giải thích khác nhau về nhiều khía cạnh của học thuyết và đời sống Kitô hữu có thể cùng tồn tại bên nhau cách hợp pháp; nhờ đa dạng như thế, chúng “giúp diễn đạt rõ ràng hơn về sự phong phú vô tận của Lời Chúa”. Quả tình, “đối với những người mơ ước một học thuyết toàn khối được tất cả mọi người răm rắp nghe theo, sự đa dạng như thế có lẽ không đáng mong ước và còn dẫn đến chỗ mập mờ” . Thật vậy, một số luồng tư tưởng ngộ đạo đã chế nhạo cái đơn giản cụ thể của Tin mừng và cố gắng thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng một Nhất Thể tối cao, ở đó sự đa dạng phong phú lịch sử của chúng ta bị biến mất.
44. Trên thực tế, học thuyết của Hội thánh, hay đúng hơn, sự hiểu biết và sự diễn tả của chúng ta về học thuyết ấy, “không phải là một hệ thống khép kín, gạt hết cái năng động có khả năng đặt câu hỏi, nêu lên những điểm hoài nghi và thắc mắc... Những câu hỏi dân chúng nêu lên, những đau khổ của họ, những chiến đấu của họ, những ước mơ, những thử thách và những lo âu của họ, tất cả đều có giá trị giải thích mà ta không thể bỏ qua nếu muốn theo đuổi nguyên tắc nhập thể một cách nghiêm chỉnh. Thắc mắc của họ giúp ta suy nghĩ, các câu hỏi của họ chất vấn ta” .
45. Có một nhầm lẫn nguy hiểm vẫn thường xảy ra. Đó là, nghĩ rằng bởi vì mình biết một điều gì đó, hoặc có thể giải thích nó một cách nào đó, nên mình đã thành thánh thiện, hoàn hảo và tốt hơn “đám đông thiếu hiểu biết”. Thánh Gioan Phaolô II đã cảnh báo những người may mắn có học thức cao trong Hội thánh cần tỉnh táo trước cám dỗ “cảm thấy một cách nào đó mình cao vượt hơn các thành phần tín hữu khác” . Thực ra, điều chúng ta nghĩ rằng mình biết phải luôn luôn thúc đẩy chúng ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa một cách trọn vẹn hơn. Quả thật, “anh chị em học như thế là để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau được” .
46. Khi Thánh Phanxicô thành Assisi thấy một số môn đệ của ngài tham gia việc giảng dạy, ngài muốn giúp họ tránh chước cám dỗ của thuyết ngộ đạo. Ngài đã viết cho Thánh Antôn thành Pađôva: “Cha vui mừng khi con dạy thần học thánh cho các anh em, với điều kiện là ... đang khi nghiên cứu như thế, con đừng dập tắt tinh thần cầu nguyện và lòng đạo đức ” . Thánh nhân đã nhận ra cái cám dỗ biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một loạt thực tập về trí tuệ, có nguy cơ tách ta khỏi sự tươi mát của Tin mừng. Mặt khác, Thánh Bonaventura đã chỉ ra rằng lẽ khôn ngoan Kitô giáo chân chính không bao giờ được tách khỏi lòng khoan dung với người bên cạnh ta: “Lẽ khôn ngoan lớn nhất cốt ở chỗ chia sẻ cách hữu hiệu những gì ta có để cho đi, những gì ta được trao ban để dâng hiến ... Cũng tựa như lòng thương xót là bạn đồng hành của lẽ khôn ngoan thế nào, thì tính hà tiện cũng là kẻ thù của nó thế ấy” . Có những hoạt động, khi được kết hợp với chiêm niệm, chẳng những không ngăn cản việc chiêm niệm, mà lại tạo thuận lợi cho nó, chẳng hạn như những việc thương xót và việc sùng mộ” .
THUYẾT PELAGIÔ HIỆN ĐẠI
47. Thuyết ngộ đạo đã mở đường cho một lạc thuyết khác, cũng đang ảnh hưởng nhiều trong thời đại chúng ta. Theo thời gian, nhiều người nhận ra rằng không phải kiến thức khiến ta trở nên tốt hơn hoặc khiến ta nên thánh, mà là cách ta sống. Thế nhưng rồi điều này đã tinh vi đưa người ta quay về lại với sai lầm cố hữu của những người theo thuyết ngộ đạo, một sai lầm chỉ đơn thuần biến đổi chứ không bị loại trừ.
48. Cái sức mạnh mà những người theo ngộ đạo đã gán cho kiến thức, thì giờ đây một số người khác bắt đầu gán cho ý chí của con người, cho nỗ lực cá nhân. Đây là trường hợp những người theo thuyết Pelagiô và thuyết Palagiô-nửa-vời. Giờ đây không phải là trí thông minh thay thế cho mầu nhiệm và ân sủng, mà là ý chí của con người. Người ta đã quên rằng mọi sự “không tùy thuộc vào ý muốn hay nỗ lực của con người, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng tỏ lòng thương xót” (Rm 9,16) và “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga4,19).
Một ý chí thiếu khiêm tốn
49. Những người nặng đầu óc Pelagiô hoặc Pêlagiô-nửa-vời này, mặc dù vẫn nhiệt thành nói về ân sủng của Thiên Chúa, nhưng “chung cuộc chỉ tin cậy vào sức riêng của họ và cảm thấy mình vượt hơn người khác bởi vì họ tuân giữ một số quy luật nào đó hoặc vẫn tuyệt đối trung thành với một kiểu Công Giáo đặc thù” . Khi có ai đó trong họ nói với những người yếu đuối rằng với ơn Chúa mọi sự đều có thể xong cả thì, tự sâu xa họ vẫn muốn mớm ý cho những người ấy rằng mọi sự đều có thể làm được nhờ ý chí của con người, như thể ý chí này là một điều gì đó thuần khiết, hoàn hảo, vạn năng sẵn rồi, còn ân sủng chỉ được thêm vào đó thôi. Họ không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự” , và rằng trong cuộc đời này, những yếu đuối của con người không được chữa lành hẳn cách dứt khoát bằng ân sủng . Trong mọi trường hợp, như thánh Augustinô dạy, Thiên Chúa truyền cho bạn làm những gì có thể làm được còn những gì không thể làm được thì xin ơn Chúa giúp , và hãy cầu nguyện với Ngài cách khiêm tốn: “Xin ban cho con những gì Chúa truyền dạy, và truyền dạy con những gì Chúa muốn” .
50. Cuối cùng, nếu không biết chân thành, đau đớn và thành khẩn nhìn nhận những giới hạn của mình, chúng ta sẽ cản trở không cho ân sủng hoạt động trong chúng ta hiệu quả hơn, vì không còn chỗ để thể hiện sự tốt lành tiềm tàng, vẫn hằng góp phần vào một cuộc hành trình tăng trưởng hồn nhiên và chân thực . “Ân sủng, hẳn vẫn tôn trọng bản tính tự nhiên của ta, chứ đâu có biến ta thành siêu nhân ngay tức thì”. Nghĩ như vậy sẽ là quá tin vào mình. Ở đây đàng sau vẻ chính thống, có thể chúng ta đang có những thái độ không tương ứng với lời mình nói về sự cần thiết của ân sủng, và trong những tình huống nhất định có thể chúng ta sẽ không còn tin tưởng gì mấy vào ân sủng. Nếu không biết nhìn nhận thực tế cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể thấy được những bước đi thật sự và khả thi Chúa đang đòi hỏi chúng ta trong mọi lúc, sau khi đã dùng ân tứ của Ngài để chinh phục ta và ban khả năng cho ta. Ân sủng hành động theo dòng lịch sử; thông thường thì ân sủng nắm lấy ta và biến đổi ta cách từ từ . Nếu ta gạt bỏ thực tại lịch sử và tiệm tiến ấy, thì trong thực tế ta có thể sẽ rơi vào chỗ từ chối và ngăn chặn ân sủng, mặc dù ngoài miệng thì vẫn bô bô tán dương ân sủng.
51. Khi Thiên Chúa nói với ông Abraham, Ngài bảo ông: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng, hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1). Để được nên trọn lành, như Ngài muốn cho ta, ta cần phải sống khiêm tốn trong sự hiện diện của Ngài, được che phủ trong vinh quang của Ngài; ta cần bước đi trong sự hiệp nhất với Ngài, ý thức rằng tình yêu Ngài hằng liên lỉ suốt đời ta. Ta cần phải không còn sợ hãi trước sự hiện diện của Đấng chỉ hiện diện vì ích lợi của ta. Thiên Chúa là Người Cha đã ban cho ta sự sống và hằng yêu thương ta biết bao. Một khi đã đón nhận Ngài, không còn tìm cách sống cuộc sống không có Ngài, thì nỗi thống khổ của cô đơn sẽ biến mất (x. Tv 139,23-24). Bằng cách ấy, ta sẽ biết được ý muốn hoàn hảo của Chúa, ý muôn đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1-2) và để cho Ngài nhào nặn ta như một thợ gốm (x. Is 29,16). Ta thường nói rằng Thiên Chúa ngự trong ta, nhưng tốt hơn nên nói rằng ta ở trong Ngài, để Ngài có thể giúp ta sống trong ánh sáng và tình yêu của Ngài. Ngài là đền thờ của ta; ta cầu xin được ở trong nhà Chúa mọi ngày đời ta (x. Tv 27,4). “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84,10). Chính ở trong Ngài ta được nên thánh.
Một giáo huấn của Hội thánh thường bị coi nhẹ
52. Hội thánh đã nhiều lần dạy rằng chúng ta được nên công chính không nhờ các việc làm hay nỗ lực riêng của mình, nhưng nhờ ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn chủ động. Các Giáo Phụ, ngay cả trước Thánh Augustinô, đã bày tỏ rõ ràng niềm tin cơ bản ấy. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thiên Chúa đổ vào chúng ta chính nguồn mạch mọi hồng ân của Ngài thậm chí trước khi chúng ta bước vào trận chiến . Thánh Basiliô Cả lưu ý rằng các tín hữu chỉ được vinh quang nơi một mình Thiên Chúa, vì “họ nhận ra mình thiếu sự công chính đích thực và chỉ được công chính hoá nhờ đức tin vào Đức Kitô” .
53. Công Đồng Orange II đã dạy cách đầy thẩm quyền rằng không ai trong nhân loại có thể đòi hỏi, đáng được hoặc mua sắm được món quà ân sủng của Thiên Chúa, và rằng mọi sự hợp tác với ân sủng cũng là một ơn do ân sủng ấy ban trước rồi: “Ngay cả ước muốn được thanh tẩy cũng là do chính Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào lòng ta và tác động trong ta” . Sau đó, Công Đồng Trentô, khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự hợp tác của chúng ta trong việc phát triển tâm linh, cũng đã khẳng định lại giáo huấn tín lý ấy: “Bảo rằng chúng ta được công chính hoá một cách “cho không” vì trước khi được công chính hoá thì không có gì xứng đáng với ơn công chính hoá, cho dù là đức tin hay việc làm; vì ‘đã nhờ ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm; bằng không thì ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rm 11,6)” .
54. Sách Giáo Lý của Hội thánh Công Giáo cũng nhắc nhở ta rằng món quà ân sủng “vượt trên sức mạnh của trí tuệ và ý chí của con người” và “trước nhan Thiên Chúa, con người tuyệt đối không có quyền hay công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng khôn lường” . Tình bạn Ngài dành cho ta cao vượt trên ta vô hạn; ta không thể mua tình bạn ấy bằng các việc làm của ta, nó chỉ có thể là một quà tặng phát sinh từ sáng kiến yêu thương của Ngài. Điều ấy mời gọi ta sống trong niềm tri ân vui mừng vì món quà mà ta không hề xứng đáng, vì “sau khi một người có được ân sủng, thì ân sủng này đã có sẵn đâu thể nói do công trạng của người ấy mà có được ” . Các Thánh luôn tránh cậy dựa vào việc làm của mình: “Khi cuộc sống về chiều, con sẽ ra trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng: bởi lẽ, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm những việc con làm... Trước mắt Chúa, mọi sự công chính của chúng con đều đầy tì vết! ” .
55. Đây là một trong những xác tín lớn mà Hội thánh đã kiên quyết giữ vững. Nó được diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa mà không ai có thể thắc mắc gì được. Giống như giới luật yêu thương tối cao, ta phải để cho chân lý này ảnh hưởng lên toàn bộ cách sống của ta, bởi lẽ nó chảy ra từ tâm điểm của Tin mừng và đòi ta không những chấp nhận nó về mặt trí tuệ mà còn phải biến nó thành một nguồn vui có sức lan tỏa. Nhưng ta chỉ có thể mừng hồng ân do tình bạn của Chúa “ban không” như thế, khi nhìn nhận rằng cuộc đời trần thế và cả khả năng tự nhiên của mình cũng là hồng ân của Ngài. Ta cần “hân hoan nhìn nhận rằng sự sống của ta chủ yếu là một ơn ban, và ý thức rằng tự do của ta là một ân huệ. Ngày nay nhìn nhận như thế thật không dễ, giữa một thế giới vẫn nghĩ rằng nó có thể giữ một điều gì đó cho phần nó, như thành quả do chính nó sáng tạo hoặc tự do định đoạt” .
56. Chỉ khi nào khởi đi từ hồng ân Thiên Chúa ban và nhận lấy hồng ân ấy trong tự do và khiêm nhường, ta mới có thể nỗ lực cộng tác vào việc dần dần biến đổi mình . Trước hết, ta phải thuộc về Thiên Chúa, bằng cách hiến dâng chính mình cho Ngài, là Đấng đã ở đó trước, và trao phó cho Ngài mọi khả năng và nỗ lực của ta cũng như cuộc chiến đấu của ta chống lại sự dữ và mọi sáng kiến của ta, thì hồng ân Ngài ban không mới có thể lớn lên và phát triển trong ta: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Về vấn đề ấy, Hội thánh luôn luôn dạy rằng chỉ có đức mến mới làm cho việc lớn lên trong đời sống ân sủng xảy ra, vì “mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cr 13,2).
Những người Pelagiô mới
57. Tuy nhiên, vẫn có một số Kitô hữu cứ nhất quyết đi theo một con đường khác, đòi tự công chính hoá bằng sức riêng, vẫn cứ tôn thờ ý chí nhân loại và khả năng riêng của họ. Kết quả là một sự tự mãn quy về mình và tự coi mình là ưu tú, mất hẳn tình yêu chân thật. Điều này được diễn tả bằng nhiều cách suy nghĩ và hành động có vẻ rời rạc khác nhau: việc bám chặt vào luật lệ, việc quá bận tâm với các lợi thế xã hội và chính trị, một sự bận tâm chi li về phụng vụ, tín lý và uy tín của Hội thánh, một sự huênh hoang về khả năng quản lý các vấn đề thực tiễn, và say sưa tìm đủ cách tự hoàn thiện nhằm đạt được thành tựu cá nhân. Một số Kitô hữu dành hết thời giờ và sức lực cho những điều ấy thay vì để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo con đường tình yêu, say mê truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin mừng và tìm kiếm những anh em bị mất hút giữa đám đông vô số những người đang khao khát Đức Kitô .
58. Đi ngược với những thúc đẩy của Thần Khí, đời sống của Hội thánh thường trở thành một tác phẩm trong viện bảo tàng hoặc vật sở hữu của một số ít người ưu tuyển. Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu quá coi trọng một số luật lệ, thói quen hoặc cách hành động nào đó. Như thế Tin mừng có khuynh hướng bị giảm thiểu và thu hẹp lại, bị tước mất tính đơn giản, sức quyến rũ và hương vị của nó. Đó có thể là một hình thức tinh tế của thuyết Pêlagiô, vì nó có vẻ bắt đời sống ân sủng lệ thuộc vào một số cấu trúc nhân loại. Nó có thể ảnh hưởng đến các nhóm, các phong trào và các cộng đồng, và nó giúp ta hiểu tại sao những người ấy thường hay bắt đầu với một cuộc sống mãnh liệt trong Thần Khí, rồi kết cục lại bị hóa thạch ... hoặc hư hoại.
59. Khi nghĩ rằng mọi sự tùy thuộc vào nỗ lực của con người truyền tải qua những luật lệ và cấu trúc của Hội thánh, chúng ta vô tình biến Tin mừng thành phức tạp và thành nô lệ cho một kế hoạch chi tiết, chỉ còn vài lỗ hổng cho tác động của ân sủng. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở chúng ta rằng các giới luật được Hội thánh thêm vào Tin mừng phải được áp dụng một cách vừa phải “nếu không thì cuộc sống các tín hữu sẽ trở nên nặng nề”, lúc ấy tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành một hình thức nô lệ .
Tóm tắt Lề Luật
60. Để tránh điều ấy, tốt nhất là ta hãy thường xuyên tự nhắc nhở mình rằng có một cấp bậc các nhân đức đang mời gọi chúng ta tìm kiếm điều cốt yếu. Trước hết và trên hết phải là các nhân đức hướng thần, là những nhân đức bắt nguồn từ Thiên Chúa và hướng đến Thiên Chúa. Ở chính giữa là đức ái. Thánh Phaolô nói rằng điều thật sự đáng kể là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). Ta được mời gọi cố gắng hết sức để bảo tồn đức ái: “Vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14).
61. Nói cách khác, giữa một rừng giới luật và mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã dọn sạch một con đường để nhìn thấy hai khuôn mặt, là khuôn mặt của Chúa Cha và của anh chị em chúng ta. Chẳng phải Ngài ban cho ta thêm hai công thức hoặc hai giới luật. Ngài cho ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn nữa, một khuôn mặt duy nhất: khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu nơi rất nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị em của ta, đặc biệt là những người bé nhỏ nhất, những người dễ bị tổn thương nhất, những người không có khả năng tự vệ và những người túng thiếu, ta thấy lộ rõ chính hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, với những mảnh vụn của nhân tính dòn mỏng này, Chúa sẽ hình thành tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của Ngài. Vì “điều gì sẽ tồn tại, điều gì có giá trị trong cuộc sống, những điều phong phú mà không biến mất? Chắc chắn là hai điều này: Chúa và người bên cạnh chúng ta. Đó là hai sự phong phú sẽ không biến mất!” .
62. Nguyện xin Chúa giải thoát Hội thánh khỏi những hình thức ngộ đạo và Pelagiô mới này, là những điều đang đè nặng và ngăn chặn sự tiến bộ của Hội thánh trên con đường nên thánh! Những lầm lạc này có nhiều hình thức khác nhau, theo khí chất và cá tính của mỗi người. Vì vậy, tôi khuyến khích mọi người hãy suy nghĩ và phân định trước mặt Thiên Chúa xem chúng có thể đang dần dần lộ rõ nơi cuộc sống của mình hay không.
CHƯƠNG 3
TRONG ÁNH SÁNG CỦA THẦY CHÍ THÁNH
63. Có thể có nhiều lý thuyết về bản chất sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Những suy tư ấy có thể hữu ích, nhưng không gì có thể soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và xem cách Ngài giảng dạy chân lý. Chúa Giêsu đã giải thích hết sức giản dị về ý nghĩa của việc nên thánh khi Ngài dạy cho ta biết các mối Phúc thật (xem Mt5,3-12; Lc6,20-23). Các mối Phúc tựa như cái thẻ chứng minh của Kitô hữu. Vì vậy, nếu được hỏi: “Ta phải làm gì để là một Kitô hữu tốt?”, ta có thể trả lời ngay: Cần phải thực hành, ai theo phận nấy, điều Chúa Giêsu đã nói với ta trong Bài giảng trên núi . Qua các mối Phúc, ta nhận ra chân dung của Thầy chúng ta, chân dung mà ta được mời gọi phản chiếu lại trong cuộc sống hàng ngày của mình.
64. Hai tiếng “hạnh phúc” hay “phúc thay” trở thành đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả sự kiện ai hiến mình để sống trung thành với Thiên Chúa và Lời Ngài, sẽ đạt được hạnh phúc đích thật.
LỘI NGƯỢC DÒNG
65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe như thi vị, nhưng rõ ràng là chúng ngược hẳn với cách mọi việc vẫn thường diễn ra trong thế giới của chúng ta. Cho dù chúng ta thấy mình được sứ điệp của Chúa Giêsu cuốn hút, thế gian vẫn đẩy chúng ta tới một cách sống khác. Các mối Phúc không hề là cái gì tầm thường hay dễ thoả mãn, mà hoàn toàn ngược lại. Ta chỉ có thể sống được các mối Phúc ấy nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên ta và giải thoát ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu hãnh của mình.
66. Ta hãy lắng nghe Thầy Giêsu một lần nữa bằng tất cả tình yêu và lòng tôn kính mà Thầy đáng được. Hãy để cho những lời của Thầy chạm thẳng đến ta, thách thức ta và đòi ta phải thật sự thay đổi cách sống. Nếu không, sự thánh thiện sẽ vẫn chỉ là một từ rỗng. Nào, ta hãy quay về với từng mối Phúc một trong Tin mừng theo Thánh Matthêu (x. Mt5,3-12) .
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
67. Tin mừng mời ta nhìn kỹ vào tận đáy lòng mình, để xem ta đặt chỗ dựa an toàn cho đời mình ở đâu. Thường thì những người giàu cảm thấy an toàn trong của cải họ có, và nghĩ rằng, nếu của cải ấy bị đe dọa, thì toàn bộ ý nghĩa cuộc đời trần thế của họ cũng sụp đổ. Chính Chúa Giêsu nói với ta điều ấy qua dụ ngôn người phú hộ điên rồ: Ông ta tự tin lắm, nhưng thật ra rất điên rồ, vì không tính đến chuyện mình có thể chết ngay chính hôm ấy (x. Lc 12,16-21 ).
68. Sự giàu có không đảm bảo được gì cả. Thật vậy, một khi ta nghĩ mình giàu có, ta có thể trở nên tự mãn, không còn dành chỗ cho Lời Chúa, cho tình nghĩa với anh chị em mình, và cả cho việc thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời. Và thế là, ta bỏ lỡ mất kho báu lớn hơn tất cả mọi kho báu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó, những người có tấm lòng đơn nghèo là có phúc, vì Chúa có thể bước vào trong tấm lòng ấy với sự mới mẻ mãi mãi của Ngài.
69. Sự nghèo khó tinh thần này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Ignatiô Loyola gọi là “sự thờ ơ thánh thiện” [Ghi chú của người dịch: Cũng có thể nói là: sự dửng dưng, sự bình tâm, sự không màng], là điều mang lại cho chúng ta một tự do nội tâm kỳ diệu: “Để được như thế, chúng ta cần đào luyện cho mình biết thờ ơ với tất cả các thụ tạo, với tất cả những gì mà ý chí tự do của mình được phép chọn và không bị cấm; ngõ hầu về phần mình, chúng ta không bận tâm với chuyện có sức khoẻ nhiều hay ít, giàu có hơn là nghèo khổ, được khen ngợi hơn là bị chê bai, sống lâu hơn là chết sớm, và tương tự như thế đối với tất cả những gì còn lại” .
70. Thánh Luca không đề cập tới sự nghèo khó trong “tinh thần” mà chỉ đơn giản nói về những người đang “nghèo” (x. Lc 6,20). Và như thế, ngài cũng mời gọi ta sống giản dị và khắc khổ. Ngài kêu gọi ta chia sẻ với cuộc sống của những người nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông Đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng mặc dù giàu sang, nhưng “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9).
Trở nên nghèo trong tinh thần: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”
71. Đây là một diễn tả mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu đã từng là nơi xung đột, tranh chấp và thù hận khắp mọi phía, nơi mà ta liên tục xếp loại người khác dựa trên ý tưởng và tập tục của họ, và thậm chí còn dựa trên cách nói năng hoặc ăn mặc của họ. Cuối cùng, đó là vương triều của kiêu hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người đều nghĩ mình có quyền đè bẹp người khác. Tuy nhiên, dù có vẻ không khả thi, Chúa Giêsu lại đề nghị một đường lối khác: đường lối hiền lành. Đó là đường lối ta đã thấy Ngài xử sự với các môn đệ của Ngài. Đó là điều ta chiêm ngắm khi Ngài vào Giêrusalem: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dc9,9).
72. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Nếu ta luôn bực tức và mất kiên nhẫn với người khác, ta sẽ mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng nếu ta nhìn vào những lỗi lầm và giới hạn của người khác với sự dịu dàng và hiền lành, không tỏ ra mình hơn họ, ta có thể thật sự giúp đỡ họ và ngừng phí phạm sức lực của mình trong việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại việc dung thứ lầm lỗi của người khác, và không ngạc nhiên vì những yếu đuối của họ” .
73. Thánh Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài đề nghị rằng, nếu có khi nào ta nặng lòng vì một hành vi sai trái của một anh chị em nào đó của mình, thì ta nên cố gắng sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, vì chính ta “cũng có thể bị cám dỗ” (Ga 6,1). Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, ta cũng phải làm thế “cách hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Cả với những kẻ chống báng, ta cũng phải đối xử “cách hiền hòa” (2 Tm 2,25). Trong Hội thánh, biết bao lần ta đã sai lầm vì không chịu đón nhận đòi hỏi ấy của Lời Chúa.
74. Sự hiền lành là một cách diễn tả khác về tinh thần nghèo khó nội tâm của những người chỉ tin cậy nơi một mình Thiên Chúa. Quả thực, trong Kinh thánh người ta thường dùng cùng một từ - anawim – để nói về cả người nghèo và người hiền lành. Một số người có thể phản đối: “Nếu tôi quá hiền lành, người ta sẽ nghĩ là tôi ngốc, tôi khùng hoặc nhu nhược”. Chuyện ấy có thể xảy ra, nhưng hãy để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Phần ta, tốt hơn, cứ luôn luôn hiền lành, rồi những ước muốn sâu xa của ta sẽ thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”, họ sẽ thấy những lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành ngay trong đời họ. Dù trong hoàn cảnh nào, người hiền lành vẫn đặt niềm hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng vào Ngài sẽ được đất ... và tận hưởng sự bình an trọn vẹn (x. Tv 37,9,11). Đồng thời Chúa cũng tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn: đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ” (Is 66,2).
Phản ứng với lòng hiền lành và khiêm nhường: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”.
75. Thế gian đề nghị với ta điều ngược hẳn lại: giải trí, giải khuây, vui chơi và tiêu khiển rồi bảo ta rằng những điều ấy làm cho cuộc sống được tốt đẹp. Người thuộc về thế gian phớt lờ, quay mắt không nhìn những vấn đề đau ốm hay buồn phiền trong gia đình hoặc chung quanh. Thế gian không muốn khóc lóc; họ muốn làm ngơ trước những cảnh đau đớn, muốn che đậy hoặc giấu đi. Người ta tốn nhiều công sức để chạy trốn những tình trạng đau khổ, tự cho rằng có thể che giấu được thực tại. Thế nhưng làm sao tránh khỏi thập giá?
76. Người biết nhìn mọi sự đúng theo thực tế của chúng, biết để cho khổ đau và than khóc xuyên thấu cõi lòng, sẽ có khả năng chạm đến những gì sâu thẳm nhất của cuộc đời và gặp được hạnh phúc đích thực . Họ được an ủi, không phải bởi thế gian mà bởi Chúa Giêsu. Và như thế họ có can đảm chia sẻ nỗi khổ của người khác và không còn chạy trốn những hoàn cảnh đau thương. Nhờ đó, họ nhận ra cuộc đời này thật ý nghĩa khi biết giúp đỡ những người đang đau khổ, biết cảm thông với những người đang âu lo phiền muộn, biết cứu giúp tha nhân. Họ cảm nhận rằng người khác là xương là thịt của mình, và không sợ lại gần, thậm chí còn sờ vào những vết thương của người ấy. Họ thấy cảm thương cho người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều biến mất. Và như thế, họ có thể thấu triệt lời khuyên của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với những kẻ khóc” (Rm 12,15).
Biết cách cùng than khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”.
[Ghi chú của người dịch: Ở đây, cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều cùng một từ là “justice” nhưng bên tiếng Việt tùy trường hợp sẽ được dịch là “công bằng”/ hay “công bình” (khi trao đổi hoặc phân chia: của ai trả nấy, mỗi người phải nhận được đúng phần của mình), “ công lý” (=lẽ công bằng = công bằng trước pháp luật: phần ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu) hoặc “công chính” (về xã hội tôn giáo: người không vướng mắc tội ác hoặc lỗi lầm nào). Cũng có những chỗ khó phân biệt rõ, sẽ được dịch là “công lý”, xin độc giả lưu ý để dễ hiểu theo từng trường hợp.]
77. Đói và khát là những cảm nghiệm mãnh liệt, dội lại từ những nhu cầu cốt yếu và bản năng sống còn của ta. Có những người ao ước công lý và khao khát sự công chính cách mãnh liệt như thế. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được no thoả, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Ta có thể cùng góp phần làm cho công lý mau đến, cho dù chẳng phải lúc nào ta cũng được nhìn thấy hoa quả các nỗ lực của mình.
78. Công lý Chúa Giêsu nêu lên khác với thứ công lý của thế gian, thường bị những quyền lợi nhỏ nhen làm vẩn đục và bị người ta lèo lái cách này cách khác. Thực tế cho thấy thứ công lý này rất dễ bị sa lầy trong tham nhũng, bị vướng vào cái khôn khéo có đi có lại (quid pro quo) thường ngày, mọi sự đều thành mua bán đổi chác. Bao nhiêu người hứng chịu bất công, bất lực đứng bên lề đang khi những người khác chia nhau những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Lắm người buông xuôi, thôi chiến đấu cho công lý đích thật và chọn nhảy lên đoàn tàu của kẻ chiến thắng. Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Chúa Giêsu ca tụng.
79. Công lý đích thực là chuyện trong đời thường của dân chúng khi chính họ thể hiện công bình trong các quyết định của họ; công lý đích thực cũng được hiểu là việc theo đuổi công lý cho những người nghèo và người cô thế. Đành rằng “công chính” (công lý) có thể là một từ đồng nghĩa với việc trung thành với Thánh Ý của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống mình, nhưng đừng vì ý nghĩa quá tổng quát ấy, mà quên rằng công lý còn được dùng riêng để chỉ lẽ công bình đối với những người dễ bị tổn thương nhất: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, hãy sửa phạt người áp bức; xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).
Khát khao lẽ công bình: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
80. Thương xót có hai khía cạnh. Một bên nhấn mạnh tới sự trao tặng (cho), giúp đỡ và phục vụ người khác, và một bên nhấn mạnh sự tha thứ và cảm thông. Thánh Matthêu tóm lược điều ấy vào một luật vàng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12). Sách Giáo lý nhắc ta nhớ rằng luật này được áp dụng “trong mọi trường hợp” , đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những tình huống khiến các phán đoán về luân lý không được chắc chắn và khó quyết định” .
81. Cho và tha thứ chính là cố gắng thể hiện lại nơi đời ta một mức cỏn con về sự hoàn thiện của Thiên Chúa, Đấng cho và tha thứ nhiều vô cùng vô tận. Vì lý do ấy, trong Tin mừng Thánh Luca, ta không nghe dạy “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng thay vào đó là: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” (Lc 6,36-38). Tiếp đó, Thánh Luca thêm một điều mà ta không được bỏ qua: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Tiêu chuẩn mà ta dùng để hiểu và tha thứ cho người khác sẽ được dùng để đong sự tha thứ dành cho ta. Tiêu chuẩn ta dùng để cho sẽ được dùng để đong những gì ta nhận lại. Ta không bao giờ được quên điều ấy.
82. Chúa Giêsu không nói, “Phúc cho những kẻ tìm cách báo thù”. Ngài gọi những người tha thứ và tha thứ “bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18,22) là những người “được chúc phúc”. Chúng ta chẳng khác nào một đạo quân những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đã được đoái nhìn với lòng từ bi của Thiên Chúa. Nếu ta thật lòng đến gần Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể lắm lúc ta cũng nghe được lời Ngài quở trách: “Vậy ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33).
Thấy và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.
83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một con tim biết yêu không chấp nhận những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Kinh thánh sử dụng trái tim để mô tả những ý định thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, vượt xa tất cả những vẻ bề ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với cõi lòng của ta (x. Hs 2,16); ở đó Ngài muốn ghi Lề Luật của Ngài (x. Gr 31,33). Nói cách khác, Ngài muốn cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).
84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Không có gì bị sự giả dối vấy bẩn mà có được giá trị thật sự trong mắt Chúa. Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín ẩn” (Mt 6,6), nhận ra điều gì thiếu tinh khiết và không chân thành, mà chỉ nặng phần trình diễn hay có vẻ bề ngoài; Chúa Con cũng thế, Ngài là Đấng biết “có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25).
85. Chắc hẳn không thể có tình yêu mà không có những nghĩa cử yêu thương, nhưng Mối phúc này nhắc ta nhớ rằng Chúa đòi hỏi sự quên mình phục vụ anh chị em mình phải đến từ con tim. Vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, ta còn thấy rằng cũng từ con tim phát xuất những điều khiến người ta thành ô uế (x. 15,18), vì từ con tim phát ra những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng dối, và những việc làm gian ác khác (x. 15,19). Từ những ý định của con tim phát sinh những ham muốn và những quyết định sâu xa nhất định đoạt các hành động của ta.
86. Một con tim thật sự yêu mến Thiên Chúa và người bên cạnh (x. Mt 22,36-40), chứ không chỉ nói suông, là một con tim trong sạch; nó có thể thấy Thiên Chúa. Trong bài ca đức ái, Thánh Phaolô nói rằng “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1 Cr 13,12), nhưng sự thật và tình yêu càng thắng thế, ta càng có thể nhìn thấy “tận mắt”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ thấy Thiên Chúa”.
Giữ cho lòng mình khỏi vướng tất cả những gì làm cho tình yêu hoen ố: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
87. Nhắc tới mối Phúc này, ta thấy nặng lòng vì những hoàn cảnh không ngừng đưa tới chiến tranh trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn lại bản thân chúng ta vẫn thường là nguyên nhân tạo nên xung đột hoặc ít ra là hiểu lầm. Thí dụ, tôi nghe được một điều gì về một người nào đó và tôi ra ngoài kể lại cho người khác. Thậm chí có thể tôi còn thêm mắm thêm muối thành một câu chuyện mới rồi tiếp tục loan truyền nó ... Và hình như câu chuyện càng gây thêm tai hại, tôi càng hài lòng về nó. Thế giới của những tin đồn, bị những kẻ tiêu cực và phá hoại chiếm đóng, không mang lại hòa bình. Những kẻ như vậy thật đúng là kẻ thù của hòa bình; họ không sao “được chúc phúc” .
88. Những người kiến tạo hòa bình là nguồn bình an; họ xây dựng hòa bình và tình bạn trong xã hội. Đối với những người gieo vãi hòa bình, Chúa Giêsu đã hứa cho họ một ơn kỳ diệu: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ngài đã dặn các môn đệ rằng, hễ vào bất cứ nhà nào cũng đều nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5). Lời Chúa khuyến khích mọi tín hữu đều phải mưu tìm hoà bình “cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). “Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.” (Gc 3,18). Và nếu có lúc nào ta phân vân tự hỏi phải làm gì trong cộng đồng, thì “ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì hiệp nhất đáng ưa chuộng hơn là xung đột .
89. Để “tạo ra” thứ hòa bình theo Tin mừng này không dễ, vì đây là thứ hoà bình không loại trừ ai, nhưng bao gồm cả những người hơi kỳ cục, gây phiền toái phức tạp, cả những người ưa đòi hỏi, lập dị, bị bầm dập vì cuộc sống hoặc chỉ là những kẻ bất cần đời. Đó là việc rất khó, đòi phải mở rộng cả tâm và trí, bởi vì nó không phải là việc lập ra một “sự đồng thuận trên giấy tờ hoặc một hòa bình tạm bợ vừa ý một nhóm nhỏ” , cũng không phải là một dự phóng “của một ít người hướng tới một ít người” . Nó cũng không cố lờ đi hoặc xí xóa các xung đột; trái lại, nó phải “đối diện trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và làm cho nó thành một mắt xích trong dây chuyền của một tiến trình mới” . Nó đòi phải có những người xây dựng hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ thuật đòi hỏi sự bình thản, sáng tạo, nhạy cảm và kỹ năng.
Gieo vãi hoà bình quanh chúng ta: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.
90. Chính Chúa Giêsu cảnh báo ta rằng đây là con đường lội ngược dòng đời, thậm chí biến ta thành những kẻ dám lấy cách sống của mình để thách đố xã hội, và kết quả là trở thành những kẻ gây phiền toái. Ngài nhắc ta nhớ đến biết bao người đã và đang bị bách hại chỉ vì đấu tranh cho công lý, vì dám sống đúng theo trách nhiệm đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu ta đã không muốn chìm vào cái tầm thường tăm tối, thì đừng theo đuổi một cuộc sống dễ dàng, bởi lẽ “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
91. Khi sống Tin mừng, ta không thể mong đợi mọi sự sẽ thuận lợi, bởi vì những tham vọng quyền lực và lợi ích thế tục thường chống lại ta. Thánh Gioan Phaolô II đã lưu ý rằng “Một xã hội mà trong đó các hình thức tổ chức, sản xuất và tiêu thụ, đều gây khó khăn cho việc quên mình để xây dựng tình liên đới giữa con người, thì đã hoàn toàn đánh mất chính mình” . Trong một xã hội đánh mất chính mình như vậy, sự rối mù về chính trị, truyền thông, kinh tế, văn hoá và thậm chí cả tôn giáo nữa…. trở thành một trở ngại không cho con người và xã hội được phát triển đích thực. Kết quả là người ta khó mà sống các mối Phúc thật; bất cứ nỗ lực nào nhằm sống như thế đều bị nhìn một cách tiêu cực, bị ngờ vực và nhạo báng.
92. Dù ta có vất vả và đau đớn đến đâu khi sống giới luật yêu thương và đi theo con đường công lý, Thánh giá vẫn là nguồn mạch giúp ta trưởng thành và nên thánh. Chúng ta không bao giờ được quên rằng khi Tân ước nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ phải chịu đau khổ vì Tin mừng, là nói rõ về những cuộc bách hại (x. Cv5,41, Pl1,29, Cl1,24, 2 Tm1,12, 1 Pr2,20, 4,14-16, Kh2,10).
93. Nhưng ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không thể tránh được, chứ không phải loại bách hại mà chúng ta có thể tự gây ra cho mình khi đối xử với những người khác một cách tồi tệ. Các thánh không phải là những người kỳ quặc, xa cách, mà không ai chịu nổi vì sự hợm mình, sự tiêu cực và sự cay đắng của họ. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Công vụ các Tông đồ lặp đi lặp lại rằng các ngài được lòng “tất cả mọi người” (2,47; x. 4,21.33;5,13), ngay cả khi một số nhà cầm quyền đã sách nhiễu và bách hại các ngài (xem 4,1-3;5,17-18).
94. Những cuộc bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng ta vẫn đang trải nghiệm, cho dù bằng cách đổ máu, như biết bao vị tử vì đạo hiện nay, hoặc bằng những phương cách tế nhị hơn, bằng vu khống và lừa dối. Chúa Giêsu bảo rằng chúng ta có phúc khi người ta “vu khống cho anh em đủ điều xấu xa vì Thầy” (Mt5,11). Lắm lúc, nó có thể mang hình thức những sự chế nhạo cố gắng châm biếm đức tin của ta và biến ta thành ra có vẻ lố bịch.
Chấp nhận hàng ngày con đường Tin mừng, dù nó có thể gây khó khăn cho chúng ta: đó là thánh thiện.
TIÊU CHUẨN LỚN
95. Trong chương hai mươi lăm của Tin mừng Thánh Matthêu (câu 31-46), Chúa Giêsu nói rộng thêm về mối Phúc tuyên bố những người có lòng thương xót là có phúc. Thương xót chính là sự thánh thiện làm đẹp mắt Thiên Chúa, và đoạn văn này nêu cao cái chuẩn mực rõ ràng Chúa sẽ dựa trên đó mà xét xử ta. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(các câu 35-36).
Trong sự trung thành với Thầy
96. Như thế, nên thánh không có nghĩa là mê mẩn trong trạng thái xuất thần huyền bí. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thật sự xuất phát lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, chúng ta phải học cách nhìn thấy Ngài đặc biệt là trên khuôn mặt những kẻ mà chính Ngài muốn tự đồng hoá mình với họ” . Đoạn văn Matthêu 25,35-36 “không phải chỉ giản dị mời gọi sống đức ái: đó còn là một trang Kitô học đang chiếu một tia sáng lên mầu nhiệm Đức Kitô” . Khi kêu gọi ta nhận ra Ngài nơi những người nghèo và đau khổ ấy, chính Thánh Tâm Đức Kitô tỏ cho ta thấy những cảm xúc và sự chọn lựa sâu thẳm nhất của Ngài, mà mỗi vị thánh tìm cách noi gương.
97. Vì những đòi hỏi ấy của Chúa Giêsu rất quyết liệt, tôi có nhiệm vụ phải yêu cầu các Kitô hữu thừa nhận và chấp nhận chúng với một tinh thần hết sức cởi mở, sine glossa, tức là không nêu một chữ “nếu”, chữ “nhưng” nào có thể làm giảm sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể hiểu hay sống ngoài những đòi hỏi ấy, vì lòng thương xót là “con tim đang đập của Tin mừng” .
98.Gặp một người ngủ ngoài trời giữa một đêm lạnh lẽo, tôi có thể coi người ấy như một điều phiền nhiễu, quấy rầy, trở ngại trên đường của tôi, một cảnh tượng phiền toái, một vấn đề để cho các chính trị gia giải quyết, hoặc thậm chí một đống rác bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi đáp lại với đức tin và đức ái, thấy nơi người ấy một con người có cùng một phẩm giá như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Chúa Giêsu cứu chuộc. Thế mới là Kitô hữu! Nếu không nhìn nhận cách sống động về phẩm giá của mỗi con người như thế liệu sự thánh thiện còn có ý nghĩa gì chăng? .
99. Đối với các Kitô hữu, điều này ấp ủ một thao thức lành mạnh và khôn nguôi. Dù rằng chỉ an ủi nâng đỡ được một người thôi cũng đã đáng với tất cả những cố gắng của ta, nhưng như thế chưa đủ. Các giám mục Canađa đã làm sáng tỏ điều ấy khi các ngài nhấn mạnh, chẳng hạn qua giáo huấn Kinh thánh về Năm thánh, rằng vấn đề không chỉ làm cho xong một số việc lành nhưng còn phải tìm cách thay đổi xã hội: “Để cho các thế hệ sau này cũng được giải thoát, rõ ràng mục tiêu phải là khôi phục lại các hệ thống công bằng về xã hội và kinh tế, để không còn ai bị loại trừ nữa” .
Những cách suy nghĩ xô lệch trọng tâm của Tin mừng
100. Tôi tiếc rằng đôi khi có những cách suy nghĩ dẫn chúng ta đến hai sai lầm nguy hại. Một đàng, là cái sai lầm của những Kitô hữu tách hẳn những đòi hỏi ấy của Tin mừng ra khỏi mối liên hệ của bản thân từng người với Chúa, ra khỏi sự kết hợp nội tâm của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng ra cho ân sủng. Như thế, Kitô giáo trở thành một loại tổ chức từ thiện phi chính phủ (NGO), bị tước mất chiều kích thần bí sáng ngời được chứng tỏ trong đời sống của Thánh Phanxicô thành Assisi, Thánh Vincentê đệ Phaolô, Thánh Têrêxa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác. Đối với những vị thánh lớn này, việc nguyện ngắm, việc yêu Chúa và việc đọc Tin mừng không hề làm giảm bớt sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu dành cho những người bên cạnh mình, hoàn toàn ngược lại là khác.
101. Cách suy nghĩ sai lầm và nguy hại khác là của những kẻ hoài nghi việc dấn thân vào xã hội của người khác, coi đó như là chuyện hời hợt, phàm tục, trần thế, vật chất, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hoá nó, như thể là còn có những vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể chỉ có điều duy nhất đáng kể là vấn đề đạo đức cụ thể nào đó hoặc một vụ việc nào đó mà họ đang bảo vệ. Chẳng hạn như, việc bảo vệ các trẻ em vô tội chưa sinh ra của chúng ta cần phải dứt khoát rõ ràng, chắc chắn và say mê, vì chạm thẳng đến phẩm giá của một sự sống con người, là điều luôn thánh thiêng và đến lòng yêu quý phải dành cho mỗi ngôi vị con người, không kể con người ấy phát triển tới giai đoạn nào. Tuy nhiên, cả sự sống của những người đã được sinh ra cũng thánh thiêng không kém, như sự sống của những người nghèo, những người bị bỏ rơi và bị thiệt thòi, những người khuyết tật dễ bị tổn thương, những người già cả dễ làm mồi cho việc giết chết êm dịu khéo che đậy, những nạn nhân của nạn buôn người, những hình thức nô lệ mới và mọi hình thức loại trừ . Chúng ta không thể chủ trương một lý tưởng về thánh thiện không bận tâm gì đến những bất công trong một thế giới mà một số người vui vẻ ăn uống say sưa, chi tiêu bừa bãi và sống chỉ để hưởng những món hàng tiêu thụ mới nhất, đang khi những người khác chỉ nhìn từ bên ngoài, và sống lây lất suốt đời trong nghèo đói thê thảm.
102. Ta thường nghe nói rằng, đem so với thuyết tương đối và những sai lỗi nơi thế giới hiện tại của ta, thì tình trạng di dân chẳng hạn, chỉ là một vấn đề thứ yếu. Một số người Công Giáo coi đó là đề tài phụ so với những vấn đề về sinh học “nghiêm trọng”. Một chính trị gia đang kiếm phiếu phát biểu như thế thì có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì không, vì thái độ đúng đắn duy nhất là đứng vào vị trí của các anh chị em chúng ta, những người liều mất cả mạng sống để bảo đảm cho con cái mình có được một tương lai. Liệu ta có thể không nhận ra rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đòi hỏi ta, khi Ngài bảo rằng mỗi lần ta đón tiếp khách lạ là đón tiếp Ngài chăng (x. Mt 25,35)? Thánh Bênêđictô đã chấp nhận điều ấy không chút dè dặt, cho dù nó có thể khiến cuộc sống của các tu sĩ thành “phức tạp”, ngài đã ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện đều phải được đón tiếp “như Đức Kitô” , với một cử chỉ tôn kính ; người nghèo và người hành hương phải được cư xử với “sự chăm sóc ân cần nhất” .
103. Cựu ước cũng dạy tương tự như thế: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. ” (Xh 22,20). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,33-34). Đó không phải là một khái niệm được một số Giáo hoàng phát minh, hoặc một mốt nhất thời ngắn ngủi. Cũng trong thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi đi theo nẻo đường tâm linh khôn ngoan mà ngôn sứ Isaia đề ra để cho thấy điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).
Sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa nhất
104. Ta có thể nghĩ rằng chỉ cần làm việc thờ phượng và cầu nguyện là đã tôn vinh Thiên Chúa, hoặc chỉ cần tuân giữ một số quy tắc đạo đức nào đó là đã đủ. Đúng là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa vẫn ưu tiên hơn, thế nhưng ta không thể quên rằng tiêu chuẩn cuối cùng Chúa sẽ dựa vào để xét xử đời ta là những gì ta đã làm cho người khác. Cầu nguyện là điều quý giá nhất, vì nó giúp ta trung thành dấn thân sống yêu thương mỗi ngày. Việc thờ phượng của ta đẹp lòng Thiên Chúa khi ta tự nguyện sống hào hiệp, biết để cho món quà Thiên Chúa ban cho ta trong cầu nguyện biến bản thân ta thành món quà cho anh chị em mình.
105. Tương tự như thế, cách phân định tốt nhất để biết được lời cầu nguyện của ta có chân thực hay chăng là xét xem cuộc sống ta có đang được biến đổi trong ánh sáng của lòng thương xót hay chăng. Thật vậy, “lòng thương xót không chỉ là hành động của Chúa Cha; mà còn trở thành một tiêu chuẩn để biết được ai là con cái thật của Ngài” . Lòng thương xót “chính là nền tảng của đời sống của Hội thánh” . Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng lòng thương xót không loại trừ công bằng và sự thật; quả thực “chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của đức công chính và là biểu lộ rực rỡ nhất về sự thật của Thiên Chúa” . Đó là “chìa khóa Thiên Đàng” .
106. Ở đây, tôi nhớ đến câu hỏi Thánh Tôma Aquinô đã nêu ra khi xét xem nơi những hành động của ta đâu là những hành động cao quý nhất, đâu là những việc làm bề ngoài cho thấy rõ nhất là ta yêu mến Thiên Chúa. Thánh Tôma đã không ngần ngại trả lời rằng đó là những việc thương xót đối với người bên cạnh chúng ta , thậm chí còn hơn cả các hành vi thờ phượng của ta: “Ta thờ phượng Thiên Chúa bằng những hy sinh và của lễ bên ngoài, không nhắm lợi ích gì cho Ngài, nhưng chỉ vì lợi ích của chính chúng ta và những người bên cạnh chúng ta. Vì Ngài không cần những hy lễ của ta, nhưng muốn chúng được dâng lên Ngài, để khơi dậy lòng sùng kính của ta và sinh ích cho những người bên cạnh ta. Vì thế, lòng thương xót đã khiến ta chu cấp cho những nhu cầu của người khác, là một sự hy sinh dễ được Chúa vui nhận hơn cả, vì trực tiếp hướng đến hạnh phúc của những người bên cạnh chúng ta hơn” .
107. Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng cuộc sống mình, những người thực sự ao ước thánh hóa bản thân để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Thánh, được mời gọi bền tâm vững chí thực hành các việc thương xót. Thánh Têrêxa thành Calcutta đã ý thức điều ấy rất rõ: “Vâng, tôi có nhiều yếu đuối lỗi lầm và khốn cùng của phận người ... Nhưng Thiên Chúa cúi xuống và dùng chúng ta, bạn và tôi, để chúng ta trở thành tình yêu và lòng thương xót của Ngài trên thế gian; Ngài gánh lấy tội lỗi ta, những khó khăn và lỗi lầm của ta. Ngài lệ thuộc vào ta để yêu thế gian và để cho thế gian thấy Ngài yêu nó đến mức nào. Nếu ta quá bận tâm đến bản thân mình, ta sẽ không còn thời giờ cho người khác nữa” .
108. Chủ nghĩa hưởng thụ và tiêu thụ có thể quật ngược lại ta, bởi vì khi ta bị ám ảnh lo cho khoái cảm riêng của mình, ta sẽ trở nên quá quan tâm đến bản thân và các quyền lợi của mình, và ta cảm thấy bức bách phải có thời giờ rảnh rỗi để vui hưởng. Ta sẽ thấy khó mà đồng cảm, khó mà thực sự quan tâm tới những kẻ túng cùng, nếu ta không biết tự vun trồng lấy một chút giản dị cho cuộc sống, chống lại cơn sốt nhu cầu mà xã hội tiêu thụ đang đè nặng lên ta, đang biến ta thành nghèo nàn và bị ức chế, bồn chồn muốn có ngay tất cả và thử hết mọi thứ ngay bây giờ. Tương tự như thế, khi ta để mình bị cuốn vào những tin tức hời hợt, truyền thông chớp nhoáng và thực tế ảo, ta có thể lãng phí hết thời giờ quý báu và trở nên thờ ơ với những vết thương của anh chị em mình. Tuy nhiên, ngay cả giữa cơn lốc náo hoạt ấy, Tin mừng vẫn tiếp tục vang lên, đề ra cho ta lời hứa hẹn một cuộc sống khác, một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc hơn.
109. Sức mạnh nơi chứng từ của các thánh là tuân giữ các mối Phúc thật và chuẩn mực của cuộc phán xét cuối cùng. Chúa Giêsu chỉ nói mấy lời đơn giản nhưng rất thiết thực và có giá trị đối với hết mọi người, vì trên tất cả mọi sự, Kitô giáo chính yếu là để đem ra thực hành. Nó cũng có thể là một đối tượng nghiên cứu và suy niệm, nhưng điều này chỉ có giá trị khi giúp ta sống Tin mừng tốt hơn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Tôi đề nghị mọi người đọc lại những đoạn văn Kinh thánh quan trọng ấy, thảo luận về chúng, cầu nguyện với chúng, cố gắng biến chúng thành sự sống. Chúng sẽ có ích cho ta; chúng sẽ làm cho ta được thực sự hạnh phúc.
CHƯƠNG 4
MẤY NÉT TIÊU BIỂU VỀ SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Giữa bức tranh toàn cảnh của sự thánh thiện được các mối Phúc thật và đoạn 25,31-46 của thánh Matthêu đưa ra, tôi muốn lưu ý riêng đến vài nét đặc thù tiêu biểu về đàng tâm linh, mà tôi cho là rất cần thiết để hiểu được cách sống Chúa đang mời gọi ta. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà ta đã biết: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh của mình, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và bao nhiêu việc khác nữa. Tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ âm vang một cách đặc biệt.
111. Những nét tiêu biểu tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm diễn tả nổi bật về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt do một số nguy cơ và giới hạn riêng của văn hoá ngày nay. Giữa cái văn hóa ấy ta cảm thấy một nỗi lo lắng bực bội gần như muốn bạo động, khiến ta quẫn trí và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và đủ thứ hình thức tâm linh lệch lạc, không ăn nhập gì với Thiên Chúa, hiện đang thống trị cái chợ đời hỗn độn về tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Nét đầu tiên trong những nét tiêu biểu trổi vượt này là sự tập trung vào Thiên Chúa và bám chặt vào Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ ta. Đây là nguồn sức mạnh nội tâm giúp ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, mà cũng giúp ta chịu đựng được sự thù ghét, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp ta, thì ai chống lại được ta?” (Rm 8,31): Đây là nguồn bình an ta gặp được nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong cái thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì chỉ những ai tín thác vào Thiên Chúa (pístis) mới có thể trung tín với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thế có thể không gặp được sự vui thoả tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (x. Rm 12,17), đừng tự mình báo oán (x. 19), đừng để bị sự dữ khuất phục, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối nhưng là của sức mạnh thật sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Nh1,3). Lời Chúa dạy ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
114. Ta cần phải vật lộn với các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đề phòng đừng để cho chúng bén rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bị đuối sức, ta vẫn luôn có thể bám chặt lấy sự cầu nguyện như chiếc mỏ neo đưa chúng ta về lại với vòng tay Thiên Chúa là nguồn bình an của ta. “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,6-7).
115. Người Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông kỹ thuật số khác nhau. Ngay cả nơi những phương tiện truyền thông Công Giáo, người ta vẫn có thể đi quá mức, chuyện phỉ báng và vu khống có thể thành cơm bữa, có thể gạt bỏ mất mọi tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng thanh danh người khác. Kết quả là một sự phân cực nguy hiểm, vì ở đó người ta nói những chuyện không thể nào chấp nhận được khi nói trước công chúng, và người ta tìm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ người khác. Điều đáng quan tâm là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại thanh danh người khác. Họ mặc sức chứng tỏ cho thiên hạ thấy rằng “cái lưỡi là thế giới của sự ác” và “đốt cháy vòng xoay cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy”(Gc 3,6).
116. Cần có sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, ta mới tránh khỏi bị cuốn theo bạo lực, hiện đang tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và giúp ta dễ trở nên hiền lành trong lòng. Các thánh không phí sức than phiền về những sai sót của người khác; các ngài có thể nín câm trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài cho là mình không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng luôn coi kẻ khác “hơn mình” (Pl2,3).
117. Thật không tốt nếu ta đóng vai những quan toà tàn nhẫn, nhìn xuống người khác, coi họ là không xứng đáng và luôn tìm cách dạy họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi . Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Bạn hãy thích được mọi người dạy khôn bạn hơn là mong muốn được dạy khôn một người nào, dù là người bé nhỏ nhất” . Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Bạn hãy vui mừng vì sự may lành của người khác như thể đó là sự may lành của chính bạn, ao ước cho họ được trổi vượt hơn bạn trong mọi chuyện, và ao ước như vậy với tất cả tấm lòng. Làm như thế, bạn sẽ lấy sự lành mà thắng sự dữ (Rm 12, 21), bạn sẽ đuổi ma quỷ chạy xa và lòng bạn sẽ đầy an vui hạnh phúc. Bạn càng ít thiện cảm với người nào thì càng phải cố gắng thực tập như vậy với người ấy. Hãy nhớ rằng nếu bạn không bắt mình làm như vậy, bạn sẽ chẳng đạt được đức ái đích thật và cũng sẽ không tiến bước được gì trên đường đức ái”
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục, thì không có khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì bạn chưa khiêm tốn và chưa phải là đang trên con đường nên thánh. Để ban sự thánh thiện cho Hội thánh Ngài, Thiên Chúa đã đành phải cho Con Ngài chịu nhục nhã. Chúa Giêsu là đường. Sự sỉ nhục làm cho bạn giống Ngài; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài.” (1 Pr 2,21). Ngài đã tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng đã hạ mình xuống đồng hành với dân mình, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36). Cũng chính vì thế mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh bi thảm của việc tử vì đạo, nhưng còn nói về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2,20). Điều ấy không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì được thoát khỏi ích kỷ, họ có thể dám ôn tồn phản bác, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi việc ấy có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không bảo những sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì nói thế chẳng khác nào chủ trương tìm khoái cảm trong khổ nhục, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự hiệp nhất với Ngài. Trên bình diện thuần túy tự nhiên, điều ấy không thể hiểu được, và thế gian chế giễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thế nhưng, đây là một ân sủng ta cần phải cầu xin: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Muốn có thể ứng xử như thế, cần có một con tim được Đức Kitô ban bình an và giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá coi trọng mình. Cũng chính ơn bình an mà ân sủng đem lại cho ta như thế giữ cho ta được vững tâm, sẵn lòng chịu đựng và kiên trì trong điều lành, “dù đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa, là Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4,8). Tắt một lời, Đức Kitô, “là bình an của ta” (Ep 2,14); Ngài đã đến “để dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Ngài đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại tín thác vào lòng thương xót của Ta” . Vì vậy, ta đừng để mình rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong sự thành công, trong những thú vui vô bổ, chiếm hữu của cải, chứng tỏ quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” (Ga 14,27).
VUI VẺ VÀ BIẾT ĐÙA
122. Những điều vừa nói trên không hề ngụ ý một tinh thần nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc một vẻ mặt thê lương bạc nhược. Các thánh vui tươi và rất biết đùa. Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Sống đời Kitô hữu là sống “hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “tình bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của lòng bác ái là niềm vui” .
Khi nhận được quà tặng cao đẹp của Lời Chúa, ta ôm chặt lấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx1,6). Nếu ta biết để cho Chúa kéo ra khỏi cái vỏ cố hữu và thay đổi cuộc sống cho ta, ta có thể sống như Thánh Phaolô đã nói với ta: “Hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà hiện ta đang sống, như một mặc khải về niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh!” (Is 40,9). “Hỡi núi non hãy bật tiếng hò reo! Vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dc 9,9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (8,10).
124. Đức Maria, khi nhận ra điều mới lạ mà trẻ Giêsu mang đến, đã hát lên: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng” (Lc 1,47). Chính Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Ngài đi ngang qua, “toàn thể đám đông vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa Phục sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với ta rằng: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui… Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,20.22). “Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15,11).
125. Vẫn có những lúc khó khăn, những thời khắc của thập giá, nhưng không gì có thể huỷ diệt niềm vui siêu nhiên là niềm vui “tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm xác tín của ta, tin chắc rằng, bất luận thế nào, chúng ta vẫn được Thiên Chúa thương yêu vô cùng” . Niềm vui ấy đem lại một sự vững tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng đem lại một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với một cảm thức hài hước, nổi bật nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri chẳng hạn. Sự khôi hài bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11,10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tm6,17), cho nên đôi khi buồn rầu có thể là dấu hiệu của sự vô ơn, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa .
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng từ chối hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv7,14.29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph4,11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa hiện đang lan rộng trong một số môi trường văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chỉ biến con tim thành nặng nề. Nó có thể mang lại cho ta những khoái cảm ngẫu hứng và chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Điều tôi nhắm nói đến là niềm vui trong tình hiệp thông, là chia sẻ và dự phần, vì “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,35) và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr9,7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho ta có thể vui vì điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr 13,9). Mặt khác, nếu ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình thôi, ta tự kết án mình phải sống một cuộc sống ít hạnh phúc” .
MẠNH DẠN VÀ NHIỆT THÀNH
129. Sự thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm), tức là sự mạnh dạn, một động lực thúc đẩy việc phúc âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để ta được mạnh dạn, chính Chúa Giêsu đến gặp ta và lại nói với ta một lần nữa, bình thản mà chắc nịch: “Đừng sợ!” (Mc 6,50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời ấy cho ta được bước đi và phục vụ với cùng một lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy họ loan báo về Chúa Giêsu Kitô. Sự mạnh dạn, sự hăng say, dám ăn nói, nhiệt tình tông đồ, tất cả những điều ấy được bao gồm trong từ dũng cảm. Đây cũng là từ mà Kinh thánh dùng để mô tả sự tự do của một cuộc sống rộng mở cho Thiên Chúa và cho người khác (x. Cv4,29;9,28; 28,31; 2 Cr3,12; Ep 3,12; Dt3,6, 10,19).
130. Chân Phước Phaolô VI khi nói đến những trở ngại cho việc rao giảng Tin mừng, đã nêu rõ sự thiếu dũng cảm là điều “trầm trọng hơn cả bởi vì nó xuất phát từ bên trong” . Ta thường bị cám dỗ để quanh quẩn gần bờ! Thế nhưng Chúa lại gọi ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc5,4). Ngài mời ta hiến thân phục vụ Ngài. Bám chặt vào Ngài, ta quả cảm đem hết mọi đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Ước gì ta luôn cảm thấy được tình yêu của Ngài thúc đẩy (2 Cr5,14) và cùng thốt lên với Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng!” (1 Cr9,16).
131. Ta hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng cảm thương sâu xa thúc đẩy Ngài đến với người khác. Nó không khiến Ngài ngập ngừng, bị tê liệt, hoặc xấu hổ như đã từng xảy ra với ta biết bao lần. Quả là ngược hẳn. Lòng thương cảm thúc đẩy Ngài ra khỏi chính mình để mạnh mẽ rao giảng và sai người khác đi chữa lành và giải thoát. Ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, rồi để cho Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy nó và sai ta đi truyền giáo. Ta yếu đuối thật đấy, nhưng ta lại mang sẵn một kho báu có sức làm cho ta lớn lên và làm cho những người đón nhận nó trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự mạnh dạn và lòng can đảm tông đồ là một trong những nét tiêu biểu của sứ vụ.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần; xác nhận cho việc rao giảng của ta. Nó là một đảm bảo diễm phúc đưa ta đến chỗ được vinh quang trong Tin mừng mà ta công bố. Nó giúp ta vững tin không lay chuyển vào sự trung thành của vị Chứng Nhân làm cho ta biết chắc rằng không gì có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
133. Ta cần được Chúa Thánh Thần thúc giục để không bị tê liệt vì sợ hãi và vì thận trọng quá mức, để không còn quen thói lẩn quẩn trong những ranh giới an toàn. Hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín thì sẽ ẩm mốc và sẽ khiến ta bị bệnh. Khi các Tông Đồ thấy bị cám dỗ án binh bất động do sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv4,29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa” (Cv4,31).
134. Như ngôn sứ Giôna, ta luôn bị cám dỗ chạy trốn tìm nơi ẩn náu an toàn. Nơi ẩn náu này có thể mang nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Cũng có thể ta không chịu ra ngoài những vùng mình biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn ấy chẳng khác nào như cơn bão, con cá voi hay con sâu làm héo cây thầu dầu của ông Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Và cũng như trong câu chuyện Giôna, chúng có thể được dùng để khiến ta quay về với Thiên Chúa nhân hiền, Đấng muốn dẫn dắt ta theo một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát khỏi những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và những biên giới. Ngài dẫn ta đến những nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ những vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Pl2,6-8; Ga1,14). Vì vậy, nếu ta dám đi đến những vùng ngoại vi, ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; đúng vậy, Ngài đã có mặt ở đó sẵn rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị biến thành đen tối của họ. Ngài đã ở đó sẵn rồi.
136. Quả thật, ta cần mở cửa lòng mình cho Chúa Giêsu, bởi vì Ngài gõ cửa và gọi (xem Kh3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi phải chăng, Chúa Giêsu đã ở trong ta và đang gõ để ta mở cửa cho Ngài thoát khỏi cái không khí ngột ngạt do ta chỉ biết quy về mình! Trong Tin mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc8,1). Sau Phục sinh, khi các môn đệ tỏa đi khắp nơi, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Nếu đã thật sự gặp gỡ Chúa thì hẳn là phải như thế.
137. Cái hài lòng tự mãn với thói quen bao giờ cũng cuốn hút ta; nó bảo ta rằng tại sao cứ phải vất vả thay đổi sự việc, rằng trước hoàn cảnh này chẳng làm gì được đâu, rằng xưa nay mọi sự vẫn luôn như thế thì ta phải tiếp tục như thế. Do đã thành nếp, ta không còn phải đương đầu với chuyện chẳng lành và chỉ cần cho “mọi sự cứ đâu vào đó”, hoặc như đã có ai khác định sẵn là chúng phải như thế. Tuy nhiên, ta hãy để Chúa đến đánh thức ta khỏi cơn mê, giải phóng ta khỏi cái ù lì chậm chạp! Ta hãy đương đầu với cái nếp của mình; hãy mở mắt, mở tai ra, và trên hết hãy mở lòng ra, để cho mình được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh và bởi tiếng kêu gọi của Lời sinh động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
138. Ta hãy chạy theo gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng Tin mừng và phục vụ cách trung thành, biết bao lần phải liều mất mạng sống và rõ ràng là phải trả giá bằng việc hy sinh sự thoải mái của mình. Chứng từ của họ nhắc ta nhớ rằng Hội thánh không cần những quan lại và công chức, nhưng cần những nhà truyền giáo hăng say, được lòng nhiệt thành nghiến nát để chia sẻ sự sống cho người khác. Các thánh khiến ta ngạc nhiên và lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi ta ra khỏi tình trạng tầm thường trầm lặng và tê liệt của mình.
139. Ta hãy xin Chúa ban cho ơn biết không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi ta tiến lên một bước. Ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gắng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi hoàn cảnh, hãy xin Chúa Thánh Thần làm cho ta biết chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Có thế, Hội thánh mới thôi trì trệ để liên lỉ đón nhận những điều đáng kinh ngạc của Chúa.
HIỆP THÔNG HÒA HỢP VỚI CỘNG ĐỒNG
140. Nếu ta sống quá cô lập, sẽ thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về nhục dục, những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ cũng như sự ích kỷ của thế gian. Cuộc tấn công mãnh liệt đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại, mất cả sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc nên thánh là một chuyến đi với cộng đồng, cùng bước bên nhau. Một số cộng đồng thánh thiện phản ánh điều ấy. Một đôi trường hợp, Hội thánh đã phong thánh cho nguyên cả một cộng đồng đã cùng sống Tin mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Chẳng hạn như bảy vị thánh sáng lập Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước tại Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản gồm Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc gồm Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ, Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi người phối ngẫu trở thành một phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một môn đệ ngài: “Hãy hiểu rằng bạn vào dòng là để cho mọi người xài xể bạn và thử thách bạn” .
142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian hướng thần trong đó người ta có thể cảm nghiệm được sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục sinh” . Việc cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể gia tăng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustinô và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng trải qua. “Khi gần đến ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn [...]. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa [...]. Và khi chúng con nói chuyện cùng khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ chạm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột […]. Sự sống đời đời như trực giác trong giây phút ấy làm cho chúng con luyến tiếc” .
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu sĩ hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Đó là điều đã xảy ra nơi cộng đồng thánh hợp thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cộng đồng đã phản ánh một cách mẫu mực vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Đó là điều đã xảy ra nơi cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và đám người giản dị.
144. Ta hãy nhớ lại Chúa Giêsu vẫn mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết nhỏ về chuyện hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết nhỏ về bà goá dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết nhỏ về việc đem thêm dầu phòng khi chàng rể đến chậm.
Chi tiết nhỏ khi Ngài bảo các môn đệ xem lại coi các ông có mấy ổ bánh.
Chi tiết nhỏ về chuyện Ngài đã nhóm sẵn lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc tinh sương.
145. Cộng đồng chăm chút từng chi tiết yêu thương nhỏ nhặt , ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và đượm chất Tin mừng, là nơi Chúa Phục sinh hiện diện và thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ một món quà yêu thương của Chúa, giữa những chi tiết nho nhỏ ấy, ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm đầy an ủi. “Một buổi tối mùa đông tôi đang lo những việc nhỏ của phận mình như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy từ xa vọng lại âm thanh dặt dìu của một nhạc cụ. Tôi mơ màng nghĩ đến một phòng khách sáng choang, trang hoàng lộng lẫy, đầy những người nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện, chúc mừng nhau với đủ thứ kiểu cách thế gian. Rồi ánh mắt tôi dừng lại trên người đàn bà khốn khổ tàn tật tôi đang giúp đỡ. Thay vì những tiếng nhạc dịu dàng, tôi chỉ thỉnh thoảng nghe thấy những lời bà than thở [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng cõi lòng ấy bằng những tia chân lý vượt xa cái rực rỡ tăm tối của những lễ hội trần thế. Tôi không thể tin được làm sao mình lại hạnh phúc đến thế” .
146. Ngược hẳn với chiều hướng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ mà cuối cùng sẽ khiến ta thành cô độc trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc bất chấp người khác, nẻo đường nên thánh mà ta đang theo sẽ không thôi làm cho ta được nên như điều Chúa Giêsu ao ước: “Lạy Cha, xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ
147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ là chuyện hiển nhiên, ta cần nhớ rằng sự thánh thiện cốt ở chỗ thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và thấy mình cần hiệp thông với Thiên Chúa. Họ không thể chịu nổi cảnh bị ngột ngạt khép kín lại bên trong thế giới này. Giữa lúc cố gắng và dấn thân, họ khao khát Chúa, họ ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào thứ thánh thiện thiếu cầu nguyện, dù không nhất thiết phải cầu nguyện dài dòng hoặc có những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, sự hiện diện thật, sự hiện diện trong tâm tưởng hay sự hiện diện hiệp nhất, tùy thực tế công việc cho phép.” . Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Bạn nên cố gắng để cầu nguyện không ngừng, và ngay cả khi tập luyện thân thể cũng đừng bỏ việc cầu nguyện. Dù bạn ăn, uống, nói, chuyện vãn với người đời hay là làm bất cứ điều gì khác, bạn luôn nên làm như thế với lòng khao khát Chúa và hướng hết lòng trí của bạn vào Ngài” .
149. Tuy nhiên, muốn được như thế, cần phải có một số khoảnh khắc dành riêng cho Thiên Chúa, để sống một mình với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, “cầu nguyện không gì khác hơn là một cuộc trao đổi thân tình và là cuộc đàm đạo thường xuyên một mình mình với Đấng mà chúng ta biết là rất yêu thương chúng ta” . Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không phải chỉ riêng cho một số ít người đặc ân, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều từng cần đến sự thinh lặng chứa đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” . Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một phản ứng của trái tim đang mở ra để giáp mặt gặp gỡ Thiên Chúa, ở đó mọi tiếng động đều phải im bặt để lắng nghe tiếng Chúa dịu dàng vang lên giữa thinh lặng.
150. Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể phân định được những nẻo đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi ta. Nếu không, mọi quyết định của ta chỉ là những “đồ trang trí”, thay vì đề cao Tin mừng giữa đời ta, thì lại che lấp mất hoặc khiến Tin mừng bị chết ngạt. Đã là môn đệ, điều cần thiết là phải ở với Thầy, lắng nghe Ngài, và luôn luôn học hỏi với Ngài. Nếu không lắng nghe Ngài, mọi lời ta nói sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô ích.
151. Cần nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và Sống Lại, giúp nhân tính của ta được phục hồi, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những thăng trầm của cuộc sống hoặc mang đầy vết tích tội lỗi. Ta không được tìm cách uốn nắn để làm chủ quyền năng của dung nhan Đức Kitô” . Vì vậy, tôi xin được hỏi: Liệu có lúc nào bạn đã đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, ở đó bạn nghỉ ngơi thanh thản với Ngài, và để cho Ngài nhìn ngắm bạn không? Bạn có để cho lửa của Ngài cháy lên trong lòng bạn không? Nếu bạn không để cho Ngài nhóm lên sức nóng tình yêu và sự dịu hiền của Ngài, bạn sẽ không có lửa. Và như thế làm sao bạn có thể dùng chứng tích và lời nói của bạn để đốt cháy trái tim những người khác được? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, bạn chưa thấy có thể để cho mình được Lời Ngài chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm Chúa, vào trong những vết thương của Ngài, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa .
152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự thinh lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương đất Nga”, người đã bước đi trong cầu nguyện liên tục, bảo rằng cách cầu nguyện như vậy không hề tách lìa ông khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông: “Rồi gặp ai tôi cũng thấy họ dễ thương như thể người nhà… Chẳng những mối hạnh phúc và an ủi ấy rực sáng lên trong hồn tôi, mà cả đến toàn thế giới bên ngoài dường như cũng thật diễm lệ khiến tôi ngây ngất” .
153. Lịch sử cũng không tan biến. Sự cầu nguyện vốn được nuôi dưỡng bằng hồng ân Thiên Chúa hằng tuôn đổ xuống đời ta, nên nó phải đầy sự tưởng nhớ. Tưởng nhớ các công trình của Thiên Chúa là nền tảng cho kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, cho nên lời cầu nguyện của ta được đan kết bằng những tưởng niệm. Không chỉ nhớ về Lời được Chúa mạc khải, mà còn về cuộc sống của bản thân ta, cuộc sống của người khác và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội thánh Ngài. Đó chính là trí nhớ đầy biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã nói đến trong bài Chiêm niệm để được Tình yêu , khi ngài yêu cầu ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc ta đã nhận được từ Chúa. Khi cầu nguyện, bạn hãy nhìn lại lịch sử của chính mình, bạn sẽ thấy ở đó nhiều tình thương xót. Đồng thời, điều ấy cũng giúp bạn thêm ý thức hơn rằng Chúa luôn nhớ đến bạn và không bao giờ quên bạn. Điều ấy cũng còn có nghĩa là hãy xin Chúa soi sáng lên những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì chúng không thoát khỏi mắt Ngài.
154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức rằng tự sức mình ta không thể làm được gì cả. Cuộc sống của đoàn dân tin tưởng vào Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Ta đừng coi thường việc cầu xin, biết bao lần nó đã xoa dịu lòng ta và giúp ta kiên trì trong hy vọng. Lời chuyển cầu (cầu thay cho người khác) cũng có một giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, và cũng nói lên tình yêu của ta đối với người bên cạnh. Một số người, do cách nhìn phiến diện về đường thiêng liêng, cứ tưởng rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không được phân tâm, làm như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh xa. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của ta sẽ vui lòng Thiên Chúa hơn và giúp ta nên thánh hơn nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Lời nguyện chuyển cầu cho thấy sự quan tâm đầy tình huynh đệ đối với người khác khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu thẳm nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Riêng về những người quảng đại tận hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Kinh thánh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mcb 15,14).
155. Nếu chúng ta thật sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ lạy Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân phước Charles de Foucauld khi ngài nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” . Trong cuộc sống của dân Chúa trên đường lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị toát ra một sự thờ phượng thuần khiết, như khi “một người hành hương đưa mắt nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” .
156. Khi cầu nguyện cũng cần đọc Lời Chúa, Lời này vừa “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119,103), vừa là một “thanh gươm hai lưỡi” (Hr 4,12), cho phép chúng ta dừng lại lắng nghe tiếng của Thầy để Lời ấy trở nên ngọn đèn soi bước chân ta và ánh sáng dẫn đường ta đi (x. Tv 119,105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “việc tôn kính Lời Chúa không đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính tốt đẹp, ai muốn thì làm, nhưng nó là chính con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Tự nơi Lời Chúa vốn có sẵn quyền năng biến đổi những cuộc đời” .
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Kinh thánh đưa ta đến Bí tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì là chính Đức Kitô tự dâng hiến chính mình để thờ phượng. Khi tiếp nhận Ngài lúc hiệp lễ, ta nhắc lại giao ước của ta với Ngài và để cho Ngài thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Ngài.
CHƯƠNG 5
CHIẾN ĐẤU, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH
158. Đời Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Ta cần sức mạnh và lòng can đảm để đương đầu với những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin mừng. Đây là trận chiến cao đẹp, vì nó cho ta được vui mừng mỗi khi Chúa chiến thắng trong đời ta.
CHIẾN ĐẦU VÀ TỈNH THỨC
159. Đây không chỉ là một cuộc chiến chống lại thế gian và não trạng trần tục đang đánh lừa ta, khiến ta thành mê muội và tầm thường, mất hết nhiệt tình và niềm vui. Nó cũng không giản lược vào chuyện vật lộn với những yếu đuối mỏng dòn và những xu hướng thấp hèn (có thể là lười biếng, tà dâm, tham lam, ganh tị hay bất kỳ điều gì khác). Nó còn là một cuộc chiến đấu triền miên chống lại ma quỷ, thủ lãnh của sự dữ. Chính Chúa Giêsu ăn mừng những chiến thắng của chúng ta. Ngài vui mừng khi các môn đệ Ngài tiến bộ trong việc rao giảng Tin mừng và vượt thắng được sự chống phá của ác thần: “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10,18).
Còn hơn một huyền thoại
160. Ta sẽ không cho là có ma quỷ nếu ta chỉ chăm bẳm nhìn đời theo các tiêu chuẩn thực nghiệm, không một chút cảm thức siêu nhiên nào. Quả thật, có xác tín rằng quyền lực hiểm độc này đang hiện diện ở giữa chúng ta, ta mới hiểu được làm sao lắm lúc sự dữ lại có thể có sức tàn phá đến thế. Phải nhận rằng những khái niệm các tác giả Kinh thánh dùng để diễn tả một số thực tại trong lãnh vực này còn khá giới hạn, chẳng hạn trong thời Chúa Giêsu, người ta có thể lẫn lộn bệnh động kinh với việc quỷ ám. Tuy nhiên, điều ấy không đưa ta đến chỗ giản lược thực tại đến độ bảo rằng mọi trường hợp được thuật lại trong Tin mừng đều chỉ là những bệnh tâm thần, và do đó không có ma quỷ hoặc ma quỷ không hoạt động. Ma quỷ có mặt ngay trong những trang đầu của Kinh thánh, mà kết thúc là Thiên Chúa đã chiến thắng ma quỷ . Quả thật, khi dạy ta Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn ta kết thúc kinh này với lời nài xin Chúa Cha “cứu chúng con cho khỏi Sự Dữ”. Chữ dùng ở đây không nhằm nói đến sự dữ trừu tượng; muốn sát nghĩa hơn phải dịch là “thần dữ”. Nó ám chỉ một kẻ nào đó đang tấn công ta. Chúa Giêsu dạy ta mỗi ngày phải cầu xin ơn giải cứu này để không bị quyền năng của nó chế ngự.
161. Như thế, ta không nên nghĩ về ma quỷ như một huyền thoại, một hình tướng, một biểu tượng, một hình ảnh hoặc một ý tưởng . Cái sai lầm này sẽ khiến ta chểnh mảng, bất cẩn, không đề phòng và kết cuộc dễ bị làm mồi cho nó hơn. Ma quỷ không cần phải chiếm hữu ta. Nó đầu độc ta bằng nọc độc của hận thù, buồn chán, tham lam và các tật xấu. Cũng thế, khi ta chểnh mảng không chịu đề phòng, nó sẽ tận dụng cơ hội để huỷ hoại đời ta, gia đình ta và cộng đồng của ta. “Như sư tử gầm thét, nó rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr 5,8).
Cảnh giác và tin cậy
162. Lời Chúa rõ ràng mời gọi ta “hãy đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của Ác Thần” (Ep 6,16). Đây không phải là những lời hoa mỹ, vì con đường dẫn đến sự thánh thiện của ta là một trận chiến liên tục. Ai không ý thức điều ấy sẽ thất bại hoặc sớm rơi xuống chỗ tầm thường. Với cuộc chiến này, ta có thể dựa vào các vũ khí mạnh mẽ Chúa đã ban cho ta: việc vững tin cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cử hành thánh lễ, chầu Thánh Thể, Bí tích Hòa giải, các việc bác ái, sống hiệp thông chia sẻ, và dấn thân truyền giáo. Nếu không cẩn thận, ta dễ bị những lời hứa hão của thần dữ quyến rũ. Như thánh linh mục Brochero đã nói: “Có điều gì là tốt lành khi Lucifer hứa cho bạn tự do, và chất đầy cho bạn đủ thứ lợi lộc của nó, nếu những lợi ích ấy toàn là giả dối và có chất độc?” .
163. Trong lộ trình này, việc phát huy những điều thiện, sự trưởng thành tâm linh và lớn lên trong đức ái là cách tốt nhất để đối phó với sự dữ. Những ai định án binh bất động, những ai tự hài lòng với đôi chút cố gắng nhỏ, những ai không mơ ước quảng đại hiến mình cho Chúa, đều sẽ chẳng bao giờ cầm cự nổi. Tệ hơn nữa, nếu người ta rơi vào thái độ chủ bại, vì “ai bắt đầu mà không tự tin, thì đã thua cuộc hết một nửa, và đã đem chôn giấu những nén bạc... Chiến thắng của Kitô hữu luôn luôn là một thập giá, nhưng cùng lúc thập giá cũng là biểu tượng của chiến thắng, cần được ưu ái mang theo để quyết liệt chiên đấu chống lại những cuộc tấn công của sự dữ” .
Sự hủ bại tinh thần
164. Đường nên thánh là một nguồn bình an và hoan lạc mà Chúa Thánh Thần ban cho ta, đồng thời Ngài cũng đòi ta phải tỉnh thức và giữ cho “đèn cháy sáng” (Lc 12,35). “Hãy tránh xa điều xấu dưới mọi hình thức” (1 Tx5,22). “Hãy tỉnh thức” (Mt 24,42; Mc 13,35). “Đừng ngủ mê” (1 Tx 5,6). Những người có cảm tưởng mình chẳng phạm tội gì trầm trọng ngược Luật Thiên Chúa có thể rơi vào tình trạng mê muội hoặc đờ đẫn. Vì không thấy điều gì nghiêm trọng để tự trách mình, họ không nhận ra rằng tình trạng trơ trơ như thế sẽ dần dần chiếm lĩnh đời sống thiêng liêng của họ và cuối cùng họ sẽ bị suy nhược và hủ bại.
165. Sự hủ bại tinh thần còn tồi tệ hơn việc một người sa ngã phạm tội, vì đó là một thứ thoải mái và tự mãn mù lòa, chuyện gì cũng coi như có thể chấp nhận được: lừa dối, phỉ báng, ích kỷ và các hình thức tìm mình khác rất tinh vi, vì “chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11,14). Vua Salômôn đã kết thúc những ngày đời ông theo cách đó, còn vua Đavít đã từng phạm tội hết sức nặng nề nhưng lại biết chỗi dậy khỏi tình trạng khốn nạn của mình. Chúa Giêsu đã từng cảnh báo chúng ta về sự tự lừa dối này, vì nó rất dễ đưa ta đến chỗ hủ bại: Ngài nói về một kẻ được giải thoát khỏi quỷ ám, nghĩ rằng đời mình giờ đây đã ổn thỏa, nhưng rồi cuối cùng lại bị bảy quỷ khác chiếm hữu (xem Lc 11,24-26). Một đoạn Kinh thánh khác còn dùng một hình ảnh rất mạnh: “Chó ăn lại chính thứ nó mửa ra” (2 Pr2,22; x. Cn 26,11).
SỰ PHÂN ĐỊNH
166. Làm sao để biết được là một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế gian hoặc tinh thần ma quỷ? Cách duy nhất là phải phân định. Sự phân định không những đòi phải có một khả năng tốt để lý luận và phải có lương tri (khả năng biết lẽ thường - ND), mà còn là một ơn cần phải cầu xin. Nếu chúng ta tin tưởng cầu xin Chúa Thánh Thần ơn này, đồng thời tìm cách vun trồng nó bằng cầu nguyện, suy niệm, đọc sách và nghe lời khuyên tốt, chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng tinh thần này.
Một nhu cầu khẩn cấp
167. Ngày nay khả năng phân định càng đặc biệt trở nên cần thiết. Cuộc sống hiện nay cống hiến cho ta vô số khả năng để hành động và giải trí, và ai cũng xem như tất cả đều được phép và tốt. Mọi người, đặc biệt là giới trẻ, đều chìm trong một nền văn hóa cảm ứng, liên tục “chấm, quẹt”. Ta có thể đồng thời lướt hai hoặc ba màn ảnh và tương tác trên hai ba cảnh ảo cùng một lúc. Nếu thiếu sự sáng suốt phân định, ta có thể dễ biến thành những con rối chiều theo mọi xu hướng chóng qua.
168. Điều này càng quan trọng hơn nữa khi một cái gì đó mới mẻ xuất hiện trong đời sống của ta, đòi ta phải phân định xem đó là thứ rượu mới từ Thiên Chúa gửi đến hay chỉ là một cái mới ảo do tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỷ tạo ra. Có những trường hợp khác, lại có thể xảy ra điều ngược hẳn, các thế lực của sự dữ kìm giữ không cho ta thay đổi, cứ để yên mọi sự như cũ, chọn thái độ cứng nhắc hoặc án binh bất động. Và thế là ta ngăn chặn mất hoạt động của Chúa Thánh Thần. Ta được tự do, với sự tự do của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Ngài yêu cầu ta dò xét cả những tín hiệu bên trong - các ước muốn, lo âu, sợ hãi và kỳ vọng của ta - và cả những thứ bên ngoài đang xảy ra quanh ta - “những dấu chỉ của thời thế” - để nhận ra đâu là những nẻo đường đưa đến tự do hoàn toàn. “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ” (1 Tx5,21).
Luôn luôn sống trong ánh sáng của Chúa
169. Sự phân định không phải chỉ cần thiết vào những thời điểm khác thường, khi ta cần giải quyết các vấn đề nghiêm trọng hoặc phải có một quyết định quan trọng. Phân định là một công cụ chiến đấu giúp ta theo Chúa cách tốt hơn. Ta luôn cần nó, để nhận ra được đâu là giờ của Thiên Chúa và của ân sủng Ngài, để khỏi lãng phí ơn linh hứng của Chúa và khỏi bắt hụt lời Ngài đang mời gọi lớn lên. Việc phân định này thường phải làm từ trong những việc nhỏ, nơi những việc có vẻ tầm thường, bởi lẽ cái lớn lao vẫn lộ rõ ngay giữa những việc đơn giản hàng ngày . Không riêng những gì lớn lao, cao cả hơn và tốt đẹp hơn mới cần được phân định, nhưng cùng lúc cũng phải chú ý đến cả những gì bé nhỏ, những trách nhiệm và những dấn thân trong cuộc sống mỗi ngày. Vì thế, tôi xin hết mọi Kitô hữu đừng quên thưa chuyện với Chúa là Đấng yêu thương ta để thành tâm xét mình mỗi ngày. Sự phân định cũng giúp ta nhận ra những phương thế cụ thể Chúa xếp đặt trong kế hoạch mầu nhiệm đầy yêu thương của Ngài, để giúp ta không chỉ ngừng lại với những ý định tốt lành.
Một món quà siêu nhiên
170. Sự phân định thiêng liêng không loại trừ những đóng góp của những kiến thức nhân bản, hiện sinh, tâm lý, xã hội học hay luân lý, nhưng còn vượt lên trên những hiểu biết ấy. Chỉ những tiêu chuẩn vững chắc của Hội thánh thôi cũng chưa đủ. Ta cần luôn nhớ rằng sự phân định là một ơn Chúa ban. Đành rằng nó bao gồm lý trí và sự cẩn trọng, nó vẫn vượt trên cả hai, vì nó là chuyện dò tìm xem đâu là kế hoạch mầu nhiệm và độc đáo Thiên Chúa đang dành cho mỗi người chúng ta, kế hoạch đang rõ dần giữa biết bao hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó không chỉ là chuyện liên quan tới một sự an vui trần thế, một sự hài lòng vì đã làm một điều gì hữu ích, hay là niềm khao khát có một lương tâm thanh thản. Điều đáng kể chính là ý nghĩa của đời tôi trước mặt Chúa Cha, Đấng biết tôi và yêu thương tôi, là cái mục đích cuối cùng của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn Ngài. Rốt cuộc, sự phân định dẫn đến chính nguồn suối của cuộc sống bất diệt, nghĩa là được nhận biết Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa thật duy nhất, và Đấng Ngài đã sai đến, là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Sự phân định không đòi hỏi những khả năng đặc biệt, cũng không chỉ dành cho những người thông minh hơn hoặc có học thức cao, và Chúa Cha đã vui lòng tỏ mình ra cho những người bé nhỏ (x. Mt 11,25).
171. Mặc dù Chúa nói với ta bằng rất nhiều cách khác nhau, trong công việc, qua người khác và mọi lúc, ta không thể bỏ qua sự thinh lặng chú tâm cầu nguyện để nhận rõ ngôn ngữ của Thiên Chúa hơn, để giải thích được ý nghĩa thực sự của những cảm hứng mà ta nghĩ là mình đã nhận được, để làm cho những lo âu của mình lắng dịu và để sắp đặt toàn bộ đời mình trong ánh sáng của Thiên Chúa. Bằng cách ấy, ta có thể làm nẩy sinh một tổng hợp mới phát xuất từ một cuộc sống được Chúa Thánh Thần soi sáng.
Lạy Chúa, xin hãy phán
172. Tuy nhiên, có thể chính trong lúc cầu nguyện, ta lại tránh né sự chất vấn của Chúa Thánh Thần, Đấng đầy tự do, luôn hành động như ý Ngài muốn. Ta phải nhớ rằng sự phân định trong cầu nguyện đòi buộc ta phải bắt đầu từ sự mở lòng lắng nghe: lắng nghe Chúa, lắng nghe người khác, và lắng nghe chính thực tại vẫn hằng thách thức chúng ta bằng những cách thế mới. Chỉ những ai sẵn sàng lắng nghe mới có được tự do nội tâm để từ bỏ những ý tưởng chủ quan hoặc phiến diện của mình, cũng như những thói quen cố hữu và những định kiến của mình. Có thế, ta mới thực sự mở lòng đón nhận cái tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của ta, nhưng lại dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nào phải cứ mọi sự đều xuôi chảy, đều yên ổn là đã đủ! Thiên Chúa còn có thể cho ta một điều gì đó tốt hơn nhiều, nhưng chỉ vì cầu an chểnh mảng mà ta không nhận ra.
173. Đã hẳn thái độ lắng nghe ấy đòi phải vâng theo Tin mừng như là chuẩn mực tối hậu, nhưng cũng còn phải vâng theo Huấn quyền, mà Chúa đã lập nên để gìn giữ Tin mừng, hầu giúp ta tìm được trong kho báu của Hội thánh điều gì hữu hiệu nhất cho “ngày hôm nay” của ơn cứu rỗi. Điều quan trọng không phải là áp dụng các quy tắc hoặc lặp lại quá khứ, bởi vì không thể đem những giải pháp y hệt áp dụng cho mọi hoàn cảnh; vì điều hữu ích trong bối cảnh này chưa hẳn cũng hữu ích trong một bối cảnh khác. Sự phân định các loại thần giải thoát ta khỏi sự cứng nhắc, là điều không chấp nhận được trước “ngày hôm nay” bất diệt của Chúa Phục sinh. Chỉ có Thánh Thần mới xuyên thấu những điều tăm tối và ẩn khuất trong mỗi tình huống và nắm được mọi chỗ tinh tế của tình huống ấy, nhờ đó cái mới mẻ của Tin mừng mới nổi bật dưới một ánh sáng khác.
Luận lý của hiến tặng và của thập giá
174. Muốn tiến bộ trong việc phân định, cốt yếu nhất là phải uốn theo sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và các thời điểm của Ngài, vốn không bao giờ trùng khít với thời điểm của ta. Thiên Chúa không cho lửa xuống đốt những kẻ bất trung (xem Lc9,54), hoặc cho phép những người nhiệt thành nhổ cỏ lùng mọc xen giữa lúa mì (x. Mt 13,29). Cũng cần có lòng quảng đại, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Phân định không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những gì ở đời này, mà để nhận ra làm sao ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ vụ được ủy thác cho mình khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Điều này có nghĩa là phải sẵn sàng từ bỏ đến mức hy sinh hết mọi sự. Thực ra, hạnh phúc thật nghịch lý: ta chỉ cảm nghiệm được nhiều hạnh phúc nhất khi chấp nhận cái logic (cái lý) mầu nhiệm không thuộc thế gian như Thánh Bonaventura đã quả quyết khi nói về thập giá: “Đây là cái lý của ta” . Một khi đã vào trong cái năng động này, ta sẽ không để cho lương tâm mình bị tê liệt và sẽ hào hiệp mở rộng lòng ra để phân định.
175. Khi dò tìm những nẻo đường cuộc sống trước nhan Thiên Chúa, ta không được gạt bỏ bất cứ lãnh vực nào. Nơi mọi khía cạnh của đời sống, ta đều có thể tiếp tục phát triển và dâng lên Thiên Chúa một điều gì lớn hơn, ngay cả trong những lãnh vực ta thấy khó khăn nhất. Tuy nhiên, ta cần xin Chúa Thánh Thần giải thoát ta và xua tan sợ hãi, là điều khiến ta ngăn cản không cho Ngài bước vào một số lãnh vực nào đó của đời ta. Ngài đòi hỏi ta mọi sự, nhưng cũng ban cho ta mọi sự. Ngài không muốn bước vào đời ta để khiến nó thành què cụt hoặc bị yếu đi, nhưng để đưa nó đến chỗ viên mãn. Như thế, phân định không phải là một kiểu tự phân tích chỉ biết có mình, hoặc một hình thức nội quan (tự xét nội tâm) tập trung vào mình, nhưng là một tiến trình thật sự ra khỏi chính mình để tiến về mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng giúp ta làm tròn sứ vụ mà Ngài đã mời gọi ta, vì lợi ích cho anh chị em của ta.
* * *
176. Tôi cầu mong Đức Trinh Nữ Maria kết triều thiên tô điểm cho những suy tư này, bởi vì Mẹ đã sống các mối Phúc thật của Chúa Giêsu cách không ai sánh bằng. Mẹ đã nhảy mừng trước mặt Thiên Chúa, đã giữ kỹ mọi sự trong lòng, và đã để cho lưỡi gươm đâm thâu lòng mình. Ngài là vị thánh nổi bật giữa các thánh, diễm phúc hơn tất cả. Chính Mẹ chỉ cho ta con đường nên thánh và luôn đồng hành với ta. Mẹ không chịu để ta phải nằm mãi dưới đất sau khi ta bị ngã, và lắm khi Mẹ còn ẵm ta trong vòng tay Mẹ mà không xét đoán gì ta cả. Cứ trò chuyện với Mẹ, ta sẽ được an ủi, giải thoát và thánh hóa. Mẹ không cần nhiều lời. Mẹ không cần ta phải nói hết cho Mẹ những gì đang xảy đến cho đời ta. Tất cả những gì ta cần làm là thì thầm, lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria ...”
177. Tôi hy vọng rằng những trang này sẽ hữu ích, giúp toàn thể Hội thánh lại một lần nữa tận hiến cho việc cổ võ lòng khao khát nên thánh. Ta hãy xin Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên ta một niềm khao khát nên thánh mênh mông vô tận để Thiên Chúa được hết sức vinh quang, và ta hãy giúp đỡ nhau trong nỗ lực này. Như thế, ta sẽ cùng chia sẻ với nhau một nguồn hạnh phúc mà thế gian sẽ không thể cướp được.
Ban hành tại Rôma, ở Đền Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, lễ trọng kính Thánh Giuse, năm 2018, là năm thứ sáu tôi làm Giáo hoàng.
Phanxicô
1. “HÃY VUI MỪNG VÀ HÂN HOAN” (Mt 5,12). Đó là lời Chúa Giêsu nhắc bảo những người bị bách hại hoặc bị sỉ nhục vì Ngài. Chúa đòi mọi sự của ta, và đổi lại Ngài ban cho ta sự sống thật, là hạnh phúc Ngài muốn dành cho ta khi dựng nên ta. Ngài muốn ta phải là những vị thánh chứ không chỉ hài lòng với một cuộc sống tẻ nhạt và tầm thường. Ngay từ những trang đầu của Kinh thánh đã có tiếng gọi nên thánh theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn nơi lời Chúa phán với ông Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1).
2. Những điều sau đây không phải là một tiểu luận về sự thánh thiện, với những định nghĩa và những phân biệt hữu ích để hiểu chủ đề quan trọng này, hoặc với những phân tích về các phương tiện thánh hoá. Mục tiêu khiêm tốn của tôi là lặp lại tiếng gọi nên thánh cách thực tế cho thời đại chúng ta, với tất cả những rủi ro, thách đố và thuận lợi. Vì Chúa đã chọn mỗi người trong chúng ta để được “nên thánh và trọn lành trước mặt Ngài trong tình yêu” (Ep 1, 4).
CHƯƠNG 1
TIẾNG GỌI NÊN THÁNH
CÁC THÁNH ĐANG KHUYẾN KHÍCH TA VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI TA
3. Thư gửi tín hữu Do Thái nêu cho thấy có biết bao nhân chứng đang khích lệ ta “hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (12,1). Cụ thể như ông Abraham, bà Sara, ông Môsê, ông Ghiđêôn và những người khác (x. 11,1-12,3). Trên hết, ta cần nhận ra rằng có cả “một đám mây khổng lồ các nhân chứng” (12,1) đang không ngừng thúc đẩy ta tiến bước hướng về mục tiêu. Những nhân chứng ấy có thể là chính mẹ hay bà của ta hoặc những người thân yêu khác (x. 2 Tm 1,5). Cuộc sống của họ có thể không phải lúc nào cũng hoàn hảo, nhưng ngay cả giữa những khi lỗi lầm và thất bại, họ vẫn tiến về phía trước và sống đẹp lòng Chúa.
4. Các thánh hiện đang sống trước nhan Thiên Chúa nhưng vẫn giữ mối liên kết yêu thương và tình hiệp thông với ta. Sách Khải Huyền xác nhận điều ấy khi nói các vị tử vì đạo đang chuyển cầu cho ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử ’ ” (6,9-10). Mỗi chúng ta đều có thể nói mình “được các bạn hữu của Thiên Chúa bao quanh, dẫn dắt và định hướng... Tôi không phải một mình vác lấy điều mà thật ra, tôi chẳng bao giờ có thể vác nổi một mình. Đoàn ngũ các thánh của Thiên Chúa đang ở đó để bảo vệ, đỡ nâng và đưa tôi đi” .
5. Khi xúc tiến phong chân phước và hiển thánh cho ai, Hội thánh nhìn nhận nơi người ấy những dấu chỉ về nhân đức anh hùng, việc hy sinh chịu chết vì đạo, và trong một số trường hợp khác là liên lỉ hiến dâng cuộc sống cho tha nhân, cho đến chết. Sự hiến dâng ấy cho thấy người đó đã noi theo gương Chúa Kitô cách điển hình, đáng cho các tín hữu ngưỡng mộ . Chẳng hạn, ta có thể nhắc đến Chân phước Maria Gabriella Sagheddu, người đã hiến đời mình cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
NHỮNG VỊ THÁNH “SÁT BÊN NHÀ” CHÚNG TA
6. Đừng chỉ nghĩ riêng tới những vị đã được phong chân phước và hiển thánh. Chúa Thánh Thần tuôn tràn sự thánh thiện khắp dân Chúa là dân tộc thánh thiện và trung tín, vì “Thiên Chúa đã muốn thánh hóa và cứu độ con người, không phải như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong sự thánh thiện” . Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã cứu một dân tộc. Chúng ta chẳng bao giờ trọn vẹn là chính mình mà lại không thuộc về một dân tộc. Đó là lý do tại sao không ai được cứu một mình, như một cá nhân cô lập. Trái lại, Thiên Chúa kéo chúng ta đến với Ngài, với đủ thứ liên hệ phức tạp giữa người với người trong cộng đồng nhân loại. Thiên Chúa muốn bước vào cuộc sống và lịch sử đầy năng động của một dân tộc.
7. Tôi thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện trong cuộc sống kiên nhẫn của dân Chúa: nơi những bậc cha mẹ đang nuôi dạy con cái với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ đang chăm chỉ làm việc để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà lúc nào cũng cười tươi. Nơi những cảnh đời hàng ngày đang kiên trì tiến tới như thế, tôi nhìn thấy sự thánh thiện của Hội thánh chiến đấu. Rất thường thì đó là một sự thánh thiện được tìm thấy nơi những người sát ngay bên nhà chúng ta, những người đang sống giữa chúng ta, đang phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là “tầng lớp trung lưu của sự thánh thiện” .
8. Ta hãy để cho mình được khích lệ bởi những dấu chỉ của sự thánh thiện mà Chúa cho chúng ta thấy qua các phần tử khiêm tốn nhất của đoàn dân ấy, là đoàn dân “cũng chia sẻ chức năng ngôn sứ của Đức Kitô, thể hiện khắp nơi chứng từ sống động về Ngài, đặc biệt là bằng đời sống đức tin và đức ái” . Theo cách nói của Thánh nữ Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá đề nghị, ta cần để ý rằng chính là nhờ rất nhiều người như thế mà lịch sử đang thực sự trở thành lịch sử. Chị viết: “Chính từ giữa đêm tối sâu thẳm nhất đã xuất hiện những khuôn mặt ngôn sứ và thánh nhân vĩ đại nhất. Nhưng phần lớn dòng chảy đang làm nên cuộc sống thần bí như thế lại vô hình, không thấy được. Có những tâm hồn chẳng bao giờ được sách sử nào nhắc đến nhưng lại có ảnh hưởng quyết định tại những khúc ngoặt trong lịch sử hoàn vũ. Phải đợi đến ngày mà tất cả những gì ẩn giấu đều tỏ lộ, ta mới biết mình mắc nợ những ai tại những khúc ngoặt quyết định của đời ta” .
9. Sự thánh thiện là vẻ mặt đẹp nhất của Hội thánh. Thế nhưng ngay cả bên ngoài Hội thánh Công Giáo và cả nơi những môi trường rất khác biệt, Chúa Thánh Thần vẫn làm nổi bật lên “những dấu chỉ của sự hiện diện của Ngài, để giúp cho chính các môn đệ của Đức Kitô” . Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta rằng “chứng nhân cho Đức Kitô phải chịu ngay cả việc đổ máu đã trở thành một gia sản chung của người Công Giáo, Chính Thống, Anh giáo và Tin Lành” . Trong cuộc tưởng niệm đại kết cảm động được tổ chức tại Hý trường Colosseum trong năm Đại Toàn xá 2000, ngài đã tuyên bố rằng các vị tử đạo là “một di sản đang lên tiếng mạnh mẽ hơn tất cả những gì đã gây nên chia rẽ” .
CHÚA MỜI GỌI
10. Ở đây mọi chuyện đều quan trọng. Tuy nhiên, với Tông Huấn này, tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến lời mời gọi nên thánh mà Chúa đang nói thẳng với mỗi chúng ta, cũng là lời mời gọi Ngài đang đích thân nói với bạn: “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (Lv 11,44; xem 1Pr 1,16). Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả mọi tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa mời gọi, để mỗi người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn lành như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành” .
11. Công đồng nói, “mỗi người một cách”. Chúng ta không nên nản chí trước những mẫu gương thánh thiện có vẻ như không thể đạt được. Có một số chứng từ có thể hữu ích và gợi hứng cho chúng ta, nhưng không phải là để chúng ta sao chép, vì sao chép lắm khi còn có thể dẫn chúng ta đi sai con đường riêng mà Chúa có ý dành cho chúng ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu nhận rõ được con đường riêng của mình, rút ra được những điều tốt nhất của chính mình, những hồng ân cá nhân nhất mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng họ (xem 1Cr 12,7), thay vì cố gắng bắt chước vô vọng một điều gì đó không dành cho họ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm nhân chứng, nhưng có nhiều cách thực tế để làm nhân chứng . Thật vậy, khi nhà thần bí vĩ đại, Thánh Gioan Thánh Giá, viết quyển Ca Khúc Tâm Linh, ngài thường tránh đem những quy tắc cố định áp dụng chung cho mọi người. Ngài giải thích rằng các vần thơ của ngài được sáng tác để mỗi người có thể rút ra bài học “theo một cách riêng” . Vì sự sống của Thiên Chúa được truyền cho “kẻ thì cách này, người thì cách khác” .
12. Giữa những hình thức khác nhau ấy, tôi xin nhấn mạnh rằng “tài hoa nữ giới” cũng nổi rõ trong những phong cách thánh thiện đậm nữ tính, và cũng là những điều rất cần có để phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa trên trần gian này. Ngay cả trong những thời mà người ta có khuynh hướng gạt phụ nữ sang một bên, không nhìn đến, Chúa Thánh Thần vẫn làm nổi bật lên những vị thánh tỏa chiếu hào quang, tạo nên những năng động tinh thần mới mẻ và những cải cách quan trọng trong Hội thánh. Ta có thể nhắc đến Thánh Hildegard thành Bingen, Thánh Bigitta, Thánh Catarina thành Siena, Thánh Têrêxa thành Avila và Thánh Têrêxa thành Lisieux. Tôi còn muốn nói đến tất cả các phụ nữ vô danh hoặc bị quên lãng, mỗi người một cách, đã nâng đỡ và biến đổi các gia đình và cộng đồng bằng năng lực mà đời sống làm chứng của họ đem lại.
13. Điều ấy phải đem lại phấn khởi và phải khuyến khích ta dâng hiến tất cả và ôm lấy kế hoạch có một không hai mà Thiên Chúa đã muốn cho mỗi chúng ta từ muôn thủơ: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5).
CHO CẢ BẠN NỮA
14. Ðể nên thánh không cần phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút lui khỏi công việc bình thường để dành nhiều thời gian cầu nguyện. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh. Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung .
15. Hãy để ân sủng bạn đã nhận lúc lãnh bí tích Rửa Tội sinh hoa kết quả trên đường nên thánh. Hãy để mọi thứ được mở ra cho Thiên Chúa; dù ở tình huống nào vẫn hướng về Chúa. Đừng nản lòng, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần đang giúp bạn làm điều ấy, và cuối cùng, sự thánh thiện chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong đời bạn (x. Ga 5,22-23). Khi bạn cảm thấy bị cám dỗ ở lỳ trong sự yếu đuối của mình, thì hãy ngước mắt nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh và thưa: “Lạy Chúa, con là một kẻ tội lỗi đáng thương, nhưng Chúa có thể làm phép lạ để khiến con tốt hơn một chút”. Trong Hội thánh, tuy thánh thiện, nhưng bao gồm những người tội lỗi, bạn sẽ tìm thấy mọi điều bạn cần để lớn lên theo hướng thánh thiện. Chúa đã ban tặng cho Hội thánh đủ thứ ơn lành nơi Kinh thánh, các bí tích, các đền thánh, nơi các cộng đoàn sống động, chứng từ của các thánh và nơi vẻ đẹp muôn màu, bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, khiến Hội thánh khác nào “một cô dâu điểm trang lộng lẫy” (Is 61,10).
16. Sự thánh thiện Chúa đang mời gọi bạn như thế sẽ lớn lên bằng những cử chỉ nho nhỏ. Đây là một thí dụ: một phụ nữ đi mua sắm, gặp một người hàng xóm và bắt đầu nói chuyện, rồi việc bép xép bắt đầu. Nhưng chị ấy tự nhủ lòng: “Không, tôi sẽ không nói xấu ai cả”. Đây là một bước tiến trong sự thánh thiện. Sau đó, ở nhà, một đứa con của chị muốn nói chuyện với chị về những điều nó hy vọng và ước mơ, và mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống kiên nhẫn và ưu ái lắng nghe. Đó là một sự hy sinh khác mang lại sự thánh thiện. Sau đó, chị gặp đôi điều khiến phải lo âu, nhưng nhớ lại tình yêu của Đức Trinh Nữ Maria, chị lấy tràng hạt ra và cầu nguyện bằng đức tin. Lại một nẻo đường nên thánh nữa. Lát sau ra đường, gặp một người nghèo, chị dừng lại nói với người ấy một lời dịu dàng tử tế. Ấy là thêm một bước nữa.
17. Đôi khi, cuộc sống đặt ra những thách đố lớn, qua đó, một lần nữa Chúa lại mời gọi chúng ta hoán cải để ân sủng Ngài có thể nổi rõ hơn giữa đời ta “để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Ngài” (Hr 12,10). Lắm lúc, ta chỉ cần tìm cách hoàn hảo hơn để làm điều đang làm. “Nhiều lúc Chúa ban ơn soi sáng chỉ nhằm giúp ta làm những việc thông thường của đời mình với một sự hoàn thiện phi thường” . Khi Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn văn Thuận bị tù, ngài đã nhất định không để lãng phí thời giờ ngồi chờ ngày được trả tự do. Thay vào đó, ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại, đong đầy tình thương vào đó”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ nắm lấy những cơ hội đến với tôi mỗi ngày, để hoàn thành mọi hành vi bình thường một cách phi thường” .
18. Cứ thế, nhờ ơn Chúa hướng dẫn, từ nhiều cử chỉ nhỏ bé, ta sẽ dệt nên sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho ta, không phải với sự tự hào tự mãn nhưng như “những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Các giám mục Tân Tây Lan thật chí lý khi dạy rằng chúng ta có khả năng yêu thương với tình yêu vô điều kiện của Chúa, bởi vì chính Chúa Phục sinh đã chia sẻ sự sống mãnh liệt của Ngài với những mảnh đời yếu ớt của chúng ta: “Tình yêu của Ngài không giới hạn và, khi đã ban cho ta rồi, Ngài không bao giờ lấy lại. Đó là tình yêu không điều kiện và luôn trung tín. Để yêu được như thế không phải dễ, bởi vì chúng ta thường quá yếu đuối. Thế nhưng hãy cứ thử yêu như Đức Kitô yêu thương rồi sẽ thấy Đức Kitô đã chia sẻ sự sống lại của Ngài với ta như thế nào. Bằng cách ấy, cuộc sống của ta sẽ cho thấy quyền năng của Ngài đang hoạt động - ngay giữa sự yếu đuối của con người” .
SỨ VỤ CỦA BẠN TRONG ĐỨC KITÔ
19. Là Kitô hữu, hễ nghĩ đến sứ vụ của mình trên trần gian, ta phải thấy nó như một nẻo đường để nên thánh, vì “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx 4,3). Chúa Cha muốn sắp đặt để mỗi vị thánh là một sứ vụ, phản ánh và tiêu biểu một khía cạnh nào đó của Tin mừng, vào một thời điểm cụ thể trong lịch sử.
20. Sứ vụ ấy có được ý nghĩa trọn vẹn nhất trong Đức Kitô, và chỉ có thể hiểu được qua Ngài. Tự cốt lõi, thánh thiện chính là sống những mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô, trong sự kết hợp với Ngài. Sự thánh thiện kết nối ta với cái chết và sự phục sinh của Chúa một cách đích thân và độc đáo, liên tục chết và sống lại với Ngài. Điều này có thể còn đòi hỏi ta phải tái thể hiện nơi đời mình những khía cạnh khác nhau nơi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu: nếp sống ẩn dật của Chúa, nếp sống của Ngài trong cộng đồng, sự gần gũi với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói và những cách diễn tả khác được Ngài dùng để nói lên tình yêu tự hiến của Ngài. Theo giáo huấn của Thánh Ignatiô thành Loyola, sự chiêm niệm những mầu nhiệm ấy của Chúa đưa ta đến chỗ, qua những sự việc ấy, đích thân ta lặp lại những lựa chọn và thái độ của mình . Bởi vì “mọi sự trong đời sống của Chúa Giêsu đều là dấu chỉ về mầu nhiệm của Ngài” , “toàn thể đời sống của Đức Kitô đều là mặc khải về Chúa Cha” , “toàn thể cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc” , ‘toàn thể cuộc đời Đức Kitô là một mầu nhiệm về sự quy tụ muôn loài nơi Đức Kitô” . “Đức Kitô cho phép ta được sống nơi Ngài tất cả những gì chính Ngài đã sống và vẫn còn đang sống nơi ta” .
21. Kế hoạch của Chúa Cha là chính Đức Kitô và cả chúng ta trong Đức Kitô. Cuối cùng, sẽ là chính Đức Kitô yêu thương trong chúng ta, vì “sự thánh thiện không gì khác hơn là đức ái được sống thật tròn đầy” . Kết quả là, “tầm vóc sự thánh thiện nơi ta được đo theo tầm vóc của Đức Kitô mà ta đạt được nơi bản thân, là mức độ mà, dưới tác động của quyền năng Chúa Thánh Thần, ta đã khuôn đúc đời mình theo mẫu mực cuộc đời của Chúa” . Mỗi vị thánh là một sứ điệp được Chúa Thánh Thần múc lấy từ sự sung mãn của Chúa Giêsu Kitô để ban cho dân Ngài.
22. Để nhận ra đâu là lời Chúa muốn nói với ta qua một vị thánh của Ngài, ta đừng bận tâm đến các chi tiết, vì ở đó vẫn có thể gặp những sai lầm và thất bại. Không phải mọi lời một vị thánh nói ra đều chắc chắn trung thành với Tin mừng; không phải tất cả những gì ngài làm đều đích xác hay hoàn hảo. Điều ta cần chiêm ngắm là toàn thể cuộc đời ngài, toàn thể bước tiến của ngài trên đường lớn lên trong sự thánh thiện, là khuôn mặt ngài phản chiếu dung nhan Chúa Giêsu Kitô và lộ rõ khi ta hiểu ra ý nghĩa tối hậu ngài đã đạt được như một ngôi vị .
23. Đó là một lời hiệu triệu quyết liệt gửi đến tất cả chúng ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần phải nhìn toàn bộ đời mình như một sứ vụ. Hãy cố gắng làm điều ấy qua việc lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và qua việc nhận ra các dấu chỉ Ngài đang ban cho bạn. Hãy luôn hỏi Chúa Thánh Thần xem Chúa Giêsu đang mong đợi gì nơi bạn ở từng giây phút đời bạn và từng quyết định bạn đang phải đắn đo, để nhận rõ vị trí của nó trong sứ vụ bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần rèn đúc nơi bạn cái mầu nhiệm ngôi vị có thể phản chiếu cho thế giới ngày nay nhận biết Chúa Giêsu Kitô.
24. Mong sao bạn nhận ra lời ấy, nhận ra thông điệp của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa muốn dùng đời bạn để nói với thế giới. Hãy để cho chính bạn được biến đổi. Hãy để Chúa Thánh Thần đổi mới bản thân bạn để điều ấy có thể thành hiện thực và bạn khỏi bị thất bại trong sứ vụ cao quý của mình. Dù bạn có lỗi lầm hay sơ suất, Chúa sẽ vẫn đưa nó đến hoàn tất, miễn là bạn đừng từ bỏ con đường yêu thương nhưng luôn cho lòng rộng mở trước ân sủng siêu nhiên của Ngài, ân sủng luyện lọc và soi sáng.
HOẠT ĐỘNG GIÚP TA NÊN THÁNH
25. Bạn không thể hiểu được Đức Kitô nếu tách Ngài khỏi vương quốc Ngài mang đến. Cũng vậy, sứ vụ của bản thân bạn không thể tách khỏi việc xây dựng vương quốc ấy: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt6,33). Việc bạn tự đồng hoá với Đức Kitô và ý muốn của Ngài đòi bạn phải cam kết cùng Ngài xây dựng vương quốc Ngài, một vương quốc của yêu thương, công lý và hòa bình phổ quát. Chính Đức Kitô muốn cùng với bạn cảm nghiệm điều ấy trong tất cả những nỗ lực và hy sinh mà vương quốc ấy đòi hỏi, đồng thời trong tất cả niềm vui và sự phong phú mà vương quốc ấy mang đến. Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không đích thân hiến cả thân xác lẫn linh hồn, hiến hết tất cả những gì tốt đẹp nhất của bạn.
26. Thật không lành mạnh khi nhân danh sự thinh lặng để tránh gặp gỡ người khác, khi vì cầu an mà tránh hoạt động, vịn cớ cầu nguyện để khỏi phục vụ. Mọi sự đều có thể chấp nhận được và hòa nhập vào cuộc sống của ta trong thế giới này, để trở nên một phần của nẻo đường giúp ta nên thánh. Ta được mời gọi sống chiêm niệm ngay giữa hoạt động và được mời gọi lớn lên trong sự thánh thiện bằng cách thi hành sứ vụ riêng của mình cách hào hiệp và đầy trách nhiệm.
27. Liệu Chúa Thánh Thần có thúc giục ta thi hành một sứ vụ rồi liền sau đó lại đòi ta từ bỏ nó, hoặc thôi tích cực tham gia vào đó, để giữ lấy sự bình an nội tâm chăng? Thế nhưng lắm lúc chúng ta bị cám dỗ để đẩy lùi nhiệt tình mục vụ cũng như sự dấn thân vào đời xuống hàng thứ yếu, như thể chúng khiến chúng ta bị “sao nhãng” trên nẻo đường nên thánh và bình an nội tâm. Có lẽ ta đã quên mất rằng “cuộc sống không có một sứ vụ, mà chính nó là một sứ vụ” .
28. Chẳng cần phải nói, bất cứ điều gì chỉ làm vì lo âu, tự hào hoặc do nhu cầu gây ấn tượng với những người khác sẽ không dẫn đến sự thánh thiện. Thách đố của sự thánh thiện là ở chỗ phải cho thấy được mình đã dấn thân đến độ mọi sự mình làm đều thấm nhuần tinh thần Tin mừng và khiến mình ngày càng nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn. Chẳng hạn, ta thường nói về đường nên thánh của giáo lý viên, của linh mục triều, hoặc của công việc. Cũng vì lý do đó, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng tôi đã kết luận bằng cách nói về một đường nên thánh của sứ vụ, trong tông huấn Chúc Tụng Chúa (Laudato Si') về một đường nên thánh qua môi sinh, và trong tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về một đường nên thánh của đời sống gia đình.
29. Nói thế không có nghĩa là bỏ qua sự cần thiết của những giây phút yên tĩnh, cô tịch và im lặng trước Thiên Chúa. Ngược lại là khác. Chính vì lúc nào cũng có những vật dụng mới, sự lôi cuốn của du lịch và đủ thứ mặt hàng tiêu thụ thường không còn trừ lại chỗ nào cho ta nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Đâu đâu cũng tràn ngập những lời nói, những thú vui hời hợt và tiếng động ồn ã càng lúc càng tăng. Thay vì được đong đầy bằng niềm vui, ta lại thấy bị chất chứa cái bất mãn của những kẻ sống mà chẳng biết sống để làm gì. Làm sao ta không thấy cần kíp phải chặn ngay cuộc đua cuồng vội này để tìm lại không gian thân thiết cần có để đối thoại chân thành với Thiên Chúa? Có thể phải trầy vi tróc vảy mới tìm được khoảng không gian ấy nhưng bao giờ nó cũng đầy hoa trái. Sớm hay muộn, ta cũng phải đối diện với chính con người thật của mình và để cho Chúa vào chiếm ngự. Có thể ta sẽ chẳng gặp được điều ấy nếu như “không thấy như mình đang phải nhìn chằm chằm vào hố thẳm của một cám dỗ đáng sợ, hoặc cảm thấy chóng mặt bên cạnh bờ vực của tuyệt vọng, hoặc thấy mình hoàn toàn cô đơn và bị bỏ rơi” . Chính là trong những hoàn cảnh như vậy, ta mới tìm được động lực sâu xa nhất để dấn thân sống trọn vẹn cho những bổn phận của mình.
30. Cũng chính những trò vui tiêu khiển đang lan khắp thế giới ngày nay như vậy khiến ta có khuynh hướng coi thời gian rảnh rỗi như là chuyện bất khả xâm phạm, để rồi đắm mình cách vô độ vào những thứ chỉ giúp giải trí bằng những thú vui hời hợt chóng qua .
Hậu quả là, cuối cùng, ta cảm thấy sứ vụ cũng như sự dấn thân của mình bị bốc hơi dần, nghĩa khí và tinh thần phục vụ bị sa sút. Nó khiến cảm nghiệm tâm linh của ta bị biến chất. Rồi khi nhiệt tình loan Tin mừng và phục vụ người khác đã bạc nhược đến thế, hỏi liệu còn nhiệt huyết linh thiêng nào có thể đứng vững?
31. Ta cần một tinh thần thánh thiện có khả năng lấp đầy cả sự cô tịch lẫn việc phục vụ của ta, lấp đầy cả đời tư lẫn những nỗ lực loan Tin mừng của ta, để mỗi giây phút đều có thể là một biểu hiện của tình yêu tự hiến trong mắt Chúa. Có thế, mỗi giây phút đời ta mới có thể là một bước trên nẻo đường dẫn đến sự trưởng thành về thánh thiện.
SỐNG ĐỘNG HƠN, NHÂN BẢN HƠN
32. Đừng sợ sự thánh thiện. Nó sẽ không lấy mất chút năng lượng, sức sống hay niềm vui nào của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều Chúa Cha đã nghĩ đến khi tạo thành bạn, và sẽ trung thành với chính con người sâu thẳm nhất của mình. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa giải thoát ta khỏi mọi hình thức nô lệ và đưa ta đến chỗ nhận ra phẩm giá cao quý của mình. Ta thấy rõ điều ấy nơi Thánh Giôsêphina Bakhita: “Bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ khi mới lên bảy, chị đã phải chịu đựng rất nhiều trong tay của những chủ nhân độc ác. Thế nhưng rồi chị đã hiểu được chân lý sâu xa rằng không phải con người nhưng Thiên Chúa mới là Chủ Nhân thật của mọi hữu thể người, của mọi mạng sống con người. Kinh nghiệm ấy đã thành một nguồn khôn ngoan thật lớn lao cho cô gái Phi châu khiêm nhường bé bỏng” .
33. Càng lớn lên trong sự thánh thiện, mỗi Kitô hữu càng mang lại hoa trái lớn hơn cho thế giới của chúng ta. Các giám mục Tây Phi đã ghi nhận: “Trong tinh thần Tân Phúc âm hóa chúng tôi đang được mời gọi để cho chính mình được phúc âm hóa đồng thời phúc âm hóa thế giới qua những trách nhiệm Chúa đã giao cho tất cả các anh chị em, là những người đã lãnh phép Thánh tẩy, trong vai trò làm muối đất và ánh sáng thế gian ở bất cứ nơi nào anh chị em sống” .
34. Đừng sợ nhìn lên cao hơn, để cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương và giải phóng. Đừng sợ để cho mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự thánh thiện sẽ không khiến bạn trở thành kém chất người đi, vì nó là một cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối của bạn và quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Cuối cùng, như Léon Bloy đã nói, “trên đời chỉ có một bi kịch lớn nhất, ấy là không trở thành một vị thánh” .
CHƯƠNG 2
HAI KẺ THÙ TINH TẾ CỦA SỰ THÁNH THIỆN
35. Trong khung cảnh ấy, tôi muốn lưu ý đến hai thứ thánh thiện giả mạo có nguy cơ khiến chúng ta lầm lạc: thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô [Ghi chú của người dịch: Ngộ đạo, nói tắt là những người chạy theo sự bừng ngộ, tự cho là mình nhận được những hiểu biết sâu nhiệm và đặc biệt, hơn hẳn mọi người. Lạc thuyết Pelagiô là thái độ không tha thiết với ơn Chúa, chỉ dựa trên sức riêng mình]. Hai lạc thuyết này đã có từ thời Kitô giáo sơ khai, nhưng hiện vẫn hết sức đáng quan tâm. Ngay ở thời nay rất nhiều Kitô hữu vẫn bị những ý tưởng dối trá này lôi cuốn mà có lẽ không hề ngờ. Chúng được trá hình như là chân lý của Công Giáo nhưng thực ra chỉ là một thái độ nội tâm lấy con người làm chuẩn . Hai dạng trú ẩn an toàn cả về học thuyết lẫn thực hành này làm nảy sinh một chủ nghĩa ưu tuyển tự say mê mình và độc đoán, thay vì rao giảng Tin mừng, người ta tìm phân tích và xếp loại người khác, và thay vì mở lòng cho ân sủng, người ta dốc hết tâm lực ra để theo dõi và kiểm chứng. Trong cả hai trường hợp, người ta không thực sự quan tâm đến Chúa Giêsu Kitô hoặc tha nhân” .
THUYẾT NGỘ ĐẠO NGÀY NAY
36. Người ta rơi vào thuyết ngộ đạo khi chạy theo "một đức tin đóng kín trong cái chủ quan của mình, chỉ bận tâm đến một kinh nghiệm cụ thể nào đó hoặc một loạt các ý tưởng và một mớ kiến thức được coi là có sức nâng đỡ và soi sáng, nhưng lại nhốt kín người ta trong những tư tưởng hay cảm xúc riêng của họ" .
Một tinh thần không có Thiên Chúa và chối bỏ phận người
37. Cảm tạ Thiên Chúa, rõ ràng là suốt lịch sử Hội thánh bao giờ sự hoàn hảo của một người cũng được đo lường không phải bằng lượng thông tin hay kiến thức người ấy có được, nhưng bằng chiều sâu đức ái của người ấy. Những người “ngộ đạo” nhầm lẫn về điều đó, họ đánh giá người khác dựa vào khả năng hiểu được sự phức tạp của một học thuyết nào đó. Họ hình dung ra tinh thần như một thứ gì tách khỏi xác thịt, do đó không có khả năng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác, như thể bị giam hãm trong một cái rọ lý thuyết của những tư tưởng trừu tượng. Tách rời mầu nhiệm ra khỏi phận người có xác phàm, họ thích chạy theo “một Thiên Chúa không có Đức Kitô, một Đức Kitô không có Hội thánh, và một Hội thánh không có dân của mình” .
38. Cứ thế thì chắc chắn chỉ còn là một sự hời hợt hão huyền: có lắm biến chuyển ngoài bề mặt, nhưng tâm trí không hề được đánh động hoặc biến cải gì sâu xa. Tuy nhiên, tham vọng ngộ đạo lại cuốn hút khiến lắm người ngây ngất trong lầm lạc, vì nó khởi đầu cách nhặt nhiệm và thuần khiết, và hầu như cũng có một sự hài hòa hoặc trật tự nào đó bao gồm tất cả mọi sự.
39. Thế nhưng, xin lưu ý. Ở đây tôi không nhắm nói đến những người duy lý thù nghịch với đức tin Kitô giáo, hiện vẫn có thể đang có trong Hội thánh, cả nơi hàng ngũ giáo dân tại các giáo xứ lẫn nơi những giảng viên triết học và thần học ở các trung tâm đào tạo. Những người ngộ đạo nghĩ rằng các giải thích của họ có thể làm cho toàn bộ đức tin và Tin mừng trở nên hoàn toàn dễ hiểu. Họ tuyệt đối hóa các thuyết của họ và buộc những người khác phải chấp nhận cách suy nghĩ của họ. Sử dụng lý trí lành mạnh và khiêm tốn để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin mừng là một chuyện. Còn chủ trương giản lược giáo huấn của Chúa Giêsu xuống thành một lý luận lạnh lùng và cứng nhắc nhằm tìm cách thống trị mọi sự lại là chuyện khác .
Một học thuyết không có mầu nhiệm
40. Thuyết ngộ đạo là một trong những hệ tư tưởng tệ hại nhất, bởi vì, nó vừa tán dương một kiến thức hoặc một kinh nghiệm cụ thể, vừa coi cái nhìn riêng ấy về thực tại là tiêu biểu cho sự hoàn thiện. Như thế, có thể là người theo hệ tư tưởng này không hề ý thức được điều ấy, cứ tự loay hoay với mình, đến độ ngày càng trở nên thiển cận hơn. Hệ tư tưởng này có thể còn trở nên viển vông hơn nữa khi khoác lớp áo một nẻo đường tâm linh thoát tục. Thật vậy, “tự bản chất của nó thuyết ngộ đạo tìm cách uốn nắn để làm chủ mầu nhiệm” , dù đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, hay là những điều huyền nhiệm nơi cuộc đời những người khác.
41. Khi một người nào đó có một câu trả lời chung cho mọi vấn đề, đó là một dấu chỉ cho thấy họ không đi đúng đường. Họ có thể là ngôn sứ giả, những kẻ dùng tôn giáo cho mục đích riêng của họ, để quảng bá các lý thuyết riêng của họ về tâm lý hoặc về trí tuệ. Thiên Chúa cao vượt trên chúng ta đến vô cùng vô tận. Ngài đầy bất ngờ. Chẳng phải chúng ta là những người quyết định mình sẽ gặp Ngài khi nào và thế nào. Thời gian và địa điểm chính xác của cuộc gặp gỡ ấy không phụ thuộc vào chúng ta. Ai muốn đòi mọi sự đều phải rõ ràng và chắc nịch, ấy là đang đòi kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa.
42. Chúng ta cũng không có quyền nói là nơi nào không có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa hiện diện cách mầu nhiệm trong cuộc sống mỗi người, theo một cách mà chính Ngài chọn lựa, và chúng ta không thể loại trừ điều này bằng những điều mình cho là chắc chắn. Ngay cả khi đời sống của một người có vẻ hoàn toàn tan nát, ngay cả khi chúng ta thấy đời sống ấy bị các tật xấu hoặc nghiện ngập tàn phá, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn thay vì để cho các định kiến của chính mình khống chế, thì chúng ta có thể và phải cố gắng tìm kiếm Chúa trong mọi đời sống con người. Đây là một phần của mầu nhiệm mà một não trạng ngộ đạo không thể nào chấp nhận được, vì nằm ngoài sự kiểm soát của nó.
Giới hạn của lý trí
43. Chúng ta chỉ hiểu được rất nghèo nàn về chân lý mà chúng ta đã nhận được từ Chúa. Diễn tả được chân lý ấy lại càng khó hơn nữa. Vì vậy, chúng ta không thể tự cho phép mình dùng cách hiểu của mình để giám sát chặt chẽ cuộc sống của những người khác. Ở đây, tôi xin lưu ý rằng trong Hội thánh những cách giải thích khác nhau về nhiều khía cạnh của học thuyết và đời sống Kitô hữu có thể cùng tồn tại bên nhau cách hợp pháp; nhờ đa dạng như thế, chúng “giúp diễn đạt rõ ràng hơn về sự phong phú vô tận của Lời Chúa”. Quả tình, “đối với những người mơ ước một học thuyết toàn khối được tất cả mọi người răm rắp nghe theo, sự đa dạng như thế có lẽ không đáng mong ước và còn dẫn đến chỗ mập mờ” . Thật vậy, một số luồng tư tưởng ngộ đạo đã chế nhạo cái đơn giản cụ thể của Tin mừng và cố gắng thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng một Nhất Thể tối cao, ở đó sự đa dạng phong phú lịch sử của chúng ta bị biến mất.
44. Trên thực tế, học thuyết của Hội thánh, hay đúng hơn, sự hiểu biết và sự diễn tả của chúng ta về học thuyết ấy, “không phải là một hệ thống khép kín, gạt hết cái năng động có khả năng đặt câu hỏi, nêu lên những điểm hoài nghi và thắc mắc... Những câu hỏi dân chúng nêu lên, những đau khổ của họ, những chiến đấu của họ, những ước mơ, những thử thách và những lo âu của họ, tất cả đều có giá trị giải thích mà ta không thể bỏ qua nếu muốn theo đuổi nguyên tắc nhập thể một cách nghiêm chỉnh. Thắc mắc của họ giúp ta suy nghĩ, các câu hỏi của họ chất vấn ta” .
45. Có một nhầm lẫn nguy hiểm vẫn thường xảy ra. Đó là, nghĩ rằng bởi vì mình biết một điều gì đó, hoặc có thể giải thích nó một cách nào đó, nên mình đã thành thánh thiện, hoàn hảo và tốt hơn “đám đông thiếu hiểu biết”. Thánh Gioan Phaolô II đã cảnh báo những người may mắn có học thức cao trong Hội thánh cần tỉnh táo trước cám dỗ “cảm thấy một cách nào đó mình cao vượt hơn các thành phần tín hữu khác” . Thực ra, điều chúng ta nghĩ rằng mình biết phải luôn luôn thúc đẩy chúng ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa một cách trọn vẹn hơn. Quả thật, “anh chị em học như thế là để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau được” .
46. Khi Thánh Phanxicô thành Assisi thấy một số môn đệ của ngài tham gia việc giảng dạy, ngài muốn giúp họ tránh chước cám dỗ của thuyết ngộ đạo. Ngài đã viết cho Thánh Antôn thành Pađôva: “Cha vui mừng khi con dạy thần học thánh cho các anh em, với điều kiện là ... đang khi nghiên cứu như thế, con đừng dập tắt tinh thần cầu nguyện và lòng đạo đức ” . Thánh nhân đã nhận ra cái cám dỗ biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một loạt thực tập về trí tuệ, có nguy cơ tách ta khỏi sự tươi mát của Tin mừng. Mặt khác, Thánh Bonaventura đã chỉ ra rằng lẽ khôn ngoan Kitô giáo chân chính không bao giờ được tách khỏi lòng khoan dung với người bên cạnh ta: “Lẽ khôn ngoan lớn nhất cốt ở chỗ chia sẻ cách hữu hiệu những gì ta có để cho đi, những gì ta được trao ban để dâng hiến ... Cũng tựa như lòng thương xót là bạn đồng hành của lẽ khôn ngoan thế nào, thì tính hà tiện cũng là kẻ thù của nó thế ấy” . Có những hoạt động, khi được kết hợp với chiêm niệm, chẳng những không ngăn cản việc chiêm niệm, mà lại tạo thuận lợi cho nó, chẳng hạn như những việc thương xót và việc sùng mộ” .
THUYẾT PELAGIÔ HIỆN ĐẠI
47. Thuyết ngộ đạo đã mở đường cho một lạc thuyết khác, cũng đang ảnh hưởng nhiều trong thời đại chúng ta. Theo thời gian, nhiều người nhận ra rằng không phải kiến thức khiến ta trở nên tốt hơn hoặc khiến ta nên thánh, mà là cách ta sống. Thế nhưng rồi điều này đã tinh vi đưa người ta quay về lại với sai lầm cố hữu của những người theo thuyết ngộ đạo, một sai lầm chỉ đơn thuần biến đổi chứ không bị loại trừ.
48. Cái sức mạnh mà những người theo ngộ đạo đã gán cho kiến thức, thì giờ đây một số người khác bắt đầu gán cho ý chí của con người, cho nỗ lực cá nhân. Đây là trường hợp những người theo thuyết Pelagiô và thuyết Palagiô-nửa-vời. Giờ đây không phải là trí thông minh thay thế cho mầu nhiệm và ân sủng, mà là ý chí của con người. Người ta đã quên rằng mọi sự “không tùy thuộc vào ý muốn hay nỗ lực của con người, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng tỏ lòng thương xót” (Rm 9,16) và “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga4,19).
Một ý chí thiếu khiêm tốn
49. Những người nặng đầu óc Pelagiô hoặc Pêlagiô-nửa-vời này, mặc dù vẫn nhiệt thành nói về ân sủng của Thiên Chúa, nhưng “chung cuộc chỉ tin cậy vào sức riêng của họ và cảm thấy mình vượt hơn người khác bởi vì họ tuân giữ một số quy luật nào đó hoặc vẫn tuyệt đối trung thành với một kiểu Công Giáo đặc thù” . Khi có ai đó trong họ nói với những người yếu đuối rằng với ơn Chúa mọi sự đều có thể xong cả thì, tự sâu xa họ vẫn muốn mớm ý cho những người ấy rằng mọi sự đều có thể làm được nhờ ý chí của con người, như thể ý chí này là một điều gì đó thuần khiết, hoàn hảo, vạn năng sẵn rồi, còn ân sủng chỉ được thêm vào đó thôi. Họ không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự” , và rằng trong cuộc đời này, những yếu đuối của con người không được chữa lành hẳn cách dứt khoát bằng ân sủng . Trong mọi trường hợp, như thánh Augustinô dạy, Thiên Chúa truyền cho bạn làm những gì có thể làm được còn những gì không thể làm được thì xin ơn Chúa giúp , và hãy cầu nguyện với Ngài cách khiêm tốn: “Xin ban cho con những gì Chúa truyền dạy, và truyền dạy con những gì Chúa muốn” .
50. Cuối cùng, nếu không biết chân thành, đau đớn và thành khẩn nhìn nhận những giới hạn của mình, chúng ta sẽ cản trở không cho ân sủng hoạt động trong chúng ta hiệu quả hơn, vì không còn chỗ để thể hiện sự tốt lành tiềm tàng, vẫn hằng góp phần vào một cuộc hành trình tăng trưởng hồn nhiên và chân thực . “Ân sủng, hẳn vẫn tôn trọng bản tính tự nhiên của ta, chứ đâu có biến ta thành siêu nhân ngay tức thì”. Nghĩ như vậy sẽ là quá tin vào mình. Ở đây đàng sau vẻ chính thống, có thể chúng ta đang có những thái độ không tương ứng với lời mình nói về sự cần thiết của ân sủng, và trong những tình huống nhất định có thể chúng ta sẽ không còn tin tưởng gì mấy vào ân sủng. Nếu không biết nhìn nhận thực tế cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể thấy được những bước đi thật sự và khả thi Chúa đang đòi hỏi chúng ta trong mọi lúc, sau khi đã dùng ân tứ của Ngài để chinh phục ta và ban khả năng cho ta. Ân sủng hành động theo dòng lịch sử; thông thường thì ân sủng nắm lấy ta và biến đổi ta cách từ từ . Nếu ta gạt bỏ thực tại lịch sử và tiệm tiến ấy, thì trong thực tế ta có thể sẽ rơi vào chỗ từ chối và ngăn chặn ân sủng, mặc dù ngoài miệng thì vẫn bô bô tán dương ân sủng.
51. Khi Thiên Chúa nói với ông Abraham, Ngài bảo ông: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng, hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1). Để được nên trọn lành, như Ngài muốn cho ta, ta cần phải sống khiêm tốn trong sự hiện diện của Ngài, được che phủ trong vinh quang của Ngài; ta cần bước đi trong sự hiệp nhất với Ngài, ý thức rằng tình yêu Ngài hằng liên lỉ suốt đời ta. Ta cần phải không còn sợ hãi trước sự hiện diện của Đấng chỉ hiện diện vì ích lợi của ta. Thiên Chúa là Người Cha đã ban cho ta sự sống và hằng yêu thương ta biết bao. Một khi đã đón nhận Ngài, không còn tìm cách sống cuộc sống không có Ngài, thì nỗi thống khổ của cô đơn sẽ biến mất (x. Tv 139,23-24). Bằng cách ấy, ta sẽ biết được ý muốn hoàn hảo của Chúa, ý muôn đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1-2) và để cho Ngài nhào nặn ta như một thợ gốm (x. Is 29,16). Ta thường nói rằng Thiên Chúa ngự trong ta, nhưng tốt hơn nên nói rằng ta ở trong Ngài, để Ngài có thể giúp ta sống trong ánh sáng và tình yêu của Ngài. Ngài là đền thờ của ta; ta cầu xin được ở trong nhà Chúa mọi ngày đời ta (x. Tv 27,4). “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84,10). Chính ở trong Ngài ta được nên thánh.
Một giáo huấn của Hội thánh thường bị coi nhẹ
52. Hội thánh đã nhiều lần dạy rằng chúng ta được nên công chính không nhờ các việc làm hay nỗ lực riêng của mình, nhưng nhờ ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn chủ động. Các Giáo Phụ, ngay cả trước Thánh Augustinô, đã bày tỏ rõ ràng niềm tin cơ bản ấy. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thiên Chúa đổ vào chúng ta chính nguồn mạch mọi hồng ân của Ngài thậm chí trước khi chúng ta bước vào trận chiến . Thánh Basiliô Cả lưu ý rằng các tín hữu chỉ được vinh quang nơi một mình Thiên Chúa, vì “họ nhận ra mình thiếu sự công chính đích thực và chỉ được công chính hoá nhờ đức tin vào Đức Kitô” .
53. Công Đồng Orange II đã dạy cách đầy thẩm quyền rằng không ai trong nhân loại có thể đòi hỏi, đáng được hoặc mua sắm được món quà ân sủng của Thiên Chúa, và rằng mọi sự hợp tác với ân sủng cũng là một ơn do ân sủng ấy ban trước rồi: “Ngay cả ước muốn được thanh tẩy cũng là do chính Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào lòng ta và tác động trong ta” . Sau đó, Công Đồng Trentô, khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự hợp tác của chúng ta trong việc phát triển tâm linh, cũng đã khẳng định lại giáo huấn tín lý ấy: “Bảo rằng chúng ta được công chính hoá một cách “cho không” vì trước khi được công chính hoá thì không có gì xứng đáng với ơn công chính hoá, cho dù là đức tin hay việc làm; vì ‘đã nhờ ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm; bằng không thì ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rm 11,6)” .
54. Sách Giáo Lý của Hội thánh Công Giáo cũng nhắc nhở ta rằng món quà ân sủng “vượt trên sức mạnh của trí tuệ và ý chí của con người” và “trước nhan Thiên Chúa, con người tuyệt đối không có quyền hay công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng khôn lường” . Tình bạn Ngài dành cho ta cao vượt trên ta vô hạn; ta không thể mua tình bạn ấy bằng các việc làm của ta, nó chỉ có thể là một quà tặng phát sinh từ sáng kiến yêu thương của Ngài. Điều ấy mời gọi ta sống trong niềm tri ân vui mừng vì món quà mà ta không hề xứng đáng, vì “sau khi một người có được ân sủng, thì ân sủng này đã có sẵn đâu thể nói do công trạng của người ấy mà có được ” . Các Thánh luôn tránh cậy dựa vào việc làm của mình: “Khi cuộc sống về chiều, con sẽ ra trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng: bởi lẽ, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm những việc con làm... Trước mắt Chúa, mọi sự công chính của chúng con đều đầy tì vết! ” .
55. Đây là một trong những xác tín lớn mà Hội thánh đã kiên quyết giữ vững. Nó được diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa mà không ai có thể thắc mắc gì được. Giống như giới luật yêu thương tối cao, ta phải để cho chân lý này ảnh hưởng lên toàn bộ cách sống của ta, bởi lẽ nó chảy ra từ tâm điểm của Tin mừng và đòi ta không những chấp nhận nó về mặt trí tuệ mà còn phải biến nó thành một nguồn vui có sức lan tỏa. Nhưng ta chỉ có thể mừng hồng ân do tình bạn của Chúa “ban không” như thế, khi nhìn nhận rằng cuộc đời trần thế và cả khả năng tự nhiên của mình cũng là hồng ân của Ngài. Ta cần “hân hoan nhìn nhận rằng sự sống của ta chủ yếu là một ơn ban, và ý thức rằng tự do của ta là một ân huệ. Ngày nay nhìn nhận như thế thật không dễ, giữa một thế giới vẫn nghĩ rằng nó có thể giữ một điều gì đó cho phần nó, như thành quả do chính nó sáng tạo hoặc tự do định đoạt” .
56. Chỉ khi nào khởi đi từ hồng ân Thiên Chúa ban và nhận lấy hồng ân ấy trong tự do và khiêm nhường, ta mới có thể nỗ lực cộng tác vào việc dần dần biến đổi mình . Trước hết, ta phải thuộc về Thiên Chúa, bằng cách hiến dâng chính mình cho Ngài, là Đấng đã ở đó trước, và trao phó cho Ngài mọi khả năng và nỗ lực của ta cũng như cuộc chiến đấu của ta chống lại sự dữ và mọi sáng kiến của ta, thì hồng ân Ngài ban không mới có thể lớn lên và phát triển trong ta: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Về vấn đề ấy, Hội thánh luôn luôn dạy rằng chỉ có đức mến mới làm cho việc lớn lên trong đời sống ân sủng xảy ra, vì “mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cr 13,2).
Những người Pelagiô mới
57. Tuy nhiên, vẫn có một số Kitô hữu cứ nhất quyết đi theo một con đường khác, đòi tự công chính hoá bằng sức riêng, vẫn cứ tôn thờ ý chí nhân loại và khả năng riêng của họ. Kết quả là một sự tự mãn quy về mình và tự coi mình là ưu tú, mất hẳn tình yêu chân thật. Điều này được diễn tả bằng nhiều cách suy nghĩ và hành động có vẻ rời rạc khác nhau: việc bám chặt vào luật lệ, việc quá bận tâm với các lợi thế xã hội và chính trị, một sự bận tâm chi li về phụng vụ, tín lý và uy tín của Hội thánh, một sự huênh hoang về khả năng quản lý các vấn đề thực tiễn, và say sưa tìm đủ cách tự hoàn thiện nhằm đạt được thành tựu cá nhân. Một số Kitô hữu dành hết thời giờ và sức lực cho những điều ấy thay vì để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo con đường tình yêu, say mê truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin mừng và tìm kiếm những anh em bị mất hút giữa đám đông vô số những người đang khao khát Đức Kitô .
58. Đi ngược với những thúc đẩy của Thần Khí, đời sống của Hội thánh thường trở thành một tác phẩm trong viện bảo tàng hoặc vật sở hữu của một số ít người ưu tuyển. Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu quá coi trọng một số luật lệ, thói quen hoặc cách hành động nào đó. Như thế Tin mừng có khuynh hướng bị giảm thiểu và thu hẹp lại, bị tước mất tính đơn giản, sức quyến rũ và hương vị của nó. Đó có thể là một hình thức tinh tế của thuyết Pêlagiô, vì nó có vẻ bắt đời sống ân sủng lệ thuộc vào một số cấu trúc nhân loại. Nó có thể ảnh hưởng đến các nhóm, các phong trào và các cộng đồng, và nó giúp ta hiểu tại sao những người ấy thường hay bắt đầu với một cuộc sống mãnh liệt trong Thần Khí, rồi kết cục lại bị hóa thạch ... hoặc hư hoại.
59. Khi nghĩ rằng mọi sự tùy thuộc vào nỗ lực của con người truyền tải qua những luật lệ và cấu trúc của Hội thánh, chúng ta vô tình biến Tin mừng thành phức tạp và thành nô lệ cho một kế hoạch chi tiết, chỉ còn vài lỗ hổng cho tác động của ân sủng. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở chúng ta rằng các giới luật được Hội thánh thêm vào Tin mừng phải được áp dụng một cách vừa phải “nếu không thì cuộc sống các tín hữu sẽ trở nên nặng nề”, lúc ấy tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành một hình thức nô lệ .
Tóm tắt Lề Luật
60. Để tránh điều ấy, tốt nhất là ta hãy thường xuyên tự nhắc nhở mình rằng có một cấp bậc các nhân đức đang mời gọi chúng ta tìm kiếm điều cốt yếu. Trước hết và trên hết phải là các nhân đức hướng thần, là những nhân đức bắt nguồn từ Thiên Chúa và hướng đến Thiên Chúa. Ở chính giữa là đức ái. Thánh Phaolô nói rằng điều thật sự đáng kể là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). Ta được mời gọi cố gắng hết sức để bảo tồn đức ái: “Vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14).
61. Nói cách khác, giữa một rừng giới luật và mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã dọn sạch một con đường để nhìn thấy hai khuôn mặt, là khuôn mặt của Chúa Cha và của anh chị em chúng ta. Chẳng phải Ngài ban cho ta thêm hai công thức hoặc hai giới luật. Ngài cho ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn nữa, một khuôn mặt duy nhất: khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu nơi rất nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị em của ta, đặc biệt là những người bé nhỏ nhất, những người dễ bị tổn thương nhất, những người không có khả năng tự vệ và những người túng thiếu, ta thấy lộ rõ chính hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, với những mảnh vụn của nhân tính dòn mỏng này, Chúa sẽ hình thành tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của Ngài. Vì “điều gì sẽ tồn tại, điều gì có giá trị trong cuộc sống, những điều phong phú mà không biến mất? Chắc chắn là hai điều này: Chúa và người bên cạnh chúng ta. Đó là hai sự phong phú sẽ không biến mất!” .
62. Nguyện xin Chúa giải thoát Hội thánh khỏi những hình thức ngộ đạo và Pelagiô mới này, là những điều đang đè nặng và ngăn chặn sự tiến bộ của Hội thánh trên con đường nên thánh! Những lầm lạc này có nhiều hình thức khác nhau, theo khí chất và cá tính của mỗi người. Vì vậy, tôi khuyến khích mọi người hãy suy nghĩ và phân định trước mặt Thiên Chúa xem chúng có thể đang dần dần lộ rõ nơi cuộc sống của mình hay không.
CHƯƠNG 3
TRONG ÁNH SÁNG CỦA THẦY CHÍ THÁNH
63. Có thể có nhiều lý thuyết về bản chất sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Những suy tư ấy có thể hữu ích, nhưng không gì có thể soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và xem cách Ngài giảng dạy chân lý. Chúa Giêsu đã giải thích hết sức giản dị về ý nghĩa của việc nên thánh khi Ngài dạy cho ta biết các mối Phúc thật (xem Mt5,3-12; Lc6,20-23). Các mối Phúc tựa như cái thẻ chứng minh của Kitô hữu. Vì vậy, nếu được hỏi: “Ta phải làm gì để là một Kitô hữu tốt?”, ta có thể trả lời ngay: Cần phải thực hành, ai theo phận nấy, điều Chúa Giêsu đã nói với ta trong Bài giảng trên núi . Qua các mối Phúc, ta nhận ra chân dung của Thầy chúng ta, chân dung mà ta được mời gọi phản chiếu lại trong cuộc sống hàng ngày của mình.
64. Hai tiếng “hạnh phúc” hay “phúc thay” trở thành đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả sự kiện ai hiến mình để sống trung thành với Thiên Chúa và Lời Ngài, sẽ đạt được hạnh phúc đích thật.
LỘI NGƯỢC DÒNG
65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe như thi vị, nhưng rõ ràng là chúng ngược hẳn với cách mọi việc vẫn thường diễn ra trong thế giới của chúng ta. Cho dù chúng ta thấy mình được sứ điệp của Chúa Giêsu cuốn hút, thế gian vẫn đẩy chúng ta tới một cách sống khác. Các mối Phúc không hề là cái gì tầm thường hay dễ thoả mãn, mà hoàn toàn ngược lại. Ta chỉ có thể sống được các mối Phúc ấy nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên ta và giải thoát ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu hãnh của mình.
66. Ta hãy lắng nghe Thầy Giêsu một lần nữa bằng tất cả tình yêu và lòng tôn kính mà Thầy đáng được. Hãy để cho những lời của Thầy chạm thẳng đến ta, thách thức ta và đòi ta phải thật sự thay đổi cách sống. Nếu không, sự thánh thiện sẽ vẫn chỉ là một từ rỗng. Nào, ta hãy quay về với từng mối Phúc một trong Tin mừng theo Thánh Matthêu (x. Mt5,3-12) .
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
67. Tin mừng mời ta nhìn kỹ vào tận đáy lòng mình, để xem ta đặt chỗ dựa an toàn cho đời mình ở đâu. Thường thì những người giàu cảm thấy an toàn trong của cải họ có, và nghĩ rằng, nếu của cải ấy bị đe dọa, thì toàn bộ ý nghĩa cuộc đời trần thế của họ cũng sụp đổ. Chính Chúa Giêsu nói với ta điều ấy qua dụ ngôn người phú hộ điên rồ: Ông ta tự tin lắm, nhưng thật ra rất điên rồ, vì không tính đến chuyện mình có thể chết ngay chính hôm ấy (x. Lc 12,16-21 ).
68. Sự giàu có không đảm bảo được gì cả. Thật vậy, một khi ta nghĩ mình giàu có, ta có thể trở nên tự mãn, không còn dành chỗ cho Lời Chúa, cho tình nghĩa với anh chị em mình, và cả cho việc thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời. Và thế là, ta bỏ lỡ mất kho báu lớn hơn tất cả mọi kho báu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó, những người có tấm lòng đơn nghèo là có phúc, vì Chúa có thể bước vào trong tấm lòng ấy với sự mới mẻ mãi mãi của Ngài.
69. Sự nghèo khó tinh thần này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Ignatiô Loyola gọi là “sự thờ ơ thánh thiện” [Ghi chú của người dịch: Cũng có thể nói là: sự dửng dưng, sự bình tâm, sự không màng], là điều mang lại cho chúng ta một tự do nội tâm kỳ diệu: “Để được như thế, chúng ta cần đào luyện cho mình biết thờ ơ với tất cả các thụ tạo, với tất cả những gì mà ý chí tự do của mình được phép chọn và không bị cấm; ngõ hầu về phần mình, chúng ta không bận tâm với chuyện có sức khoẻ nhiều hay ít, giàu có hơn là nghèo khổ, được khen ngợi hơn là bị chê bai, sống lâu hơn là chết sớm, và tương tự như thế đối với tất cả những gì còn lại” .
70. Thánh Luca không đề cập tới sự nghèo khó trong “tinh thần” mà chỉ đơn giản nói về những người đang “nghèo” (x. Lc 6,20). Và như thế, ngài cũng mời gọi ta sống giản dị và khắc khổ. Ngài kêu gọi ta chia sẻ với cuộc sống của những người nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông Đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng mặc dù giàu sang, nhưng “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9).
Trở nên nghèo trong tinh thần: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”
71. Đây là một diễn tả mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu đã từng là nơi xung đột, tranh chấp và thù hận khắp mọi phía, nơi mà ta liên tục xếp loại người khác dựa trên ý tưởng và tập tục của họ, và thậm chí còn dựa trên cách nói năng hoặc ăn mặc của họ. Cuối cùng, đó là vương triều của kiêu hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người đều nghĩ mình có quyền đè bẹp người khác. Tuy nhiên, dù có vẻ không khả thi, Chúa Giêsu lại đề nghị một đường lối khác: đường lối hiền lành. Đó là đường lối ta đã thấy Ngài xử sự với các môn đệ của Ngài. Đó là điều ta chiêm ngắm khi Ngài vào Giêrusalem: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dc9,9).
72. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Nếu ta luôn bực tức và mất kiên nhẫn với người khác, ta sẽ mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng nếu ta nhìn vào những lỗi lầm và giới hạn của người khác với sự dịu dàng và hiền lành, không tỏ ra mình hơn họ, ta có thể thật sự giúp đỡ họ và ngừng phí phạm sức lực của mình trong việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại việc dung thứ lầm lỗi của người khác, và không ngạc nhiên vì những yếu đuối của họ” .
73. Thánh Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài đề nghị rằng, nếu có khi nào ta nặng lòng vì một hành vi sai trái của một anh chị em nào đó của mình, thì ta nên cố gắng sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, vì chính ta “cũng có thể bị cám dỗ” (Ga 6,1). Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, ta cũng phải làm thế “cách hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Cả với những kẻ chống báng, ta cũng phải đối xử “cách hiền hòa” (2 Tm 2,25). Trong Hội thánh, biết bao lần ta đã sai lầm vì không chịu đón nhận đòi hỏi ấy của Lời Chúa.
74. Sự hiền lành là một cách diễn tả khác về tinh thần nghèo khó nội tâm của những người chỉ tin cậy nơi một mình Thiên Chúa. Quả thực, trong Kinh thánh người ta thường dùng cùng một từ - anawim – để nói về cả người nghèo và người hiền lành. Một số người có thể phản đối: “Nếu tôi quá hiền lành, người ta sẽ nghĩ là tôi ngốc, tôi khùng hoặc nhu nhược”. Chuyện ấy có thể xảy ra, nhưng hãy để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Phần ta, tốt hơn, cứ luôn luôn hiền lành, rồi những ước muốn sâu xa của ta sẽ thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”, họ sẽ thấy những lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành ngay trong đời họ. Dù trong hoàn cảnh nào, người hiền lành vẫn đặt niềm hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng vào Ngài sẽ được đất ... và tận hưởng sự bình an trọn vẹn (x. Tv 37,9,11). Đồng thời Chúa cũng tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn: đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ” (Is 66,2).
Phản ứng với lòng hiền lành và khiêm nhường: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”.
75. Thế gian đề nghị với ta điều ngược hẳn lại: giải trí, giải khuây, vui chơi và tiêu khiển rồi bảo ta rằng những điều ấy làm cho cuộc sống được tốt đẹp. Người thuộc về thế gian phớt lờ, quay mắt không nhìn những vấn đề đau ốm hay buồn phiền trong gia đình hoặc chung quanh. Thế gian không muốn khóc lóc; họ muốn làm ngơ trước những cảnh đau đớn, muốn che đậy hoặc giấu đi. Người ta tốn nhiều công sức để chạy trốn những tình trạng đau khổ, tự cho rằng có thể che giấu được thực tại. Thế nhưng làm sao tránh khỏi thập giá?
76. Người biết nhìn mọi sự đúng theo thực tế của chúng, biết để cho khổ đau và than khóc xuyên thấu cõi lòng, sẽ có khả năng chạm đến những gì sâu thẳm nhất của cuộc đời và gặp được hạnh phúc đích thực . Họ được an ủi, không phải bởi thế gian mà bởi Chúa Giêsu. Và như thế họ có can đảm chia sẻ nỗi khổ của người khác và không còn chạy trốn những hoàn cảnh đau thương. Nhờ đó, họ nhận ra cuộc đời này thật ý nghĩa khi biết giúp đỡ những người đang đau khổ, biết cảm thông với những người đang âu lo phiền muộn, biết cứu giúp tha nhân. Họ cảm nhận rằng người khác là xương là thịt của mình, và không sợ lại gần, thậm chí còn sờ vào những vết thương của người ấy. Họ thấy cảm thương cho người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều biến mất. Và như thế, họ có thể thấu triệt lời khuyên của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với những kẻ khóc” (Rm 12,15).
Biết cách cùng than khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”.
[Ghi chú của người dịch: Ở đây, cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều cùng một từ là “justice” nhưng bên tiếng Việt tùy trường hợp sẽ được dịch là “công bằng”/ hay “công bình” (khi trao đổi hoặc phân chia: của ai trả nấy, mỗi người phải nhận được đúng phần của mình), “ công lý” (=lẽ công bằng = công bằng trước pháp luật: phần ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu) hoặc “công chính” (về xã hội tôn giáo: người không vướng mắc tội ác hoặc lỗi lầm nào). Cũng có những chỗ khó phân biệt rõ, sẽ được dịch là “công lý”, xin độc giả lưu ý để dễ hiểu theo từng trường hợp.]
77. Đói và khát là những cảm nghiệm mãnh liệt, dội lại từ những nhu cầu cốt yếu và bản năng sống còn của ta. Có những người ao ước công lý và khao khát sự công chính cách mãnh liệt như thế. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được no thoả, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Ta có thể cùng góp phần làm cho công lý mau đến, cho dù chẳng phải lúc nào ta cũng được nhìn thấy hoa quả các nỗ lực của mình.
78. Công lý Chúa Giêsu nêu lên khác với thứ công lý của thế gian, thường bị những quyền lợi nhỏ nhen làm vẩn đục và bị người ta lèo lái cách này cách khác. Thực tế cho thấy thứ công lý này rất dễ bị sa lầy trong tham nhũng, bị vướng vào cái khôn khéo có đi có lại (quid pro quo) thường ngày, mọi sự đều thành mua bán đổi chác. Bao nhiêu người hứng chịu bất công, bất lực đứng bên lề đang khi những người khác chia nhau những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Lắm người buông xuôi, thôi chiến đấu cho công lý đích thật và chọn nhảy lên đoàn tàu của kẻ chiến thắng. Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Chúa Giêsu ca tụng.
79. Công lý đích thực là chuyện trong đời thường của dân chúng khi chính họ thể hiện công bình trong các quyết định của họ; công lý đích thực cũng được hiểu là việc theo đuổi công lý cho những người nghèo và người cô thế. Đành rằng “công chính” (công lý) có thể là một từ đồng nghĩa với việc trung thành với Thánh Ý của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống mình, nhưng đừng vì ý nghĩa quá tổng quát ấy, mà quên rằng công lý còn được dùng riêng để chỉ lẽ công bình đối với những người dễ bị tổn thương nhất: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, hãy sửa phạt người áp bức; xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).
Khát khao lẽ công bình: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
80. Thương xót có hai khía cạnh. Một bên nhấn mạnh tới sự trao tặng (cho), giúp đỡ và phục vụ người khác, và một bên nhấn mạnh sự tha thứ và cảm thông. Thánh Matthêu tóm lược điều ấy vào một luật vàng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12). Sách Giáo lý nhắc ta nhớ rằng luật này được áp dụng “trong mọi trường hợp” , đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những tình huống khiến các phán đoán về luân lý không được chắc chắn và khó quyết định” .
81. Cho và tha thứ chính là cố gắng thể hiện lại nơi đời ta một mức cỏn con về sự hoàn thiện của Thiên Chúa, Đấng cho và tha thứ nhiều vô cùng vô tận. Vì lý do ấy, trong Tin mừng Thánh Luca, ta không nghe dạy “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng thay vào đó là: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” (Lc 6,36-38). Tiếp đó, Thánh Luca thêm một điều mà ta không được bỏ qua: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Tiêu chuẩn mà ta dùng để hiểu và tha thứ cho người khác sẽ được dùng để đong sự tha thứ dành cho ta. Tiêu chuẩn ta dùng để cho sẽ được dùng để đong những gì ta nhận lại. Ta không bao giờ được quên điều ấy.
82. Chúa Giêsu không nói, “Phúc cho những kẻ tìm cách báo thù”. Ngài gọi những người tha thứ và tha thứ “bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18,22) là những người “được chúc phúc”. Chúng ta chẳng khác nào một đạo quân những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đã được đoái nhìn với lòng từ bi của Thiên Chúa. Nếu ta thật lòng đến gần Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể lắm lúc ta cũng nghe được lời Ngài quở trách: “Vậy ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33).
Thấy và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.
83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một con tim biết yêu không chấp nhận những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Kinh thánh sử dụng trái tim để mô tả những ý định thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, vượt xa tất cả những vẻ bề ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với cõi lòng của ta (x. Hs 2,16); ở đó Ngài muốn ghi Lề Luật của Ngài (x. Gr 31,33). Nói cách khác, Ngài muốn cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).
84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Không có gì bị sự giả dối vấy bẩn mà có được giá trị thật sự trong mắt Chúa. Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín ẩn” (Mt 6,6), nhận ra điều gì thiếu tinh khiết và không chân thành, mà chỉ nặng phần trình diễn hay có vẻ bề ngoài; Chúa Con cũng thế, Ngài là Đấng biết “có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25).
85. Chắc hẳn không thể có tình yêu mà không có những nghĩa cử yêu thương, nhưng Mối phúc này nhắc ta nhớ rằng Chúa đòi hỏi sự quên mình phục vụ anh chị em mình phải đến từ con tim. Vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, ta còn thấy rằng cũng từ con tim phát xuất những điều khiến người ta thành ô uế (x. 15,18), vì từ con tim phát ra những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng dối, và những việc làm gian ác khác (x. 15,19). Từ những ý định của con tim phát sinh những ham muốn và những quyết định sâu xa nhất định đoạt các hành động của ta.
86. Một con tim thật sự yêu mến Thiên Chúa và người bên cạnh (x. Mt 22,36-40), chứ không chỉ nói suông, là một con tim trong sạch; nó có thể thấy Thiên Chúa. Trong bài ca đức ái, Thánh Phaolô nói rằng “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1 Cr 13,12), nhưng sự thật và tình yêu càng thắng thế, ta càng có thể nhìn thấy “tận mắt”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ thấy Thiên Chúa”.
Giữ cho lòng mình khỏi vướng tất cả những gì làm cho tình yêu hoen ố: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
87. Nhắc tới mối Phúc này, ta thấy nặng lòng vì những hoàn cảnh không ngừng đưa tới chiến tranh trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn lại bản thân chúng ta vẫn thường là nguyên nhân tạo nên xung đột hoặc ít ra là hiểu lầm. Thí dụ, tôi nghe được một điều gì về một người nào đó và tôi ra ngoài kể lại cho người khác. Thậm chí có thể tôi còn thêm mắm thêm muối thành một câu chuyện mới rồi tiếp tục loan truyền nó ... Và hình như câu chuyện càng gây thêm tai hại, tôi càng hài lòng về nó. Thế giới của những tin đồn, bị những kẻ tiêu cực và phá hoại chiếm đóng, không mang lại hòa bình. Những kẻ như vậy thật đúng là kẻ thù của hòa bình; họ không sao “được chúc phúc” .
88. Những người kiến tạo hòa bình là nguồn bình an; họ xây dựng hòa bình và tình bạn trong xã hội. Đối với những người gieo vãi hòa bình, Chúa Giêsu đã hứa cho họ một ơn kỳ diệu: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ngài đã dặn các môn đệ rằng, hễ vào bất cứ nhà nào cũng đều nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5). Lời Chúa khuyến khích mọi tín hữu đều phải mưu tìm hoà bình “cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). “Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.” (Gc 3,18). Và nếu có lúc nào ta phân vân tự hỏi phải làm gì trong cộng đồng, thì “ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì hiệp nhất đáng ưa chuộng hơn là xung đột .
89. Để “tạo ra” thứ hòa bình theo Tin mừng này không dễ, vì đây là thứ hoà bình không loại trừ ai, nhưng bao gồm cả những người hơi kỳ cục, gây phiền toái phức tạp, cả những người ưa đòi hỏi, lập dị, bị bầm dập vì cuộc sống hoặc chỉ là những kẻ bất cần đời. Đó là việc rất khó, đòi phải mở rộng cả tâm và trí, bởi vì nó không phải là việc lập ra một “sự đồng thuận trên giấy tờ hoặc một hòa bình tạm bợ vừa ý một nhóm nhỏ” , cũng không phải là một dự phóng “của một ít người hướng tới một ít người” . Nó cũng không cố lờ đi hoặc xí xóa các xung đột; trái lại, nó phải “đối diện trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và làm cho nó thành một mắt xích trong dây chuyền của một tiến trình mới” . Nó đòi phải có những người xây dựng hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ thuật đòi hỏi sự bình thản, sáng tạo, nhạy cảm và kỹ năng.
Gieo vãi hoà bình quanh chúng ta: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.
90. Chính Chúa Giêsu cảnh báo ta rằng đây là con đường lội ngược dòng đời, thậm chí biến ta thành những kẻ dám lấy cách sống của mình để thách đố xã hội, và kết quả là trở thành những kẻ gây phiền toái. Ngài nhắc ta nhớ đến biết bao người đã và đang bị bách hại chỉ vì đấu tranh cho công lý, vì dám sống đúng theo trách nhiệm đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu ta đã không muốn chìm vào cái tầm thường tăm tối, thì đừng theo đuổi một cuộc sống dễ dàng, bởi lẽ “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
91. Khi sống Tin mừng, ta không thể mong đợi mọi sự sẽ thuận lợi, bởi vì những tham vọng quyền lực và lợi ích thế tục thường chống lại ta. Thánh Gioan Phaolô II đã lưu ý rằng “Một xã hội mà trong đó các hình thức tổ chức, sản xuất và tiêu thụ, đều gây khó khăn cho việc quên mình để xây dựng tình liên đới giữa con người, thì đã hoàn toàn đánh mất chính mình” . Trong một xã hội đánh mất chính mình như vậy, sự rối mù về chính trị, truyền thông, kinh tế, văn hoá và thậm chí cả tôn giáo nữa…. trở thành một trở ngại không cho con người và xã hội được phát triển đích thực. Kết quả là người ta khó mà sống các mối Phúc thật; bất cứ nỗ lực nào nhằm sống như thế đều bị nhìn một cách tiêu cực, bị ngờ vực và nhạo báng.
92. Dù ta có vất vả và đau đớn đến đâu khi sống giới luật yêu thương và đi theo con đường công lý, Thánh giá vẫn là nguồn mạch giúp ta trưởng thành và nên thánh. Chúng ta không bao giờ được quên rằng khi Tân ước nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ phải chịu đau khổ vì Tin mừng, là nói rõ về những cuộc bách hại (x. Cv5,41, Pl1,29, Cl1,24, 2 Tm1,12, 1 Pr2,20, 4,14-16, Kh2,10).
93. Nhưng ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không thể tránh được, chứ không phải loại bách hại mà chúng ta có thể tự gây ra cho mình khi đối xử với những người khác một cách tồi tệ. Các thánh không phải là những người kỳ quặc, xa cách, mà không ai chịu nổi vì sự hợm mình, sự tiêu cực và sự cay đắng của họ. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Công vụ các Tông đồ lặp đi lặp lại rằng các ngài được lòng “tất cả mọi người” (2,47; x. 4,21.33;5,13), ngay cả khi một số nhà cầm quyền đã sách nhiễu và bách hại các ngài (xem 4,1-3;5,17-18).
94. Những cuộc bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng ta vẫn đang trải nghiệm, cho dù bằng cách đổ máu, như biết bao vị tử vì đạo hiện nay, hoặc bằng những phương cách tế nhị hơn, bằng vu khống và lừa dối. Chúa Giêsu bảo rằng chúng ta có phúc khi người ta “vu khống cho anh em đủ điều xấu xa vì Thầy” (Mt5,11). Lắm lúc, nó có thể mang hình thức những sự chế nhạo cố gắng châm biếm đức tin của ta và biến ta thành ra có vẻ lố bịch.
Chấp nhận hàng ngày con đường Tin mừng, dù nó có thể gây khó khăn cho chúng ta: đó là thánh thiện.
TIÊU CHUẨN LỚN
95. Trong chương hai mươi lăm của Tin mừng Thánh Matthêu (câu 31-46), Chúa Giêsu nói rộng thêm về mối Phúc tuyên bố những người có lòng thương xót là có phúc. Thương xót chính là sự thánh thiện làm đẹp mắt Thiên Chúa, và đoạn văn này nêu cao cái chuẩn mực rõ ràng Chúa sẽ dựa trên đó mà xét xử ta. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(các câu 35-36).
Trong sự trung thành với Thầy
96. Như thế, nên thánh không có nghĩa là mê mẩn trong trạng thái xuất thần huyền bí. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thật sự xuất phát lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, chúng ta phải học cách nhìn thấy Ngài đặc biệt là trên khuôn mặt những kẻ mà chính Ngài muốn tự đồng hoá mình với họ” . Đoạn văn Matthêu 25,35-36 “không phải chỉ giản dị mời gọi sống đức ái: đó còn là một trang Kitô học đang chiếu một tia sáng lên mầu nhiệm Đức Kitô” . Khi kêu gọi ta nhận ra Ngài nơi những người nghèo và đau khổ ấy, chính Thánh Tâm Đức Kitô tỏ cho ta thấy những cảm xúc và sự chọn lựa sâu thẳm nhất của Ngài, mà mỗi vị thánh tìm cách noi gương.
97. Vì những đòi hỏi ấy của Chúa Giêsu rất quyết liệt, tôi có nhiệm vụ phải yêu cầu các Kitô hữu thừa nhận và chấp nhận chúng với một tinh thần hết sức cởi mở, sine glossa, tức là không nêu một chữ “nếu”, chữ “nhưng” nào có thể làm giảm sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể hiểu hay sống ngoài những đòi hỏi ấy, vì lòng thương xót là “con tim đang đập của Tin mừng” .
98.Gặp một người ngủ ngoài trời giữa một đêm lạnh lẽo, tôi có thể coi người ấy như một điều phiền nhiễu, quấy rầy, trở ngại trên đường của tôi, một cảnh tượng phiền toái, một vấn đề để cho các chính trị gia giải quyết, hoặc thậm chí một đống rác bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi đáp lại với đức tin và đức ái, thấy nơi người ấy một con người có cùng một phẩm giá như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Chúa Giêsu cứu chuộc. Thế mới là Kitô hữu! Nếu không nhìn nhận cách sống động về phẩm giá của mỗi con người như thế liệu sự thánh thiện còn có ý nghĩa gì chăng? .
99. Đối với các Kitô hữu, điều này ấp ủ một thao thức lành mạnh và khôn nguôi. Dù rằng chỉ an ủi nâng đỡ được một người thôi cũng đã đáng với tất cả những cố gắng của ta, nhưng như thế chưa đủ. Các giám mục Canađa đã làm sáng tỏ điều ấy khi các ngài nhấn mạnh, chẳng hạn qua giáo huấn Kinh thánh về Năm thánh, rằng vấn đề không chỉ làm cho xong một số việc lành nhưng còn phải tìm cách thay đổi xã hội: “Để cho các thế hệ sau này cũng được giải thoát, rõ ràng mục tiêu phải là khôi phục lại các hệ thống công bằng về xã hội và kinh tế, để không còn ai bị loại trừ nữa” .
Những cách suy nghĩ xô lệch trọng tâm của Tin mừng
100. Tôi tiếc rằng đôi khi có những cách suy nghĩ dẫn chúng ta đến hai sai lầm nguy hại. Một đàng, là cái sai lầm của những Kitô hữu tách hẳn những đòi hỏi ấy của Tin mừng ra khỏi mối liên hệ của bản thân từng người với Chúa, ra khỏi sự kết hợp nội tâm của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng ra cho ân sủng. Như thế, Kitô giáo trở thành một loại tổ chức từ thiện phi chính phủ (NGO), bị tước mất chiều kích thần bí sáng ngời được chứng tỏ trong đời sống của Thánh Phanxicô thành Assisi, Thánh Vincentê đệ Phaolô, Thánh Têrêxa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác. Đối với những vị thánh lớn này, việc nguyện ngắm, việc yêu Chúa và việc đọc Tin mừng không hề làm giảm bớt sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu dành cho những người bên cạnh mình, hoàn toàn ngược lại là khác.
101. Cách suy nghĩ sai lầm và nguy hại khác là của những kẻ hoài nghi việc dấn thân vào xã hội của người khác, coi đó như là chuyện hời hợt, phàm tục, trần thế, vật chất, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hoá nó, như thể là còn có những vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể chỉ có điều duy nhất đáng kể là vấn đề đạo đức cụ thể nào đó hoặc một vụ việc nào đó mà họ đang bảo vệ. Chẳng hạn như, việc bảo vệ các trẻ em vô tội chưa sinh ra của chúng ta cần phải dứt khoát rõ ràng, chắc chắn và say mê, vì chạm thẳng đến phẩm giá của một sự sống con người, là điều luôn thánh thiêng và đến lòng yêu quý phải dành cho mỗi ngôi vị con người, không kể con người ấy phát triển tới giai đoạn nào. Tuy nhiên, cả sự sống của những người đã được sinh ra cũng thánh thiêng không kém, như sự sống của những người nghèo, những người bị bỏ rơi và bị thiệt thòi, những người khuyết tật dễ bị tổn thương, những người già cả dễ làm mồi cho việc giết chết êm dịu khéo che đậy, những nạn nhân của nạn buôn người, những hình thức nô lệ mới và mọi hình thức loại trừ . Chúng ta không thể chủ trương một lý tưởng về thánh thiện không bận tâm gì đến những bất công trong một thế giới mà một số người vui vẻ ăn uống say sưa, chi tiêu bừa bãi và sống chỉ để hưởng những món hàng tiêu thụ mới nhất, đang khi những người khác chỉ nhìn từ bên ngoài, và sống lây lất suốt đời trong nghèo đói thê thảm.
102. Ta thường nghe nói rằng, đem so với thuyết tương đối và những sai lỗi nơi thế giới hiện tại của ta, thì tình trạng di dân chẳng hạn, chỉ là một vấn đề thứ yếu. Một số người Công Giáo coi đó là đề tài phụ so với những vấn đề về sinh học “nghiêm trọng”. Một chính trị gia đang kiếm phiếu phát biểu như thế thì có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì không, vì thái độ đúng đắn duy nhất là đứng vào vị trí của các anh chị em chúng ta, những người liều mất cả mạng sống để bảo đảm cho con cái mình có được một tương lai. Liệu ta có thể không nhận ra rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đòi hỏi ta, khi Ngài bảo rằng mỗi lần ta đón tiếp khách lạ là đón tiếp Ngài chăng (x. Mt 25,35)? Thánh Bênêđictô đã chấp nhận điều ấy không chút dè dặt, cho dù nó có thể khiến cuộc sống của các tu sĩ thành “phức tạp”, ngài đã ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện đều phải được đón tiếp “như Đức Kitô” , với một cử chỉ tôn kính ; người nghèo và người hành hương phải được cư xử với “sự chăm sóc ân cần nhất” .
103. Cựu ước cũng dạy tương tự như thế: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. ” (Xh 22,20). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,33-34). Đó không phải là một khái niệm được một số Giáo hoàng phát minh, hoặc một mốt nhất thời ngắn ngủi. Cũng trong thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi đi theo nẻo đường tâm linh khôn ngoan mà ngôn sứ Isaia đề ra để cho thấy điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).
Sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa nhất
104. Ta có thể nghĩ rằng chỉ cần làm việc thờ phượng và cầu nguyện là đã tôn vinh Thiên Chúa, hoặc chỉ cần tuân giữ một số quy tắc đạo đức nào đó là đã đủ. Đúng là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa vẫn ưu tiên hơn, thế nhưng ta không thể quên rằng tiêu chuẩn cuối cùng Chúa sẽ dựa vào để xét xử đời ta là những gì ta đã làm cho người khác. Cầu nguyện là điều quý giá nhất, vì nó giúp ta trung thành dấn thân sống yêu thương mỗi ngày. Việc thờ phượng của ta đẹp lòng Thiên Chúa khi ta tự nguyện sống hào hiệp, biết để cho món quà Thiên Chúa ban cho ta trong cầu nguyện biến bản thân ta thành món quà cho anh chị em mình.
105. Tương tự như thế, cách phân định tốt nhất để biết được lời cầu nguyện của ta có chân thực hay chăng là xét xem cuộc sống ta có đang được biến đổi trong ánh sáng của lòng thương xót hay chăng. Thật vậy, “lòng thương xót không chỉ là hành động của Chúa Cha; mà còn trở thành một tiêu chuẩn để biết được ai là con cái thật của Ngài” . Lòng thương xót “chính là nền tảng của đời sống của Hội thánh” . Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng lòng thương xót không loại trừ công bằng và sự thật; quả thực “chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của đức công chính và là biểu lộ rực rỡ nhất về sự thật của Thiên Chúa” . Đó là “chìa khóa Thiên Đàng” .
106. Ở đây, tôi nhớ đến câu hỏi Thánh Tôma Aquinô đã nêu ra khi xét xem nơi những hành động của ta đâu là những hành động cao quý nhất, đâu là những việc làm bề ngoài cho thấy rõ nhất là ta yêu mến Thiên Chúa. Thánh Tôma đã không ngần ngại trả lời rằng đó là những việc thương xót đối với người bên cạnh chúng ta , thậm chí còn hơn cả các hành vi thờ phượng của ta: “Ta thờ phượng Thiên Chúa bằng những hy sinh và của lễ bên ngoài, không nhắm lợi ích gì cho Ngài, nhưng chỉ vì lợi ích của chính chúng ta và những người bên cạnh chúng ta. Vì Ngài không cần những hy lễ của ta, nhưng muốn chúng được dâng lên Ngài, để khơi dậy lòng sùng kính của ta và sinh ích cho những người bên cạnh ta. Vì thế, lòng thương xót đã khiến ta chu cấp cho những nhu cầu của người khác, là một sự hy sinh dễ được Chúa vui nhận hơn cả, vì trực tiếp hướng đến hạnh phúc của những người bên cạnh chúng ta hơn” .
107. Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng cuộc sống mình, những người thực sự ao ước thánh hóa bản thân để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Thánh, được mời gọi bền tâm vững chí thực hành các việc thương xót. Thánh Têrêxa thành Calcutta đã ý thức điều ấy rất rõ: “Vâng, tôi có nhiều yếu đuối lỗi lầm và khốn cùng của phận người ... Nhưng Thiên Chúa cúi xuống và dùng chúng ta, bạn và tôi, để chúng ta trở thành tình yêu và lòng thương xót của Ngài trên thế gian; Ngài gánh lấy tội lỗi ta, những khó khăn và lỗi lầm của ta. Ngài lệ thuộc vào ta để yêu thế gian và để cho thế gian thấy Ngài yêu nó đến mức nào. Nếu ta quá bận tâm đến bản thân mình, ta sẽ không còn thời giờ cho người khác nữa” .
108. Chủ nghĩa hưởng thụ và tiêu thụ có thể quật ngược lại ta, bởi vì khi ta bị ám ảnh lo cho khoái cảm riêng của mình, ta sẽ trở nên quá quan tâm đến bản thân và các quyền lợi của mình, và ta cảm thấy bức bách phải có thời giờ rảnh rỗi để vui hưởng. Ta sẽ thấy khó mà đồng cảm, khó mà thực sự quan tâm tới những kẻ túng cùng, nếu ta không biết tự vun trồng lấy một chút giản dị cho cuộc sống, chống lại cơn sốt nhu cầu mà xã hội tiêu thụ đang đè nặng lên ta, đang biến ta thành nghèo nàn và bị ức chế, bồn chồn muốn có ngay tất cả và thử hết mọi thứ ngay bây giờ. Tương tự như thế, khi ta để mình bị cuốn vào những tin tức hời hợt, truyền thông chớp nhoáng và thực tế ảo, ta có thể lãng phí hết thời giờ quý báu và trở nên thờ ơ với những vết thương của anh chị em mình. Tuy nhiên, ngay cả giữa cơn lốc náo hoạt ấy, Tin mừng vẫn tiếp tục vang lên, đề ra cho ta lời hứa hẹn một cuộc sống khác, một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc hơn.
109. Sức mạnh nơi chứng từ của các thánh là tuân giữ các mối Phúc thật và chuẩn mực của cuộc phán xét cuối cùng. Chúa Giêsu chỉ nói mấy lời đơn giản nhưng rất thiết thực và có giá trị đối với hết mọi người, vì trên tất cả mọi sự, Kitô giáo chính yếu là để đem ra thực hành. Nó cũng có thể là một đối tượng nghiên cứu và suy niệm, nhưng điều này chỉ có giá trị khi giúp ta sống Tin mừng tốt hơn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Tôi đề nghị mọi người đọc lại những đoạn văn Kinh thánh quan trọng ấy, thảo luận về chúng, cầu nguyện với chúng, cố gắng biến chúng thành sự sống. Chúng sẽ có ích cho ta; chúng sẽ làm cho ta được thực sự hạnh phúc.
CHƯƠNG 4
MẤY NÉT TIÊU BIỂU VỀ SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Giữa bức tranh toàn cảnh của sự thánh thiện được các mối Phúc thật và đoạn 25,31-46 của thánh Matthêu đưa ra, tôi muốn lưu ý riêng đến vài nét đặc thù tiêu biểu về đàng tâm linh, mà tôi cho là rất cần thiết để hiểu được cách sống Chúa đang mời gọi ta. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà ta đã biết: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh của mình, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và bao nhiêu việc khác nữa. Tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ âm vang một cách đặc biệt.
111. Những nét tiêu biểu tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm diễn tả nổi bật về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt do một số nguy cơ và giới hạn riêng của văn hoá ngày nay. Giữa cái văn hóa ấy ta cảm thấy một nỗi lo lắng bực bội gần như muốn bạo động, khiến ta quẫn trí và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và đủ thứ hình thức tâm linh lệch lạc, không ăn nhập gì với Thiên Chúa, hiện đang thống trị cái chợ đời hỗn độn về tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Nét đầu tiên trong những nét tiêu biểu trổi vượt này là sự tập trung vào Thiên Chúa và bám chặt vào Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ ta. Đây là nguồn sức mạnh nội tâm giúp ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, mà cũng giúp ta chịu đựng được sự thù ghét, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp ta, thì ai chống lại được ta?” (Rm 8,31): Đây là nguồn bình an ta gặp được nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong cái thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì chỉ những ai tín thác vào Thiên Chúa (pístis) mới có thể trung tín với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thế có thể không gặp được sự vui thoả tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (x. Rm 12,17), đừng tự mình báo oán (x. 19), đừng để bị sự dữ khuất phục, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối nhưng là của sức mạnh thật sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Nh1,3). Lời Chúa dạy ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
114. Ta cần phải vật lộn với các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đề phòng đừng để cho chúng bén rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bị đuối sức, ta vẫn luôn có thể bám chặt lấy sự cầu nguyện như chiếc mỏ neo đưa chúng ta về lại với vòng tay Thiên Chúa là nguồn bình an của ta. “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,6-7).
115. Người Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông kỹ thuật số khác nhau. Ngay cả nơi những phương tiện truyền thông Công Giáo, người ta vẫn có thể đi quá mức, chuyện phỉ báng và vu khống có thể thành cơm bữa, có thể gạt bỏ mất mọi tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng thanh danh người khác. Kết quả là một sự phân cực nguy hiểm, vì ở đó người ta nói những chuyện không thể nào chấp nhận được khi nói trước công chúng, và người ta tìm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ người khác. Điều đáng quan tâm là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại thanh danh người khác. Họ mặc sức chứng tỏ cho thiên hạ thấy rằng “cái lưỡi là thế giới của sự ác” và “đốt cháy vòng xoay cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy”(Gc 3,6).
116. Cần có sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, ta mới tránh khỏi bị cuốn theo bạo lực, hiện đang tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và giúp ta dễ trở nên hiền lành trong lòng. Các thánh không phí sức than phiền về những sai sót của người khác; các ngài có thể nín câm trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài cho là mình không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng luôn coi kẻ khác “hơn mình” (Pl2,3).
117. Thật không tốt nếu ta đóng vai những quan toà tàn nhẫn, nhìn xuống người khác, coi họ là không xứng đáng và luôn tìm cách dạy họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi . Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Bạn hãy thích được mọi người dạy khôn bạn hơn là mong muốn được dạy khôn một người nào, dù là người bé nhỏ nhất” . Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Bạn hãy vui mừng vì sự may lành của người khác như thể đó là sự may lành của chính bạn, ao ước cho họ được trổi vượt hơn bạn trong mọi chuyện, và ao ước như vậy với tất cả tấm lòng. Làm như thế, bạn sẽ lấy sự lành mà thắng sự dữ (Rm 12, 21), bạn sẽ đuổi ma quỷ chạy xa và lòng bạn sẽ đầy an vui hạnh phúc. Bạn càng ít thiện cảm với người nào thì càng phải cố gắng thực tập như vậy với người ấy. Hãy nhớ rằng nếu bạn không bắt mình làm như vậy, bạn sẽ chẳng đạt được đức ái đích thật và cũng sẽ không tiến bước được gì trên đường đức ái”
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục, thì không có khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì bạn chưa khiêm tốn và chưa phải là đang trên con đường nên thánh. Để ban sự thánh thiện cho Hội thánh Ngài, Thiên Chúa đã đành phải cho Con Ngài chịu nhục nhã. Chúa Giêsu là đường. Sự sỉ nhục làm cho bạn giống Ngài; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài.” (1 Pr 2,21). Ngài đã tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng đã hạ mình xuống đồng hành với dân mình, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36). Cũng chính vì thế mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh bi thảm của việc tử vì đạo, nhưng còn nói về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2,20). Điều ấy không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì được thoát khỏi ích kỷ, họ có thể dám ôn tồn phản bác, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi việc ấy có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không bảo những sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì nói thế chẳng khác nào chủ trương tìm khoái cảm trong khổ nhục, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự hiệp nhất với Ngài. Trên bình diện thuần túy tự nhiên, điều ấy không thể hiểu được, và thế gian chế giễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thế nhưng, đây là một ân sủng ta cần phải cầu xin: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Muốn có thể ứng xử như thế, cần có một con tim được Đức Kitô ban bình an và giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá coi trọng mình. Cũng chính ơn bình an mà ân sủng đem lại cho ta như thế giữ cho ta được vững tâm, sẵn lòng chịu đựng và kiên trì trong điều lành, “dù đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa, là Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4,8). Tắt một lời, Đức Kitô, “là bình an của ta” (Ep 2,14); Ngài đã đến “để dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Ngài đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại tín thác vào lòng thương xót của Ta” . Vì vậy, ta đừng để mình rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong sự thành công, trong những thú vui vô bổ, chiếm hữu của cải, chứng tỏ quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” (Ga 14,27).
VUI VẺ VÀ BIẾT ĐÙA
122. Những điều vừa nói trên không hề ngụ ý một tinh thần nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc một vẻ mặt thê lương bạc nhược. Các thánh vui tươi và rất biết đùa. Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Sống đời Kitô hữu là sống “hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “tình bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của lòng bác ái là niềm vui” .
Khi nhận được quà tặng cao đẹp của Lời Chúa, ta ôm chặt lấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx1,6). Nếu ta biết để cho Chúa kéo ra khỏi cái vỏ cố hữu và thay đổi cuộc sống cho ta, ta có thể sống như Thánh Phaolô đã nói với ta: “Hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà hiện ta đang sống, như một mặc khải về niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh!” (Is 40,9). “Hỡi núi non hãy bật tiếng hò reo! Vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dc 9,9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (8,10).
124. Đức Maria, khi nhận ra điều mới lạ mà trẻ Giêsu mang đến, đã hát lên: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng” (Lc 1,47). Chính Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Ngài đi ngang qua, “toàn thể đám đông vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa Phục sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với ta rằng: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui… Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,20.22). “Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15,11).
125. Vẫn có những lúc khó khăn, những thời khắc của thập giá, nhưng không gì có thể huỷ diệt niềm vui siêu nhiên là niềm vui “tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm xác tín của ta, tin chắc rằng, bất luận thế nào, chúng ta vẫn được Thiên Chúa thương yêu vô cùng” . Niềm vui ấy đem lại một sự vững tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng đem lại một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với một cảm thức hài hước, nổi bật nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri chẳng hạn. Sự khôi hài bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11,10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tm6,17), cho nên đôi khi buồn rầu có thể là dấu hiệu của sự vô ơn, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa .
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng từ chối hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv7,14.29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph4,11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa hiện đang lan rộng trong một số môi trường văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chỉ biến con tim thành nặng nề. Nó có thể mang lại cho ta những khoái cảm ngẫu hứng và chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Điều tôi nhắm nói đến là niềm vui trong tình hiệp thông, là chia sẻ và dự phần, vì “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,35) và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr9,7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho ta có thể vui vì điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr 13,9). Mặt khác, nếu ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình thôi, ta tự kết án mình phải sống một cuộc sống ít hạnh phúc” .
MẠNH DẠN VÀ NHIỆT THÀNH
129. Sự thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm), tức là sự mạnh dạn, một động lực thúc đẩy việc phúc âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để ta được mạnh dạn, chính Chúa Giêsu đến gặp ta và lại nói với ta một lần nữa, bình thản mà chắc nịch: “Đừng sợ!” (Mc 6,50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời ấy cho ta được bước đi và phục vụ với cùng một lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy họ loan báo về Chúa Giêsu Kitô. Sự mạnh dạn, sự hăng say, dám ăn nói, nhiệt tình tông đồ, tất cả những điều ấy được bao gồm trong từ dũng cảm. Đây cũng là từ mà Kinh thánh dùng để mô tả sự tự do của một cuộc sống rộng mở cho Thiên Chúa và cho người khác (x. Cv4,29;9,28; 28,31; 2 Cr3,12; Ep 3,12; Dt3,6, 10,19).
130. Chân Phước Phaolô VI khi nói đến những trở ngại cho việc rao giảng Tin mừng, đã nêu rõ sự thiếu dũng cảm là điều “trầm trọng hơn cả bởi vì nó xuất phát từ bên trong” . Ta thường bị cám dỗ để quanh quẩn gần bờ! Thế nhưng Chúa lại gọi ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc5,4). Ngài mời ta hiến thân phục vụ Ngài. Bám chặt vào Ngài, ta quả cảm đem hết mọi đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Ước gì ta luôn cảm thấy được tình yêu của Ngài thúc đẩy (2 Cr5,14) và cùng thốt lên với Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng!” (1 Cr9,16).
131. Ta hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng cảm thương sâu xa thúc đẩy Ngài đến với người khác. Nó không khiến Ngài ngập ngừng, bị tê liệt, hoặc xấu hổ như đã từng xảy ra với ta biết bao lần. Quả là ngược hẳn. Lòng thương cảm thúc đẩy Ngài ra khỏi chính mình để mạnh mẽ rao giảng và sai người khác đi chữa lành và giải thoát. Ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, rồi để cho Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy nó và sai ta đi truyền giáo. Ta yếu đuối thật đấy, nhưng ta lại mang sẵn một kho báu có sức làm cho ta lớn lên và làm cho những người đón nhận nó trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự mạnh dạn và lòng can đảm tông đồ là một trong những nét tiêu biểu của sứ vụ.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần; xác nhận cho việc rao giảng của ta. Nó là một đảm bảo diễm phúc đưa ta đến chỗ được vinh quang trong Tin mừng mà ta công bố. Nó giúp ta vững tin không lay chuyển vào sự trung thành của vị Chứng Nhân làm cho ta biết chắc rằng không gì có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
133. Ta cần được Chúa Thánh Thần thúc giục để không bị tê liệt vì sợ hãi và vì thận trọng quá mức, để không còn quen thói lẩn quẩn trong những ranh giới an toàn. Hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín thì sẽ ẩm mốc và sẽ khiến ta bị bệnh. Khi các Tông Đồ thấy bị cám dỗ án binh bất động do sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv4,29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa” (Cv4,31).
134. Như ngôn sứ Giôna, ta luôn bị cám dỗ chạy trốn tìm nơi ẩn náu an toàn. Nơi ẩn náu này có thể mang nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Cũng có thể ta không chịu ra ngoài những vùng mình biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn ấy chẳng khác nào như cơn bão, con cá voi hay con sâu làm héo cây thầu dầu của ông Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Và cũng như trong câu chuyện Giôna, chúng có thể được dùng để khiến ta quay về với Thiên Chúa nhân hiền, Đấng muốn dẫn dắt ta theo một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát khỏi những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và những biên giới. Ngài dẫn ta đến những nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ những vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Pl2,6-8; Ga1,14). Vì vậy, nếu ta dám đi đến những vùng ngoại vi, ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; đúng vậy, Ngài đã có mặt ở đó sẵn rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị biến thành đen tối của họ. Ngài đã ở đó sẵn rồi.
136. Quả thật, ta cần mở cửa lòng mình cho Chúa Giêsu, bởi vì Ngài gõ cửa và gọi (xem Kh3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi phải chăng, Chúa Giêsu đã ở trong ta và đang gõ để ta mở cửa cho Ngài thoát khỏi cái không khí ngột ngạt do ta chỉ biết quy về mình! Trong Tin mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc8,1). Sau Phục sinh, khi các môn đệ tỏa đi khắp nơi, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Nếu đã thật sự gặp gỡ Chúa thì hẳn là phải như thế.
137. Cái hài lòng tự mãn với thói quen bao giờ cũng cuốn hút ta; nó bảo ta rằng tại sao cứ phải vất vả thay đổi sự việc, rằng trước hoàn cảnh này chẳng làm gì được đâu, rằng xưa nay mọi sự vẫn luôn như thế thì ta phải tiếp tục như thế. Do đã thành nếp, ta không còn phải đương đầu với chuyện chẳng lành và chỉ cần cho “mọi sự cứ đâu vào đó”, hoặc như đã có ai khác định sẵn là chúng phải như thế. Tuy nhiên, ta hãy để Chúa đến đánh thức ta khỏi cơn mê, giải phóng ta khỏi cái ù lì chậm chạp! Ta hãy đương đầu với cái nếp của mình; hãy mở mắt, mở tai ra, và trên hết hãy mở lòng ra, để cho mình được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh và bởi tiếng kêu gọi của Lời sinh động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
138. Ta hãy chạy theo gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng Tin mừng và phục vụ cách trung thành, biết bao lần phải liều mất mạng sống và rõ ràng là phải trả giá bằng việc hy sinh sự thoải mái của mình. Chứng từ của họ nhắc ta nhớ rằng Hội thánh không cần những quan lại và công chức, nhưng cần những nhà truyền giáo hăng say, được lòng nhiệt thành nghiến nát để chia sẻ sự sống cho người khác. Các thánh khiến ta ngạc nhiên và lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi ta ra khỏi tình trạng tầm thường trầm lặng và tê liệt của mình.
139. Ta hãy xin Chúa ban cho ơn biết không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi ta tiến lên một bước. Ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gắng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi hoàn cảnh, hãy xin Chúa Thánh Thần làm cho ta biết chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Có thế, Hội thánh mới thôi trì trệ để liên lỉ đón nhận những điều đáng kinh ngạc của Chúa.
HIỆP THÔNG HÒA HỢP VỚI CỘNG ĐỒNG
140. Nếu ta sống quá cô lập, sẽ thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về nhục dục, những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ cũng như sự ích kỷ của thế gian. Cuộc tấn công mãnh liệt đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại, mất cả sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc nên thánh là một chuyến đi với cộng đồng, cùng bước bên nhau. Một số cộng đồng thánh thiện phản ánh điều ấy. Một đôi trường hợp, Hội thánh đã phong thánh cho nguyên cả một cộng đồng đã cùng sống Tin mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Chẳng hạn như bảy vị thánh sáng lập Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước tại Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản gồm Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc gồm Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ, Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi người phối ngẫu trở thành một phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một môn đệ ngài: “Hãy hiểu rằng bạn vào dòng là để cho mọi người xài xể bạn và thử thách bạn” .
142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian hướng thần trong đó người ta có thể cảm nghiệm được sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục sinh” . Việc cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể gia tăng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustinô và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng trải qua. “Khi gần đến ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn [...]. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa [...]. Và khi chúng con nói chuyện cùng khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ chạm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột […]. Sự sống đời đời như trực giác trong giây phút ấy làm cho chúng con luyến tiếc” .
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu sĩ hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Đó là điều đã xảy ra nơi cộng đồng thánh hợp thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cộng đồng đã phản ánh một cách mẫu mực vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Đó là điều đã xảy ra nơi cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và đám người giản dị.
144. Ta hãy nhớ lại Chúa Giêsu vẫn mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết nhỏ về chuyện hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết nhỏ về bà goá dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết nhỏ về việc đem thêm dầu phòng khi chàng rể đến chậm.
Chi tiết nhỏ khi Ngài bảo các môn đệ xem lại coi các ông có mấy ổ bánh.
Chi tiết nhỏ về chuyện Ngài đã nhóm sẵn lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc tinh sương.
145. Cộng đồng chăm chút từng chi tiết yêu thương nhỏ nhặt , ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và đượm chất Tin mừng, là nơi Chúa Phục sinh hiện diện và thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ một món quà yêu thương của Chúa, giữa những chi tiết nho nhỏ ấy, ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm đầy an ủi. “Một buổi tối mùa đông tôi đang lo những việc nhỏ của phận mình như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy từ xa vọng lại âm thanh dặt dìu của một nhạc cụ. Tôi mơ màng nghĩ đến một phòng khách sáng choang, trang hoàng lộng lẫy, đầy những người nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện, chúc mừng nhau với đủ thứ kiểu cách thế gian. Rồi ánh mắt tôi dừng lại trên người đàn bà khốn khổ tàn tật tôi đang giúp đỡ. Thay vì những tiếng nhạc dịu dàng, tôi chỉ thỉnh thoảng nghe thấy những lời bà than thở [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng cõi lòng ấy bằng những tia chân lý vượt xa cái rực rỡ tăm tối của những lễ hội trần thế. Tôi không thể tin được làm sao mình lại hạnh phúc đến thế” .
146. Ngược hẳn với chiều hướng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ mà cuối cùng sẽ khiến ta thành cô độc trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc bất chấp người khác, nẻo đường nên thánh mà ta đang theo sẽ không thôi làm cho ta được nên như điều Chúa Giêsu ao ước: “Lạy Cha, xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ
147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ là chuyện hiển nhiên, ta cần nhớ rằng sự thánh thiện cốt ở chỗ thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và thấy mình cần hiệp thông với Thiên Chúa. Họ không thể chịu nổi cảnh bị ngột ngạt khép kín lại bên trong thế giới này. Giữa lúc cố gắng và dấn thân, họ khao khát Chúa, họ ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào thứ thánh thiện thiếu cầu nguyện, dù không nhất thiết phải cầu nguyện dài dòng hoặc có những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, sự hiện diện thật, sự hiện diện trong tâm tưởng hay sự hiện diện hiệp nhất, tùy thực tế công việc cho phép.” . Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Bạn nên cố gắng để cầu nguyện không ngừng, và ngay cả khi tập luyện thân thể cũng đừng bỏ việc cầu nguyện. Dù bạn ăn, uống, nói, chuyện vãn với người đời hay là làm bất cứ điều gì khác, bạn luôn nên làm như thế với lòng khao khát Chúa và hướng hết lòng trí của bạn vào Ngài” .
149. Tuy nhiên, muốn được như thế, cần phải có một số khoảnh khắc dành riêng cho Thiên Chúa, để sống một mình với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, “cầu nguyện không gì khác hơn là một cuộc trao đổi thân tình và là cuộc đàm đạo thường xuyên một mình mình với Đấng mà chúng ta biết là rất yêu thương chúng ta” . Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không phải chỉ riêng cho một số ít người đặc ân, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều từng cần đến sự thinh lặng chứa đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” . Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một phản ứng của trái tim đang mở ra để giáp mặt gặp gỡ Thiên Chúa, ở đó mọi tiếng động đều phải im bặt để lắng nghe tiếng Chúa dịu dàng vang lên giữa thinh lặng.
150. Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể phân định được những nẻo đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi ta. Nếu không, mọi quyết định của ta chỉ là những “đồ trang trí”, thay vì đề cao Tin mừng giữa đời ta, thì lại che lấp mất hoặc khiến Tin mừng bị chết ngạt. Đã là môn đệ, điều cần thiết là phải ở với Thầy, lắng nghe Ngài, và luôn luôn học hỏi với Ngài. Nếu không lắng nghe Ngài, mọi lời ta nói sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô ích.
151. Cần nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và Sống Lại, giúp nhân tính của ta được phục hồi, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những thăng trầm của cuộc sống hoặc mang đầy vết tích tội lỗi. Ta không được tìm cách uốn nắn để làm chủ quyền năng của dung nhan Đức Kitô” . Vì vậy, tôi xin được hỏi: Liệu có lúc nào bạn đã đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, ở đó bạn nghỉ ngơi thanh thản với Ngài, và để cho Ngài nhìn ngắm bạn không? Bạn có để cho lửa của Ngài cháy lên trong lòng bạn không? Nếu bạn không để cho Ngài nhóm lên sức nóng tình yêu và sự dịu hiền của Ngài, bạn sẽ không có lửa. Và như thế làm sao bạn có thể dùng chứng tích và lời nói của bạn để đốt cháy trái tim những người khác được? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, bạn chưa thấy có thể để cho mình được Lời Ngài chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm Chúa, vào trong những vết thương của Ngài, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa .
152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự thinh lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương đất Nga”, người đã bước đi trong cầu nguyện liên tục, bảo rằng cách cầu nguyện như vậy không hề tách lìa ông khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông: “Rồi gặp ai tôi cũng thấy họ dễ thương như thể người nhà… Chẳng những mối hạnh phúc và an ủi ấy rực sáng lên trong hồn tôi, mà cả đến toàn thế giới bên ngoài dường như cũng thật diễm lệ khiến tôi ngây ngất” .
153. Lịch sử cũng không tan biến. Sự cầu nguyện vốn được nuôi dưỡng bằng hồng ân Thiên Chúa hằng tuôn đổ xuống đời ta, nên nó phải đầy sự tưởng nhớ. Tưởng nhớ các công trình của Thiên Chúa là nền tảng cho kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, cho nên lời cầu nguyện của ta được đan kết bằng những tưởng niệm. Không chỉ nhớ về Lời được Chúa mạc khải, mà còn về cuộc sống của bản thân ta, cuộc sống của người khác và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội thánh Ngài. Đó chính là trí nhớ đầy biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã nói đến trong bài Chiêm niệm để được Tình yêu , khi ngài yêu cầu ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc ta đã nhận được từ Chúa. Khi cầu nguyện, bạn hãy nhìn lại lịch sử của chính mình, bạn sẽ thấy ở đó nhiều tình thương xót. Đồng thời, điều ấy cũng giúp bạn thêm ý thức hơn rằng Chúa luôn nhớ đến bạn và không bao giờ quên bạn. Điều ấy cũng còn có nghĩa là hãy xin Chúa soi sáng lên những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì chúng không thoát khỏi mắt Ngài.
154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức rằng tự sức mình ta không thể làm được gì cả. Cuộc sống của đoàn dân tin tưởng vào Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Ta đừng coi thường việc cầu xin, biết bao lần nó đã xoa dịu lòng ta và giúp ta kiên trì trong hy vọng. Lời chuyển cầu (cầu thay cho người khác) cũng có một giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, và cũng nói lên tình yêu của ta đối với người bên cạnh. Một số người, do cách nhìn phiến diện về đường thiêng liêng, cứ tưởng rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không được phân tâm, làm như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh xa. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của ta sẽ vui lòng Thiên Chúa hơn và giúp ta nên thánh hơn nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Lời nguyện chuyển cầu cho thấy sự quan tâm đầy tình huynh đệ đối với người khác khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu thẳm nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Riêng về những người quảng đại tận hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Kinh thánh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mcb 15,14).
155. Nếu chúng ta thật sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ lạy Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân phước Charles de Foucauld khi ngài nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” . Trong cuộc sống của dân Chúa trên đường lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị toát ra một sự thờ phượng thuần khiết, như khi “một người hành hương đưa mắt nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” .
156. Khi cầu nguyện cũng cần đọc Lời Chúa, Lời này vừa “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119,103), vừa là một “thanh gươm hai lưỡi” (Hr 4,12), cho phép chúng ta dừng lại lắng nghe tiếng của Thầy để Lời ấy trở nên ngọn đèn soi bước chân ta và ánh sáng dẫn đường ta đi (x. Tv 119,105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “việc tôn kính Lời Chúa không đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính tốt đẹp, ai muốn thì làm, nhưng nó là chính con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Tự nơi Lời Chúa vốn có sẵn quyền năng biến đổi những cuộc đời” .
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Kinh thánh đưa ta đến Bí tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì là chính Đức Kitô tự dâng hiến chính mình để thờ phượng. Khi tiếp nhận Ngài lúc hiệp lễ, ta nhắc lại giao ước của ta với Ngài và để cho Ngài thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Ngài.
CHƯƠNG 5
CHIẾN ĐẤU, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH
158. Đời Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Ta cần sức mạnh và lòng can đảm để đương đầu với những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin mừng. Đây là trận chiến cao đẹp, vì nó cho ta được vui mừng mỗi khi Chúa chiến thắng trong đời ta.
CHIẾN ĐẦU VÀ TỈNH THỨC
159. Đây không chỉ là một cuộc chiến chống lại thế gian và não trạng trần tục đang đánh lừa ta, khiến ta thành mê muội và tầm thường, mất hết nhiệt tình và niềm vui. Nó cũng không giản lược vào chuyện vật lộn với những yếu đuối mỏng dòn và những xu hướng thấp hèn (có thể là lười biếng, tà dâm, tham lam, ganh tị hay bất kỳ điều gì khác). Nó còn là một cuộc chiến đấu triền miên chống lại ma quỷ, thủ lãnh của sự dữ. Chính Chúa Giêsu ăn mừng những chiến thắng của chúng ta. Ngài vui mừng khi các môn đệ Ngài tiến bộ trong việc rao giảng Tin mừng và vượt thắng được sự chống phá của ác thần: “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10,18).
Còn hơn một huyền thoại
160. Ta sẽ không cho là có ma quỷ nếu ta chỉ chăm bẳm nhìn đời theo các tiêu chuẩn thực nghiệm, không một chút cảm thức siêu nhiên nào. Quả thật, có xác tín rằng quyền lực hiểm độc này đang hiện diện ở giữa chúng ta, ta mới hiểu được làm sao lắm lúc sự dữ lại có thể có sức tàn phá đến thế. Phải nhận rằng những khái niệm các tác giả Kinh thánh dùng để diễn tả một số thực tại trong lãnh vực này còn khá giới hạn, chẳng hạn trong thời Chúa Giêsu, người ta có thể lẫn lộn bệnh động kinh với việc quỷ ám. Tuy nhiên, điều ấy không đưa ta đến chỗ giản lược thực tại đến độ bảo rằng mọi trường hợp được thuật lại trong Tin mừng đều chỉ là những bệnh tâm thần, và do đó không có ma quỷ hoặc ma quỷ không hoạt động. Ma quỷ có mặt ngay trong những trang đầu của Kinh thánh, mà kết thúc là Thiên Chúa đã chiến thắng ma quỷ . Quả thật, khi dạy ta Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn ta kết thúc kinh này với lời nài xin Chúa Cha “cứu chúng con cho khỏi Sự Dữ”. Chữ dùng ở đây không nhằm nói đến sự dữ trừu tượng; muốn sát nghĩa hơn phải dịch là “thần dữ”. Nó ám chỉ một kẻ nào đó đang tấn công ta. Chúa Giêsu dạy ta mỗi ngày phải cầu xin ơn giải cứu này để không bị quyền năng của nó chế ngự.
161. Như thế, ta không nên nghĩ về ma quỷ như một huyền thoại, một hình tướng, một biểu tượng, một hình ảnh hoặc một ý tưởng . Cái sai lầm này sẽ khiến ta chểnh mảng, bất cẩn, không đề phòng và kết cuộc dễ bị làm mồi cho nó hơn. Ma quỷ không cần phải chiếm hữu ta. Nó đầu độc ta bằng nọc độc của hận thù, buồn chán, tham lam và các tật xấu. Cũng thế, khi ta chểnh mảng không chịu đề phòng, nó sẽ tận dụng cơ hội để huỷ hoại đời ta, gia đình ta và cộng đồng của ta. “Như sư tử gầm thét, nó rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr 5,8).
Cảnh giác và tin cậy
162. Lời Chúa rõ ràng mời gọi ta “hãy đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của Ác Thần” (Ep 6,16). Đây không phải là những lời hoa mỹ, vì con đường dẫn đến sự thánh thiện của ta là một trận chiến liên tục. Ai không ý thức điều ấy sẽ thất bại hoặc sớm rơi xuống chỗ tầm thường. Với cuộc chiến này, ta có thể dựa vào các vũ khí mạnh mẽ Chúa đã ban cho ta: việc vững tin cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cử hành thánh lễ, chầu Thánh Thể, Bí tích Hòa giải, các việc bác ái, sống hiệp thông chia sẻ, và dấn thân truyền giáo. Nếu không cẩn thận, ta dễ bị những lời hứa hão của thần dữ quyến rũ. Như thánh linh mục Brochero đã nói: “Có điều gì là tốt lành khi Lucifer hứa cho bạn tự do, và chất đầy cho bạn đủ thứ lợi lộc của nó, nếu những lợi ích ấy toàn là giả dối và có chất độc?” .
163. Trong lộ trình này, việc phát huy những điều thiện, sự trưởng thành tâm linh và lớn lên trong đức ái là cách tốt nhất để đối phó với sự dữ. Những ai định án binh bất động, những ai tự hài lòng với đôi chút cố gắng nhỏ, những ai không mơ ước quảng đại hiến mình cho Chúa, đều sẽ chẳng bao giờ cầm cự nổi. Tệ hơn nữa, nếu người ta rơi vào thái độ chủ bại, vì “ai bắt đầu mà không tự tin, thì đã thua cuộc hết một nửa, và đã đem chôn giấu những nén bạc... Chiến thắng của Kitô hữu luôn luôn là một thập giá, nhưng cùng lúc thập giá cũng là biểu tượng của chiến thắng, cần được ưu ái mang theo để quyết liệt chiên đấu chống lại những cuộc tấn công của sự dữ” .
Sự hủ bại tinh thần
164. Đường nên thánh là một nguồn bình an và hoan lạc mà Chúa Thánh Thần ban cho ta, đồng thời Ngài cũng đòi ta phải tỉnh thức và giữ cho “đèn cháy sáng” (Lc 12,35). “Hãy tránh xa điều xấu dưới mọi hình thức” (1 Tx5,22). “Hãy tỉnh thức” (Mt 24,42; Mc 13,35). “Đừng ngủ mê” (1 Tx 5,6). Những người có cảm tưởng mình chẳng phạm tội gì trầm trọng ngược Luật Thiên Chúa có thể rơi vào tình trạng mê muội hoặc đờ đẫn. Vì không thấy điều gì nghiêm trọng để tự trách mình, họ không nhận ra rằng tình trạng trơ trơ như thế sẽ dần dần chiếm lĩnh đời sống thiêng liêng của họ và cuối cùng họ sẽ bị suy nhược và hủ bại.
165. Sự hủ bại tinh thần còn tồi tệ hơn việc một người sa ngã phạm tội, vì đó là một thứ thoải mái và tự mãn mù lòa, chuyện gì cũng coi như có thể chấp nhận được: lừa dối, phỉ báng, ích kỷ và các hình thức tìm mình khác rất tinh vi, vì “chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11,14). Vua Salômôn đã kết thúc những ngày đời ông theo cách đó, còn vua Đavít đã từng phạm tội hết sức nặng nề nhưng lại biết chỗi dậy khỏi tình trạng khốn nạn của mình. Chúa Giêsu đã từng cảnh báo chúng ta về sự tự lừa dối này, vì nó rất dễ đưa ta đến chỗ hủ bại: Ngài nói về một kẻ được giải thoát khỏi quỷ ám, nghĩ rằng đời mình giờ đây đã ổn thỏa, nhưng rồi cuối cùng lại bị bảy quỷ khác chiếm hữu (xem Lc 11,24-26). Một đoạn Kinh thánh khác còn dùng một hình ảnh rất mạnh: “Chó ăn lại chính thứ nó mửa ra” (2 Pr2,22; x. Cn 26,11).
SỰ PHÂN ĐỊNH
166. Làm sao để biết được là một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế gian hoặc tinh thần ma quỷ? Cách duy nhất là phải phân định. Sự phân định không những đòi phải có một khả năng tốt để lý luận và phải có lương tri (khả năng biết lẽ thường - ND), mà còn là một ơn cần phải cầu xin. Nếu chúng ta tin tưởng cầu xin Chúa Thánh Thần ơn này, đồng thời tìm cách vun trồng nó bằng cầu nguyện, suy niệm, đọc sách và nghe lời khuyên tốt, chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng tinh thần này.
Một nhu cầu khẩn cấp
167. Ngày nay khả năng phân định càng đặc biệt trở nên cần thiết. Cuộc sống hiện nay cống hiến cho ta vô số khả năng để hành động và giải trí, và ai cũng xem như tất cả đều được phép và tốt. Mọi người, đặc biệt là giới trẻ, đều chìm trong một nền văn hóa cảm ứng, liên tục “chấm, quẹt”. Ta có thể đồng thời lướt hai hoặc ba màn ảnh và tương tác trên hai ba cảnh ảo cùng một lúc. Nếu thiếu sự sáng suốt phân định, ta có thể dễ biến thành những con rối chiều theo mọi xu hướng chóng qua.
168. Điều này càng quan trọng hơn nữa khi một cái gì đó mới mẻ xuất hiện trong đời sống của ta, đòi ta phải phân định xem đó là thứ rượu mới từ Thiên Chúa gửi đến hay chỉ là một cái mới ảo do tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỷ tạo ra. Có những trường hợp khác, lại có thể xảy ra điều ngược hẳn, các thế lực của sự dữ kìm giữ không cho ta thay đổi, cứ để yên mọi sự như cũ, chọn thái độ cứng nhắc hoặc án binh bất động. Và thế là ta ngăn chặn mất hoạt động của Chúa Thánh Thần. Ta được tự do, với sự tự do của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Ngài yêu cầu ta dò xét cả những tín hiệu bên trong - các ước muốn, lo âu, sợ hãi và kỳ vọng của ta - và cả những thứ bên ngoài đang xảy ra quanh ta - “những dấu chỉ của thời thế” - để nhận ra đâu là những nẻo đường đưa đến tự do hoàn toàn. “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ” (1 Tx5,21).
Luôn luôn sống trong ánh sáng của Chúa
169. Sự phân định không phải chỉ cần thiết vào những thời điểm khác thường, khi ta cần giải quyết các vấn đề nghiêm trọng hoặc phải có một quyết định quan trọng. Phân định là một công cụ chiến đấu giúp ta theo Chúa cách tốt hơn. Ta luôn cần nó, để nhận ra được đâu là giờ của Thiên Chúa và của ân sủng Ngài, để khỏi lãng phí ơn linh hứng của Chúa và khỏi bắt hụt lời Ngài đang mời gọi lớn lên. Việc phân định này thường phải làm từ trong những việc nhỏ, nơi những việc có vẻ tầm thường, bởi lẽ cái lớn lao vẫn lộ rõ ngay giữa những việc đơn giản hàng ngày . Không riêng những gì lớn lao, cao cả hơn và tốt đẹp hơn mới cần được phân định, nhưng cùng lúc cũng phải chú ý đến cả những gì bé nhỏ, những trách nhiệm và những dấn thân trong cuộc sống mỗi ngày. Vì thế, tôi xin hết mọi Kitô hữu đừng quên thưa chuyện với Chúa là Đấng yêu thương ta để thành tâm xét mình mỗi ngày. Sự phân định cũng giúp ta nhận ra những phương thế cụ thể Chúa xếp đặt trong kế hoạch mầu nhiệm đầy yêu thương của Ngài, để giúp ta không chỉ ngừng lại với những ý định tốt lành.
Một món quà siêu nhiên
170. Sự phân định thiêng liêng không loại trừ những đóng góp của những kiến thức nhân bản, hiện sinh, tâm lý, xã hội học hay luân lý, nhưng còn vượt lên trên những hiểu biết ấy. Chỉ những tiêu chuẩn vững chắc của Hội thánh thôi cũng chưa đủ. Ta cần luôn nhớ rằng sự phân định là một ơn Chúa ban. Đành rằng nó bao gồm lý trí và sự cẩn trọng, nó vẫn vượt trên cả hai, vì nó là chuyện dò tìm xem đâu là kế hoạch mầu nhiệm và độc đáo Thiên Chúa đang dành cho mỗi người chúng ta, kế hoạch đang rõ dần giữa biết bao hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó không chỉ là chuyện liên quan tới một sự an vui trần thế, một sự hài lòng vì đã làm một điều gì hữu ích, hay là niềm khao khát có một lương tâm thanh thản. Điều đáng kể chính là ý nghĩa của đời tôi trước mặt Chúa Cha, Đấng biết tôi và yêu thương tôi, là cái mục đích cuối cùng của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn Ngài. Rốt cuộc, sự phân định dẫn đến chính nguồn suối của cuộc sống bất diệt, nghĩa là được nhận biết Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa thật duy nhất, và Đấng Ngài đã sai đến, là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Sự phân định không đòi hỏi những khả năng đặc biệt, cũng không chỉ dành cho những người thông minh hơn hoặc có học thức cao, và Chúa Cha đã vui lòng tỏ mình ra cho những người bé nhỏ (x. Mt 11,25).
171. Mặc dù Chúa nói với ta bằng rất nhiều cách khác nhau, trong công việc, qua người khác và mọi lúc, ta không thể bỏ qua sự thinh lặng chú tâm cầu nguyện để nhận rõ ngôn ngữ của Thiên Chúa hơn, để giải thích được ý nghĩa thực sự của những cảm hứng mà ta nghĩ là mình đã nhận được, để làm cho những lo âu của mình lắng dịu và để sắp đặt toàn bộ đời mình trong ánh sáng của Thiên Chúa. Bằng cách ấy, ta có thể làm nẩy sinh một tổng hợp mới phát xuất từ một cuộc sống được Chúa Thánh Thần soi sáng.
Lạy Chúa, xin hãy phán
172. Tuy nhiên, có thể chính trong lúc cầu nguyện, ta lại tránh né sự chất vấn của Chúa Thánh Thần, Đấng đầy tự do, luôn hành động như ý Ngài muốn. Ta phải nhớ rằng sự phân định trong cầu nguyện đòi buộc ta phải bắt đầu từ sự mở lòng lắng nghe: lắng nghe Chúa, lắng nghe người khác, và lắng nghe chính thực tại vẫn hằng thách thức chúng ta bằng những cách thế mới. Chỉ những ai sẵn sàng lắng nghe mới có được tự do nội tâm để từ bỏ những ý tưởng chủ quan hoặc phiến diện của mình, cũng như những thói quen cố hữu và những định kiến của mình. Có thế, ta mới thực sự mở lòng đón nhận cái tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của ta, nhưng lại dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nào phải cứ mọi sự đều xuôi chảy, đều yên ổn là đã đủ! Thiên Chúa còn có thể cho ta một điều gì đó tốt hơn nhiều, nhưng chỉ vì cầu an chểnh mảng mà ta không nhận ra.
173. Đã hẳn thái độ lắng nghe ấy đòi phải vâng theo Tin mừng như là chuẩn mực tối hậu, nhưng cũng còn phải vâng theo Huấn quyền, mà Chúa đã lập nên để gìn giữ Tin mừng, hầu giúp ta tìm được trong kho báu của Hội thánh điều gì hữu hiệu nhất cho “ngày hôm nay” của ơn cứu rỗi. Điều quan trọng không phải là áp dụng các quy tắc hoặc lặp lại quá khứ, bởi vì không thể đem những giải pháp y hệt áp dụng cho mọi hoàn cảnh; vì điều hữu ích trong bối cảnh này chưa hẳn cũng hữu ích trong một bối cảnh khác. Sự phân định các loại thần giải thoát ta khỏi sự cứng nhắc, là điều không chấp nhận được trước “ngày hôm nay” bất diệt của Chúa Phục sinh. Chỉ có Thánh Thần mới xuyên thấu những điều tăm tối và ẩn khuất trong mỗi tình huống và nắm được mọi chỗ tinh tế của tình huống ấy, nhờ đó cái mới mẻ của Tin mừng mới nổi bật dưới một ánh sáng khác.
Luận lý của hiến tặng và của thập giá
174. Muốn tiến bộ trong việc phân định, cốt yếu nhất là phải uốn theo sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và các thời điểm của Ngài, vốn không bao giờ trùng khít với thời điểm của ta. Thiên Chúa không cho lửa xuống đốt những kẻ bất trung (xem Lc9,54), hoặc cho phép những người nhiệt thành nhổ cỏ lùng mọc xen giữa lúa mì (x. Mt 13,29). Cũng cần có lòng quảng đại, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Phân định không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những gì ở đời này, mà để nhận ra làm sao ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ vụ được ủy thác cho mình khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Điều này có nghĩa là phải sẵn sàng từ bỏ đến mức hy sinh hết mọi sự. Thực ra, hạnh phúc thật nghịch lý: ta chỉ cảm nghiệm được nhiều hạnh phúc nhất khi chấp nhận cái logic (cái lý) mầu nhiệm không thuộc thế gian như Thánh Bonaventura đã quả quyết khi nói về thập giá: “Đây là cái lý của ta” . Một khi đã vào trong cái năng động này, ta sẽ không để cho lương tâm mình bị tê liệt và sẽ hào hiệp mở rộng lòng ra để phân định.
175. Khi dò tìm những nẻo đường cuộc sống trước nhan Thiên Chúa, ta không được gạt bỏ bất cứ lãnh vực nào. Nơi mọi khía cạnh của đời sống, ta đều có thể tiếp tục phát triển và dâng lên Thiên Chúa một điều gì lớn hơn, ngay cả trong những lãnh vực ta thấy khó khăn nhất. Tuy nhiên, ta cần xin Chúa Thánh Thần giải thoát ta và xua tan sợ hãi, là điều khiến ta ngăn cản không cho Ngài bước vào một số lãnh vực nào đó của đời ta. Ngài đòi hỏi ta mọi sự, nhưng cũng ban cho ta mọi sự. Ngài không muốn bước vào đời ta để khiến nó thành què cụt hoặc bị yếu đi, nhưng để đưa nó đến chỗ viên mãn. Như thế, phân định không phải là một kiểu tự phân tích chỉ biết có mình, hoặc một hình thức nội quan (tự xét nội tâm) tập trung vào mình, nhưng là một tiến trình thật sự ra khỏi chính mình để tiến về mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng giúp ta làm tròn sứ vụ mà Ngài đã mời gọi ta, vì lợi ích cho anh chị em của ta.
* * *
176. Tôi cầu mong Đức Trinh Nữ Maria kết triều thiên tô điểm cho những suy tư này, bởi vì Mẹ đã sống các mối Phúc thật của Chúa Giêsu cách không ai sánh bằng. Mẹ đã nhảy mừng trước mặt Thiên Chúa, đã giữ kỹ mọi sự trong lòng, và đã để cho lưỡi gươm đâm thâu lòng mình. Ngài là vị thánh nổi bật giữa các thánh, diễm phúc hơn tất cả. Chính Mẹ chỉ cho ta con đường nên thánh và luôn đồng hành với ta. Mẹ không chịu để ta phải nằm mãi dưới đất sau khi ta bị ngã, và lắm khi Mẹ còn ẵm ta trong vòng tay Mẹ mà không xét đoán gì ta cả. Cứ trò chuyện với Mẹ, ta sẽ được an ủi, giải thoát và thánh hóa. Mẹ không cần nhiều lời. Mẹ không cần ta phải nói hết cho Mẹ những gì đang xảy đến cho đời ta. Tất cả những gì ta cần làm là thì thầm, lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria ...”
177. Tôi hy vọng rằng những trang này sẽ hữu ích, giúp toàn thể Hội thánh lại một lần nữa tận hiến cho việc cổ võ lòng khao khát nên thánh. Ta hãy xin Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên ta một niềm khao khát nên thánh mênh mông vô tận để Thiên Chúa được hết sức vinh quang, và ta hãy giúp đỡ nhau trong nỗ lực này. Như thế, ta sẽ cùng chia sẻ với nhau một nguồn hạnh phúc mà thế gian sẽ không thể cướp được.
Ban hành tại Rôma, ở Đền Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, lễ trọng kính Thánh Giuse, năm 2018, là năm thứ sáu tôi làm Giáo hoàng.
Phanxicô
Chuyện lạ các thánh: chống giáo hoàng thiệt, chống vua, theo giáo hoàng giả! thánh Benno Meissen
Trần Mạnh Trác
20:36 15/06/2018
Thánh Benno sinh năm 1010 ở Hildesheim, nước Đức, trong một gia đình quí phái thuộc chi tộc Saxon, mẹ ngài là chân phước Bezela Goda; và có lẽ vì thuộc giới quyền quí cho nên cả đời ngài đã dính dáng rất nhiều vào những việc chính trị thị phi thời bấy giờ.
Tính về ‘sự nghiệp’ giáo triều (bấy giờ nhiều người coi việc đi tu là một sự nghiệp), thì ngài khá thành công: được theo học tại tu viện nổi danh Saint Michael, Hildesheim, ở Đức. Làm linh mục. Làm Kinh sĩ cho nhà thờ hoàng gia ở Gozlar, Hanover. Làm tuyên úy cho hoàng đế Henry III. Được vua Henry IV đề nghị và được phong làm giám mục giáo phận Meissen từ năm 1066.
Năm 1073 ngài ủng hộ cuộc nổi loạn Saxon chống lại vua Henry IV và bị phát vãng trong năm 1075 nhưng năm sau thì vua Henry IV lại tha cho trở về giáo phận.
Việc ông thánh Benno chống vua thì dai dẳng mãi không hết, trong cuộc tranh chấp ‘phân quyền’ giữa giáo hội và hoàng đế, ông chống vua để bênh Giáo hoàng và ủng hộ các mưu đồ lật đổ vua như cuả quận công Rudolf ở Rheinfelden …
Trong giai đoạn ấy có lần ông đã bị giam cầm 1 năm. Một lần khác khi được thánh giáo hoàng Gregory VII triệu về Roma để tham vấn, ông thánh đã ra lệnh cho các kinh sĩ coi nhà thờ chánh toà phải khoá nhà thờ lại, không cho vua tới, sợ rằng vua Henry sẽ nhân cơ hội ấy mà chiếm mất nhà thờ.
Vua Henry đã đưa quân tới chiếm thật, rồi tức giận vất cái chià khoá nhà thờ xuống sông, có ý rằng không ai được quyền đóng cửa nhà thờ vào mặt vua!
Khi thánh Benno trở về, ngài đã tới bên sông và vớt ngay chiếc chià khoá lên. Người ta đồn rằng một con cá đã ngậm lấy chiếc chì khoá và mang trả lại cho thánh Benno.
Cũng vì tích ấy mà người ta thường minh hoạ thánh Benno là một vị giám mục cầm trên tay một chiếc chià khoá lấy ra từ một con cá.
Khi thánh giáo hoàng Gregory VII băng hà thì xảy ra có cuộc tranh chấp về chức giáo hoàng, ông thánh Benno dứng về phe giáo hoàng giả là tổng giám mục Guibert cuả Ravenna, lấy hiệu toà Clement III. Vua Henry cũng ủng hộ vị giáo hoàng giả này nên đã làm hoà với GM Benno và cho ngài phục chức giám mục như cũ.
Trong giai đoạn này thì vị giám mục ‘ly giáo’ đã cố gắng dùng thanh thế cuả mình để tìm cách mang chi tộc Saxon về làm hoà với vua Henry, nhưng thất bại.
Năm 1097, ngài xin trở về với giáo hội thật dưới triều giáo hoàng Urban II.
Đọc tới đây chắc hẳn nhiều người tự hỏi một nhân vật mắc phải nhiều ‘thị phi’ như thế mà sao lại làm thánh được nhỉ? Đó cũng là kết luận cuả ông Martin Luther. Nhưng dù cho có những dính dáng vào chuyện ‘chính trị’ và có một cuộc đời rối loạn như thế, thánh Benno đã được nâng lên bậc thánh bởi vì không bao giờ ngài lơ đễnh về phận sự làm mục tử cuả ngài cả. Ngài viếng thăm các giáo xứ thường xuyên, lo việc giảng dạy cần mẫn, lo thánh lễ, chăm lo và kiểm soát hàng giáo phẩm, diệt trừ việc ‘buôn thần bán thánh’ khắp mọi nơi.
Ngài là một nhạc sĩ có tài, cổ động việc hát thánh ca trong nhà thờ và trong các tu viện, và dựa vào Kinh Thánh mà viết nhạc. Trong lúc già, ngài vẫn chăm lo việc truyền giáo sang các vùng hẻo lánh cuả thời đó, gọi chung là vùng Wends, nay là các xứ Thụy Điển, Ba Lan v.v.
Vì những cải cách trong giáo phận cuả ngài đã xảy ra như thế trước biến cố Thệ Phản nhiều trăm năm, cho nên người Công Giáo vẫn thường lấy thí dụ về ngài để chứng minh rằng Giáo Hội Công Giáo luôn luôn có khả năng đổi mới và tự thanh tẩy.
Và cũng vì vậy mà trong những năm cao điểm cuả phong trào Thệ Phản người ta đã đập phá mộ phần cuả ngài ở Meissen (1539).
Ngày nay thành phố Munich và xứ Bavaria nhận ngài làm thánh quan thầy.
Ngày lệ thánh Benno là ngày 16 tháng 6 hàng năm.
Thông Báo
Chương Trình Tìm Hiểu Và Khám Phá Ơn Gọi Thừa Sai Đức Tin Đợt II Năm 2018
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, MF
08:05 15/06/2018
Chương Trình Tìm Hiểu Và Khám Phá Ơn Gọi Thừa Sai Đức Tin Đợt II Năm 2018 (03-05/08/2018)
Kính thưa quý cha, quý tu sĩ, quý phụ huynh và các bạn trẻ,
Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam trân trọng thông báo đến quý cha, quý phụ huynh và các bạn trẻ về chương trình tìm hiểu và khám phá ơn gọi Thừa Sai Đức Tin đợt 2 năm 2018.
Để đón nhận những ứng viên mới, có nguyện vọng trở thành tu sĩ, linh mục Thừa Sai Đức Tin, sống và làm chứng cho đức tin trên mọi nẻo đường, Ban mục vụ ơn gọi của Tỉnh Dòng sẽ tổ chức ngày gặp gỡ, khám phá và tuyển chọn ơn gọi, với những thông tin như sau:
1. ĐIỀU KIỆN THAM DỰ
Các ứng sinh:
(1) Đã tốt nghiệp PTTH hoặc đang ôn thi vào đại học: Tuổi từ 18 đến 22.
(2) Đang theo học đại học, hoặc đã tốt nghiệp đại học: Tuổi không quá 28.
(3) Có sức khỏe tốt.
(4) Có ý hướng ngay lành.
2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
Thời hạn: Từ nay cho đến hết ngày 20 tháng 07 năm 2018.
Địa điểm:Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, 311/14/09, Đường 30/04, Phường Phú Thọ, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
Mọi chi tiết, xin liên hệ:
(1) Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, Đt: 0919.448.523
(2) Lm. Giuse Nguyễn Bảo Huân Chương, Đt: 01232.373.839
(3) Lm. Giuse Đinh Văn Thắng, Đt: 01664.573.404
(4) Lm. Phaolô Đinh Tiến Nhân, Đt: 0944.212.001
(5) Lm. Giuse Nguyễn Minh Phúc, Đt: 0918.050.253
(6) Email: bantuyensinhmf@gmail.com hoặc thuasaiductin@gmail.com
Thể Lệ Ghi danh: Hồ sơ gồm:
(1) Phiếu đăng ký có dán ảnh (tải về tại trang web http://mfvietnam.org hoặc liên hệ qua email: bantuyensinhmf@gmail.com để nhận phiếu đăng ký).
(2) Bản photo Chứng minh nhân dân.
(3) Bản photo bằng tốt nghiệp PTTH đối với những thí sinh đã tốt nghiệp PTTH.
(4) Bản photo bằng tốt nghiệp đại học đối với những thí sinh đã tốt nghiệp đại học.
Hồ sơ gửi trực tiếp về Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin hoặc gửi qua đường bưu điện. Ngoài phong bì ghi rõ: Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, Trưởng Ban Tuyển Sinh.
Địa chỉ: Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, 311/14/9, Đường 30/4, P. Phú Thọ, Tp. Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
3. CHƯƠNG TRÌNH GẶP GỠ
Địa Điểm:
Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam:
311/14/9, Đường 30/4, Phường Phú Thọ, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
(Gần bến xe khách tỉnh Bình Dương)
Thời Gian:
- Ngày 03/08/2018:
15g00 – 17g00: Thí sinh tập trung, ghi danh, nhận phòng
19g30 – 20g45: Chầu Thánh Thể - Khai mạc
20g15 – 21g00: Cha Giám tỉnh gặp gỡ chung
- Ngày 04/08/2018:
08g15 - 09g00: Giới thiệu ơn gọi tu trì trong giáo hội
09g30 - 10g15: Giới thiệu đặc sủng Dòng Thừa Sai Đức Tin
10g15 - 11g00: Ứng sinh chia sẻ về động lực ơn gọi
14g15 - 16g00: Gặp gỡ riêng các ứng sinh
16g00 - 17g30: Giao lưu bóng đá
- Ngày 05/08/2018:
05g00 - 06g00: Thánh lễ tạ ơn
08g00 - 11g00: Trò chơi lớn
11g30 - 13g00: Tiệc mừng
15g00 - 16g00: Gặp gỡ chung, chia tay
Chúng con kính mong quý cha, quý tu sĩ và quý phụ huynh khích lệ và tạo điều kiện để các bạn trẻ hân hoan đáp lại tiếng Chúa mời gọi và quảng đại dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội trong ơn gọi Thừa Sai Đức Tin.
Tu Viện Lời Chúa, ngày 08.06.2018
TM. Ban Mục Vụ Ơn Gọi
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, MF
Trưởng Ban
Kính thưa quý cha, quý tu sĩ, quý phụ huynh và các bạn trẻ,
Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam trân trọng thông báo đến quý cha, quý phụ huynh và các bạn trẻ về chương trình tìm hiểu và khám phá ơn gọi Thừa Sai Đức Tin đợt 2 năm 2018.
Để đón nhận những ứng viên mới, có nguyện vọng trở thành tu sĩ, linh mục Thừa Sai Đức Tin, sống và làm chứng cho đức tin trên mọi nẻo đường, Ban mục vụ ơn gọi của Tỉnh Dòng sẽ tổ chức ngày gặp gỡ, khám phá và tuyển chọn ơn gọi, với những thông tin như sau:
1. ĐIỀU KIỆN THAM DỰ
Các ứng sinh:
(1) Đã tốt nghiệp PTTH hoặc đang ôn thi vào đại học: Tuổi từ 18 đến 22.
(2) Đang theo học đại học, hoặc đã tốt nghiệp đại học: Tuổi không quá 28.
(3) Có sức khỏe tốt.
(4) Có ý hướng ngay lành.
2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
Thời hạn: Từ nay cho đến hết ngày 20 tháng 07 năm 2018.
Địa điểm:Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, 311/14/09, Đường 30/04, Phường Phú Thọ, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
Mọi chi tiết, xin liên hệ:
(1) Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, Đt: 0919.448.523
(2) Lm. Giuse Nguyễn Bảo Huân Chương, Đt: 01232.373.839
(3) Lm. Giuse Đinh Văn Thắng, Đt: 01664.573.404
(4) Lm. Phaolô Đinh Tiến Nhân, Đt: 0944.212.001
(5) Lm. Giuse Nguyễn Minh Phúc, Đt: 0918.050.253
(6) Email: bantuyensinhmf@gmail.com hoặc thuasaiductin@gmail.com
Thể Lệ Ghi danh: Hồ sơ gồm:
(1) Phiếu đăng ký có dán ảnh (tải về tại trang web http://mfvietnam.org hoặc liên hệ qua email: bantuyensinhmf@gmail.com để nhận phiếu đăng ký).
(2) Bản photo Chứng minh nhân dân.
(3) Bản photo bằng tốt nghiệp PTTH đối với những thí sinh đã tốt nghiệp PTTH.
(4) Bản photo bằng tốt nghiệp đại học đối với những thí sinh đã tốt nghiệp đại học.
Hồ sơ gửi trực tiếp về Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin hoặc gửi qua đường bưu điện. Ngoài phong bì ghi rõ: Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, Trưởng Ban Tuyển Sinh.
Địa chỉ: Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, 311/14/9, Đường 30/4, P. Phú Thọ, Tp. Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
3. CHƯƠNG TRÌNH GẶP GỠ
Địa Điểm:
Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam:
311/14/9, Đường 30/4, Phường Phú Thọ, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
(Gần bến xe khách tỉnh Bình Dương)
Thời Gian:
- Ngày 03/08/2018:
15g00 – 17g00: Thí sinh tập trung, ghi danh, nhận phòng
19g30 – 20g45: Chầu Thánh Thể - Khai mạc
20g15 – 21g00: Cha Giám tỉnh gặp gỡ chung
- Ngày 04/08/2018:
08g15 - 09g00: Giới thiệu ơn gọi tu trì trong giáo hội
09g30 - 10g15: Giới thiệu đặc sủng Dòng Thừa Sai Đức Tin
10g15 - 11g00: Ứng sinh chia sẻ về động lực ơn gọi
14g15 - 16g00: Gặp gỡ riêng các ứng sinh
16g00 - 17g30: Giao lưu bóng đá
- Ngày 05/08/2018:
05g00 - 06g00: Thánh lễ tạ ơn
08g00 - 11g00: Trò chơi lớn
11g30 - 13g00: Tiệc mừng
15g00 - 16g00: Gặp gỡ chung, chia tay
Chúng con kính mong quý cha, quý tu sĩ và quý phụ huynh khích lệ và tạo điều kiện để các bạn trẻ hân hoan đáp lại tiếng Chúa mời gọi và quảng đại dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội trong ơn gọi Thừa Sai Đức Tin.
Tu Viện Lời Chúa, ngày 08.06.2018
TM. Ban Mục Vụ Ơn Gọi
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành, MF
Trưởng Ban