Phụng Vụ - Mục Vụ
Đường Lối Chúa
Lm Vũđình Tường
03:43 28/08/2014
Phêrô muốn đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn nhưng khi Đức Kitô nói về những thách đố, chông gai trong việc bước theo Phêrô trở nên ngần ngại, lo lắng. Đức kitô cho biết để trở thành môn đệ chân chính, đích thực điều tiên quyết là phải chấp nhận ‘thí bản thân mình’ cho tha nhân. Chính việc ‘thí thân’ này làm cho Phêrô trở nên khắc khoải bởi ông không thể mường tượng ra được việc ‘thí thân’ đòi hỏi những gì. Đức Kitô nói rõ hơn đó là vác thập giá bước theo. Cùng tâm trạng với chúng ta Phêrô chân thành muốn theo nhưng lại sợ thử thách, chông gai và vác thập giá.
Không có thập giá, không có sự sống lại thì việc hy sinh bản thân trở nên vô nghĩa. Có sống tất nhiên có chết vì thế mỗi ngày đều có chết một cách nào đó. Chết đây không thuần nghĩa chết về thể xác mà chết bằng nhiều cách khác nhau dưới dạng hy sinh. Có thể là chết hay hy sinh những đòi hỏi bất chính, tham vọng hay ích kỉ cá nhân để mang lợi ích cho người khác. Có thể là hy sinh ước vọng hay suy tư riêng để mang bình an cho gia đình. Có thể là hy sinh tập quán, đam mê xấu để trưởng thành trong nhân đức. Có thể là hy sinh tính kiêu căng, tự mãn để tâm linh phát triển. Chúng ta tự do trong việc quyết định đi theo Đức Kitô hay theo đường lối riêng tự chọn, đường lối thế gian. Chọn theo đường lối thế gian cũng vẫn không tránh khỏi hy sinh nhưng những hy sinh đó sẽ chết vĩnh viễn; trong khi chọn hy sinh hiến thân chết theo đường lối Chúa thì những hy sinh đó sẽ được Đức Kitô làm cho sống lại muôn đời bởi Ngài sống lại từ cõi chết và không bao giờ chết nữa nên chọn hy sinh chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài kết hợp với sự chết của Ngài và khi sống lại Ngài cũng làm cho sụ chết của chúng ta sống lại vĩnh cửu.
Kitô hữu tin rằng sự sống vĩnh cửu quan trọng hơn cuộc sống tạm bợ thế trần. Một số người lại chối bỏ sự sống vĩnh cửu tin rằng không có sự sống vĩnh cửu. Điều họ khẳng định dựa vào khôn ngoan lí luận của con người. Kitô hữu tin vào sự sống vĩnh cửu bởi niềm tin đó không đặt trên quan điểm lí luận sản phẩm của khối óc mà đặt căn bản trên Lời Chúa, trên giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài phán:
Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin ta sẽ không chết bao giờ Gn 14,7.
Tuyên bố trở thành môn đệ Đức Kitô chỉ là bước đầu trong việc đi theo. Đi theo đòi hỏi phải đi theo đường lối Chúa. Đi là tiến tới, không phải tiến lui, giật lùi. Tiến tới đây là tiến tới trên đường nhân đức, tiến lên trong việc học nên thánh mỗi ngày trong cuộc sống. Đức Kitô tuyên bố Ngài là đường nhưng con đường đó không được vẽ ra rạch ròi như trên bản đồ mà là hướng đi. Bởi đi theo hướng nên rất dễ sai đường, trật hướng. Sai đường xảy ra khi ta quá tự tin vào khả năng chuyên môn của ta hay của tha nhân. Không những đã sai mà còn là vật cản, ngăn đường, chặn lối đường ta tiến đến với Chúa.
Mấy phút trước Đức Kitô khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội và trao chìa khoá nước trời cho Phêrô. Mấy phút sau Đức Kitô khiển trách Phêrô gây nguyên cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xấy xảy ra cho Đức Kitô. Khi Đức Kitô tâm sự cùng các ông Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đanh chết trên thập tự, Phêrô nêu í kiến can ngăn Đức Kitô tránh xa thập giá. Đức Kitô cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm. Thứ nhất Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Đức Kitô. Sứ nạng đó là hy sinh chết cho người mình yêu. Thứ hai Phêrô cũng không thể mường tượng ra được đòi hỏi chết bằng cách hy sinh của người lãnh đạo trong Giáo Hội Chúa. Chết bằng cách hy sinh không có nghĩa là trở thành cuồng tín tôn giáo mà là dấu chỉ cho biết tình yêu chân chính, đích thực gắn liền với hy sinh.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Không có thập giá, không có sự sống lại thì việc hy sinh bản thân trở nên vô nghĩa. Có sống tất nhiên có chết vì thế mỗi ngày đều có chết một cách nào đó. Chết đây không thuần nghĩa chết về thể xác mà chết bằng nhiều cách khác nhau dưới dạng hy sinh. Có thể là chết hay hy sinh những đòi hỏi bất chính, tham vọng hay ích kỉ cá nhân để mang lợi ích cho người khác. Có thể là hy sinh ước vọng hay suy tư riêng để mang bình an cho gia đình. Có thể là hy sinh tập quán, đam mê xấu để trưởng thành trong nhân đức. Có thể là hy sinh tính kiêu căng, tự mãn để tâm linh phát triển. Chúng ta tự do trong việc quyết định đi theo Đức Kitô hay theo đường lối riêng tự chọn, đường lối thế gian. Chọn theo đường lối thế gian cũng vẫn không tránh khỏi hy sinh nhưng những hy sinh đó sẽ chết vĩnh viễn; trong khi chọn hy sinh hiến thân chết theo đường lối Chúa thì những hy sinh đó sẽ được Đức Kitô làm cho sống lại muôn đời bởi Ngài sống lại từ cõi chết và không bao giờ chết nữa nên chọn hy sinh chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài kết hợp với sự chết của Ngài và khi sống lại Ngài cũng làm cho sụ chết của chúng ta sống lại vĩnh cửu.
Kitô hữu tin rằng sự sống vĩnh cửu quan trọng hơn cuộc sống tạm bợ thế trần. Một số người lại chối bỏ sự sống vĩnh cửu tin rằng không có sự sống vĩnh cửu. Điều họ khẳng định dựa vào khôn ngoan lí luận của con người. Kitô hữu tin vào sự sống vĩnh cửu bởi niềm tin đó không đặt trên quan điểm lí luận sản phẩm của khối óc mà đặt căn bản trên Lời Chúa, trên giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài phán:
Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin ta sẽ không chết bao giờ Gn 14,7.
Tuyên bố trở thành môn đệ Đức Kitô chỉ là bước đầu trong việc đi theo. Đi theo đòi hỏi phải đi theo đường lối Chúa. Đi là tiến tới, không phải tiến lui, giật lùi. Tiến tới đây là tiến tới trên đường nhân đức, tiến lên trong việc học nên thánh mỗi ngày trong cuộc sống. Đức Kitô tuyên bố Ngài là đường nhưng con đường đó không được vẽ ra rạch ròi như trên bản đồ mà là hướng đi. Bởi đi theo hướng nên rất dễ sai đường, trật hướng. Sai đường xảy ra khi ta quá tự tin vào khả năng chuyên môn của ta hay của tha nhân. Không những đã sai mà còn là vật cản, ngăn đường, chặn lối đường ta tiến đến với Chúa.
Mấy phút trước Đức Kitô khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội và trao chìa khoá nước trời cho Phêrô. Mấy phút sau Đức Kitô khiển trách Phêrô gây nguyên cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xấy xảy ra cho Đức Kitô. Khi Đức Kitô tâm sự cùng các ông Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đanh chết trên thập tự, Phêrô nêu í kiến can ngăn Đức Kitô tránh xa thập giá. Đức Kitô cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm. Thứ nhất Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Đức Kitô. Sứ nạng đó là hy sinh chết cho người mình yêu. Thứ hai Phêrô cũng không thể mường tượng ra được đòi hỏi chết bằng cách hy sinh của người lãnh đạo trong Giáo Hội Chúa. Chết bằng cách hy sinh không có nghĩa là trở thành cuồng tín tôn giáo mà là dấu chỉ cho biết tình yêu chân chính, đích thực gắn liền với hy sinh.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 23 mùa Thường niên năm A 07-9-2014
Mai Tá
19:10 28/08/2014
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 23 mùa Thường niên năm A 07-9-2014
“Đừng ai nhắc nhở đến xuân trong,”
“Vô số là Xuân chiếm mọi lòng.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Từ)
Mt 18: 15-20
Xuân trong xuân ngoài, vẫn là Xuân. Thứ Xuân không cần nhắc nhở, mọi người vẫn cứ nhớ. Nhớ và thương, như lời thánh-sử ghi ở trình-thuật để người đọc còn nhớ và thương như Đức Chúa thương nhớ hết mọi nguời, ở chợ đời.
Sống giữa chợ đời, người đi Đạo thường bước những bước chân âm thầm dõi theo gót chân của Đức Chúa, Đấng từng trải với đời.
Ở với đời, người nhà Đạo thường nhận ra các khác biệt không tránh khỏi. Khác về tư tưởng, lập trường. Khác, cả về xử thế, lẫn thương yêu. Nơi nhà Đạo, ý từ thanh thoát ta vẫn có, thường là lời khuyên: “Anh em đừng mắc nợ ai, ngoài món nợ tương thân tương ái”.
Tương thân tương ái không là ý từ vu vơ. Nhưng, là lời dặn khuyên nên có với ta, trong hành trình yêu thương giữa chợ đời. Chính vì thế, khi các nam thanh nữ tú dắt nhau đến nhà thờ đăng ký thực hiện lời dạy nói trên, vị chủ chăn đề nghị họ trả lời hai câu hỏi rất dễ làm:
1- Anh/chị thương nhất điều gì nơi người mình trao thân gởi phận?
2- Anh/chị thích nhất điểm gì nơi bản thân mình?
Câu hỏi thứ nhất, xem ra không khó đối với người trẻ. Đã đưa nhau đến đây, người nào cũng sẵn mang một “bồ” chữ với đủ các lý do còn rất mới. Mặc dù đôi lúc, các lý do ấy có làm người nghe thêm phấn khởi, hoặc người đọc đâm nản chí.
Câu hỏi thứ hai, xem ra dễ gây lúng túng hơn, và lớp người trẻ không dễ gì trả lời nhanh gọn, nhẹ nhàng. Chí ít, là với những người sắp trở thành “đức” lang quân/“ông” chồng. Bởi lẽ, một số bạn thấy khó đề cao điểm son của mình, thứ của trời cho mà mọi người trân trọng như báu vật, rất hiếm quý.
Có người chỉ trả lời cho qua, rồi thôi; hoặc, coi đó như ý kiến của bạn bè ngoài cuộc. Có khi, họ lại biện luận: bọn con không muốn khoe khoang, nổ bạo; nhưng... Thậm chí, nhiều anh chị còn trẻ những vẫn cố tránh né câu trả lời, vì xấu hổ. Như thể bảo rằng: thời buổi này mà còn khoe khoang cái “tôi đáng ghét” kia, tức là huênh hoang không hợp thời.
Thật sự ra, câu hỏi ở trên là trọng tâm của bài đọc hôm nay: “Hãy yêu người thân cận như thương yêu chính mình”. Cùng kiểu nói, nhưng ta không thể vừa ghét chính mình, lại vừa cho mình là người ngoan đạo, kiểu mẫu. Bởi, nói như thánh Phaolô: yêu thương chính mình không có nghĩa cưng nâng, chiều chuộng cái thân xác đớn hèn này.
Nhưng, đó là viên đá góc-cạnh, mục tiêu của sứ vụ rao giảng nơi người tín hữu Đức Kitô: “hãy yêu thương nhau như Chúa vẫn yêu ta.”
Đã đành là, thánh Phaolô thừa biết có khác biệt giữa việc yêu thương chính mình với tôn thờ thân xác. Và, tình yêu Thiên Chúa, ta chỉ có thể biểu lộ qua cách thức ta yêu thương chính mình, cho phải đạo; và, biết tôn trọng thân xác của mình cách lành mạnh, thế thôi.
Nói rõ hơn, không thể bảo rằng mình thương người thân cận, nếu ta không yêu thương chính mình. Nếu ta tự đánh giá quá thấp, có lẽ cũng cần đến người khác đến lấp đầy khoảng cách khác biệt, để mọi người có thể yêu thương chính mình.
Cuộc sống đời thường, tương quan giữa người đời không thể minh chứng và duy trì một cách tốt đẹp, nếu nó không phát xuất từ lòng yêu thương, chính bản thân.
Hội thánh cũng có bổn phận khuyên răn con cái mình biết yêu thương lẫn nhau như thương yêu chính mình. Lâu nay ta được dạy, là: hãy hãm mình, phạt xác/đánh tội hoặc từ bỏ bản thân mình; bởi, có như thế mới chứng tỏ được sự khác biệt giữa người đi Đạo với người ở ngoài. Điều này cũng đúng, thôi.
Nhưng, lời khuyên trên không thể được dùng làm như cái cớ để ta dựa vào đó, mà ghét bỏ chính mình. Các tác giả tu đức, lâu nay vẫn coi đặc tính trên đây như phương cách dẫn đưa ta đến gần với Chúa. Đồng thời, đó còn là căn bản cho lòng yêu thương phục vụ người đồng loại, nữa.
Trong các tác giả được kể, có thánh I-Nhã, với nhiều năm kinh nghiệm về tu đức, đã nhận ra rằng: ta là kẻ sai phạm làm nhiều điều quấy, nên Chúa mới thương yêu chúng ta. Thánh nhân cũng quả quyết: ân huệ lớn lao Chúa tặng ban cho mỗi người, là: cho dù ta có coi lỗi phạm như điều sai trái; nhưng ta vẫn không bị nó đánh gục.
Vả lại, một khi thấy được sức mạnh nơi tình Chúa thương mình, ta mới cảm nhận được lời mời gọi khẩn thiết quyết theo Ngài mà dấn bước, theo tư thế của những người con của sự sáng.
Tin Mừng hôm nay, còn cho thấy Đức Giêsu nhắm thẳng vào tính hủy diệt nơi bản chất con người phàm trần. Ngài vẫn khuyên: những ai tuy không yêu thương người đồng loại như đã được dạy, vẫn phải đối xử với họ cho phải phép. Vẫn phải tôn trọng họ và cho họ cơ hội để được đón nhận ơn tha thứ và kiên nhẫn chờ cho trở nên thành phần của gia đình nữa.
Thách đố của đời sống người Kitô-hữu còn là dấu chỉ chứng tỏ cho người đời thấy tình thương yêu và tha thứ của Chúa. Và, lúc nào cũng vậy, Giáo Hội mới là đơn vị cuối cùng, có quyền uy loại bỏ người nào đó ra khỏi cộng đoàn.
Bởi thế nên, ta vẫn có giới hạn đối với chính mình. Điều này, buộc chúng ta phải thẩm định kỹ xem những gì người khác đã nói, và làm. Chí ít, là khi họ tự cho mình là người dấn bước theo chân Chúa, mà lại sai quấy.
Dựa vào tình yêu và lòng nhân tha thứ của Chúa, không có nghĩa là: cứ để mọi việc trôi qua mà không suy xét kỹ. Chính tình yêu của Chúa, kêu gọi mọi người có hối cải liên tục. Ta chỉ có thể chứng thực điều này theo mức độ cảm nghiệm từ Chúa, từ người khác; và, theo phương cách yêu thương, tha thứ nhau.
Trả lời câu hỏi: Anh/chị thích nhất điểm nào nơi bản thân mình? tức là nhận ra rằng đức tính căn bản ở trên, đã đâm rễ sâu, nơi chính mình. Cuối cùng, một đời đi Đạo là một đời biết yêu. Yêu người đồng loại. Yêu chính mình.
Trong tâm tình cảm-nhận tình thương yêu trong cuộc đời đi Đạo và sống Đạo, cũng nên ngâm tiếp lời còn bỏ dở, rằng:
“Đừng ai nhắc nhở đến xuân trong,”
Vô số là Xuân chiếm mọi lòng.
Mỗi người đều có xuân riêng cả,
Thiếp viết Xuân lên mảnh lụa hồng.”
(Hàn Mặc Từ - Nhớ Thương)
Xuân nhớ và thương như thế, chắc hẳn là Xuân của mọi thời. Những nhớ và thương yêu hết mọi người vào mọi thời, như Lời Chúa còn nhắc nhở mọi người, mãi không nguôi.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch.
“Đừng ai nhắc nhở đến xuân trong,”
“Vô số là Xuân chiếm mọi lòng.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Từ)
Mt 18: 15-20
Xuân trong xuân ngoài, vẫn là Xuân. Thứ Xuân không cần nhắc nhở, mọi người vẫn cứ nhớ. Nhớ và thương, như lời thánh-sử ghi ở trình-thuật để người đọc còn nhớ và thương như Đức Chúa thương nhớ hết mọi nguời, ở chợ đời.
Sống giữa chợ đời, người đi Đạo thường bước những bước chân âm thầm dõi theo gót chân của Đức Chúa, Đấng từng trải với đời.
Ở với đời, người nhà Đạo thường nhận ra các khác biệt không tránh khỏi. Khác về tư tưởng, lập trường. Khác, cả về xử thế, lẫn thương yêu. Nơi nhà Đạo, ý từ thanh thoát ta vẫn có, thường là lời khuyên: “Anh em đừng mắc nợ ai, ngoài món nợ tương thân tương ái”.
Tương thân tương ái không là ý từ vu vơ. Nhưng, là lời dặn khuyên nên có với ta, trong hành trình yêu thương giữa chợ đời. Chính vì thế, khi các nam thanh nữ tú dắt nhau đến nhà thờ đăng ký thực hiện lời dạy nói trên, vị chủ chăn đề nghị họ trả lời hai câu hỏi rất dễ làm:
1- Anh/chị thương nhất điều gì nơi người mình trao thân gởi phận?
2- Anh/chị thích nhất điểm gì nơi bản thân mình?
Câu hỏi thứ nhất, xem ra không khó đối với người trẻ. Đã đưa nhau đến đây, người nào cũng sẵn mang một “bồ” chữ với đủ các lý do còn rất mới. Mặc dù đôi lúc, các lý do ấy có làm người nghe thêm phấn khởi, hoặc người đọc đâm nản chí.
Câu hỏi thứ hai, xem ra dễ gây lúng túng hơn, và lớp người trẻ không dễ gì trả lời nhanh gọn, nhẹ nhàng. Chí ít, là với những người sắp trở thành “đức” lang quân/“ông” chồng. Bởi lẽ, một số bạn thấy khó đề cao điểm son của mình, thứ của trời cho mà mọi người trân trọng như báu vật, rất hiếm quý.
Có người chỉ trả lời cho qua, rồi thôi; hoặc, coi đó như ý kiến của bạn bè ngoài cuộc. Có khi, họ lại biện luận: bọn con không muốn khoe khoang, nổ bạo; nhưng... Thậm chí, nhiều anh chị còn trẻ những vẫn cố tránh né câu trả lời, vì xấu hổ. Như thể bảo rằng: thời buổi này mà còn khoe khoang cái “tôi đáng ghét” kia, tức là huênh hoang không hợp thời.
Thật sự ra, câu hỏi ở trên là trọng tâm của bài đọc hôm nay: “Hãy yêu người thân cận như thương yêu chính mình”. Cùng kiểu nói, nhưng ta không thể vừa ghét chính mình, lại vừa cho mình là người ngoan đạo, kiểu mẫu. Bởi, nói như thánh Phaolô: yêu thương chính mình không có nghĩa cưng nâng, chiều chuộng cái thân xác đớn hèn này.
Nhưng, đó là viên đá góc-cạnh, mục tiêu của sứ vụ rao giảng nơi người tín hữu Đức Kitô: “hãy yêu thương nhau như Chúa vẫn yêu ta.”
Đã đành là, thánh Phaolô thừa biết có khác biệt giữa việc yêu thương chính mình với tôn thờ thân xác. Và, tình yêu Thiên Chúa, ta chỉ có thể biểu lộ qua cách thức ta yêu thương chính mình, cho phải đạo; và, biết tôn trọng thân xác của mình cách lành mạnh, thế thôi.
Nói rõ hơn, không thể bảo rằng mình thương người thân cận, nếu ta không yêu thương chính mình. Nếu ta tự đánh giá quá thấp, có lẽ cũng cần đến người khác đến lấp đầy khoảng cách khác biệt, để mọi người có thể yêu thương chính mình.
Cuộc sống đời thường, tương quan giữa người đời không thể minh chứng và duy trì một cách tốt đẹp, nếu nó không phát xuất từ lòng yêu thương, chính bản thân.
Hội thánh cũng có bổn phận khuyên răn con cái mình biết yêu thương lẫn nhau như thương yêu chính mình. Lâu nay ta được dạy, là: hãy hãm mình, phạt xác/đánh tội hoặc từ bỏ bản thân mình; bởi, có như thế mới chứng tỏ được sự khác biệt giữa người đi Đạo với người ở ngoài. Điều này cũng đúng, thôi.
Nhưng, lời khuyên trên không thể được dùng làm như cái cớ để ta dựa vào đó, mà ghét bỏ chính mình. Các tác giả tu đức, lâu nay vẫn coi đặc tính trên đây như phương cách dẫn đưa ta đến gần với Chúa. Đồng thời, đó còn là căn bản cho lòng yêu thương phục vụ người đồng loại, nữa.
Trong các tác giả được kể, có thánh I-Nhã, với nhiều năm kinh nghiệm về tu đức, đã nhận ra rằng: ta là kẻ sai phạm làm nhiều điều quấy, nên Chúa mới thương yêu chúng ta. Thánh nhân cũng quả quyết: ân huệ lớn lao Chúa tặng ban cho mỗi người, là: cho dù ta có coi lỗi phạm như điều sai trái; nhưng ta vẫn không bị nó đánh gục.
Vả lại, một khi thấy được sức mạnh nơi tình Chúa thương mình, ta mới cảm nhận được lời mời gọi khẩn thiết quyết theo Ngài mà dấn bước, theo tư thế của những người con của sự sáng.
Tin Mừng hôm nay, còn cho thấy Đức Giêsu nhắm thẳng vào tính hủy diệt nơi bản chất con người phàm trần. Ngài vẫn khuyên: những ai tuy không yêu thương người đồng loại như đã được dạy, vẫn phải đối xử với họ cho phải phép. Vẫn phải tôn trọng họ và cho họ cơ hội để được đón nhận ơn tha thứ và kiên nhẫn chờ cho trở nên thành phần của gia đình nữa.
Thách đố của đời sống người Kitô-hữu còn là dấu chỉ chứng tỏ cho người đời thấy tình thương yêu và tha thứ của Chúa. Và, lúc nào cũng vậy, Giáo Hội mới là đơn vị cuối cùng, có quyền uy loại bỏ người nào đó ra khỏi cộng đoàn.
Bởi thế nên, ta vẫn có giới hạn đối với chính mình. Điều này, buộc chúng ta phải thẩm định kỹ xem những gì người khác đã nói, và làm. Chí ít, là khi họ tự cho mình là người dấn bước theo chân Chúa, mà lại sai quấy.
Dựa vào tình yêu và lòng nhân tha thứ của Chúa, không có nghĩa là: cứ để mọi việc trôi qua mà không suy xét kỹ. Chính tình yêu của Chúa, kêu gọi mọi người có hối cải liên tục. Ta chỉ có thể chứng thực điều này theo mức độ cảm nghiệm từ Chúa, từ người khác; và, theo phương cách yêu thương, tha thứ nhau.
Trả lời câu hỏi: Anh/chị thích nhất điểm nào nơi bản thân mình? tức là nhận ra rằng đức tính căn bản ở trên, đã đâm rễ sâu, nơi chính mình. Cuối cùng, một đời đi Đạo là một đời biết yêu. Yêu người đồng loại. Yêu chính mình.
Trong tâm tình cảm-nhận tình thương yêu trong cuộc đời đi Đạo và sống Đạo, cũng nên ngâm tiếp lời còn bỏ dở, rằng:
“Đừng ai nhắc nhở đến xuân trong,”
Vô số là Xuân chiếm mọi lòng.
Mỗi người đều có xuân riêng cả,
Thiếp viết Xuân lên mảnh lụa hồng.”
(Hàn Mặc Từ - Nhớ Thương)
Xuân nhớ và thương như thế, chắc hẳn là Xuân của mọi thời. Những nhớ và thương yêu hết mọi người vào mọi thời, như Lời Chúa còn nhắc nhở mọi người, mãi không nguôi.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha tiến hành 2 bổ nhiệm quan trọng tại Tây Ban Nha
Lm. Trần Đức Anh OP
16:25 28/08/2014
VATICAN. Hôm 28-8-2014, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Antonio Canizares Llovera, cho đến nay là Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, làm tân TGM giáo phận Valencia là giáo phận nguyên quán của ngài.
Ngoài ra, ĐTC cũng nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Antonio Maria Rouco, 78 tuổi, TGM giáo phận thủ đô Madrid, đồng thời bổ nhiệm người kế vị là Đức TGM Carlos Osoro Sierra, cho đến nay là TGM giáo phận Valencia.
ĐHY Antonio Canizares Llovera, tân TGM giáo phận Valencia, sinh tại Valencia cách đây 69 năm (1945), nguyên là giáo sư thần học huấn giáo ở Đại học Salamanca, và được bổ nhiệm làm GM giáo phận Avila năm 1992, 4 năm sau đó ngài thăng TGM giáo phận Granada, và 6 năm sau làm TGM giáo phận Toledo là giáo phận cổ kính nhất tại Tây Ban Nha, rồi được bổ nhiệm làm Hồng Y năm 2006. Năm 2008, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ phụng tự và kỷ luật bí tích.
Trang thông tin Vatican Insider, trích thuật những nguồn tin ở Vatican, cho biết ĐHY Canizares đã nhiều lần xin ĐTC Phanxicô cho trở về Tây Ban Nha coi sóc giáo phận.
Đức Cha Carlos Osoro Sierra, tân TGM giáo phận thủ đô Madrid, năm nay cũng 69 tuổi (1945) thuộc giáo phận Santander. Năm 1996, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Orense, và 6 năm sau thăng TGM giáo phận Oviedo, nhưng chỉ 4 năm sau, 2009, ngài được thuyên chuyển về Valencia. Giáo phận này hiện có 3 triệu 51 ngàn tín hữu Công Giáo, trong khi Tổng giáo phận Madrid có 3 triệu 615 ngàn tín hữu Công Giáo. Đức TGM Osoro hiện là Phó Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha. Giới báo chí cũng gọi ngài là ”Đức Phanxicô Tây Ban Nha” vì ngài rất phù hợp với lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô mong một Giáo Hội ”đi ra ngoài”. (SD 28-8-2014)
Ngoài ra, ĐTC cũng nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Antonio Maria Rouco, 78 tuổi, TGM giáo phận thủ đô Madrid, đồng thời bổ nhiệm người kế vị là Đức TGM Carlos Osoro Sierra, cho đến nay là TGM giáo phận Valencia.
ĐHY Antonio Canizares Llovera, tân TGM giáo phận Valencia, sinh tại Valencia cách đây 69 năm (1945), nguyên là giáo sư thần học huấn giáo ở Đại học Salamanca, và được bổ nhiệm làm GM giáo phận Avila năm 1992, 4 năm sau đó ngài thăng TGM giáo phận Granada, và 6 năm sau làm TGM giáo phận Toledo là giáo phận cổ kính nhất tại Tây Ban Nha, rồi được bổ nhiệm làm Hồng Y năm 2006. Năm 2008, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ phụng tự và kỷ luật bí tích.
Trang thông tin Vatican Insider, trích thuật những nguồn tin ở Vatican, cho biết ĐHY Canizares đã nhiều lần xin ĐTC Phanxicô cho trở về Tây Ban Nha coi sóc giáo phận.
Đức Cha Carlos Osoro Sierra, tân TGM giáo phận thủ đô Madrid, năm nay cũng 69 tuổi (1945) thuộc giáo phận Santander. Năm 1996, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Orense, và 6 năm sau thăng TGM giáo phận Oviedo, nhưng chỉ 4 năm sau, 2009, ngài được thuyên chuyển về Valencia. Giáo phận này hiện có 3 triệu 51 ngàn tín hữu Công Giáo, trong khi Tổng giáo phận Madrid có 3 triệu 615 ngàn tín hữu Công Giáo. Đức TGM Osoro hiện là Phó Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha. Giới báo chí cũng gọi ngài là ”Đức Phanxicô Tây Ban Nha” vì ngài rất phù hợp với lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô mong một Giáo Hội ”đi ra ngoài”. (SD 28-8-2014)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Xứ Mẹ Thiên Chúa mừng Ngày Hội Các Hiền Mẫu
Nguyễn Công Hoàng
12:03 28/08/2014
Hôm 27 – 08 – 2014, Giáo Xứ Mẹ Thiên Chúa đã tổ chức chương trình họp mặt các hiền mẫu nhân mừng lễ Thánh nữ Monica, bổn mạng hội Bà Mẹ Công Giáo. Ngày hội có sự hiện diện đông đảo của các mẹ, và hỗ trợ nhiệt tình từ cha sở, quý thầy, quý dì hội dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết, quý HĐMV Giáo Xứ đã tạo nên bầu khí vui tươi, hiệp nhất trong cộng đoàn.
Hình ảnh
Chương trình được chuẩn bị và thực hiện khá chu đáo từ đêm hôm trước với việc tĩnh tâm và chầu Thánh Thể tạ ơn, cao trào nhất là chính ngày diễn ra đại hội qua nhiều phần chơi thi đua khá hấp dẫn và sôi nổi, chiều về hào hứng cùng phần thi giáo lý, xen kẽ là các tiết mục văn nghệ vui nhộn. Thánh lễ diễn ra linh thiêng vào lúc 18h30 trong tinh thần tạ ơn Chúa đã ban cho ngày họp mặt thành công tốt đẹp.
Trong bài giảng, cha chủ tế đề cập đến 2 mẫu gương cho các bà mẹ Công Giáo noi theo là hình ảnh thánh nữ Monica và thánh tử đạo Annê Lê Thị Thành đã một đời hy sinh vì chồng vì con, cho đến hơi thở cuối cùng vẫn cứ một lòng trông cậy Thiên Chúa toàn năng ban ơn thiêng cho con, cho chồng.
Sắc thái riêng cho ngày họp mặt năm nay là tất cả tham dự viên đều “cháy” hết mình trong mọi chương trình đã đề ra, kể cả ban tổ chức và quý khách mời, đó như là một nguồn cảm hứng và động lực hứa hẹn ngày họp mặt sang năm.
Ước mong tinh thần này sẽ được duy trì và lan tỏa trong cộng đồng Giáo Xứ Mẹ Thiên Chúa.
Hình ảnh
Chương trình được chuẩn bị và thực hiện khá chu đáo từ đêm hôm trước với việc tĩnh tâm và chầu Thánh Thể tạ ơn, cao trào nhất là chính ngày diễn ra đại hội qua nhiều phần chơi thi đua khá hấp dẫn và sôi nổi, chiều về hào hứng cùng phần thi giáo lý, xen kẽ là các tiết mục văn nghệ vui nhộn. Thánh lễ diễn ra linh thiêng vào lúc 18h30 trong tinh thần tạ ơn Chúa đã ban cho ngày họp mặt thành công tốt đẹp.
Trong bài giảng, cha chủ tế đề cập đến 2 mẫu gương cho các bà mẹ Công Giáo noi theo là hình ảnh thánh nữ Monica và thánh tử đạo Annê Lê Thị Thành đã một đời hy sinh vì chồng vì con, cho đến hơi thở cuối cùng vẫn cứ một lòng trông cậy Thiên Chúa toàn năng ban ơn thiêng cho con, cho chồng.
Sắc thái riêng cho ngày họp mặt năm nay là tất cả tham dự viên đều “cháy” hết mình trong mọi chương trình đã đề ra, kể cả ban tổ chức và quý khách mời, đó như là một nguồn cảm hứng và động lực hứa hẹn ngày họp mặt sang năm.
Ước mong tinh thần này sẽ được duy trì và lan tỏa trong cộng đồng Giáo Xứ Mẹ Thiên Chúa.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chuyến đi Trung Cộng một chiều của Lê Hồng Anh
Phạm Trần
19:04 28/08/2014
CHUYẾN ĐI TRUNG CỘNG MỘT CHIỀU CỦA LÊ HỒNG ANH
Chuyến đi làm việc hai ngày tại Trung Cộng từ 26 đến 27/08 (2014) của đặc phái viên Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã mất cả “chỉ lẫn chài” trong quan hệ Việt Nam với Trung Cộng
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) Nguyễn Phú Trọng đã cử ông Anh sang Bắc Kinh là để “trao đổi với lãnh đạo TQ về các biện pháp làm dịu tình hình, không để tái diễn các vụ việc căng thẳng như vừa qua, đồng thời thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước Việt – Trung”, theo lời người Phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam Lê Hải Bình.
Nhưng 2 chữ “trao đổi” không thấy có trong ngôn ngữ của phiá Trung Cộng trong 3 cuộc tiếp xúc giữa ông Lê Hồng Anh với Vương Gia Thụy, Phó chủ tịch Chính hiệp toàn quốc TQ, Trưởng Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương TQ, Lưu Vân Sơn, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và sau cùng với Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Hoa Tập Cận Bình chiều 27/8 (014) trước khi ông Anh trở về nước.
Ngược lại, nội dung 3 cuộc thảo luận đã thể hiện quan điểm và lập trường của “kẻ cả” láng giềng Trung Cộng đối với người đại diện của nước nhỏ Việt Nam được cử đi “phân bua phải trái” với người hàng xóm của nước mạnh.
Thứ nhất, bằng chứng này được thấy trong các bài viết và cách đưa tin của báo chí Trung Cộng, điển hình như Tân Hoa xã (Xinhua News Agency) và tờ Nhân dân Nhật báo. Ngọai trừ bản tin ngắn đầu tiên của Tân Hoa Xã nói ông Lê Hồng Anh đến Bắc Kinh do “lời mời” của Đảng Cộng sản Trung Quốc như tuyên bố ngày 25/08 (2014) của phiá Việt Nam, sau đó báo chí Trung Cộng đưa tin như hàm ý muốn mọi người hiểu rằng ông Lê Hồng Anh đến Bắc Kinh là do ý muốn “làm hòa” của phía đảng CSVN.
Thứ hai, phía Trung Cộng không đưa ra bất cứ lời hứa nào sẽ đình chỉ việc cho các tầu Hải giám và Hải quân tấn công tầu đánh cá Việt Nam như họ đã gia tăng kể từ sau ngày rút giàn khoan Hải Dương 981 khỏi vùng biển Việt Nam, 15/7 (2014).
Trung Cộng đặt gìan khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 (2014). Khi quyết đị6nh rút Bắc Kinh nói đã đào 2 giếng và tìm được dầu khí nhưng không tiết lộ số lượng và thời gian sẽ khai thác.
Thứ ba, trong Thông báo thỏa hiệp 3 điểm đạt được tại cuộc họp giữa ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn có hai vấn đề “cốt lõi” tuy cũ nhưng được phía Trung Cộng lập lại, đó là: hai bên sẽ tích cực nghiên cứu và bàn bạc để ”cùng khai thác” và “ không áp dụng hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp” trên Biển Đông.
Đây chính vấn đề mà phiá Trung Cộng muốn Việt Nam hợp tác từ lâu, bắt đầu tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, sai khi hai nước đạt được “Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ năm 2000”, nhưng cho đến nay hai nước vẫn chưa thống nhất lằn ranh phân chia sau nhiều cuộc họp. Tuy vậy, phía Trung Cộng đã thực hiện các cuộc tìm và khai thác dầu ở nhiều nơi trong vùng biển này mà không quan tâm đến phản kháng của Việt Nam.
Nhưng Trung Cộng không dừng ở Vịnh Bắc Bộ mà muốn Việt Nam hãy “gác tranh chấp để cùng khai thác” trên Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam mà phiá Trung Cộng ngang nhiên vẽ ra hình Lưỡi Bò hay đường 9 đọan, nay tăng lên 10 đọan chiếm ¾ trong tổng số 3.5 trriệu cây số vuông của Biển Đông.
Các nước có tranh chấp với Trung Cộng tại Trường Sa gồm có Phi Luật Tân, Ma Lai Á, Brunei, Đài Loan và Nam Dương đều bác bỏ bản đồ hình Lưỡi Bò của Trung Cộng, nhưng Bắc Kinh vẫn ngang nhiên đem tầu bè đến nghênh chiến, kiểm sóat, xây đảo nhân tạo trên những vùng chiếm được của Phi Luật Tân và của VN từ 1988 để nhận chủ quyền.
CHI TIẾT 3 CUỘC THẢO LUẬN
Vì vậy, những gì phía Trung Cộng nói và công bố trong chuyến thăm Bắc Kinh của Ủy viên Bộ Chính trị Lê Hồng Anh không thể coi thường về dụng ý của cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh.
Theo tường thuật của VTV (Đài Truyền hình Việt Nam) thì tại cuộc họp đầu tiên, ông Lê Hồng Anh nói với ông Vương Gia Thụy rằng: “Mục đích chuyến thăm TQ lần này là để cùng các lãnh đạo TQ trao đổi về các biện pháp nhằm khôi phục và thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước Việt-Trung.
Ông khẳng định việc hai Đảng, hai nước tăng cường hợp tác, duy trì quan hệ phát triển lành mạnh, ổn định là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay và tình hình Biển Đông có những diễn biến căng thẳng, phức tạp, ảnh hưởng đến quan hệ hai Đảng, hai nước và môi trường an ninh, hòa bình, ổn định của khu vực.”
“Về phần mình”, VTV nói tiếp, “ông Vương Gia Thụy bày tỏ nhiệt liệt chào mừng ông Lê Hồng Anh sang thăm TQ; khẳng định phía TQ rất coi trọng chuyến thăm của ông Lê Hồng Anh với tư cách đặc phái viên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ông tin rằng chuyến thăm sẽ góp phần giải quyết thỏa đáng tranh chấp, bất đồng đang tồn tại giữa hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh.”
Qua cuộc họp thứ hai giữa hai ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn thì không khí khác hẳn.
Đài CRI (China Radio International) dịch sang tiếng Việt bản tin của Xinhua viết: “Đồng chí Lưu Vân Sơn chỉ rõ, thời gian qua quan hệ Trung-Việt từng một dạo xuất hiện cục diện căng thẳng và khó khăn, đây là điều mà chúng ta không muốn trông thấy. Việc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử Đặc phái viên của Tổng Bí thư đến Trung Quốc tiến hành cuộc gặp cậ́p cao giữa hai Đảng trong lúc quan hệ Trung-Việt đối mặt với khó khăn đã thể hiện nguyện vọng chính trị tích cực thúc đẩy cải thiện và phát triển quan hệ Trung-Việt của Đảng và Chính phủ Việt Nam.”
Như vậy có phải là phiá đảng CSVN muốn “cầu hòa” với đảng và nhà nước Cộng sản Trung Hoa nên ông Lưu mới dùng nhóm chữ “thể hiện nguyện vọng chính trị tích cực” từ phiá Việt Nam ?
Thài độ “kẻ cả” của Lưu Vân Sơn còn rõ hơn khi ông ta nhấn mạnh rằng: “Trung Quốc và Việt Nam cần phải thông qua hợp tác xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, hai bên cần phải kiên trì đàm phán và hiệp thương hữu nghị song phương, thiết thực kiểm soát tốt tình hình trên biển, thực sự thực hiện cùng khai thác, mở ra cục diện mới cho hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam.”
Ông Lê Hồng Anh, được Xinhua trích lời viết rằng: “Đồng chí Lê Hồng Anh cho biết, trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, thúc đẩy hợp tác, giải quyết bất đồng để hai nước Việt-Trung dốc sức vào sự nghiệp của mỗi nước là quan trọng hơn bao giờ hết. Tin tưởng rằng thông qua quyết tâm và nỗ lực của hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc sẽ được khôi phục và phát triển vào chiều sâu.”
Tại cuộc họp này, hai bên đã thỏa thuận 3 Điểm quan trọng, nhưng mỗi bên dùng ngôn ngữ khác nhau để dành phần thắng chính trị cho mình.
Phiá Trung Cộng viết ”Hai bên đã đạt được nhận thức chung nguyên tắc 3 điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Trung-Việt:
Một là, Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo trực tiếp phát triển quan hệ song phương, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt trước sau như một phát triển lành mạnh, ổn định.
Hai là, hai bên cần phải tiếp tục sâu sắc giao lưu giữa hai Đảng, nhìn về lâu dài khôi phục và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế-thương mại, an ninh hành pháp, nhân văn, v.v.
Ba là, hai bên đồng ý tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước Trung-Việt", vận dụng tốt cơ chế đàm phán Chính phủ về biên giới Trung-Việt, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác, không áp dụng hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, giữ gìn đại cục của quan hệ Trung-Việt cũng như hoà bình và ổn định của Nam Hải.
Nhưng bản văn của phiá Việt Nam lại khác, theo Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV,Voice of Vietnam) :
Ông Lê Hồng Anh nói với họ Lưu : “Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là hết sức coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc. Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước cần tăng cường trực tiếp chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao, đưa quan hệ hai Đảng, hai nước trở lại phát triển lành mạnh, ổn định và không ngừng phát triển theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của hai nước và của khu vực.”
Đây là lần đầu tiên kể từ sau ngày Trung Cộng đặt giàn khoan HD 981 vào tìm kiếm dầu khí bên trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhóm chữ được giọi là 16 chữ vàng do phía Trung Cộng trao cho Việt Nam từ năm 1990 khi hai nước tái lập quan hệ ngọai giao dười thời hai Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh-Giang Trạch Dân.
“Về vấn đề trên biển”, vẫn theo VOV, ông Lê Hồng Anh nêu rõ:” Trước khó khăn, căng thẳng xảy ra trong quan hệ Việt – Trung vừa qua, lãnh đạo cấp cao hai nước cần trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan hữu quan của mỗi bên tuân thủ nghiêm túc các thỏa thuận cấp cao và “Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, kiên trì đàm phán giải quyết tranh chấp trên biển theo tinh thần dễ trước khó sau, cố gắng tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; đồng thời tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển; đồng thời gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đặc biệt, cần kiểm soát tốt những bất đồng trên biển; tránh để xảy ra tình hình phức tạp ảnh hưởng quan hệ hai nước; cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông và xu hướng phát triển tốt đẹp quan hệ hai Đảng, hai nước. “
Quan điểm này không mới. Hai nước Việt-Trung đã đồng ý trong chuyến thăm Trung Cộng năm 2011 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng việc phía Trung Cộng lập lại trong chuyến đi của ông Lê Hồng Anh với ngụ ý phía Việt Nam phải giữ lời đã cam kết với Bắc Kinh và làm đúng theo những gì đã cam kết trong qúa khứ, giống hệt như khi Bắc Kinh bảo Việt Nam hãy nhớ đến cam kết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhìn nhận Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng trong Công hàm gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 !
“ Thỏa hiệp “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung” mà ông Trọng đã ký với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào ngày (11/10/2011) có 6 điể nguyên văn như sau:
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.”
3 ĐIỂM THỎA HIỆP CỦA PHÍA VN
Về 3 điểm thỏa hiệp giỮa hai ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn, bản văn của phiá Việt Nam có nhiều điểm khác về mặt bngôn từ, nếu so với bản của Xinhua, nguyên văn như sau:
Thứ nhất, lãnh đạo hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo trực tiếp đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt – Trung không ngừng phát triển lành mạnh, ổn định.
Thứ hai, hai bên tăng cường giao lưu giữa hai Đảng, hai nước; khôi phục và tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế, thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn...
Thứ ba, hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc; tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt – Trung và hoà bình, ổn định trên Biển Đông.”
TẬP CẬN BÌNH-LÊ HỒNG ANH
Sau cùng, theo VOV thì tại cuộc họp với Lãnh tụ Tập Cận Bình, ông Lê Hồng Anh đã : “ Khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc không ngừng củng cố và thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp hiện nay, hai bên càng cần tăng cường hợp tác, xử lý thoả đáng bất đồng, cùng nhau tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định, để tập trung xây dựng phát triển, nâng cao đời sống nhân dân ở mỗi nước.”
Ông Anh còn : “ Đề nghị lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước tăng cường chỉ đạo để quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc sớm khôi phục và phát triển lành mạnh, ổn định trên mọi lĩnh vực; đồng thời, chỉ đạo các cơ quan hữu quan của mỗi bên tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc”, kiểm soát tốt tình hình và giải quyết ổn thoả mọi tranh chấp bất đồng trên biển, duy trì hoà bình, ổn định trên Biển Đông, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước, đóng góp vào hoà bình, ổn định, phồn vinh của khu vực. “
Về phiá ông Tập Cận Bình thì đã : “ Khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với Việt Nam và sẽ cùng với Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam cố gắng thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt- Trung tiếp tục phát triển; nhất trí lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước tăng cường quan tâm, chỉ đạo, duy trì quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định; chỉ đạo thực hiện tốt các nhận thức chung nhằm khôi phục và phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước mà lãnh đạo hai bên đã thống nhất trong chuyến thăm lần này.”
Tuy nhiên, theo Xinhua, họ Tập đã bảo Lê Hồng Anh rằng:”"A neighbor cannot be moved away and it is in the common interests of both sides to be friendly to each other." (Tạm dịch:Đã là láng giếng thì không thể xa nhau vì đó là ích lợi chung của cả đôi bên nên hãy là bạn bè thân thiết với nhau)
"That General Secretary Nguyen Phu Trong has sent you to China as his special envoy to attend the high-level meeting between the two parties shows the Vietnamese aspiration to improve the bilateral relationship." (Tạm dịch” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gửi ông đến Trung Hoa là một đặc sứ để tham dự các cuộc họp cấp cao giữa hai đảng đã chứng tỏ nguyện vọng của phiá Việt Nam muốn tăng cường quan hệ song phương với Trung Quốc.”)
"(I) hope the Vietnamese will make joint efforts with the Chinese to put the bilateral relationship back on the right track of development." (Tạm dịch: “Tôi hy vọng phiá Việt Namn sẽ cùng nỗ lực với chúng tôi để vãn hồi và phát triển mối giao hảo song phương giữa hai bên.”
Như vậy có phải là các ông Tập Cận Bình, Vương Gia Thụy và Lưu Vân Sơn đã “lên lớp” hay “dạy môt bài học” về số phận một nước nhỏ cho ông Lê Hồng Anh, đặc sứ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay ông Anh đã thua cả chì lẫn chài trong chuyến sáng Bắc Kinh ?
Phạm Trần
(08/014)
Chuyến đi làm việc hai ngày tại Trung Cộng từ 26 đến 27/08 (2014) của đặc phái viên Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã mất cả “chỉ lẫn chài” trong quan hệ Việt Nam với Trung Cộng
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) Nguyễn Phú Trọng đã cử ông Anh sang Bắc Kinh là để “trao đổi với lãnh đạo TQ về các biện pháp làm dịu tình hình, không để tái diễn các vụ việc căng thẳng như vừa qua, đồng thời thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước Việt – Trung”, theo lời người Phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam Lê Hải Bình.
Nhưng 2 chữ “trao đổi” không thấy có trong ngôn ngữ của phiá Trung Cộng trong 3 cuộc tiếp xúc giữa ông Lê Hồng Anh với Vương Gia Thụy, Phó chủ tịch Chính hiệp toàn quốc TQ, Trưởng Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương TQ, Lưu Vân Sơn, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và sau cùng với Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Hoa Tập Cận Bình chiều 27/8 (014) trước khi ông Anh trở về nước.
Ngược lại, nội dung 3 cuộc thảo luận đã thể hiện quan điểm và lập trường của “kẻ cả” láng giềng Trung Cộng đối với người đại diện của nước nhỏ Việt Nam được cử đi “phân bua phải trái” với người hàng xóm của nước mạnh.
Thứ nhất, bằng chứng này được thấy trong các bài viết và cách đưa tin của báo chí Trung Cộng, điển hình như Tân Hoa xã (Xinhua News Agency) và tờ Nhân dân Nhật báo. Ngọai trừ bản tin ngắn đầu tiên của Tân Hoa Xã nói ông Lê Hồng Anh đến Bắc Kinh do “lời mời” của Đảng Cộng sản Trung Quốc như tuyên bố ngày 25/08 (2014) của phiá Việt Nam, sau đó báo chí Trung Cộng đưa tin như hàm ý muốn mọi người hiểu rằng ông Lê Hồng Anh đến Bắc Kinh là do ý muốn “làm hòa” của phía đảng CSVN.
Thứ hai, phía Trung Cộng không đưa ra bất cứ lời hứa nào sẽ đình chỉ việc cho các tầu Hải giám và Hải quân tấn công tầu đánh cá Việt Nam như họ đã gia tăng kể từ sau ngày rút giàn khoan Hải Dương 981 khỏi vùng biển Việt Nam, 15/7 (2014).
Trung Cộng đặt gìan khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 (2014). Khi quyết đị6nh rút Bắc Kinh nói đã đào 2 giếng và tìm được dầu khí nhưng không tiết lộ số lượng và thời gian sẽ khai thác.
Thứ ba, trong Thông báo thỏa hiệp 3 điểm đạt được tại cuộc họp giữa ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn có hai vấn đề “cốt lõi” tuy cũ nhưng được phía Trung Cộng lập lại, đó là: hai bên sẽ tích cực nghiên cứu và bàn bạc để ”cùng khai thác” và “ không áp dụng hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp” trên Biển Đông.
Đây chính vấn đề mà phiá Trung Cộng muốn Việt Nam hợp tác từ lâu, bắt đầu tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, sai khi hai nước đạt được “Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ năm 2000”, nhưng cho đến nay hai nước vẫn chưa thống nhất lằn ranh phân chia sau nhiều cuộc họp. Tuy vậy, phía Trung Cộng đã thực hiện các cuộc tìm và khai thác dầu ở nhiều nơi trong vùng biển này mà không quan tâm đến phản kháng của Việt Nam.
Nhưng Trung Cộng không dừng ở Vịnh Bắc Bộ mà muốn Việt Nam hãy “gác tranh chấp để cùng khai thác” trên Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam mà phiá Trung Cộng ngang nhiên vẽ ra hình Lưỡi Bò hay đường 9 đọan, nay tăng lên 10 đọan chiếm ¾ trong tổng số 3.5 trriệu cây số vuông của Biển Đông.
Các nước có tranh chấp với Trung Cộng tại Trường Sa gồm có Phi Luật Tân, Ma Lai Á, Brunei, Đài Loan và Nam Dương đều bác bỏ bản đồ hình Lưỡi Bò của Trung Cộng, nhưng Bắc Kinh vẫn ngang nhiên đem tầu bè đến nghênh chiến, kiểm sóat, xây đảo nhân tạo trên những vùng chiếm được của Phi Luật Tân và của VN từ 1988 để nhận chủ quyền.
CHI TIẾT 3 CUỘC THẢO LUẬN
Vì vậy, những gì phía Trung Cộng nói và công bố trong chuyến thăm Bắc Kinh của Ủy viên Bộ Chính trị Lê Hồng Anh không thể coi thường về dụng ý của cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh.
Theo tường thuật của VTV (Đài Truyền hình Việt Nam) thì tại cuộc họp đầu tiên, ông Lê Hồng Anh nói với ông Vương Gia Thụy rằng: “Mục đích chuyến thăm TQ lần này là để cùng các lãnh đạo TQ trao đổi về các biện pháp nhằm khôi phục và thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước Việt-Trung.
Ông khẳng định việc hai Đảng, hai nước tăng cường hợp tác, duy trì quan hệ phát triển lành mạnh, ổn định là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay và tình hình Biển Đông có những diễn biến căng thẳng, phức tạp, ảnh hưởng đến quan hệ hai Đảng, hai nước và môi trường an ninh, hòa bình, ổn định của khu vực.”
“Về phần mình”, VTV nói tiếp, “ông Vương Gia Thụy bày tỏ nhiệt liệt chào mừng ông Lê Hồng Anh sang thăm TQ; khẳng định phía TQ rất coi trọng chuyến thăm của ông Lê Hồng Anh với tư cách đặc phái viên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ông tin rằng chuyến thăm sẽ góp phần giải quyết thỏa đáng tranh chấp, bất đồng đang tồn tại giữa hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh.”
Qua cuộc họp thứ hai giữa hai ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn thì không khí khác hẳn.
Đài CRI (China Radio International) dịch sang tiếng Việt bản tin của Xinhua viết: “Đồng chí Lưu Vân Sơn chỉ rõ, thời gian qua quan hệ Trung-Việt từng một dạo xuất hiện cục diện căng thẳng và khó khăn, đây là điều mà chúng ta không muốn trông thấy. Việc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử Đặc phái viên của Tổng Bí thư đến Trung Quốc tiến hành cuộc gặp cậ́p cao giữa hai Đảng trong lúc quan hệ Trung-Việt đối mặt với khó khăn đã thể hiện nguyện vọng chính trị tích cực thúc đẩy cải thiện và phát triển quan hệ Trung-Việt của Đảng và Chính phủ Việt Nam.”
Như vậy có phải là phiá đảng CSVN muốn “cầu hòa” với đảng và nhà nước Cộng sản Trung Hoa nên ông Lưu mới dùng nhóm chữ “thể hiện nguyện vọng chính trị tích cực” từ phiá Việt Nam ?
Thài độ “kẻ cả” của Lưu Vân Sơn còn rõ hơn khi ông ta nhấn mạnh rằng: “Trung Quốc và Việt Nam cần phải thông qua hợp tác xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, hai bên cần phải kiên trì đàm phán và hiệp thương hữu nghị song phương, thiết thực kiểm soát tốt tình hình trên biển, thực sự thực hiện cùng khai thác, mở ra cục diện mới cho hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam.”
Ông Lê Hồng Anh, được Xinhua trích lời viết rằng: “Đồng chí Lê Hồng Anh cho biết, trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, thúc đẩy hợp tác, giải quyết bất đồng để hai nước Việt-Trung dốc sức vào sự nghiệp của mỗi nước là quan trọng hơn bao giờ hết. Tin tưởng rằng thông qua quyết tâm và nỗ lực của hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc sẽ được khôi phục và phát triển vào chiều sâu.”
Tại cuộc họp này, hai bên đã thỏa thuận 3 Điểm quan trọng, nhưng mỗi bên dùng ngôn ngữ khác nhau để dành phần thắng chính trị cho mình.
Phiá Trung Cộng viết ”Hai bên đã đạt được nhận thức chung nguyên tắc 3 điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Trung-Việt:
Một là, Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo trực tiếp phát triển quan hệ song phương, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt trước sau như một phát triển lành mạnh, ổn định.
Hai là, hai bên cần phải tiếp tục sâu sắc giao lưu giữa hai Đảng, nhìn về lâu dài khôi phục và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế-thương mại, an ninh hành pháp, nhân văn, v.v.
Ba là, hai bên đồng ý tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước Trung-Việt", vận dụng tốt cơ chế đàm phán Chính phủ về biên giới Trung-Việt, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác, không áp dụng hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, giữ gìn đại cục của quan hệ Trung-Việt cũng như hoà bình và ổn định của Nam Hải.
Nhưng bản văn của phiá Việt Nam lại khác, theo Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV,Voice of Vietnam) :
Ông Lê Hồng Anh nói với họ Lưu : “Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là hết sức coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc. Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước cần tăng cường trực tiếp chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao, đưa quan hệ hai Đảng, hai nước trở lại phát triển lành mạnh, ổn định và không ngừng phát triển theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của hai nước và của khu vực.”
Đây là lần đầu tiên kể từ sau ngày Trung Cộng đặt giàn khoan HD 981 vào tìm kiếm dầu khí bên trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhóm chữ được giọi là 16 chữ vàng do phía Trung Cộng trao cho Việt Nam từ năm 1990 khi hai nước tái lập quan hệ ngọai giao dười thời hai Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh-Giang Trạch Dân.
“Về vấn đề trên biển”, vẫn theo VOV, ông Lê Hồng Anh nêu rõ:” Trước khó khăn, căng thẳng xảy ra trong quan hệ Việt – Trung vừa qua, lãnh đạo cấp cao hai nước cần trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan hữu quan của mỗi bên tuân thủ nghiêm túc các thỏa thuận cấp cao và “Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, kiên trì đàm phán giải quyết tranh chấp trên biển theo tinh thần dễ trước khó sau, cố gắng tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; đồng thời tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển; đồng thời gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đặc biệt, cần kiểm soát tốt những bất đồng trên biển; tránh để xảy ra tình hình phức tạp ảnh hưởng quan hệ hai nước; cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông và xu hướng phát triển tốt đẹp quan hệ hai Đảng, hai nước. “
Quan điểm này không mới. Hai nước Việt-Trung đã đồng ý trong chuyến thăm Trung Cộng năm 2011 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng việc phía Trung Cộng lập lại trong chuyến đi của ông Lê Hồng Anh với ngụ ý phía Việt Nam phải giữ lời đã cam kết với Bắc Kinh và làm đúng theo những gì đã cam kết trong qúa khứ, giống hệt như khi Bắc Kinh bảo Việt Nam hãy nhớ đến cam kết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhìn nhận Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng trong Công hàm gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 !
“ Thỏa hiệp “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung” mà ông Trọng đã ký với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào ngày (11/10/2011) có 6 điể nguyên văn như sau:
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.”
3 ĐIỂM THỎA HIỆP CỦA PHÍA VN
Về 3 điểm thỏa hiệp giỮa hai ông Lê Hồng Anh và Lưu Vân Sơn, bản văn của phiá Việt Nam có nhiều điểm khác về mặt bngôn từ, nếu so với bản của Xinhua, nguyên văn như sau:
Thứ nhất, lãnh đạo hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo trực tiếp đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt – Trung không ngừng phát triển lành mạnh, ổn định.
Thứ hai, hai bên tăng cường giao lưu giữa hai Đảng, hai nước; khôi phục và tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế, thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn...
Thứ ba, hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc; tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt – Trung và hoà bình, ổn định trên Biển Đông.”
TẬP CẬN BÌNH-LÊ HỒNG ANH
Sau cùng, theo VOV thì tại cuộc họp với Lãnh tụ Tập Cận Bình, ông Lê Hồng Anh đã : “ Khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc không ngừng củng cố và thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp hiện nay, hai bên càng cần tăng cường hợp tác, xử lý thoả đáng bất đồng, cùng nhau tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định, để tập trung xây dựng phát triển, nâng cao đời sống nhân dân ở mỗi nước.”
Ông Anh còn : “ Đề nghị lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước tăng cường chỉ đạo để quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc sớm khôi phục và phát triển lành mạnh, ổn định trên mọi lĩnh vực; đồng thời, chỉ đạo các cơ quan hữu quan của mỗi bên tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc”, kiểm soát tốt tình hình và giải quyết ổn thoả mọi tranh chấp bất đồng trên biển, duy trì hoà bình, ổn định trên Biển Đông, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước, đóng góp vào hoà bình, ổn định, phồn vinh của khu vực. “
Về phiá ông Tập Cận Bình thì đã : “ Khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với Việt Nam và sẽ cùng với Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam cố gắng thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt- Trung tiếp tục phát triển; nhất trí lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước tăng cường quan tâm, chỉ đạo, duy trì quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định; chỉ đạo thực hiện tốt các nhận thức chung nhằm khôi phục và phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước mà lãnh đạo hai bên đã thống nhất trong chuyến thăm lần này.”
Tuy nhiên, theo Xinhua, họ Tập đã bảo Lê Hồng Anh rằng:”"A neighbor cannot be moved away and it is in the common interests of both sides to be friendly to each other." (Tạm dịch:Đã là láng giếng thì không thể xa nhau vì đó là ích lợi chung của cả đôi bên nên hãy là bạn bè thân thiết với nhau)
"That General Secretary Nguyen Phu Trong has sent you to China as his special envoy to attend the high-level meeting between the two parties shows the Vietnamese aspiration to improve the bilateral relationship." (Tạm dịch” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gửi ông đến Trung Hoa là một đặc sứ để tham dự các cuộc họp cấp cao giữa hai đảng đã chứng tỏ nguyện vọng của phiá Việt Nam muốn tăng cường quan hệ song phương với Trung Quốc.”)
"(I) hope the Vietnamese will make joint efforts with the Chinese to put the bilateral relationship back on the right track of development." (Tạm dịch: “Tôi hy vọng phiá Việt Namn sẽ cùng nỗ lực với chúng tôi để vãn hồi và phát triển mối giao hảo song phương giữa hai bên.”
Như vậy có phải là các ông Tập Cận Bình, Vương Gia Thụy và Lưu Vân Sơn đã “lên lớp” hay “dạy môt bài học” về số phận một nước nhỏ cho ông Lê Hồng Anh, đặc sứ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay ông Anh đã thua cả chì lẫn chài trong chuyến sáng Bắc Kinh ?
Phạm Trần
(08/014)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Sống đời đạo-đức với ánh-sáng Cứu-Chuộc
Mai Tá
19:12 28/08/2014
Chương Sáu
Sống đời đạo-đức với ánh-sáng Cứu-Chuộc
(bài 30)
“Rất nhiều tín-hữu Đức Kitô nay không còn cảm-nghiệm và am-tường về “cơn sốc” đậm-sâu mà nhà cải-cách Luther từng trải-nghiệm về sự hiện-hành của tội/lỗi như gánh nặng ta mang.” (Hồng Y Walter Kasper)
Ở đây, tôi đề-nghị anh em hãy cùng tôi, ta bàn thêm về những lỗi và tội mà cá-nhân mỗi người chúng ta từng trải-nghiệm dưới ánh-sáng ơn lành Cứu-chuộc Chúa hiện-thực, hôm nay. Ngày hôm nay, ơn lành cứu-chuộc Chúa ban, đối với tôi, xem ra được diễn-bày qua cung-cách lịch-duyệt bằng động-thái tặng quà cho ta, vì ta yếu-đuối; chí ít là khi ta giáp mặt/đối đầu với “lương-tâm” để có quyết-định cho riêng mình. Ý tôi muốn nói, là: làm sao ta có thể đi đến quyết-định chung-cuộc bằng vào việc sẻ-san hết mọi sự, với mọi người.
Phần 1:
Ngôn-ngữ
và hiện-thực của tội/lỗi
Quả thật, cũng là điều hay, và phải lẽ để ta suy, rằng: ta vốn không thể nào hiểu được những lỗi cùng tội, trừ phi trước đó, ta có ánh-sáng chiếu-rọi gửi đến cho ta để ta hiểu thế nào là Ơn cứu-chuộc và huệ-lộc mình nhận-lãnh qua Giao-ước. Trước nhất là Ơn cứu-chuộc, sau đó mới đến tội và lỗi! Chứ không phải: trước nhất đã có những lỗi và tội, sau đó Ơn cứu-chuộc mới được ban thêm, đâu. Đây, là đề-tài ta chọn để suy-tư, bàn-bạc. Và, đây cũng là ý-tưởng do thánh Phaolô, vị thánh cột-trụ của Giáo-hội, từng đề ra.
Có rất nhiều thứ và nhiều sự việc được qui cho tội và lỗi, nhiều hơn cả những hành-xử sai trái, xấu xa, hoặc “mất điếm tốt” như Kinh Sách của ta từng đề-cập.
Ngôn-từ bàn về lỗi/tội ta từng thừa-tự, xuất từ Kinh Sách cùng tư-tưởng của thánh Augustinô, hoặc từ nguồn-mạch nào đó có trước, cốt để diễn-tả về lỗi và tội nhiều hơn. Nói chung thì, ngôn-ngữ và từ-vựng có ra thế nào đi nữa, cũng chỉ là sưu-tập các ẩn-dụ vẫn tràn lan nơi đời người.
Ẩn-dụ tràn đầy, là cốt đưa ra đáp-trả trực-tiếp có chiều-kích bí-nhiệm của Giao-ước.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi vẫn được coi là “ngẫu thần” lại được nhiều người sùng-bái như thần-linh thiêng-liêng, nhưng lại không là Thiên-Chúa như nội-dung giao-ước Ngài lập ra với ta.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi là “sự bất tuân” theo nghĩa “không chịu nghe theo” hoặc “không thuần-phục” tiếng/giọng mời gọi của Thiên-Chúa đã giao-ước với ta.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi vẫn là sự “mù loà”, hiểu theo nghĩa: không nhìn ra được tầm-kích bí-nhiệm ở giao-ước ta đã có với Chúa.
Do đó, mà: trong nguồn-mạch tư-tưởng của Kinh Sách, trong đó toàn-thể con dân (ở Giao-ước) là những người từng vướng-mắc các lỗi phạm căn-bản, không do Giao-ước Chúa lập ra với cá-thể riêng-rẽ, mà với toàn-thể chúng-dân, mọi dân nước.
Chính vì lý-do đó, mà: hình-tượng “bò tơ vàng ánh” trước nhất được hiểu như tội/lỗi ở Kinh Sách. Điều này kết-hợp với phần lớn ẩn-dụ đề ra ở đây. Có đạo thờ “Bò tơ vàng ánh”, bởi lẽ bê/bò là loài thú ở độ tuổi còn đang lớn, nên chúng mang ý-nghĩa của trạng-huống thiếu-trưởng-thành, chẳng đổi-thay và là sự thể bất-khả-thi gặp nơi sự phân-cách quá-trình dưỡng-dục hiện-hữu của con người.
Quả là, biểu-tượng “bò tơ” với người Do-thái còn mạnh hơn biểu-tượng về “bụi-cây- rực-cháy”. Ở đây, biểu-tượng này mang dáng-dấp của một thần dũng-mãnh thuộc loài thú, cốt hoạ lại hình-tượng thần-linh của Ai Cập, từng xuất-hiện cả vào những ngày sau lưu đày, nữa. Nhưng, đây không chỉ muốn nói đến lối sùng-bái khác thường. Bởi, “Độc thần” tự nó đã nhanh chóng trở-thành thứ sùng-bái chú “bê bò”, dễ phụng-thờ. Bởi, nó nhấn mạnh đến chuyện không thể thay cho Thiên-Chúa, được.
Đây, là thần El-Shaddai, vị Thần tự-sung/tự-mãn người xưa thường nói đến. Con người từng dập đầu xuống đất trước mặt Thần này; và vị ấy chính là thần không hình-tượng. Người từng giáp mặt với sức mạnh ở trên không nhân-nhượng. Thần đó là vị thần thống-trị/sở-hữu hết mọi sự. Trước mặt Thần, kẻ sùng-bái hoặc người phụng-thờ chỉ biết thưa: “Dưới mắt Ngài, con đây chỉ là cát bụi.” Con đây, chẳng có chân-dung/diện-mạo, bao giờ. Con đây, lại chẳng dám có quan-hệ đối-mặt với Ngài. Con không là hữu-thể nào trước sự hiện-hữu của Ngài. Và cuối cùng, các thần như thế, chẳng thể nào “cứu-chuộc” được một ai…
Tưởng cũng nên suy thêm ở đây về một số thể-loại của thứ ngôn-ngữ vẫn gắn bó với “Tội Nguyên-tổ”, tức lỗi/tội của Ađam, nam-nhân đầu đời nào đó mà nhiều vị lại cứ như thủy-tổ loài người. Lỗi/tội của thế-giới gian-trần, một bí-nhiệm của sự bất-công nhiệm-màu còn gọi là, “sự Sa ngã”. Và, Ađam là nhân-vật được dàn-dựng theo kiểu biếm-hoạ là biểu-tượng cho tất cả chúng ta, trên đời. Giả như ai đó phạm những lỗi hoặc tội gì, thì người ấy có khuynh-hướng tiến tới với lỗi/tội, ít là để khoả-lấp hoặc che đậy điều gì đó; và cũng kết-thúc bằng vô số hành-vi phạm tội như lời kinh ta vẫn đọc: “Lạy Đấng xoá tội trần-gian, xin thương ban bình-an cho chúng tôi!”
Bí-nhiệm về sự bất-công khi trước là tự-vựng ta vay-mượn từ các tập-tục của dân ngoại, vốn dĩ tìm cách giải-thích sự hiện-diện của ác-thần/sự dữ trên thế-gian biết là chừng nào! “Sự Sa ngã” chẳng bao giờ xảy đến với Ađam/Eva, hiểu theo nghĩa sử-học; nhưng vẫn đang xảy đến với tất cả chúng ta, theo sử-tính. Sử-dụng ngôn-từ như thế, thật ra cũng không giúp ai được điều gì, bởi nó mơ-hồ/trừu-tượng, cả vào khi ta nhìn bằng cặp mắt tốt-lành/hạnh đạo, ta vẫn cứ nhìn vào đó rồi liên-tưởng đến những gì ta làm ngày hôm nay, lúc này.
Tội và lỗi đưa ra vấn-nạn qua đó triết-học không có được tiếng nói hoặc lời lẽ cuối cùng nào để diễn-nghĩa hết. Nói đúng hơn, đó chính là chuyện nan-giải, bí-ẩn và là vấn-đề gì đó khó nhận ra… Nó là sự bí-ẩn vượt mọi khả-năng, biến mọi sự thành thứ gì đó công-khai, có hình có thức, cũng rất chỉnh. Nó là thành-phần của nỗi-niềm huyền-bí về tính trách-nhiệm.
Ở đây, lại có chiều-kích của sự vô-cùng/vô-tận, không nằm dưới ánh-sáng nào hết, nhưng vẫn cứ ở chốn tăm-tối, mù mịt. Nó chính là điểm tối mù được coi như gốc-nguồn của sự dữ do con người vướng mắc. Nơi bản-thể “người” luôn có sự hiện-diện của uy-lực để nói tiếng “Không” với qui-định về đạo-đức, và ngay cả việc đối-ứng bằng tiếng “Không” đối với quà tặng Chúa ban, do thù/ghét. Nó không là sự sao nhãng, lầm lạc và sơ-suất, hoặc tính cứng-ngắc của tâm can, nhưng là sự ngược-ngạo và nghịch-cảnh rất bất-lợi đối với Thiên-Chúa của tình thương-yêu, cảm mến. Nói về chuyện này, ta cần đến ngôn-ngữ của huyền-thoại mới đạt được. Mọi nỗ-lực diễn-giải lỗi và tội theo nghĩa đen hoặc từng chữ vẫn ở nhiều nơi.
Lâu nay, ta từng có cung-cách diễn-giải khác nhau về lề-lối tạo-dựng thứ văn-chương/chữ-nghĩa chỉ để làm có mỗi việc như thế. Trước nhất, con người sử-dụng cung-cách diễn-nghĩa về Tội Nguyên-tổ, tức: cung-cách giải-thích vô-hại để có thể bảo rằng: đó là thứ văn-hoá của người nào đó quyết khẳng-định hiện-thực về ảnh-hưởng tiêu-cực có liên-quan trong đời sống con người. Đây, là cách thăng-hoa trong các nền văn-hoá khác nhau. Và, lối diễn-giải không mang tính vô-hại, thì lại bảo rằng: chuyện như thế, là cốt sử-dụng theo cách chính-trị hầu ép-buộc mọi người về với thánh-tẩy và có thánh-tẩy mới được gia-nhập cộng-đoàn Hội-thánh.
Dưới ánh-sáng như thế, ta đã bàn về Tội Nguyên-tổ và lấy bỏ nó khỏi Ơn Cứu-chuộc, đã tạo ảnh-hưởng lên vấn-đề cứu-rỗi người không được thánh-tẩy và những người không được sát-nhập vào Giáo-hội. Lối giải-thích hiện-đại, nay xem ra có khuynh-hướng nhận-dạng sự bạo-tàn/baọ-lực như cốt lỗi của lỗi/tội; rồi biện-hộ cho nền thần-học về sự tử-tế, thiếu khả-năng và coi đó như quà-tặng của ơn lành cứu chuộc.
Ngoài ra, còn rất nhiều vấn-đề khó khăn hơn ở sau những chuyện ra như thế. Thánh Tôma Akinô hẳn đã hiểu rất nhiều về điều này.
Bên dưới vấn-đề về chữ-nghĩa lẫn ngôn-từ, vấn-đề căn-bản đối với thánh Tôma Akinô, lại là tính-cách khả-thi của lỗi/tội. Ngay trong bản-chất của ý-chí để có quyết-tâm làm việc tốt-lành, thì: sự tốt-lành là đối-tượng chính của những lỗi và tội. Thế thì, làm sao ta lại có được lòng muốn không chịu tuân-phục sự tốt lành được? Làm sao con người lại có động-thái của ý-chí cùng một lúc vẫn muốn; và đồng một thời lại chống-đối bản-chất của ý-chí, như thế được? Làm sao ý-chí lại có thể ăn khớp với sự tốt lành, tức thật sự có quyết-tâm làm và muốn làm điều xấu xa/“tồi tệ” được?
Nó có thể xảy đến qua sự yếu đuối.
Nó có thể xảy ra như hoa trái của sự đam-mê, hoặc ngu dốt.
Thế nhưng, lúc đó tính-cách trách-nhiệm đã bị suy-giảm. Và như thế, không hẳn là lỗi/tội rất “hoàn-toàn”. Như thế, điều đó có xảy ra ngang qua sự việc có dã-tâm phạm lỗi, hay không? Nếu thế thì, bản-chất con người thực-sự có lòng muốn và quyết-tâm thực-hiện sự dữ, sao? Có chăng thần-học của sự mất-nết hoặc đồi-trụy, không?
Ở đây, tôi không suy về sự định-dạng của một số động-thái riêng-tư coi như việc xấu-xa/tồi-tệ, hoặc như thứ lỗi hoặc tội (như chửi thề, nổi giận hoặc như hành-xử mang tính dục-tình. Có thể, chúng ta cũng sẽ kể ra một số ví dụ về hành-vi xấu-xa/tồi-tệ, thôi. Điều tôi nghĩ đến, trên nguyên-tắc là vấn-đề nền-tảng, hỏi rằng: dầu sao đi nữa, có khi nào người bị cho là xấu-xa/tệ-lậu lại hướng lòng mình về sự tốt-lành/hạnh-đạo và thương-yêu, và “hành-xử” cách sai trái ngược với ý-định hoàn-toàn như thế, không? Và như thế, thì “lỗi/tội” là thế nào?
Muốn xử-sự theo hướng-chiều của sự dữ như thế, thì người phạm những lỗi và tội có lẽ cũng phải có vị ngọt của sự dữ, chứ? Vị ngọt ấy chỉ đến từ bản-chất sa-đoạ/gẫy đổ, mà thôi. Và, người đó cũng sẽ thấy sự dữ như điều tốt-lành, thôi. Và người ấy lại sẽ quay về với sự dữ như đã từng quay về với sự tốt-lành, đấy chứ?
Xin ghi thêm ở đây, một điều là: những người như thế, không thực-hành sự dữ cốt để nghịch-chống lương-tâm mình, bao giờ hết. Lương-tâm người ấy đã có sai sót. Không ai đòi hỏi rằng: điều tốt-lành mà người ấy muốn trở-thành người hạnh-đạo đích-thực như mọi người đều rõ, chỉ có điều, là: người ấy lại hiểu chuyện đó cũng tốt-lành, thôi. Ở đây, cũng có lập-trường cho thấy người ấy vẫn là người chạy theo sự tốt lành, cả khi họ ở tình-trạng hư-đốn, nhưng vẫn muốn nghiêng về những gì mà họ cho là tốt-lành/hạnh-đạo. Ao-ước của người phạm lỗi, là: luôn hướng về sự tốt-lành, cả khi họ vi-phạm những lỗi cùng tội. Nhưng, khi thực-hiện ao-ước của mình, họ không cố ý làm thế để nó phù-hợp với sự Tốt-Lành đích-thực, là chính Chúa. Lòng ước-ao làm điều tốt chẳng bao giờ khiếm-khuyết cả. Động-lực khiến người ấy làm thế, đúng ra chỉ là ý-chí của họ khi quyết làm; xem thế thì, đó chỉ là khiếm-khuyết, mà thôi.
Đó là những gì được thánh Tôma Akinô gọi là “tội Nguyên-tổ ở nơi ta” tức: hành-xử để luột mất đi động-lực khiến mình thực-thi điều tốt-lành/hạnh-đạo. Điều này chỉ thành hiện-thực, là vì con người vốn dĩ dễ bị thương-tổn, cũng rất nhiều. Con người kiếm tìm sự tốt-lành cho riêng mình và thiếu mất điểm-tới cho chính mình. Và, cũng vì con người vẫn giữ cho mình ước muốn được tự-do, nên họ mới bị vướng-mắc vào vòng tội/lỗi.
Đây là những gì con người cần đến ơn cứu-chuộc, là do từ đó. Ngay câm-can con người, vẫn còn đó sự bí-nhiệm bấy lâu nay. Lại cũng có đó, phần bí-hiểm của con người mà qua đó tự-do ban đầu đã được định-vị. Nếu ta thực sự gọi đó là tự-do, có lẽ đúng hơn, là khả-năng không hành-xử đúng với quà tặng của tự-do được tham-gia góp phần vào đó. Đúng hơn, đó chính là gốc, là nguồn; và đó là lỗi/tội, nơi mỗi người và mọi người trong chúng ta, nữa.
(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch
Sống đời đạo-đức với ánh-sáng Cứu-Chuộc
(bài 30)
“Rất nhiều tín-hữu Đức Kitô nay không còn cảm-nghiệm và am-tường về “cơn sốc” đậm-sâu mà nhà cải-cách Luther từng trải-nghiệm về sự hiện-hành của tội/lỗi như gánh nặng ta mang.” (Hồng Y Walter Kasper)
Ở đây, tôi đề-nghị anh em hãy cùng tôi, ta bàn thêm về những lỗi và tội mà cá-nhân mỗi người chúng ta từng trải-nghiệm dưới ánh-sáng ơn lành Cứu-chuộc Chúa hiện-thực, hôm nay. Ngày hôm nay, ơn lành cứu-chuộc Chúa ban, đối với tôi, xem ra được diễn-bày qua cung-cách lịch-duyệt bằng động-thái tặng quà cho ta, vì ta yếu-đuối; chí ít là khi ta giáp mặt/đối đầu với “lương-tâm” để có quyết-định cho riêng mình. Ý tôi muốn nói, là: làm sao ta có thể đi đến quyết-định chung-cuộc bằng vào việc sẻ-san hết mọi sự, với mọi người.
Phần 1:
Ngôn-ngữ
và hiện-thực của tội/lỗi
Quả thật, cũng là điều hay, và phải lẽ để ta suy, rằng: ta vốn không thể nào hiểu được những lỗi cùng tội, trừ phi trước đó, ta có ánh-sáng chiếu-rọi gửi đến cho ta để ta hiểu thế nào là Ơn cứu-chuộc và huệ-lộc mình nhận-lãnh qua Giao-ước. Trước nhất là Ơn cứu-chuộc, sau đó mới đến tội và lỗi! Chứ không phải: trước nhất đã có những lỗi và tội, sau đó Ơn cứu-chuộc mới được ban thêm, đâu. Đây, là đề-tài ta chọn để suy-tư, bàn-bạc. Và, đây cũng là ý-tưởng do thánh Phaolô, vị thánh cột-trụ của Giáo-hội, từng đề ra.
Có rất nhiều thứ và nhiều sự việc được qui cho tội và lỗi, nhiều hơn cả những hành-xử sai trái, xấu xa, hoặc “mất điếm tốt” như Kinh Sách của ta từng đề-cập.
Ngôn-từ bàn về lỗi/tội ta từng thừa-tự, xuất từ Kinh Sách cùng tư-tưởng của thánh Augustinô, hoặc từ nguồn-mạch nào đó có trước, cốt để diễn-tả về lỗi và tội nhiều hơn. Nói chung thì, ngôn-ngữ và từ-vựng có ra thế nào đi nữa, cũng chỉ là sưu-tập các ẩn-dụ vẫn tràn lan nơi đời người.
Ẩn-dụ tràn đầy, là cốt đưa ra đáp-trả trực-tiếp có chiều-kích bí-nhiệm của Giao-ước.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi vẫn được coi là “ngẫu thần” lại được nhiều người sùng-bái như thần-linh thiêng-liêng, nhưng lại không là Thiên-Chúa như nội-dung giao-ước Ngài lập ra với ta.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi là “sự bất tuân” theo nghĩa “không chịu nghe theo” hoặc “không thuần-phục” tiếng/giọng mời gọi của Thiên-Chúa đã giao-ước với ta.
Chính vì thế, mà: tội và lỗi vẫn là sự “mù loà”, hiểu theo nghĩa: không nhìn ra được tầm-kích bí-nhiệm ở giao-ước ta đã có với Chúa.
Do đó, mà: trong nguồn-mạch tư-tưởng của Kinh Sách, trong đó toàn-thể con dân (ở Giao-ước) là những người từng vướng-mắc các lỗi phạm căn-bản, không do Giao-ước Chúa lập ra với cá-thể riêng-rẽ, mà với toàn-thể chúng-dân, mọi dân nước.
Chính vì lý-do đó, mà: hình-tượng “bò tơ vàng ánh” trước nhất được hiểu như tội/lỗi ở Kinh Sách. Điều này kết-hợp với phần lớn ẩn-dụ đề ra ở đây. Có đạo thờ “Bò tơ vàng ánh”, bởi lẽ bê/bò là loài thú ở độ tuổi còn đang lớn, nên chúng mang ý-nghĩa của trạng-huống thiếu-trưởng-thành, chẳng đổi-thay và là sự thể bất-khả-thi gặp nơi sự phân-cách quá-trình dưỡng-dục hiện-hữu của con người.
Quả là, biểu-tượng “bò tơ” với người Do-thái còn mạnh hơn biểu-tượng về “bụi-cây- rực-cháy”. Ở đây, biểu-tượng này mang dáng-dấp của một thần dũng-mãnh thuộc loài thú, cốt hoạ lại hình-tượng thần-linh của Ai Cập, từng xuất-hiện cả vào những ngày sau lưu đày, nữa. Nhưng, đây không chỉ muốn nói đến lối sùng-bái khác thường. Bởi, “Độc thần” tự nó đã nhanh chóng trở-thành thứ sùng-bái chú “bê bò”, dễ phụng-thờ. Bởi, nó nhấn mạnh đến chuyện không thể thay cho Thiên-Chúa, được.
Đây, là thần El-Shaddai, vị Thần tự-sung/tự-mãn người xưa thường nói đến. Con người từng dập đầu xuống đất trước mặt Thần này; và vị ấy chính là thần không hình-tượng. Người từng giáp mặt với sức mạnh ở trên không nhân-nhượng. Thần đó là vị thần thống-trị/sở-hữu hết mọi sự. Trước mặt Thần, kẻ sùng-bái hoặc người phụng-thờ chỉ biết thưa: “Dưới mắt Ngài, con đây chỉ là cát bụi.” Con đây, chẳng có chân-dung/diện-mạo, bao giờ. Con đây, lại chẳng dám có quan-hệ đối-mặt với Ngài. Con không là hữu-thể nào trước sự hiện-hữu của Ngài. Và cuối cùng, các thần như thế, chẳng thể nào “cứu-chuộc” được một ai…
Tưởng cũng nên suy thêm ở đây về một số thể-loại của thứ ngôn-ngữ vẫn gắn bó với “Tội Nguyên-tổ”, tức lỗi/tội của Ađam, nam-nhân đầu đời nào đó mà nhiều vị lại cứ như thủy-tổ loài người. Lỗi/tội của thế-giới gian-trần, một bí-nhiệm của sự bất-công nhiệm-màu còn gọi là, “sự Sa ngã”. Và, Ađam là nhân-vật được dàn-dựng theo kiểu biếm-hoạ là biểu-tượng cho tất cả chúng ta, trên đời. Giả như ai đó phạm những lỗi hoặc tội gì, thì người ấy có khuynh-hướng tiến tới với lỗi/tội, ít là để khoả-lấp hoặc che đậy điều gì đó; và cũng kết-thúc bằng vô số hành-vi phạm tội như lời kinh ta vẫn đọc: “Lạy Đấng xoá tội trần-gian, xin thương ban bình-an cho chúng tôi!”
Bí-nhiệm về sự bất-công khi trước là tự-vựng ta vay-mượn từ các tập-tục của dân ngoại, vốn dĩ tìm cách giải-thích sự hiện-diện của ác-thần/sự dữ trên thế-gian biết là chừng nào! “Sự Sa ngã” chẳng bao giờ xảy đến với Ađam/Eva, hiểu theo nghĩa sử-học; nhưng vẫn đang xảy đến với tất cả chúng ta, theo sử-tính. Sử-dụng ngôn-từ như thế, thật ra cũng không giúp ai được điều gì, bởi nó mơ-hồ/trừu-tượng, cả vào khi ta nhìn bằng cặp mắt tốt-lành/hạnh đạo, ta vẫn cứ nhìn vào đó rồi liên-tưởng đến những gì ta làm ngày hôm nay, lúc này.
Tội và lỗi đưa ra vấn-nạn qua đó triết-học không có được tiếng nói hoặc lời lẽ cuối cùng nào để diễn-nghĩa hết. Nói đúng hơn, đó chính là chuyện nan-giải, bí-ẩn và là vấn-đề gì đó khó nhận ra… Nó là sự bí-ẩn vượt mọi khả-năng, biến mọi sự thành thứ gì đó công-khai, có hình có thức, cũng rất chỉnh. Nó là thành-phần của nỗi-niềm huyền-bí về tính trách-nhiệm.
Ở đây, lại có chiều-kích của sự vô-cùng/vô-tận, không nằm dưới ánh-sáng nào hết, nhưng vẫn cứ ở chốn tăm-tối, mù mịt. Nó chính là điểm tối mù được coi như gốc-nguồn của sự dữ do con người vướng mắc. Nơi bản-thể “người” luôn có sự hiện-diện của uy-lực để nói tiếng “Không” với qui-định về đạo-đức, và ngay cả việc đối-ứng bằng tiếng “Không” đối với quà tặng Chúa ban, do thù/ghét. Nó không là sự sao nhãng, lầm lạc và sơ-suất, hoặc tính cứng-ngắc của tâm can, nhưng là sự ngược-ngạo và nghịch-cảnh rất bất-lợi đối với Thiên-Chúa của tình thương-yêu, cảm mến. Nói về chuyện này, ta cần đến ngôn-ngữ của huyền-thoại mới đạt được. Mọi nỗ-lực diễn-giải lỗi và tội theo nghĩa đen hoặc từng chữ vẫn ở nhiều nơi.
Lâu nay, ta từng có cung-cách diễn-giải khác nhau về lề-lối tạo-dựng thứ văn-chương/chữ-nghĩa chỉ để làm có mỗi việc như thế. Trước nhất, con người sử-dụng cung-cách diễn-nghĩa về Tội Nguyên-tổ, tức: cung-cách giải-thích vô-hại để có thể bảo rằng: đó là thứ văn-hoá của người nào đó quyết khẳng-định hiện-thực về ảnh-hưởng tiêu-cực có liên-quan trong đời sống con người. Đây, là cách thăng-hoa trong các nền văn-hoá khác nhau. Và, lối diễn-giải không mang tính vô-hại, thì lại bảo rằng: chuyện như thế, là cốt sử-dụng theo cách chính-trị hầu ép-buộc mọi người về với thánh-tẩy và có thánh-tẩy mới được gia-nhập cộng-đoàn Hội-thánh.
Dưới ánh-sáng như thế, ta đã bàn về Tội Nguyên-tổ và lấy bỏ nó khỏi Ơn Cứu-chuộc, đã tạo ảnh-hưởng lên vấn-đề cứu-rỗi người không được thánh-tẩy và những người không được sát-nhập vào Giáo-hội. Lối giải-thích hiện-đại, nay xem ra có khuynh-hướng nhận-dạng sự bạo-tàn/baọ-lực như cốt lỗi của lỗi/tội; rồi biện-hộ cho nền thần-học về sự tử-tế, thiếu khả-năng và coi đó như quà-tặng của ơn lành cứu chuộc.
Ngoài ra, còn rất nhiều vấn-đề khó khăn hơn ở sau những chuyện ra như thế. Thánh Tôma Akinô hẳn đã hiểu rất nhiều về điều này.
Bên dưới vấn-đề về chữ-nghĩa lẫn ngôn-từ, vấn-đề căn-bản đối với thánh Tôma Akinô, lại là tính-cách khả-thi của lỗi/tội. Ngay trong bản-chất của ý-chí để có quyết-tâm làm việc tốt-lành, thì: sự tốt-lành là đối-tượng chính của những lỗi và tội. Thế thì, làm sao ta lại có được lòng muốn không chịu tuân-phục sự tốt lành được? Làm sao con người lại có động-thái của ý-chí cùng một lúc vẫn muốn; và đồng một thời lại chống-đối bản-chất của ý-chí, như thế được? Làm sao ý-chí lại có thể ăn khớp với sự tốt lành, tức thật sự có quyết-tâm làm và muốn làm điều xấu xa/“tồi tệ” được?
Nó có thể xảy đến qua sự yếu đuối.
Nó có thể xảy ra như hoa trái của sự đam-mê, hoặc ngu dốt.
Thế nhưng, lúc đó tính-cách trách-nhiệm đã bị suy-giảm. Và như thế, không hẳn là lỗi/tội rất “hoàn-toàn”. Như thế, điều đó có xảy ra ngang qua sự việc có dã-tâm phạm lỗi, hay không? Nếu thế thì, bản-chất con người thực-sự có lòng muốn và quyết-tâm thực-hiện sự dữ, sao? Có chăng thần-học của sự mất-nết hoặc đồi-trụy, không?
Ở đây, tôi không suy về sự định-dạng của một số động-thái riêng-tư coi như việc xấu-xa/tồi-tệ, hoặc như thứ lỗi hoặc tội (như chửi thề, nổi giận hoặc như hành-xử mang tính dục-tình. Có thể, chúng ta cũng sẽ kể ra một số ví dụ về hành-vi xấu-xa/tồi-tệ, thôi. Điều tôi nghĩ đến, trên nguyên-tắc là vấn-đề nền-tảng, hỏi rằng: dầu sao đi nữa, có khi nào người bị cho là xấu-xa/tệ-lậu lại hướng lòng mình về sự tốt-lành/hạnh-đạo và thương-yêu, và “hành-xử” cách sai trái ngược với ý-định hoàn-toàn như thế, không? Và như thế, thì “lỗi/tội” là thế nào?
Muốn xử-sự theo hướng-chiều của sự dữ như thế, thì người phạm những lỗi và tội có lẽ cũng phải có vị ngọt của sự dữ, chứ? Vị ngọt ấy chỉ đến từ bản-chất sa-đoạ/gẫy đổ, mà thôi. Và, người đó cũng sẽ thấy sự dữ như điều tốt-lành, thôi. Và người ấy lại sẽ quay về với sự dữ như đã từng quay về với sự tốt-lành, đấy chứ?
Xin ghi thêm ở đây, một điều là: những người như thế, không thực-hành sự dữ cốt để nghịch-chống lương-tâm mình, bao giờ hết. Lương-tâm người ấy đã có sai sót. Không ai đòi hỏi rằng: điều tốt-lành mà người ấy muốn trở-thành người hạnh-đạo đích-thực như mọi người đều rõ, chỉ có điều, là: người ấy lại hiểu chuyện đó cũng tốt-lành, thôi. Ở đây, cũng có lập-trường cho thấy người ấy vẫn là người chạy theo sự tốt lành, cả khi họ ở tình-trạng hư-đốn, nhưng vẫn muốn nghiêng về những gì mà họ cho là tốt-lành/hạnh-đạo. Ao-ước của người phạm lỗi, là: luôn hướng về sự tốt-lành, cả khi họ vi-phạm những lỗi cùng tội. Nhưng, khi thực-hiện ao-ước của mình, họ không cố ý làm thế để nó phù-hợp với sự Tốt-Lành đích-thực, là chính Chúa. Lòng ước-ao làm điều tốt chẳng bao giờ khiếm-khuyết cả. Động-lực khiến người ấy làm thế, đúng ra chỉ là ý-chí của họ khi quyết làm; xem thế thì, đó chỉ là khiếm-khuyết, mà thôi.
Đó là những gì được thánh Tôma Akinô gọi là “tội Nguyên-tổ ở nơi ta” tức: hành-xử để luột mất đi động-lực khiến mình thực-thi điều tốt-lành/hạnh-đạo. Điều này chỉ thành hiện-thực, là vì con người vốn dĩ dễ bị thương-tổn, cũng rất nhiều. Con người kiếm tìm sự tốt-lành cho riêng mình và thiếu mất điểm-tới cho chính mình. Và, cũng vì con người vẫn giữ cho mình ước muốn được tự-do, nên họ mới bị vướng-mắc vào vòng tội/lỗi.
Đây là những gì con người cần đến ơn cứu-chuộc, là do từ đó. Ngay câm-can con người, vẫn còn đó sự bí-nhiệm bấy lâu nay. Lại cũng có đó, phần bí-hiểm của con người mà qua đó tự-do ban đầu đã được định-vị. Nếu ta thực sự gọi đó là tự-do, có lẽ đúng hơn, là khả-năng không hành-xử đúng với quà tặng của tự-do được tham-gia góp phần vào đó. Đúng hơn, đó chính là gốc, là nguồn; và đó là lỗi/tội, nơi mỗi người và mọi người trong chúng ta, nữa.
(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch
Văn Hóa
Sưu tập bất hủ ‘Denzinger’ vẫn rất giá trị sau 160 năm xuất bản
Vũ Văn An
21:17 28/08/2014
Heinrich Denzinger nẩy sinh một ý tưởng giá trị. Giá trị đến nỗi ý tưởng này ngày nay vẫn rất giá trị sau 160 năm ra đời.
Cha Denzinger, một thần học gia người Đức ở thế kỷ 19, nhận thấy nhu cầu phải có một sưu tập các công thức tuyên tín, các sắc lệnh công đồng và các văn kiện giáo huấn của các vị giáo hoàng, giúp cho các nhà thần học, các vị giảng thuyết và các độc giả nghiêm túc muốn hiểu biết những điều Giáo Hội Công Giáo thực sự truyền dạy, vì giáo huấn này quả đã được trình bày trong các văn kiện chính thức của huấn quyền, tức quyền giáo huấn của Giáo Hội.
Nền thần học Công Giáo Đức
Ấn bản thứ nhất của sưu tập, mà người sử dụng sau này đơn giản gọi là “Denzinger”, ra đời năm 1854, đúng vào năm Đức GH Piô IX định tín tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai.
Nó trình bày các bản văn trích từ 100 văn kiện của vị giáo hoàng đương nhiệm là Đức Piô IX. Ngược lại, nội dung của ấn bản 43 mới công bố gần đây đã được mở rộng từ “Thư Các Tông Đồ” gửi Người Êtiôpia, có niên hiệu khoảng năm 160 tới năm 170 CN, tới chỉ thị về đạo đức sinh học do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành năm 2008 (“Compendium of Creeds, Definitions, and Declarations on Matters of Faith and Morals,” (Ignatius Press, $69.95)).
Bản dịch tiếng Anh của ấn bản mới trên là bản dịch thứ nhất bằng ngôn ngữ này kể từ ấn bản 30 hồi năm 1957. Nó tham gia các ấn bản bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Croatian, cũng như Đức, dĩ nhiên. Các bản bằng tiếng Đại Hàn và Trung Hoa đang được dự kiến. Chưa thấy nói tới một dự kiến Việt Nam? Phải chăng vì ở Việt Nam, thần học vẫn chỉ là thần học của giáo sĩ hay đúng hơn thần học độc quyền của các vị đào tạo giáo sĩ?
Đối với những người quen thuộc với việc sử dụng Denzinger trong công việc của mình, việc xuất bản ấn bản tiếng Anh là một biến cố đáng lưu ý đồng thời là một tiêu mẫu đáng kể đối với việc xuất bản sách.
Cùng với các bản văn trong các ngôn ngữ nguyên thủy (thường là La Tinh, thỉnh thoảng có Hy Ngữ) kèm theo nhiều lời dịch sang ngôn ngữ thông thường, 1,437 trang của nó bao gồm một “mục lục có hệ thống” chia các văn kiện thành 12 đề mục chính (“Thiên Chúa tự mạc khải”, “Thiên Chúa cứu vớt con người qua Chúa Giêsu Kitô”, “Thiên Chúa kêu gọi con người sống đời sống luân lý trong cộng đồng”…), nhiều mục lục chuyên đề khác và một dẫn nhập lịch sử của nhà hiệu đính hiện nay là Peter Hünermann.
Các vản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian, với các văn kiện xếp theo triều giáo hoàng thời chúng được công bố.
Phần lớn nhất là phần từ triều giáo hoàng khá dài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bắt đầu từ ngày ngài được bầu 16 tháng Mười năm 1978 tới ngày ngài qua đời 2 tháng Tư năm 2005. Số bản văn của triều đại Gioan Phaolô II trong Denzinger là 49.
Heinrich Denzinger, cha đẻ của ấn phẩm để đời này trong ngành nghiên cứu có hệ thống các học thuyết Công Giáo, sinh tại Liège, Bỉ ngày 10 tháng Mười năm 1819. Gia đình chuyển tới Wurzburg, Đức, năm 1831. Lúc trẻ, ngài theo học tại đây rồi tại Rôma, và năm 1844 được thụ phong linh mục. Bắt đầu từ năm 1848, ngài dạy thần học hệ thống cho tới ngày qua đời 19 tháng Sáu năm 1885.
Cha Denzinger là một nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ điều sau này được coi là đặc điểm của nền thần học Đức: thận trọng tìm hiểu việc khai triển lịch sử của suy tư thần học.
Chủ nghĩa duy lý thần học
Trong phần dẫn nhập, Hunermann nói rằng mục đích của Cha Denziger, khi sưu tập ấn bản đầu tiên, là đấu tranh chống “thuyết duy lý thần học” mà ngài thấy đang xâm nhập nền thần học Đức lúc đó.
Có lẽ, ngài và công trình của ngài được hiểu tốt nhất trong ngữ cảnh trên.
Dĩ nhiên, mọi nền thần học đều giả thiết phải hợp lý, nhưng thần học duy lý là một điều rất khác.
Chịu ảnh hưởng của phong trào trí thức thế kỷ 18 mệnh danh là Phong Trào Ánh Sáng và đồng chí tôn giáo của nó là tự nhiên thần thuyết (deism), thần học duy lý phá hủy niềm tin vào chiều kích siêu nhiên của tôn giáo và dọn đường cho chủ nghĩa “tự do” tôn giáo sẽ bị các văn gia thế kỷ 19 như tân tòng Anh John Henry Newman cực lực chống đối.
Cuốn sưu tập của Cha Denzinger rõ ràng đáp ứng nhu cầu trên, nên trong 18 tháng đầu tiên, hai ấn bản khác liên tiếp đã được phát hành.
Ấn bản thứ năm năm 1874 là ấn bản sau cùng được ngài đích thân đóng góp. Từ đó, trong số các nhà hiệu đính, ta thấy có linh mục Dòng Tên Karl Rahner, một nhà thần học Đức nổi tiếng, chịu trách nhiệm từ ấn bản 28 tới ấn bản 31, người đã đóng một vai trò chủ chốt tại Công Đồng Vatican II (1962-65). Ấn bản thứ 32 năm 1963 “hoàn toàn được làm lại” bởi linh mục Dòng Tên Adolf Schonmetzer, đến nỗi sau đó, tác phẩm này đôi khi được gọi tên là “Denzinger-Schonmetzer” chứ không hẳn “Denzinger” mà thôi.
Hunermann, nguyên chủ tịch Hội Thần Học Công Giáo Âu Châu, là nhà hiệu đính từ năm 1981.
Phê phán
Dù được sử dụng lâu dài như trên, sưu tập vẫn bị phê phán. Một số người chê trách nền “thần học Denziger” ngụ ý nói tới thứ trước tác thần học chỉ biết lặp lại những gì huấn quyền đã nói, không hề cố gắng rõi thêm ánh sáng của mình lên học lý. Linh mục Dòng Đa Minh Yves Congar, một nhà thần học nổi tiếng người Pháp, giống Cha Rahner, cũng là một người rất có ảnh hưởng đối với Vatican II, lên tiếng cảnh cáo chống lại việc trình bày huấn quyền như một loại “siêu hữu thể độc đáo” chuyên “trông chừng [các tín hữu và] coi họ như con nít”.
Ngài trưng dẫn nhiều tác tố khác, ngoài huấn quyền, góp phần duy trì và bảo vệ giáo huấn chính thống, trong đó có giáo huấn của các thánh tiến sĩ và các giáo phụ. Hunermann ghi nhận lời phê phán của Cha Congar, nhưng sau đó cho rằng “việc sử dụng thích đáng ‘Denzinger’ về thần học không dẫn tới một ‘nền thần học Denziger’ vô bổ.
“Đúng hơn, ‘nền thần học Denzinger’ cho thấy cách sử dụng sưu tập này cách không thích đáng. Lợi ích phong phú của ‘Denzinger’ mà Cha Congar nói tới chỉ bắt đầu phát sinh cho những ai xử lý sưu tập này theo phương thức thần học xác đáng”.
Đây là cách nhìn huấn quyền và giáo huấn của huấn quyền được Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo chia sẻ. Sách này viết rằng “Nhiệm vụ chăn dắt của huấn quyền là lo liệu sao cho Dân Chúa đứng vững trong chân lý giải thoát” (số 890). Cha Denzinger chắc chắn đồng ý với quan điểm này.
Ấn bản mới nhất
Ấn bản gần đây nhất của cuốn “Compendium of Creeds, Definitions, and Declarations on Matters of Faith and Morals” đầu tiên soạn bởi Cha Heinrich Denzinger và ngày nay được Tiến Sĩ Peter Hunermann hiệu đính, được phát hành năm 2012, gồm 1,437 trang. Một số cập nhật đã được đưa vào ấn bản này:
1. Các văn kiện và nguồn gốc của chúng được thêm vào từ triều giáo hoàng của Đức Bênêđíctô XVI.
2. Mỗi bản văn đều có lời dẫn nhập, và ngôn ngữ nguyên thuỷ cùng lời dịch tương ứng qua tiếng Anh được trình bày song song bên nhau trong hai cột để dễ so sánh và tham chiếu.
3. Phần sau cùng của sưu tập có mục lục toàn diện, trong đó có mục lục hệ thống giúp độc giả tìm bản văn dựa vào các chủ đề chuyên biệt.
Cha Denzinger, một thần học gia người Đức ở thế kỷ 19, nhận thấy nhu cầu phải có một sưu tập các công thức tuyên tín, các sắc lệnh công đồng và các văn kiện giáo huấn của các vị giáo hoàng, giúp cho các nhà thần học, các vị giảng thuyết và các độc giả nghiêm túc muốn hiểu biết những điều Giáo Hội Công Giáo thực sự truyền dạy, vì giáo huấn này quả đã được trình bày trong các văn kiện chính thức của huấn quyền, tức quyền giáo huấn của Giáo Hội.
Nền thần học Công Giáo Đức
Ấn bản thứ nhất của sưu tập, mà người sử dụng sau này đơn giản gọi là “Denzinger”, ra đời năm 1854, đúng vào năm Đức GH Piô IX định tín tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai.
Nó trình bày các bản văn trích từ 100 văn kiện của vị giáo hoàng đương nhiệm là Đức Piô IX. Ngược lại, nội dung của ấn bản 43 mới công bố gần đây đã được mở rộng từ “Thư Các Tông Đồ” gửi Người Êtiôpia, có niên hiệu khoảng năm 160 tới năm 170 CN, tới chỉ thị về đạo đức sinh học do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành năm 2008 (“Compendium of Creeds, Definitions, and Declarations on Matters of Faith and Morals,” (Ignatius Press, $69.95)).
Bản dịch tiếng Anh của ấn bản mới trên là bản dịch thứ nhất bằng ngôn ngữ này kể từ ấn bản 30 hồi năm 1957. Nó tham gia các ấn bản bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Croatian, cũng như Đức, dĩ nhiên. Các bản bằng tiếng Đại Hàn và Trung Hoa đang được dự kiến. Chưa thấy nói tới một dự kiến Việt Nam? Phải chăng vì ở Việt Nam, thần học vẫn chỉ là thần học của giáo sĩ hay đúng hơn thần học độc quyền của các vị đào tạo giáo sĩ?
Đối với những người quen thuộc với việc sử dụng Denzinger trong công việc của mình, việc xuất bản ấn bản tiếng Anh là một biến cố đáng lưu ý đồng thời là một tiêu mẫu đáng kể đối với việc xuất bản sách.
Cùng với các bản văn trong các ngôn ngữ nguyên thủy (thường là La Tinh, thỉnh thoảng có Hy Ngữ) kèm theo nhiều lời dịch sang ngôn ngữ thông thường, 1,437 trang của nó bao gồm một “mục lục có hệ thống” chia các văn kiện thành 12 đề mục chính (“Thiên Chúa tự mạc khải”, “Thiên Chúa cứu vớt con người qua Chúa Giêsu Kitô”, “Thiên Chúa kêu gọi con người sống đời sống luân lý trong cộng đồng”…), nhiều mục lục chuyên đề khác và một dẫn nhập lịch sử của nhà hiệu đính hiện nay là Peter Hünermann.
Các vản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian, với các văn kiện xếp theo triều giáo hoàng thời chúng được công bố.
Phần lớn nhất là phần từ triều giáo hoàng khá dài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bắt đầu từ ngày ngài được bầu 16 tháng Mười năm 1978 tới ngày ngài qua đời 2 tháng Tư năm 2005. Số bản văn của triều đại Gioan Phaolô II trong Denzinger là 49.
Heinrich Denzinger, cha đẻ của ấn phẩm để đời này trong ngành nghiên cứu có hệ thống các học thuyết Công Giáo, sinh tại Liège, Bỉ ngày 10 tháng Mười năm 1819. Gia đình chuyển tới Wurzburg, Đức, năm 1831. Lúc trẻ, ngài theo học tại đây rồi tại Rôma, và năm 1844 được thụ phong linh mục. Bắt đầu từ năm 1848, ngài dạy thần học hệ thống cho tới ngày qua đời 19 tháng Sáu năm 1885.
Cha Denzinger là một nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ điều sau này được coi là đặc điểm của nền thần học Đức: thận trọng tìm hiểu việc khai triển lịch sử của suy tư thần học.
Chủ nghĩa duy lý thần học
Trong phần dẫn nhập, Hunermann nói rằng mục đích của Cha Denziger, khi sưu tập ấn bản đầu tiên, là đấu tranh chống “thuyết duy lý thần học” mà ngài thấy đang xâm nhập nền thần học Đức lúc đó.
Có lẽ, ngài và công trình của ngài được hiểu tốt nhất trong ngữ cảnh trên.
Dĩ nhiên, mọi nền thần học đều giả thiết phải hợp lý, nhưng thần học duy lý là một điều rất khác.
Chịu ảnh hưởng của phong trào trí thức thế kỷ 18 mệnh danh là Phong Trào Ánh Sáng và đồng chí tôn giáo của nó là tự nhiên thần thuyết (deism), thần học duy lý phá hủy niềm tin vào chiều kích siêu nhiên của tôn giáo và dọn đường cho chủ nghĩa “tự do” tôn giáo sẽ bị các văn gia thế kỷ 19 như tân tòng Anh John Henry Newman cực lực chống đối.
Cuốn sưu tập của Cha Denzinger rõ ràng đáp ứng nhu cầu trên, nên trong 18 tháng đầu tiên, hai ấn bản khác liên tiếp đã được phát hành.
Ấn bản thứ năm năm 1874 là ấn bản sau cùng được ngài đích thân đóng góp. Từ đó, trong số các nhà hiệu đính, ta thấy có linh mục Dòng Tên Karl Rahner, một nhà thần học Đức nổi tiếng, chịu trách nhiệm từ ấn bản 28 tới ấn bản 31, người đã đóng một vai trò chủ chốt tại Công Đồng Vatican II (1962-65). Ấn bản thứ 32 năm 1963 “hoàn toàn được làm lại” bởi linh mục Dòng Tên Adolf Schonmetzer, đến nỗi sau đó, tác phẩm này đôi khi được gọi tên là “Denzinger-Schonmetzer” chứ không hẳn “Denzinger” mà thôi.
Hunermann, nguyên chủ tịch Hội Thần Học Công Giáo Âu Châu, là nhà hiệu đính từ năm 1981.
Phê phán
Dù được sử dụng lâu dài như trên, sưu tập vẫn bị phê phán. Một số người chê trách nền “thần học Denziger” ngụ ý nói tới thứ trước tác thần học chỉ biết lặp lại những gì huấn quyền đã nói, không hề cố gắng rõi thêm ánh sáng của mình lên học lý. Linh mục Dòng Đa Minh Yves Congar, một nhà thần học nổi tiếng người Pháp, giống Cha Rahner, cũng là một người rất có ảnh hưởng đối với Vatican II, lên tiếng cảnh cáo chống lại việc trình bày huấn quyền như một loại “siêu hữu thể độc đáo” chuyên “trông chừng [các tín hữu và] coi họ như con nít”.
Ngài trưng dẫn nhiều tác tố khác, ngoài huấn quyền, góp phần duy trì và bảo vệ giáo huấn chính thống, trong đó có giáo huấn của các thánh tiến sĩ và các giáo phụ. Hunermann ghi nhận lời phê phán của Cha Congar, nhưng sau đó cho rằng “việc sử dụng thích đáng ‘Denzinger’ về thần học không dẫn tới một ‘nền thần học Denziger’ vô bổ.
“Đúng hơn, ‘nền thần học Denzinger’ cho thấy cách sử dụng sưu tập này cách không thích đáng. Lợi ích phong phú của ‘Denzinger’ mà Cha Congar nói tới chỉ bắt đầu phát sinh cho những ai xử lý sưu tập này theo phương thức thần học xác đáng”.
Đây là cách nhìn huấn quyền và giáo huấn của huấn quyền được Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo chia sẻ. Sách này viết rằng “Nhiệm vụ chăn dắt của huấn quyền là lo liệu sao cho Dân Chúa đứng vững trong chân lý giải thoát” (số 890). Cha Denzinger chắc chắn đồng ý với quan điểm này.
Ấn bản mới nhất
Ấn bản gần đây nhất của cuốn “Compendium of Creeds, Definitions, and Declarations on Matters of Faith and Morals” đầu tiên soạn bởi Cha Heinrich Denzinger và ngày nay được Tiến Sĩ Peter Hunermann hiệu đính, được phát hành năm 2012, gồm 1,437 trang. Một số cập nhật đã được đưa vào ấn bản này:
1. Các văn kiện và nguồn gốc của chúng được thêm vào từ triều giáo hoàng của Đức Bênêđíctô XVI.
2. Mỗi bản văn đều có lời dẫn nhập, và ngôn ngữ nguyên thuỷ cùng lời dịch tương ứng qua tiếng Anh được trình bày song song bên nhau trong hai cột để dễ so sánh và tham chiếu.
3. Phần sau cùng của sưu tập có mục lục toàn diện, trong đó có mục lục hệ thống giúp độc giả tìm bản văn dựa vào các chủ đề chuyên biệt.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Sứ Ngày Hạ
Nguyễn Đức Cung
21:08 28/08/2014
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Nhìn hoa Sứ ươm mình trong nắng
Ngỡ đàn bướm trắng đậu trên cành.
(nđc)
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 22-28/08/2014: Khủng bố Hồi Giáo tiếp tục gây thêm thảm trạng nhân đạo tại Iraq
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:33 28/08/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đức Thượng Phụ Louis Raphaël Sako vừa tái đưa ra một lời thỉnh cầu lương tâm thế giới về thảm trạng các Kitô hữu Iraq. Ngài viết trong tuyên bố đưa ra hôm Chúa Nhật 24 tháng 8:
"Điều đã trở nên rõ ràng rằng các Kitô hữu Iraq cùng với các nhóm thiểu số khác đã bị một đòn chí tử đánh vào cốt lõi cuộc sống và sự tồn tại của họ qua việc hơn 100,000 Kitô hữu bị cưỡng bức bằng vũ lực phải bỏ nhà cửa di tản, bị cướp bóc của cải, tiền bạc, giấy tờ, nhà cửa chỉ vì họ là Kitô hữu,"
Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Canđê cho biết:
"Tôi đã đến thăm các trại tị nạn của người dân ở các tỉnh Erbil và Dohok, và những gì tôi đã thấy và những gì tôi đã nghe là vượt quá trí tưởng tượng."
"Đến nay vẫn chưa có phải một giải pháp cụ thể trước mắt cho cuộc khủng hoảng chúng ta đang phải đối mặt. Mặt khác, tiền bạc, vũ khí và các chiến binh thánh chiến tiếp tục được đổ vào cho quân khủng bố Hồi Giáo IS. Mặc dù thực tế là chúng tôi đang phải sống trong một chiến dịch có tính toán nhằm loại bỏ chúng tôi khỏi Iraq, lương tâm thế giới chưa hoàn toàn tỉnh táo để đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của tình hình. Bây giờ, giai đoạn thứ hai của thảm hoạ đã bắt đầu, đó là sự di cư của các gia đình đến các miền khác nhau của thế giới, do đó xóa nhòa lịch sử, di sản, và căn tính của những người Kitô hữu Iraq vào hư vô."
Ngài nói thêm:
Cộng đồng quốc tế, chủ yếu là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu do những trách nhiệm luân lý và lịch sử đối với Iraq không thể thờ ơ. Trong khi thừa nhận tất cả những gì đang được thực hiện để giải quyết cuộc khủng hoảng này, chúng tôi nhận thấy rằng có vẻ như các quyết định và hành động được thực hiện cho đến nay vẫn chưa đem đến những thay đổi thực sự về tình trạng. Số phận của những người bị ảnh hưởng vẫn đang bị đe dọa đến mức như thể những người này không phải là một phần của nhân loại!
Chúng tôi cũng lên tiếng kêu gọi cả cộng đồng Hồi giáo, vì những tuyên bố của họ về các hành vi dã man nhân danh tôn giáo của họ gây ra cho cuộc sống, nhân phẩm và tự do của các Kitô hữu chưa thể hiện được sự mong đợi chính đáng của chúng tôi. Họ thừa biết rằng các Kitô hữu đã đóng góp và chiến đấu cho đất nước này, và sống trong sự hợp tác với anh em Hồi giáo của họ cùng với nền văn minh Hồi giáo.
Trào lưu tôn giáo cực đoan vẫn đang phát triển quyền lực và sức mạnh của nó, tạo ra bi kịch, và làm cho chúng ta tự hỏi khi nào các học giả Hồi giáo và các trí thức Hồi giáo mới chịu nghiêm túc xem xét hiện tượng nguy hiểm này và tiêu diệt nó bằng cách giáo dục một lương tâm tôn giáo đúng đắn và truyền bá một nền văn hóa đích thực trong đó chấp nhận những khác biệt của người anh em mình và chấp nhận họ là những công dân bình đẳng với đầy đủ quyền lợi.
Điều đã xảy ra là thập khủng khiếp và dã man, do đó, chúng ta cần một sự hỗ trợ quốc tế khẩn cấp và có hiệu quả từ tất cả các người thiện chí để có thể giữ các Kitô hữu và người Yazidi, là những thành phần thực sự của xã hội Iraq từ trước đến nay. Sự im lặng và thụ động sẽ khuyến khích quân khủng bố Hồi Giáo IS gây ra nhiều bi kịch hơn nữa! Câu hỏi đặt ra là ai sẽ là nạn nhân tiếp theo.
2. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đích thân gọi điện thoại cho gia đình anh James Foley, 40 tuổi, nhà báo người Mỹ vừa bị chặt đầu ở Iraq.
Trong cuộc họp báo chiều ngày thứ Năm 21 tháng 8, cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho các phóng viên biết là vài giờ trước đó, đích thân Đức Thánh Cha Phanxicô đã gọi điện thoại sang New Hampshire, Hoa Kỳ để chia buồn cùng gia đình và hứa cầu nguyện cho linh hồn người quá cố, cũng như xin Chúa và Đức Mẹ lau những giọt nước mắt của gia đình và người thân trước cái chết bi thảm này.
Foley, đã thi hành công việc tường thuật tình hình tại Trung Đông trong 5 năm qua và đã từng bị giam giữ tại Libya, sau đó được trả tự do và lại bị bắt cóc vào ngày 22 tháng 11 năm 2012 gần thành phố Binnish ở tỉnh Idlib của Syria, khi ông và các đồng nghiệp đang trên đường trở lại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ.
James Foley có một lòng sùng mộ đối với Kinh Mân Côi. Nhờ đó, anh giữ được tinh thần trong thời gian bị giam giữ và để lại những ấn tượng sâu sắc nơi những bạn tù.
Didier Francois, một phóng viên chiến trường kỳ cựu người Pháp đã từng bị giam chung với Foley và sau đó đã được trả tự do với ba con tin khác người Pháp vào tháng Tư, cho biết anh "là một người đặc biệt với một tính cách mạnh mẽ".
Foley thường bị bọn khủng bố đánh đập nhưng anh không khuất phục.
Ký giả Nicolas Henin, người bị giam chung với James Foley nói:
"Anh ấy là người bạn tù đầy an ủi trong trại giam vì anh ấy có tinh thần vững mạnh và tập thể. Bất chấp bạo lực của những kẻ bắt cóc, anh không bao giờ chiều theo áp lực của chúng".
Ngày 13 tháng 8 vừa qua, gia đình anh đã nhận được những emails của quân khủng bố Hồi Giáo IS dọa giết anh.
Sáu ngày sau đó, chúng tung ra một video trong đó anh James Foley bị bắt quỳ giữa sa mạc trong khi chúng diễu hành một người ký giả Mỹ khác là Steven Sotloff mà chúng dọa sẽ hành quyết sau khi đã hành quyết anh.
Sau đó, bọn khủng bố Hồi Giáo chặt đầu anh.
3. Thư của Đức Thánh Cha trong thánh lễ an táng cho nhà báo Công Giáo Hoa Kỳ James Foley
Thánh lễ an táng cho James Foley, nhà báo người Mỹ bị bắt cóc ở Syria vào năm 2012 và bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS chặt đầu hôm 19 tháng Tám năm 2014, đã được cử hành tại giáo xứ Rochester, ở New Hampshire vào ngày Chúa Nhật 24 tháng 8.
Trưa ngày thứ Năm 21 tháng 8, đích thân Đức Thánh Cha Phanxicô đã gọi điện thoại để chia buồn cùng gia đình và hứa cầu nguyện cho linh hồn người quá cố, cũng như xin Chúa và Đức Mẹ lau những giọt nước mắt của gia đình và người thân trước cái chết bi thảm này.
Một lá thư của Đức Thánh Cha Phanxicô do Đức Hồng Y Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, gởi cho Đức Cha Peter Libasci, Giám Mục New Hampshire đã được đọc trong lễ an táng. Trong thư, Đức Hồng Y viết:
"Đức Thánh Cha vô cùng đau buồn trước cái chết của James Wright Foley, yêu cầu Đức Cha vui lòng truyền đạt lời chia buồn cá nhân của ngài và bảo đảm sự gần gũi của ngài trong lời cầu nguyện cho những người thân yêu của James".
"Đức Thánh Cha phó thác James cho tình yêu thương xót của Thiên Chúa, là Cha chúng ta, và hiệp với tất cả những người thương tiếc anh trong lời cầu nguyện cho những bạo lực vô nghĩa sớm chấm dứt và cho bình minh của sự hòa giải và hòa bình giữa tất cả các thành viên của gia đình nhân loại sớm ló dạng. Ngài cầu xin ơn an ủi và sức mạnh - nảy sinh từ hy vọng của chúng ta nơi sự phục sinh của Chúa Kitô - tuôn đổ trên gia đình Foley, bạn bè và đồng nghiệp của anh"
4. Đức Hồng Y Fernando Filoni báo cáo với Đức Thánh Cha về chuyến thăm Iraq
Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, là đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Iraq đã về đến Vatican bình an. Theo nhận định của ngài “cuộc bách hại các Kitô hữu và cộng đồng người Yazedi của quân khủng bố Hồi Giáo IS phải là một mối quan tâm cấp bách cho ‘tất cả những ai quan tâm đến nhân loại.’”
Đức Hồng Y Filoni đã từng là sứ thần Tòa Thánh tại Iraq trong thời chiến tranh 2003. Ngài nói chuyện với Đài phát thanh Vatican sau khi gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô và tóm tắt về chuyến đi của mình. Đức Hồng Y cho biết ngài đã có một "cuộc họp rất thân thiện" với Tổng thống Iraq Fuad Masum, khi ngài trao cho tân tổng thống một thông điệp cá nhân của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Trong thông điệp này, Đức Thánh Cha nói với nhà lãnh đạo Iraq: "Tôi gởi đến ông với một trái tim đầy đau đớn trước sự đau khổ thê thảm của các Kitô hữu và anh chị em thuộc các tôn giáo thiểu số khác, là những người đã bị buộc phải rời bỏ nhà cửa trong khi những nơi thờ phượng của họ bị phá hủy." Trong thư, Đức Giáo Hoàng kêu gọi tổng thống "sử dụng tất cả các phương thế hữu hiệu để giải quyết cuộc khủng hoảng nhân đạo" đang diễn ra với những người tị nạn.
Đức Hồng Y Filoni nói với Đài phát thanh Vatican rằng những người tị nạn mà ngài gặp gỡ đã bày tỏ hy vọng rằng họ có thể trở về làng mạc thành phố của họ nhưng trong an ninh và thanh thản dưới sự hỗ trợ của quốc tế.
Người tị nạn trong các traị tạm cư được dựng lên vội vã tại Iraq đang rất cần sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Trong đó, tình trạng tại Dohuk được xem là rất cấp bách vì hàng nửa triệu người đang chen chúc sống đói khát tại đây.
5. Đức Thánh Cha giúp 1 triệu Mỹ kim cho người tị nạn Iraq
Đức Thánh Cha Phanxicô đã giúp 1 triệu mỹ kim để góp phần cứu trợ các tín hữu Kitô và những người tị nạn khác ở Iraq.
Số tiền này được chính Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đặc sứ của Đức Thánh Cha, mang tới cho dân tị nạn trong cuộc viếng thăm của ngài tại thành phố Erbil ở miền bắc Iraq từ ngày 12 đến 20-8 vừa qua.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Filoni cho biết 75% ngân khoản được trao cho các tín hữu Công Giáo và 25% dành cho cộng đoàn người Yazidi. Đức Hồng Y cũng nói: “Đức Thánh Cha sai tôi đi thực hiện một sứ vụ nhân đạo chứ không phải sứ vụ ngoại giao. Đó cũng là điều tôi nhấn mạnh với các vị lãnh đạo chính quyền”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho 3 tờ báo ở Italia (Corriere della sera, Avvenire và La Repubblica), Đức Hồng Y đề nghị Liên Hiệp Quốc tổ chức một đội quân mũ xanh để bảo vệ các tín hữu Kitô bị quân Hồi giáo IS trục xuất khỏi gia cư vì không chịu theo Hồi giáo. Đức Hồng Y cũng nói đến các nhóm khủng bố Hồi giáo: “Các nhóm này hoạt động mạnh, với võ khí đầy đủ và tối tân, và nhiều tiền bạc. Người ta đặt câu hỏi: làm sao việc chuyển những số tiền và các võ khí như thế có thể thực hiện được, tại sao những người có nhiệm vụ giám sát đã không làm gì?”
6. ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ủng hộ sự can thiệp để ngăn chặn bọn khủng bố Hồi Giáo IS
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Vatican Insider, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ cho sự can thiệp quốc tế nhằm ngăn chặn đổ máu tại Iraq.
Ngài nói:
"Cộng đồng quốc tế chắc chắn phải can thiệp. Một quốc gia như Iraq trong điều kiện hiện nay không thể tự mình giải quyết những vấn đề của mình được."
Có những lập luận cho rằng xung đột hiện nay tại Iraq là cuộc xung đột giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo. Đức Hồng Y nói đó thật là một "sự đơn giản hóa" quá đáng khi mô tả cuộc đàn áp các Kitô hữu Iraq và cộng đồng Yazidi như một cuộc đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo.
Đức Hồng Y Parolin cho biết, báo cáo của đại diện Vatican ở Syria cho thấy rằng nhiều người Hồi giáo cũng đang phải đối mặt với bạo lực, và nhiều người Hồi giáo ủng hộ sự hiện diện Kitô giáo trong khu vực của họ. "Vì vậy, đây chắc chắn không phải là một cuộc đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo,"
Ngài nói thêm:
“Có những người trong đạo Hồi, và tôi tin rằng họ là đa số, những người từ chối những phương pháp tàn bạo và vô nhân đạo. Thật không may, một số phe phái đã theo đường lối đó nhưng tôi tin rằng họ không được tán thành bởi hầu hết các tín đồ Hồi giáo khác. Chúng tôi hy vọng rằng những người này sẽ lên tiếng chống lại những hành vi dã man này, để đưa ra một sự phân biệt rõ ràng giữa những gì có thể và những gì không thể chấp nhận được. Chúng tôi hy vọng rằng thế giới Hồi giáo sẽ sớm lên tiếng.”
7. Nhận định của Đức Thánh Cha về chuyến tông du Đại Hàn
Trong lịch sử đức tin tại Đại Hàn người ta thấy Chúa Kitô không hủy bỏ các nền văn hóa, không xóa bỏ con đường của các dân tộc, qua các thế kỷ và các kỷ nguyên tìm kiếm sự thật và thực thi tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúa Kitô không loại bỏ điều tốt lành, nhưng làm cho nó thăng tiến và đưa nó tới chỗ thành toàn.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buoi tiếp kiến sáng thứ Tư 20 tháng 8 trong đại thính đường Phaolô Đệ Lục ở nội thành Vatican.
Đức Thánh Cha vừa mới công du Đại Hàn về, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu kinh nghiệm và một số cảm tưởng của ngài. Đức Thánh Cha nói:
“Trong những ngày vừa qua tôi đã hoàn thành chuyến tông du bên Đại Hàn, và hôm nay cùng anh chị em tôi cảm tạ Thiên Chúa vì ơn trọng đại này. Tôi đã có thể viếng thăm một Giáo Hội trẻ trung và năng động, được xây dựng trên chứng tá của các vị tử đạo và được linh hoạt bởi tinh thần truyền giáo, trong một đất nước, nơi các nền văn hóa Á châu và sự mới mẻ trường tồn của Tin Mừng gặp gỡ nhau.
Tôi muốn một lần nữa bầy tỏ lòng biết ơn của tôi đối với các anh em Giám Mục thân mến của Đại Hàn, với bà tổng thống Cộng hòa, các giới chức lãnh đạo và tất cả những ai đã cộng tác vào chuyến viếng thăm này.
Ý nghĩa của chuyến tông du có thể được cô đọng trong ba từ: ký ức, hy vọng và chứng tá. Cộng Hòa Đại Hàn là một quốc gia đã có một sự phát triển kinh tế đáng kể và nhanh chóng. Dân chúng là những người làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, trật tự và phải duy trì sức mạnh đã thừa hưởng của cha ông.
Trong tình trạng này Giáo Hội là người giữ gìn ký ức và niềm hy vọng: đó là một gia đình thiêng liêng trong đó người lớn thông truyền cho giới trẻ ngọn đuốc đức tin đã nhận được từ người già; ký ức của các chứng nhân trong hiện tại và niềm hy vọng trong tương lai. Trong viễn tượng này chúng ta có thể đọc được hai biến cố chính của chuyến viếng thăm: việc phong chân phước cho 124 vị Tử Đạo Đại Hàn, thêm vào số các vị đã được phong hiển Thánh cách đậy 30 năm bởi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II; và cuộc gặp gỡ với giới trẻ nhân Ngày giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6.
Người trẻ luôn luôn là một con người tìm kiếm cái gì đáng để sống, và vị Tử đạo làm chứng tá cho cái gì đó, còn hơn thế nữa cho Một Ai Đó, đáng để hiến mạng sống mình cho Vị ấy. Thực tại này là Tình Yêu của Thiên Chúa, đã nhập thể nơi Đức Giêsu, Chứng Nhân của Thiên Chúa Cha. Trong hai thời điểm của chuyến viếng thăm dành cho giới trẻ Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã làm cho chúng tôi tràn ngập niềm vui và niềm hy vọng, mà các người trẻ sẽ đem theo về trong các quốc gia khác nhau, và nó sẽ sinh biết bao thiện ích!
Giáo Hội tại Đại Hàn cũng giữ gìn ký ức và vai trò ưu tiên, mà các giáo dân đã có ngay từ thời bắt đầu của đức tin, cũng như trong công tác rao truyền Tin Mừng. Thật thế, trên phần đất này cộng đoàn Kitô đã không được thành lập bởi các thừa sai, nhưng bởi một nhóm người trẻ Đại Hàn thuộc hậu bán thế kỷ 18. Họ bị hấp dẫn bởi vài văn bản Kitô, họ học hiểu chúng và chọn chúng làm luật sống. Một người trong nhóm họ đã được gửi sang Bắc Kinh để lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và rồi, tới lượt mình, giáo dân đó đã rửa tội cho các bạn. Từ hạt nhân đầu tiên đó đã phát triển một cộng đoàn lớn, ngay từ ban đầu và trong khoảng một thế kỷ đã chịu các bắt bớ tàn bạo, với hàng ngàn vị tử đạo. Như vậy Giáo Hội tại Đại Hàn đã được xây dựng trên đức tin, trên dấn thân truyền giáo và sự tử đạo của các giáo dân trung thành.
Các Kitô hữu đại hàn đầu tiên lấy cộng đoàn kitô tiên khởi Giêrusalem thời các tông đồ làm mô thức, bằng cách thực thi tình yêu thương huynh đệ vượt mọi khác biệt xã hội. Vì thế tôi đã khích lê các kitô hữu ngày nay quảng đại trong việc chia sẻ với các anh chị em nghèo túng và các người bị gạt bỏ, theo Tin Mừng thánh Mátthêu chương 25: “Tất cả những gì các ngươi đã làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta, là đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Anh chị em thân mến, trong lịch sử đức tin tại Đại Hàn người ta thấy Chúa Kitô không hủy bỏ các nền văn hóa, không xóa bỏ con đường của các dân tộc, qua các thế kỷ và các kỷ nguyên tìm kiếm sự thật và thực thi tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúa Kitô không loại bỏ điều tốt lành, nhưng làm cho nó thăng tiến và đưa nó tới chỗ thành toàn.
Trái lại, điều mà Chúa chiến đấu và đánh bại là kẻ dữ, kẻ gieo cỏ lùng giữa con người với nhau, giữa các dân tộc với nhau. Nó gieo thuốc độc của hư vô trong trái tim người trẻ. Điều này thì Chúa Giêsu Kitô đã chiến đấu và đã thắng với Hy tế tình yêu của Người. Và nếu chúng ta ở trong Người, trong tình yêu của Người, thì cả chúng ta nữa, như các vị Tử Đạo, chúng ta có thể sống và làm chứng cho chiến thắng của Người. Với niềm tin này chúng tôi đã cầu nguyện và giờ đây chúng tôi cũng cầu nguyện để mọi con cái của đất nước Đại Hàn, đang chịu đau khổ vì các hậu qủa của chiến tranh và chia rẽ, có thể hoàn thành con đường của tình huynh đệ và sự hòa giải.
Chuyến công du này đã được soi sáng bởi lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Từ trên cao, nơi Mẹ hiển trị với Chúa Kitô, Mẹ Giáo Hội đồng hành với lộ trình của dân Chúa, nâng đỡ các bước chân mệt mỏi nhất, an ủi những người đang sống trong thử thách, và giữ gìn cho chân trời của niềm hy vọng được rộng mở. Nhờ lời bầu cử hiền mẫu của Mẹ, xin Chúa luôn chúc lành cho dân tôc Đại Hàn, ban cho họ hòa bình và thịnh vượng, và xin Chúa chúc lành cho Giáo Hôi sống trên vùng đất này, để Giáo Hội luôn luôn phong phú và tràn đầy niềm vui của Phúc Âm.
8. Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông Phương kêu cứu
Trong một lá thư gởi Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục và các nhà lãnh đạo chính trị trên toàn thế giới, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine nói rằng Giáo Hội Công Giáo đang bị bách hại ở miền đông Ukraine.
Trong lá thư đề ngày 21 tháng 8, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cho biết:
"Trong chín tháng qua, Ukraine đã tiến bước trên một cuộc hành hương gian khổ để thoát ra khỏi nỗi sợ hãi của thời hậu Xô Viết và vươn tới tự do và phẩm giá được Thiên Chúa ban cho. Với sự kiên nhẫn, sức chịu đựng và sự hy sinh tuyệt vời, người dân Ukraine đã vượt qua được chế độ tàn bạo của Viktor Yanukovych vào tháng Hai năm nay. Chiến thắng cao cả này đã bị Nga đáp lại bằng việc thôn tính lãnh thổ Crimea hồi tháng Ba. Trong nhiều tháng sau đó, đất nước đã phải chịu đựng những bất ổn, chủ nghĩa ly khai, và các hoạt động khủng bố tại Donetsk và Miền Luhansk do nước ngoài xúi giục. "
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk nói tiếp
"Tất cả các Giáo Hội và các tổ chức tôn giáo của Ukraine cùng đứng chung với nhau trong chiến tuyến chống lại bạo lực của chế độ Yanukovych, sự sáp nhập của Crimea, và các bộ phận khác của đất nước. Trong vùng đất Crimea đã bị thôn tính và trong nhiều khu vực chiến tranh ở miền Đông, một số các nhà thờ và các cộng đồng tôn giáo đã là mục tiêu của phân biệt đối xử, hay thậm chí đã phải chịu đựng bạo lực thẳng tay. Tại Crimea, những người bị bách hại trầm trọng là người Hồi giáo Tatars. Các giáo xứ Công Giáo Đông Phương, Công Giáo Rôma, Chính Thống Giáo Kiev, và cộng đồng Do Thái ở Crimea cũng đã bị đe dọa dưới nhiều hình thức khác nhau. "
“Tại phần phía Đông Ukraine, giữa những kinh hoàng của chiến tranh đang diễn ra, các cộng đoàn thiểu số thuộc Công Giáo Đông Phương và Rôma đã bị áp bức tàn bạo trong các vùng lãnh thổ được kiểm soát bởi những kẻ chủ trương ly khai. Đơn cử là ba linh mục Công Giáo đã bị bắt cóc là các cha Pawel Witek và Wiktor Wosowicz (Công Giáo Rôma), Tykhon Kulbaka (Công Giáo Đông phương). Đặc biệt, cha Tykhon Kulbaka bị nhốt trong 10 ngày qua và không được uống những thuốc men cần thiết. Tòa giám mục Công Giáo Đông phương ở Donetsk đã bị cướp và bị niêm phong, tất cả các tài liệu bị đốt phá. Nhà thờ Chánh Tòa Donetsk bị trúng hỏa tiễn của những kẻ ly khai đã hư hỏng nặng. Các cửa sổ còn ghi dấu tích với đầy những mảnh đạn. Các giám mục và hầu hết tất cả các linh mục Công Giáo Đông phương đã bị buộc phải rời khỏi Donetsk và vùng ven. Ở những nơi khác, những người đại diện cho quân vũ trang ly khai bước vào nhà thờ và làm ô uế cung thánh. Họ ‘cho phép’ các linh mục ở lại và thực hiện các công việc mục vụ nhưng đặt ra những hạn chế về đi lại. Bọn khủng bố còn tống tiền các giáo sĩ bằng cách đe dọa gây hại cho giáo dân.”
“Gần đây nhất, vào ngày thứ Bảy, 16 tháng 8, tu viện nhỏ của dòng Nữ Tì Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Donetsk đã bị chiếm. Các chị em quảng đại và khiêm tốn phục vụ cộng đồng đang trong một kỳ tĩnh tâm mùa hè hay đang tham dự trại hè với trẻ em bên ngoài Donetsk có thể không bao giờ có thể quay trở lại nhà của họ hiện đang bị chiếm đoạt sử dụng bởi các thành phần ly khai.”
Đức Tổng Giám Mục cũng nhân dịp này chỉ trích các báo cáo từ các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa của Giáo Hội Chính thống Nga. Ngài nhận xét rằng "những tuyên bố của lãnh đạo Chính thống giáo ở Mạc Tư Khoa ngày càng trở nên tương tự như những luận điệu tuyên truyền của các cơ quan chính trị và các phương tiện truyền thông của Nga."
Đức Tổng Giám Mục kết luận bức thư với lời khẩn thiết kêu gọi “sự hỗ trợ hiệu quả của cộng đồng Kitô hữu toàn cầu và hỗ trợ của tất cả mọi người thiện chí. Trong bối cảnh đầy rẫy những phương tiện truyền thông tuyên truyền gian trá, chúng tôi yêu cầu quý vị và anh chị em đánh giá thông tin một cách nghiêm túc. Chúng tôi cần lời cầu nguyện của quý vị và anh chị em, sự nhận định ngay chính, lời nói tốt của quý vị và anh chị em cùng những hành động hiệu quả. Im lặng và không hành động sẽ dẫn đến những bi kịch trầm trọng hơn nữa. Số phận của chuyến bay M17 của hãng hàng không Malaysia là một ví dụ về những gì có thể xảy ra nếu các hoạt động khủng bố được cho phép tiếp tục."
9. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 cử hành thánh lễ bế mạc cuộc họp mặt thường niên các cựu sinh viên của ngài
Hôm Chúa Nhật 24 tháng 8, Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đã cử hành thánh lễ bế mạc cuộc gặp gỡ về Thần học thường niên các cựu sinh viên của ngài tại Vatican.
Kỳ họp thần học thường niên năm nay đã kéo dài từ 21 đến 24 tháng 8 tại Castel Gandolfo.
Trước đó, các tham dự viên đã hy vọng ngài có thể tham dự và trao đổi về Thần học với họ.
Cha Stephan Otto Horn, Điều Hợp Viên của nhóm cho biết:
"Chúng tôi hy vọng ngài đến năm nay, nhưng điều đó còn phụ thuộc vào sức khỏe của ngài. Chúng tôi gần như giống như một gia đình. Ngài rất gần gũi với chúng tôi."
Kể từ khi thoái vị vào tháng Hai năm 2013, Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đã không tham dự các cuộc họp hàng năm với các sinh viên cũ của mình. Nhưng ngài đã cử hành Thánh Lễ với các vị tại Vatican.
Cha Stephan Otto Horn nhận xét:
"Ngài trông giống như một người đàn ông trong độ tuổi của mình: không còn khoẻ mạnh, nhưng ngài khá sáng suốt. Trí óc ngài vẫn còn mạnh mẽ, ngài nhớ tất cả mọi thứ."
Nhóm Ratzinger Schülerkreis được thành lập bởi các cựu sinh viên của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16. Họ có chung một tâm nguyện là tiếp tục nghiên cứu thần học dưới ánh sáng của những tác phẩm và giáo huấn của Ngài. Mỗi năm họ tổ chức một buổi họp mặt với một chủ đề cụ thể. Chủ đề năm nay là Thần học của Thánh Giá.
Gần đây nhất, một số thành viên mới được nhận vào nhóm. Họ chưa bao giờ tham dự một lớp học của giáo sư Joseph Ratzinger, nhưng cũng giống như hàng ngàn người khác, họ đã nghiên cứu những tác phẩm và giáo huấn của Ngài và cảm thấy bị hấp dẫn trước những thách đố và những phân tích gây rung động lòng người của giáo sư Joseph Ratzinger và Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16.
10. Một cái nhìn di sản Thánh Giáo Hoàng Piô Thứ Mười: Từ cải cách để chiến tranh thế giới
Một trăm năm trước, cụ thể là đêm 20 Tháng 8 năm 1914, Đức Giáo Hoàng Piô X qua đời. Ngay từ đầu, triều đại giáo hoàng của ngài đã phải đương đầu với những thách thức nghiêm trọng. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên sau khi nước Đức Giáo Hoàng bị đánh bại và ngài cũng đã nhìn thấy mối đe dọa của chiến tranh thế giới trở thành hiện thực. Thật vậy, ngay chính ngày ngài qua đời quân đội Đức đã tiến vào Bỉ, khởi đầu cho một thế chiến đẫm máu với 9 triệu binh sĩ thiệt mạng và hơn 7 triệu thường dân chết oan.
Ngài cũng đã phải đối phó với nhiều vấn đề thực tế về quản trị Giáo Hội, như việc cải cách Giáo triều Rôma.
Cha Bernard Ardura, chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Khoa học Lịch sử nói:
"Cải cách giáo triều Rôma là một điểm tương đồng giữa ngài và Đức Thánh Cha Phanxicô. Khi Đức Giáo Hoàng Piô X được bầu lên, Giáo triều Rôma hoạt động theo các quy tắc đã được thiết lập từ năm 1588 bởi Đức Giáo Hoàng Sixtus Đệ Ngũ."
Thời đó, không chỉ có các Hồng Y tham dự vào việc bầu một vị giáo hoàng. Những thế lực bên ngoài, như Vua Chúa và các giáo dân có uy thế cũng có tiếng nói.
Cha Bernard Ardura giải thích thêm:
"Đức Giáo Hoàng Piô Thứ Mười được bầu, nhưng thực sự Đức Hồng Y Rampolla nhận được nhiều phiếu nhất. Đức Hồng Y Rampolla không lên ngôi Giáo Hoàng, bởi vì Đức Tổng Giám Mục Krakow sử dụng quyền phủ quyết của Hoàng đế Áo. Đó là lần cuối cùng một quyền lực thế tục can thiệp vào một Mật Viện. Một năm sau cuộc bầu cử của mình, Đức Giáo Hoàng Piô X đã bãi bỏ quy định này và đe dọa vạ tuyệt thông cho những ai can thiệp vào việc bầu Giáo Hoàng. Từ đó về sau, chỉ có các Hồng Y mới có thể bỏ phiếu. "
Đức Giáo Hoàng cũng thay đổi thứ tự mà các Bí Tích được lãnh nhận. Đức Giáo Hoàng Piô X đã quyết định rước lễ lần đầu phải xảy trước khi nhận lãnh bí tích Thêm Sức. Điều đó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay.
Trong 11 năm triều đại giáo hoàng của mình, Đức Piô Thứ Mười đã thực hiện những cải cách quan trọng trong Giáo Hội. Trong những tháng cuối cùng của cuộc đời mình, ngài đã chứng kiến bạo lực và tàn phá của chiến tranh thế giới I.
Cha Bernard Ardura nhận xét:
"Mọi người đều nghĩ rằng họ sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến. Vì vậy, người lính nghĩ rằng họ sẽ sớm được trở lại với gia đình của họ. Nói cách khác, bạn có thể nói Đức Giáo Hoàng qua đời vì đau buồn giữa đêm 20 rạng sáng ngày 21 tháng 8 năm 1914, chỉ ba tuần sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu. Ngài biết nhân loại sẽ có những cuộc sát tế lẫn nhau".
Đức Giáo Hoàng Piô Thứ Mười tục danh là Giuseppe Sarto. Ngài sinh ra ở miền bắc nước Ý năm 1835. Ngài là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo Hội Công Giáo. Ngài đã được phong chân phước năm 1951 và được phong thánh 40 năm sau khi ngài qua đời, tức là vào năm 1954.
11. Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho các tham dự viên của cuộc Gặp gỡ Hữu nghị giữa các Dân tộc
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp đến các tham dự viên của cuộc Gặp gỡ Hữu nghị giữa các Dân tộc tại Rimini từ 24 tháng 8 đến 30 tháng 8. Trong một bức thư gửi Đức Giám Mục Rimini, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là Đức Hồng Y Pietro Parolin đã truyền đạt mong muốn và những lời cầu chúc tốt nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô đến cuộc gặp gỡ này. Đây là cuộc gặp gỡ thường niên do phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng tổ chức. Chủ đề của cuộc gặp gỡ năm nay là "Hướng đến những nơi tận cùng của Trái đất và tận cùng của Hiện sinh. Số phận không để ai cô đơn. "
Trong thư, Đức Hồng Y Parolin cho biết Đức Thánh Cha rất biết ơn các nhà lãnh đạo của Đại hội "đã lắng nghe và truyền bá lời mời của ngài" để đi đến những vùng ngoại vi. Ngài lưu ý rằng phần thứ hai của chủ đề xuất phát từ Tôi Tớ Chúa là Don Luigi Giussani, người đã nhắc nhở chúng ta rằng "Chúa đã không bỏ rơi chúng ta, đã không quên chúng ta."
Đức Hồng Y Parolin nhận định rằng người Kitô hữu "không sợ bị phân rẽ, không sợ đi đến những vùng ngoại vi, vì chúng ta biết hướng về Chúa Giêsu."
Đức Thánh Cha đã yêu cầu các nhà lãnh đạo và những người tham gia cuộc gặp gỡ hãy tập trung sự chú ý vào hai điểm đặc biệt. Đầu tiên, ngài mời gọi tất cả mọi người "không bao giờ mất liên lạc với thực tại; nhưng phải là những người biết yêu mến thực tại. Trong một nền văn hóa đề cao niềm tự hào của vẻ hào nhoáng bề ngoài, thách thức đối với chúng ta là biết lựa chọn và yêu mến những gì là chân thật.”
Điểm thứ hai là phải luôn luôn hướng về những gì là thiết yếu. "Những vấn đề nghiêm trọng nhất xảy ra khi thông điệp Kitô giáo bị đồng hóa với các khía cạnh thứ cấp khiến cho trọng tâm của việc rao giảng Tin Mừng không được thể hiện.”
Đức Hồng Y Parolin nói rằng Đức Thánh Cha "đưa ra những suy tư trên như là một đóng góp cho tuần lễ suy tư của Đại hội, cho tất cả những người tham dự, và đặc biệt là cho các nhà lãnh đạo, các nhà tổ chức, các diễn giả đến từ những vùng ngoại vi của thế giới và hiện sinh để làm chứng rằng Chúa Cha không để con cái Ngài lẻ loi. Đức Thánh Cha hy vọng rằng nhiều người có thể sống lại kinh nghiệm của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, là những người đã gặp gỡ Ngài trên bờ sông Jordan, đã nghe câu hỏi: 'Anh em tìm kiếm ai?' Cầu mong câu hỏi này của Chúa Giêsu luôn luôn tháp tùng trong cuộc hành trình của những ai đến với cuộc Gặp gỡ Hữu nghị giữa các Dân tộc”
12. Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong tháng Chín
Trong tháng Chín là tháng cầu nguyện cho công lý và hòa bình ở Việt Nam, ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Giáo Hội Hoàn Vũ như sau
– Ý chung: Cầu cho những người thiếu khả năng về trí khôn nhận được tình thương yêu và sự trợ giúp cần thiết để sống cho xứng đáng.
– Ý truyền giáo: Cầu cho các Kitô hữu, được Lời Chúa thôi thúc, biết phục vụ những người nghèo khổ.
13. Đức Hồng Y Edmund Szoka qua đời ở tuổi 86
Hôm 20 tháng 8, Đức Hồng Y Edmund Szoka đã qua đời tại Novi, Michigan, trong bệnh viện Providence Park, hưởng thọ 86 tuổi.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã tấn phong Hồng Y cho ngài vào năm 1988 và ngài đã là một trong những cố vấn thân cận của Đức Phaolô Đệ Nhị. Ngài đã lãnh đạo Hội Đồng Kinh Tế Tòa Thánh từ năm 1990 đến 1997.
Ngày 22 tháng 6 năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã chấp nhận đơn xin nghỉ hưu của ngài và ngày 15 tháng 9 cùng năm ngài chính thức hưu dưỡng.
Với cái chết của ngài, số lượng Hồng Y giảm xuống còn 210 vị, nhưng vì ngài đã quá tuổi 80, nên số lượng đại cử tri Hồng Y vẫn giữ nguyên là 118 vị.
14. Đức Giáo Hoàng chào đón đội vô địch túc cầu Nam Mỹ
Trong buổi triều yết chung hôm thứ Tư 20 tháng 8, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ những người rất thân thiết với ngài.
Đức Thánh Cha nói:
"Cách riêng, tôi muốn chào đón các nhà vô địch túc cầu Nam Mỹ, là đội San Lorenzo, những người đang có mặt ở đây, là một phần của bản sắc văn hóa của tôi."
Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một người hâm mộ đội bóng San Lorenzo de Almagro. Trong khi Đức Thánh Cha đang ở Hàn Quốc, đội bóng của ngài đã giành được cúp Libertadores của Nam Mỹ trong trận đấu với đội tuyển quốc gia Paraguay. Đó là một chiến thắng lịch sử: đó là lần đầu tiên San Lorenzo đã giành được danh hiệu này trong lịch sử 106 năm của đội bóng.
Các cầu thủ đã cấp tốc mang chiếc cúp sang Rôma để ăn mừng với Đức Thánh Cha.
Matias Lammens, chủ tịch đội San Lorenzo de Almagro nói:
"Thật là may mắn vì điều này đang trở thành một truyền thống tốt đẹp cho chúng tôi là được mang danh hiệu đội vô địch trình lên Đức Giáo Hoàng.”
Khoảnh khắc hân hoan nhỏ này diễn ra chỉ một ngày sau khi ba thành viên trong gia đình của Đức Giáo Hoàng qua đời trong một tai nạn xe hơi. Chủ tịch của câu lạc bộ cho biết ông trở về nhà hài lòng vì các cầu thủ "đã có thể mang đến một nụ cười cho Đức Giáo Hoàng."
15. Cưỡi lừa đến Vatican tham dự buổi triều yết chung
Hàng ngàn người đã dùng các phương tiện khác nhau để tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần với Đức Giáo Hoàng, nhưng trong ngày thứ Tư 20 tháng 8 vừa qua có hai nhóm nổi bật nhất. Một cặp vợ chồng người Pháp và sáu đứa con của họ đã đến Rôma trên một con lừa và một nhóm đã đến thành phố vĩnh cửu trên một chiếc xuồng.
Trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha ghi nhận:
"Ở đây trong buổi tiếp kiến này, chúng ta có hai nhóm rất dũng cảm. Một nhóm đã đến đây trên một chiếc xuồng từ Loreto. Một nhóm khác là một gia đình người Pháp đã đến đây trên một con lừa. Xin chúc mừng hai nhóm dũng cảm."
Sau đó Đức Giáo Hoàng đã đích thân gặp hai nhóm. Đầu tiên là gia đình Pháp. Sau khi chào hỏi những đứa trẻ, Đức Giáo Hoàng đã nói chuyện với gia đình.
"Chúng con đã gặp Đức Thánh Cha tại Á Căn Đình, ở Buenos Aires.
“Thật sao?”
“Vâng, cách đây 15 năm, khi ngài còn là một Hồng Y. "
Lừa dường như là cả phương tiện vận tải lẫn thú nuôi của trẻ em.
Nhưng mọi thứ đã không dừng lại ở đó. Hai vợ chồng này đã có một bất ngờ. Hai bà mẹ của họ cũng đi đến Rôma để gây bất ngờ. Đức Giáo Hoàng nói.
- Cả bà nội lẫn bà ngoại sao?
- Vâng, bà mẹ của chúng con.
- Dũng cảm. Như vậy là toàn bộ gia tộc kể cả mẹ chồng nữa nhé.
Đức Thánh Cha cũng chào đón nhóm đến Rôma trên một chiếc xuồng từ Loreto. Họ đã tặng cho Đức Giáo Hoàng một hình ảnh Đức Mẹ Loreto, cùng với một giỏ đầy các loại thẻ mà họ sưu tầm được khi họ tìm đường đến Rôma.
16. Dự án Giáo dục Scholas: Chia sẻ thông tin, kiến thức và tài nguyên
Khi còn là Tổng Giám mục của Buenos Aires, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio đã đẩy mạnh hai chương trình giáo dục gọi là: "các trường hàng xóm" và " các trường chị em". Cả hai giờ đây được kết hợp thành chương trình giáo dục "Scholas". Đó là một mạng lưới toàn cầu các trường học và trung tâm giáo dục Công Giáo được đề nghị bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thông qua Giáo hoàng Học viện về Khoa học.
Đức Giám Mục Marcelo Sanchez Sorondo, Hiệu Trưởng Giáo hoàng Học viện về Khoa học nói:
"Điều này tương tự như những gì chúng ta đã từng thấy. Đó là những ý tưởng do Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra để giúp đỡ những người nghèo nhất trong những người nghèo, cho trẻ em đường phố, những trẻ em bị loại ra ngoài lề xã hội và những người không được đào tạo."
Nhiệm vụ Scholas 'là để liên kết các trường học và mạng lưới giáo dục trên toàn thế giới. Điểm đầu tiên là cải thiện giáo dục, đặc biệt là trong cộng đồng có thu nhập thấp. Thể thao và các dự án nghệ thuật cũng là một phần của chương trình.
Đức Giám Mục Marcelo Sanchez Sorondo nói thêm:
"Các trường giúp đỡ lẫn nhau, theo chiều ngang. Nghĩa là một trường có thể xem một trường khác có cùng một dự án hay không và liệu trường đó có thêm kiến thức về vấn đề này hay không. Sau đó, một trường sẽ giúp các trường học khác không có tài nguyên. Nếu họ có tiền, họ giúp đỡ bằng tiền, nếu họ có những nhà giáo dục, họ giúp đỡ bằng các thông tin. "
Dự án đã có nhiều nhà tài trợ đặc biệt, bao gồm cả hai ngôi sao bóng đá Lionel Messi và Gianluigi Buffon. Cả hai đều hỗ trợ Scholas bắt đầu vào tháng Tám năm 2013.
Để gây quỹ, họ tổ chức các trận đấu liên tôn đầu tiên cho Hòa bình, sẽ diễn ra tại Rôma vào ngày 01 tháng 9.
17. Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015
Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề cho Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 48 cử hành ngày 1 tháng Giêng năm 2015 là “Không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”.
Trong thông cáo đưa ra hôm 21 tháng 8 để công bố chủ đề do Đức Thánh Cha chọn, Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình giải thích rằng người ta thường nghĩ nạn nô lệ là một điều thuộc về quá khứ, trong thực tế tệ đoan này vẫn nhan nhãn trong xã hội ngày này.
Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới 1 tháng Giêng năm nay 2014 đã bàn về “Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình”. Sự kiện tất cả là con cái Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau, có phẩm giá bình đẳng. Nạn nô lệ giết chết tình huynh đệ đại đồng ấy, và do đó nó cũng giết chết hòa bình. Thực vậy, chỉ có hòa bình khi con người nhìn nhận tha nhân là anh chị em có cùng phẩm giá.
Trên thế giới, nạn nô lệ có nhiều bộ mặt kinh tởm khác nhau, như nạn buôn người, buôn bán những người di dân, nạn mại dâm, bó buộc lao động như nô lệ, người bóc lột người, não trạng đối xử với phụ nữ và trẻ em như nô lệ.
Hội đồng Công lý và hòa bình cũng tố giác rằng có nhiều cá nhân và nhiều nhóm đầu cơ nô lệ một cách ô nhục, họ lợi dụng bao nhiêu cuộc xung đột hiện nay trên thế giới, bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tham ô hối lộ. Nạn nô lệ thực là một vết thương kinh khủng trong xã hội hiện nay và là một vết thương rất trầm trọng trong thân mình của Chúa Kitô!”
Để ngăn chặn hữu hiệu nạn nô lệ, trước tiên cần nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, và kiên trì tham chiếu tình huynh đệ, vượt thắng sự chênh lệch có thể làm cho người này trở thành nô lệ cho người khác.
Đối tượng cần nhắm tới là xây dựng một nền văn minh dựa trên phẩm giá bình đẳng của mọi người, không phân biệt ai. Để được như vậy cần dấn thân thông tin, huấn luyện, xây dựng một nền văn hóa cổ võ một xã hội được đổi mới và thấm đượm tinh thần tự do, công lý và hòa bình.
Ngày Hòa bình thế giới do Đức Phaolô Đệ Lục thiết lập và cử hành vào ngày 1 tháng Giêng hàng năm. Sứ điệp của của các vị Giáo Hoàng nhân ngày này được gửi đến các chính phủ trên thế giới và cũng cho thấy hướng đi ngoại giao của Tòa Thánh trong năm mới bắt đầu.
18. Liên Hiệp Quốc báo động về một thảm trạnh nhân đạo nữa tại Iraq
Đặc sứ của Liên Hiệp Quốc tại Iraq đã kêu gọi cộng đồng quốc tế có hành động ngay lập tức để tránh một cuộc thảm sát quy mô thường dân vô tội trong thị trấn bị bao vây bởi bọn khủng bố Hồi Giáo IS.
Ông Nickolay Mladenov cho biết ông đã "cảnh báo một cách nghiêm trọng" về tình trạng của 20,000 người sống tại thị trấn Amerli miền bắc Iraq vì trong nhiều ngày qua họ không có thức ăn hoặc nước vì cuộc bao vây đã kéo dài hai tháng tiếp tục.
Ông nói: "Tình hình của những người dân tại Amerli là tuyệt vọng và đòi hỏi hành động ngay lập tức để ngăn chặn vụ thảm sát có thể xảy ra. Thành phố bị bao vây bởi bọn khủng bố Hồi Giáo IS và những báo cáo xác nhận rằng người dân đang sống trong những điều kiện tuyệt vọng.".
Mladenov, một cựu bộ trưởng ngoại giao Bulgaria, cũng kêu gọi chính phủ Iraq phải sơ tán dân chúng ra khỏi thị trấn này hoặc cung cấp "viện trợ nhân đạo cứu sinh" cho những người bị mắc kẹt ở đó.
Ông nói thêm: "Các đồng minh của Iraq và cộng đồng quốc tế phải làm việc với các nhà chức trách để ngăn chặn một thảm kịch nhân đạo. Đại diện Liên Hợp Quốc tại Iraq phải làm tất cả những gì có thể để hỗ trợ chính phủ và người dân Iraq trong việc giảm thiểu những đau khổ khôn xiết của người dân Amerli".
Quân khủng bố IS đã bao vây thị trấn này nơi tập trung đông đảo những người Hồi Giáo Shiite là những người mà quân khủng bố IS gặp là giết chứ không cần bắt phải cải đạo sang Hồi Giáo Sunni như chúng.
Ít nhất 200 thanh niên đã bị giết khi cố gắng thoát vòng vây của quân khủng bố Hồi Giáo IS.