Isaia 56: 6-7; Tv: 67; Roma 11: 13-15, 29-32; Matthêu 15: 21-28
Anh chị em thân mến,
Bài phúc âm hôm nay diễn tả Chúa Giêsu một cách hơi cao kỳ. Một người đàn bà chán nản đến bẻn lẻn xin Chúa Giêsu giúp đỡ cho con gái bà bị quỷ ám. Nhưng vì bà ta là người Canaan, là người ngoài đạo Do Thái, Chúa Giêsu có vẻ hắt hủi bà ấy. Đầu tiên Chúa Giêsu không để ý đến bà, rồi dùng cách nói khinh miệt thời ấy coi bà ta như "chó". Còn bạn có nghỉ vậy không?
Câu chuyện trong phúc âm làm chúng ta cảm thấy mình thuộc hàng hạ cấp. Chúng ta cùng hệ với người đàn bà Canaan. Chúng ta mong Chúa Giêsu sẽ dủ lòng thương nghe lời than của một người mẹ. "Đừng chán nản. Chúa Giêsu sẽ nghe Bà". Thường thường khi chúng ta nghe một người kêu van xin Chúa Giêsu giúp đỡ. thì chính Ngài là người tỏ lòng thương xót giúp đỡ ngay những người tin vào Ngài. Nhưng trong bài phúc âm hôm nay Chúa lại không như vậy. Chẳng lẻ Chúa Giêsu không để ý đến những kẻ kêu xin như chúng ta vừa thấy? Vậy tại sao lại có chuyện như thế?
Điều giúp chúng ta hiểu thêm câu chuyện phúc âm hôm nay là chúng ta nên nhìn vào lòng tin cậy của chúng ta vào Chúa Giêsu. Chúng ta tin gì vào nhân tính của Ngài? Tôi nghĩ rằng phần đông chúng ta có lòng tin mạnh mẻ về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúng ta tin Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúng ta không được hướng dẫn nhiều về lòng tin vào nhân tính của Ngài: Chúa Giêsu là một người như chúng ta. Thế nên chúng ta phải giử hai phần của đức tin về Thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu ngang nhau. Nhưng chúng ta thường nhấn mạnh một bên, thường là phần thiên tính của Ngài. Còn phần nhân tính chúng ta ít để ý đến; đó là do quá trình được giáo huấn của chúng ta. Chính phần nhân tính của Chúa Giêsu cũng quan trọng như phần thiên tính vậy.
Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu có ai đến gỏ cửa Chúa Giêsu, Ngài cần biết người đó là ai trước khi Ngài mở cửa không? Theo lẻ thường chúng ta sẽ trả lời là "có, Chúa Giêsu là Chúa nên Ngài biết hết mọi sự". Về khía cạnh đó chúng ta thấy cách hành xử của Chúa Giêsu với người đàn bà Canaan hôm nay là cách Ngài muốn thử lòng tin của bà. Và Bà ấy có đức tin thật sự.
Đức tin của bà thúc đẩy bà ta đi đến cùng. Bà là người Canaan, mà bỏ nhà để chạy đến Chúa Giêsu. Các bạn nên nhớ người Canaan là những người trước kia sống nơi đất Chúa hứa, họ đã bị người Israel đuổi ra khỏi phần đất đó. Nên sự chống đối giữa người Do Thái và người Canaan kéo dài từ trước đến nay, việc người đàn bà Canaan đánh liều chạy vào đất của kẻ thù để xin Chúa Giêsu giúp đỡ là một sự can đảm. Có thể khi đi đường bà ta đã biết đất đó là của người Do Thái, nơi đó người Do Thái có Thiên Chúa của họ là Đấng có lòng thương xót, Ngài sẽ giúp bà ta. Sự chán nản và sự can đảm khiến bà một mình chạy đến Chúa Giêsu mà không có người đàn ông đi cùng là một điều rất lạ thời bấy giờ.
Đức tin của bà ấy lại được chứng tỏ trong lời kêu van với Chúa Giêsu. Bà ta không dễ gì chịu thua khi Chúa Giêsu nói là không ném đồ ăn của trẻ con "là người Do Thái" cho chó "là người ngoại". Cách nói đó cũng như bây giờ chúng ta nói là: “cơm đâu cho chó ăn”. Chúng ta cảm thấy Chúa Giêsu đã bắt đầu mở lòng nghe người đàn bà kêu xin. Ngài đã bớt cứng lòng như người Do Thái thời ấy gọi người Canaan là "chó". Rồi người đàn bà trả lời là bà ta cũng có chút quyền, mặc dù bà thuộc hạng "chó". Và "chó" cũng có quyền ăn của dư thừa trên bàn. Bà ta ám chỉ là bà ta tin là Thiên Chúa cho thức ăn các "trẻ con” và các "chó con", nghĩa là cho người Do Thái và kẻ ngoại.
Trước đó người Pharisiêu đã chỉ trích Chúa Giêsu vì các môn đệ không rữa tay trước khi ăn theo phong tục người Do thái (15:1-20). Và Chúa Giêsu gọi các thầy tư tế là những người giả dối chỉ phục vụ Thiên Chúa ngoài môi miệng thôi. Rồi Chúa Giêsu lại khen người đàn bà Canaan có đức tin mạnh mẽ. Đây là loại người mà các thầy tư tế khinh khi lại được Chúa Giêsu khen. Vậy ai là người có đức tin trước mặt Chúa Giêsu? Đó là những ai nhìn thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn chữa lành, tha tội, và mời kẻ khác vào bàn tiệc với Ngài. Nơi bàn tiệc thánh hôm nay Thiên Chúa chiêu đãi bánh ngon thượng hạng.
Các môn đệ lại muốn đuổi người đàn bà Canaan đi. Nhưng trái lại Bà là người chứng tỏ đức tin còn mạnh hơn đức tin các môn đệ vì bà ta thấy Chúa Giêsu nói về tất cả mọi người, kể cả những người mà các thầy tư tế khinh khi. Thiên Chúa không nghỉ gì đến giai cấp trong xã hội hoặc màu sắc các dân tộc để Ngài ban cho ân sũng. Tất cả những ai có đức tin điều được Thiên Chúa để ý đến lời cầu xin của họ.
Trở lại câu hỏi tôi nêu ở trên. Nếu có ai gỏ cửa Chúa Giêsu thì Ngài có biết người đó là ai trước khi mở cửa không? Nếu chúng ta nhấn mạnh về Thiên tính của Chúa Giêsu thì câu trả lời của chúng ta sẽ là "lẽ cố nhiên là có". Nhưng trong những năm gần đây chúng ta bắt đầu hiểu thêm về nhân tính của Chúa Giêsu qua những dịp học hỏi kinh thánh. Theo thư thánh Phao lô nói: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế." (Phi.2:6-7). Trong thư Do Thái thánh Phao lô lại viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt. 4:15). Rồi thánh Phao lô lại viết thêm: "Chúa Giêsu phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt. 5:8). Và thánh Luca cho chúng ta biết là sau khi Chúa Giêsu gặp lại Đức Mẹ và thánh Giuse ở đền thờ, nơi Ngài giảng: "Sau đó Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài".(Lc.2:51-52) Theo những lời kinh thánh đó chúng ta thấy được Chúa Giêsu, sinh hoạt như mọi người trần, Ngài không vào thế giới chúng ta với tất cả mọi hiểu biết, nhưng Ngài cũng "ngày càng khôn lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta"(Lc.2:52)
Theo những yếu tố vừa nêu chúng ta có thể nghĩ rằng khi Chúa Giêsu gặp người đàn bà Canaan và nghe lời kêu xin của bà, Ngài nói ngay ý nghĩ của Ngài là phải giảng dạy cho "các chiên lạc của Israel trước đã". Nhưng sau khi Chúa Giêsu thấy đức tin của người đàn bà ấy quá mạnh, nhất là sau khi bà ta bị các thầy tư tế xua đuổi, Ngài liền thay đổi ý về nhiệm vụ của Ngài.
Người đàn bà Canaan là dấu chỉ rõ rệt về việc cứu độ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu là cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, không phải chỉ cho người Do Thái mà thôi. Hôm nay Chúa Giêsu gặp gở người đàn bà Canaan cho chúng ta thấy sự thay đổi trong ý thức nhân tính của Ngài, và theo nhân tính ấy Ngài hiểu thêm ý định của Thiên Chúa đối với loài người. Sự thay đổi đó xảy ra như thế nào? Đó chính là sự kêu xin liên lỉ của người đàn bà Canaan, và bà ta nhất định không lùi bước trước ý định nhỏ hẹp của Thiên Chúa. Bà ta nhận định rằng nguồn gốc dân tộc hay tôn giáo không thể ngăn chặn lòng thương xót loài người của Thiên Chúa. Nếu chúng ta trình bày một Thiên Chúa hẹp lượng và lòng thương có giới hạn thì rỏ ràng chúng ta không nghe hiểu gì về phúc âm cả.
Như thế chúng ta có hai cách tìm hiểu phúc âm hôm nay. Một là: Nhấn mạnh về Thiên tính của Chúa Giêsu qua cách đối xử của Ngài, và yếu tố Thiên Chúa của Ngài trong việc là Đấng hiểu biết mọi sự. Dựa vào đó Ngài thấy đức tin của người đàn bà ngoại đạo là một dạng đức tin sẽ được rao giảng "khắp cùng trái đất". Hai là: nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu trong việc gặp gỡ người đàn bà Canaan giúp Ngài hiểu thêm việc phục vụ của Ngài là cho tất cả các dân tộc.
Giáo hội thời xưa, cũng như giáo hội thời nay, đã tranh chấp về tin mừng riêng biệt như trong phúc âm hôm nay. Ngay sau khi Chúa Kitô sống lại, có giáo hội nghĩ rằng tin mừng Chúa Giêsu chỉ dành riêng cho dân Israel. Mặc dù phúc âm thánh Matthêu kết thúc với tin mừng Chúa Giêsu sống lại cần được rao giảng cho toàn thế giới: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ"(Mat 28:18-19).
Thiên Chúa đã dạy trong lời rao giảng của Chúa Giêsu về sự tha thứ và sự hòa giải. Chúng ta không tự hưởng được ơn tha thứ và hòa giải đó. Chúng ta được hưởng là nhờ sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, và chúng ta đã chấp nhận lời mời gọi đến bàn tiệc thánh mà Thiên Chúa đã hiến mình cho chúng ta. Hôm nay chúng ta họp nhau nơi bàn tiệc thánh để cùng nghe lời Chúa Giêsu sống lại bảo chúng ta là rao giảng tin mừng cho tất cả các dân tộc.
Có những ai hay những nhóm người có cùng liên kết với các bạn hữu và các thành viên trong nhà thờ của chúng ta không? Có những ai bị bỏ quên không? Ai là những người đứng hạng đầu? Và ai là những người đứng hạng thấp không đáng chúng ta để ý đến? Nói cách khác, ai là những người Canaan trong đời chúng ta mà chúng ta khi dễ hay bỏ rơi họ? Chúa Giêsu nghe lời kêu xin của người đàn bà Canaan và Ngài chấp nhận bà ta. Vậy hằng ngày tôi có lắng nghe những lời kêu xin tới giúp đỡ người khác không? Chúng ta hảy cố gắng đáp lại lời mời gọi của phúc âm để giúp những người khác như chúng ta đã được kẻ khác giúp chúng ta. Cũng như Thiên Chúa đã nghe và đáp lại lời kêu xin của chúng ta, do vậy chúng ta nên lắng nghe và đáp lại lời kêu xin của kẻ khác khi họ cần đến chúng ta giúp đỡ.
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi mình là Dân Riêng của Thiên Chúa cùng coi Dân Ngoại là những người tội lỗi và nhơ bẩn nên gọi họ bằng những tên khinh miệt, mà trong đó “con chó” là một tên thông dụng nhất. Ngày nay nhiều người Hồi Giáo cũng dùng tên “con chó” để gọi các Kitô hữu. Một số người Công Giáo Việt Nam cũng có thái độ coi thường lương dân chẳng khác gì người Do Thái thời đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng từ “con chó” để ám chỉ dân Canaan. Không phải vì Chúa kinh thường người phụ nữ Canaan mà để thử đức tin của bà, và để cho người Do Thái đương thời của Người thấy rằng đức tin của họ còn yếu kém hơn đức tin của một “con chó.” Nhưng có lẽ Chúa còn một ngụ ý khác là dạy cho chúng ta bài học về “đức tin của con chó.”
Trong chương trình Cứu Độ của Ngài, Thiên Chúa đã gọi ông Abraham làm tổ phụ của nhiều dân tộc (x. Rom 4:17-16). Trong con cháu ông Abraham, Ngài chọn dân Israel làm nghĩa tử để thiết lập một vương quốc riêng theo giao ước (x. Đnl 7:6-8; Is 41:8). Ngài gọi họ là con đầu lòng (x. Xh 4:22) trong gia đình của Ngài trên thế gian, là một gia đình bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Kitô như người phụ nữ Canaan tuyên xưng hôm nay (Rom 4:13-25). Đức Kitô đến thế gian làm người Do Thái trước hết để khôi phục vương quốc cho dân Israel (x. Cv 1:6-7), nên Người đã rao giảng Nước Trời cho dân Do Thái trước (Mt 10:6; 15:24), và các Tông Đồ cũng làm thế (Cv 13:46). Nhưng sứ vụ tối hậu của Người là giao hòa thế gian với Thiên Chúa (Rom 11:15). Đó là lý do tại sao Dân Ngoại mới thật sự là mục tiêu của công trình cứu độ.
Tất cả chúng ta đều là gốc Dân Ngoại mà ngôn sứ Isaia nói đến trong Bài Đọc I hôm nay. Chúng ta nghe lời mời gọi của Chúa đến để thờ kính Thiên Chúa của dân Israel. Như người phụ nữ Canaan hôm nay, chúng ta cũng đi theo Chúa và kêu lên: “Lạy Con Vua Đavid, xin thương đến con con.” Người phụ nữ này đã bày tỏ một đức tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, và tin rằng Người là Đấng Kitô, còn dân Israel thì lại chối bỏ Người như Thánh Phaolô nói trong Bài Đọc II.
Chúa thử đức tin của bà ba lần. Lần thứ nhất Người làm như không nghe thấy tiếng kêu vàn của bà. Lần thứ nhì Người bảo rằng Người “chỉ được sai đến với những chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (Mt 15:24), và lần thứ ba Người trả lời bà, “Không nên lấy bánh của con cái mà quẳng cho chó” (Mt 15:26). Nhưng bà đã nhất định nài van Người vì tin rằng chỉ một mình Người là có quyền phép để trừ quỷ cho con bà mà thôi. Thay vì tự ái vì bị gọi là “chó” bà lại hạ mình xuống nhận mình là “chó” và xin Chúa ít ra là vất cho bà chút đồ thừa: “Lạy Chúa, đúng vậy, nhưng chó cũng được ăn những mẩu bánh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15:27). Và sau cùng bà đã được toại nguyện.
Thực ra Chúa gọi bà là “con chó” cũng chẳng oan uổng gì cho bà là mấy. Vì có bao nhiêu người đối xử với Chúa được như “con chó” đối với chủ nó. “Con chó” là con vật trung thành nhất trong các loài vật. Một khi đã làm tôi một ai thì nó nhất lòng yêu mến, trung thành và ngoan ngoãn vâng lời người ấy. Thấy chủ về là nhảy lên vẫy đuôi mừng rỡ. Khi thấy chủ gặp nguy hiểm thì liều thân bảo vệ dù có phải chết cũng đành. Chủ bảo gì cũng cúi đầu làm, cho gì cũng ăn và không bao giờ than phiền cả. Sở dĩ con chó làm thế vì nó tuyệt đối tin tưởng và yêu mến chủ nó.
Vì yêu thương Thiên Chúa đã cho chúng ta thành con cái Ngài. Sự liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa còn hơn một “con chó” đối với chủ. Dù chủ và chó có thương yêu nhau thế nào đi nữa thì chủ vẫn là chủ và chó vẫn là chó. Còn Thiên Chúa thì khác. Ngài yêu chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Người thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3:16). Chúa Giêsu đã xuống thế làm người để cho chúng ta “không còn phải là tôi tớ nữa, nhưng là con, mà nếu là con thì cũng là người thừa tự nhờ ơn Thiên Chúa” (Gal 4:7). Như thế đối với Thiên Chúa chúng ta còn hơn một “con chó” đối với chủ rất nhiều. Giờ đây nhờ đức tin vào Con Thiên Chúa, chúng ta được cùng người phụ nữ Canaan trở thành con cái trong Nước Chúa như dân Israel, và được thừa hưởng cùng một gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ.
Nhưng tôi có thật sự đối xử với Thiên Chúa như một con thảo chưa? Chắc chắn là tôi chưa làm được điều đó!
Chẳng lẽ tôi lại không đối xử với Ngài bằng một “con chó” đối với chủ nó sao? Phải thành thật mà thú nhận rằng tôi cũng chưa yêu mến, vâng phục và tin tưởng vào Thiên Chúa như một “con chó” yêu mến, vâng lời và tin tưởng hoàn toàn vào chủ nó! “Con chó” thấy chủ đi vắng thì luôn ngong ngóng mong chờ, gặp chủ thì vẫy đuôi mừng rỡ. Còn tôi, một ngày nghĩ đến Chúa được mấy lần? Mỗi tuần phải miễn cưỡng đến nhà thờ một lần, mà thân xác thì ở đó còn lòng trí thì toan tính những chuyện đâu đâu. “Con chó” tin tưởng tuyệt đối vào chủ, còn tôi thì còn quá yếu tin. “Con chó” liều thân cho chủ, còn tôi thì hổ thẹn khi nhận mình là Công Giáo. Chủ vất cho cái gì thì “con chó” cũng ăn và nhớ ơn, còn tôi thì đòi hỏi đủ thứ và vô ơn.…. Còn bào nhiêu chuyện khác, càng nghĩ thì càng thấy hổ thẹn vì tôi đã đối xử với Thiên Chúa thua xa “con chó” với chủ minh!
Ôi khốn nạn cho con vì con chưa biết tin tưởng và yêu mến Chúa bằng một con chó! Lạy Chúa xin thương xót con. Xin ban ơn cho con để ít ra là con có thể yêu Chúa, vâng nghe Lời Chúa, trung thành với Chúa và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa như một con chó đối với chủ mình. Amen.
Hôm nay chúng ta mừng đại lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác. Ngày lễ của niềm vui và đầy hy vọng cho chúng ta đang lữ hành vì sự vinh hiển và ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho Mẹ. Chiêm ngắm Mẹ được vinh quang, chúng ta suy ngắm tương quan giữa chúng ta với Đức Maria trong hai từ MẪU: Mẹ vừa là Hiền Mẫu và Mẹ vừa là Mẫu gương.
1. Trước hết, Mẹ là Hiền Mẫu:
Khi nói tới Hiền Mẫu là nói tới identité (căn tính) của Mẹ. Mẹ là người Mẹ hiền. Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu Kitô và vì Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hai bản tính hiệp nhất trong một ngôi vị nên Giáo Hội cũng gọi Mẹ là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa. Đây là một tín điều được đính tín bởi công đồng chung Ephêsô. Nhờ Mẹ chúng ta có Đấng cứu độ là Đức Kitô, nhờ Mẹ chúng ta được cứu độ. Chính vì vậy mà Mẹ được gọi là Đấng đồng công cứu chuộc.
Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội, đó là sự sắp xếp kì diệu của Thiên Chúa. Trước khi Chúa Giêsu tắt thở dưới chân thập ngài đã lối Đức Mẹ lại cho Thánh Gioan đại diện cho giáo hội: “Mày là Mẹ con”: Mater ecclesiae. Mẹ của giáo hội, là Mẹ của mỗi người chúng ta, bởi sự liên hệ chặt chẽ giữa Đức Kitô và Giáo Hội như Đầu và Thân thể. Trong lòng Giáo Hội, Đức Kitô là anh cả giữa một đàn em đông đức là chúng ta. Mẹ Maria là Mẹ của hết mọi người và yêu thương hết mọi người chúng ta. Lịch sử của Giáo Hội chứng minh điều đó rất rõ ràng, những lúc Giáo Hội bị bách hại hay rơi vào khủng hoảng thì Đức Mẹ luôn hiện diện bên cạnh để nâng đỡ chở che, đặc biệt là Mẹ đã hiện ra ở Fatima, Lộ Đức, La Vang vvv.. Tất cả những cuộc hiện ra điều nói lên tình Mẹ thật là dạt dào đối với con cái loài người.
2. Mẹ là Mẫu Gương
Trong văn hóa Việt nam khi nói tới một người phụ nữ lí tưởng thì phải hội đủ bốn đức tính tốt: Công Dung Ngôn Hạnh. Ta gọi đó là tứ đức: Đức Mẹ là mẫu người lý tưởng đó mà chúng ta noi gương:
Công: khéo léo trong việc làm, cả đời Mẹ là chăm chỉ làm việc và phục vụ.
Dung: hòa nhã trong sắc diện. Mẹ là người đẹp về tâm hồn cả về thể xác.
Ngôn: mềm mại trong lời nói. Mẹ ít nói và chỉ nói những lời hay ý đẹp như lời Fiat và bài Magnificat.
Hạnh: nhu mì trong tính nết: Mẹ sống khiêm tốn, đơn sơ và thanh bạc. Cả đời Mẹ là một tiếng xin vâng liên lĩ với Thiên Chúa.
Ave Maria!
Mẹ đẹp dung quang mờ nhật nguyệt.
Mẹ hiền hương đức ngát trời mây!
Mẹ quyền phép cao sang,
Con phàm hèn cát bụi.
Mẹ trong trắng vẹn tuyền,
Con bùn nhơ tội lỗi…
Ave Maria!
Mẹ là quỳnh giao vườn thượng uyển,
Con là lê thứ dám gần xa?
Nhưng Mẹ cũng là hoa cà hoa cải,
Vui mắt bầy mục tử rộn đồng quê.
Mẹ như hương cau quyện lòng người lữ thứ,
Bước đường xa ước hẹn ngày về. (Nguyễn Khắc Dương)
Mừng Lễ Mẹ lên trời, chúng ta một lần nữa đón nhận Mẹ vừa là hiền mẫu vừa mẫu gương cho mỗi người kitô hữu, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, yêu mến Mẹ, học nơi Mẹ. Và xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa “khi nầy và trong giờ lâm tử, Amen”.
Cali, 14.08.2008
Lời hứa ngắn nhất lại là lời hứa khó thực hiện nhất.
Mẹ hứa vỏn vẹn hai chữ xin vâng. Mẹ không nhìn thấy Thiên Chúa và không trực tiếp hứa với Thiên Chúa nhưng hứa qua đại diện của Chúa là Thiên Sứ của Thiên Chúa.
‘Vâng, tôi đây là nữ tì của Thiên Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’ Lk 1,38
Mẹ thực hiện lời hứa, trung thành thực hiện điều đã hứa không phải chỉ một thời gian mà trung thành giữ lời hứa trọn đời, trung thành từng phút giây, trung thành cho đến trọn đời.
Vinh dự của Mẹ không phải là được chọn làm mẹ Thiên Chúa. Vinh dự của Mẹ là được chọn làm ‘nữ tì của Thiên Chúa’. Trở thành nữ tì của Chúa là một vinh dự cao sang. Bà Elizabeth giải thích người được chọn làm nữ tì Thiên Chúa là người
‘thật có phúc vì đã tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em’ Lk 1,45
Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa do lòng tin. Thiên Chúa tin tưởng nơi Mẹ và Mẹ đặt trọn vẹn niềm tin vào Thiên Chúa. Dù xin vâng để làm mẹ Thiên Chúa Mẹ vẫn khiêm nhường nhận mình chỉ là nữ tì của Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất vui mừng vì có một tạo vật tuyệt đối trung thành thực hiện điều đã hứa. Sự trung thành của Mẹ làm cho ma quỉ run sợ, lo lắng vì qua Mẹ chương trình cứu độ của Chúa được thực hiện do tạo vật Ngài dựng nên.
Ngoài trung thành ra Mẹ còn có một đức tính khiêm nhu trọn hảo. Dù biết mình là Mẹ Thiên Chúa nhưng Mẹ luôn khiêm nhu, không tự cao tự đại; trái lại Mẹ mang trong tâm hồn một tâm tình tạ ơn qua kinh Tạ Ơn
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa
Và thần trí tôi hớn hở mừng vui
Vì Chúa đã thương đến phận hèn tôi tá Chúa
Từ này muôn đời sẽ khen tôi có phúc
Vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại. Lk 1,46-48
Các bạn trẻ WYD08 cầu nguyện trước ảnh Mẹ trong nhà thờ chính tòa St Mary Sydney |
Mẹ nhìn nhận Mẹ là người có phúc không phải do tài riêng, sức riêng mà là do ơn Chúa ban. Nhận ơn Chúa ban nên Mẹ luôn dùng ơn Chúa ban để thi ơn cho nhân loại, để mang bình an, hạnh phúc lại cho những ai Mẹ gặp trong đời và khi về trời Mẹ không giữ ơn Chúa cho riêng mình nhưng phân phát, chia sẻ ơn nhận được từ Chúa cho những ai chạy đến cùng Mẹ.
Chúng ta cũng nhận ơn Chúa rất nhiều, bằng nhiều cách khác nhau, ở các lứa tuổi khác nhau. Xử dụng ơn Chúa cho đúng là điều cần thiết nếu không cẩn thận thay vì làm ích cho xã hội con người lại dùng ơn đó làm hại xã hội.
Hãy xử dụng ơn Chúa trong tâm tình tạ ơn như Mẹ. Nếu không mang trong lòng tâm tình tạ ơn việc nảy sinh tính kiêu ngạo là điều không thể tránh. Con người rất dễ rơi vào tình trạng tự cao, tự đại cho mình tài trí hơn người từ đó nảy ra những ý tưởng chống lại hay coi thường ơn Chúa ban.
Trên phương diện rộng lớn tầm mức quốc gia hay quốc tế một số người nhờ vào tài trí Chúa ban mà thành đạt, được nhiều người cổ võ, ủng hộ tự tạo ra một tôn giáo mới. Một cách nào đó họ tự xưng là chúa cho kẻ khác tôn thờ. Số khác nhờ tài trí, vào sáng kiến khoa học hay nghiên cứu chuyên môn chối bỏ sự hiện hữu của Chúa trong lịch sử sáng tạo vũ trụ. Đã chối bỏ Chúa còn khuyến khích, bài bác hay khuyên dụ người khác vào phe họ để cùng lên tiếng chối bỏ Chúa. Chính họ tự thú kiến thức hiểu biết về vũ trụ của họ hạn hẹp, chỉ hiểu một phần rất nhỏ của vũ trụ lại mạnh dạn chối bỏ Đấng Tạo Dựng vũ trụ. Một lập luận hết sức nghịch lí như thế vẫn có kẻ hùa theo hỗ trợ. Nếu chỉ hiểu một phần rất nhỏ trong thái dương hệ thì mọi phán đoán, dự đoán, tuyên bô về nguồn gốc của vũ trụ cũng rất hạn hẹp. Người có lòng khiêm nhường sẽ tự nhận là không đủ kiến thức để đưa ra lời tuyên bố về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Số khác dùng tài năng Chúa ban chế vũ khí giết người, gây chiến tranh. Số khác dùng tài năng Chúa ban trở thành độc tài.
Trên phương diện xã hội người có tài cán về tổ chức xã hội, về kinh tế không khéo sẽ dẫn đến tình trạng gian tham, đè nén, chèn ép, bóc lột, đầu cơ, tích trữ. Một hình thức lạm dụng ơn Chúa tạo nên bất công, đói khát mà kẻ chịu nhiều thiệt thòi nhất là giới lao động, nghèo đói, thất học.
Mang lại bình an, cơm no áo ấm, giáo dục tốt đẹp cho mọi thành viên trong gia đình cũng là điều đáng ca ngợi. Làm như thế là xử dụng ơn Chúa một cách tốt đẹp. Tất cả mọi hình thức bạo động, nghiện ngập và ngay cả bê trễ bổn phận với các thành viên trong gia đình là lạm dụng ơn Chúa ban.
Vô ơn
Căn nguyên cội rễ gây nên bởi thiếu tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Một tâm hồn mang tâm tình tạ ơn luôn đặt Thiên Chúa lên trên mọi quyết định, mọi phán đoán trong cuộc sống. Lúc nào cũng ý thức Chúa ban ơn cho ta để ta giúp người khác nhận biết Thiên Chúa. Chúa ban ơn cho ta chính là mời gọi ta trợ giúp Ngài gieo rắc tình thương, công bằng, bác ái.
Đây chính là tâm tình của Mẹ Maria. Suốt đời Mẹ luôn mang tâm tình tạ ơn, dù hiểu hay không hiểu Mẹ cũng một lòng cậy trông và tạ ơn.
Ơn phúc cả
Không phải mọi người nhận ơn Chúa đều làm đẹp lòng Chúa.
Có người nhận ơn Chúa làm phiền lòng Chúa.
Có người nhận ơn Chúa để chối bỏ Thiên Chúa hiện hữu.
Có người nhận ơn Chúa để đả kích, phỉ báng, đóng đinh Chúa.
Có người nhận ơn Chúa để làm hại đồng loại.
Như thế nhận ơn Chúa không làm cho ta trở nên tốt lành mà chính là cách dùng ơn Chúa mới làm cho ta nên tốt lành. Nhận ơn Chúa là bước đầu của ơn phúc. Chúa ban ơn, Ngài để ta tự do xử dụng ơn Chúa ban. Làm lành hay gây họa do ta chọn lựa. Hạnh phúc cho những ai biết xử dụng ơn Chúa với tâm tình tạ ơn. Chính cách dùng ơn Chúa với tâm tình tạ ơn giúp ta trở nên người tốt. Xử dụng ơn Chúa cách xứng đáng giúp cho người khác nhận ra Thiên Chúa trong ta.
Phúc âm thuật lại chuyện có người khen Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã cưu mang Đấng Cứu Thế.
Phúc thay dạ nào đã mang thai và vú nào đã cho bú. Đức Kitô đáp lại. Những ai nghe và giữ Lời Chúa còn có phúc hơn Lk 11,27.
Ý nghĩa câu trên đặt trọng tâm vào việc nghe và thực hành lời Chúa. Mẹ Maria đã làm trọn lành điều Chúa nói. Mẹ nghe và giữ kĩ những lời đó để suy gẫm trong lòng. Chính việc nghe, suy nghĩ trong lòng giúp Mẹ sống một đời tạ ơn Thiên Chúa.
Trong ngày lễ mừng Đức Mẹ Lên Trời xác hồn chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe và giữ lời Chúa, biết dùng ơn Chúa ban trong tâm tình khiêm hạ và lòng biết ơn.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
N2T |
Phật Đà nói:
“Đất này là của ta, tụi con nít này là của ta.”
Đó đều là lời nói của người ngu đần. Người nói lời này chưa hiểu rõ ràng, thì ngay cả bản thân họ cũng không phải là của họ.
(Trích: Bài ca của loài ếch, phần tu đức)
Suy tư:
Trên con người chúng ta, không có gì là của mình cả, này nhé: thân thể của chúng ta đều bởi bùn đất mà có, cho nên sẽ có ngày trở về với cát bụi; áo quần anh mặc thì chỉ một vài tháng thì phải bỏ đi hoặc đem cho người khác; cơm gạo chúng ta ăn đều do người nông dân làm ra, không phải của mình, nên phải vất vả đi mua mà ăn; mà cái quan trọng nhất là mạng sống của chúng ta cũng không phải là của chính mình, nó là của Thiên Chúa ban cho, rồi sẽ có một ngày Ngài lấy lại...
Chúng ta chỉ có cái duy nhất của mình là có thể làm điều lành và cũng có thể làm điều ác. Đó chính là cái tôi vậy.
Ai hiểu được thì hiểu...
(Chỉ cần sống là có cơ hội)
Cuối cùng tôi đã hiểu, với người bạn thân nhất thì có thể làm bất cứ việc gì, hoặc không làm gì cả, mà vẫn hưởng thụ được cuộc sống rất đẹp.
Cuối cùng tôi đã hiểu, có lúc tôi cho rằng sẽ mất đi ý chí lớn nhất khi người khác dùng chân đạp tôi, nhưng thực ra chính người ấy giúp tôi đứng lên làm lại từ đầu.
Cuối cùng tôi đã hiểu, tình hữu nghị chân thực sẽ trưởng thành cách đặc biệt, dù cho cách ly ngàn dặm. Tình yêu chân thực là thế đó.
Cuối cùng tôi đã hiểu, có một vài người không làm theo cách kỳ vọng của tôi để yêu thương tôi, và hoàn toàn không bày tỏ họ hết lòng yêu thương tôi.
Cuối cùng tôi đã hiểu, cái gọi là thành thục so với cái anh từng trải thì nó thuộc loại nào, và từ trong ấy có liên quan gì đến điều anh học được, mà so sánh với kết quả niềm vui của anh, thì có bao nhiêu ngày không liên quan gì đến ngày sinh.
Cuối cùng tôi đã hiểu, tuyệt đối tôi không thể nói với một em bé rằng ước mơ của em là không thể được hoặc kì dị, không có gì làm nhục người hơn là chuyện đó. Hơn nữa, nếu chúng nó tin tưởng tôi, thì kết cục bi thảm càng cao hơn.
Cuối cùng tôi đã hiểu, dù cho một người bạn có nhiều cái tốt, thì cũng có một vài lúc họ sẽ làm tổn thương tôi, và tôi vì chuyện ấy mà tha thứ cho họ.
Cuối cùng tôi đã hiểu, được người khác tha thứ thì không nhất định đầy đủ, có lúc tôi cũng phải học tha thứ cho người khác nữa.
----------------------------------------------------------
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Sưu tầm từ tiếng Hoa.
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
39. Cầu nguyện chính là bạn tâm giao chuyện trò thân mật với Thiên Chúa.
(Thánh Nicetas of Constantinople)“Live is Live or Live is not Live?”
Olympia Peking - Trình diễn bắn pháo bông tại Olympia 2008 thật tuyệt vời và gây ấn tượng cho khoảng 4 tỉ người xem truyền hình trực tiếp. Câu hỏi đã được đặt ra sau đó: Đúng là „LIVE“ trực tiếp từ Peking không?
Danh từ LIVE được chú dịch chính xác là truyền đi trực tiếp qua kỹ thuật truyền thanh, truyền hình và dựa trên thời gian giống nhau mặc dù không gian xa cách. LIVE đã được thế giới hóa trong thể thao và nghệ thuật để làm cho cảm giác khán giả như đang hiện diện ở tại nơi trình diễn hoặc nơi thi đấu. Ở Đức từ ngày 22/3/1935 đã được phát hình trực tiếp LIVE đầu tiên trên thế giới qua chương trình truyền hình của Paul Nipkow tại thành phố Berlin.
Qua nghệ thuật âm nhạc thường được gây bằng ấn tượng LIVE, nhưng nhiều nhà nghệ thuật chỉ nhép miệng cho chính giọng hát của mình đã thu sẵn rất hoàn hảo vào đĩa nhạc. Việc hát nhép miệng cho chính giọng hát của mình thường làm cho giới khán giả rất khó chịu huống gì mình đi hát nhép giọng của người khác. Nhưng việc này đang xảy ra tại Olympia 2008 do cộng sản Tàu đạo diễn.
Em bé Lin Miaoke, 9 tuổi trong chiếc váy đỏ vô cùng dễ thương đã có rất nhiều người hâm mộ khi em cất giọng hát vang bài „Bài ca tổ quốc“ lúc cờ đỏ Trung cộng được đưa vào sân vận động „Tổ Chim Bắc Kinh“ trong ngày khai mạc Olympia Peking 2008. Bé Lin liền được báo chí âu yếm đặt biệt danh "thiên thần mỉm cười" và sau đó hình ảnh của bé xuất hiện trên vô số trang báo và các kênh truyền hình thế giới.
Người hâm mộ bé Lin Miaoke chưa hết cảm giác ngây ngất về đứa trẻ tài danh thì vào ngày 13/8/2008 báo chí thế giới khui ra tính chất lừa đảo của cộng sản Tàu là giọng ca trong trẻo thể hiện ca khúc „Bài ca tổ quốc“ không phải của cô bé 9 tuổi Lin Miaoke.
Việc nói ra nơi đây không phải LIVE chính giọng ca của bé Lin mà là của một cháu bé Yang Peiyi, 7 tuổi. Bé Lin Miaoke chỉ có duy nhất thi hành một „nhiệm vụ lừa đảo“ là cười tươi và hát nhép theo giọng ca đã được thu âm sẵn có của bé Yang Peiyi.
Lý do cộng sản Tàu phải lừa đảo thế giới vì bé Yang Peiyi có giọng hát tuyệt vời nhưng ngoại hình quá xấu xí trước các con mắt người cộng sản. Em mang gương mặt bầu bĩnh và hàm răng không đều đặn của em.
Trong các cuộc tập dợt bé Yang Peiyi luôn luôn có mặt để hát, tuy nhiên đối với các cán bộ cộng sản trung ương Tàu nhìn bé Yang không dễ thương và cuối cùng họ muốn thay bé Lin vào vai trò „lừa đảo“ này. Ai ra lệnh cho quyết định lừa đảo vẫn còn là điều bí mật quốc gia. Báo chí có thể phỏng đoán Liu Qi, chủ tịch Thế Vận Hội quốc gia hoặc là Xi Jinping, người đang được chủ tịch Hu Jintao sủng ái. Xi là nhân vật tối cao của đảng cộng sản Tàu để kiểm soát toàn diện Olympia 2008.
Chen Qigang, giám đốc âm nhạc của đài truyền hình CCTV giải thích: "Tôi nghĩ đó là cách làm hợp lý nhất, có thể đem đến cho người xem một hình ảnh đẹp, một thần sắc và một giọng ca hoàn hảo" (Sic!).
Chen nói thêm: "Chúng tôi có nhiệm vụ giới thiệu đất nước trước khán giả thế giới, hình ảnh em bé hát tại Olympia phải chuyển tải được vẻ tươi mới đầy sức sống của một đất nước trên đà phát triển." Ông ta bồi thêm theo giọng điệu tuyên truyền cộng sản: "Tất cả chỉ vì lợi ích tổ quốc".
Qua các nguồn tin từ Tàu nhiều người đã lên mạng Internet công khai phản đối hành động lừa đảo của các quan chức cộng sản. Trong các Blooger tiếng Tàu có thể đọc được: „Đây là một điều sỉ nhục cho người nghệ sĩ tí hon Yang Peiyi chân chính đã là tác giả hát lên bài hát và cho tất cả thế giới đã nghe bài hát này.“ Có đoạn khác phê bình: „Người lớn dối trá và lừa đảo, nhưng hãy để trẻ nhỏ ra bên ngoài vòng tỏa này“.
Báo chí ngoại quốc càng phanh phui ra thêm là bản văn hát đã được âm thầm thay đổi, thay vì người Tàu vẫn hát quốc ca để tôn sùng Mao chủ tịch bằng câu: „Bác Mao hướng dẫn chúng ta con đường đi tới“ thì trong ngày khai mạc không được nghe câu hát này. Và hai câu trong bài hát đã được cắt bỏ thêm: „Chúng ta yêu chuộng hòa bình, chúng ta yêu tổ quốc. Nhưng người nào chống lại hòa bình quốc gia, chúng ta sẽ giết chết họ“.
Cộng sản Tàu luôn trơ mặt dối trá thế giới và tìm đủ mọi cách đánh bóng chế độ. Vào năm 2001 khi Tổng Cục Thế Vận thế giới quyết định trao việc đăng cai Olympia 2008 thì tại nước Tàu, bộ trung ương ra lệnh cho công nhân treo trên các cành cây ngoài đường phố những lá cây giả bằng nylông và trên các bãi cỏ đen cháy được sơn lên màu xanh tươi thắm.
Và cách đây chỉ có mấy ngày báo chí thế giới lại khám phá ra trong ngày khai mạc Olympia 2008 hình ảnh "29 bước chân Olympia" được xử lý kỹ xảo computer rất công phu, các kỹ thuật viên còn tạo thêm cả độ rung và màn mờ sương để người xem có cảm giác các hình ảnh được „quay thật“ từ máy bay trực thăng phía trên cao sân vận động.
Wang Wei, phó chủ tịch Olympia 2008 ngạo nghễ cho biết: "Chỉ sau khi lễ khai mạc được bắt đầu vài giây, chúng tôi đã cho truyền hình đoạn DVD đã ghi sẵn hình ảnh các màn bắn pháo bông được quét ngang từ Nam sang Bắc trên bầu trời Bắc Kinh. Nó hoàn toàn khác với hình ảnh mà các khán giả hiện diện tại lễ khai mạc được xem thấy.
Cuối cùng cộng sản Tàu phải „thú nhận sự lừa đảo“ về việc bắn pháo bông trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 12/8/2008 trước những vặn hỏi của giới truyền thông quốc tế, Wei đấm ngực thú tội: "Thực tế, cũng có những màn bắn pháo bông LIVE thật tại lễ khai mạc, nhưng hình ảnh quá nghèo nàn, nên chúng tôi phải kết hợp cả những hình ảnh xảo thuật vi tính được ghi hình từ trước đó.“
“Live is Live or Live is not Live?”
Sau 5 ngày giao tranh khiến cho 2000 người chết và hơn 100.000 người tị nạn, hôm 12-8-2008 Liên Bang Nga và Gerogia đã quyết định ngưng chiến và chấp nhận chương trình hòa bình do tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, Chủ tịch theo lượt của Liên Hiệp Âu châu, đề nghị.
Tổng thống Sarkozy và ngoại trưởng Bernard Krouchner đã lần lượt hội kiến với tổng thống Dimitrij Medvedev và với tổng thống Mikheil Saakashvili để trình bầy chương trình hòa bình này. Chương trình gồm 6 điểm sau đây: thứ nhất không dùng sức mạnh; thứ hai chấm dứt tức khắc mọi thù nghịch; thứ ba để cho các tổ chức bác ái nhân đạo tự do cứu trợ các nạn nhân và người tị nạn; thứ bốn binh sĩ Georgia rút lui về các vị trị cũ, tức về các trại binh; thứ năm rút quân đội Nga về các vị trí trước khi xảy ra xung khắc: để thành lập các cơ cấu quốc tế, các lực lượng xem kẽ Nga đưa ra các biện pháp an ninh bổ túc; thứ sáu cộng đồng quốc tế bắt đầu thảo luận về quy chế của miền Nam Ossezia và Abkhazia cũng như các phương tiện giúp bảo đảm sự ổn định và an ninh cho vùng này.
Mgoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố là các lực lượng Matscơva sẽ chỉ rút lui khỏi lãnh thổ Georgia sau khi các toán quân của Tbilisi trở về các trại quân của họ. Phía bên kia tổng thống Mikheil Saakashvili cho rằng binh sĩ Nga đã vi phạm thỏa hiệp ngưng bắn, và vẫn tiếp tục bỏ bom nhiều vùng.
Các tranh chấp trong vùng này đã xảy ra hồi thập niên 1990 khi vùng nam Ossezia muốn tách rời khỏi Georgia, nổi lên đòi độc lập và hiệp nhất với vùng Bắc Ossezia thuộc Liên Bang Nga. Các xung đột đã khiến cho chính quyền Matscơva gửi quân sang trấn đóng tại miền Nam Ossezia. Hồi năm 2006 tổng thống Georgia đề nghị dành nhiều quyền tự tri hơn cho Ossezia, nhưng tổng thổng Ossezia nhất quyết đòi độc lập. Thế là chiến cuộc bùng nổ.
Ngày mùng 7-8-2008 hai bên đồng ý chấp nhận một trung gian giảng hòa. Nhưng lập tức chính quyền Tbilisi ra lệnh tấn công thủ đô Tskhinvali của Ossezia. Hôm sau đó Nga gửi hàng trăm xe tăng và quân đội sang Nam Ossezia.
Các máy bay của Nga bỏ bom các căn cứ quân sự của Georgia. Chính quyền Georgia ra lệnh rút 1000 quân ra khỏi Irak để về bảo vệ quốc gia. Ngày mùng 9 Georgia tuyên bố tình hình chiến tranh. Nga bỏ bom thành phố cảng Poti trên Biển Đen và thành phố Gori. Các lực lượng Abkhazia chủ trương tách rời khỏi Georgia tấn công các đồn binh Georgia trong vùng chiến thuật Gola Kodori. Ngày mùng 10 quân đội Nga kiểm soát thủ đô Tskhinvali trong khi binh sĩ Georgia rút lui về thủ đô Tbilisi. Ngày 11 các lực lượng Nga tiến vào Abkhazia, trong khi các máy bay oanh tạc bỏ bom càc vùng phụ cận của thủ đô Tbilisi. Liên Hiệp Âu châu thất bại trong việc làm trung gian cho một cuộc ngưng chiến, vì Matscơva từ chối ngưng tấn công. Ngày 12 tổng thống Medvedev ra lệnh ngưng chiến và gặp tổng thống Sarkozy để cùng nhau thảo luận chương trình hòa bình. Chương trình này sau đó được trình bầy với chính quyền Georgia và được chấp thuận. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn có rất nhiều căng thẳng trên toàn nước Georgia, và tình trạng của người tị nạn rất là thê thảm.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Tổng Giám Mục Claudio Gugerotti, Sứ Thần Tòa Thánh tại Georgia, và Đức Tổng Giám Mục Antonio Mennini, đại diện Tòa Thánh tại Liên Bang Nga, về hiện tình Georgia.
Hôm 13-8-2008 hai vị đã cho phóng viên Anadeo Lomonaco của đài Vaticăng phỏng vấn qua điện thoại từ Tbilisi và Matscơva. Trước hết là Đức Cha Claudio Gugerotti, Sứ Thần Tòa Thánh tại Georgia.
Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Gugerotti, chương trình hòa bình do tổng thống Pháp và Liên Hiệp Âu châu đề ra liệu có giải quyết được vấn đề vùng Nam Ossezia hay không?
Đáp: Trong lúc này đây thật rất khó mà có thể nói được. Vấn đề vùng Nam Ossezia có các gốc rễ phức tạp, rất là tỉ mỉ và không phải chỉ có thế. Dĩ nhiên đây là bước đầu tiên giúp giải quyết vấn đề một cách vĩnh viễn. Chắc chắn là người ta đang tiến bước trong chiều hướng của sự đối thoại và và hòa đàm. Và đây tuyệt đối là con đường duy nhất phải đi.
Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần, phía Georgia đã tiếp nhận tin này như thế nào?
Đáp: Có hai cách tiếp nhận. Có một nước Georgia tìm phản ứng lại với lòng kiêu hãnh, tìm đứng dậy và bắt đầu sống với danh dự, nhưng cũng có một nước Gerogia hoàn toàn ngã qụy vì bần cùng, khổ đau: có rất nhiều người đau yếu và bị thương. Và Georgia không có các cơ cấu để săn sóc họ. Chúng tôi đang tìm dựng lên các lều trạm xá và các cơ cấu cho các sinh hoạt bác ái nhân đạo. Nhưng chúng tôi cũng không có tiền để làm điều này. Vì thế tôi lợi dụng dịp này để đưa ra lời kêu gọi cộng đồng quốc tế chú ý tới các người đau yếu bệnh tật và bị thương và trợ giúp họ. Nếu cộng đồng quốc tế đã không thể ngăn chặn cuộc chiến gây ra thảm cảnh này, thì ít nhất giờ đây trợ giúp nhân đạo cho người dân Georgia. Chúng tôi ước muốn làm nhiều chuyện, nhưng cấp thiết nhất là phải cầm máu đang tuôn chảy từ các vết thương của thân thể các nạn nhân đã.
Hỏi: Thưa Đức Cha, ngoài quy chế của vùng Ossezia ra, thì giờ đây người ta cũng nhận ra các lý do khác nữa đã gây ra cuộc chiến này, đặc biệt là các ống dẫn dầu chạy qua vùng Caucase để cung cấp nhiên liệu cho Âu châu, có đúng thế không?
Đáp: Từ ”dầu hỏa” là một từ ảo thuật, ngày nay thường thay thế cho các từ trước kia diễn tả các giá trị được viết hoa. Chắc chắn là vấn đề dầu hỏa và hơi đốt cũng nắm giữ vai trò đáng kể trong toàn cảnh địa lý chính trị vùng này, chứ không phải chỉ trong biến cố xung đột này mà thôi.
Hỏi: Trong những ngày này thế giới truyền thông bị lóe mắt vì các cuộc tranh tài thế vận hội. Họ có tường thuật chiến tranh tại Ossezia một cách đúng đắn và trung thực không thưa Đức Cha?
Đáp: Tôi chỉ có thể nói rằng tôi đã trông thấy các bài tường thuật rất tốt trên vài đài truyền hình quốc tế. Tôi cũng phải nói rằng thật rất khó mà trình bầy các tin tức trung thực từ những nơi có nhiều lèo lái và thường khi rất mâu thuẫn nhau. Vì thế tôi cũng hiểu các khó khăn của các phóng viên và các nhà báo. Tối nay tôi đã gặp rất nhiều nhà báo Italia trên máy bay: chắc chắn là họ tìm đến tận nơi để làm các phóng sự và các bài tường thuật. Việc tận mắt chứng kiến các biến cố có thể bảo đảm cho việc thông tin được chính xác hơn là tin tức lấy từ các nguồn khác có mục đích xuyên tạc sự thật.
Hỏi: Như thế thì đâu là các hy vọng của người dân và của Giáo Hội Georgia thưa Đức Cha?
Đáp: Trong lúc này đây thì thật ra không có niềm hy vọng nào cả, mà chỉ có niềm vui vì còn sống sót và còn lo lắng được cho gia đình và cho thân nhân. Niềm hy vọng luôn nảy sinh từ con tim. Tôi cũng phải nói rằng Giáo Hội Chính Thống đã huy động tín hữu cầu nguyện rất nhiều. Lời kêu gọi mà Đức Thánh Cha đã đưa ra trong buổi đọc kinh Truyền Tin Chúa Nhật 10-8-2008 đã được đọc cho dân chúng nghe ngoài quảng trường thủ đô Tbilisi, ngay sau diễn văn của Đức Thượng Phụ Chính Thống Georgia. Sự kiện này cho phép chúng ta hy vọng rằng trong khổ đau người ta cũng tìm thấy sự hiệp thông tư tưởng và tâm trí. Chắc chắn đó là một bước tiến tới một cái nhìn hiểu biết huynh đệ hơn trong vùng đất này.
* Tiếp theo đây là một số nhận định của Đức Tổng Giám Mục Antonio Mennini, Đại diện Tòa Thánh cạnh Liên Bang Nga.
Hỏi: Thưa Đức Cha Mennini, đâu là các khía cạnh của chương trình hòa bình do Liên Hiệp Âu châu đề nghị với Nga và Georgia?
Đáp: Chương trình hòa bình này là một bước tiến rất ý nghĩa, vì hai phía đã đồng ý với tài liệu do tổng thống Pháp Sarkozy cùng soạn với tổng thống Nga Medvedev. Trong số 6 điểm thì điểm không dùng sức mạnh sẽ cho phép các tổ chức bác ái nhân đạo cứu trợ dân chúng một cách ổn định và lâu dài. Phía Georgia đã muốn là trong tương lai không thảo luận về quy chế pháp lý của hai miền tách rời nữa. Nhưng hiện nay đây là khía cạnh thứ yếu. Điều quan trọng là ngưng tiếng súng và hai bên quyết định ngồi vào bàn thương thuyết.
Hỏi: Đây là một cuộc xung đột mà Nga đã thắng trên bình diện quân sự, và Liên Hiệp Âu châu, là phe đã đề nghị chương trình hòa bình, đã thắng trên bình diện ngoại giao. Và chương trình hòa bình đã được Matscơva và Tbilisi chấp nhận. Thế là Bruxelles đã lên tiếng, có phải vậy không thưa Đức Cha?
Đáp: Vâng, tình hình đã chứng minh cho thấy trước sự thinh lặng của các cường quốc khác - mà tôi không muốn kể tên - thì Liên Hiệp Âu châu có thể nắm giữ một vai trò quan trọng. Một vai trò được cả Nga chấp nhận.
Hỏi: Theo Đức Cha, có thể coi sự xung đột bùng nổ tại Ossesia như là một hậu qủa trực tiếp của sự kiện Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập hay không?
Đáp: Hôm qua tổng thống Medvedev đã đề cập tới điều này. Nhưng tôi thì tôi cho rằng nước Nga muốn chơi con bài sự độc lập của hai cộng hòa, vì điều này có lẽ sẽ gây ra vấn đề không phải chỉ tại các phần đất khác của thế giới, mà có lẽ cả bên trong Liên Bang Nga nữa.
Hỏi: Như vậy thì đâu là các thế quân bình cần phải cứu vãn để bảo đảm cho tương lai của vùng Caucase, thưa Đức Cha?
Đáp: Tôi muốn mượn lại các lời mà ông Mikhail Gorbaciov nguyên tổng thống Nga đã viết trên nhật báo Washington Post ngày 12-8-2008. Ông khẳng định rằng sự kiện Hoa Kỳ cho rằng vùng Caucase là vùng ảnh hưởng sống động đối với quyền lợi quốc gia của họ, là điều đúng một phần. Đúng một phần trong nghĩa hòa bình vùng Caucase không thể không là lợi lộc của tất cả mọi người, nhưng phải chú ý tới lý do lớn hơn nữa: đó là Nga có các lợi lộc hợp pháp trong vùng này, các lợi lộc phát xuất từ một lịch sử dài được các dân tộc trong vùng chia sẻ, kể cả trên bình diện địa lý nữa.
Hỏi: Thưa Đức Cha Mennini, Giáo Hội có thể đóng góp gì cho việc duy trì hòa bình trong vùng này hay không?
Đáp: Vâng cũng như lời kêu gọi hòa bình Đức Thánh Cha đã đưa ra bằng cách nhắc lại các gốc rễ Kitô chung của các dân tộc trong vùng, tôi nghĩ rằng trước hết cần phải có hoạt động giáo dục: trên bình diện luân lý và quốc gia cần phải vứt bỏ sự nghi ngờ đối với tất cả những gì là khác biệt và xa lạ. Thế rồi phải cùng với các tín hữu công giáo thăng tiến hoạt động nhân đạo. Tôi biết là giới chức Caritas Nga đã đến tận nơi và đang cùng với Caritas Georgia và các vị hữu trách của Giáo Hội Chính Thống lượng định tình hình để phối hợp các công tác cứu trợ. (SD 13-8-2008)
ĐHY Newman (1801-1890) |
Phần mộ ĐHY Newman tại Rednall Hill |
Hiện tại án phong thánh cho ngài tiến triển tốt đẹp tại Roma; và người ta hy vọng trong tương lai gần đây ĐHY John Henry Newman sẽ được phong chân phước. ĐHY John Henry Newman là một nhà tư tưởng hiện vẫn còn ảnh hưởng trong giới trí thức thế giới.
Theo Linh Mục Paul Chavasse, tuyên úy của Nhà Nguyện Thánh Philippe Néri tại Birmingham, và cũng là Cáo Thỉnh Viên của Án Phong Thánh cho ĐHY Newman, thì việc cải táng hài cốt của ĐHY Newman từ nghĩa trang Rednall Hill, một nghĩa trang nhỏ ở ngoại ô Birmingham, về Nhà Nguyện Thánh Philippe Néri, là Nhà Nguyện dâng kính ĐHY Newman, tại Birmingham, là do yêu cầu của Toà Thánh Vatican, trong tiến trình làm án phong thánh cho ngài.
Đại Hội La Vang lần thứ 28 được khai mạc bằng lễ thượng cờ biểu tượng 26 Giáo Phận và hồi trống dài của Đức Tổng Giám Mục Giaó Phận Huế.
Vũ khúc Tình Mẹ đưa cộng đoàn tham dự vào giấc điệp bằng lời ru ngọt ngào êm ái của Mẹ La Vang để được chắp cánh vào bầu trời cao rộng.
Diễn nguyện tiệc cưới Cana đã làm nổi bật chủ đề Mẹ Maria – Nhà Giáo Dục Đức Tin. Mẹ Maria, thầy dạy đưa con cái đến với Chúa Giêsu và làm những gì Ngài dạy: «Hễ Người bảo gì, an hem hãy làm theo» (Ga 2,5).
Nếu hồi trống dài và lễ thượng cờ 26 Giáo Phận Việt Nam như một biểu tượng của tình hiệp nhất, thì diễn văn chào mừng tuyên bố khai mạc Đại Hội xác minh điều đó một cách rõ ràng hơn: «La Vang là mái nhà chung của Giáo Hội Việt Nam» - Đức Tổng Giám Mục Huế đã nhấn mạnh như thế trong lời khai mạc. Đại Hội La Vang là nơi con cái Mẹ từ bốn phương mang những tâm tư nguyện ước không chỉ của riêng mình, mà còn của bao người thân xóm giềng gửi gắm đến đặt dưới chân Mẹ.
Thật vậy, Đại Hội Đức Mẹ La Vang lần này, như lời của Đức Tổng Giám Mục Têphanô, mang một ý nghĩa rất đặt biệt vì lần đầu tiên, Phái Đoàn Toà Thánh cách đây đúng 2 tháng, vào ngày 13 tháng 6, đã đến Linh Đài này, chính thức cử hành Thánh Lễ trong niềm hân hoan vì từ nay đất của Thánh Điạ La Vang được Nhà Nước giao lại để con cái Mẹ có nơi thoáng đãng mà về.
Đức Tổng Giám Mục Huế nhắc lại lời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao Lô Đệ Nhị, nhân dịp phong thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cách đây 20 năm, về sự cần thiết tái thiết Vương Cung Thánh Đường La Vang trong bầu khi hoà bình, hầu đem lại sinh lực thiêng liêng không chỉ cho người công giáo Việt Nam, nhưng còn giúp cho sự hoà hợp Đất Nước.
Đức Tổng Giám Mục Huế đã không quên thông báo nội dung bức thư của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi cho Đại Hội La Vang 28, với sứ điệp hiệp nhất quê hương Việt Nam và lời cầu mong cho Việt Nam phát triễn về mặt xã hội và luân lý.
Kết thúc diễn văn chào mừng, Đức Tổng Giám Mục Huế kêu gọi hiệp nhất trong gia đình Giáo Hội, hiệp nhất với nhau trong Mẹ La Vang vì ở đây, ai cũng có Mẹ. La Vang là nơi của sụ hiệp nhất vì là trung tâm quy tụ tất cả mọi người trong đất nước Việt Nam và từ khắp nơi để hiệp nhất với những người tuy không cùng một tín ngưỡng nhưng cũng là một dân tộc đồng bào với nhau.
Xuyên suốt trong bài giảng Lễ khai mạc lúc 17h30, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục Giáo Phận Thanh Hóa, chủ tế thánh Lễ, đã suy niệm về vai trò của Đức Mẹ, Người Thầy của niềm tin. Nhưng cuối bài, Đức Giám Mục giảng lễ đã không quên gửi đến cộng đoàn lời kêu gọi xây dựng sự hiệp nhất trong Giáo Hội và trong xã hội. Ngài nói: «Nếu đại cuộc Giáo Hội và xã hội bị đóng băng vì chia rẽ hiềm thù, thì chính chúng ta phải làm rộng đường để cho Chúa làm phép lạ Cana».
Sứ điệp của buổi lễ khai mạc Đại Hội La Vang đã rõ: Hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất người với người đễ cùng nhau xây dựng niềm vui và hạnh phúc như Đức Mẹ đã làm trong tiệc cưới Cana.
Lối vào Linh Đài Mẹ nhỏ hẹp, nhưng đầy cây xanh phủ bóng mát. Cổng Tam Quan nổi bật ngay lối vào quảng trường với 14 chặng Đàng Thánh Giá. Ngôi Tháp của Vương Cung Thánh Đường kiên cố uy hùng tự bao giờ. Ba Cây Đa, nơi Mẹ hiện ra, vẫn cao xanh im bóng mát.
Người người tiếp nối hội tụ tại Linh Đài Mẹ trong tình hiệp nhất yêu thương. Chính nơi đây, Đại Hội La Vang lần thứ 28 đã bắt đầu.
Phóng viên ban Truyền Thông Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang
Trong suốt mùa hè, tất cả các giáo xứ trong giáo phận tổ chức các lớp giáo lý dành cho trẻ em và giới trẻ, cũng như các lớp dành cho cha mẹ chúng. Đó là sáng kiến thành công.
Cha Giuse Nguyễn Văn Thông, linh mục Giáo xứ Chính tòa giải thích rẳng: “Mỗi mùa hè, chúng tôi dạy giáo lý, Kinh Thánh cho trẻ em và giới trẻ tùy theo độ tuổi chúng. Chúng tôi có rất nhiều giáo lý viên thiện nguyện dạy học và làm động lực cho giáo dân giáo xứ. Vì vai trò của gia đình Công Giáo là giáo dục con cái họ và nhất là giáo dục đời sống đức tin cho con em và thế hệ tương lai”.
Trung tâm Mục vụ Giáo phận tổ chức các lớp và chuẩn bị các buổi thảo luận, dùng phương pháp giảng dạy và kiểm tra cuối khoá tương tự. Các lớp không chỉ dành cho trẻ em mà có cả lớp cho các bậc cha mẹ, những người gần gũi chúng trong hoạt động mục vụ. Đối với cả cha mẹ và trẻ em, trung tâm mục vụ như là ngôi nhà của các ngôi nhà, nơi mà giới trẻ và cha mẹ chúng có thể trao đổi kinh nghiệm và học hỏi sự thánh thiện đích thực của Chúa Giêsu.
Đức Cha Vũ Văn Thiên cho hay: “Những người tham dự khoá học một tháng về nghiên cứu Kinh Thánh và giáo lý gồm có giáo lý viên, các bậc cha mẹ, các vị lãnh đạo hội đoàn giáo xứ, cũng là những người đóng góp vào việc tổ chức các lớp và các hoạt động khác. Trong thời đại chúng ta, chúng ta cần học hỏi về tình yêu của Chúa Giêsu và cổ vũ đức tin Công Giáo, Qua các họat động thực tiễn, chúng ta sẽ mang lại lòng nhiệt thành cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi giáo xứ. Trẻ em là tương lai cho xã hội và Giáo Hội. Qua những hành vi tốt đẹp, chúng ta làm chứng cho Giáo Hội và cho Chúa Giêsu, đem Tin Mừng đến cho người khác, giúp đỡ người bất hạnh và trẻ em sống trong hòan cảnh đặc biệt khó khăn”.
Khi tuyên khấn, người Nữ Tu muốn dâng hiến trọn đời mình cho Đức Kitô cả thể xác lẫn tâm hồn. Chúa Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí các Nữ Tu Mến Thánh Giá. Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất ngày lễ khấn dòng là lúc người Nữ Tu quỳ gối trước mặt Đức Giám Mục đọc lời khấn hứa: Khó Nghèo, Khiết Tịnh, Vâng Phục. Dựa vào gợi ý suy niệm của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, xin gởi đến các Tân Khân Sinh những tâm tình như là quà tặng mừng ngày hồng ân khấn dòng. Bước theo Đức Kitô Khiết tịnh, người Nữ Tu theo gương Mẹ Maria sống đời thanh khiết.
1. Đức Giêsu, con người khiết tịnh:
Một trong những nét hấp dẫn của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng là con người khiết tịnh của Ngài: Ngài rất trong trắng, quân bình, khả ái. Đời sống độc thân của Đức Giêsu là dấu chỉ Tình Yêu lớn nhất. Trước hết, dựa vào Tin Mừng, chúng ta biết chắc chắn Đức Giêsu có kinh nghiệm về Tình Yêu lớn nhất là Tình Yêu của Chúa Cha: không có tình yêu nào lớn bằng, sâu thẳm bằng. Người được Chúa Cha yêu thương, và tình thương ấy vô bờ. Tình Yêu ấy làm cho Người sung sướng, hạnh phúc. Tình Yêu ấy đủ cho Người. Người không cần tình yêu nào khác bổ sung. Người không bao giờ cô đơn, vì có Chúa Cha hằng ở với Người ( Ga 8,29; 16,32 ). Đức Giêsu đáp trả lại Tình Yêu của Chúa Cha cũng bằng Tình Yêu lớn nhất. Trên bình diện con người, Đức Giêsu là người thực hành giới răn thứ nhất trọn vẹn hơn cả. Người đặt Chúa Cha lên trên tất cả, Người dâng hiến tất cả cho Chúa Cha: trái tim, con người, cuộc sống. Đức Giêsu là một người hoàn toàn tự do, không bị chi phối bởi một tình cảm trần thế nào. Sự khiết tịnh nơi Đức Giêsu không là sự cằn cỗi hay thiếu nhựa sống. Sự cằn cỗi không là khiết tịnh, vì không là tình yêu. Khi nói tới khiết tịnh là nói tới yêu thương: tình yêu khiết tịnh. Nơi Đức Giêsu, khiết tịnh là yêu thương dạt dào, là trái tim nhạy cảm, tràn ngập yêu thương, đối với mọi người, đặc biệt đối người nghèo khổ. Khiết tịnh là tình yêu không bị trói buộc vào một đối tượng, mà là một tình yêu phổ quát, vô giới hạn. Nhưng đó không phải là một thứ tình yêu trừu tượng, không có thực. Đó chính là Tình Yêu vô hạn của Thiên Chúa trong lòng con người. Đó là Thánh Thần của Thiên Chúa trong trái tim của Đức Giêsu.
2. Thách đố cho đức khiết tịnh:
Thế giới hôm nay có khuynh hướng hưởng thụ. Lạc thú là loại của ăn trần thế mà nhiều người ham muốn. Thậm chí có người muốn coi nền văn hóa đương đại là một nền văn hóa hưởng lạc. Hiện nay, nhiều người trên thế giới muốn bỏ hết mọi ràng buộc luân lý về tính dục. Rất nhiều người chiều theo bản năng tính dục, và một số khá đông tôn sùng bản năng ấy. Khuynh hướng tự do luyến ái làm đổ vỡ biết bao nhiêu gia đình, làm hại biết bao nhiêu con người về mọi phương diện, thể lý, tâm lý, tinh thần. Bệnh Aids tràn lan khắp nơi, đặc biệt ở những nước nghèo như các nước Phi Châu, một số nước Á Châu trong đó có Việt Nam. Liệu nhân đức khiết tịnh của người tu sĩ có giải đáp được gì cho vấn đề tính dục và tình cảm của con người thời đại hay không? Những người khấn giữ Đức Khiết Tịnh có vui sống, có hạnh phúc, có triển nở trong cuộc sống làm người hay không? Họ có được sự quân bình cần thiết cho sự lành mạnh cả về thể xác lẫn tâm hồn không? Hay họ thường xuyên đau ốm, cáu gắt, không biết yêu thương, vì thiếu kinh nghiệm về tình yêu? Họ có ích lợi gì cho xã hội hay chỉ là những người ăn bám? Khi không sống giống như những con người khác, họ có hiểu gì về con người bình thường không? Sống khiết tịnh còn có ý nghĩa gì nữa không và liệu có thực hành được hay chỉ là một ảo tưởng gây tai hại, làm hỏng cuộc đời của nhiều người?
3. Giải đáp của đời sống thánh hiến:
a - Chứng từ của đời thánh hiến: Chứng từ khiết tịnh của đời sống thánh hiến là loại chứng từ cần thiết cho thời đại chúng ta. Một đời sống khiết tịnh triển nở vui tươi là bằng chứng, là dấu chỉ của Tình Yêu Vô Hạn: Tình Yêu mạnh hơn sự chết, mạnh hơn bản năng, mạnh hơn tội ác. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho con người, và Tình Yêu ấy ở trong lòng con người: Lòng Mến mà Thiên Chúa đổ tràn tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần Người ban cho ta ( Rm 5, 5 ). Sự khiết tịnh của người tu sĩ làm chứng cho sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa trong sự mỏng dòn của thân phận làm người. Mọi người chúng ta đều rất yếu đuối và không ai tự hào đứng vững. Nhưng với ơn Chúa, chúng ta có thể làm điều mà đa số cho là không thể: yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, đặt Tình Yêu Thiên Chúa trên mọi thứ tình yêu, yêu mến mọi người, mọi tạo vật với Tình Yêu và sự tự do của Thiên Chúa. Đức Khiết Tịnh còn giúp con người có những tương quan trong sáng với nhau. Con người có thể yêu thương nhau thực sự, không bị ràng buộc bởi yếu tố lợi nhuận, hay bản năng tính dục.
b- Sống đức khiết tịnh hôm nay: Ngày hôm nay, đời sống khiết tịnh của người tu sĩ phải làm nổi bật một số nét cơ bản mới có sức thuyết phục, có ý nghĩa cho bản thân và tha nhân: - Quân bằng về tâm lý và tình cảm: không cảm thấy thiếu thốn tình cảm, mất mát, cần bù trừ bằng cách này hay cách khác. - Có khả năng tự chủ: làm chủ được bản thân, không dễ xiêu lòng, mềm yếu về tình cảm, không dễ nghiêng chiều về những khoái cảm bên ngoài. - Trưởng thành tâm lý và thể lý: quảng đại bao dung, không khó tính khó nết. - Triển nở trong đời sống: dấu hiệu là óc sáng kiến, sự linh động; ù lì là dấu hiệu thiếu triển nở.
4. Người Nữ tu sống Đức Khiết tịnh theo gương Mẹ Maria.
Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đức Mẹ là hoa trái tốt đẹp nhất của Chúa Thánh Thần Thần. Đức Mẹ là người Nữ Tu đầu tiên của Thiên Chúa.
Cả cuộc đời Đức Mẹ được đúc kết trong bài ca Magnifica “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng, Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới…” ( Lc 1, 46-48). Đức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến.Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Đức Mẹ là một người nghèo, thanh khiết, chỉ biết phó thác vào Chúa, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa. Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi của mình, Đức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái thương nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Từ đó, Đức Mẹ sống trọn vẹn cuộc đời dâng hiến theo thánh ý Chúa.
Người Nữ Tu được Chúa đoái thương tuyển chọn để thuộc về Chúa hoàn toàn. Từ nay theo gương Đức Mẹ, các Nữ tu sống Đức Khiết Tịnh để toả hương thánh thiện cho cuộc đời phục vụ yêu thương.
Tình yêu nam nữ là một thực tại luôn có sức hấp dẫn lôi cuốn và mãnh liệt nhất trong thế giới con người. Được cưu mang,sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên trong yêu thương, mỗi người được tháp nhập vào quỹ đạo của tình yêu.Từ tình yêu nơi gia đình,nơi học đường, nơi tha nhân, con người ngày càng khám phá và cảm nhận một khả năng là muốn yêu và được yêu. Tình yêu là nhu cầu cần thiết, là khát vọng sâu xa làm cho một ngươì nam và một người nữ đi tìm một nửa của mình để nên “một xương một thịt”.
Môt tình yêu mà ai ai cũng muốn nếm cảm từ tuổi thanh xuân, muốn tìm đến một ai đó,một nữa hồn mình để nói hết lý lẽ của trái tim.Xa một nửa hồn mình,người ta thấy trồng vắng, thấy tẻ nhạt như Hàn Mặc Tử diễn tả: Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn kia bổng dại khờ. Bởi đó khước từ tình yêu có nhiều sức hấp dẫn kỳ lạ ấy,dường như trở nên điều nghịch lý trong cuộc sống nhân trần,nhất là thế giới hôm nay tự do luyến ái,tự do tình dục. Do vậy đời sống khiết tịnh nơi người tu sĩ càng trở nên một phản chứng cho những gì thế giới bên ngoài đang tôn thờ.Thế nhưng nó lại trở thành lời hùng biện vĩ đại,có sức lôi cuốn con người nhìn đến thực tại cao hơn trong lý tưởng dâng hiến mà những tu sĩ đang sống và thể hiện.
Dâng hiến cho Chúa,người tu sĩ hiểu rằng: tất cả cuộc đời mình đã trao dâng về Ngài thân xác,linh hồn và cả tình yêu. Khiết Tịnh, đó chính là lời ký ước để biết yêu thương nhiều hơn nhờ sức mạnh của Thiên Chúa nơi trái tim.Tình yêu đó không còn mang mùi vị đam mê trần thế,ích kỷ và chiếm đoạt.Người tu sĩ chỉ còn sống tình yêu với Thiên Chúa để đến với mọi người cho dù bên ngoài tình yêu vẫn vẫy gọi thiết tha. Từ lời khấn khiết tịnh,người tu sĩ thể hiện sâu xa hơn một tình yêu không bị chia sẽ,một con tim dâng hiến trọn vẹn cho Đức Kitô.Khi chọn Đức Kitô,người tu sĩ được Ngài trợ lực,vượt qua những lời mời gọi hạnh phúc lứa đôi,lắng im tiếng tơ lòng quyến rủ.Tất cả đều ở lại phía sau,trở nên lãng quên và trả về qúa khứ một tình yêu khao khát hạnh phúc riêng hồn mình. Lời Khấn Khiết Tịnh giúp người tu sĩ mở rộng con tim mình để chia sẽ với mọi người một tình yêu thanh khiết trao dâng như Đức Maria –Người Nữ Tu đầu tiên của Thiên Chúa,Mẹ đã sống hoàn hảo Đức Khiết Tịnh trong cuộc đời cho tình yêu
Xin Vâng. Nhưng để hoàn toàn thuộc về Đức Kitô bằng sự khiết tịnh,người tu sĩ luôn cảm thức sâu xa “Cái bình sành dễ vở” nơi con người mình,thấy rõ những giới hạn của bản thân, mỏng dòn,yếu đuối, để từ đó họ luôn ý thức được hồng ân diệu vợi nơi Thiên Chúa ban tặng cho mình trong lời đoan ước. Lời Khấn Khiết Tịnh đã giúp bao tâm hồn tu sĩ thuộc hoàn toàn về Đấng Tình Quân Tuyệt Đối “Con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con”. Hương thơm của đời sống Khiết Tịnh đã mang đến cho cuộc đời một mùa xuân dịu mát trong những vẻ đẹp thanh cao nhất,biến đổi thế giới trong những ích kỷ chiếm đoạt của tình yêu đam mê,hướng nhân loại nhìn về Nước Trời mai sau trong hạnh hạnh phúc vĩnh cửu tuyệt mỹ. Trong ngày khấn dòng,người tu sĩ được gọi là“Người Bạn Trăm Năm của Đức Kitô”,nhưng họ vẫn còn vương mang nhiều yếu đuối và giới hạn phận người.Cuộc đời họ không thay đổi trong chớp nhoáng,không biến hình để trở thành người của thế giới siêu phàm.
Dâng hiến không có nghĩa là biến trái tim trở nên khô cứng lạnh giá,không còn biết rung cảm trước những vẻ đẹp. Dâng hiến cũng không phải là trở nên lạc lỏng,cô độc,khinh thường tình yêu trần thế. Trái lại,người tu sĩ sống lời khấn Khiết Tịnh,họ vẫn là người giữa cuộc đời,vẫn tiếp nhận những làn sóng yêu thương mời gọi trong rung động trái tim,vẫn có thể bị dao động trước một đối tượng mình tiếp xúc,vẫn nhìn thấy những điều kỳ lạ trong tình yêu đi tìm một nửa hồn mình.Nhưng họ dám từ bỏ tất cả, chỉ để dâng tình yêu cho Thiên Chúa mà thôi.Chỉ yêu một mình Đức Kitô.Đó là động lức cơ bản khiến họ chỉ đi tìm Thiên Chúa và sống với Ngài,cảm nếm sự ngọt ngào vô biên,hạnh phúc diệu kỳ của tình yêu tuyệt đối họ đang tôn thờ.
Trong Tông Huấn Vita Consecrata,Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trình bày vẻ đẹp của đời tu.Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp ( philocalia,số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa,chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng.Các tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa;họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27) và đồng thời cố gắng tu bổ hình ành Thiên Chúa đã bị méo mó trên khuôn mặt của bao anh chị em đồng loại (số 75).Từ chỗ đi theo Đức Kitô (số 15;18),hoạ lại nếp sống của Ngài,đời tận hiến tiến tới chỗ”Đồng hoá hiện thân” (số 16) với Ngài.Ngoài việc hoạ lại nếp sống khiết tịnh,khó nghèo và vâng phục của Đức Kitô,đời thánh hiến còn diễn tả mầu nhiệm thập giá và phục sinh của Ngài nữa (số 23-24).
Đức Thánh Cha còn gọi đời Thánh hiến là một Đoàn Sủng đặc biệt trong Giáo hội,phát xuất và duy trì bởi Chúa Thánh Thần.Tu sĩ là món quà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội và là một kho báu mà Giáo hội trân trọng giữ gìn. Không gì khác hơn ngoài tình yêu,một tình yêu trao dâng cho Đức Kitô và hiến dâng chính những khả năng yêu thương của mình, mạnh dạn lên đường theo Ngài,say sưa trong nổi khát khao được trở nên người của Chúa và ước nguyện yêu mọi người trong ân huệ của Ngài.Chính tình yêu ấy sẽ giúp người tu sĩ sống đời khiết tịnh trong an vui và hạnh phúc, từ đó họ có thể thốt lên tâm tình: Lạy Chúa, chỉ mình Chúa là đủ cho con, và Lạy Chúa,xin cho con thấy Chúa thật bao la,để mọi sự đối với con chỉ là bé nhỏ. 18 Tân Khấn Sinh như những bông hoa tươi xinh kết nên chuỗi ngọc Mân Côi dâng kính Đức Mẹ. Xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn các Nữ Tu như Ngài đã đến trong tâm hồn Đức Mẹ, giúp các chị cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và mau mắn đáp lại tình yêu thương đó. Cầu chúc các Tân Khấn Sinh luôn hạnh phúc trong đời dâng hiến.
gửi Đại Hội Hành Hương La Vang lần thứ 28
Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Số 96.085
Vatican, ngày 23 tháng 7 năm 2008
Kinh gởi: Đức Cha Têphanô Nguyễn Như Thể
Tổng Giám Mục Giáo Phận Huế
GM Phêrô Nguyễn văn Đệ đọc sứ điệp ĐTC Benedictô XVI |
Ngày 16 tháng 5 vừa qua, Đức Cha đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng ban Sứ Điệp cho đại Hội Hành Hương Tam Niên lần thứ 28 tại Đền Thánh Đức Mẹ La Vang. Đức Giáo Hoàng ủy thác cho tôi gởi đến Đức Cha Sứ Điệp sau đây của Ngài:
“Nhân dịp Đại Hội Hành Hương Tam Niên lần thứ 28 tại Đền Thánh Toàn Quốc đang kính Đức Mẹ Là Nữ Vương Hòa Bình, Bổn mạng của người công giáo Việt Nam, Cha chung lòng hiệp ý với mọi tín hữu đang quy tụ về La Vang để mừng kính và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria là Thầy Dạy Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Mẹ đã vâng nghe lời mời gọi của Chúa với lòng tín trung trọn vẹn.
Nơi Đền Thánh La Vang, tọa lạc hầu như ở trung tâm Đất Nước thân yêu của Đức Cha, Mẹ quy tụ về bên Mẹ đông đảo con dân Nước Việt đến từ mọi chân trời, để cầu nguyện cho sự hợp nhất quê hương, cho lợi ích phần hồn phần hồn phần xác, cho sự phát triển xã hội, luân lý và tôn giáo của mọi người và của từng người.
Cha khuyến khích mọi công dân công giáo Việt Nam hãy chiêm ngắm Mẹ Maria, là Người Tôi Tớ Khiêm Hạ đã để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tác động sâu xa trong lòng Mẹ; Thánh Thần là nguồn mạch đức tin, đức cậy và đức mến. Mẹ đã ban cho anh chị em tại đây, nơi La Vang nầy, sứ điệp: “Các con hãy trông cậy, hãy vui lòng chịu khốn khó và đau thương, Mẹ đã nhậm lời các con kêu xin.” Mẹ là Đấng an ủi và nâng đỡ dân tộc anh chị em trong cơn thử thách.
Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Phụ tá Bùi Chu, tuyên đọc sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong lễ Khai mạc Đại Hội La Vang 28
Cha mời gọi anh chị em tin tưởng đến học cùng Mẹ để đón nhận, trao chuyển và gìn giữ Chúa Kitô luôn sống động trong tâm hồn mọi thế hệ. Noi gương Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ chúng ta, anh chị em là những tác nhân hoạt động, những nhà giáo dục nhiệt thành và những chứng nhân không mệt mỏi cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với mọi người.
Trong dịp Hành Hương diễm phúc nầy, Cha trao phó toàn thể anh chị em cho Đức Mẹ La Vang là Đấng phù hộ Giáo Hội Việt Nam, để Mẹ cầu bàu cho anh chị em.
Với tất cả tình thương mến, Cha rộng lòng ban Phép Lành Tòa Thánh cho các Giám mục, Linh mục, Chủng sinh, nam nữ Tu sĩ, anh chị em hành hương đang tề tựu nơi đây và cho hết mọi tín hữu Việt Nam.
+ Giáo Hoàng Bênêđictô XVI”
Trọng kính Đức Cha,
Cùng với lời cầu chúc tốt đẹp cho chuộc Hành Hương hồng phúc nầy, tôi xin gởi đến Đức Cha những tình cảm thân ái và lòng tận tụy của tôi đối với Đức Cha.
+ Hồng Y Tarcisio Bertone
Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Ký tên
Thánh địa La Vang thuộc xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cách TP. Huế khoảng 60 km về phía Tây. La Vang năm trong hạt Quảng Trị thuộc Tổng Giáo Phận Huế. Đúng 210 năm về trước (năm 1798), tại thôn La Vang nhỏ bé trước sự tàn sát đẫm máu theo Sắc chỉ cấm Đạo Công Giáo của Vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn, Đức Mẹ đã hiện ra khi nghe những lời kêu xin của dân chúng với lời phán hứa: “Các con hãy tin tưởng, hãy cam lòng chịu khổ. Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. từ nay về sau, những ai chạy đến cầu khẩn với Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban theo ý nguyện”. Và cũng từ đó, cứ 3 năm một lần tại nơi Thánh địa này lại diễn ra Đại Hội Hành Hương toàn quốc kéo dài trong vòng 3 ngày từ 13 đến 15 tháng 8, vào dịp lễ Đức Mẹ hồn xác Lên Trời.
Cùng với hàng nghìn người con từ bốn phương trời tụ họp về nơi Thánh Địa, 240 người khuyết tật thuộc mái nhà Donbosco cũng hoà mình vào bầu khí linh thiêng, gắng gượng hết mình để cùng dâng lên Mẹ câu kinh, tiếng hát làm thành một Thánh lễ sốt sắng với niềm hi vọng, cậy trông: Mẹ La Vang sẽ nhận lời chúng con khẩn cầu!
Người khuyết tật là những người đã phải gánh chịu những đau thương suốt cả cuộc đời, họ đã mất mát quá lớn. Hôm nay, họ đến đây như là một sự cậy trông tha thiết vào Mẹ và điều đặc biệt hơn đó chính là sự thể hiện sống động cho những nghị lực phi thường, Đức Cha chủ tế, nói.
Bạn Hồ Văn Long, một thành viên khuyết tật, tâm sự: “Đến với Mẹ La Vang và được tham dự Thánh Lễ dành riêng cho người khuyết tật mình cảm thấy bình an và tự tin hơn để bước tiếp trên đường đời đầy gian nan”. Là một người bị khuyết đi đôi chân, việc đi lại của Long chỉ duy nhất dựa vào đôi tay còn lại nhưng hiện lên trên khuôn mặt của chàng Thanh niên 25 tuổi này là ý chí, nghị lực và niềm tin vào cuộc sống. Phải chăng chính cái nắng, gió của quê hương Quảng Trị đã tạo cho Long bản lĩnh để vượt lên trên số phận éo le của mình.
Để có thể hỗ trợ kịp thời và đắc lực nhất cho những người khuyết tật trong dịp Đại Lễ này, 60 thiện nguyện viên đã thúc trực để chăm lo từ việc ăn, ngủ... cho đến việc sắp xếp vị trí tham dự Thánh lễ. Bạn Velsetlao Trần Thế Tài - thiện nguyện viên – bày tỏ: “Đến với những người khuyết tật tụi mình muốn đem tình yêu thương để phục vụ các em và cũng chính từ công việc phục vụ này mà mình cảm thấy tình yêu thương đã được đáp trả vì các em đã coi tụi mình như người thân của mình”.
Đến với Thánh Địa La Vang, đến với Mẹ của những sải cát trắng và những ngọn đồi cong, những người khuyết tật không chỉ dâng lên Mẹ tấm lòng thành kính mà họ còn dâng lên Mẹ chính những vết thương về thân xác, tâm hồn... Các bạn khuyết tật ơi, bước đường của các bạn sẽ không đơn côi! Trên bước đường dài đó luôn có sự sẻ chia của những tấm lòng hảo tâm, những lời cầu nguyện của muôn người... và các bạn sẽ luôn có Mẹ La Vang đồng hành
Tính đến buổi chiều ngày 14-8, trước Thánh lễ Vọng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, theo những người có linh nghiệm nhận định thì ước lượng số người đã có mặt lên khoảng 400.000 tại La Vang. Trên hai tuyến đường từ quốc lộ số 1 vào Thánh Địa. người người vẫn tấp nập tiến vào khuôn viên Thánh Địa như hai dòng sông cả chảy về biển lớn. Phải chăng, vì tò mò với những vấn đề liên hệ đến Linh địa La Vang như đất đai được trả lại, hiện tượng mặt trời đẹp và những lời mời gọi về năm giáo dục Kitô giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nên đã thu hút số lượng người lớn như vậy.
Muốn khóc mà không khóc được vì vừa mừng, vừa xúc động, vừa thương và vì biết bao cảm xúc không thể diễn tả bằng chữ bằng lời. Chỉ có thể dùng cụm từ “hãy đến mà xem” mà nói với những ai vì một lý do nào đó không thể đến La Vang trong những ngày này được.
Mừng vì đất đai của Thánh Địa đã được nhà nước trao trả, đáp ứng nhu cầu vô cùng cần thiết cho mỗi Đại Hội thường niên hoặc tam niên. Từ nay, Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc không phải thuê đất của chính mình để có quyền sử dụng trong những ngày Đại Hội nữa. Từ nay, con cái Mẹ La Vang có thể an tâm hơn vì Giáo Hội đang dần dần đáp ứng những nhu cầu cấp bách trong các cuộc hành hương.
Xúc động vì chính mỗi người hành hương tự chứng kiến những cảnh tượng tại Linh đài Mẹ, những phép lạ và những hiện tượng lạ vẫn diễn ra đối với những người mà Mẹ ban cho cách riêng. Xúc động vì Đức Thánh Cha đương kim đã quan tâm ưu ái gửi Sứ Điệp cho Giáo đoàn Việt Nam trong kỳ Đại Hội này. Xúc động vì sự miệt mài và hết mình phục vụ của biết bao ban ngành đoàn thể cho Đại Hội được tốt đẹp. Xin dừng lại ở hình ảnh những bạn trẻ của nhóm ve chai toàn quốc luôn mang bên mình những túi đựng rác, suốt ngày thâu đêm đến sáng họ len lỏi đến mọi ngóc ngách nhặt nhạnh và làm sạch môi trường Thánh Địa.
Thương nhiều lắm, khi ở La Vang hướng về các tỉnh miền Tây Bắc Việt Nam đang phải chịu bao khó khăn đau khổ vì thiên tai bão lụt, biến cố cơn bão Kammuri đã ngăn chặn biết bao đoàn người dự định hành hương về La Vang để tắm mình trong tình yêu thương của Mẹ hiền. Thương cảnh màn trời chiếu đất của những đoàn hành hương vui lòng chịu khó chịu khổ vì yêu mến Mẹ, họ trải chiếu bạt để ngồi la liệt ở tất cả những vị trí nào có thể được trong khuôn viên phần đất Thánh Địa, họ không sợ và không ngại sức nóng của nắng gay gắt tại Quảng Trị cát trắng, họ thích nghi dễ dàng và không phàn nàn với những hoàn cảnh khó khăn khi về bên Mẹ.
Thương cho một số người vì mất cảnh giác mà bị kẻ xấu lợi dụng trộm cắp tài sản và giựt đồ của khách hành hương. Phải kể đến trường hợp bà Nguyễn Thị Môn, 68 tuổi, là một lương dân đi hành hương với những người Công Giáo ở giáo xứ Thị xã Hưng Yên, bị giựt mất giây chuyền 4 chỉ vàng.
Ghi chép vội vàng một vài cảm nhận cá nhân tại La Vang khi người người càng lúc càng ken cứng mọi nơi mọi chỗ. Làm sao có thể đếm được lượng người hiện diện tại Thánh Địa La Vang lúc Thánh lễ Vọng chiều 14-8 do Đức Tổng giám mục Hà Nội chủ tế. Người ta không thể chen đi cách xa chỗ mình đang đứng vài mét vì quá đông người. Cũng có thể lượng người tham dự Đại Hội năm nay sẽ phá kỷ lục 500.000 người của đại hội lần trước.
Không kể Thánh lễ Khai mạc Đại Hội vào chiều ngày 13-8, có đến 5 Thánh lễ được cử hành tại Linh Đài Mẹ trong ngày 14-8. Thánh lễ thứ nhất do Đức cha Giuse Võ Đức Minh, giám mục phó giáo phận Nha Trang chủ tế; Thánh lễ thứ hai do Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, giám mục giáo phận Bùi Chu chủ tế; Thánh lễ thứ ba dành cho người khuyết tật toàn quốc do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, giám mục phụ tá giáo phận Bùi Chu chủ tế; Thánh lễ thứ tư dành cho giới trẻ do Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, giám mục giáo phận Hải Phòng chủ tế; Thánh lễ thứ năm, lễ Vọng mừng Mẹ Lên Trời do Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục Hà Nội chủ tế. Thánh lễ thứ nhất và thứ năm có đông đảo các Đức giám mục và hàng trăm Linh mục đồng tế.
Thánh địa La Vang, chiều 14-8-2008
Chỉ có thể dùng cụm từ “hãy đến mà xem” mà nói với những ai vì một lý do nào đó không thể đến La Vang trong những ngày này được. Mừng vì đất đai của Thánh Địa đã được nhà nước trao trả, đáp ứng nhu cầu vô cùng cần thiết cho mỗi Đại Hội thường niên hoặc tam niên. Từ nay, Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc không phải thuê đất của chính mình để có quyền sử dụng trong những ngày Đại Hội nữa. Từ nay, con cái Mẹ La Vang có thể an tâm hơn vì Giáo Hội đang dần dần đáp ứng những nhu cầu cấp bách trong các cuộc hành hương. Làm sao có thể đếm được lượng người hiện diện tại Thánh Địa La Vang lúc Thánh lễ Vọng chiều 14-8 do Đức Tổng giám mục Hà Nội chủ tế. Người ta không thể chen đi cách xa chỗ mình đang đứng vài mét vì quá đông người. Cũng có thể lượng người tham dự Đại Hội năm nay sẽ phá kỷ lục 500.000 người của đại hội lần trước.
Như một cao trào càng ngày càng lên tới chóp đỉnh vô tận, Thánh địa La Vang, một chốn đi về của con cái Mẹ, nơi bày tỏ và thể hiện đức tin kiên vững vào Chúa và Giáo Hội của Ngài, nơi suối nguồn yêu thương tình Mẹ tình con cuồn cuộn trào dâng thêm mãi. Không thể tưởng tượng được điều gì thu hút dòng người tiến về La Vang đông đến như thế. Xin dùng hai chữ “vì yêu” mà lí giải những điều chúng ta không thể tưởng tượng tại La Vang trong những ngày Đại Hội này.
Thoả mãn chung cho tất cả mọi người đó là được tự do về bên Mẹ, được đến vùng đất khô cằn và khắc nghiệt nhất về đất đai và khí hậu, nhưng cũng linh thiêng nhất nhờ ơn Mẹ Chúa Trời. Thoả mãn vì ở giữa vùng trời La Vang, mọi người được tắm trọn ánh nắng vàng gay gắt, được hít thở không khí pha lẫn cát bụi, được đặt mình trên mảnh đất Mẹ yêu thương, được Mẹ đoái trông và thấu hiểu mọi nỗi thống khổ riêng tư thẳm sâu và bí ẩn nhất.
Thoả mãn vì được Mẹ Giáo Hội chăm sóc và dạy dỗ qua Sứ Điệp của Đức Thánh Cha, qua lời giáo huấn của các Đức giám mục Việt Nam. Thoả mãn vì được Đức Mẹ ban cho nhiều ơn lành của Chúa cho cá nhân và gia đình mỗi người đến với Mẹ.
Có người mẹ nào đi chợ về mà không mua quà dành cho con? Nói chi đến con của Mẹ đến chào thăm Mẹ mình với lòng yêu mến. Mẹ không ban quà và cho thoả mãn sao được?! Như vậy, mỗi người đều có thể nói: con thoả mãn lắm rồi Mẹ ơi! Dù xem ra con có bị thiệt về vật chất, mệt mỏi lúc này, nhưng hồn con khoẻ và lòng con bình an vô cùng.
Có thể dám khẳng định rằng, số người tham dự vượt qua con số 500.000 vào thời điểm Thánh lễ rạng sáng ngày 15-8, cũng là Thánh lễ Bế mạc Đại hội lần thứ 28. Mỗi người ước lượng mỗi khác, nhưng không ai nói ít hơn Đại Hội kỷ lục năm 2005, bởi vì không thể căn cứ vào đâu để mà ước lượng số người cho tương đối chính xác được.
Trong khuôn viên khoảng 21 hécta mà Thánh Địa mới được quyền sử dụng lại, không còn chỗ trống để cho con Mẹ đứng hoặc ngồi cho an vị. Tất nhiên người ta phải tràn ra ngoài lãnh thổ La Vang, làm kẹt cứng mọi ngõ ngách của những người dân trong vùng. Nhiều đoàn hành hương ra về vào đêm 14-8, phải mất 3 tiếng đồng hồ mới có thể chen chân từ Thánh Địa ra đến đường quốc lộ cách đó 2 kilômét, mất khoảng 5 tiếng đồng hồ mới có thể lên xe rời khỏi La Vang.
Làm sao có thể đáp ứng được những nhu cầu cần thiết như ăn, ngủ, nước uống, vệ sinh… cho ngần ấy ngàn người? Mọi ban ngành và những người thi hành nhiệm vụ phục vụ tại La Vang đều bở hơi tai vì quá tải, có những lúc đành buông xuôi mà phó thác. Không cần nói gì đến nơi “màn trời chiếu đất”, ngay ở trong những khu vực ưu tiên đặc biệt chỗ nghỉ đêm cho các Linh mục cũng quá tải, nhiều Cha phải tìm một vị trí hành lang hay chỗ nào đó mà thiếp ngủ qua đêm.
Nan giải nhất là vấn đề nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường và những người làm công việc trật tự. Tất cả đều quá tải. Ngay cả những kẻ xấu lợi dụng để chiếm đoạt tài sản và thu lợi nhuận về cho mình cũng quá nhiều.
Có lẽ cần phải giải quyết khẩn cấp hệ thống giao thông ra vào Thánh Địa cho rộng lớn hơn và thông thoáng hơn. Ước gì chính quyền địa phương quan tâm, cấp cho một khoảng đất rừng cằn khô bên ngoài Thánh Địa để làm bãi đậu xe thật trật tự lớp lang.
Chẳng cần phải quảng bá hay là mời gọi gì, Thánh địa La Vang ở tỉnh Quảng Trị sẽ còn thu hút nhiều khách hành hương trong và ngoài nước hơn nữa trong những dịp Đại Hội tiếp theo.
Thêm một thoáng cảm nhận nữa, xem ra cá nhân và có thể thiếu sót, nhưng chắc chắn cũng là cảm nhận trùng lặp với nhiều người. Nhưng chúng ta phait nói lời khâm phục Ban Tổ Chức Đại Hội La Vang, các ban ngành phụ trách chuyên môn của Tổng Giáo Phận Huế, đã làm việc rất nghiêm túc và chặt chẽ, cho dù có quá tải.
Linh địa La Vang, sáng 15-8-2008
CHƯƠNG MƯỜI SÁU: MỤC VỤ HÔN NHÂN
Chương trước đã nhấn mạnh đến hai việc phải làm để hỗ trợ cho hôn nhân, đó là việc đào sâu tìm hiểu xem hôn nhân đã được cảm nghiệm như thế nào qua các khám phá của nghiên cứu đi đôi với sự khích lệ phải duy trì nó phát sinh từ đức tin. Theo một nghĩa nào đó, đó quả là nét độc đáo của hôn nhân Kitô giáo, tức tác động qua lại giữa bản nhiên và đức tin.Hai chương kế tiếp sẽ phác thảo ra phương cách làm thế nào để nuôi dưỡng sự cam kết của đức tin xuyên suốt các chu kỳ của cuộc sống hôn nhân.
Trong quá khứ, mục vụ hôn nhân và gia đình nói chung chỉ hệ ở việc chuẩn bị ngắn ngủi nhằm cho đám cưới và nghi lễ kết hôn. Sau đó, hai vợ chồng hầu như bị quên lãng hoàn toàn cho đến ngày rửa tội đứa con đầu lòng. Quan tâm mục vụ sau đó chủ yếu hướng về đứa nhỏ với việc đi học trường công giáo, xưng tội rước lễ lần đầu và thêm sức. Suốt trong thời gian này, nhu cầu của hai vợ chồng trong tư cách phu thê bị hoàn toàn bỏ qua. So sánh với việc chuẩn bị và hỗ trợ đối với bí tích truyền chức thánh, ta thấy hôn nhân, mặc dù liên hệ đến 95% dân Chúa, đã bị lãng quên một cách trầm trọng. Lý do lịch sử của hiện tượng này là vì người ta đã quan niệm bí tích này như một thực tại đã hoàn tất khi hai bên đã trao đổi quyền được sử dụng thân xác cho nhau và đã hoàn hợp với nhau. Hiểu hôn nhân như thế quả đã tước mất đặc tính chủ yếu của nó, vốn là một liên hệ luôn luôn tiếp diễn. Một khi hiểu đặc tính chủ yếu này như trên, ta sẽ thấy mục vụ hôn nhân phải mở rộng để bao trùm cả thời gian trước và sau khi lấy nhau.
MỤC VỤ TRƯỚC KHI LẤY NHAU
Vì hôn nhân là mối liên hệ thứ hai có ý nghĩa trong đời một con người, nên công tác mục vụ chủ yếu là giúp đỡ các người phối ngẫu trong tư cách cha mẹ để con cái lớn lên có khả năng tạo lập được những liên hệ ổn định và đầy yêu thương. Yếu tố quan yếu trong công tác mục vụ là huấn luyện và khích lệ các cha mẹ để họ giúp con cái họ hiểu ý nghĩa của yêu thương trong các liên hệ bản thân. Gia đình và học đường cũng chia sẻ trách nhiệm này.
GIA ÐÌNH
Không ai có thể hoài nghi về ảnh hưởng của cha mẹ trong việc giáo dục tình yêu cho con cái. Chính trong gia đình, đứa trẻ cảm nghiệm được mối liên hệ yêu đương đầu tiên của chúng. Ðứa trẻ nào cũng tạo được mối dây liên kết ngay năm thứ nhất trong đời và trong mối dây liên kết ấy, trẻ học được cách cảm nhận mình được nhìn nhận, được ước muốn và được qúy chuộng ra sao. Những cảm nghiệm này được chuyên chở trên phương diện thể lý, xúc cảm và tri thức. Cần có mục vụ để giúp cha mẹ thấy được điều này là khi họ cho con cái cái cảm nghiệm thấy chúng đáng yêu, họ đã hành động như Chúa đã hành động với Dân Ngài. Ngài yêu họ trước để họ học biết ý nghĩa của tình yêu như một cái gì nội tại ngay trong chính họ, giúp họ, đến lượt họ, biết hiến thân cho người khác trong yêu thương. Thánh Gioan trình bầy điều đó một cách thần học khi Ngài viết trong thư thứ nhất: "Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Chúa đã yêu chúng ta trước nhất" (1Jn 4:19). Cũng như chúng ta đã nhận được quà phúc yêu thương vì Chúa đã yêu thương chúng ta trước nhất, con cái cũng thế, chính qua các cảm nghiệm của chúng về cha mẹ mà chúng tiếp thu được khả năng biết yêu thương.
Trọng tâm của yêu thương là khả năng nhìn ra và hiểu thấu các nhu cầu của người khác cách chính xác và đáp ứng các nhu cầu ấy cách thích đáng. Cha mẹ ta đã làm chính việc ấy từ lúc ta chưa biết nói nhưng đã được cha mẹ thấu hiểu cho đến lúc ta biết diễn tả rành mạch các nhu cầu của mình.
Cũng như Chúa Giêsu Kitô, vì cảm nhận được lòng tin cậy của Chúa Cha, nên Ngài đã trở nên người đáng tin cậy, thì chúng ta cũng thế, chính lòng tin cậy của cha mẹ làm chúng ta cảm thấy chúng ta đáng tin cậy. Vọt lên từ suối nguồn tin cậy này, ta có thể lượng giá tác phong của ta đối với người khác. Họ có thể làm ta buồn, gợi lòng thù hận và giận dữ trong ta, nhưng cuối cùng, tình yêu của ta sẽ phải mạnh hơn lòng giận dữ của mình. Chúa Giêsu cũng đã giận dữ nhưng tình yêu của Ngài lớn hơn sự giận dữ. Qua cách đó, cha mẹ có thể làm nổi bật mối liên kết gắn bó giữa sự phát triển bình thường của con cái và sự quân bình giữa các lực lượng tích cực và tiêu cực trong chúng, và do đó giúp chúng thấy ra rằng cuộc sống Kitô hữu qui về việc sống như Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã vượt thắng thù hận bằng yêu thương, một yêu thương cuối cùng đã đòi chính cuộc sống của Ngài.
Trách vụ chính yếu của mục vụ trong những năm thơ ấu là chỉ cho cha mẹ thấy vai trò giáo dục của họ vượt xa việc giảng cho con hiểu các sự kiện liên quan đến cuộc sống theo khoa sư phạm mà thôi. Vì điều quan trọng hơn là phải giúp chúng có khả năng chiếm hữu được chính con người của chúng và ý thức được sự quân bình giữa hận thù, giận dữ và yêu thương. Việc phát triển tình yêu để chiến thắng ghen tương, ganh ghét, hận thù, trả đũa, phá hoại là đặt nền cho việc phát triển con cái họ trên mẫu mực Chúa Giêsu Kitô.
Công tác mục vụ trong những năm đầu đời này là giúp cha mẹ thấy được rằng các cố gắng giáo dục con cái có liên hệ mật thiết với việc sống cuộc sống Kitô hữu một cách sâu sắc, trong cuộc sống ấy, kết quả các tăng tiến của họ chính là nền tảng cho nhân cách của các con, một nhân cách đang tiếp cận nhân cách Chúa Kitô.
Ngày nay có muôn ngàn cuốn sách lớn nhỏ giúp các cha mẹ chuyển giao cách chính xác các tư liệu tín học mà con cái họ cần để ý thức đầy đủ về việc phát triển bản thân của chúng. Mỗi đứa trẻ có một bản chất riêng và việc phát triển của nó sẽ tạo nên một tương ước đầy tính trực giác (intuitive partnership) giữa cha mẹ và con cái. Vai trò của các vị chăn chiên là làm sao cho các cha mẹ thấy rằng khi họ giúp các con phát triển dễ dàng, thì không phải họ chỉ chu toàn trách nhiệm tự nhiên của bậc cha mẹ, mà một trật họ còn hành động như những đại biểu của Chúa trong việc gợi hứng các chiều kích như Chúa Kitô trong việc phát triển này.
TRƯỜNG HỌC
Trường học cũng thế nhưng có điều khác. Vì cộng đoàn nhà trường đưa đứa trẻ vào một thế giới rộng lớn hơn trong đó sự thân mật được thay thế bằng đua tranh và thành tích. Ở gia đình, mỗi đứa trẻ đều được yêu thương vô điều kiện bởi nó có con người riêng của nó. Tại trường học, đứa trẻ được nhìn nhận như một con người xã hội trong một khung cảnh coi thành tích là một yếu tố trong hệ thống giá trị. Ở đây, đứa trẻ học biết giá trị của nó như một người hành động trong khi trong gia đình giá trị chính của nó chính là thực tại của nó như một bản vị, với bản vị này một liên hệ yêu thương đã được thiết lập. Những thuộc tính này không cố định cứng ngắc. Vì gia đình dần dà cũng nhìn nhận thành tích và nhà trường cũng nhìn nhận giá trị bản thân, chỉ khác một điều là mỗi đàng nhấn mạnh một cách khác nhau. Và cả hai cùng bổ túc cho nhau trong trật tự Kitô giáo. Chúa yêu ta vô điều kiện chỉ vì ta hiện hữu nhưng Ngài cũng yêu những cố gắng nên giống Chúa Kitô của chúng ta. Hai chiều kích này có những vang dội quan trọng đối với hôn nhân sau này. Vợ chồng có ý nghĩa vô điều kiện đối với nhau như những đối tượng của tình yêu hỗ tương, và tình yêu này thăng trầm theo phẩm tính những thành tích cụ thể hiện thực của mối liên hệ.
Trường học là nơi để tăng tiến kỹ năng và kiến thức, nó cũng là nơi để dạy dỗ cách thân mật hơn về liên hệ bản ngã. Nó không thể thay thế được gia đình vì chỉ trong gia đình cái bản vị đang trưởng thành kia mới học được ý nghĩa hiện thực của yêu thương bằng cách nhìn và cảm nhận. Ðiều nhà trường có thể làm được là mở rộng phạm vi của cảm nhận kia bằng cách bàn bạc, tranh luận và khích lệ việc khai triển các giá trị. Ðây là lúc, đặc biệt ở tuổi thiếu niên, để người trẻ tranh luận về các vấn đề như ngừa thai, thủ dâm, ly dị, làm tình trước hôn nhân, phá thai và những chủ đề nặng ký khác. Một cuộc bàn luận về giá trị dính liền với các việc làm này là một phần trong các nhu cầu của người trẻ muốn tìm hiểu về các mối liên hệ bản thân.
Nhưng các thiếu niên không phải chỉ tìm hiểu mà thôi mà còn thực sự muốn can dự vào những liên hệ có tính khám phá đối với người khác phái nữa. Ðây là lúc nhà trường và gia đình phải phối hợp với nhau để giúp người trẻ hiểu toàn vẹn tính trong các liên hệ thực sự nhân bản. Ðặc biệt điều cần phải chỉ vẽ là giới tính là một quà phúc được ban cho ta không phải như một phương tiện thăm dò nhưng đúng hơn như một cách để đóng ấn cho một cam kết.
Ở điểm này xin lưu ý một điều. Ðó là người ta thường cảm thấy rằng dạy về liên hệ nhân bản chỉ liên hệ đến tính dục mà thôi và thời gian thích hợp để dạy điều ấy là tuổi thiếu niên. Như đã nói trên này, điều ấy không đúng. Ðứa trẻ đã ngụp lặn hàng chục năm trong yêu thương bản vị mà không cần đến biểu thức dục quan. Trong những năm này, người trẻ học biết nhìn nhận và được nhìn nhận, cho và nhận, đánh giá và được đánh giá và biểu lộ tình âu yếm bằng thể lý, xúc cảm và lời nói. Những đặc điểm của yêu thương trước tuổi dậy thì này cần được tan hòa vào sự biểu lộ dục quan trong tính dục. Ðó quả là thách đố lớn lao nhất của tình yêu. Một cách đặc biệt, yêu đương cần sự tan hoà vào nhau giữa dục quan và cảm quan, và trong giai đoạn phát triển này, mục vụ rất chủ yếu để việc ấy hoàn thành. Ðức trong sạch liên quan đến việc phát biểu đúng đắn sự tan hòa này. Nếu tính dục được sử dụng một cách riêng rẽ, nó sẽ hết còn là nhân bản đầy đủ, còn nếu bỏ qua chiều kích tính dục, cuộc hội ngộ yêu thương sẽ bị lệch lạc méo mó.
THỜI GIAN HẸN HÒ
Theo truyền thống, thời gian thôi học thường đuợc mục vụ quan tâm trong đó người trẻ được cảnh cáo phải sống trong sạch, trên thực tế có nghĩa là phải tránh giao hợp tính dục. Vì giao hợp tính dục có nguy cơ dẫn đến việc thai nghén, nên đã có cái ngăn đe sẵn ở bên trong rồi, lại thêm lời khuyên thiêng liêng nữa. Phần lớn cái ngăn đe là do sợ sệt, phần nhỏ là do niềm xác tín rằng giao hợp thuộc về hôn nhân. Lý do không cần tránh giao hợp trước hôn nhân là cảm nghiệm của những người đang yêu nhau cho rằng họ muốn giao hợp để hoàn tất những gì họ cảm nhận nơi nhau.
Với việc phổ biến rộng rãi các phương tiện kiểm soát sinh đẻ, nỗi sợ mang bầu đã giảm nhiều và lý do tiêu cực tránh tính dục phần lớn đã được cởi bỏ. Trong các giới chính thống, người ta đổ tội cho việc ra đời của kiểm soát sinh đẻ. Theo chúng tôi nghĩ, điều thích đáng hơn nên hiểu rằng những căn bản khiến phải giới hạn việc giao hợp bên trong hôn nhân chưa được đưa ra cách đúng đắn. Lý do chỉ nên giao hợp trong hôn nhân không phải vì điều bất chính (illicit) nay đã thành chính đáng nhưng đúng hơn vì hôn nhân mới có đủ những điều kiện mang lại công bình cho việc giao hợp tính dục.
Nếu quan niệm giao hợp tính dục như một hoạt động cực kỳ tích cực và khẳng nhận, góp phần vào việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng nhau tăng trưởng; góp phần duy trì các đặc tính liên tục, đáng tin cậy và có thể dự đoán được; và góp phần vào các đặc điểm cá nhân khác như đã đề cập ở Chương Tám, thì cần phải có mối liên hệ mà ta gọi là hôn nhân để đem lại cho nó đầy đủ cơ hội. Giao hợp tính dục tỏ ra nghèo nàn trước hôn nhân vì trọn bộ tiềm năng của nó không có cơ hội được phát biểu ra.
Ðộc giả có thể cho rằng tuy giải thích có khác nhau, nhưng tựu chung thì người ta mong người trẻ phải tiết dục trước khi kết hôn, nhưng điều đó là điều không thể làm được và sở dĩ không làm được là vì cả hai phái đều bị thúc ép cao về tính dục, nhất là người đàn ông cần được giải tỏa.
Không ai chối cãi sức mạnh của sự thúc ép tính dục này nó khiến người ta bỗng nhiên xuất tinh và thủ dâm. Sự thúc ép có đó và đó là cách nhu cầu thể xác có thể được giải tỏa. Nhưng như đã nói, cái thách đố chính của con người là phối hợp dục quan với tình yêu, nên việc giải tỏa thúc ép tính dục mà thôi tuy có thể cần thiết nhưng không diễn tả đầy đủ tính toàn vẹn của con người. Cho nên chắc chắn cần đến hy sinh và cố gắng. Chúng tôi cho rằng người ta sẽ làm được cả hai khi họ thấy rõ lý do của chúng.
Lý do để giới hạn giao hợp tính dục trong mối liên hệ của một cam kết độc chiếm và vĩnh viễn là vì chỉ trong đó nó mới tìm được lối diễn đạt chân thực cái tiềm năng to lớn của nó mà thôi. Cần có hy sinh để khai thác hết cái ý nghĩa phong phú của nó và điều này dễ hiểu hơn nhiều lắm. Quan điểm truyền thống cho rằng cái bất chính và sai lạc đả trở thành chính dáng và đúng đắn bên trong hôn nhân. Ðiều ấy đã không và hiện không tương hợp với kinh nghiệm nhân bản, và do đó không nêu lên được sự khích lệ thích đáng khiến người ta cố gắng và hy sinh. Tính dục được diễn tả như một cái gì phong phú và bổ ích (rewarding), và thực sự như vậy, và như đã giải thích, việc tạm hoãn nó có lý do đúng đắn và phong phú, tức là để đem công bình lại cho tiềm năng lớn lao của nó.
Tính dục để phục vụ mối liên hệ, điểm chủ yếu đối với lối giải thích này, quả có nghĩa nhân bản. Nó không làm cho việc tiết dục dễ dàng gì hơn, vì nó đòi hỏi không kém cố gắng và hy sinh, nhưng nó đụng tới cái phần bản vị con người là phần có thể đáp ứng bằng câu trả lời khẳng định.
Còn những lời giải thích truyền thống khác thì sao, như làm tình là để có con mà con cái thì thuộc về hôn nhân? Có nhiều điều đúng trong quan điểm trên nhưng chân lý này không còn sắc bén lắm với việc xuất hiện những phương pháp điều hòa sinh đẻ kể cả những phương pháp được Giáo hội Công giáo chấp nhận lẫn những phương pháp không được chấp nhận. Nhưng chính đó là một trong những lý do để lên án việc kiểm soát sinh đẻ, nghĩa là nó cắt đứt sợi dây liên kết giữa việc truyền sinh và việc giao hợp và do đó trệch ra ngoài sự viên mãn của hành vi. Ðiều này chỉ thuyết phục được người ta cho đến khi họ hiểu ra rằng đó không phải là cách các cặp vợ chồng cảm nghiệm việc giao hợp. Mỗi một và mọi hành vi tính dục đều được tiếp cận như cuộc gặp gỡ bản thân trong đó thân xác, tâm tư và cảm quan kết hợp nên một với nhau. Ðấy là cảm nghiệm căn bản. Sự kiện một tinh trùng và một trứng có thể kết hợp với nhau không phải là phần trực tiếp của cảm nghiệm này. Nó là hậu quả sinh học diễn biến độc lập với cảm nghiệm hiện sinh của hai vợ chồng. Ðó chính là lý do tại sao cái được gọi là tội ác của ngừa thai lại khó nắm được đến thế. Vì đối với đa số người ta, giao hợp với ý định không sinh con được nhìn như một bổ túc đối với cảm nghiệm hiển nhiên kia; nó là thực tại yêu thương được dẫn tới kết luận sau cùng.
Tuy nhiên, khi tính dục được quan niệm như để phục vụ cho mối liên hệ, thì có hay không có kiểm soát sinh đẻ, điều ấy chẳng liên quan chi. Sử dụng tính dục trước cái biểu thức phong phú và thích đáng của nó là vi phạm đến chính cuộc gặp gỡ nhân bản và luận chứng này có ý nghĩa vô chừng. Giữ mình không giao hợp không còn phải là để tránh có thai, vốn không phải là phần nội tại của cảm nghiệm nơi hai vợ chồng, nhưng là cách để mua được ý nghĩa viên mãn của tính dục trong mối liên hệ bản thân.
Cho nên mục vụ trong thời kỳ này là để phát triển ý nghĩa của mối liên hệ. Từ cả hai quan điểm tự nhiên và Kitô giáo, mục vụ cần nhấn mạnh đến mối liên hệ, đến giao ước, đến lòng trung thành, đến cam kết. Nói cách khác, không được sử dụng và khai thác con người như những viên đá lót đường cho tiến bộ của tăng trưởng. Khi tính dục mất ý nghĩa là một phục vụ cho mối liên hệ, nó sẽ trở thành khí cụ khai thác trong đó con người bị hy sinh trên bàn thờ của sự thoả mãn tính dục mà thôi, một thứ thỏa mãn làm nghèo nàn và thực sự làm méo mó chính ý nghĩa của nó.
Thời gian hẹn hò là thời gian để khám phá ra các đặc điểm của người kia. Các đặc điểm này thuộc lãnh vực xã hội, xúc cảm, tri thức, thể lý và tinh thần. Liệu ta có bình an trước mặt người bạn của ta hay không? Ta có thấy thái độ của họ đối với cuộc đời tương tự như thái độ của riêng ta hay không? Ta có cảm thấy được thấu hiểu hay không? Liệu ta có nghĩa lý với nhau trên phương diện xúc cảm hay không? Có đầy đủ thông đạt chưa? Có biểu lộ tình âu yếm đủ không? Có trách nhiệm chung về các quyết định không? Thất bại có được chia sẻ hay trách nhiệm có bị tránh né không? Những vấn đề trên và những vấn đề tương tự rất quan trọng để khám phá xem liệu cái tương ước giữa hai người có trở thành vĩnh viễn được không. Mục vụ nên nâng đỡ những cuộc hành trình khám phá này giữa các người trẻ với nhau và phải bảo đảm không dùng những đường ngang lối tắt.
ÐÍNH HÔN
Khi hai người thấy các câu trả lời cho câu hỏi trên có tính cách tích cực, họ sẽ nhích lại gần nhau hơn và sẵn sàng chuẩn bị cho cam kết cuối cùng của hôn nhân. Có thể họ không đọc hết bảng liệt kê trên để xét từng câu hỏi một, nhưng họ thấy một cảm thức hòa nhập hướng tới nhau, một cảm thức cho họ trực giác thấy rằng họ muốn sống bên nhau mãi mãi.
Càng ngày các cặp đã đính hôn hoặc đã cam kết với nhau càng có cơ hội được tham dự những khóa học trong đó họ được huấn luyện thực tiễn về xúc cảm và tính dục.
Trong quá khứ, người ta thường nghĩ rằng một khóa học như thế đã đủ giúp các cặp vợ chồng sống suốt cuộc sống hôn nhân của họ. Rõ ràng không phải như vậy. Vì các khóa học này chỉ tiên liệu các biến cố và việc nắm được các biến cố này thường chỉ có tính cách tri thức. Các sự kiện chỉ được nắm trong đầu. Có một số sự kiện như mua nhà, sắp đặt nhà, học cách điều hòa sinh đẻ rất hữu ích có thể học trước, còn việc sống ngày này qua ngày nọ với những sắc thái tinh tế của nó thì chỉ có thể học được bằng thực hành sau này mà thôi.
Ngày nay, các tổ chức Công giáo khắp nơi trên thế giới có những khóa học khác nhau cho các cặp đã đính hôn, và các chi tiết thì khác nhau từ khóa này đến khóa khác. Các khóa này rất hữu ích miễn là phải quan niệm chúng trong bối cảnh các chương trình liên tục nhằm nâng đỡ trước và sau hôn nhân.
LỄ CƯỚI
Lễ cưới vẫn còn là dịp long trọng trong đó hai người trao cho nhau lời cam kết bản thân của mình và chủ yếu nhường cho người kia quyền trên thân xác mình suốt cả cuộc đời. Ngôn từ của lễ nghi có khác nhau và sự trao đổi quyền lợi được phát biểu dựa trên các mục đích của hôn nhân tức con cái, yêu thương và trung thành với nhau và phép bí tích. Thực vậy, hai vợ chồng ban bí tích cho nhau, còn sự hiện diện của linh mục, của nhân chứng và cộng đoàn là yếu tố công cộng của nghi lễ theo nghĩa cuộc hôn nhân có cả chiều kích công và tư.
Theo truyền thống, Giáo hội quan tâm đến việc lễ cưới phải là việc của hai con người tự do kết hôn với nhau, có ý ngay lành và nghi lễ được diễn ra đúng cách. Cho đến những năm gần đây, những đòi hỏi theo giáo luật này đã được coi như rất quan trọng và bài giảng được nổi bật với những 'điều tốt' hoặc 'cùng đích' của hôn nhân.
Nhưng thực ra, lễ cưới chỉ là việc khởi đầu của một liên hệ trải dài (unfolding relationship) có thể kéo dài trong 50 năm hoặc hơn thế nữa, và yếu tính của hôn nhân hệ ở cái giao ước ấy giữa hai vợ chồng với nhau. Do đó bài giảng nên nhấn mạnh đến cả chiều dài lẫn chiều sâu của cuộc hội ngộ này căn cứ trên việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng nhau tăng trưởng bên trong cái khung vĩnh viễn đáng tin cậy. Cần phải đặt những biến cố nhân bản này vào bối cảnh liên hệ giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài trong Cựu Ước và giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài trong Tân Ước. Nói cách khác, ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác, các yếu tố nhân bản của hôn nhân phải được biến đổi thành biểu tượng Thiên Chúa-con người, Chúa Kitô-Giáo Hội. Nhưng cuộc hội ngộ giữa vợ chồng có nghĩa hơn một dấu hiệu, một biểu tượng; như lời một thần học gia, "tình yêu và lòng chung thủy mà những người chồng và những người vợ Kitô hữu có cho nhau không phải chỉ là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa - nhưng họ là dấu chỉ hữu hiệu, là biểu tượng đã hoàn tất và là sự hiển linh thực sự của tình yêu Thiên Chúa như đã tỏ hiện trong Chúa Giêsu Kitô" (1).
Nhưng chỉ diễn tả mục vụ bằng những ngôn từ trên đây mà thôi chưa đủ, linh mục còn cần phải nêu rõ những phương thế nâng đỡ khác nhau dành cho cặp vợ chồng.
MỤC VỤ SAU KHI ÐÃ LẤY NHAU
Ðiều càng ngày càng rõ ràng là sau khi cưới nhau, công tác mục vụ vẫn còn cần, và thực sự còn cần cho đến hết đời sống hôn nhân. Mọi linh mục và mọi cặp vợ chồng đều nên làm quen, ít nhất cũng trong những nét đại cương, với chu kỳ hôn nhân đã được sách này phác thảo để họ có thể thấy ra ý nghĩa các biến cố được vợ chồng cùng nhau vượt qua.
SỰ NÂNG ÐỠ CỦA GIÁO XỨ
Có lần có người hỏi tôi rằng tôi sẽ tặng gì cho các cặp vợ chồng mới cưới làm quà cưới. Tôi trả lời rằng tôi sẽ cho họ số điện thoại của tôi và yêu cầu họ điện thoại cho tôi xem tôi có thể giúp gì cho cuộc hôn nhân của họ hay không. Ðiều tôi muốn nói ở đây là cái cộng đoàn cận thân cần phải sẵn sàng để giúp đỡ những cặp vợ chồng mới cưới. Trong xã hội ta, sự cô lập về xã hội là một hiện tượng đáng lưu ý. Các cặp vợ chồng mới cưới có thể chạy tới với bạn bè thân thuộc, nhưng cũng có thể không và không biết phải chạy tới ai. Trên thực tế, họ có thể chấp nhận phải nói chuyện với một người tương đối xa lạ, miễn là có được sự tin cậy và sợi dây liên kết của những Kitô hữu đồng đạo. Như thể em bé lúc rửa tội cần cha mẹ đỡ đầu, thì vợ chồng mới cưới cũng thế, họ cũng cần có cặp vợ chồng khác sẵn lòng giúp đỡ họ khi họ cần. Cặp vợ chồng này không nhất thiết phải được huấn luyện hay chuyên môn trong lãnh vục hôn nhân. Họ chỉ cần biết quan tâm và sẵn sàng lắng nghe khi một trong hai vợ chồng cần nói chuyện với họ, cả chuyện tầm phào lẫn chuyện quan trọng. Quá nhiều đau khổ trong hôn nhân và ngay cả tan vỡ nữa đã xẩy ra vì gặp những khó khăn trong mối liên hệ mà không sao nói ra cho hả dạ để điều hướng lại cho ổn thỏa được.
Sự sẵn sàng giúp đỡ của những cặp vợ chồng đã cưới nhau lâu dành cho cặp vợ chồng mới cưới là một phương cách mà công tác mục vụ có thể sử dụng để cung ứng cho vợ chồng mới cưới. Không cần phải nói, sự giúp đỡ này phải kín đáo, giữ bí mật và yêu thương săn sóc. Tất cả những điều này đều sẵn có trong giáo xứ, chỉ cần thể hiện những tiềm năng sẵn có đó mà thôi.
Như đã đề cập, sự sẵn sàng giúp đỡ của cặp vợ chồng này dành cho cặp vợ chồng kia không cần phải có huấn luyện chuyên môn. Vai trò của các huấn đạo viên chuyên môn về hôn nhân lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Họ cung cấp những ý kiến chuyên môn khi mối liên hệ đụng phải những trở ngại đáng kể. Các cặp vợ chồng bảo trợ nêu trên có mặt sẵn đó để giúp bất cứ điều gì họ có thể giúp được, một giúp đỡ phát sinh từ mối quan tâm và kinh nghiệm riêng của họ.
CÁC NHÓM
Việc hội họp giữa các cặp vợ chồng theo từng nhóm là một bước xa hơn trong chiều hướng giúp đỡ lẫn nhau. Nhóm không phải là sự chọn lựa đầu tiên của mọi người nhưng chúng có thể đem lại những trợ giúp rất lớn. Các cặp vợ chồng nên thành lập các nhóm đại diện cho những người sống đời đôi bạn mà chính họ đã lựa chọn, những nhóm này sẽ trở thành những phương thế để gom góp, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm cũng như đào sâu đức tin theo ý nghĩa của hôn nhân. Phần lớn con người ta, những người đã lấy nhau cũng vậy, vẫn tin rằng kinh nghiệm của họ rất độc đáo. Khi gặp khó khăn, rất khó cho họ thấy rằng người khác cũng có những kinh nghiệm tương tự và đã vượt qua được chúng. Nhóm có thể giúp phá đổ các rào ngăn cách và đem lại sự nâng đỡ lẫn nhau. Sự nâng đỡ này có thể có về phương diện thực tế, xã hội, xúc cảm, thể lý, tâm linh. Các cặp có thể giúp đỡ nhau việc ngồi trông con, lúc đau yếu hay bất cứ khi nào có nhu cầu.
Khi các con ra đời, các cha mẹ có thể chia sẻ các nhu cầu cũng như các lo âu xao xuyến của mình trong việc nuôi dưỡng chúng, làm dễ dàng sự tăng trưởng về nhân cách của chúng và cảm thấy an tâm đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ làm cha làm mẹ của mình. Một cách đặc biệt, các cha mẹ có thể giúp nhau trong việc dạy dỗ các con trong các vấn đề đức tin và tính dục. Cả hai vấn đề này đều có những khó khăn và chia sẻ kinh nghiệm cho nhau sẽ giúp rất nhiều.
Trên hết, nhóm là một thực tại để nâng đỡ nhau. Vợ chồng nào cũng gặp khó khăn thách thức, cho nên thái độ cởi mở chân thực sẽ củng cố được động lực kích thích ta kiên trì với tình yêu giữa muôn trùng đau khổ thử thách. Tổ chức những nhóm chính thức là điều khó thực hiện. Nhưng có những hoàn cảnh chỉ cần đến những nhóm không chính thức. Một trong những hoàn cảnh đó là lúc buổi chiều khi các bà mẹ, hoặc đôi khi các ông bố, đến đón con đi học về. Ðây là cơ hội có thể tổ chức để đáp ứng nhu cầu của các người có gia đình. Các thánh lễ tại gia đang trở thành những biến cố thông thường trong sinh hoạt giáo xứ. Ðó là dịp tốt để các người có gia đình họp lại với nhau và bài giảng có thể nói về những vấn đề trong tương quan vợ chồng.
ÐỨA CON ÐẦU
Việc ra đời của đứa con đầu rất quan trọng đối với gia đình. Trong quá khứ, đóng góp chính của Giáo hội là rửa tội cho nó. Ngày nay, ta hiểu ra việc chào đời của đứa con đầu đã gây nên những biến động như thế nào cho cuộc hôn nhân. Ðặc biệt người mẹ, là người thường phải nghỉ việc, có thể cảm thấy rất cô lập vì hoàn cảnh mới, và do đó rất cần được nâng đỡ. Bà có thể bị trầm cảm trong một thời gian và cần người khác giúp đỡ. Những khả năng giúp đỡ trong hoàn cảnh như thế thì nhiều vô tận.
CHU KỲ HÔN NHÂN
Mặc dù mấy năm đầu tiên rất quan trọng trong cuộc sống hôn nhân và có liên quan mật thiết với kết cục của nó, liên hệ hôn nhân tồn tại qua nhiều giai đoạn của chu kỳ hôn nhân. Những giai đoạn khác nhau này, từng đã được dẫn giải trong sách, đòi hỏi những kiểu nhóm, hội họp và trao đổi khác nhau. Các cha mẹ có thể tham dự các hiệp hội phụ huynh và thầy cô và do đó thành lập những liên hệ trợ giúp nhau từ góc cạnh đó.
VAI TRÒ CỦA LINH MỤC
Công tác chăm lo mục vụ đối với những người lập gia đình không phải là trách nhiệm của linh mục mà thôi. Ngài có đó để hành xử như người trung gian đưa các cặp vợ chồng lại với nhau và để họ diễn tiến bằng năng lực riêng của họ. Ngài đưa lại liên tục tính, là điều rất cần thiết, và sinh động hóa cộng đoàn về phương diện tâm linh. Ngài có thể tổ chức thánh lễ và những biến cố phụng vụ khác để luôn luôn nhắc cho giáo dân của ngài nhớ rằng kinh nghiệm hàng ngày của họ về đời sống hôn nhân chính là những gặp gỡ của họ với Thiên Chúa. Ðó là trách vụ đặc biệt của ngài và để làm việc đó, ngài cần được chuẩn bị để tương đối hiểu chu kỳ của cuộc sống hôn nhân và được trang bị bằng một kiến thức Thánh Kinh đủ để thoả mãn nhu cầu của cả hai. Một phụng vụ liên tục cho đời đôi bạn sẽ được đề cập trong chương kế tiếp.
TÓM LƯỢC
Chăm sóc mục vụ cho hôn nhân là một diễn trình bao gồm việc chuẩn bị con người qua cả một thời kỳ trước khi kết hôn và đặc biệt là sau khi kết hôn. Mục tiêu là giúp những người lập gia đình thấy được rằng cuộc sống hàng ngày của họ chính là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, một cuộc gặp gỡ được hiện thực hóa trong sự trao đổi từng phút giữa họ với nhau và giữa họ và con cái.
Tài Liệu Tham Khảo
1. Kasper, W., Theology of Christian Marriage, P. 35 Burns and Oates, 1980.
Kính gửi:
- Linh Mục Vũ Thành - Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
- Linh Mục Trịnh Thế Huy - Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang.
- Linh Mục Hoàng Văn Thiên - Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức.
Giáo Phận Gaveston-Houston
Kính thưa Quý Cha,
Người Việt Nam chúng con ở quê nhà cũng như tất cả mọi người trên thế giới khi được tin đoàn hành hương về Đại hội Thánh Mẫu tại Dòng Đong Cong Carthage, Missouri gặp tai nạn rủi ro trên đường đi đều rất đau buồn vì những mất mát quá lớn lao cho các giáo xứ. Thay mặt Ban Mục Vụ Bác Ái Xã Hội TGP Saigon, con xin gửi lời chia buồn đến Quý Cha và đặc biệt gởi lời chia buồn sâu sắc đến gia đình các anh chị em gặp tai nạn. Con còn nhớ cách đây hai năm, cũng trong dịp Đại Hội Thánh Mẫu 2006 con có dịp đến thăm giáo xứ của Quý Cha. Chính các anh chị em này và nhiều giáo dân khác nữa đã hăng say không tiếc thời giờ, tiền của, sức lực đi vận động giúp đỡ cho những người đau khổ tại Việt nam. Hôm nay sự nhiệt thành hăng say tông đồ của các ông bà anh chị em đó đã trở nên của lễ dâng Thiên Chúa.
Hiệp ý với Quý Cha, với gia đình của các anh chị em nạn nhân đã qua đời, con xin dâng 20 lễ để cầu nguyện cho các linh hồn và 10 lễ cầu bình an. Xin Chúa thương ban cho linh hồn các ông bà, anh chị mà chúng ta rất mến thương này được mau hưởng tôn nhan Chúa. Con cũng xin Chúa, Mẹ Lavang an ủi cách riêng gia đình các nạn nhân trong cơn gian nan thử thách đức tin này
Xin Quý Cha cũng chuyển lời phân ưu của con đến các anh chị em Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Giáo xứ Lộ Đức và Giáo xứ La Vang.
Hiệp thông sâu xa trong lời cầu nguyện.
Kính thư,
Lm. Joseph Đinh Huy Hưởng
Trưởng ban Mục Vụ Bác Ái Xã Hội TGP Saigon
Đến nay thế vận hội quốc tế Olympia ở Bắc Kinh đã bắt đầu được hơn một tuần và còn khoảng một tuần nữa sẽ kết thúc, nhưng kẻ toàn thắng trong toàn thể các cuộc đua đã được xác định một cách rõ ràng, đó là: Ủy Ban Olympia Quốc tế (IOC) và nước chủ nhà.
Nhưng ở đâu có người thắng trận thì đương nhiên cũng phải có kẻ thua trận. Và người thua trận cũng đã được xác định: Các quyền con người, quyền tự do báo chí và dĩ nhiên cả tinh thần thể thao thế vận hội.
Trước hết, Ủy Ban Olympia: Toàn thể tiền thu được do việc thị trường hóa các cuộc đua ở Trung Hoa cùng với các cuộc đua thể thao Mùa Đông ở Turin (Ý) vào năm 2006 số tiền lên tới sáu tỷ USD.
Tiếp đến, nước chủ nhà Trung Hoa: Những ai cho rằng việc dành quyền tổ chức thế vận hội 2008 này cho một nhà nước độc tài khổng lồ nhất hành tinh này, có thể tạo nên áp lực thúc bách nhà nước này thực hiện được một bước nhảy vọt khổng lồ trong lãnh vực tự do dân chủ, sẽ hoàn toàn tự dối mình. Dĩ nhiên nhà nước Trung Hoa cũng đã tỏ ra nhún nhường trong một vài cung cách đối xử, nhưng tuyệt nhiên chưa hề có sự cải thiện và sửa đổi rõ ràng trong các chính sách, nếu không nói là tình huống còn tồi tệ hơn. Theo nhận xét của ông Günter Nooke, người phụ trách về nhân quyền của chính phủ Liên Bang Đức, để tránh những cuộc biểu tình phản đối chế độ có thể xảy ra trong thời gian thế vận hội ở Bắc Kinh và qua đó sẽ làm hoen ố bộ mặt của chế độ mà họ đang cố công đánh bóng bằng mọi giá, chính quyền Trung Hoa đã truy nã và quản thúc tại gia khá nhiều người mà họ nghi ngờ ghép vào «thành phần phản động».
Bởi vậy, ngay trong ngày khai mạc thế vận hội mọi lễ nghi đều tiến hành một cách hoành tráng, đẹp đẽ và xuôi chảy như đã dự định, chứ không hề có bất cứ ai trong số hàng triệu người dân bất đồng với các chính sách của chế độ, những người bị bắt bớ, bị khủng bố, v.v… đã có thể tổ chức biểu tình. Ngược lại, tập đoàn lãnh đạo chế độ tỏ ra vui mừng hả hê trước các thành công trông thấy trên chính trường quốc tế. Vâng, chưa bao giờ có nhiều các nhà chính trị quan trọng trên khắp thế giới đã tới thủ đô Bắc Kinh như trong dịp thế vận hội này. Đảng trưởng đảng cộng sản kiêm chủ tịch nhà nước Trung Hoa Hồ Cẩm Đào cũng chưa bao giờ phải mỏi tay bắt tay chào đón các nhà chính trị hàng đầu thế giới như trong dịp thế vận hội này. Đúng vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sự Olympia là đã có hơn 80 vị quốc trưởng và thủ tướng các quốc gia trên khắp thế giới, trong số đó có cả tổng thống Hoa Kỳ Georg W. Bush, đã đến tham dự ngày khai mạc thế vận hội tại Bắc Kinh.
Sự có mặt của các nhà chính trị hàng đầu thế giới trong dịp thế vận hội này là một hậu thuẫn hùng hậu cho sự quảng cáo của chế độ cộng sản Trung Hoa. Cái đặc diểm của thế vận hội Bắc Kinh là: Một đàng, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Hoa ung dung hãnh diện ngồi vào chiếc ghế trên chính trường quốc tế do các chính khách hàng đầu của các nước dành sẵn cho; một đàng khác, trong các nhà tù và trại giam ngoài các sân vận động và các vị trí tổ chức các cuộc đua Olympia, có hàng triệu người công dân bất đồng chính kiến đang phải sống kiếp tù đày bất công.
Riêng tổng thống Hoa Kỳ Goerg W. Bush nhân dịp chuyến viếng thăm Bắc Kinh của ông đã thẳng thắn lên tiếng phê bình những vi phạm nhân quyền của nhà nước Trung Hoa và đặc biệt ông đòi hỏi chế độ Tàu Cộng phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Nhưng chính quyền Trung Hoa đã phản bác lại một cách hết sức nhẹ nhàng, vừa phải, chứ không hùng hổ như bình thường vẫn phản bác. Điều đó muốn nói lên rằng tập đoàn cộng sản Bắc Kinh đã coi nặng và đánh giá cao sự quảng cáo và đánh bóng bộ mặt chế độ trong những ngày tổ chức thế vận hội này như thế nào! Đó là sự quảng cáo thuần tuý kiểu cộng sản! Vì họ không muốn làm phiền lòng bất cứ ai, và nhất là tạo một ấn tượng tích cực trước các chính khách quốc tế và hàng trăm ngàn vận động viên của các câu lạc bộ thể thao các nước đang tham dự thế vận hội tại nước họ.
Ở đây, điểm bi kịch đáng buồn là trường hợp ông Sarkosy, tổng thống Pháp và đương chức chủ tịch hội đồng cố vấn của Liên Hiệp Âu Châu, luôn tìm cách đứng ngoài vòng tranh chấp. Bởi vì, sau những xung khắc và rắc rối giữa hai nhà nước Pháp và Trung Hoa do sự cố cuộc rước lửa Olympia bị cản trở tại Paris và việc ông Sarkosy đe dọa tẩy chay không tham dự ngày khai mạc tại Bắc Kinh nếu nhà nước Trung Hoa không chấp nhận đối thoại với các đại diện của Đức Dalai Lama về tình trạng của Tây Tạng, ông đã rõ ràng cho thấy ông muốn tìm cách giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Cụ thể, ông Sarkosy đã hứa với nhà nước Trung Hoa là trong tuần tới ông sẽ không tiếp chuyện Đức Dalai Lama khi ông này đến thăm Pháp quốc.
Nhưng người ta tự hỏi: Phải chăng vì muốn bảo vệ những quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa Pháp và Trung Hoa không bị sứt mẻ, nên ông Sarkosy, đương chức chủ tịch hội đồng cố vấn LH Âu Châu, đã thúc thủ ngồi im chứ không dám lên tiếng đề cập rõ ràng về chủ đề nhân quyền trong dịp ông có mặt tại Bắc Kinh? Nếu đó là sự thật thì cả lả một thất bại luân lý nặng nề cho toàn thể Liên Hiệp Âu Châu!
Mặc dù những hy vọng rằng, với ngọn lửa thiêng Olympia đang ngày đêm rực cháy từ hơn hai tuần qua tại sân vận động Bắc Kinh, sẽ xua đuổi được bóng đêm độc tài và thỉnh mời được nữ thần tự do trở lại với dân tộc Trung Hoa, hoàn toàn chỉ là một điều mơ mộng, một điều không tưởng. Nhưng trong những ngày này, mọi con mắt của cả thế giới đang hướng nhìn về Trung Hoa và chưa bao giờ các phương tiện truyền quốc tế lại tường trình nhiều tin tức và các bài bình luận - cả tích cực lẫn tiêu cực - về Trung Hoa như thế. Và cũng chưa bao giờ các cơ quan nhân quyền trên khắp thế giới lại hoạt động bênh vực một cách mạnh mẽ cho các quyền con người ở Trung Hoa như thế. Chỉ hy vọng rằng những quan tâm theo dõi này sẽ không vô ích, nhưng mang lại những hiệu quả tích cực nào đó cho đất nước Trung Hoa. Dĩ nhiên, không ai nhằm lật đổ chế độ độc tài Bắc Kinh như là mục đích chính. Điều đó thuộc phạm vi tự quyết của dân tộc Trung Hoa. Các phương tiện truyền thông chân chính và các cơ quan nhân quyền quốc tế chỉ tìm cách tạo điều kiện cho những thay đổi và mở cửa hợp lý mà thôi.
Còn thái độ lập lờ của Ủy Ban Olympia quốc tế IOC không hề quan tâm đặt nặng vấn đề nhân quyền ở Trung Hoa, đã rõ ràng cho thấy sự thoái hóa luân lý của họ và những lý tưởng thể thao lành mạnh của Olympia đang bị họ thương mại hóa như thế nào. Cả một số không nhỏ các vận động viên cũng tham dự trong đó. Ngay trước ngày khai mạc ở Bắc Kinh, bà Rica Reinich, nữ vận động viên bơi lội người Đức từng đoạt ba huy chương vàng trong thế vận hội 1980, đã chân thành đánh động qua lời tuyên bố của bà với phóng viên báo «Rheinischen Post», số ra ngày 8.8.2008 rằng: «Tôi nghĩ rằng ngày nay đại đa số các vận động viên thể thao, dù thuộc môn bơi lội hay môn thể thao nhẹ, dù môn chèo thuyền hay đua xe đạp, đều sử dụng thuốc kích thích». Sau cùng, bà Rica Reinich còn quả quyết là một số vận động viên người Đức cũng sử dụng thuốc kích thích. Bà nói: «Tôi không muốn nêu danh ai cả, nhưng có nhiều vận động viên muốn đạt được những thành quả tốt trong môn thể thao của mình, thì không còn phương tiện nào hiệu nghiệm hơn là sử dụng thuốc kích thích. Nhưng những vận động viên như thế hầu như không bao giờ dành được chiến thắng tại thế vận hội.»
Những điều cựu nữ vận động viên bơi lội Reinich chân thành phát biểu là một sự thật chua chát và lộ liễu. Tuy nhiên, sự thật đó có lẽ lại gần gũi với thực tế hơn là lý tưởng «fair-play». Phải chăng thực tế đó lại không xảy ra tại thế vận hội Bắc Kinh?
Trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay của Quê Hương và Đất Nước, em đã hỏi tôi: em cần làm những gì ? Phải bắt đầu từ đâu ? Ưu tiên số một là điều nào ?
Tôi xin trả lời cho em, một cách đơn sơ và vắn gọn như sau:
- Hồi tôi ở vào lứa tuổi mười tám đôi mươi, giống như Em ngày hôm nay, tôi mang hoài bảo làm cách mạng, nhằm thay đổi toàn diện con người và toàn thể thế giới.
-- Lên tới bốn mươi, tôi nhận thấy những ấp ủ ngày xưa chỉ là ảo vọng và mộng mơ. Cho nên, tôi đã cố gắng thu gọn lại những ước muốn của mình, chỉ tìm cách cải hóa gia đình vợ con và thay đổi một vài bạn bè thân tín mà thôi…
- Hôm nay, sau khi đã bước vào lứa tuổi từ sáu và bảy mươi trở lên, tôi càng ngày càng xác tín rằng: khu vườn độc nhất mà tôi có thể chăm bón, ươm trồng, gieo vãi một vài bông hoa, chính là tâm hồn và cuộc đời của tôi.
- Bao lâu tôi chưa thay đổi chính con người của mình, để ngày hôm nay sống hạnh phúc và biết yêu thương hơn ngày hôm trước, những mộng tưởng đó đây chỉ là tuyên truyền láo khoét. Đứng núi nầy trông núi nọ. Còn tệ hơn nữa là biến thân làm nạn nhân, vì tưởng rằng bao nhiêu người hai bên cạnh, đã cố tình gây ra tai họa cho đời mình. Phải chăng chính vì họ, cuộc đời tôi đã đi vào ngõ cụt ? Phải chăng cũng chỉ vì họ, tôi đã mất hết khả năng tô điểm và làm đẹp cuộc đời ? Rốt cuộc tôi có thái độ tố cáo, chửi bới, trách móc, đổ lỗi, hận đời. Và cứ như vậy, tôi dần dần trở thành chua cay, héo mòn, bị động, chán nản và tuyệt vọng.
Em ơi, cuộc đời không phải đơn giản như vậy đâu !
Em cũng như tôi, chúng ta « Làm Người » là làm chủ cuộc đời của chính mình. Hạnh phúc và yêu thương ở trong tầm tay của chúng ta:
« Ánh mắt Em là cả một Bầu Trời,
« Bàn tay Em huyền nhiệm thấu từng mây,
« Bước chân Em gieo hạnh phúc mỗi ngày,
« Quả tim Em: Nguồn Suối không cạn vơi. »
Bắt đầu tư giây phút Em thay đổi nội tâm hay là não trạng của chính mình, tự khắc thực tại bên ngoài đã dần dần cải biến.
- Trên những con đường còn lầy lội hôm nay, nếu Em biết mở mắt nhìn, một đóa hoa dại đang tô điểm cuộc đời của Em.
- Trong khóm nhà lá, với bao nhiêu trẻ em gầy guộc, thiếu dinh dưỡng, nếu Em biết mở lòng, Em sẽ đón nhận những nụ cười chân tình và ngập tràn ánh sáng.
- Cuộc sống chung quanh Em còn chật chội, ngột ngạt, nhưng nếu Em biết nhìn lên, một bầu trời bao la đang mời gọi lòng tha thứ và bàn tay quảng đại.
LÒNG THỨ THA sẽ làm cho Em trở thành diệu vợi và cao cả.
TÌNH THƯƠNG YÊU chính là câu trả lời, cho những vấn đề đang bủa vây mọi con đường xuôi ngược của Quê Hương.
Có lẽ Em đang còn muốn hỏi tôi: Mấy con én có thể trả lại Mùa Xuân cho Quê Hương Đất Nước và Anh Chị Em Đồng Bào ?
Bao nhiêu và cho đến bao giờ, tôi không thể nào biết được. Nhưng tôi có thể đoan chắc với Em một điều thật đơn giản, là mỗi con én có thể tạo nên Mùa Xuân cho chính mình, nếu nó biết đảm nhiệm cuộc đời, từng ngày và từng giờ, từng phút và từng giây…
- Không ta thán.
- Không đòi hỏi.
- Không phê phán.
- Không tố cáo và đổ lên đầu người khác, những tồn tại đang còn có mặt, đâu đó, ngày hôm nay.
Đảm nhiệm cuộc đời như vậy là bổ túc những gì đang còn thiếu sót. Kiện toàn những gì chưa hoàn chỉnh. Rút tỉa bài học quí hóa từ những lỗi lầm, lệch lạc và méo mó. Nhận diện để đối diện. Xây dựng cuộc đời với hai bàn tay của mình. Không ngửa tay xin cầu viện. Đổ một giọt mồ hôi, thay vì đứng hô hào bằng mồm miệng, những khẫu hiệu về công bình và bác ái cũng như về Tự Do, Độc Lập và Hạnh Phúc.
Em chỉ thinh lặng đốt lên một que diêm, thay vì ngồi nguyền rủa đêm tối.
Đảm nhiệm cuộc đời như vậy là CHO. Cho vô điều kiện. Cho bất kỳ một cái gì: Một nụ cười, một bàn tay, một hơi ấm, một chút tình người.
Khi cho như vậy, điều Em nhận lại là Hạnh Phúc. Thiếu chất liệu Hạnh Phúc nầy, trong bản thân và cuộc đời, con người của Em sẽ tức khắc héo úa, nghèo nàn và tàn tạ.
Hỡi Em, Em hãy hạnh phúc. Tự khắc, bằng cách nầy hay cách khác, Em sẽ tạo hạnh phúc cho một vài anh chị em Đồng Bào đang có mặt hai bên cạnh em. Quê Hương nhờ đó, sẽ từ từ ngập Trời Ánh Sáng. Muôn vì sao sẽ mọc lên trong cuộc đời của Em…
Trong tinh thần và với lối nhìn ấy, tôi xin nhắc lại: thay vì NGỒI nguyền rủa bóng đêm, Em hãy ĐƯNG LÊN, đốt sáng một que diêm nho nhỏ…trong lòng cuộc đời. Mong thay!
NB.- Xin mở bài «Xin Trời đổ mưa» trong CD «Người Em Việt Nam»
Tôi đến Carthage, Missouri lần này là lần thứ hai nhưng mới là lần đầu tiên được tham dự Ngày Thánh Mẫu đã diễn ra ở đây lần này đã là lần thứ 31. Năm trước vợ chồng chúng tôi đã đến đây vào trung tuần tháng Mười để thực hiện một chuyến hành hương nhân tháng Mân Côi và cũng để … thăm dò đường đất cho chuyến đi dự Ngày Thánh Mẫu lần này.
Khởi hành từ Burlington, Vermont lần trước chúng tôi phải ngồi trên xe Greyhound hơn 40 tiếng đồng hồ để tới Joplin rồi mới từ Joplin đi xe taxi đến Carthage vì ở Carthage không có trạm dừng của hãng xe Greyhound. Lần này chúng tôi đi cách khác. Sau khi đáp máy bay đến thăm gia đình anh bạn thân ở Wichita, Kansas chúng tôi cùng với anh chị đến Carthage trên chiếc xe Dodge 4x4 của anh chị và chỉ mất có mấy tiếng đồng hồ.
Chúng tôi có mặt tại Carthage vào khỏang 13:00 PM ngày thứ Năm 7/8. Lúc đầu anh bạn dự định sẽ đưa chúng tôi đến đây vào ngày thứ Sáu nhưng tôi mong muốn được có mặt từ ngày thứ Năm để có thể tham dự Ngày Thánh Mẫu từ đầu đến cuối. Cũng may gặp lúc công nhân hãng xản xuất máy bay Hawker nơi chị làm việc đang đình công, chị không bận việc nên lời đề nghị của tôi đã được chấp thuận. Thành phố Carthage có vẻ như không có gì thay đổi nhưng khu vực của tỉnh Dòng Đồng Công thì đã thay đổi hẳn khuôn mặt và rất náo nhiệt so với lần chúng tôi đến đây năm ngoái.
Những bãi cỏ xanh với cây cao bóng mát ở chung quanh nhà Dòng và khu đồi Can-vê ở phía bên kia con đường chạy qua phía hông trái của nhà Dòng giờ đây trông thật khác lạ. Những chiếc lều to có nhỏ có, đủ màu sắc mọc lên như nấm dưới những tàn cây và trên bãi cỏ không để một khoảng trống. Hai bên của những con đường chung quanh khu vực cũng đầy rẫy xe cộ đủ cỡ, đủ kiều nhiều vô kể đậu sát nhau như không còn một kẽ hở.
Tuy chưa chính thức khai mạc, ngày hôm nay khách hành hương đã có mặt khá đông. Nghe nói có người đã về đây cắm lều từ hôm thứ Hai tức là ba ngày trước khi chúng tôi đến. Người đâu mà đông đến thế và toàn là người Việt khiến tôi có cảm tưởng như đang ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam chứ không phải đang có mặt ở trong một thành phố của Mỹ. Trên nét mặt người nào người nấy đều lộ vẻ tươi vui. Có lẽ họ cũng như tôi đã rũ bỏ mọi phiền toái, đã bỏ lại đàng sau mọi lo toan của của cuộc sống để được núp dưới bóng Mẹ lành trong những ngày đại hội. Ý nghĩ này làm tôi nhớ đến những lời hát được diễn tả trong bản “Kìa ai”
Kìa ai dong duổi đường gió buị
Gánh sầu thương mệt mỏi hai vai
Về đây núp bóng sao mai
Về đây quên hết những ngày truân chuyên
Mặt tiền của tòa nhà mang danh hiệu “Mẹ Lên Trời” tức là dãy nhà ba tầng, nơi chúng tôi đã từng đứng quay phim, chụp hình năm ngoái giờ đây cũng đã khác hẳn. Một lễ đài đã được thiết lập làm nơi cử hành những thánh lễ với sự tham dự của nhiều ngàn người và cũng là nơi trình diễn văn nghệ. Từ trên cao và chạy dài theo mặt tiền của tòa nhà ngay phía bên trên lễ đài là những chữ màu đỏ nổi bật trên nền nửa vàng nửa trắng của lá cờ Hội thánh. Ở phía bên phải là hàng chữ Việt “Đứng Gần Thập Gía Chúa Giêsu có Mẹ Người” (Gioan 19: 25). Ở phía bên trái là hàng chữ tiếng Anh “Near The Cross of Jesus There Stood His Mother” (Jn19:25). Đó chính là chủ đề của Ngày Thánh Mẫu diễn ra từ ngày 7 đến ngày 10/8/2008.
Chủ đề này đã gợi lên trong tâm trí tôi hình ảnh Đức Mẹ ẵm xác Chúa Giêsu dưới chân thánh gía. Và rồi từ đó tôi lại liên tưởng đến những bức tượng Mẹ Sầu Bi ở Đồng Đinh, ở tòa Khâm sứ cũng là hình ảnh của Giáo hội Việt Nam đang phải đối diện với bao nhiêu gian nan, thử thách; đang phải gánh chịu bao nhiêu nỗi oan khiên. Phải chăng chủ đề của Ngày Thánh Mẫu năm nay muốn kêu mời giáo hữu Việt Nam ở khắp nơi hãy ra sức cầu nguyện và cậy trông nơi Mẹ nên trong bản kinh khấn đọc trong suốt những Ngày Thánh Mẫu đã có đoạn đặc biệt cầu cho Giáo hội và Tổ quốc Việt Nam:
“Lạy mẹ Maria là Nữ Vương nước Việt Nam, xin Mẹ thương tới Giáo hội và Tổ quốc Vịêt Nam. Xin Mẹ cho Giáo hội được thịnh trị nơi dân tộc nhỏ bé chúng con. Xin Mẹ cứu thoát chúng con khỏi nạn cộng sản vô thần duy vật, để mọi người được sống trong tự do, bình an và hạnh phúc”
Được biết Ngày Thánh Mẫu năm nay cũng là dịp kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và kỷ niệm 20 năm ngày tôn phong 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Chúng tôi chính thức hòa nhập vào bầu khí của Ngày Thánh Mẫu bằng việc tham dự nghi thức làm phép Đàng Thánh Gía lúc 3:00PM tại đồi Can-vê do một Giám mục chủ sự. Sau khi ngỏ lời với hàng ngàn người hành hương qui tụ trước lễ đài ngay dưới chân tượng Mẹ Sầu Bi nằm chính giữa khu đồi Can-vê, Đức Giám mục đã bước xuống khỏi lễ đài để xông hương và làm phép từng chặng Đàng Thánh Gía. Nghi thức làm phép được kết thúc bằng phép lành do Đức Gíam mục ban cho tất cả những người hiện diện.
Ngay sau đó chúng tôi vội vã tiến về khu vực nhà Dòng để xưng tội, một trong những điều kiện cần thiết để được hưởng ơn Đại xá do Tòa Ân Gỉai Tòa Thánh thừa lệnh Đức Thánh Cha ban cho những ai tham dự Ngày Thánh Mẫu 2008. Nhiều tòa gỉai tội đã được thiết lập trên bãi cỏ trước lễ đài giúp cho việc xưng tội được nhanh chóng, không ai phải chờ đợi lâu. Xưng tôi xong chúng tôi đi mua hai chiếc ghế vải con và đã kịp đặt được ở một vị trí tương đối tốt phía trước lễ đài. Ở đây bất ngờ chúng tôi gặp cô chú tôi đến từ California và lại được cô chú dành cho hai ghế ở vị trí tốt hơn mà cô chú đã nhờ người đặt từ rất sớm. Thế là chúng tôi bỗng nhiên được ngồi ở hàng ghế “thượng hạng” rất gần lễ đài.
Đúng 7:00PM nghi lễ khai mạc và Thánh lễ Đại trào biệt kính Mình Máu Thánh Chúa được cử hành tại lễ đài. Thánh lễ do Đức cha James V. Johnson, đương kim Giám mục Springfield- Cape Girardeau, MO chủ tế và cùng đồng tế là Đức cha John J. Leibrecht nguyên Giám mục Springfield- Cape Girardeau, MO cùng với hàng trăm linh mục và tu sĩ Việt-Mỹ và nhiều ngàn giáo hữu tham dự. Phần thánh nhạc do các ca đoàn Ave Maria, Thiên Ân, Trinh Vương và Cecilia. Các bài đọc do các giáo xứ Nữ Vương Việt Nam (Port Arthur, TX) và giáo xứ các Thánh Tử Đạo Việt Nam (Houston, TX). Đọc Phúc âm do thầy Phó tế Nguyễn Văn Thành (Grand Rapids, MI). Lời nguyện Cộng đồng do các giáo xứ Thánh Giuse (Charlotte, NC), giáo xứ Các Thánh TĐVN (Arlington, VA), cộng đoàn Nữ Vương Hồn Xác Lên Trời (Allentown, PA). Dâng lễ vật do các giáo xứ Các Thánh TĐVN (Arlington, TX) và cộng đoàn Nữ Vương Hồn Xác Lên Trời (Allentown, PA).
Trong thánh lễ biệt kính Thánh Thể, trung tâm của đời sống của người Công giáo, Đức Giám mục giáo phận Springfield- Cape Girardeau, MO nói rằng “đã là con người thì phải có đói khát và ngoài những đói khát vật chất con người còn có những đói khát khác như đói khát được chấp nhận, đói khát yêu thương và được yêu thương, đói khát được bình an, đói khát được kết hợp với Thiên Chúa” . Ngài cũng nói đến những của ăn thức uống sai quấy mà con người tìm đến như “của cải vật chất, khoái lạc, những liên hệ bất chính…” mà hậu qủa là tội lỗi xẩy ra và chính do sự chọn lựa sai lầm mà con người càng ăn, uống lại càng thấy đói khát hơn. Ngài khuyên hãy noi gương Me Maria, người phụ nữ của Thánh Thể và “mở lòng ra để đón nhận Thánh ý Thiên Chúa như Mẹ đã chấp nhận ý Chúa dưới chân thập tự và hãy kết hợp những đau khổ của đời mình với hy lễ của Chúa Kitô”
Sau thánh lễ là phép lành Mình Thánh Chúa tại Công trường Nữ Vương Hòa Bình do Đức Gíam mục Giáo phận chủ sự. Tôi đã có dịp cùng với cộng đoàn hát bài Tantum Ergo đã lâu lắm nay mới được hát lại và thấy thật sốt sắng. Sau đó Mình Thánh Chúa được kiệu về đặt tại Đền Thánh Khiết Tâm để bắt đầu các giờ chầu canh thức cho đến sáng hôm sau. Tối hôm đó cũng có một thánh lễ tại công trường Hòa Bình nhưng chúng tôi không tham dự được.
Qua ngày thứ Sáu 8-8 chúng tôi dự thánh lễ cầu cho việc Truyền giáo tại lễ đài. Sau khi cùng cộng đoàn sốt sắng đọc ba kinh Kính Mừng và kinh khấn Ngày Thánh Mẫu, linh mục phụ trách nghi lễ loan báo cho cộng đoàn một tin buồn. Bằng giọng nói nghẹn ngào và đứt quãng nhiều lần, linh mục cho biết đêm vừa rồi một chiếc xe bus từ Houston, Texas trên đường đến dự Ngày Thánh Mẫu đã gặp tai nạn. Tin sơ khởi cho biết đã có 13 người chết và nhiều người bị trọng thương đã được đưa vào bệnh viện. Lời loan báo vừa chấm dứt tôi nghe nhiều tiếng kêu “Giêsu”, có cả những tiếng nấc nghẹn và cũng có người thút thít vì qúa xúc động trước tin chẳng lành này. Trong thánh lễ hôm nay cũng như trong các thánh lễ trong suốt những ngày đại hội, cộng đoàn đều được nhắc nhở cầu nguyện cho những người tử nạn, những người đang điều trị trong bệnh viện cũng như thân nhân của các nạn nhân.
Thánh lễ do linh mục Đinh Thành Bắc (Dòng Đồng Công) chủ tế. Giảng thuyết là linh mục Nguyễn Tuấn Bình cũng thuộc Dòng Đồng Công. Thánh nhạc do ca đoàn giáo xứ Các Thánh TĐVN (Arlington, TX). Các bài đọc do các giáo xứ CTTĐVN (Arlington, TX) và cộng đoàn Nữ Vương Hồn Xác Lên Trời (Allentown, PA). Đọc Phúc âm do thầy Phó tế Hoàng Dương Thi (Arlington, TX). Lời nguyện cộng đồng do các giáo xứ Chúa Phục Sinh (St. Louis, MO), Hội đồng Giáo dân Tổng giáo phận Galveston- Houston, TX). Dâng lễ vật do các giáo xứ Trinh Vương (Joliet, IL) và giáo xứ Đức Mẹ La Vang (Houston, TX).
Bài giảng lễ hôm nay đã được linh mục Nguyễn Tuấn Bình dẫn giải dễ hiểu, dễ nhớ. Linh mục cho rằng ai cũng mong cánh đồng truyền gíao được mở mang nhưng ít ai chịu dấn thân vào công việc truyền giáo. Cha cũng cho thấy việc truyền giáo không qúa khó khăn như người ta nghĩ và không phải chỉ có linh mục, tu sĩ mới có bổn phận truyền giáo. Mọi người Kitô hữu đều có bổn phận truyền giáo và chỉ cần sống đúng với vai trò của người Kitô hữu, làm đúng những lời gíao huấn của Chúa cũng là đóng góp vào việc truyền giáo rồi.
Những giờ tiếp theo sau thánh lễ là những giờ chầu Thánh Thể và nhiều buổi hội thảo với những đề tài dành cho những đối tượng khác nhau khiến chúng tôi hơi lưỡng lự nhưng cuối cùng chúng tôi đã quyết định tham dư buổi hội thảo “Tâm sự người cao niên” vào lúc 9:00AM tại Hội trường nhà ba lầu. Buổi hội thảo do linh mục Nguyễn Đức Khoan đến từ Thụy Sỹ hướng dẫn. Năm nay đã 79 tuổi nhưng cha Khoan còn khỏe mạnh và hăng say, cách nói chuyện của ngài không gìa tý nào cả.
Cha cho biết trong suốt 4 tháng trời từ khi nhận lời mời đến nói chuyện với người cao niên trong Ngày Thánh Mẫu, cha đã đi khắp nơi và ở đâu cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho tất cả những người cao niên mà cha sẽ gặp gỡ và nói chuyện. Cha nhấn mạnh rằng người ta thường nói “Lão lai tài tận” nhưng theo cha và dựa theo kinh thánh “Người gìa thì được chúc phúc. Người gìa thì tích chứa đầy kho tàng của nhân đức. Người gìa có tất cả những kinh nghiệm của đời sống. Người gìa được kính nể. Người gìa là cột trụ của xã hội”.
Trong buổi hội thảo cha kể lại nhiều câu chuyện về nỗi lòng của người cao niên trong cuộc sống hôm nay như chuyện một bà gìa 73 tuổi đến kể lể rằng ông chồng 75 tuổi của bà đòi ly dị để về Việt Nam cưới vợ khác, câu chuyện một bà cụ đến than vãn với cha rằng ngày cưới của con gái, bà cho tiền nhưng con bà chê không chịu lấy khìến bà cảm thấy bị khinh rẻ và thấy nhục nhã hay là câu chuyện về thảm cảnh trong những cuộc phân chia gia tài cho con cái v.v.
Cha giới thiệu với mọi người về bà Marthe Robin (1902-1981) người Pháp là gương mẫu của sự chịu đựng đau khổ. Năm 17 tuổi Marthe Robin bị tai nạn và trở thành bất toại. Mười năm sau được Chúa hiện ra Marthe Robin nói với Chúa bằng lòng chịu tất cả mọi đau khổ để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ của Người. Marthe Robin đã được in năm dấu thánh trên thân thể để cùng chịu khổ đau với Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 60 năm trời bà không ăn không uống chỉ chịu lễ mỗi tuần một lần nhưng bà rất minh mẫn và được Chúa cho bà biết và làm được những điều thần bí.
Cha kể rằng Đức cha Của đến thăm và đưa Mình Thánh đến cho bà khi Đức cha mới đứng ở cửa phòng thì Mình Thánh Chúa đã bay tơí với bà. Đức cha Nguyễn Kim Điền khi đến thăm cũng đã được bà giúp cho có tiền để hoàn thành chủng viện Cần Thơ khi chủng viện mới xây được nửa chừng. Cha cũng kể rằng chính cha trở thành linh mục cũng nhờ bà. Cha đã được khuyên đến gặp bà và khi được hỏi ý kiến bà đã khuyên cha nên chọn đời sống tu trì. Cuối buổi hội thảo cha tặng mỗi người một tấm ảnh của bà Marthe Robin để hàng ngày nhìn lên mẫu gương của bà mà chịu đựng đau khổ để được kết hợp với Chúa.
Sau buổi hội thảo chúng tôi đến dự thánh lễ cầu nguyện cho bệnh nhân và những người đau khổ tại Đền Thánh Khiết Tâm vào lúc 12:PM. Hiệp ý cùng mọi người chúng tôi cầu nguyện cho những nạn nhân ở Texas, cầu nguyện cho người thân, những người xin chúng tôi cầu nguyện cho và tất cả những người bệnh tật và đau khổ. Lúc 3:00PM lại có thánh lễ tại Đền Thanh Khiết Tâm nhưng chúng tôi không dự đưọc vì phải trở về khách sạn nghỉ ngơi đôi chút để cùng cộng đoàn Vermont của chúng tôi đi viếng Đàng Thánh Gía vào lúc 5:00PM. Tại đồi Can-vê chúng tôi gặp một nhóm từ Houston, Texas đến cũng muốn đi viếng đàng Thánh Gía. Thế là hai nhóm chúng tôi kết hợp lại và cùng đi viếng Đàng Thánh Gía rất sốt sắng.
Với chiếc ghế xếp nhỏ vác lẽo đẽo trên vai, từ đồi Can-vê chúng tôi vội vã đi đến lễ đài nhưng đã không may mắn tìm được một chỗ tốt như những lần trước. Số người tham dự thánh lễ hôm nay còn đông hơn hôm qua. Cả khu đất rộng trước lễ đài tôi thấy không còn chỗ trống. Tôi chưa bao giờ được dự một thánh lễ với số người tham dự đông đảo như vậy. Từ những cụ gìa đã hơn độ tuổi “cổ lai hy” đến những em bé mới vài ba tháng tuổi cũng đều có mặt trong buổi lễ.
Thánh lễ Đại trào kính Các Thánh tử Đạo Việt Nam được cử hành vào lúc 7:00PM. Chủ tế và giảng thuyết là Đức cha Gerald R. Barnes, Giám Mục San Bernardino, CA. Phần thánh nhạc do các ca đoàn giáo xứ CTTĐVN, Ave Maria, Cecilia, Trinh Vương, Hồng Ân và Phanxicô đảm trách. Các bài đọc do các giáo xứ Thánh Anrê Dũng Lạc (Oklahoma City, OK) và cộng đoàn Kitô Vua (Syracuse, NY). Đọc Phúc âm do thầy Phó tế Bùi Thiện Nam (Corona, CA). Lời nguyện cộng đồng do giáo xứ thánh Anna & Giuse Hiển (Minneapolis, MN), giáo xứ Khiết Tâm Mẹ (Lincoln, NE), Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, CCsR (Houston, TX), giáo xứ Kitô Vua, Ngôi Lời Nhập Thể (Houston, TX).
Thánh lễ Đại trào kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng là ngày khai mạc Thế vận hội Olympic ở Bắc kinh, nơi đang diễn ra các cuộc tranh tài thể thao. Trong bài giảng của Đức Giám mục Gerald R. Barnes tôi không hiểu nhiều lắm nhưng tôi nhận ra được điều Ngài muốn nhắc nhở rằng các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng đã đạt được những huy chương nhưng là những huy chương của nước trời và ngài khuyên người giáo hữu Việt Nam hãy noi gương các bậc tiền nhân.
Sau thánh lễ là buổi văn nghệ. Chúng tôi đã bị giằng co giữa ý muốn ở lại xem văn nghệ hay ra về nghỉ ngơi để có sức tham dự thánh lễ kính Đức Mẹ La Vang vào lúc 7:30AM sáng hôm sau. Cuối cùng chúng tôi đã quyết định ra về nhưng rồi lại tiếc vì trên đường về đã gặp hàng hàng lớp lớp người đi ngược chiều đang tiến về khu vực trình diễn văn nghê. Sáng hôm sau còn thấy tiếc hơn vì được cho biết chương trình văn nghệ tối hôm qua rất đặc sắc.
Sáng thứ Bảy 9-8 nhờ đến sớm, chúng tôi đặt được ghế ngồi ở một vị trí rất tốt để dự thánh lễ kính Đức Mẹ La Vang tại lễ đài. Thánh lễ do linh mục Phạm Minh Vận thuộc Dòng Đồng Công chủ tế. Giảng lễ là cha Bùi Quang Tuấn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế. Phần thánh nhạc do ca đoàn Thánh Linh (Garland, TX). Các bài đọc do các giáo xứ St. Pius Church (Santa Fe Springs, CA) và Cộng đoàn Thánh Phêrô (Tustin, CA). Đọc Phúc âm do thầy Phó tế Hoàng Ngọc Qúi (Forth Worth, TX). Lời nguyện cộng đồng do các giáo xứ Đức Mẹ La Vang (Houston, TX) và giáo xứ Trinh Vương (Joliet, IL). Dâng lễ vật do các giáo xứ Plano ( TX) và Cộng đoàn Nữ Vương Hồn Xác Lên TrờI (Allentown, PA).
Giảng lễ trong chủ đề “Đứng bên thập gía Chúa Giêsu có Me Người”Cha Bùi Quang Tuấn đã giúp người nghe nhận thức đươc tại sao Mẹ Maria đứng lặng yên khi Chúa Giêsu bị xỉ vả, bị đánh đập, bị kết án và chịu đóng đinh. Tại sao Mẹ không nhào đến để giành lại thân xác Chúa Giêsu đang thoi thóp trên thập gía. Mẹ không làm như vậy, Mẹ đứng đó trong im lặng để minh chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ cũng đứng đó như để trợ giúp, kích lệ Chúa Giêsu đừng bỏ cuộc mà hãy tiếp tục hoàn thành công trình cứu thế của Người. Cha cũng nhắc nhở rằng bên thập gía của mỗi người chúng ta cũng có Mẹ đứng bên để giúp chúng ta đi trọn hành trình niềm tin. Nhưng vấn đề là chúng ta có nhận ra không? Trong hoạn nạn, thách đố, đau khổ của cuộc đời chúng ta có thấy được bàn tay của Mẹ đưa ra để nâng đỡ chúng ta hay chúng ta chỉ thấy hình bóng của sự ác, của bóng tối để rồi ngã lòng, suy sụp và buông xuôi?
Sau thánh lễ thấy trời có vẻ sắp mưa chúng tôi trở về khách sạn định lấy dù nhưng rồi không bao lâu trời đổ mưa và kéo dài không dứt. Chúng tôi quyết định ở lại nghỉ ngơi để chuẩn bị cung nghinh thánh tượng Mẹ Fatima vào lúc 5:00PM và dự thánh lễ Đại trào biệt kính Khiết Tâm Mẹ vào lúc 8:00PM. Do vậy chúng tôi đã bỏ mất cơ hội tham dự nhiều thánh lễ được cử hành lien tục tại đền Khiết Tâm từ sáng cho đến chiều.
Vào khoảng 4:00PM mỗi người với chiếc dù nhỏ che trên đầu, chúng tôi đi trong mưa đến họp mặt với anh chị em trong cộng đoàn Vermont rồi cùng nhau tiến ra trướclễ đài nơi phát xuất cuộc rước Đức Mẹ. Tại đây mỗi giáo xứ hay cộng đoàn đều có một tấm bảng ghi tên cộng đoàn hay giáo xứ khi đi rước kiệu. Vì là lần đầu tiên tham dự Ngày Thánh Mẫu, cộng đoàn Vermont không được cung cấp tấm bảng này nhưng chúng tôi đã biết trứơc và đã tự thực hiện một tấm bảng tuy không đúng quy cách nhưng chúng tôi cũng đã có tấm bảng ghi tên cộng đoàn mình đi rước kiệu.
Dưới cơn mưa không dứt, cuộc rước kiệu đã xuất phát đúng 5:00 PM. Từ các Gíam mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều hăng hái đi rước kiệu trong mưa. Có rất nhiều em nhỏ ngồi trên xe đẩy được che mưa cẩn thận cũng có mặt trong đoàn người đi rước. Nghe nói trước đây cũng đã có rước kiệu dưới trời mưa và trong 31 lần Đại Hội Thánh mẫu chỉ có hai lần phải hủy bỏ rước kiệu vì mưa qúa lớn. Sau 1giờ 30 phút đoàn rước kiệu đã trở về điểm xuất phát trong lúc mưa vẫn không dứt.
Khi kiệu Đức Mẹ tiến gần đến lễ đài mọi người vỗ tay reo mừng. Liền đó tiếng pháo nổ dòn và kéo dài, vang lên từ hai phía của lễ đài. Sau tiếng pháo, chùm bong bóng mang theo lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ từ từ bay lên không trung trong lúc mọi người cùng với ca đoàn hát “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam. Trời u ám chiến tranh điêu tàn. Mẹ hãy giơ tay ban phúc bình an. Đưa Việt Nam qua phút nguy nan”. Thật là cảm động khi mắt nhìn lá cờ đang lên cao và tai nghe lời van nài xin Mẹ đoái thương xem nước Việt Nam.
Vì trời vẫn tiếp tục mưa, thánh lễ Đại trào được tuyên bố hủy bỏ và thay vào đó sẽ có thánh lễ tại ba nơi là Đền Thánh Khiết Tâm, Hội trường Các Thánh Tử Đạo và Hội trưòng nhà ba lầu. Cả ba nơi này không thể chứa hết hàng chục ngàn người cho nên cuối cùng thánh lễ tại lễ đài lại được cử hành cho những người không thể vào bên trong. Thánh lễ ngoài trời do Đức cha John J. Leibrecht nguyên Giám mục Springfield- Cape Girardeau, MO, vị Gíam mục đã 24 lần có mặt tại đại hội thánh Mẫu, chủ tế và giảng thuyết.
Ngày Chúa nhật 10-8 lúc 7:00AM là thánh lễ bế mạc được cử hành tại lễ đài. Ban đầu trời không mưa nhưng được nửa chừng thì trời đổ mưa. Tuy vậy thánh lễ vẫn được tiếp tục cho đến khi kết thúc. Chủ tế thánh lễ là linh mục Trần Minh Duệ thuộc Dòng Đồng Công. Linh mục Nguyễn Quang Đán cũng thuộc Dòng Đồng Công giảng lễ. Thánh nhạc do ca đoàn Têrêsa (Wichita, KS). Các bài đọc do các cộng đoàn Đức Mẹ Mân Côi (Mauldin, SC) và giáo xứ Kitô Vua (Forth Worth, TX). Đọc Phúc âm do Phó tế Nguyễn Văn Đức (Chicago, IL). Lời nguyện cộng đồng do các giáo xứ Plano, (TX), giáo xứ St. Pius Church (Santa Fe Springs, CA). Dâng lễ vật các giáo xứ Plano (TX), cộng đoàn Nữ vương Hồn Xác Lên Trời (Allentown, TX).
Dưới những hạt mưa lâm râm có lúc hơi nặng hột, cha Nguyễn Quang Đán vẫn tiếp tục bài giảng của ngài. Từ câu chuyện trong bài Phúc âm kể lại việc thánh Phêrô xin Chúa Giêsu truyền cho ông đi trên biển nhưng rồi khi thấy sóng gió nổi lên thì ông đâm sợ hãi, hoảng hốt la lên xin Thầy cứu vớt. Cha cho rằng ngày nay nhân loại trong đó có những người Kitô hữu đang phải “chống chọi với sóng nghi nan, gió bách hại, đêm đen thất vọng và muôn vàn nghịch cảnh do nền kinh tế, xã hội xuống dốc”. Nhân loại trong đó có những người Kitô hữu cũng đang phải đối diện với “Những trận cuồng phong của tệ nạn xã hội, đồi phong bại tục, những quyến rũ của vật chất. Những sóng thần của tự do qúa độ, tôn thờ vật chất, đua đòi thời trang. Những trận bão của nền văn hóa sự chết và rất nhiều những khó khăn thử thách khác”.
Cha cũng nhắc đến một câu nói của Đức cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận “Mẹ Maria xem ra đã mất tất cả nhưng được ở với Chúa Giêsu Mẹ cảm thấy qúa đầy đủ” như một lời nhắc nhở về một gương mẩu mà mỗi người Kitô hữu nên học ở nơi Mẹ. Kết thúc bài giảng cha mời và mọi người cùng hát “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng. Soi lối cho con lúc vượt biển thế gian. . . ”
Sau thánh lễ, linh mục chủ tế ngỏ lời cám ơn các linh mục, tu sĩ cùng tất cả mọi người đã đến dự Ngày Thánh Mẫu. Ngài cũng cầu chúc mọi người thượng lộ bình an. Ngài yêu cầu ai có thêm tin tức của những nạn nhân ở Houston, Texas thì xin thông báo cho nhà Dòng biết. Điều này cho thấy nhà Dòng rất quan tâm đến những người hành hương gặp nạn. Hôm thứ Sáu 8/8 ngay khi biết tai nạn xẩy ra, nhà Dòng đã thông báo cho những ai là thân nhân của các nạn nhân nếu muốn trở về Texas thì nhà Dòng sẽ giúp phương tiện đưa về mà không phải trả một khoản phí tổn nào.
Kết thúc những ngày hội, chúng tôi từ gĩa nhà Dòng trong lòng tràn ngập niềm vui vì đúng như lòng mong ước, cuối cùng thì chúng tôi cũng đã được tham dự Ngày Thánh Mẫu, một Đại hội khó quên. Được biết trong 31 kỳ Đại hội, đây là lần đầu tiên giáo dân vừa đi rước kiệu vừa tham dự thánh lễ dưới trời mưa.
Rời khỏi Carthage, vợ chồng tôi lại theo xe của gia đình anh chị PBH về Greenville, South Carolina thăm những người chúng tôi đã từng hứa. Trên đường đi và theo chương trình của anh chị, tất cả chúng tôi đã ghé thăm cha Dũng thuộc Dòng Ngôi Lời đang phục vụ ở Memphis, Tennessee. Gặp chúng tôi cha Dũng nói đùa rằng cha thấy mặt ai cũng đầy hào quang, chắc là đã được nhiều ơn sau khi đi dự Đại Hội Thánh Mẫu. Qủa thật chúng tôi tràn ngập niềm vui sau những ngày khó quên tại Carthage. Nhưng chúng tôi cũng không khỏi chạnh lòng khi nghĩ tới những anh, chị, em đã tử nạn hay mang thương tích vì bị tai nạn trên đường hành hương đến linh địa của Mẹ
Vermont 14/8/2008
Ta Về
Ảnh của Nguyễn Tầm Thường, sj. (Nhà Thờ Phát Diệm)
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa, người ơi!
(Thơ Tô Thùy Yên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền