Phụng Vụ - Mục Vụ
Sinh hoạt của Kitô hữu phải diễn tả Đức Tin
LM Đinh Quang Thịnh
00:52 29/08/2009
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Dnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8.14-15.21-23)
Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết!” (Gc 2,17) Muốn có việc làm để biểu lộ đức tin, mỗi Ki-tô hữu phải:
- Xác tín về giá trị Lời Chúa trong đời sống.
- Phải có việc làm để diễn tả giá trị Lời Chúa, chứ đừng cố thủ tập tục tiền nhân như một thánh giáo.
- Nhờ Lời Chúa và Thánh Thể thanh tẩy tâm hồn ta.
I. XÁC TÍN VỀ GIÁ TRỊ LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG.
Mỗi Ki-tô hữu phải cảm nghiệm được giá trị siêu việt của Lời Chúa, như lời ông Mô-sê nói với dân Do-thái trong Bài đọc I:
• Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, thì được sống lâu, được trở nên giàu có về mọi mặt (x Dnl 4,1).
• Lời Chúa đủ giáo dục và hướng dẫn mọi sinh hoạt đời ta, không được bớt lời nào trong Sách Thánh, cũng chẳng được thêm lời nào của loài người vào Sách Thánh nữa! Vì Lời Chúa đủ giáo dục con người (x Dnl 4,2). Nói cách khác, chỉ có Lời Chúa là danh ngôn, lời phàm nhân chỉ là “ranh ngôn”. Ông phú hộ ở trong hỏa ngục nài xin Chúa cho người chết sống lại, về báo cho năm anh em ông biết dùng của cải theo ý Chúa, chứ đừng chỉ dùng của để thỏa mãn các đam mê bản thân, để khỏi sa hỏa ngục như hắn. Chúa trả lời: “Nó đã có Mô-sê và các ngôn sứ, nó phải nghe các ngài” (x Lc 16,27-31). Mô-sê chỉ về Luật; ngôn sứ chỉ về giáo huấn. Nghe Mô-sê và các ngôn sứ chính là nghe toàn bộ Lời Chúa trong Cựu Ước đủ để nên thánh, không cần người chết phải hiện về mà răn dạy!
• Chỉ có Lời Chúa mới dạy ta nên khôn ngoan và thông minh, không có dân tộc nào hơn dân của Thiên Chúa (x Dnl 4,6-8).
II. PHẢI CÓ VIỆC LÀM ĐỂ DIỄN TẢ GIÁ TRỊ LỜI CHÚA CHỨ ĐỪNG SỐNG THEO TẬP TỤC CỦA TIỀN NHÂN NHƯ MỘT THÁNH GIÁO MÀ GẠT BỎ LỜI CHÚA ĐI.
Trong Tin Mừng hôm nay Mc 7,1-23 ghi lại:
Dân Do-thái nhất là người Pha-ri-sêu lên án các môn đệ của Đức Giê-su không giữ tập tục tiền nhân: Không rửa tay trước khi ăn, không rảy nước trên thực phẩm trước khi dùng, các đồ dùng như chén, bình, lọ, đồ đồng phải rửa trước mới dọn lên bàn ăn (x Mc 7,1-5).
Nếu phải làm các việc ấy trước khi dùng bữa vì lý do vệ sinh,thì quả là đáng khen và phải làm.
Nhưng những người Do-thái lại cho làm như thế mới là sống công chính, vì đã giữ các tập tục của tiền nhân.
Vì thế mà Đức Giê-su cực lực lên án họ. Ngài nhắc lại lời ngôn sứ I-sai-a: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng dạ chúng thì lại xa Ta, chúng là những kẻ đạo đức giả ! Chúng thờ phượng Ta cách vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Is 29,13; Mc 7,6-7), và Đức Giê-su kết luận: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống phàm nhân” (Mc 7,8), Ngài nói tiếp: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như thế nữa!” (Mc 7,13b) Cụ thể:
• Khi nhập tiệc, họ luôn khích nhau: “Nam vô tửu như cờ vô phong”, hay “rượu bất khả ép, ép bất khả từ”. Thế là cùng nhau hô vang trời: “Một, hai, ba, dô!” Họ chẳng để ý nghe lời Sách Thánh dạy: “Dành cho ai những “thôi rồi” ? Dành cho ai những “hỡi ôi” ? Dành cho ai những trận gây gỗ? Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai những vết thương chẳng lý do? Dành cho ai những con mắt đỏ ngầu? Đó là những kẻ nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã nếm đủ thứ rượu ngon. Đừng để mắt ngó rượu: Nó đỏ làm sao! Nó óng ánh thế nào trong chén! Rồi nó ực vào cổ. Nhưng cuối cùng nó cắn như con rắn lục, nọc độc hổ mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng, và miệng con sẽ nói những lời ba hoa bậy bạ!” (Cn 23,29-33) Đó là lý do thánh Tông Đồ dạy: “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân” (Ep 5,18a).
• Khi có sự bất hòa, gây gổ, họ vận dụng ngay tư tưởng: “Con gà tức nhau vì tiếng gáy” hay “lành làm gáo, mẻ làm muôi”. Thế là cứ xô vào cấu xé nhau như hổ! Mà không hề có ai biết dùng Lời Chúa mà khuyên can:
Có giận dữ bất hòa thì như con nít thôi! (1Cr 14,20).
Có nóng giận thì sao cho đừng mắc tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận chưa tan! (Ep 4,26)
Sự nóng giận không làm nên sự công chính của Thiên Chúa (Gc 1,20).
Hãy tha thứ cho người xúc phạm đến ta, không phải 7 lần mà là 70x7 ! (Mt 18,21-22)
Nếu kẻ thù đói hãy cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, làm thế như ngươi lấy than hồng chất trên đầu nó. Chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ! (Rm 12,20-21)
• Khi hỏi họ về cách sống đạo, họ mau mắn trả lời ngay:
“Đạo tại tâm”, chứ không ai nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết!” (Gc 2,17)
“Có thực mới vực được đạo”, chứ họ không nói như Chúa dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài ban thêm cho” (Mt 6,33)
“Có tiền mua tiên cũng được”, chứ không ai nhớ Lời Chúa dạy: “Coi chừng, hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam, vì không phải ai được sung túc là đời sống người ấy được bảo đảm chắc chắn nhờ nơi của cải” (Lc 12,15)
• Khi nghe người ta nói xấu nhau, người nghe được nói ngay: “Thế gian không ít thì nhiều, không ai đặt điều nói không”, chứ đâu họ có nhớ Lời Chúa dạy: “Các ngươi hãy coi chừng điều các ngươi nghe” (Lc 8,18)
• Khi tổ chức lễ an táng cho người thân, người ta luôn luôn nói: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”, thế là thuê thật nhiều hội kèn trống khua inh ỏi! Có khi thuê người khóc mướn, rên la: “Mất mát vô cùng to lớn, không gì bù đắp lại được”, mà chẳng quan tâm đến giấc ngủ của những người trong khu xóm! Có ai biết tạ ơn Chúa như ông Gióp: “Chúa đã ban cho nay Chúa lại cất đi, xin tạ ơn Ngài!” (G 1,21)
Rồi vòng hoa la liệt vô cùng tốn kém, người chết đâu có được hưởng, mà không biết bớt tiền mua bông để có của góp vào quỹ truyền giáo, phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, hay làm quà chia sẻ cho những người nghèo đói, để khi Chúa hỏi người qua đời: “Ở trần gian con có làm lợi gì cho ai không ?” Thì người quá cố hân hoan thưa ngay: “Dạ, thưa Chúa, nhờ Chúa gọi con về, những người trong gia đình con đang lấy quà của nhiều người phúng điếu con để chia sẻ, kìa có rất nhiều người đến bên quan tài của con, ai cũng có một gói quà đem về”. Lúc ấy, chắc chắn Chúa nói ngay: “Con hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đã sắm sẵn cho con từ tạo thiên lập địa” (x Mt 25,31-46).
Chúng ta có biết làm cho nhau như thế, mới có thể nói được như thánh Tông Đồ dạy: “Không ai trong chúng ta được sống cho mình, và cũng không ai được chết cho mình. Vì nếu ta sống, chính là cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8).
III. NHỜ LỜI CHÚA VÀ THÁNH THỂ THANH TẨY TÂM HỒN TA.
Chúa Giê-su nói: “Không có gì từ bên ngoài – tức là không có vật chất hay của ăn nào – vào miệng người ta làm cho tâm hồn ra ô uế được. Nhưng chính cái từ trong lòng người ta xuất ra mới làm cho người ta ô uế, vì từ trong lòng xuất phát ra những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phi bác, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mt 22,14-22).
Chúa Giê-su nói như thế, có nghĩa là chỉ có Lời Chúa, và Thánh Thể Chúa chúng ta nuốt vào mới tống nọc độc - tội lỗi trong lòng ta ra ngoài, để lòng ta không còn ô uế:
1- Lời Chúa thanh tẩy ta
Chúa bảo ông Gio-an: “Hãy cầm lấy Cuốn Sách mà nuốt đi”, rồi Gio-an nói: “Sau khi tôi đã nuốt Cuốn Sách đó, bụng tôi ụa đắng, miệng tôi ngọt ngào như mật” (Kh 10,9-10).
Như thế ông Gio-an đã khẳng định rằng: Lời Chúa thanh tẩy lòng tôi, bụng ụa đắng; và Lời Chúa huấn luyện miệng lưỡi tôi nói năng ngọt ngào dễ nghe hấp dẫn, như ngôn sứ I-sai-a vào Đền thờ, ông thấy muôn tạo vật đều rung nhịp với tiếng hát các thiên thần ca tụng Chúa, còn ông vì miệng lưỡi bất xứng, ông xin Chúa thanh tẩy nó. Lúc đó Chúa sai thần sứ gắp cục than hồng từ bàn thờ đặt vào lưỡi ông, tức khắc miệng lưỡi ông trở nên tinh sạch, và ông cùng cất chung lời với các thiên thần hát khen Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh!” (x Is 6) Đúng như lời tác giả sách Khôn ngoan nói: “Lời Chúa là Thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1,5). Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em đã được tẩy sạch nhờ Lời Thầy nói với anh em” (Ga 15,3).
2- Thanh tẩy bởi Thánh Thể Chúa Giê-su.
Thánh Phê-rô nói: “Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Chúa Giê-su, để được ơn tha thứ tội lỗi” (Cv 2,38).
Ta biết Thánh Thể Chúa Giê-su là trung tâm các Bí tích khác, vì nếu Chúa Giê-su không phục sinh, thì chẳng Bí tích nào có giá trị.
Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy:
• Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi (số 1393).
• Thánh Thể tha tất cả các tội nhẹ và gìn giữ ta khỏi phạm tội trọng (số 1395.1416).
• Nhờ tham dự Bí tích Thánh Thể, chúng ta được uốn nắn nên giống trái tim Chúa Giê-su, nâng đỡ sức lực ta trên đường lữ hành tại thế, làm cho ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu, và ngay từ bây giờ liên kết ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và các thánh (số 1419).
Nhờ hiệu quả của Bí tích Thánh Thể như trên, mà thánh Gia-cô-bê kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa đã được gieo trong lòng anh em, Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Vì Chúa đã sinh ra chúng ta bằng Lời chân lý, để chúng ta nên như của lễ đầu mùa trong các loài thụ tạo. Có thế Chúa mới tuôn đổ muôn phúc lộc hoàn hảo từ Cha trên trời xuống. Đó là đường lối cứu độ bất di bất dịch của Chúa, Ngài không bao giờ thay đổi cũng như Ngài không bao giờ chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1,17-18.21b-22: Bài đọc II).
Chúng ta cùng cầu nguyện: Lạy Chúa ai được ngụ trong nhà Chúa, đó là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời” (Tv 15/14, 1-3: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Ai bớt lời nào trong Thánh Kinh, Thiên Chúa sẽ bớt phần kẻ ấy hưởng nơi Cây Sự Sống! (Kh 22,19)
Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết!” (Gc 2,17) Muốn có việc làm để biểu lộ đức tin, mỗi Ki-tô hữu phải:
- Xác tín về giá trị Lời Chúa trong đời sống.
- Phải có việc làm để diễn tả giá trị Lời Chúa, chứ đừng cố thủ tập tục tiền nhân như một thánh giáo.
- Nhờ Lời Chúa và Thánh Thể thanh tẩy tâm hồn ta.
I. XÁC TÍN VỀ GIÁ TRỊ LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG.
Mỗi Ki-tô hữu phải cảm nghiệm được giá trị siêu việt của Lời Chúa, như lời ông Mô-sê nói với dân Do-thái trong Bài đọc I:
• Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, thì được sống lâu, được trở nên giàu có về mọi mặt (x Dnl 4,1).
• Lời Chúa đủ giáo dục và hướng dẫn mọi sinh hoạt đời ta, không được bớt lời nào trong Sách Thánh, cũng chẳng được thêm lời nào của loài người vào Sách Thánh nữa! Vì Lời Chúa đủ giáo dục con người (x Dnl 4,2). Nói cách khác, chỉ có Lời Chúa là danh ngôn, lời phàm nhân chỉ là “ranh ngôn”. Ông phú hộ ở trong hỏa ngục nài xin Chúa cho người chết sống lại, về báo cho năm anh em ông biết dùng của cải theo ý Chúa, chứ đừng chỉ dùng của để thỏa mãn các đam mê bản thân, để khỏi sa hỏa ngục như hắn. Chúa trả lời: “Nó đã có Mô-sê và các ngôn sứ, nó phải nghe các ngài” (x Lc 16,27-31). Mô-sê chỉ về Luật; ngôn sứ chỉ về giáo huấn. Nghe Mô-sê và các ngôn sứ chính là nghe toàn bộ Lời Chúa trong Cựu Ước đủ để nên thánh, không cần người chết phải hiện về mà răn dạy!
• Chỉ có Lời Chúa mới dạy ta nên khôn ngoan và thông minh, không có dân tộc nào hơn dân của Thiên Chúa (x Dnl 4,6-8).
II. PHẢI CÓ VIỆC LÀM ĐỂ DIỄN TẢ GIÁ TRỊ LỜI CHÚA CHỨ ĐỪNG SỐNG THEO TẬP TỤC CỦA TIỀN NHÂN NHƯ MỘT THÁNH GIÁO MÀ GẠT BỎ LỜI CHÚA ĐI.
Trong Tin Mừng hôm nay Mc 7,1-23 ghi lại:
Dân Do-thái nhất là người Pha-ri-sêu lên án các môn đệ của Đức Giê-su không giữ tập tục tiền nhân: Không rửa tay trước khi ăn, không rảy nước trên thực phẩm trước khi dùng, các đồ dùng như chén, bình, lọ, đồ đồng phải rửa trước mới dọn lên bàn ăn (x Mc 7,1-5).
Nếu phải làm các việc ấy trước khi dùng bữa vì lý do vệ sinh,thì quả là đáng khen và phải làm.
Nhưng những người Do-thái lại cho làm như thế mới là sống công chính, vì đã giữ các tập tục của tiền nhân.
Vì thế mà Đức Giê-su cực lực lên án họ. Ngài nhắc lại lời ngôn sứ I-sai-a: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng dạ chúng thì lại xa Ta, chúng là những kẻ đạo đức giả ! Chúng thờ phượng Ta cách vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Is 29,13; Mc 7,6-7), và Đức Giê-su kết luận: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống phàm nhân” (Mc 7,8), Ngài nói tiếp: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như thế nữa!” (Mc 7,13b) Cụ thể:
• Khi nhập tiệc, họ luôn khích nhau: “Nam vô tửu như cờ vô phong”, hay “rượu bất khả ép, ép bất khả từ”. Thế là cùng nhau hô vang trời: “Một, hai, ba, dô!” Họ chẳng để ý nghe lời Sách Thánh dạy: “Dành cho ai những “thôi rồi” ? Dành cho ai những “hỡi ôi” ? Dành cho ai những trận gây gỗ? Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai những vết thương chẳng lý do? Dành cho ai những con mắt đỏ ngầu? Đó là những kẻ nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã nếm đủ thứ rượu ngon. Đừng để mắt ngó rượu: Nó đỏ làm sao! Nó óng ánh thế nào trong chén! Rồi nó ực vào cổ. Nhưng cuối cùng nó cắn như con rắn lục, nọc độc hổ mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng, và miệng con sẽ nói những lời ba hoa bậy bạ!” (Cn 23,29-33) Đó là lý do thánh Tông Đồ dạy: “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân” (Ep 5,18a).
• Khi có sự bất hòa, gây gổ, họ vận dụng ngay tư tưởng: “Con gà tức nhau vì tiếng gáy” hay “lành làm gáo, mẻ làm muôi”. Thế là cứ xô vào cấu xé nhau như hổ! Mà không hề có ai biết dùng Lời Chúa mà khuyên can:
Có giận dữ bất hòa thì như con nít thôi! (1Cr 14,20).
Có nóng giận thì sao cho đừng mắc tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận chưa tan! (Ep 4,26)
Sự nóng giận không làm nên sự công chính của Thiên Chúa (Gc 1,20).
Hãy tha thứ cho người xúc phạm đến ta, không phải 7 lần mà là 70x7 ! (Mt 18,21-22)
Nếu kẻ thù đói hãy cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, làm thế như ngươi lấy than hồng chất trên đầu nó. Chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ! (Rm 12,20-21)
• Khi hỏi họ về cách sống đạo, họ mau mắn trả lời ngay:
“Đạo tại tâm”, chứ không ai nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết!” (Gc 2,17)
“Có thực mới vực được đạo”, chứ họ không nói như Chúa dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài ban thêm cho” (Mt 6,33)
“Có tiền mua tiên cũng được”, chứ không ai nhớ Lời Chúa dạy: “Coi chừng, hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam, vì không phải ai được sung túc là đời sống người ấy được bảo đảm chắc chắn nhờ nơi của cải” (Lc 12,15)
• Khi nghe người ta nói xấu nhau, người nghe được nói ngay: “Thế gian không ít thì nhiều, không ai đặt điều nói không”, chứ đâu họ có nhớ Lời Chúa dạy: “Các ngươi hãy coi chừng điều các ngươi nghe” (Lc 8,18)
• Khi tổ chức lễ an táng cho người thân, người ta luôn luôn nói: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”, thế là thuê thật nhiều hội kèn trống khua inh ỏi! Có khi thuê người khóc mướn, rên la: “Mất mát vô cùng to lớn, không gì bù đắp lại được”, mà chẳng quan tâm đến giấc ngủ của những người trong khu xóm! Có ai biết tạ ơn Chúa như ông Gióp: “Chúa đã ban cho nay Chúa lại cất đi, xin tạ ơn Ngài!” (G 1,21)
Rồi vòng hoa la liệt vô cùng tốn kém, người chết đâu có được hưởng, mà không biết bớt tiền mua bông để có của góp vào quỹ truyền giáo, phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, hay làm quà chia sẻ cho những người nghèo đói, để khi Chúa hỏi người qua đời: “Ở trần gian con có làm lợi gì cho ai không ?” Thì người quá cố hân hoan thưa ngay: “Dạ, thưa Chúa, nhờ Chúa gọi con về, những người trong gia đình con đang lấy quà của nhiều người phúng điếu con để chia sẻ, kìa có rất nhiều người đến bên quan tài của con, ai cũng có một gói quà đem về”. Lúc ấy, chắc chắn Chúa nói ngay: “Con hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đã sắm sẵn cho con từ tạo thiên lập địa” (x Mt 25,31-46).
Chúng ta có biết làm cho nhau như thế, mới có thể nói được như thánh Tông Đồ dạy: “Không ai trong chúng ta được sống cho mình, và cũng không ai được chết cho mình. Vì nếu ta sống, chính là cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8).
III. NHỜ LỜI CHÚA VÀ THÁNH THỂ THANH TẨY TÂM HỒN TA.
Chúa Giê-su nói: “Không có gì từ bên ngoài – tức là không có vật chất hay của ăn nào – vào miệng người ta làm cho tâm hồn ra ô uế được. Nhưng chính cái từ trong lòng người ta xuất ra mới làm cho người ta ô uế, vì từ trong lòng xuất phát ra những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phi bác, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mt 22,14-22).
Chúa Giê-su nói như thế, có nghĩa là chỉ có Lời Chúa, và Thánh Thể Chúa chúng ta nuốt vào mới tống nọc độc - tội lỗi trong lòng ta ra ngoài, để lòng ta không còn ô uế:
1- Lời Chúa thanh tẩy ta
Chúa bảo ông Gio-an: “Hãy cầm lấy Cuốn Sách mà nuốt đi”, rồi Gio-an nói: “Sau khi tôi đã nuốt Cuốn Sách đó, bụng tôi ụa đắng, miệng tôi ngọt ngào như mật” (Kh 10,9-10).
Như thế ông Gio-an đã khẳng định rằng: Lời Chúa thanh tẩy lòng tôi, bụng ụa đắng; và Lời Chúa huấn luyện miệng lưỡi tôi nói năng ngọt ngào dễ nghe hấp dẫn, như ngôn sứ I-sai-a vào Đền thờ, ông thấy muôn tạo vật đều rung nhịp với tiếng hát các thiên thần ca tụng Chúa, còn ông vì miệng lưỡi bất xứng, ông xin Chúa thanh tẩy nó. Lúc đó Chúa sai thần sứ gắp cục than hồng từ bàn thờ đặt vào lưỡi ông, tức khắc miệng lưỡi ông trở nên tinh sạch, và ông cùng cất chung lời với các thiên thần hát khen Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh!” (x Is 6) Đúng như lời tác giả sách Khôn ngoan nói: “Lời Chúa là Thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1,5). Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em đã được tẩy sạch nhờ Lời Thầy nói với anh em” (Ga 15,3).
2- Thanh tẩy bởi Thánh Thể Chúa Giê-su.
Thánh Phê-rô nói: “Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Chúa Giê-su, để được ơn tha thứ tội lỗi” (Cv 2,38).
Ta biết Thánh Thể Chúa Giê-su là trung tâm các Bí tích khác, vì nếu Chúa Giê-su không phục sinh, thì chẳng Bí tích nào có giá trị.
Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy:
• Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi (số 1393).
• Thánh Thể tha tất cả các tội nhẹ và gìn giữ ta khỏi phạm tội trọng (số 1395.1416).
• Nhờ tham dự Bí tích Thánh Thể, chúng ta được uốn nắn nên giống trái tim Chúa Giê-su, nâng đỡ sức lực ta trên đường lữ hành tại thế, làm cho ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu, và ngay từ bây giờ liên kết ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và các thánh (số 1419).
Nhờ hiệu quả của Bí tích Thánh Thể như trên, mà thánh Gia-cô-bê kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa đã được gieo trong lòng anh em, Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Vì Chúa đã sinh ra chúng ta bằng Lời chân lý, để chúng ta nên như của lễ đầu mùa trong các loài thụ tạo. Có thế Chúa mới tuôn đổ muôn phúc lộc hoàn hảo từ Cha trên trời xuống. Đó là đường lối cứu độ bất di bất dịch của Chúa, Ngài không bao giờ thay đổi cũng như Ngài không bao giờ chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1,17-18.21b-22: Bài đọc II).
Chúng ta cùng cầu nguyện: Lạy Chúa ai được ngụ trong nhà Chúa, đó là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời” (Tv 15/14, 1-3: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Ai bớt lời nào trong Thánh Kinh, Thiên Chúa sẽ bớt phần kẻ ấy hưởng nơi Cây Sự Sống! (Kh 22,19)
Lý lẽ của Môisen và của Đức Kitô về thức ăn
Lm Fx Nguyẽn hùng Oánh
04:52 29/08/2009
Chúa nhật 22 thường niên
Vì những lý do đặc biệt của cộng đoàn Israen và để đề phòng những thói tục dân ngoại xen vào đời sống Israen khiến dân có thể phạm luật Chúa, thánh Môisen phân biệt thức ăn được dùng và thức ăn luật cấm dùng. Sách Lêvi liệt kê những sinh vật bị cấm: lạc đà, cu li, thỏ, heo, chim ưng, cò, quạ, vật dưới nước không vây không vảy. Những sinh vật cấm ăn nầy bị xem là những vật ô uế, ăn vào làm cho con người nhơ bẩn (xem Levi 11,3-30)
Thí dụ, dân Hy lạp dùng heo làm lễ vật dâng cúng Thổ thần cõi Âm phủ nên luật Do Thái xem heo là con vật ô uế, cấm ăn thịt heo. Vua Antiochus IV Epiphane muốn dùng văn hóa và tôn giáo để thống nhất đế quốc mình, nhà vua bắt dân Do Thái ăn thịt heo, cúng tế thần bằng thịt heo. Lúc đó, ai ăn thịt heo được xem là bỏ Đạo, có nhiều người bị giết vì không ăn thịt heo. Dòng họ Macabê đứng lên chống lại nhà vua. Kiêng cự thịt cấm không phải là vấn đề tầm thường của dân Do Thái một khi ý niệm thanh sạch là lý tưởng họ theo đuổi và ý niệm ô uế là luật cấm.
Sự giữ thanh sạch còn phát sinh những tập tục tẩy uế, rửa sạch: rửa tay, rửa chén, rửa bình, đi đường về phải tắm rửa, thức ăn mua ở chợ về phải rảy nước.
Người thường dân không giữ được tập tục bị khinh chê, cho là hạng ngu dốt, không biết luật. Các môn đệ của Chúa cũng bị Luật sĩ, Biệt phái ghép vào hạng không giữ tập tục và họ chất vấn Chúa. Trả lời họ, Chúa dùng lời Tiên tri Isaia để lên án tội giả hình thông qua giữ tập tục: Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Thật hư luống cách chúng thờ Ta. Giáo lý chúng dạy chỉ là mệnh lệnh của phàm nhân (Marco 7,6-8). Tiếp đến, Chúa dùng tiêu chuẩn “lòng người” để phân biệt vật thanh sạch, vật ô uế. Chúa dạy: mọi thức ăn nuôi sống người đều là vật không làm cho người ta bị ô uế, tất cả đều dùng được cả, còn những điều làm cho người ta ô uế là những tư tưởng xấu phát xuất từ lòng người như trộm cắp, gian tham, dâm ô, không biết Thiên Chúa v.v… nghĩa là những gì phạm tới các giới răn của Chúa (Marco 7,20-23)
Như vậy, lòng người nơi phát xuất tư tưởng (theo quan niệm thông thường) có thể làm cho người ta tốt hoặc xấu, tư tưởng con người có thể giúp người ta sống tốt đẹp; thân ái hoặc sống xấu xa trong hận thù, ghen ghét, chứ không phải là thức ăn. Có lẽ nhóm Luật sĩ quên điều đó vì họ đang tìm cơ hội bắt bẽ Chúa, đang ghen ghét Chúa, nhưng họ lại ra sức giữ tập tục tổ tiên để lại. Thật mỉa mai !
Tầm mức lời dạy hết sức quan trọng nên chính Chúa đã tóm lại như một câu châm ngôn, kêu dân chúng lại dạy cho họ: Vật ngoài vào người không làm ố người, điều xuất từ lòng làm ố người đi. Lời dạy nầy hết sức quan trọng, bắt người ta phải nhìn thẳng, chạm tới chính nơi phát ra tư tưởng con người, điều khiển con người. Ai muốn sống không phạm tội tức là khỏi ố nhơ, phải thay đổi tư tưởng, hoán đổi con người, thay đổi lòng dạ tức là quay trở về với Chúa, phải xé lòng ra chứ đừng xé áo.
Lời dạy của Chúa được nhắc lại cho cộng đoàn thánh Marcô gồm Do Thái và Hy lạp trở lại. Người Do Thái vốn quen giữ tập tục tiền nhân để lại, người Hy lạp dùng thức ăn mà người Do Thái cấm, có thể đôi bên đã cãi cọ, chống đối nhau vì thế thánh nhân trịnh trọng nhắc lại Lời Chúa dạy, giúp mọi người suy nghĩ, sửa sai.
Đối với chúng tta, Lời Chúa hôm nay vẫn nói cho ta biết người ta thường thờ Chúa bằng môi miệng, bằng áo quần tươm tất khi vào nhà thờ, bằng bông hoa dâng cúng, bằng lời kinh tiếng hát du dương bằng những cử chỉ tỏ ra mình đạo đức nhưng trong lòng thì chứa những tư tưởng xấu như kiêu ngạo, hận thù, ích kỷ, khinh người hoặc thiếu sự thống nhất: muốn Chúa ban ơn cho mình mà không làm ơn cho người khác, xin Chúa tha tội mà không tha thứ cho tha nhân v.v. Lời Chúa hôm nay còn cảnh cáo người ta ăn uống chiều theo “lòng người” hết sức phí phạm bân cạnh một số đông người nghèo khổ “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, ngay cả con vạt nuôi của nhà giàu được chiều chuộng, ăn sang quá mức trong khi bên cạnh người nghèo thiếu cơm ăn !
Vì những lý do đặc biệt của cộng đoàn Israen và để đề phòng những thói tục dân ngoại xen vào đời sống Israen khiến dân có thể phạm luật Chúa, thánh Môisen phân biệt thức ăn được dùng và thức ăn luật cấm dùng. Sách Lêvi liệt kê những sinh vật bị cấm: lạc đà, cu li, thỏ, heo, chim ưng, cò, quạ, vật dưới nước không vây không vảy. Những sinh vật cấm ăn nầy bị xem là những vật ô uế, ăn vào làm cho con người nhơ bẩn (xem Levi 11,3-30)
Thí dụ, dân Hy lạp dùng heo làm lễ vật dâng cúng Thổ thần cõi Âm phủ nên luật Do Thái xem heo là con vật ô uế, cấm ăn thịt heo. Vua Antiochus IV Epiphane muốn dùng văn hóa và tôn giáo để thống nhất đế quốc mình, nhà vua bắt dân Do Thái ăn thịt heo, cúng tế thần bằng thịt heo. Lúc đó, ai ăn thịt heo được xem là bỏ Đạo, có nhiều người bị giết vì không ăn thịt heo. Dòng họ Macabê đứng lên chống lại nhà vua. Kiêng cự thịt cấm không phải là vấn đề tầm thường của dân Do Thái một khi ý niệm thanh sạch là lý tưởng họ theo đuổi và ý niệm ô uế là luật cấm.
Sự giữ thanh sạch còn phát sinh những tập tục tẩy uế, rửa sạch: rửa tay, rửa chén, rửa bình, đi đường về phải tắm rửa, thức ăn mua ở chợ về phải rảy nước.
Người thường dân không giữ được tập tục bị khinh chê, cho là hạng ngu dốt, không biết luật. Các môn đệ của Chúa cũng bị Luật sĩ, Biệt phái ghép vào hạng không giữ tập tục và họ chất vấn Chúa. Trả lời họ, Chúa dùng lời Tiên tri Isaia để lên án tội giả hình thông qua giữ tập tục: Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Thật hư luống cách chúng thờ Ta. Giáo lý chúng dạy chỉ là mệnh lệnh của phàm nhân (Marco 7,6-8). Tiếp đến, Chúa dùng tiêu chuẩn “lòng người” để phân biệt vật thanh sạch, vật ô uế. Chúa dạy: mọi thức ăn nuôi sống người đều là vật không làm cho người ta bị ô uế, tất cả đều dùng được cả, còn những điều làm cho người ta ô uế là những tư tưởng xấu phát xuất từ lòng người như trộm cắp, gian tham, dâm ô, không biết Thiên Chúa v.v… nghĩa là những gì phạm tới các giới răn của Chúa (Marco 7,20-23)
Như vậy, lòng người nơi phát xuất tư tưởng (theo quan niệm thông thường) có thể làm cho người ta tốt hoặc xấu, tư tưởng con người có thể giúp người ta sống tốt đẹp; thân ái hoặc sống xấu xa trong hận thù, ghen ghét, chứ không phải là thức ăn. Có lẽ nhóm Luật sĩ quên điều đó vì họ đang tìm cơ hội bắt bẽ Chúa, đang ghen ghét Chúa, nhưng họ lại ra sức giữ tập tục tổ tiên để lại. Thật mỉa mai !
Tầm mức lời dạy hết sức quan trọng nên chính Chúa đã tóm lại như một câu châm ngôn, kêu dân chúng lại dạy cho họ: Vật ngoài vào người không làm ố người, điều xuất từ lòng làm ố người đi. Lời dạy nầy hết sức quan trọng, bắt người ta phải nhìn thẳng, chạm tới chính nơi phát ra tư tưởng con người, điều khiển con người. Ai muốn sống không phạm tội tức là khỏi ố nhơ, phải thay đổi tư tưởng, hoán đổi con người, thay đổi lòng dạ tức là quay trở về với Chúa, phải xé lòng ra chứ đừng xé áo.
Lời dạy của Chúa được nhắc lại cho cộng đoàn thánh Marcô gồm Do Thái và Hy lạp trở lại. Người Do Thái vốn quen giữ tập tục tiền nhân để lại, người Hy lạp dùng thức ăn mà người Do Thái cấm, có thể đôi bên đã cãi cọ, chống đối nhau vì thế thánh nhân trịnh trọng nhắc lại Lời Chúa dạy, giúp mọi người suy nghĩ, sửa sai.
Đối với chúng tta, Lời Chúa hôm nay vẫn nói cho ta biết người ta thường thờ Chúa bằng môi miệng, bằng áo quần tươm tất khi vào nhà thờ, bằng bông hoa dâng cúng, bằng lời kinh tiếng hát du dương bằng những cử chỉ tỏ ra mình đạo đức nhưng trong lòng thì chứa những tư tưởng xấu như kiêu ngạo, hận thù, ích kỷ, khinh người hoặc thiếu sự thống nhất: muốn Chúa ban ơn cho mình mà không làm ơn cho người khác, xin Chúa tha tội mà không tha thứ cho tha nhân v.v. Lời Chúa hôm nay còn cảnh cáo người ta ăn uống chiều theo “lòng người” hết sức phí phạm bân cạnh một số đông người nghèo khổ “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, ngay cả con vạt nuôi của nhà giàu được chiều chuộng, ăn sang quá mức trong khi bên cạnh người nghèo thiếu cơm ăn !
Đôi nét suy tư về Linh Mục
Phaolô Ngô Suốt
06:25 29/08/2009
“Người Linh Mục không thuộc về riêng mình. Người Linh Mục thuộc về Mẹ của của Chúa Giêsu, một lần và mãi mãi Tư Tế và Vật Hiến Tế (Priest-Victim)”. Tôi xin mượn câu cuối cùng kết thúc tác phẫm “Priest is not his own” của Đức cố Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen xuất bản năm 1963, để trình bày đôi nét suy tư của người giáo dân hôm nay về Linh Mục vì đây là năm Linh Mục, người giáo dân có nhiệm vụ cổ súy cho ơn gọi tối cao này: người trung gian dâng lời cầu xin và hiến lễ của nhân loại lên Thiên Chúa cũng như đem ân sủng và ơn phúc của Thiên Chúa xuống cho nhân loại.
Trước hết tôi xin trích dẫn vài định nghĩa về nét đẹp tuyệt vời của vị Linh Mục Công Giáo:
Thánh Inahixiô Martyr nói rằng Linh mục là phẩm cách cao quý nhất trong tất cả các tạo vật. Linh mục là vinh quang và là cột lửa của Giáo hội, là cánh cửa và là người giữ cửa Thiên đàng.
Thánh Eprem cho rằng hồng ân của giới tu sĩ vượt quá mọi sự hiểu biết.
Giáo hoàng Innocent III vị trí của Linh mục ở khoảng giữa Thiên Chúa và con người; họ nhỏ bé hơn Thiên Chúa nhưng cao trọng hơn con người.
Thánh Tôma Aquinô cho rằng phẩm cách của Linh mục vượt lên trên tất cả, dù là Thiên thần.
Thánh Augustinô nói rằng tha tội cho một người tội lỗi là công việc lớn lao hơn cả việc tạo dựng Thiên đàng và trái đất. Để tha thứ một tội, đòi hỏi phải có tất cả quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Hãy nhìn xem quyền năng của Linh mục.
Thánh Franxicô Assisi thường nói: nếu tôi gặp một Thiên Thần và một Linh mục cùng lúc. Trước tiên tôi sẽ quỳ gối trước vị Linh mục sau đó mới đến Thiên thần. (Có lẽ vì quá quí trọng chức Linh mục nên thánh nhân không dám lãnh nhận thiên chức này).
Thánh Ambrose cũng đã khước từ một thời gian dài, sau đó mới chịu chức Linh mục.
Thánh Alphongsô nói rằng Linh mục là người được Thiên Chúa tuyển chọn để quản lý tất cả những điều Chúa quan tâm và có ích trên mặt đất.
Peter of Blois (ở thế kỷ 16) viết “Một Linh mục có tính ưu việt của Abel, tính gia trưởng của Abraham, tính lãnh đạo của Nôe, phẩm trật của Menkisêđê, phẫm cách của Aaron, quyền lực của Môsê, sự hoàn hảo của Samuel, quyền hạn của Phêrô, được Chúa Kitô xức dầu”.
Rahner Karl, nhà thần học lớn của Giáo hội Công Giáo ở thế kỷ 20 viết trong cuốn “The Priesthood) (Đời Linh mục): ” Đời người Linh mục là đời sống của Chúa Thánh Thần, cho Chúa Thánh Thần, trong Chúa Thánh Thần nơi Giáo hội; cùng một lúc – chúng ta phân biệt được bí tích và ân sủng của bí tích – chúng ta cũng có thể phân biệt một cách đúng đắn giữa Giáo hội và Chúa Thánh Thần, cả hai không thể tách rời nhau, bởi vì đã liên kết một cách triệt để xuyên qua cuộc nhập thể vĩnh viển của Lời, dù rằng cả hai không giống hệt nhau. Trong Giáo hội này chúng ta còn có tình yêu, Linh mục và Maria, Mẹ của Thiên Chúa.”
Đức Tổng Giám mục Fulton J. Sheen, vị ngôn sứ của thời đại viết: ”Mỗi Linh mục khi chết đều mong muốn xác mình được đặt trong tay Đức Maria giống như Chúa khi xưa. Khi người ta đặt xác con mình là Chúa Giêsu trong tay, Đức Mẹ đã nói: ” Đây là Mình ta”, cũng tương tự như vậy, khi một Linh mục qua đời Đức Mẹ sẽ nói: ” Đây là Mình ta, Vật Hy Tế của ta, Bánh lễ của ta. Khi ta cưu mang Chúa Giêsu vị Linh mục trong cung lòng ta, rồi Ngài thành Vật Hy Tế. ta đã giúp Ngài, Sacerdos-Hostia (Linh Mục-Vật Hy Tế), con cũng được như vậy”. Đây là điều hết sức kỳ diệu, vì nhờ thế mà Đức Mẹ Maria hiện diện trong đời sống của từng Linh mục Công giáo. Không có Linh mục nào thuộc của riêng mình. Người Linh mục thuộc về Mẹ của Chúa Giêsu, một lần và mãi mãi là Linh mục-Vật Hy Tế.”
Thánh Alphongsô trong cuốn “Phẩm cách và bổn phận của người Linh mục “ (Dignity and Duties of the Priest) viết: ”Vì tôn trọng phẩ m cách của tu sĩ, Thánh Mary của Oignies (thế kỷ 13) thường hôn đất nơi có dấu chân Linh mục bước qua”. Thánh John Chrysostom đã đồng hóa rằng: “Ai tôn vinh Linh mục là tôn vinh Chúa Giêsu; ai nguyền rủa, nhục mạ Linh mục là nguyền rủa, nhục mạ Chúa Giêsu.”
Còn rất nhiếu ví dụ nói về phẩm cách của Linh mục, nhưng trong phạm vi bàì này tôi xin nói đến suy nghĩ của mình về Linh mục: là cộng sự viên tích cực nhất của Thiên Chúa để làm đổi thay đời sống và bộ mặt thế giới; sự cần thiết tối thiểu ắt có của người Linh mục -nhất là trong thế giới hôm nay-, mọi người chờ đợi, cầu mong: đó là sự thánh thiện. Nói đến thánh thiện chúng ta mường tượng ngay đến Đức Trinh Nữ Maria. Đức Cha Fulton Sheen giải thích rằng khi tạo dựng nhân loại, Chúa có hai bản vẽ (Blueprint) cho mỗi cá nhân, một bản vẽ người đó đang là và một bản vẽ người đó sẽ trở thành mà Chúa mong muốn. Riêng Đức Mẹ Maria Chúa chỉ có một bản vẽ duy nhất. Một bản vẽ hoàn chỉnh, tuyệt hảo do đó Chúa muốn chúng ta học tập nơi Mẹ.
Nói đến Đức Mẹ chúng ta nghĩ ngay đến “Fiat”, xin vâng. Theo tôi, cho dù có nhiều ý kiến khác nhau cho rằng Đức Mẹ được đặc ân “Vô Nhiễm” từ lúc thụ thai trong lòng mẹ, hay từ khi sứ thần Garbrien tuyên bố “Bà đầy ơn phúc”, như một loại thuốc tẩy cực mạnh xóa hết mọi tội nguợc đến tận cùng sâu thẳm là tội tổ tông, rõ ràng Đức Mẹ nói “xin vâng” vì Vô nhiễm nguyên tội. Dĩ nhiên Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ triệt để, không thể bị cám dỗ như Nguyên tổ, để đạp đầu con rắn. Cố Hồng Y John Henry Newman gọi Đức Mẹ là “Con gái của Adam và Evà không phạm tội”.
Theo tôi vì Vô Nhiễm nguyên tội nên Đức Mẹ nói “Xin Vâng” với ý định của Thiên Chúa, bởi vậy muốn trở thành “Vô nhiễm”, “Xin vâng” là phương pháp hay nhất để trở thành. Khi Vô Nhiễm nguyên tội chúng ta sẽ được sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, được hạnh phúc diện kiến thường xuyên (vinh phúc trực quan). Bởi vậy mục đích của luyện ngục có gì khác hơn là thanh luyện để chúng ta trở thành Vô nhiễm ! Được an hưởng sự sống vĩnh hằng nơi thiên quốc.
Đức Cố Giào Hoàng Gioan Phaolô II giải thích trong “Thần Học Thân Xác “ rằng: ”Chúng ta có bảy Bí tích, và Bí tích hôn phối đứng sau cùng. Nếu xét theo khía cạnh thứ tự ưu tiên, Bí tích hôn phối phài là Bí tích đầu tiên”. Hết sức chính xác vì nếu không có hôn nhân vợ chồng thì làm gì có em bé để rửa tội, có người đi tu để “Truyền chức Thánh”… Theo tôi, thông thường tu sĩ với ba lời khấn, hoặc dòng Biển Đức với năm lời khấn. Thiết tưởng theo thứ tự ưu tiên phài là lời khấn Vâng phục. Vì có nhân đức vâng phục là có tất cả, lời khấn này ôm trọn các lời khấn khác. Nếu giữ được lời khân khiết tịnh hay khó nghèo hay định sở phải chăng do vâng phục lời thề hứa mà ra !
Theo thiển ý của tôi, ma quỷ có thề làm được tất cả, nó thể gỉả dạng đạo đức, khiêm tốn, từ bi, bác ái v.v… nhưng có một điều nó không bao giờ làm được đó là “Vâng lời”. Do đó khi không vâng lời tức nghiêng về phía ma quỷ. Kinh nghiệm cho thấy nhiều Linh mục do không vâng lời đã gây biết bao nhiêu phiền toái, tai hại, để lại nhiều hệ quả xấu, làm bộ mặt của Giáo hội bị méo mó trước mắt nhân loại. Ngay trong Cựu Ước Mosê không được vào đất Hứa chỉ vì không vâng lời Giavê Thiên Chúa. Lần đầu tiên tại Raphadim, năm thứ hai khi rời khỏi Aicập, dân chúng thiếu nước uống, kêu than, Chúa ra lệnh cho Mosê vỗ vào tảng đá, rồi nước chảy ra (Xuất Hành 17:6). Lần thứ hai, ba mươi sáu năm sau, tại Cades, lại thiếu nước, Chúa bảo Mosê: ”Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với Aaron, anh ngươi triệu tãp cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước.” (Ds 20:7). Nhưng Mosê đã làm khác đi: ” Ông Mosê giơ tay đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống.” (Ds 20:11). Cùng một sự kiện giống nhau, Chúa chỉ thị hai lần khác nhau, lần thứ hai Ngài không bảo vỗ vào tảng đá nhưng bảo “nói” với tảng đá. Thế là Mosê sai phạm nên phải chết ngoài vùng đất Hứa !
Thiên Chúa là Đấng Thánh, sự thánh thiện đến thế gian này trong Đức Kitô. Ngài ban nó cho các Linh mục của Ngài với sự cộng tác của họ; trong mức độ chấp nhận, góp phần làm cho dân Thiên Chúa nên thánh. Đời sống luân lý và tâm linh của Linh mục liên quan hổ tương hai chiều đối với Thân Thể Mầu nhiệm của Chúa Kitô. Sự thánh thiện của vị Linh mục giúp cho cộng đồng tín hữu thánh thiện. Cộng đoàn dân Chúa lành thánh sẽ giúp cho Linh mục thánh thiện.
Giáo hội hôm nay không cần những Linh mục thông thái, tài giỏi nhưng cần những Linh mục thánh thiện, không cần những thần học gia hay triết gia lỗi lạc nhưng cần ở người Linh mục “như cái thang trong giấc mơ của Gia Cóp”. Ở đó các Thiên thần lên xuống liên miên, đến nỗi không còn nhận ra chiếc thang nữa mà chỉ thấy các động thái của Thiên thần. Không cần những nhà giảng thuyết lừng danh nhưng cần- như Thánh Thomas Aquinô và Gioan Vianê- cùng nhận định: “Thánh nhân là người có trái tim bằng chất lỏng”.
Theo chỗ tôi biết có hai khuyết điểm người tín hữu chúng ta hay vấp phải đó là:
1/ Chỉ nghĩ rằng Linh mục cầu nguyện cho mình nhưng quên rằng mình cũng phải cầu nguyện triền miên cho các ngài, tích cực giúp các Linh mục tránh khỏi những cám dỗ thường xuyên, đều là con người cả. Chưa kể bất cứ ai cũng đều có thể rơi vào tình trạng chán nản, hay “đêm tối của đức tin”.
2/Trân quý đế n độ tạo vinh quang cách quá đáng làm các Linh mục “hư đi”, vô tình đưa các ngài đến chỗ tự mãn, quên mình là “vật hiến tế “, phạm lỗi trước mặt Chúa.
Tóm lại, trong năm Linh mục nói riêng và mãi mãi, người tín hữu chúng ta có những món quà cụ thể dành cho các Linh mục đó là tích cực cầu nguyện và cộng tác nâng đỡ, giúp đỡ bằng cách này cách khác để các ngài chu toàn thiên chức, bổn phận của mình. Quí trọng và nâng đỡ các Linh mục tức cộng tác thiết thực vào chương trình cứu độ; cầu nguyện, khuyến khích, cổ võ ơn thiên triệu là việc làm “thể hiện lòng nhân hậu của Chúa”. Chúng ta thử tưởng tượng một ngày trên thế gian này không có Linh Mục ! Không ai có thể đem vinh quang đến cho Thiên Chúa nhiều bằng một Linh mục tốt lành thánh thiện. Nếu Chúa Kitô mãi mãi phải dính liền vào thập giá, người Linh mục mãi mãi không thế tách rời khỏi thân phận của mình là Tư Tế và cũng là Vật Hiến tế. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả các Linh Mục và gia quyến. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Vô Nhiễm gìn giữ các Linh mục cũng như tuyển chọn cho Giáo Hội nhiều Linh Mục tốt lành, biết vâng phục, xứng đáng đóng vai Con Mẹ trong “Bí Tich Thánh Thể”, cùng dẩn dắt dân Thiên Chúa trên đưòng tiến về, và gặp Đấng “Vô Nhiễm”.
Trước hết tôi xin trích dẫn vài định nghĩa về nét đẹp tuyệt vời của vị Linh Mục Công Giáo:
Thánh Inahixiô Martyr nói rằng Linh mục là phẩm cách cao quý nhất trong tất cả các tạo vật. Linh mục là vinh quang và là cột lửa của Giáo hội, là cánh cửa và là người giữ cửa Thiên đàng.
Thánh Eprem cho rằng hồng ân của giới tu sĩ vượt quá mọi sự hiểu biết.
Giáo hoàng Innocent III vị trí của Linh mục ở khoảng giữa Thiên Chúa và con người; họ nhỏ bé hơn Thiên Chúa nhưng cao trọng hơn con người.
Thánh Tôma Aquinô cho rằng phẩm cách của Linh mục vượt lên trên tất cả, dù là Thiên thần.
Thánh Augustinô nói rằng tha tội cho một người tội lỗi là công việc lớn lao hơn cả việc tạo dựng Thiên đàng và trái đất. Để tha thứ một tội, đòi hỏi phải có tất cả quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Hãy nhìn xem quyền năng của Linh mục.
Thánh Franxicô Assisi thường nói: nếu tôi gặp một Thiên Thần và một Linh mục cùng lúc. Trước tiên tôi sẽ quỳ gối trước vị Linh mục sau đó mới đến Thiên thần. (Có lẽ vì quá quí trọng chức Linh mục nên thánh nhân không dám lãnh nhận thiên chức này).
Thánh Ambrose cũng đã khước từ một thời gian dài, sau đó mới chịu chức Linh mục.
Thánh Alphongsô nói rằng Linh mục là người được Thiên Chúa tuyển chọn để quản lý tất cả những điều Chúa quan tâm và có ích trên mặt đất.
Peter of Blois (ở thế kỷ 16) viết “Một Linh mục có tính ưu việt của Abel, tính gia trưởng của Abraham, tính lãnh đạo của Nôe, phẩm trật của Menkisêđê, phẫm cách của Aaron, quyền lực của Môsê, sự hoàn hảo của Samuel, quyền hạn của Phêrô, được Chúa Kitô xức dầu”.
Rahner Karl, nhà thần học lớn của Giáo hội Công Giáo ở thế kỷ 20 viết trong cuốn “The Priesthood) (Đời Linh mục): ” Đời người Linh mục là đời sống của Chúa Thánh Thần, cho Chúa Thánh Thần, trong Chúa Thánh Thần nơi Giáo hội; cùng một lúc – chúng ta phân biệt được bí tích và ân sủng của bí tích – chúng ta cũng có thể phân biệt một cách đúng đắn giữa Giáo hội và Chúa Thánh Thần, cả hai không thể tách rời nhau, bởi vì đã liên kết một cách triệt để xuyên qua cuộc nhập thể vĩnh viển của Lời, dù rằng cả hai không giống hệt nhau. Trong Giáo hội này chúng ta còn có tình yêu, Linh mục và Maria, Mẹ của Thiên Chúa.”
Đức Tổng Giám mục Fulton J. Sheen, vị ngôn sứ của thời đại viết: ”Mỗi Linh mục khi chết đều mong muốn xác mình được đặt trong tay Đức Maria giống như Chúa khi xưa. Khi người ta đặt xác con mình là Chúa Giêsu trong tay, Đức Mẹ đã nói: ” Đây là Mình ta”, cũng tương tự như vậy, khi một Linh mục qua đời Đức Mẹ sẽ nói: ” Đây là Mình ta, Vật Hy Tế của ta, Bánh lễ của ta. Khi ta cưu mang Chúa Giêsu vị Linh mục trong cung lòng ta, rồi Ngài thành Vật Hy Tế. ta đã giúp Ngài, Sacerdos-Hostia (Linh Mục-Vật Hy Tế), con cũng được như vậy”. Đây là điều hết sức kỳ diệu, vì nhờ thế mà Đức Mẹ Maria hiện diện trong đời sống của từng Linh mục Công giáo. Không có Linh mục nào thuộc của riêng mình. Người Linh mục thuộc về Mẹ của Chúa Giêsu, một lần và mãi mãi là Linh mục-Vật Hy Tế.”
Thánh Alphongsô trong cuốn “Phẩm cách và bổn phận của người Linh mục “ (Dignity and Duties of the Priest) viết: ”Vì tôn trọng phẩ m cách của tu sĩ, Thánh Mary của Oignies (thế kỷ 13) thường hôn đất nơi có dấu chân Linh mục bước qua”. Thánh John Chrysostom đã đồng hóa rằng: “Ai tôn vinh Linh mục là tôn vinh Chúa Giêsu; ai nguyền rủa, nhục mạ Linh mục là nguyền rủa, nhục mạ Chúa Giêsu.”
Còn rất nhiếu ví dụ nói về phẩm cách của Linh mục, nhưng trong phạm vi bàì này tôi xin nói đến suy nghĩ của mình về Linh mục: là cộng sự viên tích cực nhất của Thiên Chúa để làm đổi thay đời sống và bộ mặt thế giới; sự cần thiết tối thiểu ắt có của người Linh mục -nhất là trong thế giới hôm nay-, mọi người chờ đợi, cầu mong: đó là sự thánh thiện. Nói đến thánh thiện chúng ta mường tượng ngay đến Đức Trinh Nữ Maria. Đức Cha Fulton Sheen giải thích rằng khi tạo dựng nhân loại, Chúa có hai bản vẽ (Blueprint) cho mỗi cá nhân, một bản vẽ người đó đang là và một bản vẽ người đó sẽ trở thành mà Chúa mong muốn. Riêng Đức Mẹ Maria Chúa chỉ có một bản vẽ duy nhất. Một bản vẽ hoàn chỉnh, tuyệt hảo do đó Chúa muốn chúng ta học tập nơi Mẹ.
Nói đến Đức Mẹ chúng ta nghĩ ngay đến “Fiat”, xin vâng. Theo tôi, cho dù có nhiều ý kiến khác nhau cho rằng Đức Mẹ được đặc ân “Vô Nhiễm” từ lúc thụ thai trong lòng mẹ, hay từ khi sứ thần Garbrien tuyên bố “Bà đầy ơn phúc”, như một loại thuốc tẩy cực mạnh xóa hết mọi tội nguợc đến tận cùng sâu thẳm là tội tổ tông, rõ ràng Đức Mẹ nói “xin vâng” vì Vô nhiễm nguyên tội. Dĩ nhiên Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ triệt để, không thể bị cám dỗ như Nguyên tổ, để đạp đầu con rắn. Cố Hồng Y John Henry Newman gọi Đức Mẹ là “Con gái của Adam và Evà không phạm tội”.
Theo tôi vì Vô Nhiễm nguyên tội nên Đức Mẹ nói “Xin Vâng” với ý định của Thiên Chúa, bởi vậy muốn trở thành “Vô nhiễm”, “Xin vâng” là phương pháp hay nhất để trở thành. Khi Vô Nhiễm nguyên tội chúng ta sẽ được sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, được hạnh phúc diện kiến thường xuyên (vinh phúc trực quan). Bởi vậy mục đích của luyện ngục có gì khác hơn là thanh luyện để chúng ta trở thành Vô nhiễm ! Được an hưởng sự sống vĩnh hằng nơi thiên quốc.
Đức Cố Giào Hoàng Gioan Phaolô II giải thích trong “Thần Học Thân Xác “ rằng: ”Chúng ta có bảy Bí tích, và Bí tích hôn phối đứng sau cùng. Nếu xét theo khía cạnh thứ tự ưu tiên, Bí tích hôn phối phài là Bí tích đầu tiên”. Hết sức chính xác vì nếu không có hôn nhân vợ chồng thì làm gì có em bé để rửa tội, có người đi tu để “Truyền chức Thánh”… Theo tôi, thông thường tu sĩ với ba lời khấn, hoặc dòng Biển Đức với năm lời khấn. Thiết tưởng theo thứ tự ưu tiên phài là lời khấn Vâng phục. Vì có nhân đức vâng phục là có tất cả, lời khấn này ôm trọn các lời khấn khác. Nếu giữ được lời khân khiết tịnh hay khó nghèo hay định sở phải chăng do vâng phục lời thề hứa mà ra !
Theo thiển ý của tôi, ma quỷ có thề làm được tất cả, nó thể gỉả dạng đạo đức, khiêm tốn, từ bi, bác ái v.v… nhưng có một điều nó không bao giờ làm được đó là “Vâng lời”. Do đó khi không vâng lời tức nghiêng về phía ma quỷ. Kinh nghiệm cho thấy nhiều Linh mục do không vâng lời đã gây biết bao nhiêu phiền toái, tai hại, để lại nhiều hệ quả xấu, làm bộ mặt của Giáo hội bị méo mó trước mắt nhân loại. Ngay trong Cựu Ước Mosê không được vào đất Hứa chỉ vì không vâng lời Giavê Thiên Chúa. Lần đầu tiên tại Raphadim, năm thứ hai khi rời khỏi Aicập, dân chúng thiếu nước uống, kêu than, Chúa ra lệnh cho Mosê vỗ vào tảng đá, rồi nước chảy ra (Xuất Hành 17:6). Lần thứ hai, ba mươi sáu năm sau, tại Cades, lại thiếu nước, Chúa bảo Mosê: ”Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với Aaron, anh ngươi triệu tãp cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước.” (Ds 20:7). Nhưng Mosê đã làm khác đi: ” Ông Mosê giơ tay đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống.” (Ds 20:11). Cùng một sự kiện giống nhau, Chúa chỉ thị hai lần khác nhau, lần thứ hai Ngài không bảo vỗ vào tảng đá nhưng bảo “nói” với tảng đá. Thế là Mosê sai phạm nên phải chết ngoài vùng đất Hứa !
Thiên Chúa là Đấng Thánh, sự thánh thiện đến thế gian này trong Đức Kitô. Ngài ban nó cho các Linh mục của Ngài với sự cộng tác của họ; trong mức độ chấp nhận, góp phần làm cho dân Thiên Chúa nên thánh. Đời sống luân lý và tâm linh của Linh mục liên quan hổ tương hai chiều đối với Thân Thể Mầu nhiệm của Chúa Kitô. Sự thánh thiện của vị Linh mục giúp cho cộng đồng tín hữu thánh thiện. Cộng đoàn dân Chúa lành thánh sẽ giúp cho Linh mục thánh thiện.
Giáo hội hôm nay không cần những Linh mục thông thái, tài giỏi nhưng cần những Linh mục thánh thiện, không cần những thần học gia hay triết gia lỗi lạc nhưng cần ở người Linh mục “như cái thang trong giấc mơ của Gia Cóp”. Ở đó các Thiên thần lên xuống liên miên, đến nỗi không còn nhận ra chiếc thang nữa mà chỉ thấy các động thái của Thiên thần. Không cần những nhà giảng thuyết lừng danh nhưng cần- như Thánh Thomas Aquinô và Gioan Vianê- cùng nhận định: “Thánh nhân là người có trái tim bằng chất lỏng”.
Theo chỗ tôi biết có hai khuyết điểm người tín hữu chúng ta hay vấp phải đó là:
1/ Chỉ nghĩ rằng Linh mục cầu nguyện cho mình nhưng quên rằng mình cũng phải cầu nguyện triền miên cho các ngài, tích cực giúp các Linh mục tránh khỏi những cám dỗ thường xuyên, đều là con người cả. Chưa kể bất cứ ai cũng đều có thể rơi vào tình trạng chán nản, hay “đêm tối của đức tin”.
2/Trân quý đế n độ tạo vinh quang cách quá đáng làm các Linh mục “hư đi”, vô tình đưa các ngài đến chỗ tự mãn, quên mình là “vật hiến tế “, phạm lỗi trước mặt Chúa.
Tóm lại, trong năm Linh mục nói riêng và mãi mãi, người tín hữu chúng ta có những món quà cụ thể dành cho các Linh mục đó là tích cực cầu nguyện và cộng tác nâng đỡ, giúp đỡ bằng cách này cách khác để các ngài chu toàn thiên chức, bổn phận của mình. Quí trọng và nâng đỡ các Linh mục tức cộng tác thiết thực vào chương trình cứu độ; cầu nguyện, khuyến khích, cổ võ ơn thiên triệu là việc làm “thể hiện lòng nhân hậu của Chúa”. Chúng ta thử tưởng tượng một ngày trên thế gian này không có Linh Mục ! Không ai có thể đem vinh quang đến cho Thiên Chúa nhiều bằng một Linh mục tốt lành thánh thiện. Nếu Chúa Kitô mãi mãi phải dính liền vào thập giá, người Linh mục mãi mãi không thế tách rời khỏi thân phận của mình là Tư Tế và cũng là Vật Hiến tế. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả các Linh Mục và gia quyến. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Vô Nhiễm gìn giữ các Linh mục cũng như tuyển chọn cho Giáo Hội nhiều Linh Mục tốt lành, biết vâng phục, xứng đáng đóng vai Con Mẹ trong “Bí Tich Thánh Thể”, cùng dẩn dắt dân Thiên Chúa trên đưòng tiến về, và gặp Đấng “Vô Nhiễm”.
Bước theo con đường của Chúa
Jos. Tú Nạc, NMS
07:02 29/08/2009
Chúa Nhật 22 Thường Niên – Năm B (Deuteronomy 4: 1-2, 6-8; Psalm 15; James1: 17-18, 21-22, 27)
Trong những sách qui tắc và luật lệ thường không tạo sự thích thú cho chúng ta khi đọc và đối với chúng quả là khó hiểu vì có điều gì đó kích thích hoặc phục hồi sinh khí. Và vì trong Sách Đệ nhị luật thường được trích dẫn hoặc ám chỉ trong Tân Ước và thậm chí còn trên đôi môi của Chúa Giê-su khi Người chống lại sự cám dỗ của ma quỉ trong hoang địa. Đó là trung tâm của “điều răn trọng yếu” về tình yêu đã được tìm thấy trong Mac-cô 12. Đã được cấu thành vào thế kỷ thứ bảy trước công nguyên trong một thời gian cải cách và canh tân. Cuốn sách đã tìm kiếm để mang đến cho dân chúng một ý thức về sự hợp tác hoặc thái độ quan hệ với Thiên Chúa.
Chúng ta đã nghe những đoạn trích dẫn của Sách Đệ nhị luật trong Mùa Chay: sự độc nhất vô nhị của Thiên Chúa, và sự chọn lựa giữa sự sống và cái chết cùng giới răn để kính yêu Thiên Chúa với tất cả tâm hồn, tâm trí và linh hồn của con người. Tích lũy càng nhiều thì càng cao quí và tâm hồn càng vươn cao, nhưng cũng có một ranh giới tối tăm hơn. Cùng với tất cả những lời nguyện cầu hứa hẹn cho việc tuân phục những giới răn của Thiên Chúa là một loạt liệt kê về những trừng phạt ghê sợ đối với quốc gia thuần túy trong những sự kiện mà họ không thực hiện. Và tội lỗi xấu xa ấy, theo Sách Đệ nhị luật, là điều thuộc về sự tôn thờ thần tượng. Không chỉ người Do Thái “bị chế ngự bởi Thiên Chúa” để trừng phạt một cách nghiêm khắc những ai phạm tội, mà còn để phân xử cái chết và sự hủy diệt tới những ai không phải là người Do Thái mà thờ phượng những thần tượng khác.
Đó là điều rất đáng nghi ngờ rằng đây là lời của Thiên Chúa. Nó phản chiếu năng lực tinh thần của thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên – thần thánh phân xử thưởng phạt. Nhưng thông tin chủ yếu của Sách Đệ nhị luật rung lên rất trung thực: bước theo con đường của Thiên Chúa là một sự hợp tác với Thiên Chúa. Sống theo những nguyên tắc thiêng liêng là sự hồi sinh và những ai thực hiện như vậy có thể chờ đón hạnh phúc và sự chúc phúc dẫn đến từ sự sống hòa hợp với thần thánh. Quay lưng lại với Thiên Chúa và sống theo lối ích kỷ, những nguyên tắc bất công và bạo lực mang đến sự cùng khổ và hủy diệt – không cần đến sự trừng phạt thiêng liêng. Và niềm tin tuyệt đối cùng sự phó thác đòi hỏi bởi Sách Đệ nhị luật sẽ nhận ra chúng ta qua mỗi thử thách và cám dỗ. Trên hết tất cả, chứng cứ hiển nhiên nhất chúng ta có thể cho thế giới là sống theo những lề luật của Thiên Chúa trong cách ứng xử chân tình và tràn đầy hân hoan.
Những hành động khoan dung của lòng nhân từ độ lượng đến từ trời cao. Điều này có nghĩa là gì? Duy nhất đó là: khả năng để khoan dung và nhân từ là dấu chỉ mà lời Chúa đã được khắc ghi trong trái tim và linh hồn của chúng ta và đang thực hiện công việc chuyển hóa của nó. Vấn đề của bài đọc là điều mà tín ngưỡng đích thực và sự hiến dâng đối với Thiên Chúa là luôn luôn trong sáng trong hành động. Là những người thực hiện lời nói, chúng ta phải nói, không chỉ những ai nói về nó hoặc người mà đến một cách dễ dàng. Lời nói đãi bôi dựa vào vật không tồn tại trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Sự tôn sùng đích thực là vấn đề chủ động và quan tâm chăm sóc nhu cầu của tha nhân - tuyệt đối không có lối rẽ hoặc bào chữa.
Hoạt động bên trong hay hoạt động bên ngoài – đó là câu hỏi. Lý lẽ vượt lên trên sự tinh lọc trong đoạn trích từ Mac-cô không nói về những người Pha-ri-siêu hoặc những học giả Do Thái thời cổ đại, nó đề cập đến mọi người. Đó là sự đấu tranh từ thời đại xa xưa: người ta cố gắng đặt tôn giáo ra ngoài bản thân mình. Không đụng chạm, không ăn, không uống, tuân theo những nghi lễ tôn giáo và v.v… Hầu hết những điều này thuộc về con người hơn là về nguồn gốc thiêng liêng. Tôn giáo có thể trở nên một trò chơi làm giảm bớt tinh thần và cảnh giác mà con người có thể quan hệ thiếu nghiêm túc với Thiên chúa. Điều gì là ranh giới tận cùng? Chúng ta có thể trốn trách như thế nào? Trốn trách ở đâu? Và đây là sự ngoại hiện tính chất tinh thần lìa bỏ vai trò sâu xa hơn của tâm hồn và tâm trí “an toàn” và nguyên vẹn. Người ta có thể tin chắc một cách tự mãn trong sự tin tưởng rằng mọi thứ yêu cầu đã được thực hiện. Sự tối tăm ư? Điều đó có thể được chiếu rọi trên những sự việc và con người.
Những cuộc vận động đạo đức là một lối thoát tuyệt vời cho sự tăm tối nội tâm không còn khả năng hoạt động và điều đó đủ thoải mái để thấy những độc ác ghê tởm. Sự đấu tranh thực tế là để thấy nội tâm và để nhận thức rằng tính phủ định, bất công, sợ hãi và bạo lực mà chúng ta thấy trên thế giới xung quanh chúng ta đến từ những nơi sâu thẳm của chính tâm hồn chúng ta mà đã không được thanh tẩy và chuyển hóa. Chúng ta không thể hy vọng một giáo hội, dân tộc, thế giới tốt hơn trừ phi chúng ta thực hiện việc làm bên trong của riêng chúng ta. Tôn giáo và tính chất tinh thần là sự chuyển hóa nội tại và hiểu biết những bài học yêu thương và phục vụ.
(Nguồn: Regis College – the School of Theology)
Trong những sách qui tắc và luật lệ thường không tạo sự thích thú cho chúng ta khi đọc và đối với chúng quả là khó hiểu vì có điều gì đó kích thích hoặc phục hồi sinh khí. Và vì trong Sách Đệ nhị luật thường được trích dẫn hoặc ám chỉ trong Tân Ước và thậm chí còn trên đôi môi của Chúa Giê-su khi Người chống lại sự cám dỗ của ma quỉ trong hoang địa. Đó là trung tâm của “điều răn trọng yếu” về tình yêu đã được tìm thấy trong Mac-cô 12. Đã được cấu thành vào thế kỷ thứ bảy trước công nguyên trong một thời gian cải cách và canh tân. Cuốn sách đã tìm kiếm để mang đến cho dân chúng một ý thức về sự hợp tác hoặc thái độ quan hệ với Thiên Chúa.
Chúng ta đã nghe những đoạn trích dẫn của Sách Đệ nhị luật trong Mùa Chay: sự độc nhất vô nhị của Thiên Chúa, và sự chọn lựa giữa sự sống và cái chết cùng giới răn để kính yêu Thiên Chúa với tất cả tâm hồn, tâm trí và linh hồn của con người. Tích lũy càng nhiều thì càng cao quí và tâm hồn càng vươn cao, nhưng cũng có một ranh giới tối tăm hơn. Cùng với tất cả những lời nguyện cầu hứa hẹn cho việc tuân phục những giới răn của Thiên Chúa là một loạt liệt kê về những trừng phạt ghê sợ đối với quốc gia thuần túy trong những sự kiện mà họ không thực hiện. Và tội lỗi xấu xa ấy, theo Sách Đệ nhị luật, là điều thuộc về sự tôn thờ thần tượng. Không chỉ người Do Thái “bị chế ngự bởi Thiên Chúa” để trừng phạt một cách nghiêm khắc những ai phạm tội, mà còn để phân xử cái chết và sự hủy diệt tới những ai không phải là người Do Thái mà thờ phượng những thần tượng khác.
Đó là điều rất đáng nghi ngờ rằng đây là lời của Thiên Chúa. Nó phản chiếu năng lực tinh thần của thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên – thần thánh phân xử thưởng phạt. Nhưng thông tin chủ yếu của Sách Đệ nhị luật rung lên rất trung thực: bước theo con đường của Thiên Chúa là một sự hợp tác với Thiên Chúa. Sống theo những nguyên tắc thiêng liêng là sự hồi sinh và những ai thực hiện như vậy có thể chờ đón hạnh phúc và sự chúc phúc dẫn đến từ sự sống hòa hợp với thần thánh. Quay lưng lại với Thiên Chúa và sống theo lối ích kỷ, những nguyên tắc bất công và bạo lực mang đến sự cùng khổ và hủy diệt – không cần đến sự trừng phạt thiêng liêng. Và niềm tin tuyệt đối cùng sự phó thác đòi hỏi bởi Sách Đệ nhị luật sẽ nhận ra chúng ta qua mỗi thử thách và cám dỗ. Trên hết tất cả, chứng cứ hiển nhiên nhất chúng ta có thể cho thế giới là sống theo những lề luật của Thiên Chúa trong cách ứng xử chân tình và tràn đầy hân hoan.
Những hành động khoan dung của lòng nhân từ độ lượng đến từ trời cao. Điều này có nghĩa là gì? Duy nhất đó là: khả năng để khoan dung và nhân từ là dấu chỉ mà lời Chúa đã được khắc ghi trong trái tim và linh hồn của chúng ta và đang thực hiện công việc chuyển hóa của nó. Vấn đề của bài đọc là điều mà tín ngưỡng đích thực và sự hiến dâng đối với Thiên Chúa là luôn luôn trong sáng trong hành động. Là những người thực hiện lời nói, chúng ta phải nói, không chỉ những ai nói về nó hoặc người mà đến một cách dễ dàng. Lời nói đãi bôi dựa vào vật không tồn tại trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Sự tôn sùng đích thực là vấn đề chủ động và quan tâm chăm sóc nhu cầu của tha nhân - tuyệt đối không có lối rẽ hoặc bào chữa.
Hoạt động bên trong hay hoạt động bên ngoài – đó là câu hỏi. Lý lẽ vượt lên trên sự tinh lọc trong đoạn trích từ Mac-cô không nói về những người Pha-ri-siêu hoặc những học giả Do Thái thời cổ đại, nó đề cập đến mọi người. Đó là sự đấu tranh từ thời đại xa xưa: người ta cố gắng đặt tôn giáo ra ngoài bản thân mình. Không đụng chạm, không ăn, không uống, tuân theo những nghi lễ tôn giáo và v.v… Hầu hết những điều này thuộc về con người hơn là về nguồn gốc thiêng liêng. Tôn giáo có thể trở nên một trò chơi làm giảm bớt tinh thần và cảnh giác mà con người có thể quan hệ thiếu nghiêm túc với Thiên chúa. Điều gì là ranh giới tận cùng? Chúng ta có thể trốn trách như thế nào? Trốn trách ở đâu? Và đây là sự ngoại hiện tính chất tinh thần lìa bỏ vai trò sâu xa hơn của tâm hồn và tâm trí “an toàn” và nguyên vẹn. Người ta có thể tin chắc một cách tự mãn trong sự tin tưởng rằng mọi thứ yêu cầu đã được thực hiện. Sự tối tăm ư? Điều đó có thể được chiếu rọi trên những sự việc và con người.
Những cuộc vận động đạo đức là một lối thoát tuyệt vời cho sự tăm tối nội tâm không còn khả năng hoạt động và điều đó đủ thoải mái để thấy những độc ác ghê tởm. Sự đấu tranh thực tế là để thấy nội tâm và để nhận thức rằng tính phủ định, bất công, sợ hãi và bạo lực mà chúng ta thấy trên thế giới xung quanh chúng ta đến từ những nơi sâu thẳm của chính tâm hồn chúng ta mà đã không được thanh tẩy và chuyển hóa. Chúng ta không thể hy vọng một giáo hội, dân tộc, thế giới tốt hơn trừ phi chúng ta thực hiện việc làm bên trong của riêng chúng ta. Tôn giáo và tính chất tinh thần là sự chuyển hóa nội tại và hiểu biết những bài học yêu thương và phục vụ.
(Nguồn: Regis College – the School of Theology)
Lời Chúa ban sự sống
Tuyết Mai
16:04 29/08/2009
Người gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". ( Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23 ).
Lời dậy dỗ của Chúa Giêsu thì luôn luôn đúng và luôn là khuôn vàng thước ngọc, chúng ta không thể nào mà không vâng theo và thực thi Lời của Ngài cho được. Thật quá rõ phải không thưa anh chị em!? Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho chúng ta ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho chúng ta ra ô uế mà thôi! Tưởng tượng mà xem có phải sự sống ô uế của chúng ta đã có và vẫn cứ như thế suốt từ bao nhiêu thế kỷ như thế rồi, anh chị em nhỉ!? Lời của Ngài cứ nhắc đi nhắc lại cho chúng ta hằng năm. Và có phải Lời của Ngài như là những Lời của cha mẹ trần thế nhắc nhở cho những đứa con yếu đuối nhưng luôn ươn lười, luôn đợi cho cha mẹ hằng ngày phải nhắc đi nhắc lại có bấy nhiêu. Cha mẹ xem chừng như không chán và không nhàm miệng nhàm tai khi phải nhắc nhở con cái của mình những sự việc xem ra rất là tầm thường nhưng lại là quan trọng cho cuộc sống ngày lại ngày, giúp chúng luôn sống tốt cho chúng và cho mọi người chung quanh.
Tôi thiết nghĩ những Lời quý báu của Chúa Giêsu hằng luôn nhắc nhở chúng ta, là những đứa con yếu đuối, ham chơi, bê tha, lười biếng, và nhất là không siêng năng giữ những điều răn của Chúa. Bởi Ngài biết rất rõ Hỏa Ngục ra sao, và vì Lòng Quảng Đại của Ngài, không muốn linh hồn đời đời của chúng ta phải gieo xuống đó chịu hình phạt đời đời kiếp kiếp, nên Lời của Ngài đã phải ghi thành sách cho chúng ta đọc và thực thi, nhất là cho những ai chỉ biết bám víu vào cuộc sống rất là nay còn mai mất của trần gian đầy những cám dỗ mà thân xác hay chết của chúng ta rất là ham muốn để tìm sự thỏa mãn nhất thời!?
Khi con người ta đi tìm sự thỏa mãn cho thân xác thì ai là người có thể giúp họ thấy được sự dữ để mà có thể ngăn cản họ cho được đây, ngoài Lời Chủa Chúa và Tình Yêu vô bờ bến của Ngài!? Sự cám dỗ của quỷ ma giăng ra trước mặt xem chừng như rất là hấp dẫn và rất cho ta sự thỏa mãn và khoái cảm, thưa phải không anh chị em!? Phàm trần con người ta, hình như không một ai có thể tự mình kềm chế được sự ham muốn của dục vọng, khi mà cám dỗ có ngay trước mặt của chúng ta. Hay nói cách khác, là sự cám dỗ càng mãnh liệt thì tâm hồn của chúng ta, đang xa Chúa đó! Hoặc nói một cách nhẹ hơn là tâm hồn của chúng ta đang lơ đễnh Chúa!? Thường sự cám dỗ chúng ta cảm thấy có mãnh liệt là vì chúng ta cố tình né tránh Chúa, nhưng Lương Tâm của chúng ta lại thấy rất rõ, mà Lương Tâm của chúng ta không ai khác là Thiên Thần bản mệnh của chúng ta. Như không ai mà quên cho được, Giáo Lý thật vỡ lòng mà chúng ta được học, và được thấm nhuần cho bằng là bất cứ việc gì chúng ta làm, đều được Thiên Thần bản mệnh của chúng ta ghi chép vào sổ. Điều tốt chúng ta làm các Ngài sẽ ghi vào trong sổ mầu xanh. Điều xấu chúng ta làm các Ngài sẽ ghi vào trong sổ mầu đen. Khi chúng ta chết đi các Ngài sẽ đem hai sổ này mà giao cho Chúa trước tòa để quyết định cuộc đời vĩnh cửu của chúng ta, là số phận của mình sẽ được lên Trời ở cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa, hay bị đày đọa và bị giam giữ ở một nơi mà hình phạt của sự dữ rất vô cùng khủng khiếp không có ngày ra!???
Ai mà không nhớ và không biết điều mà tất cả chúng ta là Kitô hữu từ khi rất nhỏ, đều phải nhớ và thuộc nằm lòng, thế mà do bởi vì đâu chúng ta vẫn phạm vào những tội xấu xa mà bị Chúa Giêsu trách mắng thậm tệ ở những con người sống đạo đức giả và rất bề ngoài này! Và có phải Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục trách mắng chúng ta hằng ngày vì những điều xấu xa trên mà chúng ta vẫn tiếp diễn mà cố tình không từ bỏ hay không!? Thường thì điều tốt chúng ta ít khi nào thực hành, có phải chúng ta không hiểu và không biết tính toán đâu! Nhưng bởi điều lành thường cho chúng ta một cuộc sống thua thiệt, không bằng ai trong nấc thang của xã hội, chẳng ai để ý gì đến mình ngoài những lời nghe xỏ xiên rất là nhức óc và chói tai, bởi chúng ta chọn sống theo Chúa. Mà theo Chúa thì có phải của cải cũng không, mà mọi thứ cũng không, ngoài 10 Điều Răn Thiên Chúa mà chúng ta cố gắng luôn giữ gìn! Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự; sau lại yêu người như mình ta vậy! Chỉ 2 Điều Răn ấy đã cho chúng ta hiểu rằng cuộc sống ấy không bao giờ có được của dư của để, vì yêu người như mình ta vậy! Chúng ta có bao giờ để ý mà nhìn chung quanh anh chị em của chúng ta đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói cơm, thiếu áo, tội lỗi, nhục nhã và tù đầy bởi vì nghèo đói quá thì con người vì sự sinh tồn đã trở thành những thành phần xấu của xã hội??? Phải chi chúng ta biết chia sẻ, biết góp bàn tay, có trái tim biết chạnh lòng thương, thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao!??? Nhưng xem ra thế giới của ngày nay thì không được như thế! Anh chị em nhìn thử vào Nước Việt Nam thân thương của mình mà xem. Ngay tại thành phố Saigon là nơi mà dân Việt Kiều về nhiều nhất hằng năm vì nhiều lý do, là thắng cảnh cũng ngoạn mục và cũng rất đẹp ở nhiều nơi vào ban đêm vì có những biệt thự cao ngất của những người tư bản ngoại quốc muốn làm giầu trên đất nước Việt Nam. Nhưng ban ngày nếu chúng ta nhìn kỹ thì sự giầu nghèo của 2 thành phần sống trong xã hội rất ư là rõ rệt và chênh lệch nhau rất xa và rất buồn cười. Buồn cười có thể rơi cả nước mắt nếu chúng ta có sự hiểu biết và tình yêu thương. Chúng ta có thể tự hỏi hay vấn tâm mình rằng sao có thể một người thì ở thật cao 3,4,5 tầng lầu? Còn người bên cạnh thì nhà trông rất xập xệ, rất dơ dáy, và rất nghèo, lại có thể ở sát vách nhau??? Sao không có sự dung hòa hay cùng nhịp điệu của cuộc sống!? Để thế giới cùng giầu giống nhau hay cùng nghèo giống nhau?? Nhưng để sự yêu thương luôn là điều thiết yếu hằng ngày của con người và là điều mà Thiên Chúa luôn mong mỏi ở từng người của chúng ta. Có phải khi ấy Thiên Đàng đang ở trong ta và Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa cũng luôn sống trong tâm hồn, trái tim, và tấm lòng của chúng ta hay không!? Thì những lời gì Chúa trách mắng chúng ta những ai còn là pharisêu, là biệt phái, là nhà thông luật, và những người có cái tâm đạo đức giả, không còn thấy trên mặt đất này nữa hay không???
Lậy Chúa Giêsu là Đấng muôn đời thiện hảo! Xin cho chúng con có trái tim giống Chúa để chúng con hiểu rõ và thấm nhuần Lời dậy dỗ của Chúa Giêsu là: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". Để mỗi ngày chúng con sống trên trần gian này là cõi tạm bợ, cố gắng sống trong yêu thương, chu toàn bổ phận và trách nhiệm với mọi người từ trong gia đình cho đến người lân cận của chúng con, luôn được Chúa yêu thương, chờ ngày được Chúa tưởng thưởng cho một cuộc sống hạnh phúc miên viễn, trường tồn, và vĩnh cữu trên Nước Thiên Đàng. Amen.
Lời dậy dỗ của Chúa Giêsu thì luôn luôn đúng và luôn là khuôn vàng thước ngọc, chúng ta không thể nào mà không vâng theo và thực thi Lời của Ngài cho được. Thật quá rõ phải không thưa anh chị em!? Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho chúng ta ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho chúng ta ra ô uế mà thôi! Tưởng tượng mà xem có phải sự sống ô uế của chúng ta đã có và vẫn cứ như thế suốt từ bao nhiêu thế kỷ như thế rồi, anh chị em nhỉ!? Lời của Ngài cứ nhắc đi nhắc lại cho chúng ta hằng năm. Và có phải Lời của Ngài như là những Lời của cha mẹ trần thế nhắc nhở cho những đứa con yếu đuối nhưng luôn ươn lười, luôn đợi cho cha mẹ hằng ngày phải nhắc đi nhắc lại có bấy nhiêu. Cha mẹ xem chừng như không chán và không nhàm miệng nhàm tai khi phải nhắc nhở con cái của mình những sự việc xem ra rất là tầm thường nhưng lại là quan trọng cho cuộc sống ngày lại ngày, giúp chúng luôn sống tốt cho chúng và cho mọi người chung quanh.
Tôi thiết nghĩ những Lời quý báu của Chúa Giêsu hằng luôn nhắc nhở chúng ta, là những đứa con yếu đuối, ham chơi, bê tha, lười biếng, và nhất là không siêng năng giữ những điều răn của Chúa. Bởi Ngài biết rất rõ Hỏa Ngục ra sao, và vì Lòng Quảng Đại của Ngài, không muốn linh hồn đời đời của chúng ta phải gieo xuống đó chịu hình phạt đời đời kiếp kiếp, nên Lời của Ngài đã phải ghi thành sách cho chúng ta đọc và thực thi, nhất là cho những ai chỉ biết bám víu vào cuộc sống rất là nay còn mai mất của trần gian đầy những cám dỗ mà thân xác hay chết của chúng ta rất là ham muốn để tìm sự thỏa mãn nhất thời!?
Khi con người ta đi tìm sự thỏa mãn cho thân xác thì ai là người có thể giúp họ thấy được sự dữ để mà có thể ngăn cản họ cho được đây, ngoài Lời Chủa Chúa và Tình Yêu vô bờ bến của Ngài!? Sự cám dỗ của quỷ ma giăng ra trước mặt xem chừng như rất là hấp dẫn và rất cho ta sự thỏa mãn và khoái cảm, thưa phải không anh chị em!? Phàm trần con người ta, hình như không một ai có thể tự mình kềm chế được sự ham muốn của dục vọng, khi mà cám dỗ có ngay trước mặt của chúng ta. Hay nói cách khác, là sự cám dỗ càng mãnh liệt thì tâm hồn của chúng ta, đang xa Chúa đó! Hoặc nói một cách nhẹ hơn là tâm hồn của chúng ta đang lơ đễnh Chúa!? Thường sự cám dỗ chúng ta cảm thấy có mãnh liệt là vì chúng ta cố tình né tránh Chúa, nhưng Lương Tâm của chúng ta lại thấy rất rõ, mà Lương Tâm của chúng ta không ai khác là Thiên Thần bản mệnh của chúng ta. Như không ai mà quên cho được, Giáo Lý thật vỡ lòng mà chúng ta được học, và được thấm nhuần cho bằng là bất cứ việc gì chúng ta làm, đều được Thiên Thần bản mệnh của chúng ta ghi chép vào sổ. Điều tốt chúng ta làm các Ngài sẽ ghi vào trong sổ mầu xanh. Điều xấu chúng ta làm các Ngài sẽ ghi vào trong sổ mầu đen. Khi chúng ta chết đi các Ngài sẽ đem hai sổ này mà giao cho Chúa trước tòa để quyết định cuộc đời vĩnh cửu của chúng ta, là số phận của mình sẽ được lên Trời ở cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa, hay bị đày đọa và bị giam giữ ở một nơi mà hình phạt của sự dữ rất vô cùng khủng khiếp không có ngày ra!???
Ai mà không nhớ và không biết điều mà tất cả chúng ta là Kitô hữu từ khi rất nhỏ, đều phải nhớ và thuộc nằm lòng, thế mà do bởi vì đâu chúng ta vẫn phạm vào những tội xấu xa mà bị Chúa Giêsu trách mắng thậm tệ ở những con người sống đạo đức giả và rất bề ngoài này! Và có phải Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục trách mắng chúng ta hằng ngày vì những điều xấu xa trên mà chúng ta vẫn tiếp diễn mà cố tình không từ bỏ hay không!? Thường thì điều tốt chúng ta ít khi nào thực hành, có phải chúng ta không hiểu và không biết tính toán đâu! Nhưng bởi điều lành thường cho chúng ta một cuộc sống thua thiệt, không bằng ai trong nấc thang của xã hội, chẳng ai để ý gì đến mình ngoài những lời nghe xỏ xiên rất là nhức óc và chói tai, bởi chúng ta chọn sống theo Chúa. Mà theo Chúa thì có phải của cải cũng không, mà mọi thứ cũng không, ngoài 10 Điều Răn Thiên Chúa mà chúng ta cố gắng luôn giữ gìn! Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự; sau lại yêu người như mình ta vậy! Chỉ 2 Điều Răn ấy đã cho chúng ta hiểu rằng cuộc sống ấy không bao giờ có được của dư của để, vì yêu người như mình ta vậy! Chúng ta có bao giờ để ý mà nhìn chung quanh anh chị em của chúng ta đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói cơm, thiếu áo, tội lỗi, nhục nhã và tù đầy bởi vì nghèo đói quá thì con người vì sự sinh tồn đã trở thành những thành phần xấu của xã hội??? Phải chi chúng ta biết chia sẻ, biết góp bàn tay, có trái tim biết chạnh lòng thương, thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao!??? Nhưng xem ra thế giới của ngày nay thì không được như thế! Anh chị em nhìn thử vào Nước Việt Nam thân thương của mình mà xem. Ngay tại thành phố Saigon là nơi mà dân Việt Kiều về nhiều nhất hằng năm vì nhiều lý do, là thắng cảnh cũng ngoạn mục và cũng rất đẹp ở nhiều nơi vào ban đêm vì có những biệt thự cao ngất của những người tư bản ngoại quốc muốn làm giầu trên đất nước Việt Nam. Nhưng ban ngày nếu chúng ta nhìn kỹ thì sự giầu nghèo của 2 thành phần sống trong xã hội rất ư là rõ rệt và chênh lệch nhau rất xa và rất buồn cười. Buồn cười có thể rơi cả nước mắt nếu chúng ta có sự hiểu biết và tình yêu thương. Chúng ta có thể tự hỏi hay vấn tâm mình rằng sao có thể một người thì ở thật cao 3,4,5 tầng lầu? Còn người bên cạnh thì nhà trông rất xập xệ, rất dơ dáy, và rất nghèo, lại có thể ở sát vách nhau??? Sao không có sự dung hòa hay cùng nhịp điệu của cuộc sống!? Để thế giới cùng giầu giống nhau hay cùng nghèo giống nhau?? Nhưng để sự yêu thương luôn là điều thiết yếu hằng ngày của con người và là điều mà Thiên Chúa luôn mong mỏi ở từng người của chúng ta. Có phải khi ấy Thiên Đàng đang ở trong ta và Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa cũng luôn sống trong tâm hồn, trái tim, và tấm lòng của chúng ta hay không!? Thì những lời gì Chúa trách mắng chúng ta những ai còn là pharisêu, là biệt phái, là nhà thông luật, và những người có cái tâm đạo đức giả, không còn thấy trên mặt đất này nữa hay không???
Lậy Chúa Giêsu là Đấng muôn đời thiện hảo! Xin cho chúng con có trái tim giống Chúa để chúng con hiểu rõ và thấm nhuần Lời dậy dỗ của Chúa Giêsu là: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". Để mỗi ngày chúng con sống trên trần gian này là cõi tạm bợ, cố gắng sống trong yêu thương, chu toàn bổ phận và trách nhiệm với mọi người từ trong gia đình cho đến người lân cận của chúng con, luôn được Chúa yêu thương, chờ ngày được Chúa tưởng thưởng cho một cuộc sống hạnh phúc miên viễn, trường tồn, và vĩnh cữu trên Nước Thiên Đàng. Amen.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:09 29/08/2009
QUÁ TRÌNH TÂM LÝ CỦA CHUỘT NHÀ KHI ĂN CẮP DẦU
Chuột nhà lần thứ nhất ăn cắp dầu, trong lòng đầy dẫy tội lỗi bất an, nó sám hối rằng: “Hồi nhỏ, mẹ dạy tôi làm người phải thanh thanh bạch bạch, tại sao tôi lại làm việc này để “kị” với người như thế này chứ ? Thật đáng chết cho rồi”.
Lần thứ hai ăn cắp dầu, nó an ủi mình: “Tôi chỉ làm “sai” chút ít, vả lại kẻ khác cũng có lấy, tôi không lấy thì không uổng công cầm”.
Lần thứ ba ăn cắp dầu, nó biện giải, nói dỏng dạc như có lý lắm: “Tôi thật không muốn ăn cắp, chính cái mùi thơm của dầu đã dụ dỗ tôi, sai trái không phải ở nơi tôi”.
Sau lần thứ tư, kiến giải của nó là: “Xã hội này qúa không công bằng, chính là cần phải có người như tôi vậy, để nguồn của cải của xã hội cân bằng một chút…”
Từ đó về sau, chuột nhà không những trân tráo mà còn đàng hoàng ăn trộm.
Đây chính là quá trình tâm lý của chuột nhà khi ăn trộm dầu.
(Trích "Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay")
Suy tư:
Lương tâm thì chỉ có một, nhưng có lương tâm rộng, lương tâm hẹp, lương tâm bối rối…
Lương tâm rộng thì phán đoán dễ dãi dễ bị ma quỷ lợi dụng, và có khi phạm tội trọng mà vẫn cứ an tâm.
Lương tâm hẹp thì cái gì cũng cho là tội, có khi vì sợ tội (thực ra không phải tội) mà không dám làm việc bác ái.
Ma quỷ thích lợi dụng những người có lương tâm rộng để cám dỗ, và thường là có hiệu quả cao. Khi ta phạm tội, thì nó đưa ra nhiều lý do để nói là không có tội, mà nếu có thì cũng không đáng lắm, và cứ thế, cho đến khi chúng ta đắm mình trong tội mà không biết, “chiêu bài” mà ma quỷ hay sử dụng nhất là: Chúa nhân từ lắm. Ngài không phạt đâu, để tuần sau đi xưng tội… …
Các tu sĩ có lương tâm rộng thì thường biện minh cho công việc của mình khi sai lỗi (hoặc đã lỗi) lời khấn: người ta ai cũng uống rượu mà mình không uống thì lập dị, người ta cười (sợ cười, sợ lập dị so với tội trọng thì cái nào đáng sợ hơn?), hoặc là: mình sống với người ta thì phải như người ta v.v…
Con chuột đã có “lương tâm rộng”, nên dù đã có bốn lần phạm tội, mà nó vẫn có lời biện minh cho hành động phạm tội của mình, rốt cuộc nó trân tráo phạm tội mà không còn bị lương tâm lên án nữa.
Đường xuống hỏa ngục thì rộng thênh thang nên có nhiều người đi, nhưng đường lên thiên đàng thì chật hẹp nên ít người đi...
---------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Chuột nhà lần thứ nhất ăn cắp dầu, trong lòng đầy dẫy tội lỗi bất an, nó sám hối rằng: “Hồi nhỏ, mẹ dạy tôi làm người phải thanh thanh bạch bạch, tại sao tôi lại làm việc này để “kị” với người như thế này chứ ? Thật đáng chết cho rồi”.
Lần thứ hai ăn cắp dầu, nó an ủi mình: “Tôi chỉ làm “sai” chút ít, vả lại kẻ khác cũng có lấy, tôi không lấy thì không uổng công cầm”.
Lần thứ ba ăn cắp dầu, nó biện giải, nói dỏng dạc như có lý lắm: “Tôi thật không muốn ăn cắp, chính cái mùi thơm của dầu đã dụ dỗ tôi, sai trái không phải ở nơi tôi”.
Sau lần thứ tư, kiến giải của nó là: “Xã hội này qúa không công bằng, chính là cần phải có người như tôi vậy, để nguồn của cải của xã hội cân bằng một chút…”
Từ đó về sau, chuột nhà không những trân tráo mà còn đàng hoàng ăn trộm.
Đây chính là quá trình tâm lý của chuột nhà khi ăn trộm dầu.
(Trích "Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay")
Suy tư:
Lương tâm thì chỉ có một, nhưng có lương tâm rộng, lương tâm hẹp, lương tâm bối rối…
Lương tâm rộng thì phán đoán dễ dãi dễ bị ma quỷ lợi dụng, và có khi phạm tội trọng mà vẫn cứ an tâm.
Lương tâm hẹp thì cái gì cũng cho là tội, có khi vì sợ tội (thực ra không phải tội) mà không dám làm việc bác ái.
Ma quỷ thích lợi dụng những người có lương tâm rộng để cám dỗ, và thường là có hiệu quả cao. Khi ta phạm tội, thì nó đưa ra nhiều lý do để nói là không có tội, mà nếu có thì cũng không đáng lắm, và cứ thế, cho đến khi chúng ta đắm mình trong tội mà không biết, “chiêu bài” mà ma quỷ hay sử dụng nhất là: Chúa nhân từ lắm. Ngài không phạt đâu, để tuần sau đi xưng tội… …
Các tu sĩ có lương tâm rộng thì thường biện minh cho công việc của mình khi sai lỗi (hoặc đã lỗi) lời khấn: người ta ai cũng uống rượu mà mình không uống thì lập dị, người ta cười (sợ cười, sợ lập dị so với tội trọng thì cái nào đáng sợ hơn?), hoặc là: mình sống với người ta thì phải như người ta v.v…
Con chuột đã có “lương tâm rộng”, nên dù đã có bốn lần phạm tội, mà nó vẫn có lời biện minh cho hành động phạm tội của mình, rốt cuộc nó trân tráo phạm tội mà không còn bị lương tâm lên án nữa.
Đường xuống hỏa ngục thì rộng thênh thang nên có nhiều người đi, nhưng đường lên thiên đàng thì chật hẹp nên ít người đi...
---------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:10 29/08/2009
N2T |
40. Đức khiêm tốn là luôn nhận ra sự hư vô của mình, thường vui vẻ đón nhận sự khinh mạn.
(Thánh nữ Magdalen Panattieri)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:11 29/08/2009
N2T |
213. Cẩn thận không giẫm vào vết xe cũ, để tâm tình xấu không có cơ hội đi lên.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tầm quan trọng của việc đào tạo các linh mục tương lai
Linh Tiến Khải
05:31 29/08/2009
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Brugues, Thư ký Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc đào tạo các linh mục
Trong buổi tiếp kiến chung 2000 tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thứ tư 20-8-2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo các linh mục tương lai trên bình diện trí thức và tinh thần, cũng như tầm quan trọng và sự cần thiết của các chương trình thường huấn sau đó. Gợi lại gương của cha Jean Eudes sống vào thế kỷ thứ XVII, là người đã có sáng kiến thành lập chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ giáo phận tại Caen bên Pháp, Đức Thánh Cha nói linh đạo của thánh nhân là trung thành với tình yêu mà Thiên Chúa đã vén mở cho nhân loại trong Con Tim của Chúa Giêsu và Con Tim của Mẹ Maria. Thánh nhân mời gọi mọi người, nhất là các linh mục, dấn thân sống thể nào để có được con tim như con tim của Chúa Giêsu và con tim của Mẹ Maria. Phúc Âm thánh Marcô ghi rõ là Chúa Giêsu đã tuyển chọn các tông đồ để các vị ở với Ngài và để Ngài sai các vị ra đi rao giảng Tin Mừng. Đó cũng là mục đích của thời gian được đào tạo trong các chủng viện.
Sau đây chúng chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Brugues, Thư ký Bộ Giáo Dục Công Giáo, về việc đào tạo các linh mục. Trong các tháng tới đây dưới ánh sáng của Năm Linh Mục, Bộ Giáo Dục Công Giáo sẽ nhóm họp Ủy Ban liên cơ quan trung ương Tòa Thánh đặc trách việc đào tạo các linh mục tương lai như trọng tâm công tác giáo dục trong sứ mệnh của Giáo Hội.
Hỏi: Thưa Đức Cha Bruguès, trong Thông điệp ”Yêu thương trong sự thật” Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi ngày càng thăng tiến việc giáo dục cho mọi dân tộc trên thế giới. Bộ Giáo Dục Công Giáo có cảm thấy mình được mời gọi hay không?
Đáp: Trước hết chúng ta có thể ghi nhận ba điều. Thứ nhất Đức Thánh Cha đặt việc giáo dục vào trong nguyên tắc của tình liên đới. Trong Thông điệp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhắc lại các nguyên tắc lớn trong giáo huấn xã hội của Hội Thánh là phụ đới và liên đới. Như thế giáo dục là một vấn đề của sự liên đới giữa các lãnh vực và các thế hệ khác nhau trong một xã hội. Điểm thứ hai đó là việc giáo dục gỉa thiết một sự biết thông truyền. Đức Thánh Cha trở lại ý niệm hiểu biết này trong nhiều dịp. Chắng hạn ở số 30 của Thông điệp ngài khẳng định rằng: ”Tình bác ái không loại trừ, trái lại nó đòi hỏi sự hiểu biết”. Không có sự hiểu biết thì tình bác ái không hữu hiệu. Nó không chỉ là vấn đề của các tâm tình tốt đẹp. Nhưng cũng cần phải dùng sự hiểu biết để thay đổi các sự vật nữa. Điểm thứ ba đó là Kitô hữu chúng ta tin nơi một sự đào tạo toàn vẹn con người. Người ta nói tới việc đào tạo toàn vẹn; nó giả thiết một quan niệm toàn thể về con người trong các chiều kích khác nhau của nó.
Dưới ánh sáng của các nhận xét trên, cơ quan của chúng tôi được khích lệ hai lần: trước hết là đánh gía cao sự hiểu biết và nền văn hóa. Chúng tôi đang phát triển các cơ cấu khác nhau tùy thuộc Bộ Giáo Dục Công Giáo thăng tiến một nền văn hóa phẩm chất, đây là điều tôi đã tìm thấy trong Thông điệp. Thứ hai chúng tôi nhấn mạnh trên việc đào tạo con người toàn vẹn, đặc biệt là chiều kích tinh thần, có nguy cơ bị lãng quên trong xã hội tục hóa ngày nay.
Hỏi: Trong sứ điệp gửi hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại L'Aquila, Đức Thánh Cha đã đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục và nêu bật rằng nó là điều kiện không thể thiếu cho hoạt động của nền dân chủ, cho cuộc chiến chống lại nạn gian tham hối lộ, và cho việc thực thi các quyền chính trị và xã hội. Giáo Hội có thể cống hiến phần đóng góp nào trong nghĩa này, thưa Đức Cha?
Đáp: Bộ Giáo Đục Công Giáo có trách nhiệm đối với 1.200 đại học trên thế giới, hơn 2.700 chủng viện và 250.000 trường công giáo. Bộ Truyền Giáo cũng đặc trách các cơ sở giáo dục tại Phi châu và Á châu. Điều này cho thấy các cơ cấu giáo dục này là một khả thể, qua đó Giáo Hội tham dự vào việc tạo thành một nền văn hóa của một quốc gia xác định. Không có phương thế nào giúp hội nhập vào một nền văn hóa của một nước một cách tốt đẹp hơn, nếu không phải là qua các trường học và đại học. Như thế các cơ sở giáo dục là một khả thể đối với Giáo Hội cũng như đối với xã hội; và nỗ lực sư phạm to lớn mà chúng tôi đã làm từ bao thế kỷ nay, chúng tôi dùng nó để phục vụ cộng đoàn nhân loại.
Hỏi: Phục vụ với các mục đích nào thưa Đức Cha?
Đáp: Có hai mục đích: mục đích thứ nhất đã được Đức Thánh Cha nhắc tới trong thư công bố Năm Linh Mục: đó là trả lại cho linh mục việc yêu thích chức linh mục và giúp tìm lại căn tính rõ ràng hơn điều đang thấy xảy ra nơi nhiều quốc gia. Trong một vài bối cảnh văn hóa, xem ra gương mặt của tu sĩ nam nữ hiển nhiên hơn gương mặt của linh mục giáo phận. Vì thế đây là dịp tuyệt vời giúp tái khám phá ra bản chất linh mục và sự cần thiết của linh mục đối với Giáo Hội. Do đó mục đích thứ hai là tái khám phá ra thế đứng của linh mục trong lòng cộng đoàn Kitô và nói chung trong Giáo Hội.
Như vậy có hai chiều kích mời gọi Bộ Giáo Dục. Như là cơ quan đặc trách việc đào tạo các chủng sinh, chúng tôi phải giúp các chủng sinh hiểu sứ điệp này: các bạn đã được tuyển chọn, đó là một vinh dự, hãy hạnh phúc là linh mục. Tôi muốn rằng chủng viện là một trường học của hạnh phúc là linh mục. Đó là chiều kích thứ nhất. Chiều kích thứ hai là việc đào tạo được cống hiến cho các chủng sinh phải tốt chừng nào có thể.
Mỗi khi tiếp các Giám Mục về thăm các cơ quan trung ương Tòa Thánh, Đức Hồng Y Tổng trưởng của chúng tôi thích lập lại với các vị rằng: ”Xin các Đức Cha hãy dành ra các linh mục tốt nhất cho việc đào tạo các chủng sinh, đó là điều rất đáng công”.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Năm Linh Mục là dịp để duyệt xét và kiểm thực lại việc đào tạo các ứng sinh linh mục trong các chủng viện. Bộ Giáo Dục có đưa ra các sáng kiến nào không?
Đáp: Trong năm nay sẽ có các sinh hoạt đặc biệt. Như là chủ tịch Ủy ban liên bộ thường trực đặc trách việc thu nhận các chủng sinh, Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo Dục có ý triệu tập một phiên hội trong năm nay. Mục đích là để soạn thảo một văn kiện và công bố vào cuối Năm Linh Mục, một văn kiện ngắn gọn nhưng rõ ràng chính xác liên quan tới việc đào tạo các ứng sinh linh mục.
Hỏi: Mới đây Đức Thánh Cha đã mời gọi vượt thắng khuynh hướng nhị nguyên giữa ý niệm bí tích - bản thể và ý niệm nhiệm vụ xã hội của chức linh mục. Đây có phải là con đường hòa giải giữa hai chiều kích này của chức linh mục hay không, thưa Đức Cha?
Đáp: Xem ra trong Giáo Hội các tình hình có thể rất khác nhau. Có những nước trong đó người ta nhấn mạnh chiều kích xã hội, vai trò xã hội của vị linh mục: như tôi đã trông thấy bên Phi châu, và Châu Mỹ Latinh cũng như tại Đại Hàn bên Á châu. Vị linh mục không chỉ nắm giữ một vai trò giữa lòng cộng đoàn mà cả giữa lòng xã hội nữa. Trong khi tại các xã hội rất bị tục hóa như Italia chẳng hạn, vai trò xã hội của linh mục bị giảm thiểu đi.
Có lẽ với luật trừ là Italia, nơi xã hội bị tục hóa nhưng Giáo Hội đã biết sống bình dân và rất hiện diện trong cuộc sống xã hội, cũng như trong cuộc sống chính trị. Vì thế hai khía cạnh này tạo ra một sự căng thẳng cần thiết và hữu ích. Thật là điều bình thường, khi linh mục có vai trò xã hội, vì ngài là một mục tử, ngài là đầu của một phần dân Chúa, như Công Đồng Chung Vaticăng II đã nói. Trong danh nghĩa đó linh mục là nhân vật hữu hình trong xã hội.
Nhưng mà ngài cũng là người trung gian giữa trời và đất: ngài biểu lộ Chúa Kitô, hành động nhân danh Chúa Kitô. Cho nên tôi thấy cần phải duy trì sự căng thẳng đó ở khắp nơi, vì nó tốt cho chức linh mục và cho dân Kitô. Vì thế trước hết cộng đoàn tín hữu phải cảm thấy mình có trách nhiệm đối với vị linh mục hướng dẫn họ. Khi tôi còn là Giám Mục giáo phận Angers bên Pháp, mỗi khi chỉ định một cha sở mới, tôi đều đến giới thiệu ngài với tín hữu và nói: ”Tôi tín thác cha xứ cho anh chị em”. Vị linh mục cần được cộng đoàn tín hữu giúp đỡ. Thứ hai, mỗi linh mục cần phải được linh mục đoàn giúp đỡ. Chúng ta phải nhấn mạnh chiều kích huynh đệ của linh mục đoàn. Có qúa nhiều linh mục đau khổ vì cô đơn, và vì thế có nguy cơ bỏ quên khía cạnh này hay khía cạnh kia trong hai khía cạnh vừa nói. Một linh mục là một người bạn, một người anh em giữa lòng đại gia đình của linh mục đoàn. Và liên quan tới Bộ Giáo Dục thì còn có một con đường thứ ba: đó là chủng viện. Nó là nơi, trong đó các chủng sinh học biết sống hai khía cạnh này của chức linh mục trên bình diện thần học.
Hỏi: Bộ có cảm thấy cần phải định hướng trở lại việc giáo dục trong các cơ cấu đào tạo của Giáo Hội hay không, thưa Đức Cha?
Đáp: Một nền đào tạo tốt là một nền đào tạo có khả năng thích ứng với các thay đổi của xã hội. Tôi xin lập lại điều tôi đã nói trong nhiều dịp khác nhau: đương nhiên là người trẻ ngày nay khác với thời của chúng tôi, nhưng cần phải chấp nhận họ với lòng quảng đại. Cần phải quảng đại đón nhận các thế hệ mới và cũng cần phải có óc phân định: phân định xem họ có lòng can đảm hay không và phân định những gì cần sửa đổi. Tôi nhận thấy các người trẻ gia nhập các nhà đào tạo tại các nước như Italia, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Hoa Kỳ đều có một trình độ đào tạo nghề nghiệp rất tốt, đôi khi tới các cấp cao tại đại học, nhưng họ thiếu một nền văn hóa tổng quát và nhất là thiếu nền văn hóa Kitô. Vì thế tôi cầu mong chương trình đào tạo bắt đầu với một năm dự bị và thích ứng với diện mạo của các thế hệ mới. Và cũng cần phải tránh việc phân tán các môn học trong chương trình đào tạo; trái lại phải có một cái nhìn tổng hợp về thần học, nhấn mạnh trên vai trò của triết học, đặc biệt là khoa siêu hình, như là bước chuẩn bị cho thần học.
Hỏi: Thưa Đức Cha Brugues, các chỉ thị của tài liệu Định hướng công bố năm 2008 có đề cập tới việc sử dụng các khoa học tâm lý trong việc thu nhận và đào tạo các ứng sinh linh mục. Thế thì trong những trường hợp nào có thể cậy nhờ các chuyên viên của khoa tâm lý?
Đáp: Câu trả lời rất đơn sơ: đó là khi nào thấy nó ”cần thiết”. Trong tài liệu của Bộ Giáo Dục chúng tôi đã muốn phản ứng lại hai thái cực. Thái cực thứ nhất là nói rằng tất cả mọi chủng sinh đều phải được các chuyên viên tâm lý thử nghiệm. Thái cực thứ hai là khẳng định rằng cần phải coi chừng đừng có tin nơi khoa tâm lý và các nhà tâm lý. Tài liệu nói trên có giọng điệu rất tích cực đối với vấn đề này. Đôi khi người ta trách Giáo Hội là đã tỏ ra xa cách và đôi khi nghi ngờ khoa tâm lý học. Thật ra không đúng. Bằng chứng là tài liệu của chúng tôi có khẳng đinh rằng khi cần thiết, thì phải nhờ các chuyên viên tâm lý. ”Khi cần thiết” có nghĩa là gì? Đó là khi nó có thể giúp ứng sinh vượt thắng các vết thương chưa lành và chúng gây ra các quấy phá mà chính đương sự cũng không hiểu biết tầm nghiêm trọng của chúng, và thường khi lại đổ lỗi một cách sai lầm cho các lý do ngoại tại, và như thế không có khả năng đương đầu với chúng một cách thích hợp. (SD 19-8-2009)
Trong buổi tiếp kiến chung 2000 tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thứ tư 20-8-2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo các linh mục tương lai trên bình diện trí thức và tinh thần, cũng như tầm quan trọng và sự cần thiết của các chương trình thường huấn sau đó. Gợi lại gương của cha Jean Eudes sống vào thế kỷ thứ XVII, là người đã có sáng kiến thành lập chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ giáo phận tại Caen bên Pháp, Đức Thánh Cha nói linh đạo của thánh nhân là trung thành với tình yêu mà Thiên Chúa đã vén mở cho nhân loại trong Con Tim của Chúa Giêsu và Con Tim của Mẹ Maria. Thánh nhân mời gọi mọi người, nhất là các linh mục, dấn thân sống thể nào để có được con tim như con tim của Chúa Giêsu và con tim của Mẹ Maria. Phúc Âm thánh Marcô ghi rõ là Chúa Giêsu đã tuyển chọn các tông đồ để các vị ở với Ngài và để Ngài sai các vị ra đi rao giảng Tin Mừng. Đó cũng là mục đích của thời gian được đào tạo trong các chủng viện.
Sau đây chúng chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Brugues, Thư ký Bộ Giáo Dục Công Giáo, về việc đào tạo các linh mục. Trong các tháng tới đây dưới ánh sáng của Năm Linh Mục, Bộ Giáo Dục Công Giáo sẽ nhóm họp Ủy Ban liên cơ quan trung ương Tòa Thánh đặc trách việc đào tạo các linh mục tương lai như trọng tâm công tác giáo dục trong sứ mệnh của Giáo Hội.
Hỏi: Thưa Đức Cha Bruguès, trong Thông điệp ”Yêu thương trong sự thật” Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi ngày càng thăng tiến việc giáo dục cho mọi dân tộc trên thế giới. Bộ Giáo Dục Công Giáo có cảm thấy mình được mời gọi hay không?
Đáp: Trước hết chúng ta có thể ghi nhận ba điều. Thứ nhất Đức Thánh Cha đặt việc giáo dục vào trong nguyên tắc của tình liên đới. Trong Thông điệp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhắc lại các nguyên tắc lớn trong giáo huấn xã hội của Hội Thánh là phụ đới và liên đới. Như thế giáo dục là một vấn đề của sự liên đới giữa các lãnh vực và các thế hệ khác nhau trong một xã hội. Điểm thứ hai đó là việc giáo dục gỉa thiết một sự biết thông truyền. Đức Thánh Cha trở lại ý niệm hiểu biết này trong nhiều dịp. Chắng hạn ở số 30 của Thông điệp ngài khẳng định rằng: ”Tình bác ái không loại trừ, trái lại nó đòi hỏi sự hiểu biết”. Không có sự hiểu biết thì tình bác ái không hữu hiệu. Nó không chỉ là vấn đề của các tâm tình tốt đẹp. Nhưng cũng cần phải dùng sự hiểu biết để thay đổi các sự vật nữa. Điểm thứ ba đó là Kitô hữu chúng ta tin nơi một sự đào tạo toàn vẹn con người. Người ta nói tới việc đào tạo toàn vẹn; nó giả thiết một quan niệm toàn thể về con người trong các chiều kích khác nhau của nó.
Dưới ánh sáng của các nhận xét trên, cơ quan của chúng tôi được khích lệ hai lần: trước hết là đánh gía cao sự hiểu biết và nền văn hóa. Chúng tôi đang phát triển các cơ cấu khác nhau tùy thuộc Bộ Giáo Dục Công Giáo thăng tiến một nền văn hóa phẩm chất, đây là điều tôi đã tìm thấy trong Thông điệp. Thứ hai chúng tôi nhấn mạnh trên việc đào tạo con người toàn vẹn, đặc biệt là chiều kích tinh thần, có nguy cơ bị lãng quên trong xã hội tục hóa ngày nay.
Hỏi: Trong sứ điệp gửi hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại L'Aquila, Đức Thánh Cha đã đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục và nêu bật rằng nó là điều kiện không thể thiếu cho hoạt động của nền dân chủ, cho cuộc chiến chống lại nạn gian tham hối lộ, và cho việc thực thi các quyền chính trị và xã hội. Giáo Hội có thể cống hiến phần đóng góp nào trong nghĩa này, thưa Đức Cha?
Đáp: Bộ Giáo Đục Công Giáo có trách nhiệm đối với 1.200 đại học trên thế giới, hơn 2.700 chủng viện và 250.000 trường công giáo. Bộ Truyền Giáo cũng đặc trách các cơ sở giáo dục tại Phi châu và Á châu. Điều này cho thấy các cơ cấu giáo dục này là một khả thể, qua đó Giáo Hội tham dự vào việc tạo thành một nền văn hóa của một quốc gia xác định. Không có phương thế nào giúp hội nhập vào một nền văn hóa của một nước một cách tốt đẹp hơn, nếu không phải là qua các trường học và đại học. Như thế các cơ sở giáo dục là một khả thể đối với Giáo Hội cũng như đối với xã hội; và nỗ lực sư phạm to lớn mà chúng tôi đã làm từ bao thế kỷ nay, chúng tôi dùng nó để phục vụ cộng đoàn nhân loại.
Hỏi: Phục vụ với các mục đích nào thưa Đức Cha?
Đáp: Có hai mục đích: mục đích thứ nhất đã được Đức Thánh Cha nhắc tới trong thư công bố Năm Linh Mục: đó là trả lại cho linh mục việc yêu thích chức linh mục và giúp tìm lại căn tính rõ ràng hơn điều đang thấy xảy ra nơi nhiều quốc gia. Trong một vài bối cảnh văn hóa, xem ra gương mặt của tu sĩ nam nữ hiển nhiên hơn gương mặt của linh mục giáo phận. Vì thế đây là dịp tuyệt vời giúp tái khám phá ra bản chất linh mục và sự cần thiết của linh mục đối với Giáo Hội. Do đó mục đích thứ hai là tái khám phá ra thế đứng của linh mục trong lòng cộng đoàn Kitô và nói chung trong Giáo Hội.
Như vậy có hai chiều kích mời gọi Bộ Giáo Dục. Như là cơ quan đặc trách việc đào tạo các chủng sinh, chúng tôi phải giúp các chủng sinh hiểu sứ điệp này: các bạn đã được tuyển chọn, đó là một vinh dự, hãy hạnh phúc là linh mục. Tôi muốn rằng chủng viện là một trường học của hạnh phúc là linh mục. Đó là chiều kích thứ nhất. Chiều kích thứ hai là việc đào tạo được cống hiến cho các chủng sinh phải tốt chừng nào có thể.
Mỗi khi tiếp các Giám Mục về thăm các cơ quan trung ương Tòa Thánh, Đức Hồng Y Tổng trưởng của chúng tôi thích lập lại với các vị rằng: ”Xin các Đức Cha hãy dành ra các linh mục tốt nhất cho việc đào tạo các chủng sinh, đó là điều rất đáng công”.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Năm Linh Mục là dịp để duyệt xét và kiểm thực lại việc đào tạo các ứng sinh linh mục trong các chủng viện. Bộ Giáo Dục có đưa ra các sáng kiến nào không?
Đáp: Trong năm nay sẽ có các sinh hoạt đặc biệt. Như là chủ tịch Ủy ban liên bộ thường trực đặc trách việc thu nhận các chủng sinh, Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo Dục có ý triệu tập một phiên hội trong năm nay. Mục đích là để soạn thảo một văn kiện và công bố vào cuối Năm Linh Mục, một văn kiện ngắn gọn nhưng rõ ràng chính xác liên quan tới việc đào tạo các ứng sinh linh mục.
Hỏi: Mới đây Đức Thánh Cha đã mời gọi vượt thắng khuynh hướng nhị nguyên giữa ý niệm bí tích - bản thể và ý niệm nhiệm vụ xã hội của chức linh mục. Đây có phải là con đường hòa giải giữa hai chiều kích này của chức linh mục hay không, thưa Đức Cha?
Đáp: Xem ra trong Giáo Hội các tình hình có thể rất khác nhau. Có những nước trong đó người ta nhấn mạnh chiều kích xã hội, vai trò xã hội của vị linh mục: như tôi đã trông thấy bên Phi châu, và Châu Mỹ Latinh cũng như tại Đại Hàn bên Á châu. Vị linh mục không chỉ nắm giữ một vai trò giữa lòng cộng đoàn mà cả giữa lòng xã hội nữa. Trong khi tại các xã hội rất bị tục hóa như Italia chẳng hạn, vai trò xã hội của linh mục bị giảm thiểu đi.
Có lẽ với luật trừ là Italia, nơi xã hội bị tục hóa nhưng Giáo Hội đã biết sống bình dân và rất hiện diện trong cuộc sống xã hội, cũng như trong cuộc sống chính trị. Vì thế hai khía cạnh này tạo ra một sự căng thẳng cần thiết và hữu ích. Thật là điều bình thường, khi linh mục có vai trò xã hội, vì ngài là một mục tử, ngài là đầu của một phần dân Chúa, như Công Đồng Chung Vaticăng II đã nói. Trong danh nghĩa đó linh mục là nhân vật hữu hình trong xã hội.
Nhưng mà ngài cũng là người trung gian giữa trời và đất: ngài biểu lộ Chúa Kitô, hành động nhân danh Chúa Kitô. Cho nên tôi thấy cần phải duy trì sự căng thẳng đó ở khắp nơi, vì nó tốt cho chức linh mục và cho dân Kitô. Vì thế trước hết cộng đoàn tín hữu phải cảm thấy mình có trách nhiệm đối với vị linh mục hướng dẫn họ. Khi tôi còn là Giám Mục giáo phận Angers bên Pháp, mỗi khi chỉ định một cha sở mới, tôi đều đến giới thiệu ngài với tín hữu và nói: ”Tôi tín thác cha xứ cho anh chị em”. Vị linh mục cần được cộng đoàn tín hữu giúp đỡ. Thứ hai, mỗi linh mục cần phải được linh mục đoàn giúp đỡ. Chúng ta phải nhấn mạnh chiều kích huynh đệ của linh mục đoàn. Có qúa nhiều linh mục đau khổ vì cô đơn, và vì thế có nguy cơ bỏ quên khía cạnh này hay khía cạnh kia trong hai khía cạnh vừa nói. Một linh mục là một người bạn, một người anh em giữa lòng đại gia đình của linh mục đoàn. Và liên quan tới Bộ Giáo Dục thì còn có một con đường thứ ba: đó là chủng viện. Nó là nơi, trong đó các chủng sinh học biết sống hai khía cạnh này của chức linh mục trên bình diện thần học.
Hỏi: Bộ có cảm thấy cần phải định hướng trở lại việc giáo dục trong các cơ cấu đào tạo của Giáo Hội hay không, thưa Đức Cha?
Đáp: Một nền đào tạo tốt là một nền đào tạo có khả năng thích ứng với các thay đổi của xã hội. Tôi xin lập lại điều tôi đã nói trong nhiều dịp khác nhau: đương nhiên là người trẻ ngày nay khác với thời của chúng tôi, nhưng cần phải chấp nhận họ với lòng quảng đại. Cần phải quảng đại đón nhận các thế hệ mới và cũng cần phải có óc phân định: phân định xem họ có lòng can đảm hay không và phân định những gì cần sửa đổi. Tôi nhận thấy các người trẻ gia nhập các nhà đào tạo tại các nước như Italia, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Hoa Kỳ đều có một trình độ đào tạo nghề nghiệp rất tốt, đôi khi tới các cấp cao tại đại học, nhưng họ thiếu một nền văn hóa tổng quát và nhất là thiếu nền văn hóa Kitô. Vì thế tôi cầu mong chương trình đào tạo bắt đầu với một năm dự bị và thích ứng với diện mạo của các thế hệ mới. Và cũng cần phải tránh việc phân tán các môn học trong chương trình đào tạo; trái lại phải có một cái nhìn tổng hợp về thần học, nhấn mạnh trên vai trò của triết học, đặc biệt là khoa siêu hình, như là bước chuẩn bị cho thần học.
Hỏi: Thưa Đức Cha Brugues, các chỉ thị của tài liệu Định hướng công bố năm 2008 có đề cập tới việc sử dụng các khoa học tâm lý trong việc thu nhận và đào tạo các ứng sinh linh mục. Thế thì trong những trường hợp nào có thể cậy nhờ các chuyên viên của khoa tâm lý?
Đáp: Câu trả lời rất đơn sơ: đó là khi nào thấy nó ”cần thiết”. Trong tài liệu của Bộ Giáo Dục chúng tôi đã muốn phản ứng lại hai thái cực. Thái cực thứ nhất là nói rằng tất cả mọi chủng sinh đều phải được các chuyên viên tâm lý thử nghiệm. Thái cực thứ hai là khẳng định rằng cần phải coi chừng đừng có tin nơi khoa tâm lý và các nhà tâm lý. Tài liệu nói trên có giọng điệu rất tích cực đối với vấn đề này. Đôi khi người ta trách Giáo Hội là đã tỏ ra xa cách và đôi khi nghi ngờ khoa tâm lý học. Thật ra không đúng. Bằng chứng là tài liệu của chúng tôi có khẳng đinh rằng khi cần thiết, thì phải nhờ các chuyên viên tâm lý. ”Khi cần thiết” có nghĩa là gì? Đó là khi nó có thể giúp ứng sinh vượt thắng các vết thương chưa lành và chúng gây ra các quấy phá mà chính đương sự cũng không hiểu biết tầm nghiêm trọng của chúng, và thường khi lại đổ lỗi một cách sai lầm cho các lý do ngoại tại, và như thế không có khả năng đương đầu với chúng một cách thích hợp. (SD 19-8-2009)
Các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu
Linh Tiến Khải
05:39 29/08/2009
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Giancfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa về các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu
Ngày 21-8-2009 chương trình tiếng Bulgari của đài Vaticăng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn quay phim Đức Tổng Giám Mục Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa, về các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu, ngôn ngữ của người trẻ, cách thức họ tiến tới gần Kinh Thánh và các tật xấu của con người thời nay. Trong mục Sinh Hoạt Giáo Hội hôm nay chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn nội dung phần đầu bài phỏng vấn này.
Hỏi: Kính thưa Đức Tổng Giám Mục Ravasi, đâu là các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu ngày nay?
Đáp: Mặc dù tính cách phức tạp của tình hình ngày nay và hiện tình xã hội trên thế giới, trong nòng cốt chúng ta có thể nói tới hai thách đố chính. Tôi chỉ muốn nêu bật hai thách đố vì bản chất hầu như đối kháng của chúng. Một đàng đó là thách đố luôn ngày càng tìm nhận diện ra đâu là các đường nét nền tảng của sự truyền thông toàn cầu. Chúng ta biết là bình thường khi nói tới việc toàn cầu hóa, người ta chỉ nghĩ tới hiện tượng kinh tế, nhưng trên thực tế nó là một hiện tượng truyền thông. Và bên trong sự truyền thông đó có các lộ trình chung cho tất cả mọi người: cho các nước đang lên của Phi châu và Á châu cũng như cho các nước Âu châu. Như thế cần phải nhận diện một cách chính xác đâu là các yếu tố nền tảng của sự truyền thông này, các phương thế và đương nhiên cả vài nội dung nền tảng của nó nữa. Tuy nhiên đàng khác, có một khía cạnh phản đề, đến độ ngày nay người ta không còn nói đến toàn cầu hóa nữa, mà nói địa phương hóa, để nói rằng các nền văn hóa riêng rẽ, các chủng tộc, các quốc gia muốn duy trì căn tính của họ.
Đây cũng là trường hợp của các nước nhỏ ở Âu châu, có lẽ không có một truyền thống lớn lắm như truyền thống của các nước Italia, Pháp, Tây Ban Nha hay Đức chẳng hạn, nhưng họ vẫn muốn có ngôn ngữ riêng, một lịch sử, một truyền thống của họ, đôi khi đổ đốn và biến thành khuynh hướng quốc gia qúa khích ở bên trong cuộc đối thoại đại đồng là việc toàn cầu hóa. Vì thế tầm quan trọng đối với nền văn hóa đó là biết quân bình ngôn ngữ đại đồng và các sắc thái riêng. Một mặt có sự truyền thông, một vài giá trị và các yếu tố thuộc mọi quốc gia, vì mọi quốc gia đều có ăng ten, đều có parabol truyền hình trên mái nhà, hay trên mái chòi bên Phi châu; nhưng mặt khác cũng có ý muốn duy trì căn tính riêng và các truyền thống riêng.
Hỏi: Làm thế nào mà một người sống theo khuynh hướng duy vật chất có thể khám phá ra chiều kích tinh thần riêng qua nền văn hóa, thưa Đức Cha?
Đáp: Nhìn từ góc cạnh tôn giáo vấn đề đích thật trong nền văn hóa hiện đại không phải là vấn đề của chủ thuyết vô thần hay việc khước từ một cách có hệ thống, trung thực và có ý thức chiều kích siêu việt, đã trở thành một yếu tố khá hiếm hoi. Trái lại yếu tố nền tảng giờ đây là sự thờ ơ, là chủ thuyết vô thần chung chung bề ngoài, tầm thường, coi vấn đề tôn giáo hay vấn đề luân lý đạo đức như là vấn đề bên lề, phụ thuộc không khiến cho lương tâm áy náy, không đặt vấn nạn về sự hiện hữu của con người.
Thật ra chúng ta cũng đang đứng trước một vài cuốn sách được xuất bản xem ra vô thần vì chúng cũng dùng từ ”không thần học”. Nhưng nói đúng ra chúng chỉ là các trò chơi của xã hội, các nhạo báng, châm biếm, dè bỉu tôn giáo. Nó không phải là một cuộc đối diện nghiêm chỉnh, sít sao và có tinh thần phê bình. Và đó là thảm cảnh đích thật: vì chúng ta đang có trước mặt một đám sương mù. Cùng lắm Thiên Chúa chỉ là một yếu tố, đôi khi đi ngang qua cuộc sống con người, nhưng chỉ là bên lề và hoàn toàn phụ thuộc.
Vì lý do đó con người chỉ chú ý đến hiện tại, đến cuộc sống thường ngày, đến các điều có thể sờ mó được, mà không bao giờ có khả năng ngẩng đầu lên và đặt câu hỏi liên quan tới cái gì cao hơn và xa hơn. Đây là hình thái mới của chủ thuyết duy vật, không phải là thứ duy vật lý thuyết mác xít, biện chứng đã từng là một kiểu nhìn thế giới, mà là một quan niệm thay thế Kitô giáo. Đây là một thái độ sống mầu xám như triết gia Kierkegaard thuộc thế kỷ XIX đã nói vì đã trực giác được vấn đề: ”Con thuyền thế giới ngày nay không còn ở trong tay thuyền trưởng nữa, nhưng ở trong tay anh làm bếp. Và điều mà máy phóng thanh nói, không phải là hải trình, mà là cái chúng ta sẽ ăn ngày mai”.
Truyền hình, truyền thông hiện nay liên tục đặt để chúng ta trước các mốt mới, các kiểu sống, các đồ vật, các tiêu thụ. Nó không bao giờ có khả năng đưa ra cho con người các câu hỏi lớn nền tảng. Chủ trương vô thần truyền thống còn đặt ra các câu hỏi lớn, và đưa ra các câu trả lời thay thế cho các câu trả lời của Kitô giáo. Trái lại giờ đây mầu xám thống trị, sự thờ ơ thống trị, hình thái mới của việc tôn thờ ngẫu tượng thống trị. Và nhiệm vụ chính của các tôn giáo và nền văn hóa, kể cả nền văn hóa đích thật: đó là đem âu lo, đem khủng hoảng, đem các vấn nạn đến cho con người để lay động mầu xám xịt ấy, để làm cho con người sáng lên trong chiều kích sâu thẳm của nó.
Hỏi: Thưa Đức Cha, 20 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, các nước thuộc khối cựu cộng sản đang đứng trước một thách đố mới: đó là đánh mất đi căn tính của mình trước nền văn hóa Tây âu. Giáo Hội có thể nắm giữ vai trò nào trong việc giúp tránh nguy cơ này?
Đáp: Khi còn có chế độ cộng sản vô thần hay các thể chế coi tôn giáo như một nguy cơ, như một thực tại ngoại tại, thì giữa lòng nhân dân, trong lòng con người vẫn có một sự rên siết nào đó, rồi có ý thức phê bình từ phía các Giáo Hội, và đã có xung khắc công khai, đã có các trường hợp bách bại thực sự.
Giờ đây chúng ta đang đứng trước tình trạng như tôi vừa mới miêu tả trên đây, và tình trạng này cũng xảy ra cho các nước trước kia sống dưới các chế độ vô thần, nghĩa là từ từ tất cả các nước Đông Âu giờ đây đã thích ứng hay đang thích ứng với hình thái hời hợt bề ngoài và thờ ơ, là thái độ đặc thù của thế giới Tây Âu. Các huyền thoại mới là các huyền thoại của quảng cáo, của truyền hình, của tiêu thụ, của hưởng thụ tức khắc. Và như thế là các cộng đoàn này đã đánh mất đi hai lần căn tính của họ: lần thứ nhất với chế độ cộng sản vô thần cắt đứt mọi quy chiếu kiểu siêu việt, và giờ đây họ có khả năng tìm lại các gốc rễ nhưng với bầu khí mới cũng lại xóa bỏ mọi chiều kích mạnh mẽ, mọi chiều kích siêu việt nữa: đó là lần thứ hai. Và tôi nghĩ có thể có hai câu trả lời. Một đàng, các Giáo Hội phải tìm mọi cách tiếp tục và khiến cho giáo dân dấn thấn trong các thực tại mà chúng ta quen gọi một cách truyền thống là các thực tại sau hết, nghĩa là dấn thân sống tình bác ái, sống cho tha nhân, dấn thân xã hội, thăng tiến các chiều kích phát triển văn hóa; tất cả những gì làm thành lịch sử của một con người, của một xã hội.
Dấn thân cho các thực tại sau hết: chúng ta hãy nghĩ tới công tác thiện nguyện là công tác rất quan trọng trong nhiều xã hội, nhất là bên trong Giáo Hội. Nhưng điều này thôi không đủ. Các Giáo Hội phải có can đảm đề nghị cả các sự thật cuối cùng nữa. Nghĩa là trở lại việc loan báo, trong sự truyền thông của mình, trong các dụng cụ giúp hiểu biết và tái đề nghị các đề tài nền tảng như: sự sống, cái chết, cuộc sống đời sau, nỗi khổ đau, bất công, công lý, sự thật, sự thiện, sự dữ và cả Mầu Nhiệm của Thiên Chúa nữa, tại sao lại không? Nghĩa là phải có hai con đường, trên đó chúng ta tìm lấy đi tình trạng mầu xám này hay là chủ thuyết vô thần thực tiễn. Một đàng là dấn thân hiện sinh, nghiêm chỉnh, khắc khổ, đàng khác cũng là và nhất là việc trở lại với các đề tài tinh thần lớn.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội tìm làm cho người trẻ dấn thân. Nhưng mà nền văn hóa chung có nợ giới trẻ, nhất là trong lãnh vực giáo dục hay không?
Đáp: Đây là điều rất đúng. Nhưng trước hết tôi xin có một nhận xét đó là ngày nay thế hệ đi trước không hiểu thế giới của người trẻ. Thế hệ đi trước chỉ tìm bảo đảm tiện nghi dễ dài cho mình, mà không cố gắng tìm đáp trả lại các vấn nạn của người trẻ. Các vấn nạn này thường được biểu lộ trong một hình thức mà thế giới người lớn không thể nào hiểu nổi. Người trẻ ngày nay có một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của thế hệ đi trước. Kết quả một cuộc thăm dò cho thấy người trẻ Italia chỉ dùng có 800 trên 150.000 từ tiếng Ý. Nghĩa là một thứ ngôn ngữ đơn giản hóa. Thế rồi còn có thứ ngôn ngữ của điện thoại di động, là thứ ngôn ngữ dấu hiệu, hình ảnh, không lời mà chỉ có các dấu hiệu. Đây là một kiểu truyền thông khác, bình thường đối với người trẻ, nhưng lại giản lược các tương quan một cách mạnh mẽ. Như thế giới trẻ sống trong thế giới của họ và thông truyền với nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, và rất thường khi chúng ta chứng kiến với sự thờ ơ.
Vì thế điều thứ nhất cần thiết là phải hiểu thứ ngôn ngữ này, lắng nghe nó và biết nó; đàng khác vì chúng ta mắc nợ người trẻ sự phong phú đã được xây dựng bằng bao thế kỷ nay, nên cần phải tìm cách thông truyền cho họ vài giá trị nền tảng bắt đầu từ trường học và Giáo Hội, qua một chương trình truyền thông trong các ngôn ngữ mới. Và đây là điều biết bao lần người ta đã không làm, bởi vì học đường và Giáo Hội tiếp tục các phương pháp và các chương trình của mình, trong khi đáng lý ra phải chế ra một sự truyền thông mới, đừng để cho người trẻ bị nghèo nàn đi, bởi vì họ luôn luôn là các con người và đối với họ điều triết gia Pascal nói cũng có gía trị: ”Con người thắng vượt con người một cách bất tận”, nghĩa là con người luôn luôn là cái gì sâu thẳm hơn, dấu ẩn hơn, cả khi bề ngoài xem ra nó hời hợt, hài lòng với cái tối thiểu, với sự trống rỗng của sự vật. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng bên trong một kinh nghiệm thê thảm như kinh nghiệm của người trẻ nghiện ngập ma túy chẳng hạn - mà không phải chỉ có người trẻ - có một yếu tố ở chiều sâu, có một vấn nạn về ý nghĩa cuộc đời: nếu cuộc sống không có ý nghĩa, thì khi đó người trẻ đốt nó, hay tìm gây ma túy cho nó. Vấn nạn này nền tảng, quan trọng, và vì thế Giáo Hội và xã hội, học đường và gia đình phải kiên nhẫn tìm cách tái lập một sự truyền thông với người trẻ.
Hỏi: Dưới ánh sáng của tất cả những điều vừa nói, Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa dành ưu tiên cho những gì thưa Đức Cha Ravasi?
Đáp: Có một loạt các yếu tố mà chúng tôi thấy cần phải đầu tư tìm hiểu, phân tích và dấn thân thực hiện. Trước hết là ngôn ngữ. Phải hiểu xem ngày nay người ta thông truyền như thế nào. Liên mạng là một ngôn ngữ, và bất cứ loại ngôn ngữ nào cũng có sứ điệp riêng của nó, như học gỉa McLuhan chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ đã nói: phương tiện là sứ điệp. Phải nhớ rằng ngôn ngữ liên mạng khác với ngôn ngữ viết tay. Nó là thứ ngôn ngữ lạnh lùng. Do đó phải đưa ra các hướng dẫn để tránh các nguy cơ cho giới trẻ. Chúng ta hãy nghĩ tới những người trẻ ngồi trước Internet và tán gẫu với nhau hết giờ này sang giờ khác. Họ quen với thứ ngôn ngữ lạnh lùng đó, nó không phải là một sự truyền thông trực tiếp mắt đối mắt, hay chạm vào da thịt nhau, mà là sự truyền thông ảo tưởng, đôi khi có thể đạt sự giả tạo tuyệt đối.
Xã hội ngày nay cô lập hóa con người mặc dù có các hiện tượng đám đông. Mọi người đều dùng hệ thống liên mạng, một mình, trong cô đơn. Các địa chỉ riêng trên mạng các ”blog” là nhu cầu truyền thông chính mình trong một thế giới cô đơn, và đó cũng vẫn là sự truyền thông lạnh lùng. Tự nó, nó là dấu chỉ con người không thể tự đóng kín trong chính mình, không bao giờ là người du mục, không bao giờ đóng kín cửa đối với xã hội, mà không diễn tả nhu cầu sâu thẳm của mình. Và thế là nảy sinh ra các ”blog” các địa chỉ liên lạc đáp ứng nhu cầu nhìn thấy mặt nhau như Face Book. Nó diễn tả nỗi nhớ nhung của sự truyền thông liên bản vị. Đây có thể là một dịp giúp thông truyền các giá trị.
Hỏi: Có còn ưu tiên nào khác được Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa chú ý không thưa Đức Cha?
Đáp: Có chứ. Ưu tiên thứ hai là hiện tượng văn hóa mới. Từ ”văn hóa” ”Kultur” trong tiếng Đức đã được sáng chế ra vào thế kỷ thứ XVII. Nó ám chỉ phần cao, trí thức, thượng lưu, nghệ thuật, âm nhạc, triết lý vv... Nhưng ngày nay trái lại, khoa kinh tế, xã hội, nhân chủng, việc nghiên cứu dân gian và các hiện tượng xã hội, kể cả tôn giáo bình dân, tất cả đều được gọi là văn hóa.
Mọi hiện tượng có ý nghĩa nội tại tìm diễn tả nhân loại đều là văn hóa. Đó là một chinh phục vì giúp trở lại với nghĩa văn hóa cổ điển. Người Hy Lạp gọi văn hóa là ”paideia” có nghĩa là giáo dục, đào tạo. Người Latinh gọi văn hóa là ”humanitas”, có nghĩa là nhân bản hóa con người. Dưới ánh sáng đó chúng ta cũng chú ý tới các hiện tượng không phải là các hiện tượng cao của văn hóa. Thí dụ như kinh tế, chúng ta nghĩ tới một mẫu kinh tế như được đề nghị bởi Amartya Sen, hay Joseph Stiglitz hoặc Mohammed Yunus, tức các kinh tế gia đã lãnh giải Nobel.
Ông Amartya Sen đã viết rằng: ”Từ nay chúng ta phải thôi coi kinh tế như kỹ thuật tài chánh, như kỹ thuật tiền tệ, kỹ thuật ngân hàng, mẫu mực của sự phát triển. Kinh tế là một khoa học nhân văn”. Tại sao vậy? Bởi vì nó liên quan tới các luật lệ, như chính từ ”economia” diễn tả là các luật lệ, là ”oikia”, là thế giới, là các căn nhà nhỏ trong đó chúng ta sống, là các căn nhà lớn là xã hội. Chính vì các lý do đó tôi nghĩ chúng ta phải chú ý tới các hiện tượng văn hóa mới, bao gồm cả các truyền thống dân gian nữa.
Ngoài ngôn ngữ và các nền văn hóa mới, tôi cũng nghĩ tới một yếu tố thứ ba quan trọng để không xóa bỏ truyền thống văn hóa cao: đó là chiều kích của nghệ thuật. Nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, phim ảnh, truyền hình, trong các kiểu diễn tả mới của chúng. Chúng ta biết nghệ thuật ngày nay có một ngôn ngữ, một văn phạm hoàn toàn khác với văn phạm truyền thống, văn phạm của nghệ thuật cổ điển. Và đối thoại là điều quan trọng. Vì thế tôi đã đề nghị và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chấp nhận gặp gỡ giới nghệ sĩ vào ngày 21 tháng 11 năm nay 2009. Dĩ nhiên là chỉ có thể mời một số đại diện nào đó thôi. Các nghệ sĩ sẽ đến từ khắp nơi trên thế giới và đại diện cho tất cả mọi bộ môn nghệ thuật.
Còn có một dấn thân nữa đó là Tòa Thánh sẽ tham dự cuộc triển lãm nghệ thuật hai năm một lần tại Venezia, bắc Italia vào năm 2011, với một khu vực trưng bầy riêng, bằng cách mời hàng chục nghệ sĩ nổi tiếng của nghê thuật hiện đại không có liên hệ đặc biệt với tôn giáo, để khích lệ họ đưa ra các đề nghị nghệ thuật tinh thần, biểu tượng. Đây cũng là một cố gắng đối thoại với nền văn hóa và nghệ thuật ngày nay. (SD 21-8-2009)
Ngày 21-8-2009 chương trình tiếng Bulgari của đài Vaticăng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn quay phim Đức Tổng Giám Mục Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa, về các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu, ngôn ngữ của người trẻ, cách thức họ tiến tới gần Kinh Thánh và các tật xấu của con người thời nay. Trong mục Sinh Hoạt Giáo Hội hôm nay chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn nội dung phần đầu bài phỏng vấn này.
Hỏi: Kính thưa Đức Tổng Giám Mục Ravasi, đâu là các thách đố văn hóa trong thế giới toàn cầu ngày nay?
Đáp: Mặc dù tính cách phức tạp của tình hình ngày nay và hiện tình xã hội trên thế giới, trong nòng cốt chúng ta có thể nói tới hai thách đố chính. Tôi chỉ muốn nêu bật hai thách đố vì bản chất hầu như đối kháng của chúng. Một đàng đó là thách đố luôn ngày càng tìm nhận diện ra đâu là các đường nét nền tảng của sự truyền thông toàn cầu. Chúng ta biết là bình thường khi nói tới việc toàn cầu hóa, người ta chỉ nghĩ tới hiện tượng kinh tế, nhưng trên thực tế nó là một hiện tượng truyền thông. Và bên trong sự truyền thông đó có các lộ trình chung cho tất cả mọi người: cho các nước đang lên của Phi châu và Á châu cũng như cho các nước Âu châu. Như thế cần phải nhận diện một cách chính xác đâu là các yếu tố nền tảng của sự truyền thông này, các phương thế và đương nhiên cả vài nội dung nền tảng của nó nữa. Tuy nhiên đàng khác, có một khía cạnh phản đề, đến độ ngày nay người ta không còn nói đến toàn cầu hóa nữa, mà nói địa phương hóa, để nói rằng các nền văn hóa riêng rẽ, các chủng tộc, các quốc gia muốn duy trì căn tính của họ.
Đây cũng là trường hợp của các nước nhỏ ở Âu châu, có lẽ không có một truyền thống lớn lắm như truyền thống của các nước Italia, Pháp, Tây Ban Nha hay Đức chẳng hạn, nhưng họ vẫn muốn có ngôn ngữ riêng, một lịch sử, một truyền thống của họ, đôi khi đổ đốn và biến thành khuynh hướng quốc gia qúa khích ở bên trong cuộc đối thoại đại đồng là việc toàn cầu hóa. Vì thế tầm quan trọng đối với nền văn hóa đó là biết quân bình ngôn ngữ đại đồng và các sắc thái riêng. Một mặt có sự truyền thông, một vài giá trị và các yếu tố thuộc mọi quốc gia, vì mọi quốc gia đều có ăng ten, đều có parabol truyền hình trên mái nhà, hay trên mái chòi bên Phi châu; nhưng mặt khác cũng có ý muốn duy trì căn tính riêng và các truyền thống riêng.
Hỏi: Làm thế nào mà một người sống theo khuynh hướng duy vật chất có thể khám phá ra chiều kích tinh thần riêng qua nền văn hóa, thưa Đức Cha?
Đáp: Nhìn từ góc cạnh tôn giáo vấn đề đích thật trong nền văn hóa hiện đại không phải là vấn đề của chủ thuyết vô thần hay việc khước từ một cách có hệ thống, trung thực và có ý thức chiều kích siêu việt, đã trở thành một yếu tố khá hiếm hoi. Trái lại yếu tố nền tảng giờ đây là sự thờ ơ, là chủ thuyết vô thần chung chung bề ngoài, tầm thường, coi vấn đề tôn giáo hay vấn đề luân lý đạo đức như là vấn đề bên lề, phụ thuộc không khiến cho lương tâm áy náy, không đặt vấn nạn về sự hiện hữu của con người.
Thật ra chúng ta cũng đang đứng trước một vài cuốn sách được xuất bản xem ra vô thần vì chúng cũng dùng từ ”không thần học”. Nhưng nói đúng ra chúng chỉ là các trò chơi của xã hội, các nhạo báng, châm biếm, dè bỉu tôn giáo. Nó không phải là một cuộc đối diện nghiêm chỉnh, sít sao và có tinh thần phê bình. Và đó là thảm cảnh đích thật: vì chúng ta đang có trước mặt một đám sương mù. Cùng lắm Thiên Chúa chỉ là một yếu tố, đôi khi đi ngang qua cuộc sống con người, nhưng chỉ là bên lề và hoàn toàn phụ thuộc.
Vì lý do đó con người chỉ chú ý đến hiện tại, đến cuộc sống thường ngày, đến các điều có thể sờ mó được, mà không bao giờ có khả năng ngẩng đầu lên và đặt câu hỏi liên quan tới cái gì cao hơn và xa hơn. Đây là hình thái mới của chủ thuyết duy vật, không phải là thứ duy vật lý thuyết mác xít, biện chứng đã từng là một kiểu nhìn thế giới, mà là một quan niệm thay thế Kitô giáo. Đây là một thái độ sống mầu xám như triết gia Kierkegaard thuộc thế kỷ XIX đã nói vì đã trực giác được vấn đề: ”Con thuyền thế giới ngày nay không còn ở trong tay thuyền trưởng nữa, nhưng ở trong tay anh làm bếp. Và điều mà máy phóng thanh nói, không phải là hải trình, mà là cái chúng ta sẽ ăn ngày mai”.
Truyền hình, truyền thông hiện nay liên tục đặt để chúng ta trước các mốt mới, các kiểu sống, các đồ vật, các tiêu thụ. Nó không bao giờ có khả năng đưa ra cho con người các câu hỏi lớn nền tảng. Chủ trương vô thần truyền thống còn đặt ra các câu hỏi lớn, và đưa ra các câu trả lời thay thế cho các câu trả lời của Kitô giáo. Trái lại giờ đây mầu xám thống trị, sự thờ ơ thống trị, hình thái mới của việc tôn thờ ngẫu tượng thống trị. Và nhiệm vụ chính của các tôn giáo và nền văn hóa, kể cả nền văn hóa đích thật: đó là đem âu lo, đem khủng hoảng, đem các vấn nạn đến cho con người để lay động mầu xám xịt ấy, để làm cho con người sáng lên trong chiều kích sâu thẳm của nó.
Hỏi: Thưa Đức Cha, 20 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, các nước thuộc khối cựu cộng sản đang đứng trước một thách đố mới: đó là đánh mất đi căn tính của mình trước nền văn hóa Tây âu. Giáo Hội có thể nắm giữ vai trò nào trong việc giúp tránh nguy cơ này?
Đáp: Khi còn có chế độ cộng sản vô thần hay các thể chế coi tôn giáo như một nguy cơ, như một thực tại ngoại tại, thì giữa lòng nhân dân, trong lòng con người vẫn có một sự rên siết nào đó, rồi có ý thức phê bình từ phía các Giáo Hội, và đã có xung khắc công khai, đã có các trường hợp bách bại thực sự.
Giờ đây chúng ta đang đứng trước tình trạng như tôi vừa mới miêu tả trên đây, và tình trạng này cũng xảy ra cho các nước trước kia sống dưới các chế độ vô thần, nghĩa là từ từ tất cả các nước Đông Âu giờ đây đã thích ứng hay đang thích ứng với hình thái hời hợt bề ngoài và thờ ơ, là thái độ đặc thù của thế giới Tây Âu. Các huyền thoại mới là các huyền thoại của quảng cáo, của truyền hình, của tiêu thụ, của hưởng thụ tức khắc. Và như thế là các cộng đoàn này đã đánh mất đi hai lần căn tính của họ: lần thứ nhất với chế độ cộng sản vô thần cắt đứt mọi quy chiếu kiểu siêu việt, và giờ đây họ có khả năng tìm lại các gốc rễ nhưng với bầu khí mới cũng lại xóa bỏ mọi chiều kích mạnh mẽ, mọi chiều kích siêu việt nữa: đó là lần thứ hai. Và tôi nghĩ có thể có hai câu trả lời. Một đàng, các Giáo Hội phải tìm mọi cách tiếp tục và khiến cho giáo dân dấn thấn trong các thực tại mà chúng ta quen gọi một cách truyền thống là các thực tại sau hết, nghĩa là dấn thân sống tình bác ái, sống cho tha nhân, dấn thân xã hội, thăng tiến các chiều kích phát triển văn hóa; tất cả những gì làm thành lịch sử của một con người, của một xã hội.
Dấn thân cho các thực tại sau hết: chúng ta hãy nghĩ tới công tác thiện nguyện là công tác rất quan trọng trong nhiều xã hội, nhất là bên trong Giáo Hội. Nhưng điều này thôi không đủ. Các Giáo Hội phải có can đảm đề nghị cả các sự thật cuối cùng nữa. Nghĩa là trở lại việc loan báo, trong sự truyền thông của mình, trong các dụng cụ giúp hiểu biết và tái đề nghị các đề tài nền tảng như: sự sống, cái chết, cuộc sống đời sau, nỗi khổ đau, bất công, công lý, sự thật, sự thiện, sự dữ và cả Mầu Nhiệm của Thiên Chúa nữa, tại sao lại không? Nghĩa là phải có hai con đường, trên đó chúng ta tìm lấy đi tình trạng mầu xám này hay là chủ thuyết vô thần thực tiễn. Một đàng là dấn thân hiện sinh, nghiêm chỉnh, khắc khổ, đàng khác cũng là và nhất là việc trở lại với các đề tài tinh thần lớn.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội tìm làm cho người trẻ dấn thân. Nhưng mà nền văn hóa chung có nợ giới trẻ, nhất là trong lãnh vực giáo dục hay không?
Đáp: Đây là điều rất đúng. Nhưng trước hết tôi xin có một nhận xét đó là ngày nay thế hệ đi trước không hiểu thế giới của người trẻ. Thế hệ đi trước chỉ tìm bảo đảm tiện nghi dễ dài cho mình, mà không cố gắng tìm đáp trả lại các vấn nạn của người trẻ. Các vấn nạn này thường được biểu lộ trong một hình thức mà thế giới người lớn không thể nào hiểu nổi. Người trẻ ngày nay có một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của thế hệ đi trước. Kết quả một cuộc thăm dò cho thấy người trẻ Italia chỉ dùng có 800 trên 150.000 từ tiếng Ý. Nghĩa là một thứ ngôn ngữ đơn giản hóa. Thế rồi còn có thứ ngôn ngữ của điện thoại di động, là thứ ngôn ngữ dấu hiệu, hình ảnh, không lời mà chỉ có các dấu hiệu. Đây là một kiểu truyền thông khác, bình thường đối với người trẻ, nhưng lại giản lược các tương quan một cách mạnh mẽ. Như thế giới trẻ sống trong thế giới của họ và thông truyền với nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng, và rất thường khi chúng ta chứng kiến với sự thờ ơ.
Vì thế điều thứ nhất cần thiết là phải hiểu thứ ngôn ngữ này, lắng nghe nó và biết nó; đàng khác vì chúng ta mắc nợ người trẻ sự phong phú đã được xây dựng bằng bao thế kỷ nay, nên cần phải tìm cách thông truyền cho họ vài giá trị nền tảng bắt đầu từ trường học và Giáo Hội, qua một chương trình truyền thông trong các ngôn ngữ mới. Và đây là điều biết bao lần người ta đã không làm, bởi vì học đường và Giáo Hội tiếp tục các phương pháp và các chương trình của mình, trong khi đáng lý ra phải chế ra một sự truyền thông mới, đừng để cho người trẻ bị nghèo nàn đi, bởi vì họ luôn luôn là các con người và đối với họ điều triết gia Pascal nói cũng có gía trị: ”Con người thắng vượt con người một cách bất tận”, nghĩa là con người luôn luôn là cái gì sâu thẳm hơn, dấu ẩn hơn, cả khi bề ngoài xem ra nó hời hợt, hài lòng với cái tối thiểu, với sự trống rỗng của sự vật. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng bên trong một kinh nghiệm thê thảm như kinh nghiệm của người trẻ nghiện ngập ma túy chẳng hạn - mà không phải chỉ có người trẻ - có một yếu tố ở chiều sâu, có một vấn nạn về ý nghĩa cuộc đời: nếu cuộc sống không có ý nghĩa, thì khi đó người trẻ đốt nó, hay tìm gây ma túy cho nó. Vấn nạn này nền tảng, quan trọng, và vì thế Giáo Hội và xã hội, học đường và gia đình phải kiên nhẫn tìm cách tái lập một sự truyền thông với người trẻ.
Hỏi: Dưới ánh sáng của tất cả những điều vừa nói, Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa dành ưu tiên cho những gì thưa Đức Cha Ravasi?
Đáp: Có một loạt các yếu tố mà chúng tôi thấy cần phải đầu tư tìm hiểu, phân tích và dấn thân thực hiện. Trước hết là ngôn ngữ. Phải hiểu xem ngày nay người ta thông truyền như thế nào. Liên mạng là một ngôn ngữ, và bất cứ loại ngôn ngữ nào cũng có sứ điệp riêng của nó, như học gỉa McLuhan chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ đã nói: phương tiện là sứ điệp. Phải nhớ rằng ngôn ngữ liên mạng khác với ngôn ngữ viết tay. Nó là thứ ngôn ngữ lạnh lùng. Do đó phải đưa ra các hướng dẫn để tránh các nguy cơ cho giới trẻ. Chúng ta hãy nghĩ tới những người trẻ ngồi trước Internet và tán gẫu với nhau hết giờ này sang giờ khác. Họ quen với thứ ngôn ngữ lạnh lùng đó, nó không phải là một sự truyền thông trực tiếp mắt đối mắt, hay chạm vào da thịt nhau, mà là sự truyền thông ảo tưởng, đôi khi có thể đạt sự giả tạo tuyệt đối.
Xã hội ngày nay cô lập hóa con người mặc dù có các hiện tượng đám đông. Mọi người đều dùng hệ thống liên mạng, một mình, trong cô đơn. Các địa chỉ riêng trên mạng các ”blog” là nhu cầu truyền thông chính mình trong một thế giới cô đơn, và đó cũng vẫn là sự truyền thông lạnh lùng. Tự nó, nó là dấu chỉ con người không thể tự đóng kín trong chính mình, không bao giờ là người du mục, không bao giờ đóng kín cửa đối với xã hội, mà không diễn tả nhu cầu sâu thẳm của mình. Và thế là nảy sinh ra các ”blog” các địa chỉ liên lạc đáp ứng nhu cầu nhìn thấy mặt nhau như Face Book. Nó diễn tả nỗi nhớ nhung của sự truyền thông liên bản vị. Đây có thể là một dịp giúp thông truyền các giá trị.
Hỏi: Có còn ưu tiên nào khác được Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa chú ý không thưa Đức Cha?
Đáp: Có chứ. Ưu tiên thứ hai là hiện tượng văn hóa mới. Từ ”văn hóa” ”Kultur” trong tiếng Đức đã được sáng chế ra vào thế kỷ thứ XVII. Nó ám chỉ phần cao, trí thức, thượng lưu, nghệ thuật, âm nhạc, triết lý vv... Nhưng ngày nay trái lại, khoa kinh tế, xã hội, nhân chủng, việc nghiên cứu dân gian và các hiện tượng xã hội, kể cả tôn giáo bình dân, tất cả đều được gọi là văn hóa.
Mọi hiện tượng có ý nghĩa nội tại tìm diễn tả nhân loại đều là văn hóa. Đó là một chinh phục vì giúp trở lại với nghĩa văn hóa cổ điển. Người Hy Lạp gọi văn hóa là ”paideia” có nghĩa là giáo dục, đào tạo. Người Latinh gọi văn hóa là ”humanitas”, có nghĩa là nhân bản hóa con người. Dưới ánh sáng đó chúng ta cũng chú ý tới các hiện tượng không phải là các hiện tượng cao của văn hóa. Thí dụ như kinh tế, chúng ta nghĩ tới một mẫu kinh tế như được đề nghị bởi Amartya Sen, hay Joseph Stiglitz hoặc Mohammed Yunus, tức các kinh tế gia đã lãnh giải Nobel.
Ông Amartya Sen đã viết rằng: ”Từ nay chúng ta phải thôi coi kinh tế như kỹ thuật tài chánh, như kỹ thuật tiền tệ, kỹ thuật ngân hàng, mẫu mực của sự phát triển. Kinh tế là một khoa học nhân văn”. Tại sao vậy? Bởi vì nó liên quan tới các luật lệ, như chính từ ”economia” diễn tả là các luật lệ, là ”oikia”, là thế giới, là các căn nhà nhỏ trong đó chúng ta sống, là các căn nhà lớn là xã hội. Chính vì các lý do đó tôi nghĩ chúng ta phải chú ý tới các hiện tượng văn hóa mới, bao gồm cả các truyền thống dân gian nữa.
Ngoài ngôn ngữ và các nền văn hóa mới, tôi cũng nghĩ tới một yếu tố thứ ba quan trọng để không xóa bỏ truyền thống văn hóa cao: đó là chiều kích của nghệ thuật. Nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, phim ảnh, truyền hình, trong các kiểu diễn tả mới của chúng. Chúng ta biết nghệ thuật ngày nay có một ngôn ngữ, một văn phạm hoàn toàn khác với văn phạm truyền thống, văn phạm của nghệ thuật cổ điển. Và đối thoại là điều quan trọng. Vì thế tôi đã đề nghị và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chấp nhận gặp gỡ giới nghệ sĩ vào ngày 21 tháng 11 năm nay 2009. Dĩ nhiên là chỉ có thể mời một số đại diện nào đó thôi. Các nghệ sĩ sẽ đến từ khắp nơi trên thế giới và đại diện cho tất cả mọi bộ môn nghệ thuật.
Còn có một dấn thân nữa đó là Tòa Thánh sẽ tham dự cuộc triển lãm nghệ thuật hai năm một lần tại Venezia, bắc Italia vào năm 2011, với một khu vực trưng bầy riêng, bằng cách mời hàng chục nghệ sĩ nổi tiếng của nghê thuật hiện đại không có liên hệ đặc biệt với tôn giáo, để khích lệ họ đưa ra các đề nghị nghệ thuật tinh thần, biểu tượng. Đây cũng là một cố gắng đối thoại với nền văn hóa và nghệ thuật ngày nay. (SD 21-8-2009)
Cả ngày nay nữa lòng tin kitô vẫn tiếp tục gây vấp phạm
Linh Tiến Khải
05:41 29/08/2009
Theo Chúa Giêsu khiến cho con tim của chúng ta tràn đầy niềm vui và làm cho cuộc sống của chúng ta tràn đầy ý nghĩa, nhưng nó cũng bao gồm các khó khăn và từ bỏ, vì rất thường khi chúng ta phải đi ngược dòng đối với tâm thức hiện diện trong thế giới ngày nay. Do đó cả ngày nay nữa lòng tin Kitô vẫn tiếp tục gây vấp phạm.
Đức Thánh Cha đã khẳng định trước hơn 2.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo trưa Chúa Nhật 23 tháng 8 hôm qua.
Mở đầu buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã nói đùa với tín hữu về cổ tay phải bị gẫy rằng: ”Anh chị em thấy là tay của tôi đã được giải thoát khỏi bột rồi, nhưng mà nó còn lười một chút. Tôi phải theo học trường kiên nhẫn một chút nữa, nhưng chúng ta cứ tiến bước”. Và mọi người đã vui vẻ cùng cười với Đức Thánh Cha.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc lại cho mọi người biết là trong các Chúa Nhật này phụng vụ đề nghị suy tư chương 6 Phúc Âm thánh Gioan, trong đó Chúa Giêsu tự giới thiệu như là ”bánh sự sống từ trời xuống”. Và Chúa Giêsu nói thêm rằng: ”Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời và bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Người do thái đã tranh luận với nhau và thế giới vẫn tiếp tục tranh luận. Và chúng ta ngày nay cũng được mời gọi suy tư xem mình có thực sự hiểu sứ điệp của Chúa hay không. Hướng về phụng vụ Chúa Nhật Đức Thánh Cha nói:
Vì thế hôm nay Chúa Nhật thứ XXI thường niên, chúng ta suy niệm phần cuối cùng của chương này, trong đó Phúc Âm thứ tư kể lại phản ứng của dân chúng và của chính các môn đệ, bị vấp phạm vì các lời của Chúa đến độ, sau khi theo Chúa cho đến lúc đó, nhiều người kêu lên rằng:”Lời này chướng tai qúa! Ai mà nghe cho nổi?” (c. 60). Và từ lúc ấy ”nhiều người trong các môn đệ bỏ không đi với Chúa nữa” (c. 62). Và đều này cũng thường xảy ra trong nhiều thời đại của lịch sử. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu tìm giàn xếp để được hiểu biết hơn, nhưng Chúa Giêsu đã không giảm thiểu các khẳng định của Ngài, trái lại còn hỏi thẳng mười hai tông đồ: ”Các con cũng muốn bỏ Thầy mà đi hay sao?” (c. 67).
Câu hỏi khiêu khích này không chỉ được hướng tới các người lắng nghe Chúa nói hồi đó, mà cũng được đưa ra cho các tín hữu và con người thuộc mọi thời đại nữa. Cả ngày nay nữa, không ít người bị vấp phạm trước cái mâu thuẫn của lòng tin kitô. Giáo huấn của Chúa xem ra ”chướng tai”, khó chấp nhận và khó thực hành qúa. Vì thế có người khước từ nó và bỏ theo Chúa Kitô; có người tìm ”thich ứng” lời ấy vào các mốt thời đại và đánh mất đi bản chất và giá trị của nó. Áp dụng câu hỏi của Chúa cho tín hữu ngày nay Đức Thánh Cha nói:
Sự khiêu khích gậy âu lo này vang lên trong con tim chúng ta và chờ đợi nơi từng người một câu trả lời cá nhân. Đó là một câu hỏi đối với từng người trong chúng ta. Thật thế Chúa Giêsu không hài lòng với một sự tùy thuộc hời hợt hình thức bề ngoài: việc tin theo hăng hái ban đầu không đủ; trái lại cần tham dự vào tư tưởng và ý muốn của Chúa trong suốt cuộc sống nữa. Theo Chúa làm cho con tim của chúng ta tràn ngập niềm vui và trao ban ý nghĩa tràn đầy cho cuộc sống chúng ta, nhưng nó bao gồm các khó khăn và từ bỏ, vì rất thường khi chúng ta phải đi ngược dòng đời.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn đụ: Nhân danh các Tông Đồ và các người tin của mọi thời đại, thánh Phêrô đã trả lời câu hỏi của Chúa như sau: ”Lậy Chúa, chúng con đi đến với ai đây? Chúa có lời ban sự sống đời đời và chúng con đã tin và nhận biết rằng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (cc. 68-69). Anh chị em thân mến cả chúng ta nữa chúng ta cũng có thể và muốn lập lại câu trả lời của thánh Phêrô trong lúc này đây, ý thức chắc chắn về sự yếu đuối là người của chúng ta, các vấn đề và các khó khăn của chúng ta, nhưng tin tưởng nơi quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Đấng tự diễn tả và biểu lộ ra trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Lòng tin là ơn Thiên Chúa ban cho con người và đồng thời là sự tín thác tự do và hoàn toàn của con người nơi Thiên Chúa. Lòng tin là sự ngoan ngoãn lắng nghe lời Chúa, là ”đèn” soi sáng chúng ta bước đi trên đường (x. Tv 119,105). Nếu chúng ta rộng mở con tim cho Chúa Kitô, nếu chúng ta để cho Ngài chinh phục, chúng ta có thể kinh nghiệm được như Cha Sở Thánh họ Ars rằng: ”hạnh phúc duy nhất của chúng ta trên trái đất này là yêu Chúa và biết rằng Chúa yêu chúng ta”. Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria luôn giữ gìn trong chúng ta lòng tin thấm đậm tình yêu đã khiến cho Mẹ là thiếu nữ Nagiarét trở thành Mẹ Thiên Chúa và mẫu gương của mọi tín hữu.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người. Rồi Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và du khách bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài gửi lời chào tới các tham dự viện đại hội ”Tình Bạn các dân tộc” khai mạc sáng Chúa Nhật hôm qua tại Rimini về đề tài ”Sự hiểu biết luôn luôn là một biến cố”. Đức Thánh Cha nói hiểu biết không chỉ là một cử chỉ vật chất, vì trong mỗi một sự hiểu biết, và trong mỗi một cử chỉ yêu thương, linh hồn con người đều kinh nghiệm được ”cái nhiều hơn”, giống như một ơn, giống như một chiều cao mà chúng ta được mời gọi vươn tới.
Đức Thánh Cha đã khẳng định trước hơn 2.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo trưa Chúa Nhật 23 tháng 8 hôm qua.
Mở đầu buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã nói đùa với tín hữu về cổ tay phải bị gẫy rằng: ”Anh chị em thấy là tay của tôi đã được giải thoát khỏi bột rồi, nhưng mà nó còn lười một chút. Tôi phải theo học trường kiên nhẫn một chút nữa, nhưng chúng ta cứ tiến bước”. Và mọi người đã vui vẻ cùng cười với Đức Thánh Cha.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc lại cho mọi người biết là trong các Chúa Nhật này phụng vụ đề nghị suy tư chương 6 Phúc Âm thánh Gioan, trong đó Chúa Giêsu tự giới thiệu như là ”bánh sự sống từ trời xuống”. Và Chúa Giêsu nói thêm rằng: ”Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời và bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Người do thái đã tranh luận với nhau và thế giới vẫn tiếp tục tranh luận. Và chúng ta ngày nay cũng được mời gọi suy tư xem mình có thực sự hiểu sứ điệp của Chúa hay không. Hướng về phụng vụ Chúa Nhật Đức Thánh Cha nói:
Vì thế hôm nay Chúa Nhật thứ XXI thường niên, chúng ta suy niệm phần cuối cùng của chương này, trong đó Phúc Âm thứ tư kể lại phản ứng của dân chúng và của chính các môn đệ, bị vấp phạm vì các lời của Chúa đến độ, sau khi theo Chúa cho đến lúc đó, nhiều người kêu lên rằng:”Lời này chướng tai qúa! Ai mà nghe cho nổi?” (c. 60). Và từ lúc ấy ”nhiều người trong các môn đệ bỏ không đi với Chúa nữa” (c. 62). Và đều này cũng thường xảy ra trong nhiều thời đại của lịch sử. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu tìm giàn xếp để được hiểu biết hơn, nhưng Chúa Giêsu đã không giảm thiểu các khẳng định của Ngài, trái lại còn hỏi thẳng mười hai tông đồ: ”Các con cũng muốn bỏ Thầy mà đi hay sao?” (c. 67).
Câu hỏi khiêu khích này không chỉ được hướng tới các người lắng nghe Chúa nói hồi đó, mà cũng được đưa ra cho các tín hữu và con người thuộc mọi thời đại nữa. Cả ngày nay nữa, không ít người bị vấp phạm trước cái mâu thuẫn của lòng tin kitô. Giáo huấn của Chúa xem ra ”chướng tai”, khó chấp nhận và khó thực hành qúa. Vì thế có người khước từ nó và bỏ theo Chúa Kitô; có người tìm ”thich ứng” lời ấy vào các mốt thời đại và đánh mất đi bản chất và giá trị của nó. Áp dụng câu hỏi của Chúa cho tín hữu ngày nay Đức Thánh Cha nói:
Sự khiêu khích gậy âu lo này vang lên trong con tim chúng ta và chờ đợi nơi từng người một câu trả lời cá nhân. Đó là một câu hỏi đối với từng người trong chúng ta. Thật thế Chúa Giêsu không hài lòng với một sự tùy thuộc hời hợt hình thức bề ngoài: việc tin theo hăng hái ban đầu không đủ; trái lại cần tham dự vào tư tưởng và ý muốn của Chúa trong suốt cuộc sống nữa. Theo Chúa làm cho con tim của chúng ta tràn ngập niềm vui và trao ban ý nghĩa tràn đầy cho cuộc sống chúng ta, nhưng nó bao gồm các khó khăn và từ bỏ, vì rất thường khi chúng ta phải đi ngược dòng đời.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn đụ: Nhân danh các Tông Đồ và các người tin của mọi thời đại, thánh Phêrô đã trả lời câu hỏi của Chúa như sau: ”Lậy Chúa, chúng con đi đến với ai đây? Chúa có lời ban sự sống đời đời và chúng con đã tin và nhận biết rằng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (cc. 68-69). Anh chị em thân mến cả chúng ta nữa chúng ta cũng có thể và muốn lập lại câu trả lời của thánh Phêrô trong lúc này đây, ý thức chắc chắn về sự yếu đuối là người của chúng ta, các vấn đề và các khó khăn của chúng ta, nhưng tin tưởng nơi quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Đấng tự diễn tả và biểu lộ ra trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Lòng tin là ơn Thiên Chúa ban cho con người và đồng thời là sự tín thác tự do và hoàn toàn của con người nơi Thiên Chúa. Lòng tin là sự ngoan ngoãn lắng nghe lời Chúa, là ”đèn” soi sáng chúng ta bước đi trên đường (x. Tv 119,105). Nếu chúng ta rộng mở con tim cho Chúa Kitô, nếu chúng ta để cho Ngài chinh phục, chúng ta có thể kinh nghiệm được như Cha Sở Thánh họ Ars rằng: ”hạnh phúc duy nhất của chúng ta trên trái đất này là yêu Chúa và biết rằng Chúa yêu chúng ta”. Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria luôn giữ gìn trong chúng ta lòng tin thấm đậm tình yêu đã khiến cho Mẹ là thiếu nữ Nagiarét trở thành Mẹ Thiên Chúa và mẫu gương của mọi tín hữu.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người. Rồi Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và du khách bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài gửi lời chào tới các tham dự viện đại hội ”Tình Bạn các dân tộc” khai mạc sáng Chúa Nhật hôm qua tại Rimini về đề tài ”Sự hiểu biết luôn luôn là một biến cố”. Đức Thánh Cha nói hiểu biết không chỉ là một cử chỉ vật chất, vì trong mỗi một sự hiểu biết, và trong mỗi một cử chỉ yêu thương, linh hồn con người đều kinh nghiệm được ”cái nhiều hơn”, giống như một ơn, giống như một chiều cao mà chúng ta được mời gọi vươn tới.
Đức Thánh Cha kêu gọi thay đổi mô thức phát triển toàn cầu, tôn trọng môi sinh và bảo vệ thiên nhiên
Linh Tiến Khải
05:52 29/08/2009
Trái đất là ơn rất qúy báu Thiên Chúa ban cho nhân loại, vì vậy phải cấp thiết tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên, tái phục hồi và lượng định tương quan đúng đắn với môi sinh trong cuộc sống mỗi ngày và thay đổi mô thức phát triển toàn cầu.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 2000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-8-2009 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo.
Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chúng ta đang tới gần cuối tháng 8, và đối với nhiều người nó cũng có nghĩa là kết thúc kỳ nghỉ hè. Trong khi trở lại với các sinh hoạt thường ngày, làm sao lại không cảm tạ Chúa vì ơn qúy báu của thụ tạo, có thể thưởng thức, và không phải chỉ thưởng thức trong kỳ hè mà thôi. Các hiện tượng môi sinh đồi tệ và các tai ương thiên nhiên mà báo chí thường ghi nhận, cấp thiết mời gọi chúng ta phải tôn trọng thiên nhiên, bằng cách trong cuộc sống thường ngày biết phục hồi và đánh gía trở lại một tương quan đúng đắn với môi sinh. Liên quan tới các đề tài này khiến cho các giới chức và dư luận công cộng âu lo, cũng đang phát triển một sự nhậy cảm mới, được diễn tả ra trong nhiều cuộc hội họp cả trên bình diện quốc tế.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Trất đất là ơn qúy báu của Đấng Tạo Hóa. Ngài đã đặt định các trật tự nội tại và như thế cho chúng ta các dấu chỉ định hướng, cần phải tuân giữ trong tư cách là các người quản lý thụ tạo của Chúa. Chính từ ý thức đó mà Giáo Hội coi các vấn đề liên quan tới môi sinh và việc bảo vệ nó như gắn liền một cách mật thiết với đề tài phát triển con người toàn diện. Tôi đã nhiều lần đề cập tới vấn đề này trong thông điệp ”Yêu thương trong sự thật”, bằng cách nhắc lại sự cấp thiết luân lý của một tình liên đới mới (s. 49), không phải chỉ trong các tương quan giữa các nước, mà cả trong liên hệ giữa các cá nhân, bởi vì môi sinh được Thiên Chúa trao ban cho tất cả mọi người, và việc sử dụng nó bao gồm trách nhiệm cá nhân của chúng ta đối với toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người nghèo túng và các thế hệ tương lai (s. 48). Nhận thức được trách nhiệm chung đó đối với thụ tạo, Giáo Hội không chỉ dấn thân thăng tiến việc bảo vệ trái đất, nước và khí, do Đấng Tạo Hóa ban cho tất cả mọi người, mà cũng dấn thân bảo vệ con người chống lại sự tàn phá chính nó. Thật thế, khi ”môi sinh nhân bản” được tôn trọng trong xã hội, thì cả môi sinh thiên nhiên cũng được hưởng ích lợi” (ibid). Lại không đúng hay sao, khi việc sử dụng vô chừng mực thiên nhiên bắt đầu tại nơi nào Thiên Chúa bị loại bỏ ra bên lề hay tệ hại hơn cả sự hiện hữu của Ngài cũng bị chối bỏ? Nếu tương quan của con người với Đấng Tạo Hóa bị giảm bớt, thì vật chất bị giản lược thành chiếm hữu ích kỷ, con người trở thành đòi hỏi cuối cùng của nó, và mục đích của cuộc sống bị giản lược thành một cuộc chay đua mệt nhọc để chiếm hữu nhiều chừng nào có thể.
Đức Thánh Cha đã giải thích ơn gọi và trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên như sau:
Thiên nhiên, vật chất được Thiên Chúa cấu tạo một cách thông minh, như thế được giao phó cho trách nhiệm của con người, có khả năng giải thích nó và tái nhào nặn nó một cách tích cực, mà không tự coi mình là chủ nhân. Đúng hơn con người được mời gọi thi hành việc cai quản có trách nhiệm để giữ gìn thiên nhiên, làm cho nó sinh lợi và vun trồng nó, bằng cách tìm ra các tài nguyên cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng cho tất cả mọi người.
Với sự trợ giúp của chính thiên nhiên và với dấn thân của công việc làm và sáng chế của mình, nhân loại thực sự có khả năng chu toàn nhiệm vụ nghiêm trọng là trao ban cho các thế hệ mới một trái đất, mà tới phiên họ cũng có thể ở được một cách xứng đáng và và tiếp tục vun trồng nó (s. 50). Để có thể thực hiện được điều này, cần phải phát triển một giao ước giữa con người và môi sinh, phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa (Sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2008, 7), thừa nhận rằng chúng ta tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa và tất cả đều đang tiến tới với Ngài. Thật là quan trọng biết bao nhiêu, khi cộng đoàn quốc tế và các nước riêng rẽ biết đưa ra các dấu chỉ đúng đắn cho công dân của mình, để chống lại một cách hữu hiệu các kiểu sử dụng môi sinh gây thiệt hại cho nó! Các chi phí kinh tế và xã hội phát xuất từ việc sử dụng các tài ngyên môi sinh chung, được thừa nhận một cách trong sáng, phải do những người được hưởng chúng thanh toán, chứ không phải do các dân tộc khác hay các thế hệ tương lai. Việc bảo vệ môi sinh, bảo vệ các nguồn tài nguyên và khí hậu đòi hòi các giới hữu trách quốc tế phải hành động chung với nhau trong việc tôn trọng luật lệ và tình liên đới, nhất là đối với những vùng yếu đuối nhất của trái đất (s. 50).
Cùng nhau chúng ta có thể xây dựng một sự phát triển nhân bản toàn vẹn có lợi cho các dân tộc trong hiện tại và tương lai, một sự phát triển được linh hứng bởi các giá trị của tình yêu thương trong sự thật. Để cho điều ấy trở thành thực tại, cần phải hoán cải mô thức phát triển toàn cầu hiện nay hướng tới một sự chia sẻ trách nhiệm lớn hơn đối tới thụ tạo: không chỉ có các cấp thiết môi sinh đòi hỏi điều đó, mà cả gương mù gương xấu của nạn nghèo đói bần cùng nữa.
Rồi Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và lấy các lời của thánh Phanxicô thành Assisi trong Bài Ca Vạn Vật làm của chúng ta: ”Lậy Đấng Tối cao, quyền năng, lậy Chúa nhân lành, xin dâng Chúa lời chúc tụng, vinh quang, danh dự và mọi lời chúc tụng... Xin chúc tụng Chúa, lậy Chúa của con, với tất cả mọi thụ tạo”. Cả chúng ta nữa chúng ta cũng muốn cầu nguyện và sống theo tinh thần của các lời chúc tụng này.
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ba Lan. Trong tiếng Ý Đức Thánh Cha chào một nhóm các linh mục mừng Ngân Khánh ngày chịu chức và các đại chủng sinh tham dự cuộc gặp gỡ mùa hè do tổng giáo phận tổ chức. Ngài cầu chúc Năm Linh Mục, mà Giáo Hội đang cử hành, là dịp giúp từng người đào sâu giá trị sứ mệnh linh mục thừa tác trong Giáo Hội và trên thế giới.
Với các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói trong các ngày tới này phụng vụ mừng kính hai vị đại thánh là thánh nữ Monica và thánh Agostino, hai mẹ con hiệp nhất trong mối dây gia đình và hiệp nhất bởi vinh quang trên trời. Ước gì gương sống của các ngài thúc đẩy người trẻ chân thành say mê tìm kiếm Sự Thật Tin Mừng; vén mở cho các bệnh nhân thấy giá trị cứu rỗi của khổ đau hiến dâng cho Thiên Chúa hiệp nhất với hy lễ của Thập Giá; và trợ lực các cặp vợ chồng mới cưới trong chứng tá quảng đại cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.
Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho tất cả.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 2000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-8-2009 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo.
Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chúng ta đang tới gần cuối tháng 8, và đối với nhiều người nó cũng có nghĩa là kết thúc kỳ nghỉ hè. Trong khi trở lại với các sinh hoạt thường ngày, làm sao lại không cảm tạ Chúa vì ơn qúy báu của thụ tạo, có thể thưởng thức, và không phải chỉ thưởng thức trong kỳ hè mà thôi. Các hiện tượng môi sinh đồi tệ và các tai ương thiên nhiên mà báo chí thường ghi nhận, cấp thiết mời gọi chúng ta phải tôn trọng thiên nhiên, bằng cách trong cuộc sống thường ngày biết phục hồi và đánh gía trở lại một tương quan đúng đắn với môi sinh. Liên quan tới các đề tài này khiến cho các giới chức và dư luận công cộng âu lo, cũng đang phát triển một sự nhậy cảm mới, được diễn tả ra trong nhiều cuộc hội họp cả trên bình diện quốc tế.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Trất đất là ơn qúy báu của Đấng Tạo Hóa. Ngài đã đặt định các trật tự nội tại và như thế cho chúng ta các dấu chỉ định hướng, cần phải tuân giữ trong tư cách là các người quản lý thụ tạo của Chúa. Chính từ ý thức đó mà Giáo Hội coi các vấn đề liên quan tới môi sinh và việc bảo vệ nó như gắn liền một cách mật thiết với đề tài phát triển con người toàn diện. Tôi đã nhiều lần đề cập tới vấn đề này trong thông điệp ”Yêu thương trong sự thật”, bằng cách nhắc lại sự cấp thiết luân lý của một tình liên đới mới (s. 49), không phải chỉ trong các tương quan giữa các nước, mà cả trong liên hệ giữa các cá nhân, bởi vì môi sinh được Thiên Chúa trao ban cho tất cả mọi người, và việc sử dụng nó bao gồm trách nhiệm cá nhân của chúng ta đối với toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người nghèo túng và các thế hệ tương lai (s. 48). Nhận thức được trách nhiệm chung đó đối với thụ tạo, Giáo Hội không chỉ dấn thân thăng tiến việc bảo vệ trái đất, nước và khí, do Đấng Tạo Hóa ban cho tất cả mọi người, mà cũng dấn thân bảo vệ con người chống lại sự tàn phá chính nó. Thật thế, khi ”môi sinh nhân bản” được tôn trọng trong xã hội, thì cả môi sinh thiên nhiên cũng được hưởng ích lợi” (ibid). Lại không đúng hay sao, khi việc sử dụng vô chừng mực thiên nhiên bắt đầu tại nơi nào Thiên Chúa bị loại bỏ ra bên lề hay tệ hại hơn cả sự hiện hữu của Ngài cũng bị chối bỏ? Nếu tương quan của con người với Đấng Tạo Hóa bị giảm bớt, thì vật chất bị giản lược thành chiếm hữu ích kỷ, con người trở thành đòi hỏi cuối cùng của nó, và mục đích của cuộc sống bị giản lược thành một cuộc chay đua mệt nhọc để chiếm hữu nhiều chừng nào có thể.
Đức Thánh Cha đã giải thích ơn gọi và trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên như sau:
Thiên nhiên, vật chất được Thiên Chúa cấu tạo một cách thông minh, như thế được giao phó cho trách nhiệm của con người, có khả năng giải thích nó và tái nhào nặn nó một cách tích cực, mà không tự coi mình là chủ nhân. Đúng hơn con người được mời gọi thi hành việc cai quản có trách nhiệm để giữ gìn thiên nhiên, làm cho nó sinh lợi và vun trồng nó, bằng cách tìm ra các tài nguyên cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng cho tất cả mọi người.
Với sự trợ giúp của chính thiên nhiên và với dấn thân của công việc làm và sáng chế của mình, nhân loại thực sự có khả năng chu toàn nhiệm vụ nghiêm trọng là trao ban cho các thế hệ mới một trái đất, mà tới phiên họ cũng có thể ở được một cách xứng đáng và và tiếp tục vun trồng nó (s. 50). Để có thể thực hiện được điều này, cần phải phát triển một giao ước giữa con người và môi sinh, phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa (Sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2008, 7), thừa nhận rằng chúng ta tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa và tất cả đều đang tiến tới với Ngài. Thật là quan trọng biết bao nhiêu, khi cộng đoàn quốc tế và các nước riêng rẽ biết đưa ra các dấu chỉ đúng đắn cho công dân của mình, để chống lại một cách hữu hiệu các kiểu sử dụng môi sinh gây thiệt hại cho nó! Các chi phí kinh tế và xã hội phát xuất từ việc sử dụng các tài ngyên môi sinh chung, được thừa nhận một cách trong sáng, phải do những người được hưởng chúng thanh toán, chứ không phải do các dân tộc khác hay các thế hệ tương lai. Việc bảo vệ môi sinh, bảo vệ các nguồn tài nguyên và khí hậu đòi hòi các giới hữu trách quốc tế phải hành động chung với nhau trong việc tôn trọng luật lệ và tình liên đới, nhất là đối với những vùng yếu đuối nhất của trái đất (s. 50).
Cùng nhau chúng ta có thể xây dựng một sự phát triển nhân bản toàn vẹn có lợi cho các dân tộc trong hiện tại và tương lai, một sự phát triển được linh hứng bởi các giá trị của tình yêu thương trong sự thật. Để cho điều ấy trở thành thực tại, cần phải hoán cải mô thức phát triển toàn cầu hiện nay hướng tới một sự chia sẻ trách nhiệm lớn hơn đối tới thụ tạo: không chỉ có các cấp thiết môi sinh đòi hỏi điều đó, mà cả gương mù gương xấu của nạn nghèo đói bần cùng nữa.
Rồi Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và lấy các lời của thánh Phanxicô thành Assisi trong Bài Ca Vạn Vật làm của chúng ta: ”Lậy Đấng Tối cao, quyền năng, lậy Chúa nhân lành, xin dâng Chúa lời chúc tụng, vinh quang, danh dự và mọi lời chúc tụng... Xin chúc tụng Chúa, lậy Chúa của con, với tất cả mọi thụ tạo”. Cả chúng ta nữa chúng ta cũng muốn cầu nguyện và sống theo tinh thần của các lời chúc tụng này.
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ba Lan. Trong tiếng Ý Đức Thánh Cha chào một nhóm các linh mục mừng Ngân Khánh ngày chịu chức và các đại chủng sinh tham dự cuộc gặp gỡ mùa hè do tổng giáo phận tổ chức. Ngài cầu chúc Năm Linh Mục, mà Giáo Hội đang cử hành, là dịp giúp từng người đào sâu giá trị sứ mệnh linh mục thừa tác trong Giáo Hội và trên thế giới.
Với các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói trong các ngày tới này phụng vụ mừng kính hai vị đại thánh là thánh nữ Monica và thánh Agostino, hai mẹ con hiệp nhất trong mối dây gia đình và hiệp nhất bởi vinh quang trên trời. Ước gì gương sống của các ngài thúc đẩy người trẻ chân thành say mê tìm kiếm Sự Thật Tin Mừng; vén mở cho các bệnh nhân thấy giá trị cứu rỗi của khổ đau hiến dâng cho Thiên Chúa hiệp nhất với hy lễ của Thập Giá; và trợ lực các cặp vợ chồng mới cưới trong chứng tá quảng đại cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.
Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho tất cả.
10 nữ tu Anh giáo Mỹ được đón nhận vào Giáo hội Công giáo.
Chu Văn
06:20 29/08/2009
Baltimore, Hoa kỳ [Catholic Review 27/08/2009] - 10 nữ tu Anh giáo Mỹ và tuyên úy của dòng được đón nhận vào Giáo hội Công giáo.
Sau 7 năm cầu nguyện và suy nghĩ, một cộng đồng nữ tu thuộc Giáo hội Anh giáo Hoa kỳ và vị tuyên úy của dòng đã xin gia nhập Giáo hội Công giáo. Nghi lễ đón nhận vào Giáo hội Công giáo sẽ được Ðức cha Edwin O'Brien, Tổng giám mục Baltimore cử hành vào ngày 3 tháng 9 năm 2009.
Trong nghi thức đón nhận, 10 nữ tu thuộc Dòng Các Thánh chuyên phục vụ người nghèo sẽ được chịu phép Thêm sức và tuyên khấn lại trong nhà nguyện của dòng tại Catonsville.
Cha Warren Tanghe, tuyên úy của Dòng, cũng sẽ được đón nhận vào Giáo hội Công giáo và đang nghĩ đến việc tiếp tục phục vụ Giáo hội như một linh mục Công giáo.
Nữ tu Christina Christie, bề trên cộng đồng nữ tu Anh giáo nói trên, nói rằng các nữ tu rất "phấn khởi" vì được tiếp nhận vào Giáo hội Công giáo.
Có hai nữ tu trong cộng đồng không muốn gia nhập vào Giáo hội Công giáo, nhưng vẫn tiếp tục đồng hành với các nữ tu khác.
Vẫn còn mặc áo dòng đen và lúp đen, từ nhiều chục năm qua, các nữ tu Anh giáo này luôn được giáo dân tại Catonsville kính trọng.
Xuất phát từ một dòng mẹ bên Anh, dòng các thánh chuyên phục vụ người nghèo đã được thành lập tại Baltimore từ năm 1872. Qua dòng lịch sử, các nữ tu chuyên phục vụ người nghèo và bệnh nhân Sida.
Ðức tin tông truyền và hiệp nhứt là hai lý do chính khiến các nữ tu này cảm thấy bị Giáo hội Công giáo thu hút. Nhiều người cảm thấy bị chao đảo sau khi Giáo hội Anh Giáo Hoa kỳ quyết định tiến hành phong chức giám mục cho phụ nữ và người có sinh hoạt đồng tính công khai.
Trong năm vừa qua, các nữ tu đã bỏ giờ học hỏi các văn kiện của Công đồng Vatican II. Ngoài việc phải chấp nhận tín điều về tính bất khả ngộ của Ðức giáo hoàng, các nữ tu cho biết họ không gặp khó khăn nào trong việc trau dồi thần học Công giáo.
Các chị đặc biệt bày tỏ lòng quí mến sâu xa đối với đức Benedicto XVI. Các chị nói rằng Ðức thánh cha thực thi một quyền bính mà các nhà lãnh đạo Anh giáo không có. Theo các nữ tu, sự hiệp nhứt mà Chúa Kitô đòi hỏi có thể tìm thấy trong Giáo hội Công giáo dưới sự lãnh đạo của Ðức giáo hoàng.
Sau 7 năm cầu nguyện và suy nghĩ, một cộng đồng nữ tu thuộc Giáo hội Anh giáo Hoa kỳ và vị tuyên úy của dòng đã xin gia nhập Giáo hội Công giáo. Nghi lễ đón nhận vào Giáo hội Công giáo sẽ được Ðức cha Edwin O'Brien, Tổng giám mục Baltimore cử hành vào ngày 3 tháng 9 năm 2009.
Trong nghi thức đón nhận, 10 nữ tu thuộc Dòng Các Thánh chuyên phục vụ người nghèo sẽ được chịu phép Thêm sức và tuyên khấn lại trong nhà nguyện của dòng tại Catonsville.
Cha Warren Tanghe, tuyên úy của Dòng, cũng sẽ được đón nhận vào Giáo hội Công giáo và đang nghĩ đến việc tiếp tục phục vụ Giáo hội như một linh mục Công giáo.
Nữ tu Christina Christie, bề trên cộng đồng nữ tu Anh giáo nói trên, nói rằng các nữ tu rất "phấn khởi" vì được tiếp nhận vào Giáo hội Công giáo.
Có hai nữ tu trong cộng đồng không muốn gia nhập vào Giáo hội Công giáo, nhưng vẫn tiếp tục đồng hành với các nữ tu khác.
Vẫn còn mặc áo dòng đen và lúp đen, từ nhiều chục năm qua, các nữ tu Anh giáo này luôn được giáo dân tại Catonsville kính trọng.
Xuất phát từ một dòng mẹ bên Anh, dòng các thánh chuyên phục vụ người nghèo đã được thành lập tại Baltimore từ năm 1872. Qua dòng lịch sử, các nữ tu chuyên phục vụ người nghèo và bệnh nhân Sida.
Ðức tin tông truyền và hiệp nhứt là hai lý do chính khiến các nữ tu này cảm thấy bị Giáo hội Công giáo thu hút. Nhiều người cảm thấy bị chao đảo sau khi Giáo hội Anh Giáo Hoa kỳ quyết định tiến hành phong chức giám mục cho phụ nữ và người có sinh hoạt đồng tính công khai.
Trong năm vừa qua, các nữ tu đã bỏ giờ học hỏi các văn kiện của Công đồng Vatican II. Ngoài việc phải chấp nhận tín điều về tính bất khả ngộ của Ðức giáo hoàng, các nữ tu cho biết họ không gặp khó khăn nào trong việc trau dồi thần học Công giáo.
Các chị đặc biệt bày tỏ lòng quí mến sâu xa đối với đức Benedicto XVI. Các chị nói rằng Ðức thánh cha thực thi một quyền bính mà các nhà lãnh đạo Anh giáo không có. Theo các nữ tu, sự hiệp nhứt mà Chúa Kitô đòi hỏi có thể tìm thấy trong Giáo hội Công giáo dưới sự lãnh đạo của Ðức giáo hoàng.
Hội đồng Giám mục Bồ đào nha hoan nghênh việc tổng thống nước này phủ quyết hôn phối của những người đồng tính.
Chu Văn
06:21 29/08/2009
Lisboa [Zenit 27/08/2009] - Hội đồng Giám mục Bồ Ðào Nha hoan nghênh việc tổng thống nước này phủ quyết dự luật nhìn nhận hôn phối của những người đồng tính.
Hôm thứ Hai 24 tháng 8 năm 2009, tổng thống Bồ Ðào Nha, ông Anibal Cavaco Silva, đã quyết định không cho ban hành luật nhìn nhận hôn phối của những người đồng tính.
Theo tin của hãng thông tấn "Ecclesia" của Giáo hội Công giáo Bồ Ðào Nha, tổng thống Silva đã cảnh cáo khuynh hướng muốn đặt hôn phối của người đồng tính ngang hàng với hôn phối của một người nam và một người nữ.
Ðức cha Jorge Ortiga, chủ tịch Hội đồng Giám mục Bồ Ðào Nha đã bày tỏ hoan hỉ trước quyết định của tổng thống Silva và khẳng định rằng đưa ra một luật mới về hôn phối của người đồng tính là một điều vội vã không đúng lúc. Ngài kêu gọi mở ra một cuộc tranh luận cho toàn thể xã hội. Ðức cha Ortiga nhấn mạnh: nếu có nhìn nhận các cuộc hôn phối này đi nữa, thì cũng không được phép xem chúng ngang hàng với hôn phối giữa một người nam và một người nữ.
Hôm thứ Hai 24 tháng 8 năm 2009, tổng thống Bồ Ðào Nha, ông Anibal Cavaco Silva, đã quyết định không cho ban hành luật nhìn nhận hôn phối của những người đồng tính.
Theo tin của hãng thông tấn "Ecclesia" của Giáo hội Công giáo Bồ Ðào Nha, tổng thống Silva đã cảnh cáo khuynh hướng muốn đặt hôn phối của người đồng tính ngang hàng với hôn phối của một người nam và một người nữ.
Ðức cha Jorge Ortiga, chủ tịch Hội đồng Giám mục Bồ Ðào Nha đã bày tỏ hoan hỉ trước quyết định của tổng thống Silva và khẳng định rằng đưa ra một luật mới về hôn phối của người đồng tính là một điều vội vã không đúng lúc. Ngài kêu gọi mở ra một cuộc tranh luận cho toàn thể xã hội. Ðức cha Ortiga nhấn mạnh: nếu có nhìn nhận các cuộc hôn phối này đi nữa, thì cũng không được phép xem chúng ngang hàng với hôn phối giữa một người nam và một người nữ.
Tin Giáo Hội Việt Nam
ĐGM Phaolô Cao Đình Thuyên ban phép Thêm sức tại gx Thượng Lộc Gp Vinh
Jos Trần Huyền
01:57 29/08/2009
VINH - Sáng nay, 29/08 ĐGM giáo phận chủ tế cùng 12 linh mục đồng tế đã dâng thánh lễ ban phép thêm sức cho 101 em trong tuần chầu đền tạ Thánh Thể của Giáo xứ.
Xem hình ảnh
Niềm hân hoan vui sướng biểu hiện trên khuôn mặt mọi người trong giáo xứ đặc biệt đối với các em được Đức Cha Phaolô Maria ban Chúa Thánh Thần.
Bài giảng trong thánh lễ Đức Cha nhấn mạnh: "Chúng con thân mến, chúng con sắp được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Chúng con sẽ vô cùng sung sướng vì được đón nhận lấy chính Chúa Thánh Thần. Là Thiên Chúa ngôi ba là đấng ban sự sống, đấng luôn phù trợ chúng con trong việc xây dựng tuổi trẻ của mình. Chúng con hãy cố gắng cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần, chúng con đã đón nhận ngọn đuốc từ tay các bậc phụ huynh, chúng con sẽ sống trong thế giới hiện đang diễn ra những biến đổi vĩ đại của lịch sử. Chỉ chúng con trong khi thừa hướng bao gương sáng đẹp nhất và nền giáo huấn của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo lý viên. Chúng con đang tiến tới việc kiến tạo các xã hội ngày mai, chúng con sẽ tự cứu được mình hay là sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy. Điều đó lệ thuộc vào cách sống đạo của các con bởi vậy, chúng con là những thành viên của Giáo Hội, là những chi thể của Giáo hội. Là chính Giáo Hội, chúng con phải cộng tác chặt ché với Giáo Hội. Để góp thêm phần tô điểm Giáo Hội ngày càng đệp đẽ hơn, góp bằng cách xây dựng cuộc sông của mình cho thật sự thánh thiện. Cho thật sự xứng đáng là con cái của Chúa Thánh Thần. Chốc nữa sau khi được đón nhận đức Chúa Thành Thần bằng việc đặt tay chúng con sẽ được đóng ấn Chúa Thánh Thần vào trong tâm hồn chẳng hay mất. Dầu đi đâu, ở đâu thì dấu ẩn ấy vẫn tỏ hiện để mọi người đươc biết chúng con là con cái của Chúa Thánh Thần bởi vậy cho nên chúng con cần phải cố gắng hơn. …"
Lạy Chúa Thánh Thần, thần linh của sự khôn ngoan, Thần Linh của sự thông minh, Thần linh ân đức biết lo liệu. Thần linh của sức mạnh, Thần khí sự hiếu biết, thần khí lòng đạo đức và thần khí kính mến Chúa. Xin đến giúp con người chúng con trên mọi nẻo đường sống, biết thắc mắc tìm theo ý Thiên Chúa hơn theo ý riêng của mình. Xin củng cố tâm hồn chúng con luôn sông theo bảy ơn đức của Ngài.
Xem hình ảnh
Niềm hân hoan vui sướng biểu hiện trên khuôn mặt mọi người trong giáo xứ đặc biệt đối với các em được Đức Cha Phaolô Maria ban Chúa Thánh Thần.
Bài giảng trong thánh lễ Đức Cha nhấn mạnh: "Chúng con thân mến, chúng con sắp được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Chúng con sẽ vô cùng sung sướng vì được đón nhận lấy chính Chúa Thánh Thần. Là Thiên Chúa ngôi ba là đấng ban sự sống, đấng luôn phù trợ chúng con trong việc xây dựng tuổi trẻ của mình. Chúng con hãy cố gắng cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần, chúng con đã đón nhận ngọn đuốc từ tay các bậc phụ huynh, chúng con sẽ sống trong thế giới hiện đang diễn ra những biến đổi vĩ đại của lịch sử. Chỉ chúng con trong khi thừa hướng bao gương sáng đẹp nhất và nền giáo huấn của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo lý viên. Chúng con đang tiến tới việc kiến tạo các xã hội ngày mai, chúng con sẽ tự cứu được mình hay là sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy. Điều đó lệ thuộc vào cách sống đạo của các con bởi vậy, chúng con là những thành viên của Giáo Hội, là những chi thể của Giáo hội. Là chính Giáo Hội, chúng con phải cộng tác chặt ché với Giáo Hội. Để góp thêm phần tô điểm Giáo Hội ngày càng đệp đẽ hơn, góp bằng cách xây dựng cuộc sông của mình cho thật sự thánh thiện. Cho thật sự xứng đáng là con cái của Chúa Thánh Thần. Chốc nữa sau khi được đón nhận đức Chúa Thành Thần bằng việc đặt tay chúng con sẽ được đóng ấn Chúa Thánh Thần vào trong tâm hồn chẳng hay mất. Dầu đi đâu, ở đâu thì dấu ẩn ấy vẫn tỏ hiện để mọi người đươc biết chúng con là con cái của Chúa Thánh Thần bởi vậy cho nên chúng con cần phải cố gắng hơn. …"
Lạy Chúa Thánh Thần, thần linh của sự khôn ngoan, Thần Linh của sự thông minh, Thần linh ân đức biết lo liệu. Thần linh của sức mạnh, Thần khí sự hiếu biết, thần khí lòng đạo đức và thần khí kính mến Chúa. Xin đến giúp con người chúng con trên mọi nẻo đường sống, biết thắc mắc tìm theo ý Thiên Chúa hơn theo ý riêng của mình. Xin củng cố tâm hồn chúng con luôn sông theo bảy ơn đức của Ngài.
Công chức Công Giáo Huyện Diễn Châu mừng lễ Thánh Bổn mạng Augustino
PV Yên Lý
02:13 29/08/2009
NGHỆ AN - Kỷ niệm ngày 28 tháng 8 năm 2007 – năm 2009. 3 năm, ngày thành lập công chức công Giáo Huyện Diễn Châu. Hôm nay gần 100 anh chị em Công chức công Giáo Huyện Diễn Châu long trọng mừng lễ kính Thánh Augutsino - Bổn mạng công chức công Giáo huyện Diễn Châu. Buổi gặp mặt diễn ra như sau:
Trước Thánh Lễ, vào lúc 15h anh chị em tập trung tại nhà thờ Giáo Xứ Yên Lý, tĩnh tâm, xưng tội và tập hát.
18h30 Thánh Lễ: Bài giảng trong thánh lễ Cha Giuse Trần Văn Phúc nói: “ …Sự sám hối của Thánh Augustino là sự trở về mẫu mực theo Tin mừng. Thiên Chúa không mời gọi con người trở về bằng hình thức nhưng là sự trở về bằng nội dung, để được bình an đích thực. Anh chị em đã chọn sự trở về theo Tin mừng thì hãy sống với niềm xác tín theo cách và môi trường tin mừng của anh chị em. …”
Kết lễ: Ban tổ chức cảm ơn Cha đồng hành, quý ban ngành Giáo Xứ Yên Lý.
Sau Thánh Lễ anh chị em câu nguyện 20 phút qua những hình ảnh mới nhất của biến cố Tam Toà và với nội dung trong lời nguyện như sau:
Lời nguyện 1:
Lạy chúa Giêsu
Xin cho chúng con dám hành động
Theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa
Xin dạy chúng con biết theo Chúa vô điều kiện
Vì Xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn chúng con
Chúa ngàn lần quảng đại hơn chúng con
Và Chúa yêu chúng con hơn cả chính chúng con
yêu chúng con
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá
Xin hãy cho bà con Giáo xứ Tam Toà hôm nay
Xin cho họ dám liều theo Chúa
Mà không tính toán thiệt hơn
Anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ
Can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim
Và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa
Ước gì khi dâng lên Chúa
Những hy sinh làm cho con tim họ rướm máu
Họ cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
Của người một hướng lòng theo Chúa
Xin Chúa nhận lời chúng con !
Lời nguyện 2:
Lạy các Thánh tử đạo Việt Nam
Các Ngài đã giám sống đến cuàng ơn gọi Kitô hữu
Trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm
Sự hy sinh của các Ngài
Cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
Và chết là cửa mở vào sự sống bất diệt
Dù mang phận người yếu đuối
Nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng
Các Ngài đã chiến thắng khải hoàn
Xin cầu cho con cái Địa Phận Vinh chúng con là con cháu của các Ngài
Biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
Trong mọi thế giới vắng bóng Thiên Chúa
Biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
Bằng một đời hiến thân phục vụ
Ước gì ngọn lửa đức tin
Mà các Ngài đã thắp lên
Bằng cuộc sống và cái chết
Được bừng toả trên Tổ Quốc Việt Nam
Ước gì máu thắm của các Ngài
Thấm vào mảng đất quê hương
Để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái
Xin Chúa nhậm lời chúng con !
Lời Nguyện 3:
Lạy Chúa Giêsu ! Cuộc sống cảu chúng con đang chịu nhiều bất công và thử thách xin Chúa ban cho các vị chủ chăn sự bình an, sức mạnh, lòng trí khôn ngoan và cả ơn can đảm để họ vượt lên tất cả mà chèo lái con thuyền Giáo Hội đến bến bình an
Lời nguyện 4:
Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống hôm nay đang chịu sự thống trị của sự ác, đau khổ và bất công. Chúng con cầu xin Chúa cho thế giới, tổ quốc và quê hương chúng con luôn được hoà bình và thịnh vượng, để chúng con sống đúng nhân phẩm của minh.
Xin cho chúng các nhà lảnh đạo biết tìm hạnh phúc và công ích cho dân nước, cho chúng con người giàu biết sống quảng đại chia sẻ với người nghèo
Xin Chúa nâng đỡ những người đau khổ và đặc biệt là bà con giáo xứ Tam Toà hôm nay để họ luôn biết hướng nhìn lên Chúa là nguồn an ủi và xin Chúa chúc lành cho mọi dự định của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen !
Trước Thánh Lễ, vào lúc 15h anh chị em tập trung tại nhà thờ Giáo Xứ Yên Lý, tĩnh tâm, xưng tội và tập hát.
18h30 Thánh Lễ: Bài giảng trong thánh lễ Cha Giuse Trần Văn Phúc nói: “ …Sự sám hối của Thánh Augustino là sự trở về mẫu mực theo Tin mừng. Thiên Chúa không mời gọi con người trở về bằng hình thức nhưng là sự trở về bằng nội dung, để được bình an đích thực. Anh chị em đã chọn sự trở về theo Tin mừng thì hãy sống với niềm xác tín theo cách và môi trường tin mừng của anh chị em. …”
Kết lễ: Ban tổ chức cảm ơn Cha đồng hành, quý ban ngành Giáo Xứ Yên Lý.
Sau Thánh Lễ anh chị em câu nguyện 20 phút qua những hình ảnh mới nhất của biến cố Tam Toà và với nội dung trong lời nguyện như sau:
Lời nguyện 1:
Lạy chúa Giêsu
Xin cho chúng con dám hành động
Theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa
Xin dạy chúng con biết theo Chúa vô điều kiện
Vì Xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn chúng con
Chúa ngàn lần quảng đại hơn chúng con
Và Chúa yêu chúng con hơn cả chính chúng con
yêu chúng con
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá
Xin hãy cho bà con Giáo xứ Tam Toà hôm nay
Xin cho họ dám liều theo Chúa
Mà không tính toán thiệt hơn
Anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ
Can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim
Và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa
Ước gì khi dâng lên Chúa
Những hy sinh làm cho con tim họ rướm máu
Họ cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
Của người một hướng lòng theo Chúa
Xin Chúa nhận lời chúng con !
Lời nguyện 2:
Lạy các Thánh tử đạo Việt Nam
Các Ngài đã giám sống đến cuàng ơn gọi Kitô hữu
Trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm
Sự hy sinh của các Ngài
Cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
Và chết là cửa mở vào sự sống bất diệt
Dù mang phận người yếu đuối
Nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng
Các Ngài đã chiến thắng khải hoàn
Xin cầu cho con cái Địa Phận Vinh chúng con là con cháu của các Ngài
Biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
Trong mọi thế giới vắng bóng Thiên Chúa
Biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
Bằng một đời hiến thân phục vụ
Ước gì ngọn lửa đức tin
Mà các Ngài đã thắp lên
Bằng cuộc sống và cái chết
Được bừng toả trên Tổ Quốc Việt Nam
Ước gì máu thắm của các Ngài
Thấm vào mảng đất quê hương
Để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái
Xin Chúa nhậm lời chúng con !
Lời Nguyện 3:
Lạy Chúa Giêsu ! Cuộc sống cảu chúng con đang chịu nhiều bất công và thử thách xin Chúa ban cho các vị chủ chăn sự bình an, sức mạnh, lòng trí khôn ngoan và cả ơn can đảm để họ vượt lên tất cả mà chèo lái con thuyền Giáo Hội đến bến bình an
Lời nguyện 4:
Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống hôm nay đang chịu sự thống trị của sự ác, đau khổ và bất công. Chúng con cầu xin Chúa cho thế giới, tổ quốc và quê hương chúng con luôn được hoà bình và thịnh vượng, để chúng con sống đúng nhân phẩm của minh.
Xin cho chúng các nhà lảnh đạo biết tìm hạnh phúc và công ích cho dân nước, cho chúng con người giàu biết sống quảng đại chia sẻ với người nghèo
Xin Chúa nâng đỡ những người đau khổ và đặc biệt là bà con giáo xứ Tam Toà hôm nay để họ luôn biết hướng nhìn lên Chúa là nguồn an ủi và xin Chúa chúc lành cho mọi dự định của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen !
Ngày Huynh Đệ Giáo Hội Việt Nam & Hoa Kỳ Năm 2009
Giuse Đặng Văn Kiếm
02:36 29/08/2009
Từ tháng 8 năm 1999, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam và Hoa Kỳ đã chọn Chúa nhật XXII Mùa Phụng vụ Thường niên hằng năm làm ngày kết thân huynh đệ giữa hai Giáo hội. Mục đích chính của ngày này là để hai Giáo hội đặc biệt hiệp thông liên kết cầu nguyện với nhau và cho nhau. Ngày huynh đệ năm 2009 là Chúa nhật ngày 30 tháng 8.
Năm nay, Ngày Huynh Đệ Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ vừa được tròn 10 tuổi. Hai Giáo hội càng ngày càng có những sự liên đới và hiệp thông với nhau nhiều hơn. Các vị chủ chăn của hai Giáo hội đã thực hiện nhiều cuộc thăm viếng, gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi nhằm đáp ứng những nhu cầu mục vụ cụ thể cho cộng đồng dân Chúa của hai quốc gia.
Trong chiều hướng đó, mới đây từ ngày 15 tới 24 tháng 8 năm 2009, Đức cha William Stephen Skylstad, Giám mục Giáo phận Spokane, Washington, nguyên Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã đến thăm cả ba Giáo tỉnh Huế, Sài Gòn và Hà Nội. Cùng đi với Đức cha Skylstad có Linh mục Joachim Lê Quang Hiền, Ủy viên Giao tế của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, và bà Virginia Farris, nhân viên Ủy ban Chính sách Quốc tế thuộc HĐGMCGHK.
Nhân ngày này, chúng ta cùng nhau nhìn lại một số những sự kiện hay tiến trình liên hệ giữa hai Giáo hội Việt Nam và Hoa Kỳ, do Ủy ban Giao tế và Liên lạc của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ ghi nhận sau đây.
HÀNH TRÌNH HIỆP THÔNG VÀ LIÊN ĐỚI HAI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
Hiệp thông và Liên đới là nét đặc trưng của mối tương giao giữa hai Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ và Hội đồng Giám mục Việt Nam, như đã được Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhấn mạnh trong bài diễn văn phát biểu trước phiên họp khoáng đại của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ ngày 10-11-2003 tại Washington, DC.
Lược qua tiến trình liên hệ giữa hai Hội đồng Giám mục, đặc biệt trong những năm gần đây, có thể cho chúng ta một cái nhìn khá trung thực về mối giây Hiệp thông và Liên đới ấy, đồng thời cảm nhận được niềm hy vọng cho một viễn tượng tốt đẹp hơn nữa giữa hai Giáo hội tại Việt Nam và Hoa Kỳ.
A. Trước ngày thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam
Lịch sử của hai quốc gia và hai Giáo hội sẽ đào sâu hơn về cội nguồn của mối liên hệ thân tình hôm nay. Trong phạm vi đơn giản của bài này, chúng ta nhận thấy trong lịch sử cận đại việc tiếp xúc giữa hai dân tộc và hai Giáo hội khơi nguồn từ những cá nhân và đoàn thể đi tìm một chân trời mới cho “vấn đề Việt Nam” sau hai thế chiến.
Các chính khách đi tìm giải pháp chính trị. Một số các nhà lãnh đạo tôn giáo đi tìm trao đổi một hiệp thông trong đức tin và trong việc đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ cho một Việt Nam thời hậu chiến; thế nên một số các Linh mục, Tu sĩ Việt Nam đã được gửi đi du học tại các đại học và chủng viện Hoa Kỳ đầu thập niên 1950.
Để nâng đỡ nhau và để gìn giữ giây liên lạc với Giáo hội bên nhà, các anh chị em giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam du học khắp nơi đã quy tụ lại thành những Hội Sinh Viên Công Giáo Việt Nam hoặc Hội Liên Tu Sĩ quốc gia, hay liên quốc gia, từ Âu, Á sang Mỹ châu. Nhiều hội đoàn ái hữu này về sau đã biến thành những Ban Tuyên Úy, hoặc Cộng Đồng Giáo Sĩ Tu Sĩ vẫn với mục đích ái hữu tương trợ lẫn nhau, đồng thời để chia sẻ công tác mục vụ cho khối di dân tỵ nạn đến từ Việt Nam.
Có thể nói mối liên hệ giữa một số các Giám mục Việt Nam và hàng giáo phẩm Hoa Kỳ trong thời Hiệp Định Genève chủ yếu nhắm tới nhu cầu tị nạn từ Bắc vào Nam. Và tiếp nối trong thời chiến tranh Việt Nam, mối liên hệ đó vẫn thường nằm trong khuôn khổ Cứu Trợ Công Giáo đặc biệt qua các chương trình dinh điền, định cư tại miền Nam Việt Nam.
B. Từ sau ngày thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam
Đại Hội Giám mục toàn quốc năm 1980 với Thư Chung công bố việc thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam đã mở đầu cho việc nối kết một nhịp cầu mới với các Hội đồng Giám mục trên thế giới, đặc biệt là với Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ.
1. Phía Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ
a) Giai đoạn 1972-1989
- Năm 1972, đang giữa cuộc chiến, quan tâm đến những thống khổ người dân Đông Nam Á phải chịu, Hội đồng Công giáo (lúc đó là ngành lo “việc đời, việc xã hội” cuả các Giám mục Hoa Kỳ) đã kêu gọi dân chúng Mỹ nhiệt tâm ủng hộ các chương trình cứu trợ và tái thiết Việt Nam.
- Tháng 11 năm 1975, Hội đồng Công giáo của các ngài đã đệ trình đến Quốc hội chứng từ “Đông Dương: thuyền chứa các thương tích của chiến tranh” thúc giục việc tu chỉnh lại “Sắc luật về Kinh doanh với Kẻ địch” nhằm cho phép các tàu hàng tư nhân chuyển tải các vật dụng tiếp cứu đến trong vùng.
- Tháng 12 năm 1975, vị Tổng Thư ký của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã ký vào lời kêu gọi “Hòa giải và Tái thiết Đông Dương thời hậu chiến” của Ủy Ban Tổng Thư ký Hội Đồng Liên Tôn nhằm cổ động bãi bỏ vụ phong tỏa mậu dịch và cung cấp vật liệu cứu trợ tái thiết.
Phải nói ưu tiên hàng đầu của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong giai đoạn hậu chiến cho đến cuộc viếng thăm chính thức đại diện cho Hội đồng do các Đức Tổng Giám mục Roger Mahony, Theodore McCarrick và Edward O’Meara từ 4 đến 9 tháng 1, 1989 nhằm trực tiếp tích cực giúp đỡ, cũng như thúc đẩy chính quyền Hoa Kỳ đẩy mạnh các chương trình tỵ nạn, cứu trợ, và đoàn tụ, hỗ trợ công cuộc tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích, khai mở mậu dịch tư nhân hầu xoa dịu vết thương chiến tranh và tái thiết Việt Nam.
Một điểm son cần lưu ý trong giai đọan này là Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã đi tiên phong trong việc đón nhận, giúp định cư và hòa hợp vào đời sống Mỹ của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn. Các văn phòng di dân tỵ nạn thuộc các giáo phận cũng như các giáo xứ và đoàn thể công giáo đã sát cánh với các cơ quan xã hội của chính quyền làm việc rất đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập rất phức hợp và bao la này.
b) Giai đoạn từ năm 1989 đến hiện tại
Một cách chính thức, các Giám mục Hoa Kỳ đã đi bước đầu để nối kết quan hệ giữa hai Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ; điểm này đã được chính Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam xác nhận trong bài diễn văn trước toàn thể Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn ngày 10-11-2003. Bước đầu tiên chính thức đến từ lá thư do Đức Tổng Giám mục John L. May, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ lúc ấy, gửi cho Đức Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn ngày 13-8-1988 đề nghị một cuộc viếng thăm Việt Nam vào năm sau, 1989.
Sau nhiều lần hội ý với các cơ quan hữu trách liên hệ, đoàn đại diện Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ do Đức TGM Roger Mahony hướng dẫn, từ 4 đến 9 tháng 1 năm 1989, đã đến thăm và gặp gỡ với Đức Hồng y Căn, các Giám mục, cũng như một số giới chức chính quyền Việt Nam tại Hà Nội và Sài Gòn… Như bản tường trình sơ khởi về chuyến đi được gửi tới Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ ngày 17-1-1989 xác nhận, “cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng rất hữu ích” được thực hiện với một số lý do chính yếu và rõ rệt sau đây:
(1) Để bày tỏ sự yểm trợ và mối quan tâm của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ dành cho Giáo hội và dân tộc Việt Nam;
(2) Để thảo luận với các nhà lãnh đạo Giáo hội Việt Nam về phương cách tốt đẹp nhất Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ có thể trợ giúp dân tộc Việt Nam;
(3) Để khai mào một cuộc đối thoại cởi mở, chân thành và xây dựng với các giới chức chính quyền Việt Nam về một số vấn đề hệ trọng, đặc biệt các vấn đề về tự do tôn giáo, các nhu cầu nhân sự của dân chúng Việt Nam, các vấn đề di trú và tỵ nạn, và mối quan tâm của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ với các quân nhân Hoa Kỳ mất tích và một số vấn đề khác;
(4) Để nối lại và bày tỏ liên hệ đoàn kết giữa cộng đồng Công giáo Hoa Kỳ - nay gồm nhiều tín hữu Việt Nam - và Giáo hội cùng dân tộc Việt Nam.
Năm tháng sau, trong cuộc họp khoáng đại bán niên ngày 17 tháng 6 năm 1989, các Giám mục Hoa Kỳ đồng chấp thuận và công bố bản Tuyên ngôn “A Time for Dialogue and Healing: A pastoral Reflection on United States - Vietnam Relations” (“Thời Điểm để Đối Thoại và Thuyên Chữa: Tuyên Ngôn Mục Vụ về Liên Hệ Việt-Mỹ”) do Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ phát hành, (bản dịch Việt ngữ của Đồng Tâm, Trung Tâm Mục Vụ Đông Nam Á, Portland, Oregon).
Đây là một “suy tư mục vụ” nền tảng chỉ đạo cho các mối tương giao của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đối với các vấn đề Việt Nam từ đó đến nay.
Lời mở đầu nêu lên ý thức sáng rõ của các ngài về thực tế phức tạp của “vấn đề Việt Nam” , đồng thời xác định vai trò mục tử và tình liên đới huynh đệ của các ngài với hàng Giám mục và dân chúng Việt Nam.
“Chúng tôi đề cập đến vấn đề phức tạp và bất ổn này là mối bang giao Việt-Mỹ và những vấn đề rộng lớn hơn liên quan tới Đông Nam Á, với tư cách là những chủ chiên thấu hiểu nỗi đau khổ, sự phân ly và mất mát do chiến tranh tàn khốc gây ra. Chúng tôi lên tiếng với tư cách là chủ chiên đi tìm kiếm cơ hội để mang lại một tiếng nói hòa giải và một niềm hy vọng khai mào cho một cuộc đối thoại xây dựng, và với tư cách là giảng sư Phúc Âm của Công Bằng và Hòa Giải.
“Chúng tôi không thể thay lời cho Giáo hội tại Việt Nam, nhưng chúng tôi muốn sát cánh với Giáo hội ấy và hợp lực với chư huynh Giám mục Việt Nam trong chiều hướng xây dựng một mối liên hệ tốt đẹp hơn cho hai dân tộc chúng ta, một mối liên hệ dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của tất cả mọi dân tộc.”
Trong phần kết, các ngài nhấn mạnh: “Chúng tôi tin tưởng rằng nay đã đến lúc phải tiến xa hơn cái di sản chiến tranh, để bắt đầu đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp của những nạn nhân cuộc chiến, ngõ hầu có thể đề cập tới những khó khăn và tới cơ hội chuẩn bị cho một sự liên hệ tốt đẹp hơn giữa nhân dân Hoa Kỳ và Việt Nam.”
Đề cao Đối Thoại như là “phương tiện hữu hiệu để Giải quyết những Nhu cầu và Vấn đề Quan trọng” , các Giám mục Hoa Kỳ đã chân thành và thẳng thắn nêu lên một số các vấn đề đáng quan tâm lúc bấy giờ, cũng như một số vẫn còn có giá trị tồn đọng cần được lưu ý giải quyết hôm nay:
(1) Quan trọng hàng đầu là tất cả mọi người dân Việt Nam phải được hưởng một cách đầy đủ trọn vẹn, bất kể họ theo tôn giáo nào, thứ quyền cốt yếu nhất của con người là quyền tự do tôn giáo;
(2) Phóng thích ngay tức khắc các vị linh mục, tu sĩ, quí sư, và mục sư từ các trại giam cho họ trở về các thánh đường, miếu đền, chùa chiền để họ có thể thi hành phận sự mục vụ của họ cách tự do, cũng như phải sớm thả số người hiện còn bị lưu giữ tại các trại học tập cải tạo chính trị, những người bị quản thúc tại gia và xúc tiến thủ tục di trú cho những ai muốn rời Việt Nam;
(3) Phát triển một môi trường chính trị trong đó mọi người dân Việt Nam được hưởng các nhân quyền căn bản;
(4) Giải quyết số quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích;
(5) Chấm dứt sự hiện diện quân sự tại Cam Bốt;
(6) Giúp các gia đình ly tán và những ai hội đủ điều kiện rời Việt Nam trong Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự được hoàn tất thủ tục xuất cảnh mau lẹ hơn nữa;
(7) Xúc tiến thủ tục di trú cho các trẻ em Mỹ lai muốn xuất ngoại với các thân nhân hội đủ điều kiện.
Không ngừng chân thành và thẳng thắn đối thoại là cách hành xử nhất thống của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong suốt quá trình liên lạc với nhà cầm quyền tại Việt Nam. Đây cũng là một cách bày tỏ cụ thể mối hiệp thông và tình liên đới với hàng Giám mục Việt Nam cũng như với các tôn giáo bạn và dân chúng Việt Nam.
Thật vậy, kể từ ngày công bố Tuyên ngôn quan trọng nói trên, mỗi lần có biến chuyển nào liên hệ đến hai quốc gia và hai Giáo hội, thì qua các cơ quan đại diện chính thức của mình, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đều lên tiếng khẳng định lại lập trường Hiệp thông và Liên đới với Hội đồng Giám mục và nhân dân Việt Nam:
- Bảy tháng sau ngày Tổng thống Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh phong toả mậu dịch đối với Việt Nam (3-2-1994), Đức Cha Daniel P. Reilly, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế của Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ, qua Tuyên ngôn ký ngày 15-9-1994, đã lên tiếng đón nhận quyết định đó, nhưng đồng thời cũng nhắc lại mối quan tâm đặc biệt của các Giám mục Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo, về việc tiếp tục giúp tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích tại Việt Nam, cũng như về số phận trôi nổi của hàng chục ngàn người tỵ nạn, các trẻ em Mỹ lai, các nạn nhân Hoá Chất Màu Cam. Đức cha Reilly kết luận:
“Tự do Tôn giáo luôn là tiêu chuẩn cần yếu cho việc thăng tiến tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Là những người ủng hộ và cổ động cho việc thăng tiến tương giao giữa hai dân tộc, chúng tôi quyết tâm bảo vệ các quyền lợi và giá trị nhân phẩm của mọi tín hữu tại Việt Nam.”
- Cùng ngày Tổng thống Clinton công bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, 11-7-1995, một lần nữa Đức cha Daniel P. Reilly đón nhận tin này, và một lần nữa ngài nhắc lại những mối quan ngại nói trên. Qua bản “Công bố về việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam” ngày 11-7-1995, Đức cha Reilly trích lại đoạn này trong “Tuyên ngôn Mục Vụ về Liên Hệ Việt-Mỹ” năm 1995:
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng sự hiện diện chính thức và sự đối thoại liên tục không hề là dấu chỉ sự công nhận hay không một chế độ, nhưng sự thiết lập một cơ quan chính thức sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên, nhờ đó các khó khăn có thể được thảo luận, và có khi được giải quyết… (sự đối thoại này - như chúng tôi đã không ngớt kêu gọi - phải bao gồm mối quan tâm liên tục cho quyền làm người, quyền tự do tôn giáo, và sự thành tâm tìm kiếm công bình)”.
- Từ 26-8 đến 2-9 năm 1999, một phái đoàn gồm các Giám mục thuộc các ủy ban có liên hệ đến Việt Nam của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, do chính Đức cha Chủ tịch Joseph A. Fiorenza hướng dẫn đã đi thăm viếng Việt Nam theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua thư của Đức Hồng y Chủ tịch Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng.
Chuyến đi này được nhiều người ở Việt Nam nhắc tới như là một chuyến đi lịch sử của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Chuyến đi lịch sử vì phái đoàn gặp gỡ, qui tụ được nhiều cơ quan, đoàn thể, đạo, đời, Mỹ, Việt khắp cả ba miền đoàn đã đi qua. Đặc biệt trong Thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ Chánh Toà Hà Nội hôm Chúa nhật 29-8-1999, Đức Hồng y Tụng thay lời cho các Giám mục Việt Nam đã đề nghị lấy ngày Chúa nhật XXII thường niên hằng năm là ngày Giáo hội hai bên cầu nguyện cho nhau. Lời đề nghị chân tình này đã được phái đoàn Hoa Kỳ vui mừng đón nhận và đông đảo toàn thể giáo dân nhiệt liệt tán thành.
Trưa hôm sau, dưới tượng đài Đức Mẹ tại Linh địa La Vang, Tổng Giáo phận Huế, sau khi lược qua lịch sử Mẹ La Vang và hiện tình hai quốc gia, bằng một giọng chân thành cảm động Đức cha Fiorenza đã đại diện cho Giáo hội Hoa Kỳ “xin nhận Đức Mẹ La Vang là Mẹ của Giáo hội và dân tộc Hoa Kỳ.”
Trong cuộc họp mặt huynh đệ với các giáo sĩ và tu sĩ tại Toà Tổng Giám mục Sài Gòn, Đức cha Fiorenza đã ca ngợi niềm tin Công giáo sâu đậm của giáo dân Việt Nam, cũng như số ơn gọi tu trì thật đông đảo tại Việt Nam, và ngài mời gọi Giáo hội Việt Nam quảng đại đáp ứng cho nhu cầu truyền giáo bao la của Á Châu. Phái đoàn đã đi thăm một số chủng viện, dòng tu nam nữ, cô nhi viện, chẩn y viện, và cử hành Thánh lễ đồng tế tại ba Nhà thờ Chánh Toà của cả ba Tổng Giáo phận.
Tại Hà Nội, Huế, cũng như ở Sài Gòn, phái đoàn đã được các cấp chính quyền tiếp đón, trao đổi một cách cởi mở chân thật và sáng rõ về một số vấn đề thiết thực liên hệ đến các ủy ban Giám mục trong phái đoàn như Ủy ban Di dân và Tỵ nạn với Đức cha John Cummins, Cơ quan Cứu trợ Công giáo với Đức cha John Ricard, Ủy ban Chính sách Quốc tế với Đức Hồng Y McCarrick, cựu Tổng Giám mục Washington, DC.
Với các giới chức Việt Nam cũng như các viên chức Toà Đại sứ quán Hoa Kỳ, phái đoàn luôn nêu cao những thành đạt khả quan về mọi mặt được chứng kiến tại Việt Nam, đồng thời cũng khuyến khích chính quyền Việt Nam cần nới rộng hơn nữa các hạn chế nhất là về tự do tôn giáo. Phái đoàn cũng nhắc đến ước nguyện đi thăm viếng Việt Nam của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II; chính quyền Việt Nam hoan hỉ đón nhận và bày tỏ ý muốn một ngày không xa sẽ được dịp tiếp đón Đức Giáo hoàng.
Hầu hết ở mỗi nơi phái đoàn đến viếng thăm, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đều nói lời khen ngợi về những đóng góp và gương sáng đức tin người Công giáo Việt Nam đã mang đến cho Giáo hội Hoa Kỳ, nhất là đã đóng góp thật nhiều ơn gọi tu sĩ, linh mục cho các giáo phận Hoa Kỳ trong mấy thập niên vừa qua. Những tâm tình, nhận thức và chia sẻ chân thực này được gói ghém trong Bản Nhận định “Hoà bình, Hoà giải và Tự do Tôn giáo tại Việt Nam” của Đức cha Chủ tịch Fiorenza, công bố ngày 24-11-1999, hai tháng sau chuyến đi lịch sử nói trên.
- Tiếp tục đẩy mạnh những cải cách và nới rộng cần yếu về tự do tôn giáo tại Việt Nam, ngày 16-5-2001, ông Thomas E. Quigley, cố vấn về chính sách Á châu thuộc Văn phòng Phát triển Xã hội và Hoà bình Thế giới của Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ đã trình bày trong phiên họp về Nhân Quyền của Quốc hội Mỹ với đề tài “Ngược đãi Tôn giáo tại Việt Nam,” nói riêng đối với Giáo hội Công giáo. Lược qua lịch sử cận đại, đặc biệt là hơn thập niên sau ngày thống nhất Nam - Bắc năm 1975, cùng với các tôn giáo khác, Giáo hội Công giáo đã bị áp chế nặng nề. Từ năm 1989, thái độ của chính quyền đã cởi mở hơn, tuy nhiên việc tuyển lựa, bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân sự; việc xuất bản sách báo, mở mang trường học, việc hoàn trả các cơ sở đã bị tịch biên… vẫn còn tiến triển rất chậm.
- Ngày 28-4-2004, Đức cha John H. Ricard, SSJ, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế đã gửi đến Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nguyễn Tâm Chiến, nhờ chuyển đến nhà cầm quyền Việt Nam mối quan tâm đặc biệt của Giáo hội Hoa Kỳ về trường hợp áp bức tôn giáo đối với người Dân tộc Dega ở Cao nguyên Trung phần, và về việc giảm án cho cha Nguyễn Văn Lý. Ngài cũng đề cập đến “sự khôn ngoan” của việc chính thức thành lập bang giao với Toà Thánh.
- Nhân cuộc viếng thăm huynh đệ đáp lễ của phái đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam từ 7 đến 14 tháng 11, 2003 tại Washington DC, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ qua các cuộc gặp gỡ với các ngài, đã thắt chặt thêm tình huynh đệ và chia sẻ với nhau một cách chân thành thẳng thắn những niềm vui cũng như những ưu tư lo lắng trong đời mục vụ của mình, đồng thời cũng tái khẳng định niềm cảm mến và nỗ lực quan tâm tới các vấn đề Giáo hội Việt Nam còn đang đối diện.
Ngoài những mối giây liên lạc chính thức trong tư cách Hội đồng Giám mục với nhau, đã có khá nhiều cuộc thăm viếng cá nhân của một vài Hồng y, Giám mục, Bề trên các Dòng tu tại các giáo phận và cơ quan đạo đời, trong đó có chuyến đi của Đức Hồng y Law, Tổng Giám mục Boston, cuối tháng 8 năm1991.
Một cách cụ thể đặc biệt biểu trưng cho tình liên đới với Giáo hội và dân tộc Việt Nam, nhất là với những người thiếu may mắn trong xã hội, Cơ quan Cứu trợ Công giáo (CRS, Catholic Relief Services) trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sau nhiều năm chuẩn bị đã được phép vào mở Văn phòng ở Hà Nội năm 1994 và hiện nay cũng có đại diện ở Sài Gòn, chủ yếu nhằm khuyến khích và tài trợ sinh hoạt giáo dục, giúp các trẻ em khuyến tật, ngăn ngừa lũ lụt, cũng như các dự án cấp cứu khác trên toàn cõi Việt Nam.
Hỗ trợ cho các công tác cứu trợ khẩn cấp đặc biệt là các vụ bão tố lũ lụt thường tàn phá các vùng duyên hải Việt Nam, các Giám mục Hoa Kỳ cho phép và nhiều khi cổ động lạc quyên trong các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam để trực tiếp, hoặc qua CRS, gửi về giúp đỡ các gia đình nạn nhân.
Nét Đặc Trưng Về Mối Liên Hệ
Qua những tài liệu và dữ kiện trên, chúng ta có thể rút ra được một ít nét đặc trưng sau đây về mối liên hệ của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đối với Hội đồng Giám mục Việt Nam:
(1) Tâm tình tương kính huynh đệ: Ngay từ những liên hệ đầu tiên, phải nói đây là điểm nổi bật nhất trong tương giao Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ dành cho Hội đồng Giám mục Việt Nam. Không chỉ trong tuyên ngôn, tuyên cáo mà trên thực tế gặp gỡ giữa anh em Giám mục với nhau, bầu khí thân tình, tương kính này là nét ai cũng thấy rõ bất cứ ở đâu.
(2) Tiên phong trong việc giao tế: Ý thức trách nhiệm liên đới trong hàng Giám mục Hoa Kỳ đối với Giáo hội và dân tộc Việt Nam rất cao, thế nên các ngài đã đi bước trước trong việc lên tiếng cứu trợ nhân đạo cho các thuyền nhân, nạn nhân, cũng như đã cử đoàn đại diện đến thăm Việt Nam năm 1989, đặc biệt chính Đức cha Chủ tịch đã nhanh chóng đáp lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn phái đoàn đến thăm cả ba Giáo tỉnh Việt Nam năm 1999.
(3) Nhãn quan thế giới, hướng tới tương lai: Mối liên hệ đối với Việt Nam nói chung và Hội đồng Giám mục Việt Nam nói riêng được các Giám mục Hoa Kỳ đặt trong một địa bàn quốc tế: nhìn theo hướng đi được Phúc Âm hướng dẫn của Toà Thánh, và tầm quan yếu của đất nước và Giáo hội Việt Nam trong vùng Á châu, đặc biệt là vai trò trọng yếu của các vị thừa sai tương lai của Việt Nam trước cánh đồng truyền giáo bao la đầy thách đố và đầy hy vọng của thế giới hôm nay.
Các ngài ý thức sâu xa không chỉ những quan tâm và nhu cầu trước mắt, nhưng còn nhắm tới cả con đường trước mặt trong quan hệ giữa hai Hội đồng và hai Quốc gia. Do đó, các quyết định liên quan đến mối tương giao này đều được cân nhắc trong viễn ảnh rộng rãi và lâu dài đó.
Với nhiều biến cố xảy ra dồn dập nhất là từ sau cuộc chiến tại Việt Nam; với lượng giao thông, du lịch, trao đổi văn hoá, y tế, khoa học, mậu dịch… ngày càng tăng triển nhanh chóng và hỗn hợp, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ thường giữ một thái độ quân bình cẩn trọng và nhẹ nhàng trong các nhận định có căn bản và cân nhắc mực thước của mình, nhằm đạt đến hiệu năng tối đa trong việc duy trì và phát triển mối hiệp thông và tình liên đới đối với Hội đồng Giám mục và Giáo hội tại Việt Nam.
Ngay cả những khi cần can đảm kịp thời lên tiếng để bênh vực công lý hoặc cổ võ cho một công tác nhân đạo, từ thiện nào, tiêu chuẩn mở rộng, lắng nghe nhẹ nhàng nhưng hữu hiệu này vẫn luôn được các ngài trân trọng giữ gìn.
(4) Tinh thần trách mhiệm mục tử: Là mục tử của nửa triệu người Công giáo Việt Nam, các Giám mục Hoa Kỳ lưu ý và quan tâm đến tình tự gia đình và dân tộc rất sâu xa nơi giáo dân Việt Nam. Cảm nhận được những đau thương của quá khứ còn hằn đậm trong ký ức và tâm khảm của nhiều người đã giúp các ngài có một ý thức, một mối đồng cảm bén nhạy hơn về vai trò mục tử của mình trong tương quan với Hội đồng Giám mục cũng như với các giới hữu trách khác tại Việt Nam.
Mối đồng cảm về chiều sâu lịch sử, lòng cảm phục đối với nếp sống đạo đức truyền thống từ quê Mẹ Việt Nam đã được các ngài nêu lên trong các tuyên ngôn mục vụ cho người di dân tỵ nạn, rõ rệt nhất là trong tài liệu chỉ đạo căn bản do các ngài phổ biến đầu năm 2002 “Sự hiện diện của người gốc Châu Á và Thái Bình Dương: Hoà hợp trong Đức Tin.” (“Asian and Pacific Presence: Harmony in Faith”)
Có thể nói chính vì tinh thần trách mhiệm mục tử và vì mối đồng cảm với nền văn hoá và đạo lý của con cái Á châu, trong đó người Việt giữ một vai trò và ảnh hưởng khá lớn, mà các ngài đã tự cam kết “duy trì sự liên lạc có hệ thống với Liên đoàn các Hội đồng Giám mục Á Châu và Châu Đại Dương để phát triển một nền thần học trong bối cảnh Châu Á và Thái Bình Dương, và cũng để phát triển một chính sách trao đổi nhân sự…” (Đáp Ứng Mục Vụ số 8).
2. Phía Hội đồng Giám mục Việt Nam:
a) Giai đoạn hình thành và khai mở liên lạc (1980-1996)
Như đã nhấn mạnh ở trên, Đại Hội đồng Giám mục Việt Nam đầu tiên họp tại Hà Nội từ 24-4 đến 1-5-1980 đánh dấu một bước tiến hiệp nhất rất đáng kể trong quan tâm mục vụ đối với toàn thể cộng đồng dân Chúa qua Thư Chung 1980 “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” .
Đại Hội cũng ghi lại một mốc điểm hành chính và ngoại giao thật quan trọng qua việc “duyệt lại nội quy và đặt lại cơ cấu của Hội đồng Giám mục Việt Nam”, “thể hiện tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm của các giám mục đối với Hội Thánh toàn cầu”, thiết lập một cơ cấu chính thức thống nhất đại diện cho toàn thể Giáo hội Việt Nam trong tương quan đối với chính quyền, với các cơ cấu, đoàn thể, tổ chức, tôn giáo khác trong cũng như ngoài nước, đặc biệt là trong tương giao với Toà Thánh, với Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, cũng như với các Hội đồng Giám mục khắp nơi.
Có thể nói mở đường cho mối giây liên lạc quốc tế này là chuyến đi Moscow, thủ đô Nga, của Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức cha Giuse Nguyễn Tùng Cương, đại diện cho Hội đồng Giám mục Việt Nam tham dự Hội nghị những nhà tôn giáo bảo vệ sự sống khỏi thảm hoạ hạt nhân, do Giáo hội Chính thống Nga tổ chức ngày 10-5-1982. Năm năm sau, đoàn đại biểu Giáo hội Chính thống Nga đến thăm Tổng Giáo phận Sài Gòn.
Riêng đối với Giáo hội Hoa Kỳ, ngay sau năm 1975, qua các cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Mỹ, đã có những liên lạc khá thường xuyên, đa số mang tính cách cá nhân, nhất là trong lãnh vực mục vụ Bí tích Hôn nhân hoặc di dân đoàn tụ giữa các Giám mục Việt Nam và các Giám mục Hoa Kỳ.
Vì hoàn cảnh của đất nước và cả Hội đồng Giám mục Việt Nam mới thống nhất lúc bấy giờ với rất nhiều vấn đề cục bộ cần phải cấp thời giải quyết, do đó việc tái lập liên hệ và tương quan với Giáo hội và Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ nằm trong tư thế “đáp trả” đón nhận. Điển hình là các cuộc đón tiếp các cá nhân trước năm 1989 và đoàn đại biểu của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tuần đầu tháng 1 năm 1989, trong đó phía Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đóng vai chủ động trong việc mà Đức cha Hoà đã gọi là “đi bước đầu tiên hướng tới việc tái canh tân những quan hệ giữa hai Giáo hội chúng ta.”
b) Giai đoạn tăng triển tình huynh đệ (1996-1999)
Mãi cho đến năm 1996, sau nhiều nỗ lực ngoại giao, nhất là những trao đổi giữa hai vị chủ tịch của hai Hội đồng - phía Hoa Kỳ với Đức cha Anthony M. Pilla rồi tới Đức cha Joseph A. Fiorenza, - ngày 27-1-1999, Đức Hồng y Chủ tịch Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, thay lời cho hàng Giám mục và Giáo hội Việt Nam, đã viết thư cho Đức cha Joseph A. Fiorenza, Giám mục Giáo phận Galveston-Houston, chúc mừng ngài vừa được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ và đồng thời cũng nhắc lại lời mời trước đây đã gởi cho Đức cha Anthony Pilla, vị Chủ tịch tiền nhiệm của ngài là xin cử một phái đoàn đi thăm Việt Nam trong một tương lai gần.
Đức cha Fiorenza đã vui lòng chấp nhận lời mời và đồng ý hướng dẫn phái đoàn, gồm có Đức Tổng Giám mục Theodore E. McCarrick, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế, Đức cha John H. Ricard, Chủ tịch Cơ quan Dịch vụ Cứu trợ Công giáo, và Đức cha John S. Cummins thuộc Ủy ban Di Dân, cùng với ba nhân viên điều hành của các ủy ban ấy đi tháp tùng.
Cuộc thăm viếng lịch sử này đã được Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Tổng Thư ký và các Linh mục Thư ký 3 Giáo tỉnh của Hội đồng Giám mục Việt Nam điều hợp với nhân viên Ban Chấp hành Cộng đồng Giáo sĩ và Tu sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức. Chuyến đi này đã được phái đoàn tường trình đầy đủ chi tiết cho các Giám mục Hoa Kỳ ngay khi về lại Mỹ; và gần 3 tháng sau, ngày 24-11-1999, nhân dịp Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã cho công bố bản Nhận định của Đức cha Fiorenza mang tựa đề “Hoà bình, Hoà giải và Tự do Tôn giáo tại Việt Nam.”
c) Giai đoạn Liên đới, Hiệp thông (1999-hiện tại)
Trong cuộc viếng thăm huynh đệ đáp lễ của phái đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam từ 7 đến 14 tháng 11, 2003 tại Washington DC, các ngài đã đưa ra 6 điểm mà Giáo hội tại Việt Nam hiện đang ưu tư và quan tâm, đó là:
(1) Tình hình xã hội và kinh tế;
(2) Đường hướng mục vụ gia đình, nói cách khác hiện trạng con người Việt Nam hôm nay ra sao?;
(3) Giới trẻ và những hoạt động cho giới trẻ;
(4) Vấn đề mục vụ cho người khuyết tật (hiện nay nguyên tại Việt Nam một triệu rưỡi người);
(5) Tình trạng của người di dân và lao động nước ngoài (tổng số có tới 2 triệu người);
(6) Những người bị bệnh HIV/AIDS và nghiện may túy (con số tới gần 200,000).
Khi nhắc lại chuyến viếng thăm đầu tiên của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đến Việt Nam vào năm 1989, Ðức cha Hòa nói “Quý Ðức cha đã đi bước đầu tiên hướng tới việc tái canh tân những quan hệ giữa hai Giáo hội chúng ta” .
Mười năm sau đó vào năm 1999, một phái đoàn Giám mục Hoa Kỳ do Ðức Cha Joseph A. Fiorenza tại Galveston-Houston dẫn đầu đến thăm Việc Nam, hồi ấy ngài là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, dịp này lại càng thắt chặt thêm sự liên hệ giữa hai Giáo hội.
Ðức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã gọi chuyến viếng thăm vào năm 1999 là “một bước ngoặc lịch sử, một dấu hiệu bền vững của tình hữu nghị hiệp thông, củng cố thêm mối quan hệ đặc biệt chia sẻ trách nhiệm giữa Giáo hội Hoa Kỳ và Giáo hội Việt Nam” . Ðức cha Hòa cũng bày tỏ lòng biết ơn đến những nỗ lực của các Giám mục Hoa Kỳ:
“Trong lúc Giáo hội Việt Nam đã ở trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, quý Ðức cha đã tìm cách để giúp đỡ chúng tôi”. “Và chúng tôi không thể nào quên được tình thương yêu và sự chăm sóc mục vụ mà quý Ðức cha đã cống hiến cho gần nửa triệu các anh chị em, là những người Công giáo Việt Nam hiện sống và làm việc tại Hoa Kỳ, xin nhận nơi đây lòng chân thành cám ơn của chúng tôi cho tất cả các công việc này”.
Ðức cha Hòa cũng nhận định rằng Việt Nam đã có những sự tiến triển về xã hội và kinh tế “đáng kể” trong những năm gần đây, “nhưng hàng triệu người Việt Nam vẫn còn đang sống nghèo đói… vật chất, trí thức và tinh thần.”
Trong khi hoạt động để có “một quốc gia hòa bình và thịnh vượng” tại Việt Nam, Ðức cha Hòa nói thêm “chúng tôi hy vọng rằng sự hiện diện của chúng tôi nơi đây sẽ tăng thêm những quan hệ hiệp thông và cộng tác giữa Giáo hội Việt Nam và Giáo hội Hoa Kỳ.”
Trong phái đoàn Giám mục Việt Nam tham dự còn có Ðức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, vừa được tấn phong Hồng y trong số 30 vị vào tháng 10.2003. Mặc dầu Ðức tân Hồng y không có tuyên bố gì trước Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, thế nhưng lá thư của Ðức tân Hồng y khi còn là Tổng Giám mục đã gửi cho Ðại Hội Giáo Dân Công Giáo vào mùa Giáng Sinh 2002, đã được dịch ra tiếng Anh và được phân phối trong hội nghị trong ngày khai mạc Hội nghị Hội đồng Giám mục vào ngày thứ Hai 10.11.2003.
Ðức Hồng y nhắc đến 2 bổn phận hàng đầu mà Việt Nam phải đối đầu là “dần dần tẩy sạch” những tệ nạn trong nước và làm phong phú thêm những giá trị nhân bản “để làm cho xã hội chúng ta có định hướng nhân bản hơn”.
Trong thư Ðức Hồng y Mẫn đã kêu gọi đến “một tình liên đới trong xã hội” tại Việt Nam, ngài nói đến “Ðộc tài là con đường đưa đến chế độ cực quyền, độc trị và quan liêu, mọi thứ dưới quyền cai trị của nhà nước, đàn áp và bất công. Những điều này là sự suy đồi nghiêm trọng mà nó tiêu diệt giá trị nhân bản và cản trở đến sự phát triển của quốc gia”.
Ngài đã nói đến các người giáo dân trong vai trò lãnh đạo nên “đóng góp những nỗ lực tích cực của họ để xây dựng và bảo vệ đất nước chúng ta theo những chỉ dẫn thích hợp của Công giáo, của lương tâm và của niềm tin” . Một vài tệ nạn mà Ðức Hồng y Phạm Minh Mẫn vạch trần gồm có chủ thuyết duy vật, đánh mất đi giá trị con người và sự bất công vẫn còn tiếp diễn.
Ðây là lần thứ hai mà Hội đồng Giám mục Việt Nam chính thức viếng thăm và tham dự Hội nghị Hội đồng Giám mục Công giáo quốc gia bạn. Lần đầu tiên Hội đồng Giám mục đã tham gia Hội nghị Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân vào năm 2002.
Thay Lời Kết
Cuộc hành trình hiệp thông và liên đới giữa hai Giáo hội Công giáo Việt Nam và Hoa Kỳ là một tiến trình liên hệ chẳng những cần thiết cho Hội Thánh, mà còn là một tương quan đối thoại mở đường nối kết giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Ngày kết thân huynh đệ hai Giáo hội Việt Nam và Hoa Kỳ đã được khởi sự bước đầu bằng hiệp thông và liên đới với nhau trong lời cầu nguyện. Gần 70 triệu người Công giáo Mỹ, mà trong đó có khoảng nửa triệu dân Công giáo Việt Nam liên kết gắn bó với trên 6 triệu đồng bào Công giáo nơi quê nhà để cùng dâng lên Cha trên trời, đặc biệt trong ngày kết thân huynh đệ này, những tâm tình khẩn nguyện tha thiết nhất cho quốc thái dân an tại đất nước Hoa Kỳ cũng như trên quê hương Việt Nam mến yêu.
Xin cho cả hai Giáo hội đã bắt đầu hiệp thông và liên đới với nhau trong kinh nguyện, cũng tiếp tục đẩy mạnh sự hỗ trợ nhau trong mọi công việc sống và loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, cùng nhau hướng tới con đường phía trước, chia sẻ với nhau niềm Vui Mừng và Hy Vọng. Một tay nắm lấy Chúa Giêsu, Mẹ Maria La Vang và các Thánh Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam, một tay nắm lấy anh chị em, hai Hội Thánh Việt-Mỹ đồng hành xây dựng những con người mới sẵn sàng cùng nhau thể hiện và cổ võ lối sống “Bác ái, Huynh đệ, Hiệp nhất, Phục vụ” cho một Việt Nam mới, một đất nước Việt Nam của sự thật, tự do, công lý, và tình thương!
Giuse Đặng Văn Kiếm
Tài liệu tham chiếu:
• Các văn bản của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ
• Các văn bản của Hội đồng Giám mục Việt Nam
• Các tài liệu của Thông tấn xã VietCatholic
• Các tài liệu của Liên đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
Năm nay, Ngày Huynh Đệ Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ vừa được tròn 10 tuổi. Hai Giáo hội càng ngày càng có những sự liên đới và hiệp thông với nhau nhiều hơn. Các vị chủ chăn của hai Giáo hội đã thực hiện nhiều cuộc thăm viếng, gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi nhằm đáp ứng những nhu cầu mục vụ cụ thể cho cộng đồng dân Chúa của hai quốc gia.
Trong chiều hướng đó, mới đây từ ngày 15 tới 24 tháng 8 năm 2009, Đức cha William Stephen Skylstad, Giám mục Giáo phận Spokane, Washington, nguyên Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã đến thăm cả ba Giáo tỉnh Huế, Sài Gòn và Hà Nội. Cùng đi với Đức cha Skylstad có Linh mục Joachim Lê Quang Hiền, Ủy viên Giao tế của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, và bà Virginia Farris, nhân viên Ủy ban Chính sách Quốc tế thuộc HĐGMCGHK.
Nhân ngày này, chúng ta cùng nhau nhìn lại một số những sự kiện hay tiến trình liên hệ giữa hai Giáo hội Việt Nam và Hoa Kỳ, do Ủy ban Giao tế và Liên lạc của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ ghi nhận sau đây.
HÀNH TRÌNH HIỆP THÔNG VÀ LIÊN ĐỚI HAI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
Hiệp thông và Liên đới là nét đặc trưng của mối tương giao giữa hai Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ và Hội đồng Giám mục Việt Nam, như đã được Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhấn mạnh trong bài diễn văn phát biểu trước phiên họp khoáng đại của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ ngày 10-11-2003 tại Washington, DC.
Lược qua tiến trình liên hệ giữa hai Hội đồng Giám mục, đặc biệt trong những năm gần đây, có thể cho chúng ta một cái nhìn khá trung thực về mối giây Hiệp thông và Liên đới ấy, đồng thời cảm nhận được niềm hy vọng cho một viễn tượng tốt đẹp hơn nữa giữa hai Giáo hội tại Việt Nam và Hoa Kỳ.
A. Trước ngày thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam
Lịch sử của hai quốc gia và hai Giáo hội sẽ đào sâu hơn về cội nguồn của mối liên hệ thân tình hôm nay. Trong phạm vi đơn giản của bài này, chúng ta nhận thấy trong lịch sử cận đại việc tiếp xúc giữa hai dân tộc và hai Giáo hội khơi nguồn từ những cá nhân và đoàn thể đi tìm một chân trời mới cho “vấn đề Việt Nam” sau hai thế chiến.
Các chính khách đi tìm giải pháp chính trị. Một số các nhà lãnh đạo tôn giáo đi tìm trao đổi một hiệp thông trong đức tin và trong việc đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ cho một Việt Nam thời hậu chiến; thế nên một số các Linh mục, Tu sĩ Việt Nam đã được gửi đi du học tại các đại học và chủng viện Hoa Kỳ đầu thập niên 1950.
Để nâng đỡ nhau và để gìn giữ giây liên lạc với Giáo hội bên nhà, các anh chị em giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam du học khắp nơi đã quy tụ lại thành những Hội Sinh Viên Công Giáo Việt Nam hoặc Hội Liên Tu Sĩ quốc gia, hay liên quốc gia, từ Âu, Á sang Mỹ châu. Nhiều hội đoàn ái hữu này về sau đã biến thành những Ban Tuyên Úy, hoặc Cộng Đồng Giáo Sĩ Tu Sĩ vẫn với mục đích ái hữu tương trợ lẫn nhau, đồng thời để chia sẻ công tác mục vụ cho khối di dân tỵ nạn đến từ Việt Nam.
Có thể nói mối liên hệ giữa một số các Giám mục Việt Nam và hàng giáo phẩm Hoa Kỳ trong thời Hiệp Định Genève chủ yếu nhắm tới nhu cầu tị nạn từ Bắc vào Nam. Và tiếp nối trong thời chiến tranh Việt Nam, mối liên hệ đó vẫn thường nằm trong khuôn khổ Cứu Trợ Công Giáo đặc biệt qua các chương trình dinh điền, định cư tại miền Nam Việt Nam.
B. Từ sau ngày thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam
Đại Hội Giám mục toàn quốc năm 1980 với Thư Chung công bố việc thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam đã mở đầu cho việc nối kết một nhịp cầu mới với các Hội đồng Giám mục trên thế giới, đặc biệt là với Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ.
1. Phía Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ
a) Giai đoạn 1972-1989
- Năm 1972, đang giữa cuộc chiến, quan tâm đến những thống khổ người dân Đông Nam Á phải chịu, Hội đồng Công giáo (lúc đó là ngành lo “việc đời, việc xã hội” cuả các Giám mục Hoa Kỳ) đã kêu gọi dân chúng Mỹ nhiệt tâm ủng hộ các chương trình cứu trợ và tái thiết Việt Nam.
- Tháng 11 năm 1975, Hội đồng Công giáo của các ngài đã đệ trình đến Quốc hội chứng từ “Đông Dương: thuyền chứa các thương tích của chiến tranh” thúc giục việc tu chỉnh lại “Sắc luật về Kinh doanh với Kẻ địch” nhằm cho phép các tàu hàng tư nhân chuyển tải các vật dụng tiếp cứu đến trong vùng.
- Tháng 12 năm 1975, vị Tổng Thư ký của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã ký vào lời kêu gọi “Hòa giải và Tái thiết Đông Dương thời hậu chiến” của Ủy Ban Tổng Thư ký Hội Đồng Liên Tôn nhằm cổ động bãi bỏ vụ phong tỏa mậu dịch và cung cấp vật liệu cứu trợ tái thiết.
Phải nói ưu tiên hàng đầu của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong giai đoạn hậu chiến cho đến cuộc viếng thăm chính thức đại diện cho Hội đồng do các Đức Tổng Giám mục Roger Mahony, Theodore McCarrick và Edward O’Meara từ 4 đến 9 tháng 1, 1989 nhằm trực tiếp tích cực giúp đỡ, cũng như thúc đẩy chính quyền Hoa Kỳ đẩy mạnh các chương trình tỵ nạn, cứu trợ, và đoàn tụ, hỗ trợ công cuộc tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích, khai mở mậu dịch tư nhân hầu xoa dịu vết thương chiến tranh và tái thiết Việt Nam.
Một điểm son cần lưu ý trong giai đọan này là Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã đi tiên phong trong việc đón nhận, giúp định cư và hòa hợp vào đời sống Mỹ của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn. Các văn phòng di dân tỵ nạn thuộc các giáo phận cũng như các giáo xứ và đoàn thể công giáo đã sát cánh với các cơ quan xã hội của chính quyền làm việc rất đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập rất phức hợp và bao la này.
b) Giai đoạn từ năm 1989 đến hiện tại
Một cách chính thức, các Giám mục Hoa Kỳ đã đi bước đầu để nối kết quan hệ giữa hai Giáo Hội Việt Nam và Hoa Kỳ; điểm này đã được chính Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam xác nhận trong bài diễn văn trước toàn thể Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn ngày 10-11-2003. Bước đầu tiên chính thức đến từ lá thư do Đức Tổng Giám mục John L. May, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ lúc ấy, gửi cho Đức Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn ngày 13-8-1988 đề nghị một cuộc viếng thăm Việt Nam vào năm sau, 1989.
Sau nhiều lần hội ý với các cơ quan hữu trách liên hệ, đoàn đại diện Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ do Đức TGM Roger Mahony hướng dẫn, từ 4 đến 9 tháng 1 năm 1989, đã đến thăm và gặp gỡ với Đức Hồng y Căn, các Giám mục, cũng như một số giới chức chính quyền Việt Nam tại Hà Nội và Sài Gòn… Như bản tường trình sơ khởi về chuyến đi được gửi tới Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ ngày 17-1-1989 xác nhận, “cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng rất hữu ích” được thực hiện với một số lý do chính yếu và rõ rệt sau đây:
(1) Để bày tỏ sự yểm trợ và mối quan tâm của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ dành cho Giáo hội và dân tộc Việt Nam;
(2) Để thảo luận với các nhà lãnh đạo Giáo hội Việt Nam về phương cách tốt đẹp nhất Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ có thể trợ giúp dân tộc Việt Nam;
(3) Để khai mào một cuộc đối thoại cởi mở, chân thành và xây dựng với các giới chức chính quyền Việt Nam về một số vấn đề hệ trọng, đặc biệt các vấn đề về tự do tôn giáo, các nhu cầu nhân sự của dân chúng Việt Nam, các vấn đề di trú và tỵ nạn, và mối quan tâm của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ với các quân nhân Hoa Kỳ mất tích và một số vấn đề khác;
(4) Để nối lại và bày tỏ liên hệ đoàn kết giữa cộng đồng Công giáo Hoa Kỳ - nay gồm nhiều tín hữu Việt Nam - và Giáo hội cùng dân tộc Việt Nam.
Năm tháng sau, trong cuộc họp khoáng đại bán niên ngày 17 tháng 6 năm 1989, các Giám mục Hoa Kỳ đồng chấp thuận và công bố bản Tuyên ngôn “A Time for Dialogue and Healing: A pastoral Reflection on United States - Vietnam Relations” (“Thời Điểm để Đối Thoại và Thuyên Chữa: Tuyên Ngôn Mục Vụ về Liên Hệ Việt-Mỹ”) do Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ phát hành, (bản dịch Việt ngữ của Đồng Tâm, Trung Tâm Mục Vụ Đông Nam Á, Portland, Oregon).
Đây là một “suy tư mục vụ” nền tảng chỉ đạo cho các mối tương giao của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đối với các vấn đề Việt Nam từ đó đến nay.
Lời mở đầu nêu lên ý thức sáng rõ của các ngài về thực tế phức tạp của “vấn đề Việt Nam” , đồng thời xác định vai trò mục tử và tình liên đới huynh đệ của các ngài với hàng Giám mục và dân chúng Việt Nam.
“Chúng tôi đề cập đến vấn đề phức tạp và bất ổn này là mối bang giao Việt-Mỹ và những vấn đề rộng lớn hơn liên quan tới Đông Nam Á, với tư cách là những chủ chiên thấu hiểu nỗi đau khổ, sự phân ly và mất mát do chiến tranh tàn khốc gây ra. Chúng tôi lên tiếng với tư cách là chủ chiên đi tìm kiếm cơ hội để mang lại một tiếng nói hòa giải và một niềm hy vọng khai mào cho một cuộc đối thoại xây dựng, và với tư cách là giảng sư Phúc Âm của Công Bằng và Hòa Giải.
“Chúng tôi không thể thay lời cho Giáo hội tại Việt Nam, nhưng chúng tôi muốn sát cánh với Giáo hội ấy và hợp lực với chư huynh Giám mục Việt Nam trong chiều hướng xây dựng một mối liên hệ tốt đẹp hơn cho hai dân tộc chúng ta, một mối liên hệ dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của tất cả mọi dân tộc.”
Trong phần kết, các ngài nhấn mạnh: “Chúng tôi tin tưởng rằng nay đã đến lúc phải tiến xa hơn cái di sản chiến tranh, để bắt đầu đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp của những nạn nhân cuộc chiến, ngõ hầu có thể đề cập tới những khó khăn và tới cơ hội chuẩn bị cho một sự liên hệ tốt đẹp hơn giữa nhân dân Hoa Kỳ và Việt Nam.”
Đề cao Đối Thoại như là “phương tiện hữu hiệu để Giải quyết những Nhu cầu và Vấn đề Quan trọng” , các Giám mục Hoa Kỳ đã chân thành và thẳng thắn nêu lên một số các vấn đề đáng quan tâm lúc bấy giờ, cũng như một số vẫn còn có giá trị tồn đọng cần được lưu ý giải quyết hôm nay:
(1) Quan trọng hàng đầu là tất cả mọi người dân Việt Nam phải được hưởng một cách đầy đủ trọn vẹn, bất kể họ theo tôn giáo nào, thứ quyền cốt yếu nhất của con người là quyền tự do tôn giáo;
(2) Phóng thích ngay tức khắc các vị linh mục, tu sĩ, quí sư, và mục sư từ các trại giam cho họ trở về các thánh đường, miếu đền, chùa chiền để họ có thể thi hành phận sự mục vụ của họ cách tự do, cũng như phải sớm thả số người hiện còn bị lưu giữ tại các trại học tập cải tạo chính trị, những người bị quản thúc tại gia và xúc tiến thủ tục di trú cho những ai muốn rời Việt Nam;
(3) Phát triển một môi trường chính trị trong đó mọi người dân Việt Nam được hưởng các nhân quyền căn bản;
(4) Giải quyết số quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích;
(5) Chấm dứt sự hiện diện quân sự tại Cam Bốt;
(6) Giúp các gia đình ly tán và những ai hội đủ điều kiện rời Việt Nam trong Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự được hoàn tất thủ tục xuất cảnh mau lẹ hơn nữa;
(7) Xúc tiến thủ tục di trú cho các trẻ em Mỹ lai muốn xuất ngoại với các thân nhân hội đủ điều kiện.
Không ngừng chân thành và thẳng thắn đối thoại là cách hành xử nhất thống của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong suốt quá trình liên lạc với nhà cầm quyền tại Việt Nam. Đây cũng là một cách bày tỏ cụ thể mối hiệp thông và tình liên đới với hàng Giám mục Việt Nam cũng như với các tôn giáo bạn và dân chúng Việt Nam.
Thật vậy, kể từ ngày công bố Tuyên ngôn quan trọng nói trên, mỗi lần có biến chuyển nào liên hệ đến hai quốc gia và hai Giáo hội, thì qua các cơ quan đại diện chính thức của mình, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đều lên tiếng khẳng định lại lập trường Hiệp thông và Liên đới với Hội đồng Giám mục và nhân dân Việt Nam:
- Bảy tháng sau ngày Tổng thống Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh phong toả mậu dịch đối với Việt Nam (3-2-1994), Đức Cha Daniel P. Reilly, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế của Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ, qua Tuyên ngôn ký ngày 15-9-1994, đã lên tiếng đón nhận quyết định đó, nhưng đồng thời cũng nhắc lại mối quan tâm đặc biệt của các Giám mục Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo, về việc tiếp tục giúp tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích tại Việt Nam, cũng như về số phận trôi nổi của hàng chục ngàn người tỵ nạn, các trẻ em Mỹ lai, các nạn nhân Hoá Chất Màu Cam. Đức cha Reilly kết luận:
“Tự do Tôn giáo luôn là tiêu chuẩn cần yếu cho việc thăng tiến tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Là những người ủng hộ và cổ động cho việc thăng tiến tương giao giữa hai dân tộc, chúng tôi quyết tâm bảo vệ các quyền lợi và giá trị nhân phẩm của mọi tín hữu tại Việt Nam.”
- Cùng ngày Tổng thống Clinton công bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, 11-7-1995, một lần nữa Đức cha Daniel P. Reilly đón nhận tin này, và một lần nữa ngài nhắc lại những mối quan ngại nói trên. Qua bản “Công bố về việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam” ngày 11-7-1995, Đức cha Reilly trích lại đoạn này trong “Tuyên ngôn Mục Vụ về Liên Hệ Việt-Mỹ” năm 1995:
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng sự hiện diện chính thức và sự đối thoại liên tục không hề là dấu chỉ sự công nhận hay không một chế độ, nhưng sự thiết lập một cơ quan chính thức sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên, nhờ đó các khó khăn có thể được thảo luận, và có khi được giải quyết… (sự đối thoại này - như chúng tôi đã không ngớt kêu gọi - phải bao gồm mối quan tâm liên tục cho quyền làm người, quyền tự do tôn giáo, và sự thành tâm tìm kiếm công bình)”.
- Từ 26-8 đến 2-9 năm 1999, một phái đoàn gồm các Giám mục thuộc các ủy ban có liên hệ đến Việt Nam của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, do chính Đức cha Chủ tịch Joseph A. Fiorenza hướng dẫn đã đi thăm viếng Việt Nam theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua thư của Đức Hồng y Chủ tịch Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng.
Chuyến đi này được nhiều người ở Việt Nam nhắc tới như là một chuyến đi lịch sử của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Chuyến đi lịch sử vì phái đoàn gặp gỡ, qui tụ được nhiều cơ quan, đoàn thể, đạo, đời, Mỹ, Việt khắp cả ba miền đoàn đã đi qua. Đặc biệt trong Thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ Chánh Toà Hà Nội hôm Chúa nhật 29-8-1999, Đức Hồng y Tụng thay lời cho các Giám mục Việt Nam đã đề nghị lấy ngày Chúa nhật XXII thường niên hằng năm là ngày Giáo hội hai bên cầu nguyện cho nhau. Lời đề nghị chân tình này đã được phái đoàn Hoa Kỳ vui mừng đón nhận và đông đảo toàn thể giáo dân nhiệt liệt tán thành.
Trưa hôm sau, dưới tượng đài Đức Mẹ tại Linh địa La Vang, Tổng Giáo phận Huế, sau khi lược qua lịch sử Mẹ La Vang và hiện tình hai quốc gia, bằng một giọng chân thành cảm động Đức cha Fiorenza đã đại diện cho Giáo hội Hoa Kỳ “xin nhận Đức Mẹ La Vang là Mẹ của Giáo hội và dân tộc Hoa Kỳ.”
Trong cuộc họp mặt huynh đệ với các giáo sĩ và tu sĩ tại Toà Tổng Giám mục Sài Gòn, Đức cha Fiorenza đã ca ngợi niềm tin Công giáo sâu đậm của giáo dân Việt Nam, cũng như số ơn gọi tu trì thật đông đảo tại Việt Nam, và ngài mời gọi Giáo hội Việt Nam quảng đại đáp ứng cho nhu cầu truyền giáo bao la của Á Châu. Phái đoàn đã đi thăm một số chủng viện, dòng tu nam nữ, cô nhi viện, chẩn y viện, và cử hành Thánh lễ đồng tế tại ba Nhà thờ Chánh Toà của cả ba Tổng Giáo phận.
Tại Hà Nội, Huế, cũng như ở Sài Gòn, phái đoàn đã được các cấp chính quyền tiếp đón, trao đổi một cách cởi mở chân thật và sáng rõ về một số vấn đề thiết thực liên hệ đến các ủy ban Giám mục trong phái đoàn như Ủy ban Di dân và Tỵ nạn với Đức cha John Cummins, Cơ quan Cứu trợ Công giáo với Đức cha John Ricard, Ủy ban Chính sách Quốc tế với Đức Hồng Y McCarrick, cựu Tổng Giám mục Washington, DC.
Với các giới chức Việt Nam cũng như các viên chức Toà Đại sứ quán Hoa Kỳ, phái đoàn luôn nêu cao những thành đạt khả quan về mọi mặt được chứng kiến tại Việt Nam, đồng thời cũng khuyến khích chính quyền Việt Nam cần nới rộng hơn nữa các hạn chế nhất là về tự do tôn giáo. Phái đoàn cũng nhắc đến ước nguyện đi thăm viếng Việt Nam của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II; chính quyền Việt Nam hoan hỉ đón nhận và bày tỏ ý muốn một ngày không xa sẽ được dịp tiếp đón Đức Giáo hoàng.
Hầu hết ở mỗi nơi phái đoàn đến viếng thăm, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đều nói lời khen ngợi về những đóng góp và gương sáng đức tin người Công giáo Việt Nam đã mang đến cho Giáo hội Hoa Kỳ, nhất là đã đóng góp thật nhiều ơn gọi tu sĩ, linh mục cho các giáo phận Hoa Kỳ trong mấy thập niên vừa qua. Những tâm tình, nhận thức và chia sẻ chân thực này được gói ghém trong Bản Nhận định “Hoà bình, Hoà giải và Tự do Tôn giáo tại Việt Nam” của Đức cha Chủ tịch Fiorenza, công bố ngày 24-11-1999, hai tháng sau chuyến đi lịch sử nói trên.
- Tiếp tục đẩy mạnh những cải cách và nới rộng cần yếu về tự do tôn giáo tại Việt Nam, ngày 16-5-2001, ông Thomas E. Quigley, cố vấn về chính sách Á châu thuộc Văn phòng Phát triển Xã hội và Hoà bình Thế giới của Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ đã trình bày trong phiên họp về Nhân Quyền của Quốc hội Mỹ với đề tài “Ngược đãi Tôn giáo tại Việt Nam,” nói riêng đối với Giáo hội Công giáo. Lược qua lịch sử cận đại, đặc biệt là hơn thập niên sau ngày thống nhất Nam - Bắc năm 1975, cùng với các tôn giáo khác, Giáo hội Công giáo đã bị áp chế nặng nề. Từ năm 1989, thái độ của chính quyền đã cởi mở hơn, tuy nhiên việc tuyển lựa, bổ nhiệm, thuyên chuyển nhân sự; việc xuất bản sách báo, mở mang trường học, việc hoàn trả các cơ sở đã bị tịch biên… vẫn còn tiến triển rất chậm.
- Ngày 28-4-2004, Đức cha John H. Ricard, SSJ, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế đã gửi đến Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nguyễn Tâm Chiến, nhờ chuyển đến nhà cầm quyền Việt Nam mối quan tâm đặc biệt của Giáo hội Hoa Kỳ về trường hợp áp bức tôn giáo đối với người Dân tộc Dega ở Cao nguyên Trung phần, và về việc giảm án cho cha Nguyễn Văn Lý. Ngài cũng đề cập đến “sự khôn ngoan” của việc chính thức thành lập bang giao với Toà Thánh.
- Nhân cuộc viếng thăm huynh đệ đáp lễ của phái đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam từ 7 đến 14 tháng 11, 2003 tại Washington DC, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ qua các cuộc gặp gỡ với các ngài, đã thắt chặt thêm tình huynh đệ và chia sẻ với nhau một cách chân thành thẳng thắn những niềm vui cũng như những ưu tư lo lắng trong đời mục vụ của mình, đồng thời cũng tái khẳng định niềm cảm mến và nỗ lực quan tâm tới các vấn đề Giáo hội Việt Nam còn đang đối diện.
Ngoài những mối giây liên lạc chính thức trong tư cách Hội đồng Giám mục với nhau, đã có khá nhiều cuộc thăm viếng cá nhân của một vài Hồng y, Giám mục, Bề trên các Dòng tu tại các giáo phận và cơ quan đạo đời, trong đó có chuyến đi của Đức Hồng y Law, Tổng Giám mục Boston, cuối tháng 8 năm1991.
Một cách cụ thể đặc biệt biểu trưng cho tình liên đới với Giáo hội và dân tộc Việt Nam, nhất là với những người thiếu may mắn trong xã hội, Cơ quan Cứu trợ Công giáo (CRS, Catholic Relief Services) trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sau nhiều năm chuẩn bị đã được phép vào mở Văn phòng ở Hà Nội năm 1994 và hiện nay cũng có đại diện ở Sài Gòn, chủ yếu nhằm khuyến khích và tài trợ sinh hoạt giáo dục, giúp các trẻ em khuyến tật, ngăn ngừa lũ lụt, cũng như các dự án cấp cứu khác trên toàn cõi Việt Nam.
Hỗ trợ cho các công tác cứu trợ khẩn cấp đặc biệt là các vụ bão tố lũ lụt thường tàn phá các vùng duyên hải Việt Nam, các Giám mục Hoa Kỳ cho phép và nhiều khi cổ động lạc quyên trong các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam để trực tiếp, hoặc qua CRS, gửi về giúp đỡ các gia đình nạn nhân.
Nét Đặc Trưng Về Mối Liên Hệ
Qua những tài liệu và dữ kiện trên, chúng ta có thể rút ra được một ít nét đặc trưng sau đây về mối liên hệ của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đối với Hội đồng Giám mục Việt Nam:
(1) Tâm tình tương kính huynh đệ: Ngay từ những liên hệ đầu tiên, phải nói đây là điểm nổi bật nhất trong tương giao Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ dành cho Hội đồng Giám mục Việt Nam. Không chỉ trong tuyên ngôn, tuyên cáo mà trên thực tế gặp gỡ giữa anh em Giám mục với nhau, bầu khí thân tình, tương kính này là nét ai cũng thấy rõ bất cứ ở đâu.
(2) Tiên phong trong việc giao tế: Ý thức trách nhiệm liên đới trong hàng Giám mục Hoa Kỳ đối với Giáo hội và dân tộc Việt Nam rất cao, thế nên các ngài đã đi bước trước trong việc lên tiếng cứu trợ nhân đạo cho các thuyền nhân, nạn nhân, cũng như đã cử đoàn đại diện đến thăm Việt Nam năm 1989, đặc biệt chính Đức cha Chủ tịch đã nhanh chóng đáp lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn phái đoàn đến thăm cả ba Giáo tỉnh Việt Nam năm 1999.
(3) Nhãn quan thế giới, hướng tới tương lai: Mối liên hệ đối với Việt Nam nói chung và Hội đồng Giám mục Việt Nam nói riêng được các Giám mục Hoa Kỳ đặt trong một địa bàn quốc tế: nhìn theo hướng đi được Phúc Âm hướng dẫn của Toà Thánh, và tầm quan yếu của đất nước và Giáo hội Việt Nam trong vùng Á châu, đặc biệt là vai trò trọng yếu của các vị thừa sai tương lai của Việt Nam trước cánh đồng truyền giáo bao la đầy thách đố và đầy hy vọng của thế giới hôm nay.
Các ngài ý thức sâu xa không chỉ những quan tâm và nhu cầu trước mắt, nhưng còn nhắm tới cả con đường trước mặt trong quan hệ giữa hai Hội đồng và hai Quốc gia. Do đó, các quyết định liên quan đến mối tương giao này đều được cân nhắc trong viễn ảnh rộng rãi và lâu dài đó.
Với nhiều biến cố xảy ra dồn dập nhất là từ sau cuộc chiến tại Việt Nam; với lượng giao thông, du lịch, trao đổi văn hoá, y tế, khoa học, mậu dịch… ngày càng tăng triển nhanh chóng và hỗn hợp, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ thường giữ một thái độ quân bình cẩn trọng và nhẹ nhàng trong các nhận định có căn bản và cân nhắc mực thước của mình, nhằm đạt đến hiệu năng tối đa trong việc duy trì và phát triển mối hiệp thông và tình liên đới đối với Hội đồng Giám mục và Giáo hội tại Việt Nam.
Ngay cả những khi cần can đảm kịp thời lên tiếng để bênh vực công lý hoặc cổ võ cho một công tác nhân đạo, từ thiện nào, tiêu chuẩn mở rộng, lắng nghe nhẹ nhàng nhưng hữu hiệu này vẫn luôn được các ngài trân trọng giữ gìn.
(4) Tinh thần trách mhiệm mục tử: Là mục tử của nửa triệu người Công giáo Việt Nam, các Giám mục Hoa Kỳ lưu ý và quan tâm đến tình tự gia đình và dân tộc rất sâu xa nơi giáo dân Việt Nam. Cảm nhận được những đau thương của quá khứ còn hằn đậm trong ký ức và tâm khảm của nhiều người đã giúp các ngài có một ý thức, một mối đồng cảm bén nhạy hơn về vai trò mục tử của mình trong tương quan với Hội đồng Giám mục cũng như với các giới hữu trách khác tại Việt Nam.
Mối đồng cảm về chiều sâu lịch sử, lòng cảm phục đối với nếp sống đạo đức truyền thống từ quê Mẹ Việt Nam đã được các ngài nêu lên trong các tuyên ngôn mục vụ cho người di dân tỵ nạn, rõ rệt nhất là trong tài liệu chỉ đạo căn bản do các ngài phổ biến đầu năm 2002 “Sự hiện diện của người gốc Châu Á và Thái Bình Dương: Hoà hợp trong Đức Tin.” (“Asian and Pacific Presence: Harmony in Faith”)
Có thể nói chính vì tinh thần trách mhiệm mục tử và vì mối đồng cảm với nền văn hoá và đạo lý của con cái Á châu, trong đó người Việt giữ một vai trò và ảnh hưởng khá lớn, mà các ngài đã tự cam kết “duy trì sự liên lạc có hệ thống với Liên đoàn các Hội đồng Giám mục Á Châu và Châu Đại Dương để phát triển một nền thần học trong bối cảnh Châu Á và Thái Bình Dương, và cũng để phát triển một chính sách trao đổi nhân sự…” (Đáp Ứng Mục Vụ số 8).
2. Phía Hội đồng Giám mục Việt Nam:
a) Giai đoạn hình thành và khai mở liên lạc (1980-1996)
Như đã nhấn mạnh ở trên, Đại Hội đồng Giám mục Việt Nam đầu tiên họp tại Hà Nội từ 24-4 đến 1-5-1980 đánh dấu một bước tiến hiệp nhất rất đáng kể trong quan tâm mục vụ đối với toàn thể cộng đồng dân Chúa qua Thư Chung 1980 “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” .
Đại Hội cũng ghi lại một mốc điểm hành chính và ngoại giao thật quan trọng qua việc “duyệt lại nội quy và đặt lại cơ cấu của Hội đồng Giám mục Việt Nam”, “thể hiện tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm của các giám mục đối với Hội Thánh toàn cầu”, thiết lập một cơ cấu chính thức thống nhất đại diện cho toàn thể Giáo hội Việt Nam trong tương quan đối với chính quyền, với các cơ cấu, đoàn thể, tổ chức, tôn giáo khác trong cũng như ngoài nước, đặc biệt là trong tương giao với Toà Thánh, với Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, cũng như với các Hội đồng Giám mục khắp nơi.
Có thể nói mở đường cho mối giây liên lạc quốc tế này là chuyến đi Moscow, thủ đô Nga, của Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức cha Giuse Nguyễn Tùng Cương, đại diện cho Hội đồng Giám mục Việt Nam tham dự Hội nghị những nhà tôn giáo bảo vệ sự sống khỏi thảm hoạ hạt nhân, do Giáo hội Chính thống Nga tổ chức ngày 10-5-1982. Năm năm sau, đoàn đại biểu Giáo hội Chính thống Nga đến thăm Tổng Giáo phận Sài Gòn.
Riêng đối với Giáo hội Hoa Kỳ, ngay sau năm 1975, qua các cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Mỹ, đã có những liên lạc khá thường xuyên, đa số mang tính cách cá nhân, nhất là trong lãnh vực mục vụ Bí tích Hôn nhân hoặc di dân đoàn tụ giữa các Giám mục Việt Nam và các Giám mục Hoa Kỳ.
Vì hoàn cảnh của đất nước và cả Hội đồng Giám mục Việt Nam mới thống nhất lúc bấy giờ với rất nhiều vấn đề cục bộ cần phải cấp thời giải quyết, do đó việc tái lập liên hệ và tương quan với Giáo hội và Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ nằm trong tư thế “đáp trả” đón nhận. Điển hình là các cuộc đón tiếp các cá nhân trước năm 1989 và đoàn đại biểu của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tuần đầu tháng 1 năm 1989, trong đó phía Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đóng vai chủ động trong việc mà Đức cha Hoà đã gọi là “đi bước đầu tiên hướng tới việc tái canh tân những quan hệ giữa hai Giáo hội chúng ta.”
b) Giai đoạn tăng triển tình huynh đệ (1996-1999)
Mãi cho đến năm 1996, sau nhiều nỗ lực ngoại giao, nhất là những trao đổi giữa hai vị chủ tịch của hai Hội đồng - phía Hoa Kỳ với Đức cha Anthony M. Pilla rồi tới Đức cha Joseph A. Fiorenza, - ngày 27-1-1999, Đức Hồng y Chủ tịch Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, thay lời cho hàng Giám mục và Giáo hội Việt Nam, đã viết thư cho Đức cha Joseph A. Fiorenza, Giám mục Giáo phận Galveston-Houston, chúc mừng ngài vừa được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ và đồng thời cũng nhắc lại lời mời trước đây đã gởi cho Đức cha Anthony Pilla, vị Chủ tịch tiền nhiệm của ngài là xin cử một phái đoàn đi thăm Việt Nam trong một tương lai gần.
Đức cha Fiorenza đã vui lòng chấp nhận lời mời và đồng ý hướng dẫn phái đoàn, gồm có Đức Tổng Giám mục Theodore E. McCarrick, Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc tế, Đức cha John H. Ricard, Chủ tịch Cơ quan Dịch vụ Cứu trợ Công giáo, và Đức cha John S. Cummins thuộc Ủy ban Di Dân, cùng với ba nhân viên điều hành của các ủy ban ấy đi tháp tùng.
Cuộc thăm viếng lịch sử này đã được Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Tổng Thư ký và các Linh mục Thư ký 3 Giáo tỉnh của Hội đồng Giám mục Việt Nam điều hợp với nhân viên Ban Chấp hành Cộng đồng Giáo sĩ và Tu sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức. Chuyến đi này đã được phái đoàn tường trình đầy đủ chi tiết cho các Giám mục Hoa Kỳ ngay khi về lại Mỹ; và gần 3 tháng sau, ngày 24-11-1999, nhân dịp Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã cho công bố bản Nhận định của Đức cha Fiorenza mang tựa đề “Hoà bình, Hoà giải và Tự do Tôn giáo tại Việt Nam.”
c) Giai đoạn Liên đới, Hiệp thông (1999-hiện tại)
Trong cuộc viếng thăm huynh đệ đáp lễ của phái đoàn Hội đồng Giám mục Việt Nam từ 7 đến 14 tháng 11, 2003 tại Washington DC, các ngài đã đưa ra 6 điểm mà Giáo hội tại Việt Nam hiện đang ưu tư và quan tâm, đó là:
(1) Tình hình xã hội và kinh tế;
(2) Đường hướng mục vụ gia đình, nói cách khác hiện trạng con người Việt Nam hôm nay ra sao?;
(3) Giới trẻ và những hoạt động cho giới trẻ;
(4) Vấn đề mục vụ cho người khuyết tật (hiện nay nguyên tại Việt Nam một triệu rưỡi người);
(5) Tình trạng của người di dân và lao động nước ngoài (tổng số có tới 2 triệu người);
(6) Những người bị bệnh HIV/AIDS và nghiện may túy (con số tới gần 200,000).
Khi nhắc lại chuyến viếng thăm đầu tiên của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đến Việt Nam vào năm 1989, Ðức cha Hòa nói “Quý Ðức cha đã đi bước đầu tiên hướng tới việc tái canh tân những quan hệ giữa hai Giáo hội chúng ta” .
Mười năm sau đó vào năm 1999, một phái đoàn Giám mục Hoa Kỳ do Ðức Cha Joseph A. Fiorenza tại Galveston-Houston dẫn đầu đến thăm Việc Nam, hồi ấy ngài là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, dịp này lại càng thắt chặt thêm sự liên hệ giữa hai Giáo hội.
Ðức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã gọi chuyến viếng thăm vào năm 1999 là “một bước ngoặc lịch sử, một dấu hiệu bền vững của tình hữu nghị hiệp thông, củng cố thêm mối quan hệ đặc biệt chia sẻ trách nhiệm giữa Giáo hội Hoa Kỳ và Giáo hội Việt Nam” . Ðức cha Hòa cũng bày tỏ lòng biết ơn đến những nỗ lực của các Giám mục Hoa Kỳ:
“Trong lúc Giáo hội Việt Nam đã ở trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, quý Ðức cha đã tìm cách để giúp đỡ chúng tôi”. “Và chúng tôi không thể nào quên được tình thương yêu và sự chăm sóc mục vụ mà quý Ðức cha đã cống hiến cho gần nửa triệu các anh chị em, là những người Công giáo Việt Nam hiện sống và làm việc tại Hoa Kỳ, xin nhận nơi đây lòng chân thành cám ơn của chúng tôi cho tất cả các công việc này”.
Ðức cha Hòa cũng nhận định rằng Việt Nam đã có những sự tiến triển về xã hội và kinh tế “đáng kể” trong những năm gần đây, “nhưng hàng triệu người Việt Nam vẫn còn đang sống nghèo đói… vật chất, trí thức và tinh thần.”
Trong khi hoạt động để có “một quốc gia hòa bình và thịnh vượng” tại Việt Nam, Ðức cha Hòa nói thêm “chúng tôi hy vọng rằng sự hiện diện của chúng tôi nơi đây sẽ tăng thêm những quan hệ hiệp thông và cộng tác giữa Giáo hội Việt Nam và Giáo hội Hoa Kỳ.”
Trong phái đoàn Giám mục Việt Nam tham dự còn có Ðức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, vừa được tấn phong Hồng y trong số 30 vị vào tháng 10.2003. Mặc dầu Ðức tân Hồng y không có tuyên bố gì trước Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, thế nhưng lá thư của Ðức tân Hồng y khi còn là Tổng Giám mục đã gửi cho Ðại Hội Giáo Dân Công Giáo vào mùa Giáng Sinh 2002, đã được dịch ra tiếng Anh và được phân phối trong hội nghị trong ngày khai mạc Hội nghị Hội đồng Giám mục vào ngày thứ Hai 10.11.2003.
Ðức Hồng y nhắc đến 2 bổn phận hàng đầu mà Việt Nam phải đối đầu là “dần dần tẩy sạch” những tệ nạn trong nước và làm phong phú thêm những giá trị nhân bản “để làm cho xã hội chúng ta có định hướng nhân bản hơn”.
Trong thư Ðức Hồng y Mẫn đã kêu gọi đến “một tình liên đới trong xã hội” tại Việt Nam, ngài nói đến “Ðộc tài là con đường đưa đến chế độ cực quyền, độc trị và quan liêu, mọi thứ dưới quyền cai trị của nhà nước, đàn áp và bất công. Những điều này là sự suy đồi nghiêm trọng mà nó tiêu diệt giá trị nhân bản và cản trở đến sự phát triển của quốc gia”.
Ngài đã nói đến các người giáo dân trong vai trò lãnh đạo nên “đóng góp những nỗ lực tích cực của họ để xây dựng và bảo vệ đất nước chúng ta theo những chỉ dẫn thích hợp của Công giáo, của lương tâm và của niềm tin” . Một vài tệ nạn mà Ðức Hồng y Phạm Minh Mẫn vạch trần gồm có chủ thuyết duy vật, đánh mất đi giá trị con người và sự bất công vẫn còn tiếp diễn.
Ðây là lần thứ hai mà Hội đồng Giám mục Việt Nam chính thức viếng thăm và tham dự Hội nghị Hội đồng Giám mục Công giáo quốc gia bạn. Lần đầu tiên Hội đồng Giám mục đã tham gia Hội nghị Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân vào năm 2002.
Thay Lời Kết
Cuộc hành trình hiệp thông và liên đới giữa hai Giáo hội Công giáo Việt Nam và Hoa Kỳ là một tiến trình liên hệ chẳng những cần thiết cho Hội Thánh, mà còn là một tương quan đối thoại mở đường nối kết giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Ngày kết thân huynh đệ hai Giáo hội Việt Nam và Hoa Kỳ đã được khởi sự bước đầu bằng hiệp thông và liên đới với nhau trong lời cầu nguyện. Gần 70 triệu người Công giáo Mỹ, mà trong đó có khoảng nửa triệu dân Công giáo Việt Nam liên kết gắn bó với trên 6 triệu đồng bào Công giáo nơi quê nhà để cùng dâng lên Cha trên trời, đặc biệt trong ngày kết thân huynh đệ này, những tâm tình khẩn nguyện tha thiết nhất cho quốc thái dân an tại đất nước Hoa Kỳ cũng như trên quê hương Việt Nam mến yêu.
Xin cho cả hai Giáo hội đã bắt đầu hiệp thông và liên đới với nhau trong kinh nguyện, cũng tiếp tục đẩy mạnh sự hỗ trợ nhau trong mọi công việc sống và loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, cùng nhau hướng tới con đường phía trước, chia sẻ với nhau niềm Vui Mừng và Hy Vọng. Một tay nắm lấy Chúa Giêsu, Mẹ Maria La Vang và các Thánh Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam, một tay nắm lấy anh chị em, hai Hội Thánh Việt-Mỹ đồng hành xây dựng những con người mới sẵn sàng cùng nhau thể hiện và cổ võ lối sống “Bác ái, Huynh đệ, Hiệp nhất, Phục vụ” cho một Việt Nam mới, một đất nước Việt Nam của sự thật, tự do, công lý, và tình thương!
Giuse Đặng Văn Kiếm
Tài liệu tham chiếu:
• Các văn bản của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ
• Các văn bản của Hội đồng Giám mục Việt Nam
• Các tài liệu của Thông tấn xã VietCatholic
• Các tài liệu của Liên đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
Khóa học về linh đạo, đặc sủng, sứ vụ Dòng tại Toà giám mục Bùi Chu
Nt. Minh Huệ fmsr
04:06 29/08/2009
BÙI CHU – Ngày 26-08-2009 vừa qua, tại Tòa giám mục Bùi Chu, Hội Liên hiệp các Bề Trên thượng cấp đã tổ chức Khóa học hỏi về đặc sủng, linh đạo và sứ vụ Dòng cho hơn 200 học viên đến từ các Dòng tu thuộc Giáo tỉnh Hà Nội.
Mở đầu khóa học cha Giuse Lê Văn Sở, Tuyên úy các Dòng tu đã ngỏ lời chào mừng ban giảng viên và các học viên. Kế đó là lời giáo huấn của Cha Tôma Vũ Quang Trung (SJ) – Bề trên liên hiệp các Dòng tu. Ngài nói: “Khóa học này được tổ chức để tiếp nối các khóa học trước về đặc sủng, linh đạo và sứ vụ Dòng. Hơn nữa, với một xã hội không ngừng thay đổi như ngày hôm nay, người tu sĩ được mời gọi hòa nhập để sống chứng tá Tin mừng, nhưng vẫn giữ được điều cốt lõi của đời tu. Chính vì thế, mỗi tu sĩ cần phải trở về nguồn, tìm lại căn tính của đời tu qua việc học hỏi đặc sủng, linh đạo và sứ vụ của Dòng”.
Khóa học kéo dài trong 3 ngày: từ 26 đến 28 tháng tám dưới dự hướng dẫn của quý cha giảng viên: cha Gioan Phạm Hoàng Sinh (OP) và cha Bề trên Gioan Baotixita Trần Hữu Hạnh (FSF).
Với đề tài: “Căn tính, đặc sủng của Dòng tu – một đóng góp quan trọng trong thần học đời sống thánh hiến, sau công đồng Vatican II”, cha Phạm Hoàng Sinh (OP) đã mang đến cho các học viên một cái nhìn cụ thể, rõ ràng và ý nghĩa hơn về căn tính đời tu: đó là đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi; để từ đó người tu sĩ xác tín về căn tính của Hội Dòng mình.
Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Hạnh (FSF) chia sẻ đề tài: “Đặc sủng và sứ vụ”. Một lần nữa, các học viên được hiểu rõ hơn về vai trò và sứ vụ của mình theo đặc sủng của mỗi Hội Dòng. Ngài ví: “Hội Dòng như là một cây, trong đó gốc cây chính là đặc sủng, thân cây là linh đạo, còn hoa trái là sứ vụ của Dòng”. Đồng thời ngài cũng nhấn mạnh: “Dù nhu cầu cấp bách thế nào đi nữa, mỗi tu sĩ luôn nhớ rằng sự đóng góp tốt nhất mà Hội Dòng có thể đem lại cho Giáo hội là sự trung thành với đoàn sủng mà Đấng sáng lập để lại. Hội Dòng càng hiện diện theo đoàn sủng của mình, càng đem lại nhiều hoa trái.”
Khóa học tổng kết vào chiều 28-08. Trong phần đúc kết, cha chủ tịch đánh giá cao về những thành quả tốt đẹp đã đạt được trong khóa học. Ngài nhấn mạnh: “Khóa học hết sức quan trọng vì nó liên quan sâu xa tới đời sống thánh hiến. Từ trước tới nay chúng ta nghe nói tới đặc sủng, linh đạo và sứ vụ nhiều nhưng chưa có dịp khám phá ý nghĩa đích thực của nó. Khoá học giúp chúng ta có một nền tảng căn bản để hiểu rõ hơn, yêu mến hơn đường hướng mà Đấng sáng lập mỗi Hội Dòng để lại. Ngoài ra, khoá học còn giúp chúng ta ý thức được vườn hoa muôn màu muôn sắc của Hội Thánh; và là cơ hội giúp chúng ta gặp nhau, nắm tay nhau để cùng giúp đỡ nhau sống sâu xa hơn Hồng ân Thánh hiến ngang qua đặc sủng, linh đạo của mỗi Hội Dòng.”
Mở đầu khóa học cha Giuse Lê Văn Sở, Tuyên úy các Dòng tu đã ngỏ lời chào mừng ban giảng viên và các học viên. Kế đó là lời giáo huấn của Cha Tôma Vũ Quang Trung (SJ) – Bề trên liên hiệp các Dòng tu. Ngài nói: “Khóa học này được tổ chức để tiếp nối các khóa học trước về đặc sủng, linh đạo và sứ vụ Dòng. Hơn nữa, với một xã hội không ngừng thay đổi như ngày hôm nay, người tu sĩ được mời gọi hòa nhập để sống chứng tá Tin mừng, nhưng vẫn giữ được điều cốt lõi của đời tu. Chính vì thế, mỗi tu sĩ cần phải trở về nguồn, tìm lại căn tính của đời tu qua việc học hỏi đặc sủng, linh đạo và sứ vụ của Dòng”.
Khóa học kéo dài trong 3 ngày: từ 26 đến 28 tháng tám dưới dự hướng dẫn của quý cha giảng viên: cha Gioan Phạm Hoàng Sinh (OP) và cha Bề trên Gioan Baotixita Trần Hữu Hạnh (FSF).
Với đề tài: “Căn tính, đặc sủng của Dòng tu – một đóng góp quan trọng trong thần học đời sống thánh hiến, sau công đồng Vatican II”, cha Phạm Hoàng Sinh (OP) đã mang đến cho các học viên một cái nhìn cụ thể, rõ ràng và ý nghĩa hơn về căn tính đời tu: đó là đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi; để từ đó người tu sĩ xác tín về căn tính của Hội Dòng mình.
Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Hạnh (FSF) chia sẻ đề tài: “Đặc sủng và sứ vụ”. Một lần nữa, các học viên được hiểu rõ hơn về vai trò và sứ vụ của mình theo đặc sủng của mỗi Hội Dòng. Ngài ví: “Hội Dòng như là một cây, trong đó gốc cây chính là đặc sủng, thân cây là linh đạo, còn hoa trái là sứ vụ của Dòng”. Đồng thời ngài cũng nhấn mạnh: “Dù nhu cầu cấp bách thế nào đi nữa, mỗi tu sĩ luôn nhớ rằng sự đóng góp tốt nhất mà Hội Dòng có thể đem lại cho Giáo hội là sự trung thành với đoàn sủng mà Đấng sáng lập để lại. Hội Dòng càng hiện diện theo đoàn sủng của mình, càng đem lại nhiều hoa trái.”
Khóa học tổng kết vào chiều 28-08. Trong phần đúc kết, cha chủ tịch đánh giá cao về những thành quả tốt đẹp đã đạt được trong khóa học. Ngài nhấn mạnh: “Khóa học hết sức quan trọng vì nó liên quan sâu xa tới đời sống thánh hiến. Từ trước tới nay chúng ta nghe nói tới đặc sủng, linh đạo và sứ vụ nhiều nhưng chưa có dịp khám phá ý nghĩa đích thực của nó. Khoá học giúp chúng ta có một nền tảng căn bản để hiểu rõ hơn, yêu mến hơn đường hướng mà Đấng sáng lập mỗi Hội Dòng để lại. Ngoài ra, khoá học còn giúp chúng ta ý thức được vườn hoa muôn màu muôn sắc của Hội Thánh; và là cơ hội giúp chúng ta gặp nhau, nắm tay nhau để cùng giúp đỡ nhau sống sâu xa hơn Hồng ân Thánh hiến ngang qua đặc sủng, linh đạo của mỗi Hội Dòng.”
Hành trình Emmaus III: Những lời cầu nguyện của các Linh mục
LM Peter Đỗ Sơn
14:09 29/08/2009
Lời cầu nguyện ngày thứ Hai 24.8.2009
Chủ tế: Khi cầu nguyện, Chúa Cha đáp ứng những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta cầu xin nhân danh Đức Giêsu, Chúa Con và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Trong tâm tình đó, chúng ta dâng lời nguyện xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn lành hồn xác cho Đức Thánh Cha Bênêđíctô, các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục để các ngài tìm mọi phương thế thích hợp xây dựng Giáo Hội mầu nhiệm hiệp thông, truyền giáo, và phục vụ con người trong xã hội.- Chúng con cầu xin Chúa.
• Hôm nay, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam chúng con tổ chức Đội Linh Mục EMMAUS lần thứ ba. Xin Chúa ban nhiều ân sủng xuống cho các cha về tham dự đai hội đến từ các Giáo Phận Hoa Kỳ và trên thế giới. Xin Chúa chúc lành cho các thiện chí của các ngài: gia tăng tình huynh đệ, tinh thần học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm mục vụ và tình đoàn kết trong việc mở mang Nước Chúa. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban cho Liên Đoàn Công Giáo Hoa Kỳ Các Liên Đoàn Công Giáo ở Hải Ngoại, và Giáo Hội Việt Nam ngày càng có nhiều người tín hữu dấn thân phục vụ trong cuộc sống tu trì. Và xin Chúa cho những ai sống trong đời tận hiến trung thành tuân giữ những gì họ đã thề hứa để sống trọn vẹn và làm chứng nhân đích thực cho Đức Kitô. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúng con cầu xin Chúa cho tất cả giáo dân Việt Nam ở Hoa Kỳ và mọi nơi trên thế giới mau mắn đáp lại ơn gọi làm tông đồ là góp phần làm cho thế giới được nhuần thấm tinh thần của Đức Kitô nơi họ đang sống và hoạt động. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúa đã mạc khải cho nhân loại rằng: những ai xây dựng hòa bình sẻ được phúc gọi là con Chúa. Xin Chúa cho tất cả mọi người Việt Nam, biết lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, biết tìm kiếm công lý Chúa đã dạy để cùng nhau kiến tạo nền hòa bình đích thực cho đất nước Việt Nam.
• Thử thách gian truân làm cho con người dể mất niềm tin vào Chúa. Qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hòa Bình, xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn kiên vững trong lòng tin không mệt mỏi trong yêu thươngvà đầy vui tươi trong hi vọng. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Chúa dạy chúng con luôn tin tưởng cầu xin, luôn vui vẻ tìm kiếm,và luôn gõ cửa với niềm hi vọng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Ba 25.8.2009
Chủ Tế: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã sai Đức Giêsu nhập thể làm người, mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Nước Trời. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Người, chúng ta dâng lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho tất cả các linh mục luôn trọn đời trung tín với sứ mạng của mình để các ngài phân phát các mầu nhiệm thánh. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Số linh mục ngày nay trên thế giới thiếu hụt trầm trọng. Xin Chúa cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội Hoa Kỳ, Giáo Hội Việt Nam, và Giáo Hội Hoàn Vũ góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận và các dòng tu, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ chủng viện. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Trên thế giới hiện nay, nhiều người chết vì đói khát và bệnh tật. Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia của Hoa Kỳ, Việt Nam và thế giới quan tâm nhiều hơn đến đời sống của người nghèo khổ. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Lavang xin Chúa cho mọi người Việt Nam ở trong nước và ở hải ngoại luôn biết tìm lợi ích chung. Nhờ đó, xã hội chúng ta đang sống sẽ công bình, đất nước được thịnh vượng mọi người được an vui hạnh phúc và hưởng tự do tôn giáo. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban sức mạnh cho những ai đang đau khổ vì đức tin bị ngược đãi vì công lý để họ được tràn đầy Thần Khí Chúa giúp họ sống kiên nhẫn và yêu thương dù trong cảnh gian truân cùng khốn, họ luôn được an bình trong tâm hồn. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban phép lành cho các linh mục đang ốm đau bệnh tật sớm tìm lại được sức khỏe và luôn trông cậy nơi Đức Kitô. Và khi đến giời từ biệt cỏi đời này Xin Chúa cho các ngài được bình anvà được hưởng phúc trường sinh bất tử.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người.- Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Ch úa cho những điều chúng con tin và tuyên xưng ngoài môi miệng, được thực hành qua đời sống hằng ngày.Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Tư 26.8.2009
Chủ Tế: Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể làm người là ánh sáng cứu độ trần gian. Trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng ta dâng lên Ngài những lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng con cầu xin Thiên Chúa ban cho Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam chúng con Các Liên Đoàn Công Giáo Hải Ngoại và Giáo Hội Việt Nam ngày càng có nhiều linh mục vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ vừa hăng say rao giảng Phúc Âm và tìm mọi phương thế thích hợp giúp tín hữu hiểu Lời Chúa và đem ra thực hành.- Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúng ta đang sống trong xã hội văn minh mà nạn kỳ thị chủng tộc, màu da, ngôn ngữ vẫn còn Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ quan tâm nhiều hơn đến quyền lợi và phẩm giá người dân. -Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa chúc lành cho đời sống mỗi người chúng con, và mọi người Việt Nam đang sinh sống ở mọi nơi trên thế giới luôn khao khát một đời sống thánh thiện tốt lành luôn yêu thương, đoàn kết, và cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam: văn minh, công bằng, và dân chủ. -Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ủi an và nâng đỡ những người tỵ nạn, những người biệt xứ, những trẻ em phải xa cách gia đình, những người bị bỏ rơi. Xin cho họ thấy những ngày khốn khổ của mình mau chấm dứt và sớm tìm được sự trợ giúp chu đáo nơi chúng con, các vị hữu trách của chính quyền và mọi người dân. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam xin Chúa thương đến các linh mục đang bị cầm tù bị ngược đãi vì đức tin công giáo,bảo vệ công lý, quyền lợi và phẩm giá con người. Xin cho các ngài đừng rơi vào tuyệt vọng và sớm được hưởng tự do mà Thiên Chúa trao ban. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin cho ánh sáng vinh quang của Chúa Kitô luôn tỏa sáng trong đời sống và giúp chúng con đạt được ánh sáng vĩnh cửu ở quê trời.Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Năm 27.8.2009
Chủ Tế: Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa con người với Thiên Chúa. Không có Ngài, chúng ta không làm gì được.Tin tưởng vào quyền năng cao cả của Thiên Chúa, chúng ta dâng lên Ngài những lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, xin Chúa ban nhiều ơn lành hồn xác cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam ở trong nước và Hải Ngoại: một đức tin toàn vẹn, một đức ái vững bền, sự hợp nhất trong yêu thương để cùng làm chứng cho Đức Kitô qua lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm và gương sáng đức tin của mình. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Cầu cho các nhà lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ, Việt Nam và Thế Giới để họ không tìm kiếm vinh quang cho cá nhân và gia đình, mà lo phục vụ người dân và đất nước. Xin Chúa cũng cho họ và tất cả những ai thi hành pháp luật: biết làm mọi sự có thể được để bảo vệ gia đình, hạt nhân quan trọng nhất của xã hội. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho các nhà hoạt động xã hội và những người xây dựng hòa bình ở Việt Nam và Hải Ngoại được nhiều ơn thánh của Chúa, để những nổ lực của họ đem lại kết quả tốt đẹp cho công việc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho công việc giảng dạy và học tập ở Việt Nam, không chỉ đạt được về trình độ hiểu biết ngành nghề chuyên môn xử dụng văn bằng thật qua học hỏi và rèn luyện bởi công sức của mình mà còn đạt được nhân cách, biết tôn trọng phẩm giá và các quyền cơ bản của con người. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho những ai làm công tác truyền thông, truyền hình và báo chí của Chính Phủ Việt Nam: biết tôn trọng sự thật khi đăng tải các thông tin qua báo chí, truyền thanh và truyền hình. Bởi vì chỉ sự thật mới phản ánh đúng sự việc, sự thật được tôn trọng, giúp con người và xã hội phát triển về mọi lĩnh vực trong công bằng, yêu thương, và hợp nhất. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Thánh Gioan Marie Vianny, xin Chúa cho các Linh Mục, những người thân trong gia đình, bạn bè của chúng con, và tất cả những ai đã yên nghĩ trong lòng tin xin cho họ được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Chúa Phục Sinh.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa là Đấng quan phòng, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Ngài ban sức mạnh lúc chúng con yếu đuối, bảo vệ và cứu giúp chúng con lúc nguy hiểm, gian nan khốn khó. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Chủ tế: Khi cầu nguyện, Chúa Cha đáp ứng những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta cầu xin nhân danh Đức Giêsu, Chúa Con và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Trong tâm tình đó, chúng ta dâng lời nguyện xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn lành hồn xác cho Đức Thánh Cha Bênêđíctô, các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục để các ngài tìm mọi phương thế thích hợp xây dựng Giáo Hội mầu nhiệm hiệp thông, truyền giáo, và phục vụ con người trong xã hội.- Chúng con cầu xin Chúa.
• Hôm nay, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam chúng con tổ chức Đội Linh Mục EMMAUS lần thứ ba. Xin Chúa ban nhiều ân sủng xuống cho các cha về tham dự đai hội đến từ các Giáo Phận Hoa Kỳ và trên thế giới. Xin Chúa chúc lành cho các thiện chí của các ngài: gia tăng tình huynh đệ, tinh thần học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm mục vụ và tình đoàn kết trong việc mở mang Nước Chúa. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban cho Liên Đoàn Công Giáo Hoa Kỳ Các Liên Đoàn Công Giáo ở Hải Ngoại, và Giáo Hội Việt Nam ngày càng có nhiều người tín hữu dấn thân phục vụ trong cuộc sống tu trì. Và xin Chúa cho những ai sống trong đời tận hiến trung thành tuân giữ những gì họ đã thề hứa để sống trọn vẹn và làm chứng nhân đích thực cho Đức Kitô. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúng con cầu xin Chúa cho tất cả giáo dân Việt Nam ở Hoa Kỳ và mọi nơi trên thế giới mau mắn đáp lại ơn gọi làm tông đồ là góp phần làm cho thế giới được nhuần thấm tinh thần của Đức Kitô nơi họ đang sống và hoạt động. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúa đã mạc khải cho nhân loại rằng: những ai xây dựng hòa bình sẻ được phúc gọi là con Chúa. Xin Chúa cho tất cả mọi người Việt Nam, biết lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, biết tìm kiếm công lý Chúa đã dạy để cùng nhau kiến tạo nền hòa bình đích thực cho đất nước Việt Nam.
• Thử thách gian truân làm cho con người dể mất niềm tin vào Chúa. Qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hòa Bình, xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn kiên vững trong lòng tin không mệt mỏi trong yêu thươngvà đầy vui tươi trong hi vọng. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Chúa dạy chúng con luôn tin tưởng cầu xin, luôn vui vẻ tìm kiếm,và luôn gõ cửa với niềm hi vọng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Ba 25.8.2009
Chủ Tế: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã sai Đức Giêsu nhập thể làm người, mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Nước Trời. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Người, chúng ta dâng lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho tất cả các linh mục luôn trọn đời trung tín với sứ mạng của mình để các ngài phân phát các mầu nhiệm thánh. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Số linh mục ngày nay trên thế giới thiếu hụt trầm trọng. Xin Chúa cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội Hoa Kỳ, Giáo Hội Việt Nam, và Giáo Hội Hoàn Vũ góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận và các dòng tu, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ chủng viện. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Trên thế giới hiện nay, nhiều người chết vì đói khát và bệnh tật. Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia của Hoa Kỳ, Việt Nam và thế giới quan tâm nhiều hơn đến đời sống của người nghèo khổ. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Lavang xin Chúa cho mọi người Việt Nam ở trong nước và ở hải ngoại luôn biết tìm lợi ích chung. Nhờ đó, xã hội chúng ta đang sống sẽ công bình, đất nước được thịnh vượng mọi người được an vui hạnh phúc và hưởng tự do tôn giáo. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban sức mạnh cho những ai đang đau khổ vì đức tin bị ngược đãi vì công lý để họ được tràn đầy Thần Khí Chúa giúp họ sống kiên nhẫn và yêu thương dù trong cảnh gian truân cùng khốn, họ luôn được an bình trong tâm hồn. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ban phép lành cho các linh mục đang ốm đau bệnh tật sớm tìm lại được sức khỏe và luôn trông cậy nơi Đức Kitô. Và khi đến giời từ biệt cỏi đời này Xin Chúa cho các ngài được bình anvà được hưởng phúc trường sinh bất tử.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người.- Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Ch úa cho những điều chúng con tin và tuyên xưng ngoài môi miệng, được thực hành qua đời sống hằng ngày.Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Tư 26.8.2009
Chủ Tế: Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể làm người là ánh sáng cứu độ trần gian. Trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng ta dâng lên Ngài những lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng con cầu xin Thiên Chúa ban cho Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam chúng con Các Liên Đoàn Công Giáo Hải Ngoại và Giáo Hội Việt Nam ngày càng có nhiều linh mục vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ vừa hăng say rao giảng Phúc Âm và tìm mọi phương thế thích hợp giúp tín hữu hiểu Lời Chúa và đem ra thực hành.- Chúng con cầu xin Chúa.
• Chúng ta đang sống trong xã hội văn minh mà nạn kỳ thị chủng tộc, màu da, ngôn ngữ vẫn còn Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ quan tâm nhiều hơn đến quyền lợi và phẩm giá người dân. -Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa chúc lành cho đời sống mỗi người chúng con, và mọi người Việt Nam đang sinh sống ở mọi nơi trên thế giới luôn khao khát một đời sống thánh thiện tốt lành luôn yêu thương, đoàn kết, và cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam: văn minh, công bằng, và dân chủ. -Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa ủi an và nâng đỡ những người tỵ nạn, những người biệt xứ, những trẻ em phải xa cách gia đình, những người bị bỏ rơi. Xin cho họ thấy những ngày khốn khổ của mình mau chấm dứt và sớm tìm được sự trợ giúp chu đáo nơi chúng con, các vị hữu trách của chính quyền và mọi người dân. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam xin Chúa thương đến các linh mục đang bị cầm tù bị ngược đãi vì đức tin công giáo,bảo vệ công lý, quyền lợi và phẩm giá con người. Xin cho các ngài đừng rơi vào tuyệt vọng và sớm được hưởng tự do mà Thiên Chúa trao ban. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin cho ánh sáng vinh quang của Chúa Kitô luôn tỏa sáng trong đời sống và giúp chúng con đạt được ánh sáng vĩnh cửu ở quê trời.Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời cầu nguyện ngày thứ Năm 27.8.2009
Chủ Tế: Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa con người với Thiên Chúa. Không có Ngài, chúng ta không làm gì được.Tin tưởng vào quyền năng cao cả của Thiên Chúa, chúng ta dâng lên Ngài những lời cầu xin.
• Trong Năm Thánh Linh Mục, xin Chúa ban nhiều ơn lành hồn xác cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam ở trong nước và Hải Ngoại: một đức tin toàn vẹn, một đức ái vững bền, sự hợp nhất trong yêu thương để cùng làm chứng cho Đức Kitô qua lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm và gương sáng đức tin của mình. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Cầu cho các nhà lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ, Việt Nam và Thế Giới để họ không tìm kiếm vinh quang cho cá nhân và gia đình, mà lo phục vụ người dân và đất nước. Xin Chúa cũng cho họ và tất cả những ai thi hành pháp luật: biết làm mọi sự có thể được để bảo vệ gia đình, hạt nhân quan trọng nhất của xã hội. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho các nhà hoạt động xã hội và những người xây dựng hòa bình ở Việt Nam và Hải Ngoại được nhiều ơn thánh của Chúa, để những nổ lực của họ đem lại kết quả tốt đẹp cho công việc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho công việc giảng dạy và học tập ở Việt Nam, không chỉ đạt được về trình độ hiểu biết ngành nghề chuyên môn xử dụng văn bằng thật qua học hỏi và rèn luyện bởi công sức của mình mà còn đạt được nhân cách, biết tôn trọng phẩm giá và các quyền cơ bản của con người. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Xin Chúa cho những ai làm công tác truyền thông, truyền hình và báo chí của Chính Phủ Việt Nam: biết tôn trọng sự thật khi đăng tải các thông tin qua báo chí, truyền thanh và truyền hình. Bởi vì chỉ sự thật mới phản ánh đúng sự việc, sự thật được tôn trọng, giúp con người và xã hội phát triển về mọi lĩnh vực trong công bằng, yêu thương, và hợp nhất. - Chúng con cầu xin Chúa.
• Qua lời chuyển cầu của Thánh Gioan Marie Vianny, xin Chúa cho các Linh Mục, những người thân trong gia đình, bạn bè của chúng con, và tất cả những ai đã yên nghĩ trong lòng tin xin cho họ được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Chúa Phục Sinh.
• Trong thinh lặng, xin dâng lên ý nguyện riêng của mỗi người. -Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa là Đấng quan phòng, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện. Xin Ngài ban sức mạnh lúc chúng con yếu đuối, bảo vệ và cứu giúp chúng con lúc nguy hiểm, gian nan khốn khó. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Giới trẻ Công Giáo Huế cam kết không sống thử trước hôn nhân
Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo
16:11 29/08/2009
Huế, Việt Nam ( 29/8/2009) - Nhiều bạn trẻ Công Giáo Huế cam kết không sống thử trước hôn nhân sau khi tham dự đêm hội thi có chủ đề: ’’ Thắp Sáng Tin Yêu’’ do ban truyền thông HIV/AIDS giáo phận Huế tổ chức.
Hội trường Anh Đào của hội dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế, đêm 28/9/2009 ầm vang những tiếng trống dồn, hò la cổ động của hơn 250 người tham dự gồm linh mục, nữ tu và giới trẻ.
Các bạn trẻ đến từ 7 giáo xứ: Kim Long, An Vân, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Phú Hậu, Triều Sơn Nam, Phanxicô và Tân Thủy. Họ tham gia thi về HIV/AIDS, đóng kịch theo tiểu phẩm và thuyết trình về đời sống Tiết dục, Chung thủy.
Giới trẻ giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế giới thiệu về địa lý giáo xứ họ có bến xe liên tỉnh, nhà hàng cao cấp, quán rượu, phòng trà sang trọng. Những tụ điểm này, có nhiều nguy cơ cám dỗ do những hoạt động sôi động thường ngày như cá độ bóng đá, cờ bạc, rượu chè, ma túy, lối sống buông thả.
"Chúng tôi xa lánh được những tệ nạn này, nhờ tham gia lớp giáo lý dự bị Hôn nhân- Gia đình’’. Anh trưởng ban giới trẻ nói, khóa học về đề tài Tiết dục và Chung thủy.
đã giúp giới trẻ trong giáo xứ biết phòng ngừa lây nhiễm HIV.
Bạn Quỳnh Anh, đến từ giáo xứ Phanxicô cho rằng Sống Khiết Tịnh là tự bảo vệ cho mình trước đại dịch AIDS. Quỳnh Anh nói, sống thử trước hôn nhân là mắc tội với Chúa và thiếu bác ái với tha nhân, dẫn đến hậu quả phá thai, nguy cơ lây bệnh về đường tình dục và lây nhiễm HIV.
Trong khi đó một bạn trẻ giáo xứ Triều Sơn Nam nói, các hành vi tình dục phải nằm trong hôn nhân Công giáo. Đó là hành vi tình dục có đạo đức mà Chúa đã kết hợp giữa người nam và người nữ trước mặt Ngài.
Khi được hỏi về lý do nào bao cao su được chấp nhận, và lý do nào để từ chối. 99% Giới trẻ Công giáo Huế là những Nghĩa sĩ phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đều từ chối vì đó là phương pháp đi ngược lại luật Giáo hội. Các bạn trẻ của giáo xứ Phú Hậu còn quyết tâm sống đạo bằng cách Tiết dục và Chung Thủy.
"Tiết dục và Chung Thủy" là đề tài ban truyền thông HIV/AIDS Công giáo áp dụng để truyền thông cho hầu hết các giáo xứ trong giáo phận Huế. Phương pháp này có hiệu quả đã giúp cho giáo phận Huế đẩy lùi và ngăn chặn đại dịch AIDS trong những năm qua.
Trong cuộc chiến chống AIDS, các Đức Giáo Hoàng gần đây từ Đức Gioan Phaolô 2 và Đức Bênêđitô 16 thường nhấn mạnh đến “sự khiết tịnh” và “lòng chung thủy”. Đó là hai thái độ thực sự căn bản và quan trọng trong cuộc chiến đẩy lùi bệnh AIDS cách toàn diện.
Linh mục An tôn Nguyễn Văn Tuyến, cố vấn của ban truyền thông HIV/AIDS giáo phận Huế nói rằng ngài có cảm nhận giới trẻ Công giáo Huế trưởng thành hơn khi họ chọn đúng đường mà Giáo Hội đã đi hơn 2000 năm qua là Tiết Dục và sống Chung thủy.
Trong số người tham dự này, có Bác sĩ Trần Quang Minh đại diện cơ quan Bắc Âu Trợ Giúp Việt Nam (NAV) tại Huế nói: ’’ Tôi vui mừng vì chính các bạn đang góp phần đẩy lùi bệnh AIDS ’’.
Hội trường Anh Đào của hội dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế, đêm 28/9/2009 ầm vang những tiếng trống dồn, hò la cổ động của hơn 250 người tham dự gồm linh mục, nữ tu và giới trẻ.
Các bạn trẻ đến từ 7 giáo xứ: Kim Long, An Vân, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Phú Hậu, Triều Sơn Nam, Phanxicô và Tân Thủy. Họ tham gia thi về HIV/AIDS, đóng kịch theo tiểu phẩm và thuyết trình về đời sống Tiết dục, Chung thủy.
Giới trẻ giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế giới thiệu về địa lý giáo xứ họ có bến xe liên tỉnh, nhà hàng cao cấp, quán rượu, phòng trà sang trọng. Những tụ điểm này, có nhiều nguy cơ cám dỗ do những hoạt động sôi động thường ngày như cá độ bóng đá, cờ bạc, rượu chè, ma túy, lối sống buông thả.
"Chúng tôi xa lánh được những tệ nạn này, nhờ tham gia lớp giáo lý dự bị Hôn nhân- Gia đình’’. Anh trưởng ban giới trẻ nói, khóa học về đề tài Tiết dục và Chung thủy.
đã giúp giới trẻ trong giáo xứ biết phòng ngừa lây nhiễm HIV.
Bạn Quỳnh Anh, đến từ giáo xứ Phanxicô cho rằng Sống Khiết Tịnh là tự bảo vệ cho mình trước đại dịch AIDS. Quỳnh Anh nói, sống thử trước hôn nhân là mắc tội với Chúa và thiếu bác ái với tha nhân, dẫn đến hậu quả phá thai, nguy cơ lây bệnh về đường tình dục và lây nhiễm HIV.
Trong khi đó một bạn trẻ giáo xứ Triều Sơn Nam nói, các hành vi tình dục phải nằm trong hôn nhân Công giáo. Đó là hành vi tình dục có đạo đức mà Chúa đã kết hợp giữa người nam và người nữ trước mặt Ngài.
Khi được hỏi về lý do nào bao cao su được chấp nhận, và lý do nào để từ chối. 99% Giới trẻ Công giáo Huế là những Nghĩa sĩ phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đều từ chối vì đó là phương pháp đi ngược lại luật Giáo hội. Các bạn trẻ của giáo xứ Phú Hậu còn quyết tâm sống đạo bằng cách Tiết dục và Chung Thủy.
"Tiết dục và Chung Thủy" là đề tài ban truyền thông HIV/AIDS Công giáo áp dụng để truyền thông cho hầu hết các giáo xứ trong giáo phận Huế. Phương pháp này có hiệu quả đã giúp cho giáo phận Huế đẩy lùi và ngăn chặn đại dịch AIDS trong những năm qua.
Trong cuộc chiến chống AIDS, các Đức Giáo Hoàng gần đây từ Đức Gioan Phaolô 2 và Đức Bênêđitô 16 thường nhấn mạnh đến “sự khiết tịnh” và “lòng chung thủy”. Đó là hai thái độ thực sự căn bản và quan trọng trong cuộc chiến đẩy lùi bệnh AIDS cách toàn diện.
Linh mục An tôn Nguyễn Văn Tuyến, cố vấn của ban truyền thông HIV/AIDS giáo phận Huế nói rằng ngài có cảm nhận giới trẻ Công giáo Huế trưởng thành hơn khi họ chọn đúng đường mà Giáo Hội đã đi hơn 2000 năm qua là Tiết Dục và sống Chung thủy.
Trong số người tham dự này, có Bác sĩ Trần Quang Minh đại diện cơ quan Bắc Âu Trợ Giúp Việt Nam (NAV) tại Huế nói: ’’ Tôi vui mừng vì chính các bạn đang góp phần đẩy lùi bệnh AIDS ’’.
Emmaus III: Tình hiệp nhất
Lm Thạch- Linh Nguyễn Đình Đệ
18:05 29/08/2009
Linh Mục Tình Hiệp Nhất một nhà
Thể hiện Ý Chúa: Tình Mẹ Cha
“Mến Chúa yêu người” thực hành sống
Mục Tử Thiên Quốc Ơn Thái Hòa.
Hãy loan báo “Hiến Chương Nước Trời”
Hành Trình Emmaus thật sáng ngời
Đồng tâm hoạt động Tình bác ái
Cùng chung liên kết tình tuyệt vời.
Sứ mạng Truyền giáo cho mọi người
Gương lành thánh đức: ”Chúa-làm-Người”
Dậy cho nhân loại biết cách sống
Yêu Chúa tha nhân hướng về Trời ‘
Tĩnh Huấn học hỏi không ngại chi
Thuyết trình phân phát luôn khắc ghi
Chia sẻ tiếp thu luôn bàn luận
Nhóm họp học hỏi đem thực thi.
Hành trình Tĩnh Huấn Chúa ban trao
Lãnh nhận Ơn Chúa hãy truyền rao
Nguồn Ơn cứu độ cho nhân thế
Thiên Ân tuôn đổ luôn dạt dào.
Sức mạnh linh thiêng Chúa Thánh Thần
Nguồn bẩy Ơn Thánh xuống gian trần
Xứng đáng lãnh nhận đầy Ơn Chúa
Hồn xác Hạnh Phúc đủ muôn phần.
Thiên Chúa ta tôn thờ muôn năm
Người là Tình Yêu đã trối trăng
Linh Mục Thượng Phẩm dậy thành tín
Luật Chúa nhân loại trọn giới răn.
GIÊSU Chí Thánh dọn chỗ chúng ta
Qua đời tạm về cùng Chúa Cha
Người là Đường-Chân Lý-Sự Sống
Ơn Phước Phục Sinh luôn An Hòa.
Huynh đệ Linh Mục Tình tuyệt vời
Đồng hóa Mục Tử của Chúa Trời
Kết Hiệp nên một Ba Ngôi Chúa
Hồn Xác Hạnh Phúc sống muôn đời.
Ghi Niệm “Tâm tình tham dự Hành Trình Emmaus 3"
từ ngày 24-27/8/2009 tại Santa Clara/San Jose, CA, USA
trong “Năm Thánh Linh Mục” do ĐTC Bênêđictô công bố từ 19/6/2009-19/6/2010
Thể hiện Ý Chúa: Tình Mẹ Cha
“Mến Chúa yêu người” thực hành sống
Mục Tử Thiên Quốc Ơn Thái Hòa.
Hãy loan báo “Hiến Chương Nước Trời”
Hành Trình Emmaus thật sáng ngời
Đồng tâm hoạt động Tình bác ái
Cùng chung liên kết tình tuyệt vời.
Sứ mạng Truyền giáo cho mọi người
Gương lành thánh đức: ”Chúa-làm-Người”
Dậy cho nhân loại biết cách sống
Yêu Chúa tha nhân hướng về Trời ‘
Tĩnh Huấn học hỏi không ngại chi
Thuyết trình phân phát luôn khắc ghi
Chia sẻ tiếp thu luôn bàn luận
Nhóm họp học hỏi đem thực thi.
Hành trình Tĩnh Huấn Chúa ban trao
Lãnh nhận Ơn Chúa hãy truyền rao
Nguồn Ơn cứu độ cho nhân thế
Thiên Ân tuôn đổ luôn dạt dào.
Sức mạnh linh thiêng Chúa Thánh Thần
Nguồn bẩy Ơn Thánh xuống gian trần
Xứng đáng lãnh nhận đầy Ơn Chúa
Hồn xác Hạnh Phúc đủ muôn phần.
Thiên Chúa ta tôn thờ muôn năm
Người là Tình Yêu đã trối trăng
Linh Mục Thượng Phẩm dậy thành tín
Luật Chúa nhân loại trọn giới răn.
GIÊSU Chí Thánh dọn chỗ chúng ta
Qua đời tạm về cùng Chúa Cha
Người là Đường-Chân Lý-Sự Sống
Ơn Phước Phục Sinh luôn An Hòa.
Huynh đệ Linh Mục Tình tuyệt vời
Đồng hóa Mục Tử của Chúa Trời
Kết Hiệp nên một Ba Ngôi Chúa
Hồn Xác Hạnh Phúc sống muôn đời.
Ghi Niệm “Tâm tình tham dự Hành Trình Emmaus 3"
từ ngày 24-27/8/2009 tại Santa Clara/San Jose, CA, USA
trong “Năm Thánh Linh Mục” do ĐTC Bênêđictô công bố từ 19/6/2009-19/6/2010
Sinh hoạt Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Bùi Hữu Thư
20:55 29/08/2009
Arlington, VA ngày 29/8/2009: Hàng năm vào mùa hè Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thường tổ chức một ngày sinh hoạt cộng đồng vui chơi tại một công viên trong vùng. Năm nay cuộc picnic được tổ chức tại Lake Accotink Park, một nơi có đầy đủ tiện nghi, và nhất là có những sân chơi bóng chuyền, bóng rổ, túc cầu, mini golf, caroussel, cầu tuột, đu, hồ nước để đi kayak, thuyền pedalo, canô, barge….
Ban tổ chức đã phân công và ấn định chương trình sinh hoạt như sau:
Chương Trình Picnic Giáo Xứ ngày Thứ bẩy 29/8/2009
Thức ăn:
Ngay từ ngày thứ sáu các anh Liên Minh Thánh Tâm đã đi mua cánh gà và thịt bò để ướp sẵn. Hội Cao Niên đã đi mua đầy đủ sálát, cà chua, dưa leo, cà rốt, dầu dấm… Anh Hậu cùng các bạn đã lo nước uống, máy phát điện, than, đá, bong bóng và bảng chỉ dẫn lối đi.
Sáng thứ bẩy từ 7 giờ sáng các cụ cao niên đã tề tựu ở nhà thờ để gọt và bào càrốt, cắt sàlát, rửa cà chua. Khoảng trên 400 người lớn bé già trẻ đã tham dự một ngày picnic thật vui nhộn với thức ăn thật ngon miệng, hát Karaoke và đủ thứ trò chơi cho các lứa tuổi. Anh Trần Công Toàn đã khéo léo chia tất cả thành 5 nhóm có đeo bảng tên và tổ chức những trò chơi như: chào nhau, chim trong lồng, chim bay đi, nhẩy bao bố, kéo giây, đua chạy ngậm muỗng trên có trái chanh, đua bóc vỏ chanh bằng tay… Đặc biệt có hai nhóm kéo giây một bên có 5 nam, một bên có 4 nữ và cha Thích. Thế mà bên nữ đã thắng giải, chắc là nhờ cha Thích tuy nhỏ nhắn nhưng rất khỏe. Ngoài ra còn có các trận túc cầu, và bóng chuyền rất gay cấn.
Chúa thương, đêm qua mưa tầm tã, tiên đoán khí tượng cho hay sẽ có mưa về chiều. Buổi sáng sau thánh lễ 8 giờ sáng tại giáo xứ, mọi người ra Đài Đức Mẹ La Vang đọc kinh thì trời mưa lâm râm. Vậy mà khi ra đến Park thì hoàn toàn tạnh ráo, và đến trưa và chiều thì có nắng lên. Cả tuần lễ trước nhiệt độ ban ngày lên tới 93 độ, nhưng vì đêm qua mưa lớn, nhiệt độ trong ngày thứ bẩy giảm xuống 73, thật là dễ chịu. Ngoài cha Thích, còn có cha xứ Nguyễn Đức Vượng và Linh Mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi ghé thăm buổi picnic.
Chương trình nguyên thủy dự trù sẽ có thánh lễ lúc 6 giờ chiều và 8 giờ giải tán, nhưng để giúp cho giáo dân có thể tham dự buổi thắp nến cầu nguyện cho Tam Tòa tại Trung Tâm Thương Mại Eden lúc 7 giờ 30 tối, thánh lễ đã được cử hành tại công viên lúc 5 giờ 30. Nhờ đó rất nhiều người đã tới tham dự buổi cầu nguyện này với sự chủ tế của cha Vũ An, Chánh xứ Giáo Xứ Mẹ Việt Nam, và cha Phó Ngô Quốc Luân, Giáo Xứ CTTĐ Arlington. Cha An đã đọc các lời nguyện, còn cha Luân thì cùng các giáo dân Giáo Xứ CTTĐ đồng ca bài Kinh Hòa Bình. Ngoài phía Công Giáo, còn có các đại diện các tôn giáo bạn: Phật Giáo, Hòa Hảo… Buổi đọc kinh cầu nguyện do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức.
Mọi người hết sức tán thành việc tổ chức picnic năm nay và mong được trở lại cùng điạ điểm này sang năm, vì nơi đây rất lý tưởng cho việc thắt chặt tình thân hữu trong giáo xứ, giữa các hội đoàn và tạo dịp cho ba thế hệ, già, trung niên và trẻ cùng vui chơi và làm quen với các gia đình khác.
Ban tổ chức đã phân công và ấn định chương trình sinh hoạt như sau:
Chương Trình Picnic Giáo Xứ ngày Thứ bẩy 29/8/2009
- 9 am: Tập trung tại Accotink Park
- 10-12 am, Sinh Hoạt vui chơi, volley ball (anh Trần Công Toàn)
- 11-12 am, Chuẩn bị thức ăn (HDMV và tình nguyện viên)
- 12-2 pm, Ăn trưa
- 2-6 pm, Thi đấu Volley Ball, và sinh hoạt tập thể (anh Thịnh, Anh Toàn)
- 5 pm Thánh Lễ
- 6 pm: Cơm tối
- 8 pm Dọn Dẹp,làm sạch sẽ (Tiến Lê và toàn thể GX).
Thức ăn:
- Hotdog, Hamburger, Than nướng (anh Hậu)
- Thịt bò và Cánh Gà (Anh Thanh)
- Salad (Hội Cao Niên)
- Supply, water, soda, table cloth, trash bag (Anh Tâm)
- Ice (Anh Thảo)
- Cooler (Huynh Đoàn Đa Minh)
- Các dụng cụ chơi game (Anh Toàn, Anh Thịnh)
- Thánh Lễ (ChaThích)
- Hát cộng đoàn (Cô Dung Thanh, UBTC: lo bài hát)
- Trưởng Ban tổ chức: Anh Phan Hậu, HĐMV
Ngay từ ngày thứ sáu các anh Liên Minh Thánh Tâm đã đi mua cánh gà và thịt bò để ướp sẵn. Hội Cao Niên đã đi mua đầy đủ sálát, cà chua, dưa leo, cà rốt, dầu dấm… Anh Hậu cùng các bạn đã lo nước uống, máy phát điện, than, đá, bong bóng và bảng chỉ dẫn lối đi.
Sáng thứ bẩy từ 7 giờ sáng các cụ cao niên đã tề tựu ở nhà thờ để gọt và bào càrốt, cắt sàlát, rửa cà chua. Khoảng trên 400 người lớn bé già trẻ đã tham dự một ngày picnic thật vui nhộn với thức ăn thật ngon miệng, hát Karaoke và đủ thứ trò chơi cho các lứa tuổi. Anh Trần Công Toàn đã khéo léo chia tất cả thành 5 nhóm có đeo bảng tên và tổ chức những trò chơi như: chào nhau, chim trong lồng, chim bay đi, nhẩy bao bố, kéo giây, đua chạy ngậm muỗng trên có trái chanh, đua bóc vỏ chanh bằng tay… Đặc biệt có hai nhóm kéo giây một bên có 5 nam, một bên có 4 nữ và cha Thích. Thế mà bên nữ đã thắng giải, chắc là nhờ cha Thích tuy nhỏ nhắn nhưng rất khỏe. Ngoài ra còn có các trận túc cầu, và bóng chuyền rất gay cấn.
Chúa thương, đêm qua mưa tầm tã, tiên đoán khí tượng cho hay sẽ có mưa về chiều. Buổi sáng sau thánh lễ 8 giờ sáng tại giáo xứ, mọi người ra Đài Đức Mẹ La Vang đọc kinh thì trời mưa lâm râm. Vậy mà khi ra đến Park thì hoàn toàn tạnh ráo, và đến trưa và chiều thì có nắng lên. Cả tuần lễ trước nhiệt độ ban ngày lên tới 93 độ, nhưng vì đêm qua mưa lớn, nhiệt độ trong ngày thứ bẩy giảm xuống 73, thật là dễ chịu. Ngoài cha Thích, còn có cha xứ Nguyễn Đức Vượng và Linh Mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi ghé thăm buổi picnic.
Chương trình nguyên thủy dự trù sẽ có thánh lễ lúc 6 giờ chiều và 8 giờ giải tán, nhưng để giúp cho giáo dân có thể tham dự buổi thắp nến cầu nguyện cho Tam Tòa tại Trung Tâm Thương Mại Eden lúc 7 giờ 30 tối, thánh lễ đã được cử hành tại công viên lúc 5 giờ 30. Nhờ đó rất nhiều người đã tới tham dự buổi cầu nguyện này với sự chủ tế của cha Vũ An, Chánh xứ Giáo Xứ Mẹ Việt Nam, và cha Phó Ngô Quốc Luân, Giáo Xứ CTTĐ Arlington. Cha An đã đọc các lời nguyện, còn cha Luân thì cùng các giáo dân Giáo Xứ CTTĐ đồng ca bài Kinh Hòa Bình. Ngoài phía Công Giáo, còn có các đại diện các tôn giáo bạn: Phật Giáo, Hòa Hảo… Buổi đọc kinh cầu nguyện do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức.
Mọi người hết sức tán thành việc tổ chức picnic năm nay và mong được trở lại cùng điạ điểm này sang năm, vì nơi đây rất lý tưởng cho việc thắt chặt tình thân hữu trong giáo xứ, giữa các hội đoàn và tạo dịp cho ba thế hệ, già, trung niên và trẻ cùng vui chơi và làm quen với các gia đình khác.
Lều ngoài trời |
Ẩm Thực |
Nướng thịt |
Dàn Karaoke |
Cầu tuột |
Đánh đu |
Bóng rổ |
Bóng chuyền |
Kéo giây |
Nhẩy bao bố |
Đua chạy trái chanh |
Cha Văn Chi và các bạn |
Cha Vượng và một số giáo dân |
Ca Đoàn trong Thánh Lễ |
Thánh Lễ với cha Thích chủ tế |
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Nhân hai vụ giáo xứ Tam Toà và chùa Bát Nhã: Một chế độ cộng hoà xã hội đen?
Nguyễn Gia Kiểng
01:11 29/08/2009
“… Những vụ bạo hành của bọn đầu gấu sẽ chỉ có tác dụng đổ dầu vào lửa. ĐCSVN muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình…”
... Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.
...Đảng Cộng Sản muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình...
Do di sản văn hóa và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó...
Việc chính quyền cộng sản đàn áp các tín đồ Công Giáo tại giáo xứ Tam Toà đã được thông tin và bình luận khá nhiều. Tuy nhiên có hai điểm cần được đặc biệt lưu ý.
Điểm thứ nhất là đảng cộng sản hoàn toàn không biểu lộ một sự hiểu biết hay quan tâm nào đối với lịch sử.
Nhà thờ Tam Toà tuy chỉ được xây cất một cách bề thế năm 1940 nhưng có giá trị lịch sử rất lớn đối với người công giáo. Tam Toà là một trong những họ đạo đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ 17, và đã chứng kiến những trang sử bi đát nhất của Công Giáo Việt Nam: những đợt cấm đạo từ thời các chúa Nguyễn đến các triều vua Minh Mệnh và Tự Đức, những đợt tấn công của phong trào Cần Vương - Văn Thân và của một phần dân chúng các làng bên bị kích động. Máu người công giáo đã đổ nhiều, đã có những thánh tử đạo. Trong số giáo dân Tam Toà đầu tiên có những người đã được rửa tội bởi linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người đã có đóng góp văn hoá quan trọng nhất cho nước ta: Chữ Quốc Ngữ. Nỗi đau của người công giáo tại đây càng lớn khi năm 1954, sau hiệp định Genève, tất cả giáo dân, trừ một phụ nữ có chồng ngoại đạo, phải bỏ giáo xứ để di cư vào Nam, bỏ lại nhà thờ thân thương cùng tài sản và mồ mả tổ tiên của họ, vì biết không sống được dưới chế độ cộng sản trong một bối cảnh địa phương đầy thù ghét. Nhà thờ Tam Toà trở thành nhà kho và từ năm 1968 hoàn toàn hoang phế sau khi bị máy bay Mỹ ném bom phá hủy, chỉ còn lại mặt tiền.
Tam Toà là một phần lịch sử đau thương và một đất thiêng đối với người công giáo. Lòng tha thiết với đất cũ và nhà thờ cũ vẫn còn nguyên vẹn nên sau khi đất nước thống nhất giáo dân dần dần trở lại và giáo xứ Tam Toà ngày nay đã có gần một ngàn người. Nếu có những nơi nào trên đất nước Việt Nam mà cố gắng hoà giải dân tộc phải được thực hiện một cách nhiệt thành và quả quyết nhất thì Tam Toà là một, đặc biệt đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tại đây sau Cách Mạng Tháng 8 họ đã khủng bố người công giáo và kích thích tinh thần bài Công Giáo đến độ toàn bộ giáo dân phải bỏ vào Nam năm 1954. Những gì vừa xảy ra chứng tỏ họ hoàn toàn không không thay đổi và vẫn làm ngược hẳn với những gì đáng lẽ phải làm. Họ liên tục từ chối thỉnh cầu của giáo dân là được xây lại một nhà nguyện cạnh phế tích của nhà thờ Tam Toà cũ. viện cớ là phế tích này phải được giữ nguyên để làm chứng tích cho tội ác của Mỹ trong chiến tranh.
Đây chỉ là một lý cớ lỗ mãng bởi vì phế tích nhà thờ Tam Toà hoàn toàn không được bảo trì, nó bị bỏ hoang giữa một đám cỏ dại. Ngày 20-7 vừa qua khi giáo dân Tam Toà tập trung cầu nguyện trước nhà thờ cũ họ đã bị công an hành hung và giải tán một cách thô bạo. Ngày 26-7 khi họ lại đến đây cầu nguyện và vào giữa lúc 250.000 giáo dân giáo phận Vinh và hàng triệu giáo dân cả nước hướng về họ và cầu nguyện cho họ, sự thô bỉ của chính quyền cộng sản đã đạt một mức độ mới. Nhiều phân tử côn đồ được huy động tới để đánh đánh đập giáo dân, làm nhiều người bị thương trước sự chứng kiến của công an. Chiều hôm đó, một phái đoàn linh mục và giáo dân tới thăm tín hữu Tam Toà cũng bị bọn côn đồ này tấn công đả thương nhiều người, trong đó có linh mục Nguyễn Đình Phú. Phái đoàn phải bỏ chạy. Tệ hơn nữa là cách chính quyền đối xử với linh mục Ngô Thế Bính, đại diện toà tổng giám mục Vinh, khi ông tới trạm y tế thăm linh mục Nguyễn Đình Phú và các giáo dân bị đả thương. Linh mục Bính đã nhờ phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình là Nguyễn Công Thuận dẫn vào vì trạm cứu thương đang bị hàng trăm người hung hăng mang gậy gộc bao quanh, nhưng Nguyễn Công Thuận đã dẫn linh mục Bính tới đó rồi bỏ đi ngay để cho bọn côn đồ xông thẳng vào trạm đánh ông Bính. Chẳng khác gì Thuận giao linh mục Bính cho bọn côn đồ.
Cần lưu ý là trong số hung thủ đánh đập giáo dân chỉ có một thiểu là bọn đầu gấu thực sự. Ở một vùng thôn quê trong tỉnh Quảng Bình nghèo nhất nước không thể có một số lượng đầu gấu chuyên nghiệp đông đảo như vậy; phần lớn là những người dân nông cạn đã được kích động để thù ghét người công giáo. Họ cũng đã được rỉ tai rằng người công giáo sắp kéo về đây để đòi đất của họ. Chế độ cộng sản đã đưa dân chúng địa phương trở lại giai đoạn đen tối hơn một thế kỷ trước khi người Việt Nam đã dại dột để bị xúi dục tàn sát đồng bào mình vì lý do tôn giáo. Phong trào Nho Giáo tôn quân Văn Thân - Cần Vương ra đời với chủ trương dữ dằn "Bình Tây Sát Tả" (chống Pháp, giết công giáo) đã sát tả hơn là bình tây, họ đã đánh phá hàng ngàn họ đạo, giết hại hàng chục ngàn giáo dân và để lại những đổ vỡ khó hàn gắn. Tuy vậy cho tới một ngày gần đây hành động của họ không bị lên án đúng mức, trái lại nói chung họ còn được tôn vinh như là hiện thân của chí khí dân tộc. Chính vì thế dù phong trào Văn Thân - Cần Vương đã tan rã nhanh chóng ảnh hưởng của nó vẫn còn kéo dài và tạo ra tại nhiều địa phương một số người thù ghét một cách dai dẳng đạo Công Giáo. Văn Thân và Cần Vương chủ yếu là những phong trào địa phương và giáo xứ Tam Toà nằm trong một trong những địa phương này.
Như tất cả những xung đột đẫm máu có nguyên nhân từ văn hoá, vấn đề cần được nhìn một cách bình tĩnh và thận trọng. Có những mù quáng phải bị lên án dứt khoát nhưng cũng có những hiểu lầm và vụng về. Và cũng có những hoàn cảnh đưa đến hiểu lầm và vụng về. Không phải tất cả mọi lãnh tụ Văn Thân và Cần Vương đều chủ trương "sát tả" nhưng họ đã không thuyết phục được phong trào. Ngược lại người Công Giáo khi bị tấn công đã tự vệ và cũng gây thương vong cho những người tấn công họ. Họ cũng đã ít nhiều phải nhờ đến sự che chở của người Pháp, sự kiện này lại càng tạo lý cớ cho những người cáo buộc họ là "theo Tây", thậm chí cho rằng đạo Công Giáo được người Pháp đem vào Việt Nam làm dụng cụ xâm lược mặc dù nó đã có mặt tại Việt Nam ba thế kỷ trước và đã bị bách hại rất lâu trước khi Pháp bắt đầu dòm ngó Việt Nam. Các vua Minh Mệnh và Tự Đức khi ra chiếu cấm đạo cũng chỉ coi họ là theo một tà giáo chứ không hề buộc tội họ tiếp tay cho quân Pháp. Tuyệt đại đa số sĩ phu Việt Nam lúc đó chẳng biết gì về thế giới bên ngoài, các Văn Thân coi đạo Công Giáo như là đạo của chính quyền Pháp trong khi nước Pháp vừa trải qua cuộc cách mạng 1789 trong đó giáo hội Công Giáo đã bị đàn áp một cách đẫm máu trên cả nước và sau đó bị gặt hẳn khỏi chính quyền.
Việc các vua chúa Việt Nam cấm đạo và kêu gọi chống đạo có lý do của nó. Đó là vì đức tin Thiên Chúa Giáo phân biệt thượng đế và vua và do đó đe dọa nền tảng chính đáng của chế độ quân quyền theo đó vua cũng là trời. Đức tin này không hề xúc phạm đến dân tộc Việt Nam mà còn phải đưởc tán thành, đáng tiếc là một số giáo sĩ trong lúc truyền giáo đã bài xích những tín ngưỡng cổ truyền của Việt Nam như việc thờ cúng tổ tiên, thậm chí đôi khi ngay cả Phật Giáo, đóng góp tạo ra tâm lý bài Công Giáo trong quần chúng. Đã thế sau khi người Pháp áp đặt sự đô hộ Công Giáo lại được ưu đãi, càng gây bực bội cho nhiều người. Nhân và quả lẫn lộn với nhau tùy người nhìn, và trên hết là sự thiếu hiểu biết. Đố kỵ lương - giáo sau đó đã được khai thác cho những mục tiêu chính trị; một trong những thủ phạm chính là Đảng Cộng Sản.
Tình trạng phức tạp này có khi tạo ra những trường hợp rất nghịch lý. Phong trào Văn Thân - Cần Vương là một phong trào Nho Giáo, mà Nho Giáo bài xích Phật Giáo về bản chất, nhưng nhiều người phật giáo, kể cả một số tăng sĩ, cũng ủng hộ nó và coi sự thù ghét đạo Công Giáo như một lẽ tự nhiên, và tiếp tục nuôi dưỡng một tâm lý tồi tệ. Thích Trí Quang là một thí dụ. Ngược lại những hiềm khích mà họ đã là đối tượng cũng tạo ra nơi một số đáng kể người công giáo mặc cảm cô lập và tâm lý co cụm, tự coi mình là người công giáo trước khi là người Việt Nam. Hoá giải những xung khắc trong quá khứ và bình thường hoá chỗ đứng của người công giáo trong lòng dân tộc là một vấn đề còn đòi hỏi cố gắng và thời gian nhưng là điều phải làm đối với một chính quyền đúng nghĩa. Đảng cộng sản đã làm ngược lại. Họ đã kích thích sự thù ghét đối với người công giáo của một số người nông cạn, nạn nhân của sự tuyên truyền dối trá của chính họ, để dùng những người này tấn công giáo dân.
Chính sách trị an của đảng cộng sản rõ ràng là dựng thành phần dân tộc này chống lại thành phần dân tộc khác. Vụ chùa Bát Nhã trên Tây Nguyên cũng nằm trong cùng một chính sách, điều khác là ở đây một thành phần phật tử được điều động để chống lại một thành phần phật tử khác.
Giải quyết những vấn đề mà lịch sử để lại để đoàn kết người Việt Nam trong đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung không phải là quan tâm của đảng cộng sản. Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.
Về bản chất đảng cộng sản không phải là một lực lượng dân tộc. Chủ nghĩa Mác- Lênin không có tổ quốc, nó chủ trương xoá bỏ các quốc gia – Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc còn hơn là thuộc Việt Nam Cộng Hoà vì Bắc Kinh là anh em, Sài Gòn là thù địch. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp là tiếng gọi nội chiến, Lenin coi nội chiến là nền tảng của cách mạng vô sản. Tuy vậy những gì xảy ra tại Thái Hà, Tam Toà, Bảo Lộc, và chắc sẽ còn ở nhiều nơi khác nữa, vẫn làm người ta ngạc nhiên. Đảng cộng sản đã cầm quyền trên cả nước gần 35 năm rồi và chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ. Để tồn tại đáng lẽ nó phải cố gắng hoá thân thành một đảng dân tộc. Các cấp lãnh đạo cộng sản chắc chắn cũng phải hiểu như vậy. Nhưng tại sao họ làm ngược lại? Phải chăng họ cho rằng đã quá trễ để hoà với giải dân tộc Việt Nam và chọn lựa thực tiễn duy nhất chỉ là kéo dài chế độ thêm được ngày nào hay ngày đó bằng mọi phương tiện? Dã tâm đến từ tâm lý tuyệt vọng.
***
Điểm quan trọng thứ hai là hiện tượng đầu gấu hoá chính quyền.
Chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang hoá thân thành một chế độ cộng hoà xã hội đen. Hiện tượng này bắt đầu trong vụ xử Nguyễn Vũ Bình cuối năm 2002. Hình như đó là lần đầu tiên chính quyền cộng sản sử dụng bọn đầu gấu để hành hung gia đình và thân hữu của một người đối lập. Ngay sau đó qua điện thoại ông Hoàng Minh Chính đã bày tỏ với tôi sự ngạc nhiên và phẫn nộ, nhiều người bị đánh, chính ông dù già cả cũng đã bị xô đẩy. Kế tiếp là những vụ hành hung lẻ tẻ đối với dân oan khiếu kiện. Biện pháp sử dụng bọn xã hội đen hành hung những người chống đối trở thành thông lệ từ năm 2005. Ông Hoàng Minh Chính bị đám "quần chúng phẫn nộ" xô đẩy, xỉ vả và ném đồ bẩn vào nhà khi ông trở lại Hà Nội sau chuyến đi Mỹ. Rồi Phạm Hồng Sơn bị đánh; rồi đến lượt Nguyễn Phương Anh, Phạm Văn Trội, Phạm Đức Chính, Ngô Quỳnh khi đến Hữu Lũng, Lạng Sơn, thăm Vi Đức Hồi. Sau đó là cô Phạm Thanh Nghiên ở Hải Phòng. Cùng một kịch bản: công an chứng kiến bọn côn đồ đánh người đối lập mà không can thiệp. Tuy vậy vẫn chỉ là những nhóm nhỏ trên dưới mười tên. Biện pháp trở thành qui mô từ năm 2008 với hàng trăm tên côn đồ được điều động đến khiêu khích và hành hung giáo dân cầu nguyện đòi lại đất ở xứ Thái Hà. Dù sao cũng vẫn chỉ có bọn lưu manh. Với vụ Tam Toà và chùa Bát Nhã một yếu tố mới xuất hiện: ngoài bọn đầu gấu chính quyền còn kích động một thành phần dân tộc chống lại một thành phần khác. Cần lưu ý là ngay cả báo chí nhà nước cũng được đầu gấu hoá để trắng trợn loan tin ngược hẳn với sự thực.
Thí dụ như báo Dân Trí loan tin:
“Sáng 27 Tháng Bảy khi nhân dân Ðồng Mỹ đang dọn dẹp vệ sinh quanh khu vực tháp chuông đã bị một nhóm đối tượng đi trên 5 xe ô tô bất ngờ dùng gạch đá ném rồi lên xe bỏ chạy”.
Những lần trước nhà cầm quyền cộng sản chỉ cho bọn đầu gấu hành hung rồi báo chí không loan tin, coi như không có gì xẩy ra. Lần này họ còn ra lệnh cho báo chí nhà nước loan tin dối trá. Việc sử dụng các băng đảng xã hội đen được nâng lên thành một chính sách phối hợp an ninh và tuyên truyền.
Phải nói ngay rằng việc sử dụng báo chí ở đây không chỉ thô bỉ mà còn là một sai lầm lớn. Ai cũng biết là bọn đầu gấu -đầu gấu chuyên nghiệp cũng như những thường dân nông cạn bị đầu gấu hoá- là một dụng cụ của chính quyền, nhưng ít ra chính quyền không nhìn nhận. Với sự yểm trợ của báo đảng chính quyền đã tự gỡ mặt nạ.
Nhưng chính sách trị an đầu gấu là gì? Nó là lời thú nhận không còn đối thoại được với nhân dân nữa vì không còn gì hợp lý để đề nghị nhưng cũng không thể dùng bạo lực chính thức. Chính quyền CSVN ngày nay đã khá lệ thuộc dư luận thế giới để có thể đem công an trắng trợn đàn áp những người dân đang cầu nguyện. Họ đã chọn giải pháp dùng bọn đầu gấu để ném đá giấu tay. Nhưng đây cũng chỉ là hành động tự sát. Nhân dân Việt Nam đã tức khắc nhìn ra bàn tay của Đảng và thế giới cũng đã nhận ra bàn tay của Đảng. Còn tệ hơn là dùng ngay công an. Thay vì bị lên án như một chính quyền hung bạo họ bị lên án như một chính quyền gian ác và đạo tặc. Chân dung của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà Nước trước thế giới, đặc biệt là trong các chuyến công du, sẽ rất lộng lẫy!
Chính sách này sẽ đưa đảng cộng sản về đâu? Đừng quên rằng mọi chính quyền cộng sản đều đặt nền tảng trên khủng bố; khi không thể khủng bố nó sụp đổ. Robespierre, lý thuyết gia đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố để lại một câu nói trứ danh: "hai cột trụ chính quyền cách mạng là đức hạnh và khủng bố, không có đức hạnh thì khủng bố chỉ là đen độc, không có khủng bố thì đức hạnh cũng bất lực". Đức hạnh để được kính nể và không bị chống đối, khủng bố để tiêu diệt những chống đối còn lại. Lenin cũng đồng ý với Robespierre, ông chỉ thay thế cái đức hạnh lý tưởng và đam mê của Robespierre bằng cái "đạo đức cách mạng" bịa đặt và áp đặt của Đảng. Nhưng muốn như thế thì phải dập tắt mọi tiếng nói. Sự dối trá sẽ vô duyên và vô dụng nếu nó không có độc quyền. Mọi tiếng nói, trừ tiếng nói của Đảng, phải im bặt, mọi ý chí phải bị đập tan, mọi người đều phải là những thằng hèn. Sự khống chế tư tưởng phải tuyệt đối. Khống chế tư tưởng để triệt tiêu mọi ý định chống đối, đàn áp để tiêu diệt những chống đối còn lại. Bưng bít và bịt miệng là vũ khí cơ bản của các chế độ khủng bố cộng sản, phát xít và Nazi.
Và cũng có hai điều kiện bắt buộc để chính sách khủng bố có thể thành công. Một là một chính quyền chỉ có thể thi hành chính sách khủng bố đối với xã hội nếu cùng một lúc nó cũng thi hành khủng bố một cách dữ dội hơn ngay trong nội bộ. Đao phủ của các chế độ bạo ngược thường xuất phát từ trong lòng chế độ. Stalin đã hành quyết hơn 80% thành viên của ban chấp hành trung ương đã bầu ông vào chức tổng bí thư, Robespierre đã đưa lên máy chém gần hết thành viên của directoire. Hai là khủng bố phải thật dữ tợn để gây kinh hoàng, và phải thật giản đơn để mọi người đều thấy mình có thể là nạn nhân bất cứ lúc nào, và sống trong lo sợ. Giết lầm hơn tha lầm, khủng bố nửa vời là tự sát.
Tình trạng hiện nay của Đảng Cộng Sản Việt Nam là nó không còn khả năng bưng bít, cả nước và cả thế giới biết những gì xảy ra sau một vài giờ. Nó cũng không còn kỷ luật nội bộ và cũng không có hy vọng tìm ra một người lãnh đạo đủ uy tín để áp đặt một kỷ luật nội bộ tối thiểu, nói gì tới khủng bố nội bộ. Những bản án tù vài năm chẳng gây kinh hoàng cho ai, trừ những phần tử yếu bóng vía đàng nào cũng không phải là những người đối lập đáng lo ngại, mà chỉ kích thích sự chống đối. Những vụ bạo hành của bọn đầu gấu sẽ chỉ có tác dụng đổ dầu vào lửa. ĐCSVN muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình. Và khi sự kiện Đảng đang đào hố chôn mình đã rõ rệt thì tự nhiên ngay trong nội bộ Đảng cũng sẽ có những người nhận ra là phải hành động để tự cứu mình. Phương pháp biện chứng, mà chủ nghĩa cộng sản lấy làm nền tảng của lý luận, cho rằng có một thời điểm mà lượng biến thành chất, mà những mâu thuẫn đã tích luỹ đủ để làm bùng ra một một thay đổi toàn bộ, tiếng Việt nói là tức nước vỡ bờ. Thời điểm này đã gần kề.
***
Nhưng gần kề là bao lâu? Ẩn số lớn nhất là trí thức Việt Nam. Quần chúng đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Nhưng quần chúng luôn luôn hành động theo trí thức, và trí thức Việt Nam lại có biệt tài làm lỡ các cơ hội. Do di sản văn hoá và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó. Và chuẩn bị có nghĩa là xây dựng tổ chức. Đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân, nó luôn luôn là đấu tranh có tổ chức và tổ chức chỉ có thể là thành quả của những cố gắng thông minh và kiên trì trong nhiều năm, bắt đầu từ một tư tưởng chính trị hoàn chỉnh.
Cơ hội đã đến cuối thập 1970 khi đất nước suy sụp toàn diện và mọi người, kể cả đại bộ phận đảng viên cộng sản, vỡ mộng. Cơ hội lại đến cuối thập niên 1980 khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và khối cộng sản tan vỡ. Chúng đều bị bỏ lỡ.
Ngày hôm nay cơ hội để thay đổi lịch sử lại đến. Thế giới khủng hoảng và phải thay đổi. Một trật tự thế giới mới, kinh tế cũng như chính trị, phải ra đời thay thế cho trật tự cũ đã từng nuôi dưỡng mô hình Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắt chước và nhờ vậy đã sống sót. Các mâu thuẫn tích luỹ trong xã hội Việt Nam –tham nhũng, dân oan, tụt hậu, chênh lệch giàu nghèo- đã đến lúc phải giải quyết trong khi đảng cộng sản phân hoá và ung thối đến cùng độ. Đại hội 11 sẽ là đại hội của bế tắc toàn diện. Ban lãnh đạo xuất phát từ đại hội 11 sẽ chỉ gồm những con người mờ nhạt không thành tích, không uy tín, không khả năng và thiếu cả ý chí, lại phải giải quyết những vấn đề rất nghiêm trọng và cấp bách. Họ sẽ chẳng làm được gì và cũng chẳng lãnh đạo được ai. Vả lại đảng cộng sản không còn là một chính đảng. Nó đã trở thành một giai cấp bóc lột. Và một giai cấp không bao giờ là một đội ngũ để có sức chiến đấu ngay cả khi nó rất giàu và có thừa phương tiện. Bằng cớ là nó đang tự đầu gấu hoá để trở thành một băng đảng. Nhưng đặc tính của những băng đảng là chúng chỉ qui tụ được một số rất ít nguời. Đảng cộng sản sẽ vỡ ra thành nhiều băng đảng xâu xé lẫn nhau và các đảng viên lương thiện sẽ bỏ đi. Bối cảnh hiện nay và sắp tới sẽ rất thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ.
Thuận lợi nhưng cũng rất khẩn trương vì chính sự sống còn của đất nước đang bị đe dọa. Một quốc gia chỉ tồn tại được nếu còn có những con người lo lắng cho sự trở thành của nó. Nhưng hiện nay còn có bao nhiêu người quan tâm đến đất nước? Sự thất vọng kéo dài quá lâu với một chính quyền tham bạo đã biến thành sự thất vọng với chính đất nước. Trong khi đó chúng ta đang sống trong một thế giới mà ý niệm quốc gia đang bị xét lại gay gắt. Những quốc gia không được quan niệm như một không gian liên đới của những con người tự do tự nguyện xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung sẽ không còn lý do tồn tại. Chúng sẽ giải thể trong lòng người trước khi giải thể thực sự. Phải khẩn cấp chấm dứt chế độ cộng sản trước khi nó chấm dứt đất nước.
(Nguồn: http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4076) © Thông Luận 2009
... Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.
...Đảng Cộng Sản muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình...
Do di sản văn hóa và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó...
Việc chính quyền cộng sản đàn áp các tín đồ Công Giáo tại giáo xứ Tam Toà đã được thông tin và bình luận khá nhiều. Tuy nhiên có hai điểm cần được đặc biệt lưu ý.
Điểm thứ nhất là đảng cộng sản hoàn toàn không biểu lộ một sự hiểu biết hay quan tâm nào đối với lịch sử.
Nhà thờ Tam Toà tuy chỉ được xây cất một cách bề thế năm 1940 nhưng có giá trị lịch sử rất lớn đối với người công giáo. Tam Toà là một trong những họ đạo đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ 17, và đã chứng kiến những trang sử bi đát nhất của Công Giáo Việt Nam: những đợt cấm đạo từ thời các chúa Nguyễn đến các triều vua Minh Mệnh và Tự Đức, những đợt tấn công của phong trào Cần Vương - Văn Thân và của một phần dân chúng các làng bên bị kích động. Máu người công giáo đã đổ nhiều, đã có những thánh tử đạo. Trong số giáo dân Tam Toà đầu tiên có những người đã được rửa tội bởi linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người đã có đóng góp văn hoá quan trọng nhất cho nước ta: Chữ Quốc Ngữ. Nỗi đau của người công giáo tại đây càng lớn khi năm 1954, sau hiệp định Genève, tất cả giáo dân, trừ một phụ nữ có chồng ngoại đạo, phải bỏ giáo xứ để di cư vào Nam, bỏ lại nhà thờ thân thương cùng tài sản và mồ mả tổ tiên của họ, vì biết không sống được dưới chế độ cộng sản trong một bối cảnh địa phương đầy thù ghét. Nhà thờ Tam Toà trở thành nhà kho và từ năm 1968 hoàn toàn hoang phế sau khi bị máy bay Mỹ ném bom phá hủy, chỉ còn lại mặt tiền.
Tam Toà là một phần lịch sử đau thương và một đất thiêng đối với người công giáo. Lòng tha thiết với đất cũ và nhà thờ cũ vẫn còn nguyên vẹn nên sau khi đất nước thống nhất giáo dân dần dần trở lại và giáo xứ Tam Toà ngày nay đã có gần một ngàn người. Nếu có những nơi nào trên đất nước Việt Nam mà cố gắng hoà giải dân tộc phải được thực hiện một cách nhiệt thành và quả quyết nhất thì Tam Toà là một, đặc biệt đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tại đây sau Cách Mạng Tháng 8 họ đã khủng bố người công giáo và kích thích tinh thần bài Công Giáo đến độ toàn bộ giáo dân phải bỏ vào Nam năm 1954. Những gì vừa xảy ra chứng tỏ họ hoàn toàn không không thay đổi và vẫn làm ngược hẳn với những gì đáng lẽ phải làm. Họ liên tục từ chối thỉnh cầu của giáo dân là được xây lại một nhà nguyện cạnh phế tích của nhà thờ Tam Toà cũ. viện cớ là phế tích này phải được giữ nguyên để làm chứng tích cho tội ác của Mỹ trong chiến tranh.
Đây chỉ là một lý cớ lỗ mãng bởi vì phế tích nhà thờ Tam Toà hoàn toàn không được bảo trì, nó bị bỏ hoang giữa một đám cỏ dại. Ngày 20-7 vừa qua khi giáo dân Tam Toà tập trung cầu nguyện trước nhà thờ cũ họ đã bị công an hành hung và giải tán một cách thô bạo. Ngày 26-7 khi họ lại đến đây cầu nguyện và vào giữa lúc 250.000 giáo dân giáo phận Vinh và hàng triệu giáo dân cả nước hướng về họ và cầu nguyện cho họ, sự thô bỉ của chính quyền cộng sản đã đạt một mức độ mới. Nhiều phân tử côn đồ được huy động tới để đánh đánh đập giáo dân, làm nhiều người bị thương trước sự chứng kiến của công an. Chiều hôm đó, một phái đoàn linh mục và giáo dân tới thăm tín hữu Tam Toà cũng bị bọn côn đồ này tấn công đả thương nhiều người, trong đó có linh mục Nguyễn Đình Phú. Phái đoàn phải bỏ chạy. Tệ hơn nữa là cách chính quyền đối xử với linh mục Ngô Thế Bính, đại diện toà tổng giám mục Vinh, khi ông tới trạm y tế thăm linh mục Nguyễn Đình Phú và các giáo dân bị đả thương. Linh mục Bính đã nhờ phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình là Nguyễn Công Thuận dẫn vào vì trạm cứu thương đang bị hàng trăm người hung hăng mang gậy gộc bao quanh, nhưng Nguyễn Công Thuận đã dẫn linh mục Bính tới đó rồi bỏ đi ngay để cho bọn côn đồ xông thẳng vào trạm đánh ông Bính. Chẳng khác gì Thuận giao linh mục Bính cho bọn côn đồ.
Cần lưu ý là trong số hung thủ đánh đập giáo dân chỉ có một thiểu là bọn đầu gấu thực sự. Ở một vùng thôn quê trong tỉnh Quảng Bình nghèo nhất nước không thể có một số lượng đầu gấu chuyên nghiệp đông đảo như vậy; phần lớn là những người dân nông cạn đã được kích động để thù ghét người công giáo. Họ cũng đã được rỉ tai rằng người công giáo sắp kéo về đây để đòi đất của họ. Chế độ cộng sản đã đưa dân chúng địa phương trở lại giai đoạn đen tối hơn một thế kỷ trước khi người Việt Nam đã dại dột để bị xúi dục tàn sát đồng bào mình vì lý do tôn giáo. Phong trào Nho Giáo tôn quân Văn Thân - Cần Vương ra đời với chủ trương dữ dằn "Bình Tây Sát Tả" (chống Pháp, giết công giáo) đã sát tả hơn là bình tây, họ đã đánh phá hàng ngàn họ đạo, giết hại hàng chục ngàn giáo dân và để lại những đổ vỡ khó hàn gắn. Tuy vậy cho tới một ngày gần đây hành động của họ không bị lên án đúng mức, trái lại nói chung họ còn được tôn vinh như là hiện thân của chí khí dân tộc. Chính vì thế dù phong trào Văn Thân - Cần Vương đã tan rã nhanh chóng ảnh hưởng của nó vẫn còn kéo dài và tạo ra tại nhiều địa phương một số người thù ghét một cách dai dẳng đạo Công Giáo. Văn Thân và Cần Vương chủ yếu là những phong trào địa phương và giáo xứ Tam Toà nằm trong một trong những địa phương này.
Như tất cả những xung đột đẫm máu có nguyên nhân từ văn hoá, vấn đề cần được nhìn một cách bình tĩnh và thận trọng. Có những mù quáng phải bị lên án dứt khoát nhưng cũng có những hiểu lầm và vụng về. Và cũng có những hoàn cảnh đưa đến hiểu lầm và vụng về. Không phải tất cả mọi lãnh tụ Văn Thân và Cần Vương đều chủ trương "sát tả" nhưng họ đã không thuyết phục được phong trào. Ngược lại người Công Giáo khi bị tấn công đã tự vệ và cũng gây thương vong cho những người tấn công họ. Họ cũng đã ít nhiều phải nhờ đến sự che chở của người Pháp, sự kiện này lại càng tạo lý cớ cho những người cáo buộc họ là "theo Tây", thậm chí cho rằng đạo Công Giáo được người Pháp đem vào Việt Nam làm dụng cụ xâm lược mặc dù nó đã có mặt tại Việt Nam ba thế kỷ trước và đã bị bách hại rất lâu trước khi Pháp bắt đầu dòm ngó Việt Nam. Các vua Minh Mệnh và Tự Đức khi ra chiếu cấm đạo cũng chỉ coi họ là theo một tà giáo chứ không hề buộc tội họ tiếp tay cho quân Pháp. Tuyệt đại đa số sĩ phu Việt Nam lúc đó chẳng biết gì về thế giới bên ngoài, các Văn Thân coi đạo Công Giáo như là đạo của chính quyền Pháp trong khi nước Pháp vừa trải qua cuộc cách mạng 1789 trong đó giáo hội Công Giáo đã bị đàn áp một cách đẫm máu trên cả nước và sau đó bị gặt hẳn khỏi chính quyền.
Việc các vua chúa Việt Nam cấm đạo và kêu gọi chống đạo có lý do của nó. Đó là vì đức tin Thiên Chúa Giáo phân biệt thượng đế và vua và do đó đe dọa nền tảng chính đáng của chế độ quân quyền theo đó vua cũng là trời. Đức tin này không hề xúc phạm đến dân tộc Việt Nam mà còn phải đưởc tán thành, đáng tiếc là một số giáo sĩ trong lúc truyền giáo đã bài xích những tín ngưỡng cổ truyền của Việt Nam như việc thờ cúng tổ tiên, thậm chí đôi khi ngay cả Phật Giáo, đóng góp tạo ra tâm lý bài Công Giáo trong quần chúng. Đã thế sau khi người Pháp áp đặt sự đô hộ Công Giáo lại được ưu đãi, càng gây bực bội cho nhiều người. Nhân và quả lẫn lộn với nhau tùy người nhìn, và trên hết là sự thiếu hiểu biết. Đố kỵ lương - giáo sau đó đã được khai thác cho những mục tiêu chính trị; một trong những thủ phạm chính là Đảng Cộng Sản.
Tình trạng phức tạp này có khi tạo ra những trường hợp rất nghịch lý. Phong trào Văn Thân - Cần Vương là một phong trào Nho Giáo, mà Nho Giáo bài xích Phật Giáo về bản chất, nhưng nhiều người phật giáo, kể cả một số tăng sĩ, cũng ủng hộ nó và coi sự thù ghét đạo Công Giáo như một lẽ tự nhiên, và tiếp tục nuôi dưỡng một tâm lý tồi tệ. Thích Trí Quang là một thí dụ. Ngược lại những hiềm khích mà họ đã là đối tượng cũng tạo ra nơi một số đáng kể người công giáo mặc cảm cô lập và tâm lý co cụm, tự coi mình là người công giáo trước khi là người Việt Nam. Hoá giải những xung khắc trong quá khứ và bình thường hoá chỗ đứng của người công giáo trong lòng dân tộc là một vấn đề còn đòi hỏi cố gắng và thời gian nhưng là điều phải làm đối với một chính quyền đúng nghĩa. Đảng cộng sản đã làm ngược lại. Họ đã kích thích sự thù ghét đối với người công giáo của một số người nông cạn, nạn nhân của sự tuyên truyền dối trá của chính họ, để dùng những người này tấn công giáo dân.
Chính sách trị an của đảng cộng sản rõ ràng là dựng thành phần dân tộc này chống lại thành phần dân tộc khác. Vụ chùa Bát Nhã trên Tây Nguyên cũng nằm trong cùng một chính sách, điều khác là ở đây một thành phần phật tử được điều động để chống lại một thành phần phật tử khác.
Giải quyết những vấn đề mà lịch sử để lại để đoàn kết người Việt Nam trong đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung không phải là quan tâm của đảng cộng sản. Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.
Về bản chất đảng cộng sản không phải là một lực lượng dân tộc. Chủ nghĩa Mác- Lênin không có tổ quốc, nó chủ trương xoá bỏ các quốc gia – Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc còn hơn là thuộc Việt Nam Cộng Hoà vì Bắc Kinh là anh em, Sài Gòn là thù địch. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp là tiếng gọi nội chiến, Lenin coi nội chiến là nền tảng của cách mạng vô sản. Tuy vậy những gì xảy ra tại Thái Hà, Tam Toà, Bảo Lộc, và chắc sẽ còn ở nhiều nơi khác nữa, vẫn làm người ta ngạc nhiên. Đảng cộng sản đã cầm quyền trên cả nước gần 35 năm rồi và chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ. Để tồn tại đáng lẽ nó phải cố gắng hoá thân thành một đảng dân tộc. Các cấp lãnh đạo cộng sản chắc chắn cũng phải hiểu như vậy. Nhưng tại sao họ làm ngược lại? Phải chăng họ cho rằng đã quá trễ để hoà với giải dân tộc Việt Nam và chọn lựa thực tiễn duy nhất chỉ là kéo dài chế độ thêm được ngày nào hay ngày đó bằng mọi phương tiện? Dã tâm đến từ tâm lý tuyệt vọng.
***
Điểm quan trọng thứ hai là hiện tượng đầu gấu hoá chính quyền.
Chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang hoá thân thành một chế độ cộng hoà xã hội đen. Hiện tượng này bắt đầu trong vụ xử Nguyễn Vũ Bình cuối năm 2002. Hình như đó là lần đầu tiên chính quyền cộng sản sử dụng bọn đầu gấu để hành hung gia đình và thân hữu của một người đối lập. Ngay sau đó qua điện thoại ông Hoàng Minh Chính đã bày tỏ với tôi sự ngạc nhiên và phẫn nộ, nhiều người bị đánh, chính ông dù già cả cũng đã bị xô đẩy. Kế tiếp là những vụ hành hung lẻ tẻ đối với dân oan khiếu kiện. Biện pháp sử dụng bọn xã hội đen hành hung những người chống đối trở thành thông lệ từ năm 2005. Ông Hoàng Minh Chính bị đám "quần chúng phẫn nộ" xô đẩy, xỉ vả và ném đồ bẩn vào nhà khi ông trở lại Hà Nội sau chuyến đi Mỹ. Rồi Phạm Hồng Sơn bị đánh; rồi đến lượt Nguyễn Phương Anh, Phạm Văn Trội, Phạm Đức Chính, Ngô Quỳnh khi đến Hữu Lũng, Lạng Sơn, thăm Vi Đức Hồi. Sau đó là cô Phạm Thanh Nghiên ở Hải Phòng. Cùng một kịch bản: công an chứng kiến bọn côn đồ đánh người đối lập mà không can thiệp. Tuy vậy vẫn chỉ là những nhóm nhỏ trên dưới mười tên. Biện pháp trở thành qui mô từ năm 2008 với hàng trăm tên côn đồ được điều động đến khiêu khích và hành hung giáo dân cầu nguyện đòi lại đất ở xứ Thái Hà. Dù sao cũng vẫn chỉ có bọn lưu manh. Với vụ Tam Toà và chùa Bát Nhã một yếu tố mới xuất hiện: ngoài bọn đầu gấu chính quyền còn kích động một thành phần dân tộc chống lại một thành phần khác. Cần lưu ý là ngay cả báo chí nhà nước cũng được đầu gấu hoá để trắng trợn loan tin ngược hẳn với sự thực.
Thí dụ như báo Dân Trí loan tin:
“Sáng 27 Tháng Bảy khi nhân dân Ðồng Mỹ đang dọn dẹp vệ sinh quanh khu vực tháp chuông đã bị một nhóm đối tượng đi trên 5 xe ô tô bất ngờ dùng gạch đá ném rồi lên xe bỏ chạy”.
Những lần trước nhà cầm quyền cộng sản chỉ cho bọn đầu gấu hành hung rồi báo chí không loan tin, coi như không có gì xẩy ra. Lần này họ còn ra lệnh cho báo chí nhà nước loan tin dối trá. Việc sử dụng các băng đảng xã hội đen được nâng lên thành một chính sách phối hợp an ninh và tuyên truyền.
Phải nói ngay rằng việc sử dụng báo chí ở đây không chỉ thô bỉ mà còn là một sai lầm lớn. Ai cũng biết là bọn đầu gấu -đầu gấu chuyên nghiệp cũng như những thường dân nông cạn bị đầu gấu hoá- là một dụng cụ của chính quyền, nhưng ít ra chính quyền không nhìn nhận. Với sự yểm trợ của báo đảng chính quyền đã tự gỡ mặt nạ.
Nhưng chính sách trị an đầu gấu là gì? Nó là lời thú nhận không còn đối thoại được với nhân dân nữa vì không còn gì hợp lý để đề nghị nhưng cũng không thể dùng bạo lực chính thức. Chính quyền CSVN ngày nay đã khá lệ thuộc dư luận thế giới để có thể đem công an trắng trợn đàn áp những người dân đang cầu nguyện. Họ đã chọn giải pháp dùng bọn đầu gấu để ném đá giấu tay. Nhưng đây cũng chỉ là hành động tự sát. Nhân dân Việt Nam đã tức khắc nhìn ra bàn tay của Đảng và thế giới cũng đã nhận ra bàn tay của Đảng. Còn tệ hơn là dùng ngay công an. Thay vì bị lên án như một chính quyền hung bạo họ bị lên án như một chính quyền gian ác và đạo tặc. Chân dung của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà Nước trước thế giới, đặc biệt là trong các chuyến công du, sẽ rất lộng lẫy!
Chính sách này sẽ đưa đảng cộng sản về đâu? Đừng quên rằng mọi chính quyền cộng sản đều đặt nền tảng trên khủng bố; khi không thể khủng bố nó sụp đổ. Robespierre, lý thuyết gia đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố để lại một câu nói trứ danh: "hai cột trụ chính quyền cách mạng là đức hạnh và khủng bố, không có đức hạnh thì khủng bố chỉ là đen độc, không có khủng bố thì đức hạnh cũng bất lực". Đức hạnh để được kính nể và không bị chống đối, khủng bố để tiêu diệt những chống đối còn lại. Lenin cũng đồng ý với Robespierre, ông chỉ thay thế cái đức hạnh lý tưởng và đam mê của Robespierre bằng cái "đạo đức cách mạng" bịa đặt và áp đặt của Đảng. Nhưng muốn như thế thì phải dập tắt mọi tiếng nói. Sự dối trá sẽ vô duyên và vô dụng nếu nó không có độc quyền. Mọi tiếng nói, trừ tiếng nói của Đảng, phải im bặt, mọi ý chí phải bị đập tan, mọi người đều phải là những thằng hèn. Sự khống chế tư tưởng phải tuyệt đối. Khống chế tư tưởng để triệt tiêu mọi ý định chống đối, đàn áp để tiêu diệt những chống đối còn lại. Bưng bít và bịt miệng là vũ khí cơ bản của các chế độ khủng bố cộng sản, phát xít và Nazi.
Và cũng có hai điều kiện bắt buộc để chính sách khủng bố có thể thành công. Một là một chính quyền chỉ có thể thi hành chính sách khủng bố đối với xã hội nếu cùng một lúc nó cũng thi hành khủng bố một cách dữ dội hơn ngay trong nội bộ. Đao phủ của các chế độ bạo ngược thường xuất phát từ trong lòng chế độ. Stalin đã hành quyết hơn 80% thành viên của ban chấp hành trung ương đã bầu ông vào chức tổng bí thư, Robespierre đã đưa lên máy chém gần hết thành viên của directoire. Hai là khủng bố phải thật dữ tợn để gây kinh hoàng, và phải thật giản đơn để mọi người đều thấy mình có thể là nạn nhân bất cứ lúc nào, và sống trong lo sợ. Giết lầm hơn tha lầm, khủng bố nửa vời là tự sát.
Tình trạng hiện nay của Đảng Cộng Sản Việt Nam là nó không còn khả năng bưng bít, cả nước và cả thế giới biết những gì xảy ra sau một vài giờ. Nó cũng không còn kỷ luật nội bộ và cũng không có hy vọng tìm ra một người lãnh đạo đủ uy tín để áp đặt một kỷ luật nội bộ tối thiểu, nói gì tới khủng bố nội bộ. Những bản án tù vài năm chẳng gây kinh hoàng cho ai, trừ những phần tử yếu bóng vía đàng nào cũng không phải là những người đối lập đáng lo ngại, mà chỉ kích thích sự chống đối. Những vụ bạo hành của bọn đầu gấu sẽ chỉ có tác dụng đổ dầu vào lửa. ĐCSVN muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình. Và khi sự kiện Đảng đang đào hố chôn mình đã rõ rệt thì tự nhiên ngay trong nội bộ Đảng cũng sẽ có những người nhận ra là phải hành động để tự cứu mình. Phương pháp biện chứng, mà chủ nghĩa cộng sản lấy làm nền tảng của lý luận, cho rằng có một thời điểm mà lượng biến thành chất, mà những mâu thuẫn đã tích luỹ đủ để làm bùng ra một một thay đổi toàn bộ, tiếng Việt nói là tức nước vỡ bờ. Thời điểm này đã gần kề.
***
Nhưng gần kề là bao lâu? Ẩn số lớn nhất là trí thức Việt Nam. Quần chúng đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Nhưng quần chúng luôn luôn hành động theo trí thức, và trí thức Việt Nam lại có biệt tài làm lỡ các cơ hội. Do di sản văn hoá và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó. Và chuẩn bị có nghĩa là xây dựng tổ chức. Đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân, nó luôn luôn là đấu tranh có tổ chức và tổ chức chỉ có thể là thành quả của những cố gắng thông minh và kiên trì trong nhiều năm, bắt đầu từ một tư tưởng chính trị hoàn chỉnh.
Cơ hội đã đến cuối thập 1970 khi đất nước suy sụp toàn diện và mọi người, kể cả đại bộ phận đảng viên cộng sản, vỡ mộng. Cơ hội lại đến cuối thập niên 1980 khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và khối cộng sản tan vỡ. Chúng đều bị bỏ lỡ.
Ngày hôm nay cơ hội để thay đổi lịch sử lại đến. Thế giới khủng hoảng và phải thay đổi. Một trật tự thế giới mới, kinh tế cũng như chính trị, phải ra đời thay thế cho trật tự cũ đã từng nuôi dưỡng mô hình Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắt chước và nhờ vậy đã sống sót. Các mâu thuẫn tích luỹ trong xã hội Việt Nam –tham nhũng, dân oan, tụt hậu, chênh lệch giàu nghèo- đã đến lúc phải giải quyết trong khi đảng cộng sản phân hoá và ung thối đến cùng độ. Đại hội 11 sẽ là đại hội của bế tắc toàn diện. Ban lãnh đạo xuất phát từ đại hội 11 sẽ chỉ gồm những con người mờ nhạt không thành tích, không uy tín, không khả năng và thiếu cả ý chí, lại phải giải quyết những vấn đề rất nghiêm trọng và cấp bách. Họ sẽ chẳng làm được gì và cũng chẳng lãnh đạo được ai. Vả lại đảng cộng sản không còn là một chính đảng. Nó đã trở thành một giai cấp bóc lột. Và một giai cấp không bao giờ là một đội ngũ để có sức chiến đấu ngay cả khi nó rất giàu và có thừa phương tiện. Bằng cớ là nó đang tự đầu gấu hoá để trở thành một băng đảng. Nhưng đặc tính của những băng đảng là chúng chỉ qui tụ được một số rất ít nguời. Đảng cộng sản sẽ vỡ ra thành nhiều băng đảng xâu xé lẫn nhau và các đảng viên lương thiện sẽ bỏ đi. Bối cảnh hiện nay và sắp tới sẽ rất thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ.
Thuận lợi nhưng cũng rất khẩn trương vì chính sự sống còn của đất nước đang bị đe dọa. Một quốc gia chỉ tồn tại được nếu còn có những con người lo lắng cho sự trở thành của nó. Nhưng hiện nay còn có bao nhiêu người quan tâm đến đất nước? Sự thất vọng kéo dài quá lâu với một chính quyền tham bạo đã biến thành sự thất vọng với chính đất nước. Trong khi đó chúng ta đang sống trong một thế giới mà ý niệm quốc gia đang bị xét lại gay gắt. Những quốc gia không được quan niệm như một không gian liên đới của những con người tự do tự nguyện xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung sẽ không còn lý do tồn tại. Chúng sẽ giải thể trong lòng người trước khi giải thể thực sự. Phải khẩn cấp chấm dứt chế độ cộng sản trước khi nó chấm dứt đất nước.
(Nguồn: http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4076) © Thông Luận 2009
Giáo xứ Mỹ Yên tiếp tục thắp nến hiệp thông với Tam Tòa
Bất Nghi Bách Lộc
17:57 29/08/2009
VINH - Vào những ngày cuối tháng 8 khi sự kiện Tam Toà nhìn bề ngoài dường như có vẻ lắng dịu, nhưng không vì thế mà bầu khí hiệp thông với Tam Toà tại G.p Vinh lại giảm sút đi. Điển hình cho tinh thần hiệp thông cao độ không ngừng ấy có thể nhận thấy tại giáo xứ Mỹ Yên. Ở đây, trong suốt tuần lễ từ ngày 23 đến 29/8/2009, Cha chánh xứ và cộng đoàn Mỹ Yên đã liên tục hiệp dâng thánh lễ, thắp nến hiệp thông với Tam Toà và cầu nguyện cho Sự Thật – Công Lý – Hoà Bình sớm được thực thi trên quê hương Việt nam.
Qua gặp gỡ trao đổi thân tình, tôi được Cha Antôn Nguyễn Đình Thăng, quản xứ Mỹ yên bộc bạch thao thức: “Trước cảnh người dân Tam Toà đang ngày đêm chịu đựng đau khổ, bất công cách kiên cường trong Đức Tin, dân xứ Mỹ Yên đã không thể cầm lòng nổi. Cộng đoàn muốn làm thật nhiều để bày tỏ mối tình hiệp thông anh em một nhà. Hy vọng với lời cầu nguyện đơn sơ thâm tình, những ngọn nến sáng nhỏ được thắp lên từ Mỹ yên sẽ làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Tam Toà, và an bình sớm tỏ hiện trên vùng đất khắc nghiệt này. Hơn nữa trong những ngày qua, thảm trạng bất công vẫn tiếp diễn: “Chứng tích Tam Toà” bị chính quyền nhân danh hai chữ “quyền lực” dùng máy xúc đào bới làm thay đổi nguyên trạng; các Cha Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà tiếp tục bị truyền thông một chiều công kích nhẫn tâm, sai lạc... thì làm sao những giờ thắp nến cầu nguyện của chúng ta lại ngưng được. Chỉ có lời cầu nguyện trong tinh thần hoà bình và yêu mến Sự Thật, thế lực của Satan mới khiếp sợ và chạy xa chúng ta !...”.
Những ngày qua, bà con giáo dân Mỹ yên luôn hiệp tâm với chủ chăn của mình trong mỗi Thánh lễ, trong từng giờ cầu nguyện hướng về Tam Toà. Mặc dù là một vùng quê thuần nông, công việc mùa màng rất bề bộn, nhưng cứ tối đến, bà con lại quy tụ đông đủ về Thánh đường giáo xứ hay Trung tâm Thánh địa Trại Gáo trực thuộc giáo xứ để cùng nhau thắp lên ánh nến rực nồng quyết tâm bênh vực Sự Thật, quyết tâm đòi công lý. Sau sự kiện Thái Hà – Toà Khâm Sứ, tiếp đến là vụ Tam Toà, đối với bà con Mỹ yên, hành động của những kẻ đội lốt chức quyền không thể chấp nhận được. Nỗi đau tinh thần, thể xác mà người dân Tam Toà và cả những chủ chăn đã và đang chịu đựng cho thấy, thế lực của sự ác đang hoành hành đầy man rợ và kinh tởm. Trong tâm tình ấy, cộng đoàn Mỹ yên đã dâng lên Đức Kitô Phục Sinh ước nguyện “xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia, các nhà làm luật, những người phổ biến và thi hành luật, đã và đang hoạt động nhằm chống lại sự sống của con người, cùng những ai đang chà đạp lên công lý và sự thật, đặc biệt nhà cầm quyền Việt Nam tại Quảng Bình; xin Chúa soi sáng mở lòng trí để họ nhìn thấy và hành xử theo lẽ phải...”. Để tỏ rõ thiện chí của mình công khai trước muôn người, các biểu ngữ đã được cộng đoàn Mỹ yên và Cha quản xứ mang theo trong cuộc tuần hành về Toà Giám Mục Vinh hôm 15/8, tiếp tục được trưng lên rực rỡ tại khuôn viên Thánh địa Trại Gáo: “CHÍNH QUYỀN QUẢNG BÌNH HÃY DỪNG NGAY HÀNH ĐỘNG MAN RỢ”, “CÔNG LÝ SẼ ĐẨY LÙI BẤT CÔNG”...
Nét đặc biệt khác về tinh thần hiệp thông công lý mà khi đến hành hương tại Thánh Địa Trại Gáo – Mỹ Yên, quý vị có thể nhận ra ngay đó là, các thông tin quan trọng liên quan đến Công Lý, đặc biệt về Thái Hà, Tam Toà được đăng tải trên các Website Vietcatholic, Dòng Chúa Cứu Thế... đều được Giáo xứ cập nhật liên tục trên Bảng tin của Trung tâm Thánh địa. Các bài viết, hình ảnh độc đáo, đáng tin cậy được in màu rất rõ nét, giúp cho khách hành hương khi xem có được cái nhìn khách quan về bản chất sâu xa của những sự kiện “nóng”. Nhiều khách hành hương, trong đó có rất đông lương dân, khi đến Thánh địa Antôn, được đọc các thông tin chân thực từ bảng tin ở đây mới ngỡ ra “truyền thông nhà nước nói sai”, và họ cảm thông, đồng tình hơn với đường hướng mà Giáo hội đang theo đuổi trong tiến trình đòi công lý.
Có lẽ mối dây hiệp thông vô hình đang kết chặt bà con Mỹ Yên với giáo dân tại Quảng Bình nói chung. Được biết trong tuần qua, nhiều giáo dân Quảng Bình đã vượt đường trường đầy vất vả về hành hương tại Thánh địa Trại Gáo. Đến đây, sự lo âu căng thẳng và cả những trăn trở trong hành trình Đức tin của những con chiên xứ Quảng đã được củng cố kiên vững hơn, nhiệt huyết hơn. Cha Antôn Nguyễn Đình Thăng đã gặp gỡ thân tình, chia sẻ những khổ luỵ mà làn sóng bạo lực, bất công, kỳ thị đã ập xuống trên họ trong những ngày qua; khích lệ họ hãy can đảm vác Thập giá vinh quang cũng là chính đích điểm tuyệt đối của Sự Thật – Công Lý mà nhân loại không ngừng vươn tới.
Tối ngày Thứ Sáu, 28/8/2009, một lần nữa, muôn vàn ánh nến lung linh lại bừng sáng lên cả khu đồi thuộc khuôn viên Thánh địa Trại Gáo. Suy ngắm các chặng đường khổ nạn của Chúa, cũng là thời khắc linh thiêng đặc biệt để người dân Mỹ Yên cảm nghiệm sâu xa hơn về tất yếu đau khổ của Giáo hội lữ hành qua dấu chỉ Tam Toà. Không chỉ người dân Tam Toà mà khắp đó đây trong những vùng miền, có vô vàn “Kitô thứ hai” đang bị bàn tay gân guốc bạo quyền lăm lăm chuỳ gục. Trước Tình Thương Thập giá, cộng đoàn Mỹ Yên một lòng xác tín: các “đệ nhị Kitô” dù bị quật ngã về thể xác, nhưng không và sẽ không bao giờ, tâm khí Sự Thật - Cộng Lý trong họ bị chùn bước hay ngã gục. Lời nguyện cầu của cộng đoàn Mỹ Yên trên đỉnh đồi cao vẫn vang vọng giữa đêm đen: “...Xin biến chúng con thành khí cụ tình yêu mãnh mẽ của Chúa, để chúng con cùng nhau chung xây một quê hương đất nước hoà bình, trong đó con người có thể sống bình an, hạnh phúc và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con !!!”.
Qua gặp gỡ trao đổi thân tình, tôi được Cha Antôn Nguyễn Đình Thăng, quản xứ Mỹ yên bộc bạch thao thức: “Trước cảnh người dân Tam Toà đang ngày đêm chịu đựng đau khổ, bất công cách kiên cường trong Đức Tin, dân xứ Mỹ Yên đã không thể cầm lòng nổi. Cộng đoàn muốn làm thật nhiều để bày tỏ mối tình hiệp thông anh em một nhà. Hy vọng với lời cầu nguyện đơn sơ thâm tình, những ngọn nến sáng nhỏ được thắp lên từ Mỹ yên sẽ làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Tam Toà, và an bình sớm tỏ hiện trên vùng đất khắc nghiệt này. Hơn nữa trong những ngày qua, thảm trạng bất công vẫn tiếp diễn: “Chứng tích Tam Toà” bị chính quyền nhân danh hai chữ “quyền lực” dùng máy xúc đào bới làm thay đổi nguyên trạng; các Cha Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà tiếp tục bị truyền thông một chiều công kích nhẫn tâm, sai lạc... thì làm sao những giờ thắp nến cầu nguyện của chúng ta lại ngưng được. Chỉ có lời cầu nguyện trong tinh thần hoà bình và yêu mến Sự Thật, thế lực của Satan mới khiếp sợ và chạy xa chúng ta !...”.
Những ngày qua, bà con giáo dân Mỹ yên luôn hiệp tâm với chủ chăn của mình trong mỗi Thánh lễ, trong từng giờ cầu nguyện hướng về Tam Toà. Mặc dù là một vùng quê thuần nông, công việc mùa màng rất bề bộn, nhưng cứ tối đến, bà con lại quy tụ đông đủ về Thánh đường giáo xứ hay Trung tâm Thánh địa Trại Gáo trực thuộc giáo xứ để cùng nhau thắp lên ánh nến rực nồng quyết tâm bênh vực Sự Thật, quyết tâm đòi công lý. Sau sự kiện Thái Hà – Toà Khâm Sứ, tiếp đến là vụ Tam Toà, đối với bà con Mỹ yên, hành động của những kẻ đội lốt chức quyền không thể chấp nhận được. Nỗi đau tinh thần, thể xác mà người dân Tam Toà và cả những chủ chăn đã và đang chịu đựng cho thấy, thế lực của sự ác đang hoành hành đầy man rợ và kinh tởm. Trong tâm tình ấy, cộng đoàn Mỹ yên đã dâng lên Đức Kitô Phục Sinh ước nguyện “xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia, các nhà làm luật, những người phổ biến và thi hành luật, đã và đang hoạt động nhằm chống lại sự sống của con người, cùng những ai đang chà đạp lên công lý và sự thật, đặc biệt nhà cầm quyền Việt Nam tại Quảng Bình; xin Chúa soi sáng mở lòng trí để họ nhìn thấy và hành xử theo lẽ phải...”. Để tỏ rõ thiện chí của mình công khai trước muôn người, các biểu ngữ đã được cộng đoàn Mỹ yên và Cha quản xứ mang theo trong cuộc tuần hành về Toà Giám Mục Vinh hôm 15/8, tiếp tục được trưng lên rực rỡ tại khuôn viên Thánh địa Trại Gáo: “CHÍNH QUYỀN QUẢNG BÌNH HÃY DỪNG NGAY HÀNH ĐỘNG MAN RỢ”, “CÔNG LÝ SẼ ĐẨY LÙI BẤT CÔNG”...
Nét đặc biệt khác về tinh thần hiệp thông công lý mà khi đến hành hương tại Thánh Địa Trại Gáo – Mỹ Yên, quý vị có thể nhận ra ngay đó là, các thông tin quan trọng liên quan đến Công Lý, đặc biệt về Thái Hà, Tam Toà được đăng tải trên các Website Vietcatholic, Dòng Chúa Cứu Thế... đều được Giáo xứ cập nhật liên tục trên Bảng tin của Trung tâm Thánh địa. Các bài viết, hình ảnh độc đáo, đáng tin cậy được in màu rất rõ nét, giúp cho khách hành hương khi xem có được cái nhìn khách quan về bản chất sâu xa của những sự kiện “nóng”. Nhiều khách hành hương, trong đó có rất đông lương dân, khi đến Thánh địa Antôn, được đọc các thông tin chân thực từ bảng tin ở đây mới ngỡ ra “truyền thông nhà nước nói sai”, và họ cảm thông, đồng tình hơn với đường hướng mà Giáo hội đang theo đuổi trong tiến trình đòi công lý.
Có lẽ mối dây hiệp thông vô hình đang kết chặt bà con Mỹ Yên với giáo dân tại Quảng Bình nói chung. Được biết trong tuần qua, nhiều giáo dân Quảng Bình đã vượt đường trường đầy vất vả về hành hương tại Thánh địa Trại Gáo. Đến đây, sự lo âu căng thẳng và cả những trăn trở trong hành trình Đức tin của những con chiên xứ Quảng đã được củng cố kiên vững hơn, nhiệt huyết hơn. Cha Antôn Nguyễn Đình Thăng đã gặp gỡ thân tình, chia sẻ những khổ luỵ mà làn sóng bạo lực, bất công, kỳ thị đã ập xuống trên họ trong những ngày qua; khích lệ họ hãy can đảm vác Thập giá vinh quang cũng là chính đích điểm tuyệt đối của Sự Thật – Công Lý mà nhân loại không ngừng vươn tới.
Tối ngày Thứ Sáu, 28/8/2009, một lần nữa, muôn vàn ánh nến lung linh lại bừng sáng lên cả khu đồi thuộc khuôn viên Thánh địa Trại Gáo. Suy ngắm các chặng đường khổ nạn của Chúa, cũng là thời khắc linh thiêng đặc biệt để người dân Mỹ Yên cảm nghiệm sâu xa hơn về tất yếu đau khổ của Giáo hội lữ hành qua dấu chỉ Tam Toà. Không chỉ người dân Tam Toà mà khắp đó đây trong những vùng miền, có vô vàn “Kitô thứ hai” đang bị bàn tay gân guốc bạo quyền lăm lăm chuỳ gục. Trước Tình Thương Thập giá, cộng đoàn Mỹ Yên một lòng xác tín: các “đệ nhị Kitô” dù bị quật ngã về thể xác, nhưng không và sẽ không bao giờ, tâm khí Sự Thật - Cộng Lý trong họ bị chùn bước hay ngã gục. Lời nguyện cầu của cộng đoàn Mỹ Yên trên đỉnh đồi cao vẫn vang vọng giữa đêm đen: “...Xin biến chúng con thành khí cụ tình yêu mãnh mẽ của Chúa, để chúng con cùng nhau chung xây một quê hương đất nước hoà bình, trong đó con người có thể sống bình an, hạnh phúc và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con !!!”.
An ninh Việt Nam bắt giữ blogger ‘Người Buôn gió’
Trần Văn - RFA
22:48 29/08/2009
Hãng thông tấn Reuter hôm nay loan tin cơ quan an ninh Việt Nam cho bắt giữ một blogger từng lên tiếng chỉ trích Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là blogger ‘Người Buôn gió’ tên thật Bùi Thanh Hiếu.
Reuter nói thân hữu của blogger Người Buôn gió cho hãng này biết Người Buôn Gió bị công an Hà Nội bắt hôm thứ năm, và kể từ đó đến nay không ai có thể liên lạc điện thoại với blogger này.
Một người bạn của blogger Người Buôn Gió cho hay có nhận được điện thoại của ông này vào khoảng 6 giờ chiều thứ năm nói là đang ở cơ quan Công an và bị tra hỏi về những bài viết trên blog của ông ta; sau đó người này gọi lại thì máy không trả lời. Vợ của blogger Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu cũng cho hay không hề liên lạc được với chồng kể từ ngày thứ năm đến nay, tuy nhiên bà này từ chối không bình luận gì thêm.
Reuter cho biết có gọi đến trụ sở Công an Hà Nội để hỏi về vụ việc nhưng người trực máy trả lời không hề biết vụ việc.
Hồi đầu tuần, một blogger khác là nhà báo Huy Đức, cũng bị tờ Sài Gòn Tiếp Thị ngưng hợp đồng do bài viết về Bức tường Bá Linh của ông.
An ninh Việt Nam bắt giữ thêm một blogger (?)
Trần Văn, RFA
29-08-2009
Hai ngày sau khi blogger Osin – nickname trên Internet của nhà báo Huy Đức - cho biết đã thôi làm báo, một số blog và diễn đàn điện tử loan báo, sáng 27 tháng 8, cơ quan an ninh điều tra đã triệu tập blogger Người Buôn Gió đến làm việc về những vấn đề an ninh quốc gia và đến 8 giờ tối cùng ngày, cơ quan an ninh điều tra đã áp giải blogger Người Buôn Gió về tư gia, đọc lệnh khám xét nhà...
Thông tin này chính xác tới mức nào, Trân Văn tìm hiểu và tường trình...
Vào lúc này, Người Buôn Gió đang là một blog thu hút sự chú ý của nhiều người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Rất nhiều bài viết của blogger Người Buôn Gió đã được các blog, diễn đàn điện tử, website Việt ngữ dẫn lại, đặc biệt là loạt phiếm luận nhiều kỳ mang tên chung: “Đại Vệ Chí Dị”.
Phiếm luận “Đại Vệ Chí Dị”
Người Buôn Gió đã dựa theo “Đông Chu Liệt Quốc” – một bộ tiểu thuyết nổi tiếng của Trung Quốc để phóng tác “Đại Vệ Chí Dị”.
Nếu “Đông Chu Liệt Quốc” chỉ kể về giai đoạn lịch sử kéo dài khoảng 400 năm hồi trước Công nguyên ở Trung Quốc thì trong “Đại Vệ Chí Dị” của Người Buôn Gió, người ta thấy một Đại Vệ khác bạc nhược, ươn hèn, cam tâm khuất phục một Tề quốc ngang ngược với lắm dã tâm và dưới ngòi bút của Người Buôn Gió, quan hệ giữa Đại Vệ với Tề Quốc dễ khiến người ta liên tưởng đến quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Xin dẫn đoạn kết trong “Đại Vệ Chí Dị” kỳ mới nhất để quý vị dễ hình dung: Các tướng lãnh ra về. Vệ Vương ưu tư đi trong điện. Lát sau ngài đợi cho cung điện vắng vẻ, ra sân vọng về hướng Bắc niệm thần chú hộ mệnh. Những tên lính hầu trong điện đang thực hiện nghi lễ đổi phiên gác mới. Bầu trời dần lên từ phía Đông, nước Vệ bắt đầu một ngày bằng những tia ánh sáng mặt trời đỏ thẫm như máu khô của những ngư dân chết trên biển vì đạn quân Tề. Trong ánh sáng của mặt trời đi qua biển Đông có cả mùi tanh tanh của máu.
“Đại Vệ Chí Dị” đã gây tiếng vang rất lớn trên Internet và trong công chúng. Ở các cuộc thảo luận trên nhiều blog, nhiều diễn đàn điện tử, khi đề cập đến chính quyền Việt Nam, nhiều người Việt đã tự đổi quốc hiệu Việt Nam thành “Vệ”.
Ngoài “Đại Vệ Chí Dị”, Người Buôn Gió còn tham gia ý kiến, bình luận nhiều vấn đề thời sự khác, kể cả chủ trương, chính sách của Đảng, của chính quyền.
Vì liên quan đến Thái Hà?
Trở lại với thông tin về việc blogger Người Buôn Gió bị bắt. Theo một số blog và diễn đàn điện tử, tối 28 tháng 8, khi thực hiện lệnh khám xét nơi ở của blogger Người Buôn Gió, cơ quan An ninh Điều tra đã niêm phong, tịch thu hai máy tính của blogger này và một số giấy tờ. Những nguồn tin liên quan đến sự kiện vừa đề cập kể thêm rằng, lý do cơ quan an ninh điều tra bắt blogger Người Buôn Gió là vì blogger này “có liên quan đến việc in ấn áo và viết các bài viết về tình hình tại Thái Hà, Tam Tòa”.
Vì việc bắt giữ Người Buôn Gió được cho là có liên quan đến Thái Hà nên chúng tôi đã liên lạc với linh mục Nguyễn Văn Khải, Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà:
Trần Văn: Thưa linh mục, có tin là một blogger tại Việt Nam với nickname là Người Buôn Gió mới bị bắt do có liên quan đến Thái Hà và Tam Tòa. Linh mục có biết gì về trường hợp này không ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Anh Người Buôn Gió đang sinh sống tại Hà Nội. Anh ta là một dự tòng, đang học Giáo lý Công giáo để gia nhập Giáo hội.
Trần Văn: Thưa linh mục, trên Internet có tin rằng blogger Người Buôn Gió đã bị bắt do có liên quan đến những vụ việc xảy ra tại Thái Hà và Tam Tòa. Linh mục đánh giá những thông tin này như thế nào ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Tôi thấy anh ta viết bài về Tam Tòa và đưa lên mạng Internet, tôi có đọc và tôi biết. Nếu nói anh ta liên quan đến Thái Hà thì chẳng có liên quan nào trực tiếp đến Thái Hà cả.
Trân Văn: Một blog khác có đề cập Người Buôn Gió in ấn gì đó. Những thông tin như thế được cho là từ cơ quan an ninh Việt Nam đưa ra. Linh mục đánh giá như thế nào về tính chính xác của nó ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Tôi có nghe một anh bạn nói rằng, anh Người Buôn Gió liên quan đến việc in trên áo mình mặc những khẩu hiệu yêu nước: Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam đấy. Tôi nghĩ rằng việc anh ta bày tỏ lòng yêu nước một cách cao đẹp như vậy, một cách cụ thể như vậy là điều tốt! Và tôi không nghĩ rằng, một chính quyền biết tôn trọng luật pháp, biết bảo vệ quyền lợi của dân tộc của đất nước mà lại đi bắt những công dân bày tỏ lòng yêu nước một cách cụ thể, sinh động và cao đẹp như vậy.
Ru con nước Vệ
Từ khi xuất hiện trên Internet, giống như nhiều blogger khác, Người Buôn Gió chỉ tồn tại như một nhân vật ảo, không tên tuổi thực, không nơi cư trú, song cách nay, vài ngày, Người Buôn Gió đột ngột tự bạch về mình: Tên thật của ông là Bùi Thanh Hiếu, ngụ tại 22 ngõ Phất Lộc, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Vì sao? Bài viết mới nhất của ông, mang tựa là Ru con nước Vệ, có thể giúp mọi người tự tìm câu trả lời. Mời quý vị cùng xem. ..
Có thể lắm chứ!... Kẻ sĩ có người từng cay đắng nói rằng. Ở xã hội này mỗi công dân là một người tù dự khuyết.
Có thể lắm chứ!... Vào một ngày nào đó, ở nước Vệ xa xăm mãi ngoài giáp biển kia, tên Lái Gió sẽ bị công sai triều đình đến đóng gông xiềng, dẫn giải về lao chịu tội. Tội gì thì nước Vệ có nhiều lắm !...
Con trai của Lái Gió lủi thủi bám tay mẹ đi thăm bố. Như cách đây 35 năm Lái Gió bám tay mẹ mình đi thăm bố trong nhà lao. Lúc ấy hình như Lái Gió cũng bằng con trai của hắn bây giờ… Định mệnh có thể lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác…
Trong nhà lao nước Vệ, Lái Gió không có tiền để mua quà cho con, có thể hắn chỉ còn cách viết thơ về cho con. Như nhiều năm xa xưa hắn đã từng viết thơ cho mẹ già vậy. Lời thơ cho con có thể rằng:
À ơi ! cái cò mày ngủ cho ngoan
Bố còn gánh nợ trần gian chưa về… à ơi!...
Trần gian cay đắng trăm bề
Bởi chưng phận bọt… à ơi!...
Bởi chưng phận bọt… mà ê chề nhớ con!...
À ơi !...
Con ơi ! sóng đánh mạn thuyền
Gió thì phiêu bạt tận miền xa xăm
À ơi !...
Đèo cao, núi thẳm, rừng ngàn
Bố đi lòng chất muôn vàn thương con
À ơi !...
Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với ông Bùi Thanh Hiếu cũng như thân nhân của ông để tìm kiếm thêm thông tin nhưng không thành công nên chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và tường trình thêm về số phận của blogger Người Buôn Gió.
Reuter nói thân hữu của blogger Người Buôn gió cho hãng này biết Người Buôn Gió bị công an Hà Nội bắt hôm thứ năm, và kể từ đó đến nay không ai có thể liên lạc điện thoại với blogger này.
Một người bạn của blogger Người Buôn Gió cho hay có nhận được điện thoại của ông này vào khoảng 6 giờ chiều thứ năm nói là đang ở cơ quan Công an và bị tra hỏi về những bài viết trên blog của ông ta; sau đó người này gọi lại thì máy không trả lời. Vợ của blogger Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu cũng cho hay không hề liên lạc được với chồng kể từ ngày thứ năm đến nay, tuy nhiên bà này từ chối không bình luận gì thêm.
Reuter cho biết có gọi đến trụ sở Công an Hà Nội để hỏi về vụ việc nhưng người trực máy trả lời không hề biết vụ việc.
Hồi đầu tuần, một blogger khác là nhà báo Huy Đức, cũng bị tờ Sài Gòn Tiếp Thị ngưng hợp đồng do bài viết về Bức tường Bá Linh của ông.
An ninh Việt Nam bắt giữ thêm một blogger (?)
Trần Văn, RFA
29-08-2009
Hai ngày sau khi blogger Osin – nickname trên Internet của nhà báo Huy Đức - cho biết đã thôi làm báo, một số blog và diễn đàn điện tử loan báo, sáng 27 tháng 8, cơ quan an ninh điều tra đã triệu tập blogger Người Buôn Gió đến làm việc về những vấn đề an ninh quốc gia và đến 8 giờ tối cùng ngày, cơ quan an ninh điều tra đã áp giải blogger Người Buôn Gió về tư gia, đọc lệnh khám xét nhà...
Thông tin này chính xác tới mức nào, Trân Văn tìm hiểu và tường trình...
Vào lúc này, Người Buôn Gió đang là một blog thu hút sự chú ý của nhiều người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Rất nhiều bài viết của blogger Người Buôn Gió đã được các blog, diễn đàn điện tử, website Việt ngữ dẫn lại, đặc biệt là loạt phiếm luận nhiều kỳ mang tên chung: “Đại Vệ Chí Dị”.
Phiếm luận “Đại Vệ Chí Dị”
Người Buôn Gió đã dựa theo “Đông Chu Liệt Quốc” – một bộ tiểu thuyết nổi tiếng của Trung Quốc để phóng tác “Đại Vệ Chí Dị”.
Nếu “Đông Chu Liệt Quốc” chỉ kể về giai đoạn lịch sử kéo dài khoảng 400 năm hồi trước Công nguyên ở Trung Quốc thì trong “Đại Vệ Chí Dị” của Người Buôn Gió, người ta thấy một Đại Vệ khác bạc nhược, ươn hèn, cam tâm khuất phục một Tề quốc ngang ngược với lắm dã tâm và dưới ngòi bút của Người Buôn Gió, quan hệ giữa Đại Vệ với Tề Quốc dễ khiến người ta liên tưởng đến quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Xin dẫn đoạn kết trong “Đại Vệ Chí Dị” kỳ mới nhất để quý vị dễ hình dung: Các tướng lãnh ra về. Vệ Vương ưu tư đi trong điện. Lát sau ngài đợi cho cung điện vắng vẻ, ra sân vọng về hướng Bắc niệm thần chú hộ mệnh. Những tên lính hầu trong điện đang thực hiện nghi lễ đổi phiên gác mới. Bầu trời dần lên từ phía Đông, nước Vệ bắt đầu một ngày bằng những tia ánh sáng mặt trời đỏ thẫm như máu khô của những ngư dân chết trên biển vì đạn quân Tề. Trong ánh sáng của mặt trời đi qua biển Đông có cả mùi tanh tanh của máu.
“Đại Vệ Chí Dị” đã gây tiếng vang rất lớn trên Internet và trong công chúng. Ở các cuộc thảo luận trên nhiều blog, nhiều diễn đàn điện tử, khi đề cập đến chính quyền Việt Nam, nhiều người Việt đã tự đổi quốc hiệu Việt Nam thành “Vệ”.
Ngoài “Đại Vệ Chí Dị”, Người Buôn Gió còn tham gia ý kiến, bình luận nhiều vấn đề thời sự khác, kể cả chủ trương, chính sách của Đảng, của chính quyền.
Vì liên quan đến Thái Hà?
Trở lại với thông tin về việc blogger Người Buôn Gió bị bắt. Theo một số blog và diễn đàn điện tử, tối 28 tháng 8, khi thực hiện lệnh khám xét nơi ở của blogger Người Buôn Gió, cơ quan An ninh Điều tra đã niêm phong, tịch thu hai máy tính của blogger này và một số giấy tờ. Những nguồn tin liên quan đến sự kiện vừa đề cập kể thêm rằng, lý do cơ quan an ninh điều tra bắt blogger Người Buôn Gió là vì blogger này “có liên quan đến việc in ấn áo và viết các bài viết về tình hình tại Thái Hà, Tam Tòa”.
Vì việc bắt giữ Người Buôn Gió được cho là có liên quan đến Thái Hà nên chúng tôi đã liên lạc với linh mục Nguyễn Văn Khải, Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà:
Trần Văn: Thưa linh mục, có tin là một blogger tại Việt Nam với nickname là Người Buôn Gió mới bị bắt do có liên quan đến Thái Hà và Tam Tòa. Linh mục có biết gì về trường hợp này không ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Anh Người Buôn Gió đang sinh sống tại Hà Nội. Anh ta là một dự tòng, đang học Giáo lý Công giáo để gia nhập Giáo hội.
Trần Văn: Thưa linh mục, trên Internet có tin rằng blogger Người Buôn Gió đã bị bắt do có liên quan đến những vụ việc xảy ra tại Thái Hà và Tam Tòa. Linh mục đánh giá những thông tin này như thế nào ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Tôi thấy anh ta viết bài về Tam Tòa và đưa lên mạng Internet, tôi có đọc và tôi biết. Nếu nói anh ta liên quan đến Thái Hà thì chẳng có liên quan nào trực tiếp đến Thái Hà cả.
Trân Văn: Một blog khác có đề cập Người Buôn Gió in ấn gì đó. Những thông tin như thế được cho là từ cơ quan an ninh Việt Nam đưa ra. Linh mục đánh giá như thế nào về tính chính xác của nó ạ?
LM Nguyễn Văn Khải: Tôi có nghe một anh bạn nói rằng, anh Người Buôn Gió liên quan đến việc in trên áo mình mặc những khẩu hiệu yêu nước: Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam đấy. Tôi nghĩ rằng việc anh ta bày tỏ lòng yêu nước một cách cao đẹp như vậy, một cách cụ thể như vậy là điều tốt! Và tôi không nghĩ rằng, một chính quyền biết tôn trọng luật pháp, biết bảo vệ quyền lợi của dân tộc của đất nước mà lại đi bắt những công dân bày tỏ lòng yêu nước một cách cụ thể, sinh động và cao đẹp như vậy.
Ru con nước Vệ
Từ khi xuất hiện trên Internet, giống như nhiều blogger khác, Người Buôn Gió chỉ tồn tại như một nhân vật ảo, không tên tuổi thực, không nơi cư trú, song cách nay, vài ngày, Người Buôn Gió đột ngột tự bạch về mình: Tên thật của ông là Bùi Thanh Hiếu, ngụ tại 22 ngõ Phất Lộc, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Vì sao? Bài viết mới nhất của ông, mang tựa là Ru con nước Vệ, có thể giúp mọi người tự tìm câu trả lời. Mời quý vị cùng xem. ..
Có thể lắm chứ!... Kẻ sĩ có người từng cay đắng nói rằng. Ở xã hội này mỗi công dân là một người tù dự khuyết.
Có thể lắm chứ!... Vào một ngày nào đó, ở nước Vệ xa xăm mãi ngoài giáp biển kia, tên Lái Gió sẽ bị công sai triều đình đến đóng gông xiềng, dẫn giải về lao chịu tội. Tội gì thì nước Vệ có nhiều lắm !...
Con trai của Lái Gió lủi thủi bám tay mẹ đi thăm bố. Như cách đây 35 năm Lái Gió bám tay mẹ mình đi thăm bố trong nhà lao. Lúc ấy hình như Lái Gió cũng bằng con trai của hắn bây giờ… Định mệnh có thể lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác…
Trong nhà lao nước Vệ, Lái Gió không có tiền để mua quà cho con, có thể hắn chỉ còn cách viết thơ về cho con. Như nhiều năm xa xưa hắn đã từng viết thơ cho mẹ già vậy. Lời thơ cho con có thể rằng:
À ơi ! cái cò mày ngủ cho ngoan
Bố còn gánh nợ trần gian chưa về… à ơi!...
Trần gian cay đắng trăm bề
Bởi chưng phận bọt… à ơi!...
Bởi chưng phận bọt… mà ê chề nhớ con!...
À ơi !...
Con ơi ! sóng đánh mạn thuyền
Gió thì phiêu bạt tận miền xa xăm
À ơi !...
Đèo cao, núi thẳm, rừng ngàn
Bố đi lòng chất muôn vàn thương con
À ơi !...
Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với ông Bùi Thanh Hiếu cũng như thân nhân của ông để tìm kiếm thêm thông tin nhưng không thành công nên chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và tường trình thêm về số phận của blogger Người Buôn Gió.
Văn Hóa
Thiền luận: Tôi hét lên!
Nguyễn Trung Tây, SVD
07:19 29/08/2009
Thiền luận:
Tôi hét lên!Tôi hét lên, Ảnh Nguyễn Trung Tây |
Tôi mệt nhọc với cuộc đời, Tôi khò khè với cuộc sống!Tôi làm hãng cam, làm anh cai.Tôi đếm tiền.Tôi, vợ đẹp.Tôi, con khôn.Tôi ung thư.Tôi hét lên!
Hai mươi năm rồi, ngày nào tôi cũng mệt thở không ra hơi, đầu nhức căng căng, tim đập hồi hộp, thần mắt khờ khạo; bởi sáng nào cũng vậy, tôi dậy thật sớm, hốt hoảng như người bị ma đuổi, tôi phóng thật lẹ vào sâu trong phòng tắm. Nước ấm dội xuống cuống cuồng, tôi sấy tóc hối hả, tôi chải tóc vội vàng, tôi mặc quần áo thật lẹ, tôi ba chân bốn cẳng phóng ra xe, xe đề máy, tôi biến mất vào dòng đời xe cộ ngược xuôi.
Tách rời dòng xe đen nghìn nghịt như những con bọ hung đông lạnh không nhúc nhích trên xa lộ chằng chịt dọc ngang, tôi kiếm đường tắt, hốt hoảng bẻ trái, lừa lừa quẹo phải, tôi bực bội bấm còi, tôi phóng vội vàng vào hãng cam.
Ngồi nhặt những trái cam tươi, tôi xếp vào thùng đều đặn như người máy. Ngồi đếm những quả cam bóng lực lưỡng da căng tròn, tôi xếp vào thùng gỗ, đường rầy dây chuyền lăn đều đẩy tới những vòng quay. Nơi cuối đường, thùng gỗ đầy cam chầm chậm lăn vào lòng xe vận tải. Đầy những thùng cam, xe vận tải đề máy quay tròn mười sáu bánh xe lăn tới những nẻo đường xa lộ. Xe vận tải khác trống hoắc lầm lì lăn bánh tới, nóng nẩy chờ đợi những thùng gỗ cam tươi chất đầy lòng xe…
Hai mươi năm của cuộc đời vừa qua, tôi ngồi nhặt cam, xếp cam, lương khá. Thoạt tiên là mười lăm đồng. Năm năm sau lương tăng lên. Năm thứ bẩy, tôi hóa thành anh cai, nhận được lương phụ trội làm xếp. Được làm anh cai, tôi tới hãng sớm hơn, ở lại cũng trễ hơn. Nhưng cũng chẳng sao. Sớm và trễ đều hóa ra những đồng tiền bạc trăm bạc ngàn vào ngày thứ Sáu cuối tuần. Bởi thế tôi hăng hái lao vào nghề xếp những trái cam vô thùng gỗ. Cuộc đời bỗng dưng ngập những tiền là tiền. Cuối tuần, cầm tờ ngân phiếu hãng cam trả với bốn con số, tim tôi đập mạnh, niềm vui tiền bạc dâng lên tê tê đầu lưỡi, bao nhiêu nhọc nhằn cực khổ bởi sáng dậy sớm, chiều về trễ, hốt hoảng tranh giành đường đi trên xa lộ tự nhiên tan biến bởi những đồng tiền vào ngày thứ Sáu cuối tuần.
Tôi hát nho nhỏ,
“Tiền là tiên là Phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già”.
Tiền!
Có tiền là có tiên. Vợ tôi đã đẹp giờ lại càng thêm đẹp bởi những đồng tiền của hãng cam. Nàng sửa cằm, bơm môi, nâng ngực, cắt mắt, nàng đẹp rực rỡ, nàng ăn trắng mặc trơn. Tôi muốn ăn Phở, nàng nấu Phở nước trong. Tôi muốn ăn cháo lòng rắc tiêu sọ, cơm sườn tàu hủ ky, nàng lái xe Bimmơ xuống phố mua cơm cháo. Tôi muốn hút thuốc ba số 5, nàng ghé vào tiệm mua cho tôi mấy cây. Cẩn thận, nàng còn mua thêm mấy gói thuốc con mèo. Con tôi hai đứa, mịn da đẹp thịt, học hành giỏi giang trong trường đại học tư thục nhờ lương bốn số cuối tuần của anh cai hãng cam. Nhà tôi cất cao nhất khu đồi, bốn phòng rộng thênh thang. Hai vợ chồng tôi một phòng, căn phòng có màn cửa nhung. Một đứa con gái, một đứa con trai, mỗi đứa một phòng. Mỗi phòng căn bản là một TV và một máy vi tính. Cạnh phòng ăn là bar rượu rộng thênh thang. Dưới hầm nhà, xếp đều tăm tắp những chai rượu VSOP, rượu vang đắt tiền. Cạnh phòng ăn, tôi gọi người tới biến thành căn phòng có ghế da hơi nằm dài theo dõi dàn máy home theater hiệu Sony chiếu phim trên màn ảnh đại vĩ tuyến. Asia, Thúy Nga, Vân Sơn, phim Việt Nam, tôi nằm dài coi trong rạp nhà, mà tưởng là mình đang ngồi coi trong rạp màn ảnh 4D bốn chiều.
Cuộc sống tôi thênh thang. Xe Bim-mơ, vợ tôi một cái, tôi một cái. Tôi yêu vợ, yêu con, và yêu cuộc sống!
Bởi yêu vợ và yêu con, tôi anh cai hãng cam làm thêm ngày thứ Sáu, thứ Bẩy, và luôn cả ngày Chúa Nhật. Hai chục năm rồi, ngày nào tôi cũng đi làm.
Tôi đếm tiền mỏi tay!
Tiền giấy đếm, sướng những đầu ngón tay.
Tôi hạnh phúc mênh mông!
Đời tôi màu hồng.
Chuồn chuồn bay đầy trên cánh đồng cỏ xanh.
Chuột đồng no nê căng tròn rong chơi trên đồng lúa vàng.
Cá chem chép vàng ươm êm đềm bơi lội dọc theo bờ sông đỏ màu phù sa.
Tôi, thiên đàng trần thế!
Hồn ơi, vui lên!
Sáng hôm qua, như thường lệ, tôi dậy sớm, cổ họng đau ran rát.
Đi khám,
Bác sĩ nói,
— Ung thư cuống họng.
Lần đầu tiên trong đời tôi nếm vị thuốc.
Những lần chạy chemotherapy, tóc tôi rụng, đầu tôi sói sọi!
Thân thể xanh xao. Mặt bủng da chì!
Tôi vàng như những trái cam mà có một thời tôi xếp xếp gói gói vào thùng gỗ năm xưa.
Tôi húp phở, phở không ngon.
Tôi chán những chén cháo lòng rắc tiêu sọ.
Tôi ói ra những miếng cơm sườn nướng tàu hủ ky.
Tôi ho sặc sụa với hơi thuốc ba số 5, thuốc đầu con mèo.
Tôi nhổ ra phèn phẹt ngụm rượu đỏ Cabernet Sauvignon.
Tôi giờ này chỉ còn nuốt được những viên thuốc ung thư.
Sáng sáng nhìn qua khung cửa,
Bình minh rực rỡ,
tôi mơ sức khỏe.
Tôi khóc! Trời ơi, sao đời phù vân!
Nếu biết thế, tôi sẽ không sống như tôi đã từng sống hơn hai mươi năm vừa qua.
Trời mùa hạ xanh tươi, nhưng sao tôi thấy lá vàng đong đưa bên khung cửa.
Tôi hối tiếc cho những ngày xưa, những ngày còn sung mãn.
Cuối tuần, vợ tôi ghé vào viếng thăm.
Mười ngón tay của nàng, mầu hồng tô son thơm mùi phưng phức. Cặp môi trái tim, mắt phượng mở lớn, đôi ngực căng tròn, nước hoa từ thân thể nàng bốc mùi thơm hăng hắc. Tôi nhìn nàng, dáng nàng sang, tóc nàng đen óng sợi tóc dầy, tôi mơ ước sức khỏe ngày xưa.
Nàng hỏi, “Bao giờ anh về?”
Con tôi hôn lên vầng trán, “Thôi, con phải về,
Ngày mai con có bài thi cuối khóa.
Chúc bố chóng bình phục”.
Nhưng tôi vẫn tuột dốc.
Ung thư cổ họng gậm nhấm ăn mòn thân xác.
Tôi rớt xuống.
Tôi chạm đáy vực sâu.
Tôi đốt nến, nhìn lên tượng thánh giá.
Tôi đôi môi mấp máy như Hàn Mặc Tử:
“Ave Maria, Thánh Nữ Đồng Trinh,
Xin chữa con!
Xin cứu con.
Nếu bây giờ,
Phép lạ xẩy ra,
Con sẽ vẫn đi làm ở hãng cam,
Con sẽ vẫn làm anh cai,
Nhưng con sẽ không đi làm thêm ngày thứ Bẩy, Chúa Nhật.
Bởi con đã nhận ra đời sống này vô thường!
Có đó rồi mất đó,
Vô thường! Vô thường! Đại vô thường!”.
Nhưng phép lạ không xẩy ra.
Tôi tiếp tục mệt nhọc với ung thư,
Tôi khò khè với bệnh tật!
Ung thư tiếp tục phá nát cuống họng!
Tôi nằm dài trên giường bệnh,
Con tôi hỏi, “Bố ơi, bao giờ bố về?”.
Tôi khóc, không nói được nữa, bởi ung thư đã phá rách toang cổ họng.
Tôi run run năm đầu ngón tay, viết lên trên tờ giấy trắng tinh, “Sao hai đứa con gầy vậy?”
Con tôi nói, “Bố ơi! Mẹ bỏ đi rồi!”.
Tôi hét lên! Tiếng hét cuồn cuộn xoáy sâu đẩy tôi rơi xuống vực thẳm!
Ah!
Ah! Ah!
Ah! Ah! Ah!
Tôi mở mắt ra,
Người ướt đẫm mồ hôi!
Nhìn qua khung cửa,
Tôi nhận ra bình minh thứ Bẩy cuối tuần rộn ràng khua vang.
Bên khung cửa,
Có chú chim nho nhỏ say mê hót vang khúc hát bình dị, “Good morning! Chào bình minh buổi sáng”.
Tỉnh cơn ác mộng,
Tôi KHÔNG hốt hoảng như người bị ma đuổi, phóng thật lẹ vào sâu trong phòng tắm như mọi ngày trong hai mươi năm qua.
Nhưng tôi quỳ bên chân giường, tôi đọc một lời kinh nho nhỏ với Chúa, với Phật, và với Bụt.
Thấy tôi bước xuống nhà pha ly café buổi sáng, vợ tôi ngạc nhiên hỏi,
— Ủa, không đi làm sao?
Tôi đáp cộc lốc,
— Không!
Nhưng mặt tươi như hoa, nhìn qua khung cửa, hát nho nhỏ một bài ca…
www.nguyentrungtay.com