Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:06 05/09/2011
NGƯỜI ĐỰNG QUAN TÀI
Có một quả phụ già, trong tay cầm hai trăm ba mươi xu, rất lo lắng sợ chết rồi thì không có người lo chôn cất mình, bèn đem hết số tiền ấy đi đóng một cổ quan tài, mấy ngày sau thì quả nhiên lâm bệnh, tự liệu biết mình phải chết, nhưng cũng đắc ý vì đã đóng xong quan tài, nào ngờ bị bệnh mấy hôm thì thuyên giảm, nhưng hai chân bị yếu nên không thể ngồi dậy ra khỏi giường, vừa đói vừa sợ chết, không làm sao được nên chỉ có cách là rao bán quan tài.
May mắn nhờ có số tiền do bán quan tài ấy, nên bà ta ăn ngủ được hai tháng trên giường thì hết tiền và bệnh cũng lành, bà ta bèn thở dài nói:
- “Trên thế gian thì quan tài đựng người, chỉ một mình ta thì khiến cho người đựng quan tài”.
Suy tư:
Con người ta khi sống dù ở trong cung điện sơn son thiếp vàng, hoặc sống trong nhà cao cửa rộng, hay sống trong những căn nhà ổ chuột, thì khi chết đi vẫn chỉ là bốn miếng ván ghép lại rồi đem đi chôn hoặc hỏa táng mà thôi, lúc đó thì người nghèo cũng như người giàu, kẻ đói cũng như người no, người làm quan lớn cũng như người làm dân thường, bởi vì lúc đó thì lời dạy trong sách Giảng Viên “Phù vân quả là phù vân, phù vân quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân” là rõ ràng nhất ai cũng hiểu, tức là ai cũng phải đi quả cửa sự chết, và sự giàu có hoặc nghèo khó sau khi chết thì mới thực sự đáng vui hoặc đáng buồn mà thôi.
Quan tài là cái giường nằm sau cùng của con người. Ai hiểu thì hiểu !
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có một quả phụ già, trong tay cầm hai trăm ba mươi xu, rất lo lắng sợ chết rồi thì không có người lo chôn cất mình, bèn đem hết số tiền ấy đi đóng một cổ quan tài, mấy ngày sau thì quả nhiên lâm bệnh, tự liệu biết mình phải chết, nhưng cũng đắc ý vì đã đóng xong quan tài, nào ngờ bị bệnh mấy hôm thì thuyên giảm, nhưng hai chân bị yếu nên không thể ngồi dậy ra khỏi giường, vừa đói vừa sợ chết, không làm sao được nên chỉ có cách là rao bán quan tài.
May mắn nhờ có số tiền do bán quan tài ấy, nên bà ta ăn ngủ được hai tháng trên giường thì hết tiền và bệnh cũng lành, bà ta bèn thở dài nói:
- “Trên thế gian thì quan tài đựng người, chỉ một mình ta thì khiến cho người đựng quan tài”.
Suy tư:
Con người ta khi sống dù ở trong cung điện sơn son thiếp vàng, hoặc sống trong nhà cao cửa rộng, hay sống trong những căn nhà ổ chuột, thì khi chết đi vẫn chỉ là bốn miếng ván ghép lại rồi đem đi chôn hoặc hỏa táng mà thôi, lúc đó thì người nghèo cũng như người giàu, kẻ đói cũng như người no, người làm quan lớn cũng như người làm dân thường, bởi vì lúc đó thì lời dạy trong sách Giảng Viên “Phù vân quả là phù vân, phù vân quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân” là rõ ràng nhất ai cũng hiểu, tức là ai cũng phải đi quả cửa sự chết, và sự giàu có hoặc nghèo khó sau khi chết thì mới thực sự đáng vui hoặc đáng buồn mà thôi.
Quan tài là cái giường nằm sau cùng của con người. Ai hiểu thì hiểu !
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:07 05/09/2011
N2T |
20. Cứu linh hồn người ta so với việc làm phép lạ thì công phúc càng to lớn hơn.
(Thánh John Chrysostom)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngày 11 tháng 9 dưới ánh sáng đức tin
Vũ Văn An
04:07 05/09/2011
Theo Benjamin Mann của hãng tin Catholic News Agency, ngày 4 tháng 9, 2011, Robert Harding, một giáo dân sống gần địa điểm ngày nay có tên là Ground Zero của Nữu Ước, cho rằng hình như nước Mỹ không lưu ý tới tiếng chuông báo thức của biến cố 11 than1g 9 năm 2001. Vì khi chứng kiến cảnh Trung Tâm Thương Mại Thế Giới xụp đổ cách căn gác Manhattan của ông 4 khu phố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Harding cảm thấy Thiên Chúa đang mời gọi con người thuộc mọi quốc gia, mọi nòi giống, mọi ngôn ngữ và mọi tôn giáo ăn năn thống hối.
Ông bảo: “Khi thấy Tòa Tháp Đôi xụp đổ, tôi không nghĩ ‘Thiên Chúa trừng phạt tôi’, nhưng cảm thấy đây là một biến cố thiêng liêng. Tôi thực sự cảm thấy sự hiện diện của một quyền lực thiêng liêng vô sánh. Nó gần như một tiếng còi đánh thức, ngỏ với tôi ‘hỡi nhân loại, hãy nhìn xem ngươi đang làm chi vậy. Hãy kiểm điểm chính ngươi. Đây là điểm ngươi đang hiện diện, nên hãy thức tỉnh!”.
Nhưng nhiều người Hoa Kỳ hết sức thất vọng, họ là những người kỳ vọng có được một thời đại mới cho mục tiêu và sự đoàn kết quốc gia sau ngày 11 tháng 9. Đối với Harding, một họa sĩ từng có tranh trưng bày ở nhiều nơi trên thế giới và là một người Công Giáo suốt đời, lớn lên trong thời Thế Chiến Hai, hình như nước Mỹ đã không lưu ý tới tiếng còi báo thức có tính thế giới ấy.
Harding hiện là thừa tác viên Thánh Thể tại Giáo Xứ Thánh Phêrô của Giáo Hội Công Giáo Rôma, chỉ cách Ground Zero một khu phố. Buổi sáng hôm xẩy cuộc tấn công, ông và đứa con trai nhỏ ở tại căn gác gần Tòa Tháp Đôi, còn bà vợ thì tới khu phố trên cả ngày. Khi nghe tiếng nổ lớn, ông vội từ cầu tháng cứu hỏa bước ra ngoài phố. Ông nói với Catholic News Agency ngày 1 tháng 9 vừa rồi rằng: “Lúc ấy im lặng lắm. Bỗng nhiên, không còn mấy lưu thông nữa. Xa xa kia, khoảng 3 hay 4 khu phố, tôi thấy bông giấy rơi đầy bầu trời’. Lúc ấy, ông chưa biết Tòa Tháp Phía Bắc gần căn gác của ông bị máy bay tấn công. Một nhóm hàng xóm, phần đông là đồng nghiệp họa sĩ của ông, lục tục tụ nhau lại ở phía ngoài. “Nhìn về phía nam, chúng tôi thấy rõ Toà Tháp Phía Bắc có một lỗ hổng lớn, và khói thoát ra từ đó. Có ai đó từ phía tây chạy tới, vừa chạy vừa hô ‘Một máy bay đang đâm vào tòa tháp! Tôi thấy một máy bay đang đâm vào tòa nhà!’”
Khỏang 9 giờ sáng, vẫn ôm đứa con 2 tuổi trong lòng, Harding đang say sưa bàn luận tin tức với hàng xóm, thì “bỗng nhiên, Tòa Tháp Phía Nam nổ tung trong một đám khói đen vĩ đại, sau đó là lửa, là mảnh vỡ từ toà nhà tung bay khắp phía. Chính là do chiếc máy bay thứ hai”.
Mảnh vỡ từ vụ nổ rớt xuống mái nhà thờ giáo xứ của Harding. Trong khi ấy, Trung Tâm Thương Mại Thế Giới “trông như thể sắp đổ xụp xuống chúng tôi. Và từ chỗ chúng tôi đang đứng, điều đó có nghĩa nó sẽ giáng xuống ngay trên đầu mình”.
Đang đứng trên con phố với một nhóm người, trong đó, tình cờ có cả Thị Trưởng Rudy Giuliani, ông nghe “một tiếng rầm phía sau chúng tôi… Chúng tôi thấy Tòa Tháp Phía Bắc xụp đổ. Chỉ trong vòng 10 giây”.
Cuối hôm đó, bỏ lại đám mây trông như bụi tro núi lửa phía sau, ông cùng đứa con trai lên phía bắc thành phố gặp vợ. Một trong những bạn của ông làm việc tại Nhà Hàng Windows on the World tại Tòa Tháp Phía Nam, nhưng sáng hôm đó không đi làm, thành ra thoát chết. Nhưng tất cả bạn bè của cô ta đều thiệt mạng trong biến cố này.
Sinh năm 1938 và mất cha trong Thế Chiến II, Harding cho biết ông thấy ông ít bị ngỡ ngàng vì biến cố này hơn nhiều người Mỹ trẻ tuổi hơn. Với ông, cuộc tấn công do những người Hồi Giáo quá khích chủ mưu này chỉ là “một sự nối dài lịch sử lâu dài của Hoa Kỳ… vốn là mục tiêu của ganh ghét hay cạnh tranh khủng khiếp từ mọi phe trên thế giới” cũng như đã từng xẩy ra thời Thế Chiến II.
Nhưng ông tin rằng Hoa Kỳ đã mất hướng đi trong một số khía cạnh sau ngày 11 tháng 9, thay vì nhờ cơ hội này mà trỗi dậy. Ông rất ngỡ ngàng khi Mỹ đánh mất tài lãnh đạo bởi các chính khách ngày nay chỉ toan khai thác các dị biệt của ta vì các mục tiêu chính trị hẹp hòi để được tái cử, chứ thực sự không muốn nói với Hoa Kỳ và thế giới về những vấn đề hết sức căn bản.
Harding cũng tin rằng sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, người Mỹ đã đầu hàng trước sợ hãi, đã đặt niềm tin của họ vào các chiến thuật đáng ngờ về đạo đức chỉ vì quyền lợi an ninh quốc gia. “Suốt cả đời, tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại phải nghe người ta tranh luận trên truyền hình rằng ta có nên sử dụng tra tấn hay không, và nếu sử dụng thì nên sử dụng loại nào. Há ta đã không nghe nói tới cuộc chuyển giao tù binh đầy chết chóc tại Bataan của Đế Quốc Nhật hay sao? (1) Không hiểu chuyện gì đang xẩy ra đây? Quả là điên khùng… Chỉ vì sợ hãi. Đâu có sợ hãi, đấy không thể có đức tin”.
Harding cho rằng bài học sâu sắc nhất của ngày 11 tháng 9 là người khắp năm châu bốn biển “phải khiêm hạ, phải nhìn nhận rằng thực tại được thống trị bời một quyền lực mạnh hơn chính chúng ta”. Vào ngày trên, mục tử của Harding là Cha Kevin Madigan vừa giải tội xong và đang cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Phêrô, thì thư ký của ngài cho hay một máy bay vừa đâm vào một trong hai tòa tháp đôi. Sau đó, nhiều người bị thương và hấp hối được mang tới nhà thờ của Cha trên đường tới bệnh viện hay nhà xác.
Sau cuộc tấn công trên, Cha Madigan thấy nhiều người Nữu Ước cần “một cái nhìn sâu rộng hơn về Thiên Chúa, và một liên hệ sâu sắc hơn với Người, một cái nhìn có thể đứng vững dù sự việc không diễn ra theo ý muốn của chúng ta”. Ngài cho hay cũng có những thay đổi tích cực trong thành phố ngay sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001, nhưng những thay đổi này khá ngắn ngủi. “Trong những tuần lễ kế tiếp, tôi thấy người ta thay đổi nhiều. Người dân thường của phố thị tỏ ra cảm thương hơn, biết chăm sóc người khác hơn. Xem ra họ sống theo những gì được coi là quan yếu đối với đời sống hơn”. Ngài vội nói thêm: “Nhưng tôi nghĩ, ta có thể nói thế này: khi việc báo thức qua đi, người ta vội bấm nút ‘snooze’ ngay lập tức, và sau đó đi ngủ tiếp”.
Hôm nay, gần đến kỷ niệm năm thứ 10 ngày quân khủng bố tấn công Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, Ngũ Giác Đài cũng như Chuyến Bay United số 93, Cha Madigan cũng thắc mắc như Harding rằng không biết người Mỹ có sẵn sàng xem sét biến cố trên dưới ánh sáng đức tin hay không. “Chúng ta đang sống trong tình trạng chiến tranh liên miên suốt 10 năm qua, ở Afghanistan, ở Iraq, nay ở Libya. Nay mai, liệu có ở một nơi nào khác, như Yemen chẳng hạn chăng? Là Kitô hữu, ta phải làm cách nào mới tiến tới hòa bình?”
(1) Đây là cuộc chuyển giao tù binh cưỡng bức của quân đội Thiên Hoàng, trong đó 75,000 tù binh chiến tranh người Mỹ và Phi Luật Tân, bị bắt trong Trận Chiến kéo dài 3 tháng tại Bataan, buộc phải cuốc bộ 97 cây số dưới sự hành hạ dã man của quân đội Nhật, khiến hàng nghìn tù nhân thiệt mạng. Sau này, ủy ban quân sự Liên Minh coi đây là một tội ác chiến tranh.
Ông bảo: “Khi thấy Tòa Tháp Đôi xụp đổ, tôi không nghĩ ‘Thiên Chúa trừng phạt tôi’, nhưng cảm thấy đây là một biến cố thiêng liêng. Tôi thực sự cảm thấy sự hiện diện của một quyền lực thiêng liêng vô sánh. Nó gần như một tiếng còi đánh thức, ngỏ với tôi ‘hỡi nhân loại, hãy nhìn xem ngươi đang làm chi vậy. Hãy kiểm điểm chính ngươi. Đây là điểm ngươi đang hiện diện, nên hãy thức tỉnh!”.
Nhưng nhiều người Hoa Kỳ hết sức thất vọng, họ là những người kỳ vọng có được một thời đại mới cho mục tiêu và sự đoàn kết quốc gia sau ngày 11 tháng 9. Đối với Harding, một họa sĩ từng có tranh trưng bày ở nhiều nơi trên thế giới và là một người Công Giáo suốt đời, lớn lên trong thời Thế Chiến Hai, hình như nước Mỹ đã không lưu ý tới tiếng còi báo thức có tính thế giới ấy.
Harding hiện là thừa tác viên Thánh Thể tại Giáo Xứ Thánh Phêrô của Giáo Hội Công Giáo Rôma, chỉ cách Ground Zero một khu phố. Buổi sáng hôm xẩy cuộc tấn công, ông và đứa con trai nhỏ ở tại căn gác gần Tòa Tháp Đôi, còn bà vợ thì tới khu phố trên cả ngày. Khi nghe tiếng nổ lớn, ông vội từ cầu tháng cứu hỏa bước ra ngoài phố. Ông nói với Catholic News Agency ngày 1 tháng 9 vừa rồi rằng: “Lúc ấy im lặng lắm. Bỗng nhiên, không còn mấy lưu thông nữa. Xa xa kia, khoảng 3 hay 4 khu phố, tôi thấy bông giấy rơi đầy bầu trời’. Lúc ấy, ông chưa biết Tòa Tháp Phía Bắc gần căn gác của ông bị máy bay tấn công. Một nhóm hàng xóm, phần đông là đồng nghiệp họa sĩ của ông, lục tục tụ nhau lại ở phía ngoài. “Nhìn về phía nam, chúng tôi thấy rõ Toà Tháp Phía Bắc có một lỗ hổng lớn, và khói thoát ra từ đó. Có ai đó từ phía tây chạy tới, vừa chạy vừa hô ‘Một máy bay đang đâm vào tòa tháp! Tôi thấy một máy bay đang đâm vào tòa nhà!’”
Khỏang 9 giờ sáng, vẫn ôm đứa con 2 tuổi trong lòng, Harding đang say sưa bàn luận tin tức với hàng xóm, thì “bỗng nhiên, Tòa Tháp Phía Nam nổ tung trong một đám khói đen vĩ đại, sau đó là lửa, là mảnh vỡ từ toà nhà tung bay khắp phía. Chính là do chiếc máy bay thứ hai”.
Mảnh vỡ từ vụ nổ rớt xuống mái nhà thờ giáo xứ của Harding. Trong khi ấy, Trung Tâm Thương Mại Thế Giới “trông như thể sắp đổ xụp xuống chúng tôi. Và từ chỗ chúng tôi đang đứng, điều đó có nghĩa nó sẽ giáng xuống ngay trên đầu mình”.
Đang đứng trên con phố với một nhóm người, trong đó, tình cờ có cả Thị Trưởng Rudy Giuliani, ông nghe “một tiếng rầm phía sau chúng tôi… Chúng tôi thấy Tòa Tháp Phía Bắc xụp đổ. Chỉ trong vòng 10 giây”.
Cuối hôm đó, bỏ lại đám mây trông như bụi tro núi lửa phía sau, ông cùng đứa con trai lên phía bắc thành phố gặp vợ. Một trong những bạn của ông làm việc tại Nhà Hàng Windows on the World tại Tòa Tháp Phía Nam, nhưng sáng hôm đó không đi làm, thành ra thoát chết. Nhưng tất cả bạn bè của cô ta đều thiệt mạng trong biến cố này.
Sinh năm 1938 và mất cha trong Thế Chiến II, Harding cho biết ông thấy ông ít bị ngỡ ngàng vì biến cố này hơn nhiều người Mỹ trẻ tuổi hơn. Với ông, cuộc tấn công do những người Hồi Giáo quá khích chủ mưu này chỉ là “một sự nối dài lịch sử lâu dài của Hoa Kỳ… vốn là mục tiêu của ganh ghét hay cạnh tranh khủng khiếp từ mọi phe trên thế giới” cũng như đã từng xẩy ra thời Thế Chiến II.
Nhưng ông tin rằng Hoa Kỳ đã mất hướng đi trong một số khía cạnh sau ngày 11 tháng 9, thay vì nhờ cơ hội này mà trỗi dậy. Ông rất ngỡ ngàng khi Mỹ đánh mất tài lãnh đạo bởi các chính khách ngày nay chỉ toan khai thác các dị biệt của ta vì các mục tiêu chính trị hẹp hòi để được tái cử, chứ thực sự không muốn nói với Hoa Kỳ và thế giới về những vấn đề hết sức căn bản.
Harding cũng tin rằng sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, người Mỹ đã đầu hàng trước sợ hãi, đã đặt niềm tin của họ vào các chiến thuật đáng ngờ về đạo đức chỉ vì quyền lợi an ninh quốc gia. “Suốt cả đời, tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại phải nghe người ta tranh luận trên truyền hình rằng ta có nên sử dụng tra tấn hay không, và nếu sử dụng thì nên sử dụng loại nào. Há ta đã không nghe nói tới cuộc chuyển giao tù binh đầy chết chóc tại Bataan của Đế Quốc Nhật hay sao? (1) Không hiểu chuyện gì đang xẩy ra đây? Quả là điên khùng… Chỉ vì sợ hãi. Đâu có sợ hãi, đấy không thể có đức tin”.
Harding cho rằng bài học sâu sắc nhất của ngày 11 tháng 9 là người khắp năm châu bốn biển “phải khiêm hạ, phải nhìn nhận rằng thực tại được thống trị bời một quyền lực mạnh hơn chính chúng ta”. Vào ngày trên, mục tử của Harding là Cha Kevin Madigan vừa giải tội xong và đang cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Phêrô, thì thư ký của ngài cho hay một máy bay vừa đâm vào một trong hai tòa tháp đôi. Sau đó, nhiều người bị thương và hấp hối được mang tới nhà thờ của Cha trên đường tới bệnh viện hay nhà xác.
Sau cuộc tấn công trên, Cha Madigan thấy nhiều người Nữu Ước cần “một cái nhìn sâu rộng hơn về Thiên Chúa, và một liên hệ sâu sắc hơn với Người, một cái nhìn có thể đứng vững dù sự việc không diễn ra theo ý muốn của chúng ta”. Ngài cho hay cũng có những thay đổi tích cực trong thành phố ngay sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001, nhưng những thay đổi này khá ngắn ngủi. “Trong những tuần lễ kế tiếp, tôi thấy người ta thay đổi nhiều. Người dân thường của phố thị tỏ ra cảm thương hơn, biết chăm sóc người khác hơn. Xem ra họ sống theo những gì được coi là quan yếu đối với đời sống hơn”. Ngài vội nói thêm: “Nhưng tôi nghĩ, ta có thể nói thế này: khi việc báo thức qua đi, người ta vội bấm nút ‘snooze’ ngay lập tức, và sau đó đi ngủ tiếp”.
Hôm nay, gần đến kỷ niệm năm thứ 10 ngày quân khủng bố tấn công Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, Ngũ Giác Đài cũng như Chuyến Bay United số 93, Cha Madigan cũng thắc mắc như Harding rằng không biết người Mỹ có sẵn sàng xem sét biến cố trên dưới ánh sáng đức tin hay không. “Chúng ta đang sống trong tình trạng chiến tranh liên miên suốt 10 năm qua, ở Afghanistan, ở Iraq, nay ở Libya. Nay mai, liệu có ở một nơi nào khác, như Yemen chẳng hạn chăng? Là Kitô hữu, ta phải làm cách nào mới tiến tới hòa bình?”
(1) Đây là cuộc chuyển giao tù binh cưỡng bức của quân đội Thiên Hoàng, trong đó 75,000 tù binh chiến tranh người Mỹ và Phi Luật Tân, bị bắt trong Trận Chiến kéo dài 3 tháng tại Bataan, buộc phải cuốc bộ 97 cây số dưới sự hành hạ dã man của quân đội Nhật, khiến hàng nghìn tù nhân thiệt mạng. Sau này, ủy ban quân sự Liên Minh coi đây là một tội ác chiến tranh.
Ngày Giáo Lý Viên Việt Nam tại Tổng Giáo Phận Galveston Houston 2011
Xuân Hương
14:03 05/09/2011
HOUSON, TX - Từ sáng sớm ngày thứ bảy vừa qua, 3 tháng 9 năm 2011, các anh chị em giáo lý viên trẻ từ các Giáo Xứ Lộ Đức, La Vang và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thuộc Tổng Giáo Phận Galveston Houston đã lũ lượt kéo về Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể (gọi tắt là Giáo Xứ Ngôi Lời) để tham dự ngày Giáo Lý viên do Ban Giáo Lý của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam thuộc Tổng Giáo Phận Galveston-Houston tổ chức. Hơn 150 thầy cô trẻ đã hăng say trải qua một ngày học tập, sinh hoạt và cầu nguyện kéo dài từ 9 giờ sáng đến 7 giờ tối mà không biết mệt.
Xin bấm vào đây để coi hình ảnh.
Mở đầu chương trình, Đức Ông Philliphê Lê Xuân Thượng, Chánh Xứ Ngôi Lời, chào mừng các Giáo Lý viên và ban giảng huấn. Sau đó ngài hướng dẫn cầu nguyện mở đầu. Tiếp theo, Cha Antôn Đinh Minh Tiên, O.P., Trưởng Ban Giáo Lý, cám ơn Đức Ông và Giáo Xứ Ngôi Lời đã cho phép Ban Giáo Lý sử dụng cơ sở của Giáo Xứ, cùng Ban Giáo Dục của Giáo Xứ đã lo lắng thu xếp mọi phương tiện để có Ngày Giáo Lý viên hôm nay. Rồi ngài trình bày về liên quan giữa Bí Tích Thánh Thể và Giáo Lý viên.
Sau đó là phần giới thiệu ban giảng huấn và các đề tài huấn luyện. Trước hết anh trưởng ban tổ chức nhắc nhở các tham dự viên về chủ đề Giáo Lý năm nay của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ là “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” vì thế các đề tài huấn luyện một cách nào đó xoay quanh Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời anh cũng xin các tham dự viên nhớ đến Sơ Cecilia Theresa Đỗ Thu Hương, nguyên Trưởng Ban Giáo Lý của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là người đã tha thiết mong muốn có ngày Giáo Lý hôm nay, nhưng đã được Chúa đột ngột gọi về trước khi ý muốn của Sơ được thực hiện.
Ngoài đề tài chính về Bí Tích Thánh Thể và Giáo Lý viên do Cha Antôn Đinh Minh Tiên trình bày, còn có các đề tài phụ về sư phạm, tâm linh và phụng vụ.
Các đề tài phụ của buổi sáng là:
Sau một buổi sáng học tập chăm chỉ các Giáo Lý Viên được Ban Giáo Dục Giáo Xứ Ngôi Lời đãi một bữa trưa thịnh soạn với cơm thịt nướng.
Trong lúc các học viên dùng bữa trưa thì đại diện các Giáo Xứ vừa dùng bữa vừa họp để bàn về chương trình cho tương lai. Tất cả đều đồng ý rằng từ nay trở đi sẽ tổ chức Ngày Giáo Lý Việt Nam một cách nhất định vào Chúa Nhật đầu tháng 9. Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã nhận lời bảo trợ cho ngày Giáo Lý Việt Nam năm 2012 (ngày 2 tháng 9 năm 2012). Đồng thời từ niên khóa này, Tổng Giáo Phận đã cho phép Ban Giáo Lý Việt Nam tổ chức những khóa Thần Học và Thánh Kinh cho chương trình FTCM (Formation toward Christian Ministry) của Tông Giáo Phận bằng song ngữ cho các Giáo Lý viên Việt Nam. Ban Giáo Lý đang soạn chương trình và sẽ thông báo cho các Giáo Xứ sau về địa điểm cũng như thời gian của khóa. Cuối cùng vì thì giờ eo hẹp, cử tọa đồng ý sẽ tổ chức một buổi họp khác trong tháng 12 để bàn tiếp về những dự tính tương lai.
Các đề tài buổi chiều là:
Mỗi lớp trên đều có 2 tín chỉ về Sư Phạm Giáo Lý do Tổng Giáo Phận cấp.
Sau giờ giải lao với bữa ăn nhẹ buổi chiều còn có ba khóa học nữa. Một khóa học ngắn về những thay đổi trong Thánh Lễ bằng Tiếng Anh và hai khóa học dài xảy ra cùng một lúc.
Khóa Sacred & Safe do ông Mark Ciescielski thuộc Văn Phòng Giáo Lý Tổng Giáo Phận hướng dẫn, dành cho các Giáo Lý viên trên 18 tuổi về cách dạy những bài học giúp trẻ em làm sao để giữ mình khỏi bị người khác lạm dụng tính dục, đồng thời cũng giúp phụ huynh dạy con cái mình về vấn đề này.
Khóa Jeremiah 1:7 dành cho các em dưới 18 tuổi đã lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức muốn trở lại giúp làm phụ giáo trong các Giáo xứ biết cách tránh cho mình và các trẻ em mình giúp khỏi bị người khác lạm dụng tính dục. Đồng thời khóa này cũng giúp các em phân biệt thế nào là tinh yêu chân chính và tình yêu giả tạo, thế nào là những cách tiếp xúc chính đáng và không chính đáng với các học sinh trong trường để khỏi bị người khác hiểu lầm hay nghi ngờ là lạm dụng trẻ em.
Các lớp học tập chấm dứt vào lúc 5:50 chiều, và ngày Đào Luyện Giáo Lý Viên Việt Nam được kết thúc bằng Thánh Lễ chung với Giáo Xứ lúc 6 giờ chiều do Đức Ông Philipphê chủ tế và Cha Giuse Vũ Thành, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại TGP Galveston-Houston, thuyết giảng. Cuối Thánh Lễ, Cha Chủ Tịch đã thay mặt Đức Hồng Y Tổng Giám Mục chủ sự nghi thức sai đi, và cùng Cha Chủ Tế chúc lành cho các thầy cô và cộng đoàn.
Xin bấm vào đây để coi hình ảnh.
Mở đầu chương trình, Đức Ông Philliphê Lê Xuân Thượng, Chánh Xứ Ngôi Lời, chào mừng các Giáo Lý viên và ban giảng huấn. Sau đó ngài hướng dẫn cầu nguyện mở đầu. Tiếp theo, Cha Antôn Đinh Minh Tiên, O.P., Trưởng Ban Giáo Lý, cám ơn Đức Ông và Giáo Xứ Ngôi Lời đã cho phép Ban Giáo Lý sử dụng cơ sở của Giáo Xứ, cùng Ban Giáo Dục của Giáo Xứ đã lo lắng thu xếp mọi phương tiện để có Ngày Giáo Lý viên hôm nay. Rồi ngài trình bày về liên quan giữa Bí Tích Thánh Thể và Giáo Lý viên.
Sau đó là phần giới thiệu ban giảng huấn và các đề tài huấn luyện. Trước hết anh trưởng ban tổ chức nhắc nhở các tham dự viên về chủ đề Giáo Lý năm nay của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ là “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” vì thế các đề tài huấn luyện một cách nào đó xoay quanh Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời anh cũng xin các tham dự viên nhớ đến Sơ Cecilia Theresa Đỗ Thu Hương, nguyên Trưởng Ban Giáo Lý của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là người đã tha thiết mong muốn có ngày Giáo Lý hôm nay, nhưng đã được Chúa đột ngột gọi về trước khi ý muốn của Sơ được thực hiện.
Ngoài đề tài chính về Bí Tích Thánh Thể và Giáo Lý viên do Cha Antôn Đinh Minh Tiên trình bày, còn có các đề tài phụ về sư phạm, tâm linh và phụng vụ.
Các đề tài phụ của buổi sáng là:
- Bước đầu làm Giáo Lý Viên (Getting Started as a Catechist) do bà Rita Martinez hướng dẫn,
- Dạy học sinh với những cách học khác nhau (Teaching different learning styles) do ông Daniel Marcantel hướng dẫn,
- Con Người Giáo Lý Viên (The Person of the Catechist) do bà Gina Pasket hướng dẫn,
- Phương pháp soạn bài căn bản (Basic Lesson Planning) do cô Nguyễn Kim hướng dẫn,
- Vai trò của Gia Đình trong việc Dạy Giáo Lý (The Role of Family in Catechesis) do ông Phạm Xuân Khôi hướng dẫn.
Sau một buổi sáng học tập chăm chỉ các Giáo Lý Viên được Ban Giáo Dục Giáo Xứ Ngôi Lời đãi một bữa trưa thịnh soạn với cơm thịt nướng.
Trong lúc các học viên dùng bữa trưa thì đại diện các Giáo Xứ vừa dùng bữa vừa họp để bàn về chương trình cho tương lai. Tất cả đều đồng ý rằng từ nay trở đi sẽ tổ chức Ngày Giáo Lý Việt Nam một cách nhất định vào Chúa Nhật đầu tháng 9. Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã nhận lời bảo trợ cho ngày Giáo Lý Việt Nam năm 2012 (ngày 2 tháng 9 năm 2012). Đồng thời từ niên khóa này, Tổng Giáo Phận đã cho phép Ban Giáo Lý Việt Nam tổ chức những khóa Thần Học và Thánh Kinh cho chương trình FTCM (Formation toward Christian Ministry) của Tông Giáo Phận bằng song ngữ cho các Giáo Lý viên Việt Nam. Ban Giáo Lý đang soạn chương trình và sẽ thông báo cho các Giáo Xứ sau về địa điểm cũng như thời gian của khóa. Cuối cùng vì thì giờ eo hẹp, cử tọa đồng ý sẽ tổ chức một buổi họp khác trong tháng 12 để bàn tiếp về những dự tính tương lai.
Các đề tài buổi chiều là:
- Bước đầu làm Giáo Lý viên (Getting Started as a Catechist) do cô Nguyễn Kim hướng dẫn,
- Linh Đạo Giáo Lý viên (Spirituality of the Catechist) do bà Gina Pasket hướng dẫn,
- Sự liên hệ giữa Dạy Giáo Lý và Phụng Vụ (Catechesis and Liturgy) do ông Phạm Xuân Khôi hướng dẫn,
- Phương Pháp Soạn Bài Căn Bản (Basic lesson Planning) do bà Rita Martinez hướng dẫn.
Mỗi lớp trên đều có 2 tín chỉ về Sư Phạm Giáo Lý do Tổng Giáo Phận cấp.
Sau giờ giải lao với bữa ăn nhẹ buổi chiều còn có ba khóa học nữa. Một khóa học ngắn về những thay đổi trong Thánh Lễ bằng Tiếng Anh và hai khóa học dài xảy ra cùng một lúc.
Khóa Sacred & Safe do ông Mark Ciescielski thuộc Văn Phòng Giáo Lý Tổng Giáo Phận hướng dẫn, dành cho các Giáo Lý viên trên 18 tuổi về cách dạy những bài học giúp trẻ em làm sao để giữ mình khỏi bị người khác lạm dụng tính dục, đồng thời cũng giúp phụ huynh dạy con cái mình về vấn đề này.
Khóa Jeremiah 1:7 dành cho các em dưới 18 tuổi đã lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức muốn trở lại giúp làm phụ giáo trong các Giáo xứ biết cách tránh cho mình và các trẻ em mình giúp khỏi bị người khác lạm dụng tính dục. Đồng thời khóa này cũng giúp các em phân biệt thế nào là tinh yêu chân chính và tình yêu giả tạo, thế nào là những cách tiếp xúc chính đáng và không chính đáng với các học sinh trong trường để khỏi bị người khác hiểu lầm hay nghi ngờ là lạm dụng trẻ em.
Các lớp học tập chấm dứt vào lúc 5:50 chiều, và ngày Đào Luyện Giáo Lý Viên Việt Nam được kết thúc bằng Thánh Lễ chung với Giáo Xứ lúc 6 giờ chiều do Đức Ông Philipphê chủ tế và Cha Giuse Vũ Thành, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại TGP Galveston-Houston, thuyết giảng. Cuối Thánh Lễ, Cha Chủ Tịch đã thay mặt Đức Hồng Y Tổng Giám Mục chủ sự nghi thức sai đi, và cùng Cha Chủ Tế chúc lành cho các thầy cô và cộng đoàn.
Trung Quốc: Giám mục nói “Cần có đền thờ Thiên Chúa trong trái tim chúng ta”
Phạm Kim An
07:02 05/09/2011
Bảo Định, Trung Quốc - "Không có gì là sai trái, nếu một nhà thờ là nhỏ và đơn giản, miễn là chúng ta có thể cầu nguyện và cử hành Thánh Lễ trong đó. Điều quan trọng là có đền thờ của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta, được trang trí với lời cầu nguyện và việc lành, bởi vì chúng ta thực sự là con cái xứng đáng với Danh của Ngài ", - Đức Cha Phanxicô An Shu Xin, Giám mục phó Giáo phận Bảo Định, tỉnh Hà Bắc, nói với các tín hữu như vậy trong thánh lễ cung hiến nhà thờ ở làng Sui Cheng.
Theo thông tin do hãng tin Fides nhận được, ngày 30-8, hơn 300 tín hữu đã tham dự lễ cung hiến nhà thờ này. Thánh Lễ đồng tế gồm 15 linh mục, với sự tham dự của các nữ tu Tu hội Các Em nhỏ của thánh Têrêsa và Tu hội Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ thuộc giáo phận. Làng Sui Cheng có khoảng 3.000 người, trong đó có một trăm tín hữu công giáo. Tham dự thánh lễ còn có nhiều tín hữu đến từ các khu vực chung quanh.
Theo các tín hữu địa phương, “nhà thờ mới cho phép chúng tôi cầu nguyện và cử hành Thánh Lễ cho xứng hợp. Nhưng đồng thời nó cũng là lời mời gọi Rao giảng Tin Mừng".
Nhà thờ này được các nhà truyền giáo Vinh Sơn Pháp xây dựng vào năm 1901, và dâng cho Trái tim Đức Mẹ. Sau cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc, nhờ Đức Giám mục và các linh mục của giáo phận, nhà thờ vốn đã được chuyển đổi vào mục đích thế tục trong nhiều năm, đã có thể hoàn trả cho cộng đoàn Công Giáo vào đầu năm nay. Tuy nhiên, nó đã hoàn toàn bị phá hủy.
Do đó, các linh mục và tín hữu đã quyết định xây dựng lại nhà thờ với bàn tay của họ, và họ đã làm xong nó chỉ trong hai tháng: hiện nay cộng đoàn địa phương có thể gặp gỡ trong một tòa nhà dài 15 mét, rộng 6 mét, cao 7 mét, và đủ chứa 300 tín hữu. (Agenzia Fides 5-9-2011)
Theo thông tin do hãng tin Fides nhận được, ngày 30-8, hơn 300 tín hữu đã tham dự lễ cung hiến nhà thờ này. Thánh Lễ đồng tế gồm 15 linh mục, với sự tham dự của các nữ tu Tu hội Các Em nhỏ của thánh Têrêsa và Tu hội Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ thuộc giáo phận. Làng Sui Cheng có khoảng 3.000 người, trong đó có một trăm tín hữu công giáo. Tham dự thánh lễ còn có nhiều tín hữu đến từ các khu vực chung quanh.
Theo các tín hữu địa phương, “nhà thờ mới cho phép chúng tôi cầu nguyện và cử hành Thánh Lễ cho xứng hợp. Nhưng đồng thời nó cũng là lời mời gọi Rao giảng Tin Mừng".
Nhà thờ này được các nhà truyền giáo Vinh Sơn Pháp xây dựng vào năm 1901, và dâng cho Trái tim Đức Mẹ. Sau cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc, nhờ Đức Giám mục và các linh mục của giáo phận, nhà thờ vốn đã được chuyển đổi vào mục đích thế tục trong nhiều năm, đã có thể hoàn trả cho cộng đoàn Công Giáo vào đầu năm nay. Tuy nhiên, nó đã hoàn toàn bị phá hủy.
Do đó, các linh mục và tín hữu đã quyết định xây dựng lại nhà thờ với bàn tay của họ, và họ đã làm xong nó chỉ trong hai tháng: hiện nay cộng đoàn địa phương có thể gặp gỡ trong một tòa nhà dài 15 mét, rộng 6 mét, cao 7 mét, và đủ chứa 300 tín hữu. (Agenzia Fides 5-9-2011)
Kinh Truyền Tin, ĐTC nói về chủ đề đức ái huynh đệ trong cộng đồng tín hữu
Nguyễn Trọng Đa
07:04 05/09/2011
ROMA - Dưới đây là bài nói của ĐTC Biển Đức XVI vào ngày Chủ nhật 4-9, dịp đọc kinh Truyền Tin, từ Castel Gandolfo.
Trước kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến
Các bài đọc Kinh Thánh của Chủ nhật hôm nay hội tụ về chủ đề đức ái huynh đệ trong cộng đồng tín hữu, vốn có nguồn gốc trong sự hiệp thông của Chúa Ba Ngôi. Thánh tông đồ Phao Lô khẳng định rằng toàn bộ Luật của Thiên Chúa tìm thấy sự viên mãn trong tình yêu, đến nỗi trong các tương quan của chúng ta với người khác, mười điều răn và mọi giới luật, luật được tóm lược như là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (xem Rm 13,8-10).
Bản văn Tin Mừng, trích từ chương 18 của Tin mừng theo thánh Matthêu, dành riêng cho đời sống của cộng đồng Kitô hữu, nói với chúng ta rằng tình yêu anh em cũng có một ý nghĩa trách nhiệm lẫn nhau, đến nỗi, nếu anh em tôi phạm lỗi với tôi, tôi phải dùng bác ái với anh em ấy, và trước tiên, nói chuyện riêng với anh em ấy, nói cho người ấy biết rằng những gì người ấy nói hoặc làm là sai. Các hành động này gọi là sự sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là một phản ứng đối với hành vi phạm tội phải chịu, nhưng nó là một cử chỉ của tình yêu đối với anh em. Thánh Âu tinh nói: "Nó xúc phạm ngươi, và khi xúc phạm ngươi, nó làm thành một vết thương sâu: ngươi không cần quan tâm đến thương tích cho anh em ngươi sao? (...) Vì vậy, ngươi hãy quên đi sự xúc phạm đã làm cho ngươi, nhưng không quên vết thương mà anh em phải chịu đựng "(Diễn từ 82, 7).
Và nếu anh em tôi không nghe tôi thì sao? Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói ra sự sửa lỗi tăng dần: trước hết, hãy cùng với hai hay ba người nữa đến nói chuyện với người anh em ấy, để giúp người ấy ý thức hơn về những gì mình đã làm; và nếu đã làm như vậy, mà người ấy không chịu, thì phải nói cho cộng đoàn biết; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn nữa, thì phải làm cho anh ấy cảm nhận được sự xa cách mà chính anh ta đã gây ra, khi tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông của Giáo hội. Tất cả điều này cho thấy rằng có một sự đồng trách nhiệm trong con đường cuộc sống của Kitô hữu: mỗi người, ý thức các hạn chế riêng của mình và khuyết điểm của mình, được mời gọi tiếp nhận sự sửa lỗi huynh đệ và giúp các người khác qua dịch vụ đặc biệt này.
Một hoa quả của bác ái trong cộng đồng là việc cầu nguyện hòa điệu. Chúa Giêsu nói: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20). Việc cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, thậm chí cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của Ngài trong cộng đồng, vốn mặc dầu là nhỏ bé, là hiệp nhất và nhất trí, bởi vì nó phản ánh thực tại của chính Một Chúa và Ba Ngôi, sự hiệp thông tình yêu hoàn hảo.
Origen nói rằng "chúng ta phải tập sự giao hưởng này" (Chú giải Tin Mừng Mt 14, 1), nghĩa là sự hòa hợp giữa cộng đồng Kitô hữu. Chúng ta phải thực tập cả việc sửa lỗi anh em, vốn đòi hỏi rất nhiều sự khiêm tốn và đơn sơ của trái tim, và việc cầu nguyện, để nó đi lên đến Thiên Chúa từ một cộng đồng thực sự hiệp nhất trong Chúa Kitô. Chúng ta hãy van xin tất cả điều này, nhờ sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Giáo Hội, và của Thánh Grêgôriô Cả, Giáo Hoàng tiến sĩ, mà chúng ta đã mừng lễ hôm qua trong phụng vụ.
Sau kinh Truyền Tin
Sau kinh Truyền Tin, ĐTC Biển Đức XVI chào khách hành hương bằng nhiều ngôn ngữ. Ngài nói bằng tiếng Ý:
Hôm nay, Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc lần thứ XXV khai mạc ở Ancona, bằng Thánh lễ do Đặc sứ của tôi, Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, chủ tế. Chủ nhật tuần sau, nếu Chúa muốn, tôi sẽ vui mừng đi đến Ancona tham dự ngày đỉnh điểm của Đại hội. Ngay bây giờ, tôi chào thân ái và ban phép lành của tôi cho tất cả những người sẽ tham gia sự kiện ân sủng này, vốn trong việc chầu Thánh Thể thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, nguồn sự sống và niềm hy vọng cho tất cả mọi người và toàn thế giới.
Sau đó, ĐTC nói với khách hành hương nói tiếng Pháp:
Tôi thân ái chào các khách hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt là nhóm Con Đức Mẹ Phù hộ. Hôm nay tôi mời các anh chị em hãy luôn trở nên những người quen thuộc với Lời Chúa! Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau. Và tình yêu này sẽ được sống trong một cách rất cụ thể trong cuộc sống hàng ngày, nghĩa là: dùng thời giờ đối thoại thực sự với người khác, tôn trọng và tha thứ cho người ấy, hãy cầu nguyện chung với nhau và cầu nguyện cho nhau. Và như thế có thể nảy sinh và lớn lên tình huynh đệ, mà Chúa Giêsu đã đến thiết lập giữa mọi gia đình, cộng đồng, quốc gia. Tôi phó thác ước muốn này cho Đức Trinh Nữ Maria, và tôi chúc lành cho anh chị em với cả trái tim của tôi.
Sau đó, với những người hành hương Ý, ĐTC đã khẳng định:
Cuối cùng, tôi chào thân tình các khách hành hương nói tiếng Ý, đặc biệt là nhóm Hiệp hội Công nhân Kitô hữu Ý (ACLI), khi họ kết thúc Cuộc gặp gỡ học hỏi về chủ đề lao động, 30 năm sau thông điệp Laborem Exercens của Chân phước ĐTC Gioan Phaolô II. Các bạn thân mến, tôi đánh giá cao sự quan tâm của các bạn về tài liệu này, vốn vẫn là một trong các viên đá rất quan trọng của Học thuyết Xã hội của Giáo Hội. (Zenit.org 4-9-2011)
Trước kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến
Các bài đọc Kinh Thánh của Chủ nhật hôm nay hội tụ về chủ đề đức ái huynh đệ trong cộng đồng tín hữu, vốn có nguồn gốc trong sự hiệp thông của Chúa Ba Ngôi. Thánh tông đồ Phao Lô khẳng định rằng toàn bộ Luật của Thiên Chúa tìm thấy sự viên mãn trong tình yêu, đến nỗi trong các tương quan của chúng ta với người khác, mười điều răn và mọi giới luật, luật được tóm lược như là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (xem Rm 13,8-10).
Bản văn Tin Mừng, trích từ chương 18 của Tin mừng theo thánh Matthêu, dành riêng cho đời sống của cộng đồng Kitô hữu, nói với chúng ta rằng tình yêu anh em cũng có một ý nghĩa trách nhiệm lẫn nhau, đến nỗi, nếu anh em tôi phạm lỗi với tôi, tôi phải dùng bác ái với anh em ấy, và trước tiên, nói chuyện riêng với anh em ấy, nói cho người ấy biết rằng những gì người ấy nói hoặc làm là sai. Các hành động này gọi là sự sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là một phản ứng đối với hành vi phạm tội phải chịu, nhưng nó là một cử chỉ của tình yêu đối với anh em. Thánh Âu tinh nói: "Nó xúc phạm ngươi, và khi xúc phạm ngươi, nó làm thành một vết thương sâu: ngươi không cần quan tâm đến thương tích cho anh em ngươi sao? (...) Vì vậy, ngươi hãy quên đi sự xúc phạm đã làm cho ngươi, nhưng không quên vết thương mà anh em phải chịu đựng "(Diễn từ 82, 7).
Và nếu anh em tôi không nghe tôi thì sao? Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói ra sự sửa lỗi tăng dần: trước hết, hãy cùng với hai hay ba người nữa đến nói chuyện với người anh em ấy, để giúp người ấy ý thức hơn về những gì mình đã làm; và nếu đã làm như vậy, mà người ấy không chịu, thì phải nói cho cộng đoàn biết; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn nữa, thì phải làm cho anh ấy cảm nhận được sự xa cách mà chính anh ta đã gây ra, khi tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông của Giáo hội. Tất cả điều này cho thấy rằng có một sự đồng trách nhiệm trong con đường cuộc sống của Kitô hữu: mỗi người, ý thức các hạn chế riêng của mình và khuyết điểm của mình, được mời gọi tiếp nhận sự sửa lỗi huynh đệ và giúp các người khác qua dịch vụ đặc biệt này.
Một hoa quả của bác ái trong cộng đồng là việc cầu nguyện hòa điệu. Chúa Giêsu nói: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20). Việc cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, thậm chí cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của Ngài trong cộng đồng, vốn mặc dầu là nhỏ bé, là hiệp nhất và nhất trí, bởi vì nó phản ánh thực tại của chính Một Chúa và Ba Ngôi, sự hiệp thông tình yêu hoàn hảo.
Origen nói rằng "chúng ta phải tập sự giao hưởng này" (Chú giải Tin Mừng Mt 14, 1), nghĩa là sự hòa hợp giữa cộng đồng Kitô hữu. Chúng ta phải thực tập cả việc sửa lỗi anh em, vốn đòi hỏi rất nhiều sự khiêm tốn và đơn sơ của trái tim, và việc cầu nguyện, để nó đi lên đến Thiên Chúa từ một cộng đồng thực sự hiệp nhất trong Chúa Kitô. Chúng ta hãy van xin tất cả điều này, nhờ sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Giáo Hội, và của Thánh Grêgôriô Cả, Giáo Hoàng tiến sĩ, mà chúng ta đã mừng lễ hôm qua trong phụng vụ.
Sau kinh Truyền Tin
Sau kinh Truyền Tin, ĐTC Biển Đức XVI chào khách hành hương bằng nhiều ngôn ngữ. Ngài nói bằng tiếng Ý:
Hôm nay, Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc lần thứ XXV khai mạc ở Ancona, bằng Thánh lễ do Đặc sứ của tôi, Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, chủ tế. Chủ nhật tuần sau, nếu Chúa muốn, tôi sẽ vui mừng đi đến Ancona tham dự ngày đỉnh điểm của Đại hội. Ngay bây giờ, tôi chào thân ái và ban phép lành của tôi cho tất cả những người sẽ tham gia sự kiện ân sủng này, vốn trong việc chầu Thánh Thể thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, nguồn sự sống và niềm hy vọng cho tất cả mọi người và toàn thế giới.
Sau đó, ĐTC nói với khách hành hương nói tiếng Pháp:
Tôi thân ái chào các khách hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt là nhóm Con Đức Mẹ Phù hộ. Hôm nay tôi mời các anh chị em hãy luôn trở nên những người quen thuộc với Lời Chúa! Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau. Và tình yêu này sẽ được sống trong một cách rất cụ thể trong cuộc sống hàng ngày, nghĩa là: dùng thời giờ đối thoại thực sự với người khác, tôn trọng và tha thứ cho người ấy, hãy cầu nguyện chung với nhau và cầu nguyện cho nhau. Và như thế có thể nảy sinh và lớn lên tình huynh đệ, mà Chúa Giêsu đã đến thiết lập giữa mọi gia đình, cộng đồng, quốc gia. Tôi phó thác ước muốn này cho Đức Trinh Nữ Maria, và tôi chúc lành cho anh chị em với cả trái tim của tôi.
Sau đó, với những người hành hương Ý, ĐTC đã khẳng định:
Cuối cùng, tôi chào thân tình các khách hành hương nói tiếng Ý, đặc biệt là nhóm Hiệp hội Công nhân Kitô hữu Ý (ACLI), khi họ kết thúc Cuộc gặp gỡ học hỏi về chủ đề lao động, 30 năm sau thông điệp Laborem Exercens của Chân phước ĐTC Gioan Phaolô II. Các bạn thân mến, tôi đánh giá cao sự quan tâm của các bạn về tài liệu này, vốn vẫn là một trong các viên đá rất quan trọng của Học thuyết Xã hội của Giáo Hội. (Zenit.org 4-9-2011)
Giáo dục là chìa khóa phát triển Phi châu
Linh Tiến Khải
07:47 05/09/2011
Phỏng vấn giáo sư Bianca Maria Carcangiu
Từ cuối năm 2010 tới nay làn sóng dân chủ dâng cao tại các nước Bắc Phi và lan sang nhiều nước Arập vùng Trung Đông. Dân chúng, đặc biệt là người trẻ, đã sử dụng các phương tiện truyền thông tân tiến như điện thoại di động và hệ thống Internet, Youtube, Facebook để phát động phong trào biểu tình đòi dân chủ lật đổ các chế độ độc tài. Đây là sự kiện chứng minh cho thấy các thế hệ trẻ tại Phi châu ngày nay có mức độ hiểu biết kỹ thuật vượt thế hệ ông bà cha mẹ của họ. Được như thế cũng là nhờ các chương trình giáo dục đào tạo họ được hưởng. Và sự kiện này chứng minh cho thấy giáo dục là chìa khóa phát triển của đại lục Phi châu.
Thật ra kể từ thời được độc lập khỏi ách thống trị của các nước tây phương trong thập nhiêm 1950-1960, một số nước Phi châu đã trở thành các nước có chế độ dân chủ, trong khi các nước khác chỉ có tên dân chủ, nhưng các chính quyền được bầu lên cũng có chính sách cai trị không khoan nhượng hơn các chế độ đi trước; và một phần lục địa Phi châu vẫn nằm dưới chế độ quân chủ chuyên chế. Đó là Phi châu của những lãnh tụ như Robert Mugabe, làm tổng thống Zimbabwe từ hơn 30 năm qua; Dos Santos cai trị Angola từ năm 1979; Museveni tổng thống Uganda từ năm 1986; Omar Bashir nắm quyền tại Sudan từ năm 1989; Melles Zenawi cai trị Etiopia từ năm 1991 vv... Đó là các chế độ quân chủ đội lốt dân chủ, thường được sự hậu thuẫn của các nước tây âu.
Bên cạnh đó cũng có một số nước Phi châu được quốc tế trợ giúp tiến tới chỗ trưởng thành dân chủ như Nam Phi, Ghana, Botswana và Benin. Rồi có các nước mới ra khỏi các chế độ độc tài như Guinea, Niger và Nigeria. Ghana là quốc gia có chế độ đa đảng hoạt động tốt và có mức tăng trưởng trong năm 2011 là 13,4 %, đứng đầu Phi châu. Tuy có một số vấn đề liên quan tới việc phân chia tài nguyên dầu hỏa, nhưng các cuộc bầu cử tại Nigeria trong năm nay đã trong sáng và đúng đắn nhất kể từ khi ra khỏi chế độ độc tài năm 1999, và khá hơn cách đây 4 năm.
Trong khi đó Liberia và Sierra Leone là hai nước đang thành công trong việc tái thiết các cơ cấu sau các cuộc nội chiến đẫm máu. Nam Sudan là quốc gia trẻ nhất Phi châu mới độc lập khỏi Bắc Sudan ngày 9-7-2011, sau cuộc trưng cầu dân ý. Mozambic cũng đã củng cố sự ổn định chính trị của mình và lôi kéo giới đầu tư ngoại quốc.
Giữa các năm 1996-2006 đã có 44 cuộc bầu cử trong vùng Phi châu nam sa mạc Sahara, trong khi giữa các năm 2005-2007 đã có 26 cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Chỉ nội trong năm 2010 người dân 21 nước Phi châu đã đi đầu phiếu. Các sự kiện này chứng minh cho thấy Phi châu đang đi ”đúng hướng”, tuy còn có rất nhiều điều phải làm như cuộc chiến chống tệ nạn tham nhũng, việc thăng tiến tự do báo chí và phát triển an sinh. Kenya là một trường hợp điển hình chứng minh cho thấy một quốc gia đã đạt được sự ổn định, lại có thể tụt hậu và quay trở về tình trạng chậm tiến qúa khứ.
Ngoài ra, cũng có các nước phi châu rơi vào cảnh đảo chánh khi thành công khi thất bại như Madagascar năm 2009, Guinea Bissau năm 2010 và Mauritania năm 2008. Thường các cuộc đảo chánh bạo lực bị Liên hiệp Phi châu lên án, và năm 2007 tổ chức này đã đưa ra nghị quyết trục xuất quốc gia thành viên nào trong đó có người chiếm quyền bằng các phương thức bất hợp pháp.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Bianca Maria Carcangiu, giáo sư khoa sử học Phi châu tại đại học Cagliari, nam Italia.
Hỏi: Thưa giáo sư, theo tình hình hiện nay xem ra các ”con khủng long già” của Phi châu vẫn bám vào quyền bính và không muốn nhượng bộ, có đúng thế không?
Đáp: Các nước âu châu đã phải mất nhiều thế kỷ mới củng cố được cuộc sống của mình, trong khi các nước Phi châu mới được độc lập từ năm 1960. Nghĩa là mới chỉ có 50 năm, cần phải cho họ có thời gian.
Trên một bình diện nào đó, xem ra đang có sự thay đổi thế hệ. Nhưng cứ thử nghĩ tới trường hợp của ông Mugabe tổng thống Zimbabwe, thì đã không bao giờ có sự thay đổi. Nhưng tôi xác tín rằng Zimbabwe có các người có khả năng lãnh đạo, trong số những người sống tại hải ngoại, là lực lượng mạnh và hiện hữu. Nếu các đầu óc ấy có thể trở về nước, thì chắc chắn là nền dân chủ của nhiều nước Phi châu sẽ được hưởng nhờ.
Dĩ nhiên, không được có các chờ mong qúa đáng theo kiểu ”tây âu”, nhưng các quốc gia Phi châu sẽ tìm ra con đường riêng của họ dẫn tới chỗ chia quyền hành một cách hợp lý. Và sự ổn định bên trong của quốc gia có vai trò nền tảng trong việc phát triển.
Hỏi: Thưa giáo sư, như vậy là có sự kiện thiếu hàng lãnh đạo chính trị?
Đáp: Dĩ nhiên rồi, và có rất nhiều lý do giải thích sự kiện các nước Phi châu thiếu hàng lãnh đạo. Trước hết là nạn gian tham hối lộ: nó rất là phổ biến và các ngân khoản đầu tư của chính quyền thường bị ”lèo lái” từ bên ngoài. Chỉ cần nghĩ tới hiện tượng đang xảy ra tại nhiều nước Phi châu: đó là Trung Quốc bước vào các nước này và mua đất đai của các nước Phi châu. Thế rồi còn có các lý do xã hội nữa, chẳng hạn như hiện tượng thiếu giáo dục đào tạo, ngay cả trên mức độ sơ đẳng nhất. Chỉ trừ tại những quốc gia tiến bộ hơn một chút là có nền giáo dục được phát triển thôi.
Hỏi: Việc thiếu đào tạo trên các bậc cao hơn cũng gây ra cảnh thiếu trưởng thành trong ý kiến công cộng, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Xã hội dân sự có thể lớn lên và đang trở thành một đối tác quan trọng của các quyền bính chính phủ hiện nay. Nó được đại diện bởi các người có nghề tự do, bởi giới thủ công nghệ, bởi các tổ chức phi chính quyền, và bởi Giáo Hội.
Hỏi: Tại Phi châu có những nước có nền dân chủ mạnh, điều này có khiến cho người ta lạc quan không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng, dĩ nhiên là có rồi. Người phi châu phải được nâng đỡ bởi các cường quốc tây âu. Nhưng mà các nước Phi châu biến chuyển mỗi nước theo cách riêng của mình. Có hai nước Phi châu ước muốn trở thành quốc gia lãnh đạo đại lục này: đó là Nigeria và Nam Phi. Và không phải vô tình mà hai nước này là hai nước có nền giáo dục phổ biến hơn các nước khác. Đây cũng là điều đúng với nước Ghana, cựu thuộc đia của Anh quốc, vì thế Anh quốc đặc biệt trân trọng Ghana, không phải chỉ vì Ghana giầu tài nguyên mà cũng giầu văn hóa nữa, với các truyền thống mà Anh quốc tìm duy trì và chúng vẫn còn tồn tại cho tới nay.
Hỏi: Như thế có nghĩa là các trợ giúp của thế giới tây phương vẫn quan trọng đối với các nước Phi châu?
Đáp: Tùy loại trợ giúp. Các trợ giúp có thể giải quyết một vấn đề cấp bách như nạn đói trong vùng Sừng Phi châu. Nhưng cần phải chú ý tới các loại trợ giúp lâu dài, xét vì trong vùng này nạn hạn hán mất mùa đói kèm thường xảy ra. Thế rồi điều quan trọng là các tổ chức nhân đạo phải hiểu biết lịch sử và phong tục tập quán địa phương, và các trợ giúp có thể được người dân bản xứ chịu đựng được và có thể quản lý được.
Hỏi: Thưa giáo sư Carcangiu, các tài nguyên thiên nhiên đáng lý ra là phước lành cho các dân tộc Phi châu, vì chúng có thể và phải được sử dụng cho công ích và để thăng tiến quốc gia, nhưng người ta lại thường nói tới sự chúc dữ của các tài nguyên, giáo sư nghĩ sao?
Đáp: Người ta nói rằng dầu hỏa và các tài nguyên thiên nhiên khác là sự chúc dữ cho đại lục Phi châu, nhưng điều quan trọng đó là các quốc gia phi châu phải có các chuyên viên khác nhau để biết khai thác các tài nguyên đó. Tuy nhiên rất thường khi giới lãnh đạo chính trị của các nước Phi châu đi theo các cường quốc thực dân cũ. Và nói thực ra có rất nhiều chiến cuộc gọi là bộ lạc hay chủng tộc, nảy sinh từ việc chiếm hữu đất đai và tài nguyên làm của riêng hay sinh lợi cho phe nhóm của mình.
Hỏi: Các tổ chức địa phương hoạt động có hữu hiệu không thưa giáo sư?
Đáp: Chúng là các cơ cấu mới được thành lập. Liên Hiệp Phi châu mới được thành lập hồi năm 2.000, cả khi nó có nảy sinh từ đống tro tàn của Tổ chức thống nhất Phi châu được thành lập hồi năm 1963, và đã có nhiều kinh nghiệm ngoại giao. Hiện nay Liên Hiệp Phi châu có nguyên tắc là không can thiệp vào nội bộ của càc nước Phi châu, và có điểm quy chiếu là chủ nghĩa liên phi châu. Mục tiêu này đang được thực hiện bởi các tổ chức vùng miền có tính cách kinh tế và đang hoạt động rất hữu hiệu. Thế rồi cũng không nên quên các sứ mệnh của lực lượng bảo hòa của Liên Hiệp Quốc, cả khi chúng ta mới chỉ ở bước đầu.
Từ cuối năm 2010 tới nay làn sóng dân chủ dâng cao tại các nước Bắc Phi và lan sang nhiều nước Arập vùng Trung Đông. Dân chúng, đặc biệt là người trẻ, đã sử dụng các phương tiện truyền thông tân tiến như điện thoại di động và hệ thống Internet, Youtube, Facebook để phát động phong trào biểu tình đòi dân chủ lật đổ các chế độ độc tài. Đây là sự kiện chứng minh cho thấy các thế hệ trẻ tại Phi châu ngày nay có mức độ hiểu biết kỹ thuật vượt thế hệ ông bà cha mẹ của họ. Được như thế cũng là nhờ các chương trình giáo dục đào tạo họ được hưởng. Và sự kiện này chứng minh cho thấy giáo dục là chìa khóa phát triển của đại lục Phi châu.
Thật ra kể từ thời được độc lập khỏi ách thống trị của các nước tây phương trong thập nhiêm 1950-1960, một số nước Phi châu đã trở thành các nước có chế độ dân chủ, trong khi các nước khác chỉ có tên dân chủ, nhưng các chính quyền được bầu lên cũng có chính sách cai trị không khoan nhượng hơn các chế độ đi trước; và một phần lục địa Phi châu vẫn nằm dưới chế độ quân chủ chuyên chế. Đó là Phi châu của những lãnh tụ như Robert Mugabe, làm tổng thống Zimbabwe từ hơn 30 năm qua; Dos Santos cai trị Angola từ năm 1979; Museveni tổng thống Uganda từ năm 1986; Omar Bashir nắm quyền tại Sudan từ năm 1989; Melles Zenawi cai trị Etiopia từ năm 1991 vv... Đó là các chế độ quân chủ đội lốt dân chủ, thường được sự hậu thuẫn của các nước tây âu.
Bên cạnh đó cũng có một số nước Phi châu được quốc tế trợ giúp tiến tới chỗ trưởng thành dân chủ như Nam Phi, Ghana, Botswana và Benin. Rồi có các nước mới ra khỏi các chế độ độc tài như Guinea, Niger và Nigeria. Ghana là quốc gia có chế độ đa đảng hoạt động tốt và có mức tăng trưởng trong năm 2011 là 13,4 %, đứng đầu Phi châu. Tuy có một số vấn đề liên quan tới việc phân chia tài nguyên dầu hỏa, nhưng các cuộc bầu cử tại Nigeria trong năm nay đã trong sáng và đúng đắn nhất kể từ khi ra khỏi chế độ độc tài năm 1999, và khá hơn cách đây 4 năm.
Trong khi đó Liberia và Sierra Leone là hai nước đang thành công trong việc tái thiết các cơ cấu sau các cuộc nội chiến đẫm máu. Nam Sudan là quốc gia trẻ nhất Phi châu mới độc lập khỏi Bắc Sudan ngày 9-7-2011, sau cuộc trưng cầu dân ý. Mozambic cũng đã củng cố sự ổn định chính trị của mình và lôi kéo giới đầu tư ngoại quốc.
Giữa các năm 1996-2006 đã có 44 cuộc bầu cử trong vùng Phi châu nam sa mạc Sahara, trong khi giữa các năm 2005-2007 đã có 26 cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Chỉ nội trong năm 2010 người dân 21 nước Phi châu đã đi đầu phiếu. Các sự kiện này chứng minh cho thấy Phi châu đang đi ”đúng hướng”, tuy còn có rất nhiều điều phải làm như cuộc chiến chống tệ nạn tham nhũng, việc thăng tiến tự do báo chí và phát triển an sinh. Kenya là một trường hợp điển hình chứng minh cho thấy một quốc gia đã đạt được sự ổn định, lại có thể tụt hậu và quay trở về tình trạng chậm tiến qúa khứ.
Ngoài ra, cũng có các nước phi châu rơi vào cảnh đảo chánh khi thành công khi thất bại như Madagascar năm 2009, Guinea Bissau năm 2010 và Mauritania năm 2008. Thường các cuộc đảo chánh bạo lực bị Liên hiệp Phi châu lên án, và năm 2007 tổ chức này đã đưa ra nghị quyết trục xuất quốc gia thành viên nào trong đó có người chiếm quyền bằng các phương thức bất hợp pháp.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Bianca Maria Carcangiu, giáo sư khoa sử học Phi châu tại đại học Cagliari, nam Italia.
Hỏi: Thưa giáo sư, theo tình hình hiện nay xem ra các ”con khủng long già” của Phi châu vẫn bám vào quyền bính và không muốn nhượng bộ, có đúng thế không?
Đáp: Các nước âu châu đã phải mất nhiều thế kỷ mới củng cố được cuộc sống của mình, trong khi các nước Phi châu mới được độc lập từ năm 1960. Nghĩa là mới chỉ có 50 năm, cần phải cho họ có thời gian.
Trên một bình diện nào đó, xem ra đang có sự thay đổi thế hệ. Nhưng cứ thử nghĩ tới trường hợp của ông Mugabe tổng thống Zimbabwe, thì đã không bao giờ có sự thay đổi. Nhưng tôi xác tín rằng Zimbabwe có các người có khả năng lãnh đạo, trong số những người sống tại hải ngoại, là lực lượng mạnh và hiện hữu. Nếu các đầu óc ấy có thể trở về nước, thì chắc chắn là nền dân chủ của nhiều nước Phi châu sẽ được hưởng nhờ.
Dĩ nhiên, không được có các chờ mong qúa đáng theo kiểu ”tây âu”, nhưng các quốc gia Phi châu sẽ tìm ra con đường riêng của họ dẫn tới chỗ chia quyền hành một cách hợp lý. Và sự ổn định bên trong của quốc gia có vai trò nền tảng trong việc phát triển.
Hỏi: Thưa giáo sư, như vậy là có sự kiện thiếu hàng lãnh đạo chính trị?
Đáp: Dĩ nhiên rồi, và có rất nhiều lý do giải thích sự kiện các nước Phi châu thiếu hàng lãnh đạo. Trước hết là nạn gian tham hối lộ: nó rất là phổ biến và các ngân khoản đầu tư của chính quyền thường bị ”lèo lái” từ bên ngoài. Chỉ cần nghĩ tới hiện tượng đang xảy ra tại nhiều nước Phi châu: đó là Trung Quốc bước vào các nước này và mua đất đai của các nước Phi châu. Thế rồi còn có các lý do xã hội nữa, chẳng hạn như hiện tượng thiếu giáo dục đào tạo, ngay cả trên mức độ sơ đẳng nhất. Chỉ trừ tại những quốc gia tiến bộ hơn một chút là có nền giáo dục được phát triển thôi.
Hỏi: Việc thiếu đào tạo trên các bậc cao hơn cũng gây ra cảnh thiếu trưởng thành trong ý kiến công cộng, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Xã hội dân sự có thể lớn lên và đang trở thành một đối tác quan trọng của các quyền bính chính phủ hiện nay. Nó được đại diện bởi các người có nghề tự do, bởi giới thủ công nghệ, bởi các tổ chức phi chính quyền, và bởi Giáo Hội.
Hỏi: Tại Phi châu có những nước có nền dân chủ mạnh, điều này có khiến cho người ta lạc quan không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng, dĩ nhiên là có rồi. Người phi châu phải được nâng đỡ bởi các cường quốc tây âu. Nhưng mà các nước Phi châu biến chuyển mỗi nước theo cách riêng của mình. Có hai nước Phi châu ước muốn trở thành quốc gia lãnh đạo đại lục này: đó là Nigeria và Nam Phi. Và không phải vô tình mà hai nước này là hai nước có nền giáo dục phổ biến hơn các nước khác. Đây cũng là điều đúng với nước Ghana, cựu thuộc đia của Anh quốc, vì thế Anh quốc đặc biệt trân trọng Ghana, không phải chỉ vì Ghana giầu tài nguyên mà cũng giầu văn hóa nữa, với các truyền thống mà Anh quốc tìm duy trì và chúng vẫn còn tồn tại cho tới nay.
Hỏi: Như thế có nghĩa là các trợ giúp của thế giới tây phương vẫn quan trọng đối với các nước Phi châu?
Đáp: Tùy loại trợ giúp. Các trợ giúp có thể giải quyết một vấn đề cấp bách như nạn đói trong vùng Sừng Phi châu. Nhưng cần phải chú ý tới các loại trợ giúp lâu dài, xét vì trong vùng này nạn hạn hán mất mùa đói kèm thường xảy ra. Thế rồi điều quan trọng là các tổ chức nhân đạo phải hiểu biết lịch sử và phong tục tập quán địa phương, và các trợ giúp có thể được người dân bản xứ chịu đựng được và có thể quản lý được.
Hỏi: Thưa giáo sư Carcangiu, các tài nguyên thiên nhiên đáng lý ra là phước lành cho các dân tộc Phi châu, vì chúng có thể và phải được sử dụng cho công ích và để thăng tiến quốc gia, nhưng người ta lại thường nói tới sự chúc dữ của các tài nguyên, giáo sư nghĩ sao?
Đáp: Người ta nói rằng dầu hỏa và các tài nguyên thiên nhiên khác là sự chúc dữ cho đại lục Phi châu, nhưng điều quan trọng đó là các quốc gia phi châu phải có các chuyên viên khác nhau để biết khai thác các tài nguyên đó. Tuy nhiên rất thường khi giới lãnh đạo chính trị của các nước Phi châu đi theo các cường quốc thực dân cũ. Và nói thực ra có rất nhiều chiến cuộc gọi là bộ lạc hay chủng tộc, nảy sinh từ việc chiếm hữu đất đai và tài nguyên làm của riêng hay sinh lợi cho phe nhóm của mình.
Hỏi: Các tổ chức địa phương hoạt động có hữu hiệu không thưa giáo sư?
Đáp: Chúng là các cơ cấu mới được thành lập. Liên Hiệp Phi châu mới được thành lập hồi năm 2.000, cả khi nó có nảy sinh từ đống tro tàn của Tổ chức thống nhất Phi châu được thành lập hồi năm 1963, và đã có nhiều kinh nghiệm ngoại giao. Hiện nay Liên Hiệp Phi châu có nguyên tắc là không can thiệp vào nội bộ của càc nước Phi châu, và có điểm quy chiếu là chủ nghĩa liên phi châu. Mục tiêu này đang được thực hiện bởi các tổ chức vùng miền có tính cách kinh tế và đang hoạt động rất hữu hiệu. Thế rồi cũng không nên quên các sứ mệnh của lực lượng bảo hòa của Liên Hiệp Quốc, cả khi chúng ta mới chỉ ở bước đầu.
Để lớn lến Hồi giáo cần phải nhắm tới hòa bình
Linh Tiến Khải
07:49 05/09/2011
Một số nhận định của ông Asghar Ali Engineer, học giả hồi người Ấn độ
Hồi tháng 6 năm 2011 ông Asghar Ali Engineer đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề ”Đức tin sống động: cuộc tìm kiếm của tôi về hòa bình, hòa hợp và thay đổi xã hội”. Giáo sư Asghar Ali Engineer hiện là một trong những gương mặt nổi bật nhất của khuynh hướng hồi giáo tân tiến, nhưng cũng là con người của đối thoại và có rất nhiều liên hệ rộng rãi với các giới chức xã hội và tôn giáo khác trên thế giới. Giáo sư nổi tiếng vì các tư tưởng trong nền thần học giải phóng Hồi giáo của ông, và vì trên 50 cuốn sách về Hồi giáo, Hồi giáo tại Ấn Độ, và hàng trăm bài khảo luận của ông về nền văn hóa hòa bình, bất bạo động và sự sống chung hòa bợp trong các cộng đoàn. Hiện nay giáo sư là giám đốc ”Học viện nghiên cứu Hồi giáo”, và ”Trung tâm nghiên cứu xã hội và khuynh hướng tục hóa”, do ông thành lập hồi năm 1980 và 1993. Ông là người cổ võ các quyền của nữ giới trong thế giới hồi giáo.
Giáo sư Engineer sinh năm 1939 tại Salumbar Rajasthan bên Ấn Độ, là con của một tư tế Bohra. Ông học tiếng A rập và các kinh điển của phong trào tôn giáo này. Sau khi lấy bằng kỹ sư dân sự tại đại học Vikram tỉnh Ujjain bang Madhya Pradesh, ông phục vụ như kỹ sư y tế trong 20 năm cho tới khi về hưu năm 1972. Ông bắt đầu nắm giữ vai trò quan trọng vào năm 1972, khi xảy ra vụ nổi loạn tại Udapur. Ông được bầu làm tổng thư ký Ban lãnh đạo cộng đoàn Dawoodi Bohra. Năm 2004 ông bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã thẳng thắn phê bình thiết định tôn giáo của cộng đoàn. Năm 1980 ông thành lập Học viện nghiên cứu Hồi giáo và bắt đầu viết sách để phổ biến một thứ Hồi giáo tân tiến, thoát khỏi mọi khuynh hướng bạo lực và qúa khích. Học viện này được phối hợp với ”Trung tâm nghiên cứu xã hội và khuynh hướng tục hóa” trong nỗ lực thăng tiến sự hòa hợp cộng đoàn. Giáo sư Engineer đã nhận được nhiều giải thưởng vì các nỗ lực này, trong số đó có giải thưởng Dalmia năm 1990, giải thưởng hòa hợp cộng đoàn năm 1997, giải thưởng Right Livelihood về thăng tiến các gía trị chung sống và bất bạo động năm 2004.
Hỏi: Thưa giáo sư Engineer, đâu là tư tưởng nòng cốt đã khiến cho giáo sư thành lập hai cơ cấu nói trên để phổ biến lý tưởng hòa bình, bất bạo động và hòa hợp cộng đoàn?
Đáp: Việc nghiên cứu Hồi giáo với lòng chân thành đã nhanh chóng thuyết phục tôi rằng Hồi giáo, cũng như mọi tôn giáo khác, có các giá trị tích cực của nó, và đứng trước cảnh bạo lực trong xã hội, như là tín hữu hồi, tôi có bổn phận thăng tiến hòa bình và hòa hơp trong mọi trạng huống cuộc sống. Ngày nay chúng ta chứng kiến cảnh bạo lực trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì người ta không thực thi điều người ta tin. Ngoài ra ra còn có rất nhiều lợi nhuận làm nảy sinh ra bạo lực vì các lý do chính trị, hay vì các lý do khác. Chúng ta phải chống lại các lợi lộc gây đổ máu ấy, và không mệt mỏi nêu cao hòa bình như giá trị nền tảng của tôn giáo.
Hỏi: Thưa giáo sư, tư tưởng viết cuốn tiểu sử của giáo sư đã nảy sinh ra như thế nào, và đâu là lý tưởng của ”đức tin sống động” mà giáo sư chỉ cho thấy và muốn chia sẻ với người đọc?
Đáp: Đã từ lâu các bạn bè của tôi đã xin tôi chia sẻ các kinh nghiệm dấn thân cho hòa bình hòa hợp liên tôn của tôi với họ, cũng như dấn thân của tôi cho các cải cách xã hội bên trong cộng đoàn hồi giáo. Có vài người quen biết tôi cho rằng các kinh nghiệm của tôi ích lợi cho kẻ khác. Kiểu nói ”đức tin sống động” muốn nhấn mạnh nỗ lực sống cuộc sống của tôi theo các giá tri này.
Hỏi: Tại sao giáo sư đã quyết định tận hiến đời mình cho việc tìm kiếm hòa bình, hòa hợp và công băng xã hội như vậy?
Đáp: Hồi còn trẻ tôi đã bị ấn tượng rất mạnh bởi các vụ bạo động xảy ra giữa người ấn giáo và hồi giáo trong vùng tôi ở. Chính vì thế tôi đã quyết định dấn thân tạo dựng hòa bình giữa các tôn giáo và cho sự hòa hợp trong phương thế khiêm tốn mà tôi có được. Rồi sau đó tôi đã tìm cách duy trì quyết định này, mặc dù có gặp nhiều khó khăn và cản trở.
Hỏi: Mặc dù người ta liên tục từ chối các nguyên tắc nền tảng của nhiều tôn giáo, chúng ta có thể nói rằng việc tìm kiếm một nhân loại tốt đẹp hơn có thể đi ngang qua đức tin hay không thưa giáo sư?
Đáp: Không có ai thực sự có niềm tin tôn giáo hay tinh thần có thể chấp nhận việc sử dụng bạo lực. Một người bạo lực có thể là tất cả, nhưng chắc chắn không phải là người đạo đức có niềm tin tôn giáo đích thực. Tôi có thể nói rằng việc tìm kiếm hòa bình của tôi dựa trên niềm tin của tôi, nhưng cả một người vô thần như Bertrand Russell cũng đã biết là một người chân thành thì luôn luôn thăng tiến hòa bình.
Hỏi: Giáo sư nhận thấy thành phố Mumbai nơi giáo sự đã chọn sống như thế nào: một thành phố sinh đậng, và qúa đông dân, có nhiều khả năng và các hạn hẹp của kinh nghiệm hòa hợp đa tôn giáo?
Đáp: Mumbai là một thành phố có các khả năng mênh mông nhưng cũng có các khác biết rất lớn. Đôi khi cũng xảy ra các xung khắc bộ lạc, ngôn ngữ và liên tôn. Các trái nghịch và các đụng độ có các lý do lợi lộc quyền bính chính trị hay lợi nhuận kinh tế, nhưng rất hiếm là các vụ đụng độ tự phát. Nhưng cũng chính vì thế lại càng phải dấn thân hơn nữa để kiểm soát tình hình, và khiến cho dân chúng ý thức hơn về sự cần thiết của việc chung sống hòa bình với nhau.
Hỏi: Như là một tín hữu hồi ấn độ, giáo sư có nghĩ rằng Ấn Độ cũng có các vấn đề như các nơi khác: nghĩa là các tôn giáo không thành công trong việc qiải quyết các vấn đề, mà lại còn có trách nhiệm đối với các vấn đề ấy, chẳng hạn như khuynh hướng cực đoan?
Đáp: Như là tín hữu hồi ấn độ, trước hết tôi hãnh diện là người ấn. Các tín hữu hồi ở Ấn Độ gồm khoảng 150 triệu người. Họ không phải và không muốn là một phần tách rời khỏi dân tộc Ấn. Chính vì thế chúng tôi dấn thân sống gắn bó với đất nước. Nhưng cũng cần phải dấn thân canh tân cộng đoàn từ bên trong nữa, để có thể đồng hành với sự phát triển của đất nước. Ngày nay Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo và là một nhà nước đời. Chắc chắn là có nhiều lợi lộc lớn lao tìm cách gây thiệt hại cho sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo, như tôi đã nêu bật trên đây. Và vì thế cần phải tích cực chống lại các lợi lộc gây chia rẽ, khai thác lợi dụng tôn giáo cho các mục tiêu không phải là tôn giáo.
Hỏi: Thưa giáo sư Engineer, giáo sư là nhân vật nổi tiếng vì dấn thân thăng tiến đối thoại và hòa bình. Theo giáo sư đâu có thể là vùng đất chung của sự đối thoại cho nhân loại để sống chung trong một trật tự khác, trong một thế giới của tình yêu thương và sự công bằng?
Đáp: Có đúng thật là các tôn giáo đề nghị với chúng ta hòa bình và công lý, nhưng thường ngày có nhiều người khai thác nó cho các mục đích củng cố quyền bính và làm giầu. Rồi lại có tầng lớp tư tế, biến tôn giáo thành các lễ nghi và làm cho nó bị trống rỗng các giá trị nòng cốt. Chỉ có những người có lòng tin và tinh thần tu đức vững mạnh mới có thể sống theo các giá trị tích cực và đại đồng. Nhưng phải duy trì xác tín này: đó là nếu tất cả mọi người sống các giá trị ấy, thì hòa bình và hòa hợp sẽ chiến thắng. Hỏi: Đã có ai, hay các văn bản hoặc cơ cấu nào ảnh hưởng trên tư tưởng của giáo sư và kinh nghiệm của giáo sư hay không? Đáp: Các nguồn cảm hứng chính của tôi đã luôn luôn là kinh Coran và cuộc sống của ngôn sứ Mahomed. Nhưng trong sự phát triển tư tưởng của tôi, triết lý bất bạo động của Mahatma Gandhi đã nắm giữ một vai trò lớn. Cả trong thời đại của chúng ta ngày nay nữa, Gandhi là một nguồn gợi hứng mạnh mẽ, bên trong và bên ngoài Ấn Độ.
(Avvenire 25-8-2011)
Hồi tháng 6 năm 2011 ông Asghar Ali Engineer đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề ”Đức tin sống động: cuộc tìm kiếm của tôi về hòa bình, hòa hợp và thay đổi xã hội”. Giáo sư Asghar Ali Engineer hiện là một trong những gương mặt nổi bật nhất của khuynh hướng hồi giáo tân tiến, nhưng cũng là con người của đối thoại và có rất nhiều liên hệ rộng rãi với các giới chức xã hội và tôn giáo khác trên thế giới. Giáo sư nổi tiếng vì các tư tưởng trong nền thần học giải phóng Hồi giáo của ông, và vì trên 50 cuốn sách về Hồi giáo, Hồi giáo tại Ấn Độ, và hàng trăm bài khảo luận của ông về nền văn hóa hòa bình, bất bạo động và sự sống chung hòa bợp trong các cộng đoàn. Hiện nay giáo sư là giám đốc ”Học viện nghiên cứu Hồi giáo”, và ”Trung tâm nghiên cứu xã hội và khuynh hướng tục hóa”, do ông thành lập hồi năm 1980 và 1993. Ông là người cổ võ các quyền của nữ giới trong thế giới hồi giáo.
Giáo sư Engineer sinh năm 1939 tại Salumbar Rajasthan bên Ấn Độ, là con của một tư tế Bohra. Ông học tiếng A rập và các kinh điển của phong trào tôn giáo này. Sau khi lấy bằng kỹ sư dân sự tại đại học Vikram tỉnh Ujjain bang Madhya Pradesh, ông phục vụ như kỹ sư y tế trong 20 năm cho tới khi về hưu năm 1972. Ông bắt đầu nắm giữ vai trò quan trọng vào năm 1972, khi xảy ra vụ nổi loạn tại Udapur. Ông được bầu làm tổng thư ký Ban lãnh đạo cộng đoàn Dawoodi Bohra. Năm 2004 ông bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã thẳng thắn phê bình thiết định tôn giáo của cộng đoàn. Năm 1980 ông thành lập Học viện nghiên cứu Hồi giáo và bắt đầu viết sách để phổ biến một thứ Hồi giáo tân tiến, thoát khỏi mọi khuynh hướng bạo lực và qúa khích. Học viện này được phối hợp với ”Trung tâm nghiên cứu xã hội và khuynh hướng tục hóa” trong nỗ lực thăng tiến sự hòa hợp cộng đoàn. Giáo sư Engineer đã nhận được nhiều giải thưởng vì các nỗ lực này, trong số đó có giải thưởng Dalmia năm 1990, giải thưởng hòa hợp cộng đoàn năm 1997, giải thưởng Right Livelihood về thăng tiến các gía trị chung sống và bất bạo động năm 2004.
Hỏi: Thưa giáo sư Engineer, đâu là tư tưởng nòng cốt đã khiến cho giáo sư thành lập hai cơ cấu nói trên để phổ biến lý tưởng hòa bình, bất bạo động và hòa hợp cộng đoàn?
Đáp: Việc nghiên cứu Hồi giáo với lòng chân thành đã nhanh chóng thuyết phục tôi rằng Hồi giáo, cũng như mọi tôn giáo khác, có các giá trị tích cực của nó, và đứng trước cảnh bạo lực trong xã hội, như là tín hữu hồi, tôi có bổn phận thăng tiến hòa bình và hòa hơp trong mọi trạng huống cuộc sống. Ngày nay chúng ta chứng kiến cảnh bạo lực trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì người ta không thực thi điều người ta tin. Ngoài ra ra còn có rất nhiều lợi nhuận làm nảy sinh ra bạo lực vì các lý do chính trị, hay vì các lý do khác. Chúng ta phải chống lại các lợi lộc gây đổ máu ấy, và không mệt mỏi nêu cao hòa bình như giá trị nền tảng của tôn giáo.
Hỏi: Thưa giáo sư, tư tưởng viết cuốn tiểu sử của giáo sư đã nảy sinh ra như thế nào, và đâu là lý tưởng của ”đức tin sống động” mà giáo sư chỉ cho thấy và muốn chia sẻ với người đọc?
Đáp: Đã từ lâu các bạn bè của tôi đã xin tôi chia sẻ các kinh nghiệm dấn thân cho hòa bình hòa hợp liên tôn của tôi với họ, cũng như dấn thân của tôi cho các cải cách xã hội bên trong cộng đoàn hồi giáo. Có vài người quen biết tôi cho rằng các kinh nghiệm của tôi ích lợi cho kẻ khác. Kiểu nói ”đức tin sống động” muốn nhấn mạnh nỗ lực sống cuộc sống của tôi theo các giá tri này.
Hỏi: Tại sao giáo sư đã quyết định tận hiến đời mình cho việc tìm kiếm hòa bình, hòa hợp và công băng xã hội như vậy?
Đáp: Hồi còn trẻ tôi đã bị ấn tượng rất mạnh bởi các vụ bạo động xảy ra giữa người ấn giáo và hồi giáo trong vùng tôi ở. Chính vì thế tôi đã quyết định dấn thân tạo dựng hòa bình giữa các tôn giáo và cho sự hòa hợp trong phương thế khiêm tốn mà tôi có được. Rồi sau đó tôi đã tìm cách duy trì quyết định này, mặc dù có gặp nhiều khó khăn và cản trở.
Hỏi: Mặc dù người ta liên tục từ chối các nguyên tắc nền tảng của nhiều tôn giáo, chúng ta có thể nói rằng việc tìm kiếm một nhân loại tốt đẹp hơn có thể đi ngang qua đức tin hay không thưa giáo sư?
Đáp: Không có ai thực sự có niềm tin tôn giáo hay tinh thần có thể chấp nhận việc sử dụng bạo lực. Một người bạo lực có thể là tất cả, nhưng chắc chắn không phải là người đạo đức có niềm tin tôn giáo đích thực. Tôi có thể nói rằng việc tìm kiếm hòa bình của tôi dựa trên niềm tin của tôi, nhưng cả một người vô thần như Bertrand Russell cũng đã biết là một người chân thành thì luôn luôn thăng tiến hòa bình.
Hỏi: Giáo sư nhận thấy thành phố Mumbai nơi giáo sự đã chọn sống như thế nào: một thành phố sinh đậng, và qúa đông dân, có nhiều khả năng và các hạn hẹp của kinh nghiệm hòa hợp đa tôn giáo?
Đáp: Mumbai là một thành phố có các khả năng mênh mông nhưng cũng có các khác biết rất lớn. Đôi khi cũng xảy ra các xung khắc bộ lạc, ngôn ngữ và liên tôn. Các trái nghịch và các đụng độ có các lý do lợi lộc quyền bính chính trị hay lợi nhuận kinh tế, nhưng rất hiếm là các vụ đụng độ tự phát. Nhưng cũng chính vì thế lại càng phải dấn thân hơn nữa để kiểm soát tình hình, và khiến cho dân chúng ý thức hơn về sự cần thiết của việc chung sống hòa bình với nhau.
Hỏi: Như là một tín hữu hồi ấn độ, giáo sư có nghĩ rằng Ấn Độ cũng có các vấn đề như các nơi khác: nghĩa là các tôn giáo không thành công trong việc qiải quyết các vấn đề, mà lại còn có trách nhiệm đối với các vấn đề ấy, chẳng hạn như khuynh hướng cực đoan?
Đáp: Như là tín hữu hồi ấn độ, trước hết tôi hãnh diện là người ấn. Các tín hữu hồi ở Ấn Độ gồm khoảng 150 triệu người. Họ không phải và không muốn là một phần tách rời khỏi dân tộc Ấn. Chính vì thế chúng tôi dấn thân sống gắn bó với đất nước. Nhưng cũng cần phải dấn thân canh tân cộng đoàn từ bên trong nữa, để có thể đồng hành với sự phát triển của đất nước. Ngày nay Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo và là một nhà nước đời. Chắc chắn là có nhiều lợi lộc lớn lao tìm cách gây thiệt hại cho sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo, như tôi đã nêu bật trên đây. Và vì thế cần phải tích cực chống lại các lợi lộc gây chia rẽ, khai thác lợi dụng tôn giáo cho các mục tiêu không phải là tôn giáo.
Hỏi: Thưa giáo sư Engineer, giáo sư là nhân vật nổi tiếng vì dấn thân thăng tiến đối thoại và hòa bình. Theo giáo sư đâu có thể là vùng đất chung của sự đối thoại cho nhân loại để sống chung trong một trật tự khác, trong một thế giới của tình yêu thương và sự công bằng?
Đáp: Có đúng thật là các tôn giáo đề nghị với chúng ta hòa bình và công lý, nhưng thường ngày có nhiều người khai thác nó cho các mục đích củng cố quyền bính và làm giầu. Rồi lại có tầng lớp tư tế, biến tôn giáo thành các lễ nghi và làm cho nó bị trống rỗng các giá trị nòng cốt. Chỉ có những người có lòng tin và tinh thần tu đức vững mạnh mới có thể sống theo các giá trị tích cực và đại đồng. Nhưng phải duy trì xác tín này: đó là nếu tất cả mọi người sống các giá trị ấy, thì hòa bình và hòa hợp sẽ chiến thắng. Hỏi: Đã có ai, hay các văn bản hoặc cơ cấu nào ảnh hưởng trên tư tưởng của giáo sư và kinh nghiệm của giáo sư hay không? Đáp: Các nguồn cảm hứng chính của tôi đã luôn luôn là kinh Coran và cuộc sống của ngôn sứ Mahomed. Nhưng trong sự phát triển tư tưởng của tôi, triết lý bất bạo động của Mahatma Gandhi đã nắm giữ một vai trò lớn. Cả trong thời đại của chúng ta ngày nay nữa, Gandhi là một nguồn gợi hứng mạnh mẽ, bên trong và bên ngoài Ấn Độ.
(Avvenire 25-8-2011)
Đức Thánh Cha Benedict XVI mời gọi thực hành việc sửa sai trong tình thân hữu
Bùi Hữu Thư
08:46 05/09/2011
Kinh Truyền Tin ngày Chúa Nhật 4 tháng 9
ROME, Chúa Nhật 4 tháng 9, 2011 (Le Monde vu de Rome) – Đức Thánh Cha Benedict XVI nhắc lại tầm quan trọng của việc thực hành "cách sửa sai trong tình thân hữu".
Trong khi đọc kinh Truyền Tin tại Dinh Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu phải áp dụng nhân đức bác ái đối với "một người anh em" đã "phạm một lỗi lầm đối với tôi."
Trước hết, ngài khẳng định, tôi phải "nói riêng với người này, rằng điều gì người ấy nói hay làm là không tốt." "Cách xử sự như vậy được gọi là việc sửa sai trong tình thân hữu : đây không phải là một phản ứng đối với một xúc phạm phải chịu đựng, nhưng là một cử chỉ thân yêu đối với một người anh em."
Đức Thánh Cha hỏi: "Và nếu người anh em này không nghe lời thì sao?" "Trong Phúc Âm ngày hôm nay, Chúa Giêsu chỉ vẽ một sự gia tăng dần dần: trước hết, trở lại nói chuyện với người này cùng với hai hay ba người khác, để giúp hiểu rõ hơn điều anh ta đã làm; nếu đã làm như vậy mà anh ta vẫn từ chối, thì phải đem ra nói với cộng đồng; và nếu anh ta vẫn không nghe lời của cộng dồng, thì phải làm cho anh ta nhận thức được sự phân ly chính anh ta đã gây nên là bị tách rời ta khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội."
Đức Thánh Cha Benedict XVI giải thích, "Tất cả điều này biểu hiệu là có một sự đồng trách nhiệm trên con đường của đời sống Kitô: mỗi người ý thức được chính những giới hạn của các thiếu sót của mình, đều được mời gọi để chấp nhận việc sửa sai trong tình thân hữu và giúp đỡ người khác bằng dịch vụ đặc biệt này."
Đức Thánh Cha cũng nhắc đến một hoa quả khác của đức bác ái trong cộng đồng là kinh nguyện hòa điệu. Ngài mời gọi các tín hữu thực hành việc sửa sai trong tình thân hữu. Điều này "đòi hỏi nhiều sự khiêm tốn và một tâm hồn giản dị", nhưng cũng vẫn còn cần đến lời cầu nguyện, "để lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa từ một cộng đồng thực sự hiệp nhất trong Chúa Kitô.": "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." (Mt 18,19-20).
ROME, Chúa Nhật 4 tháng 9, 2011 (Le Monde vu de Rome) – Đức Thánh Cha Benedict XVI nhắc lại tầm quan trọng của việc thực hành "cách sửa sai trong tình thân hữu".
Trong khi đọc kinh Truyền Tin tại Dinh Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu phải áp dụng nhân đức bác ái đối với "một người anh em" đã "phạm một lỗi lầm đối với tôi."
Trước hết, ngài khẳng định, tôi phải "nói riêng với người này, rằng điều gì người ấy nói hay làm là không tốt." "Cách xử sự như vậy được gọi là việc sửa sai trong tình thân hữu : đây không phải là một phản ứng đối với một xúc phạm phải chịu đựng, nhưng là một cử chỉ thân yêu đối với một người anh em."
Đức Thánh Cha hỏi: "Và nếu người anh em này không nghe lời thì sao?" "Trong Phúc Âm ngày hôm nay, Chúa Giêsu chỉ vẽ một sự gia tăng dần dần: trước hết, trở lại nói chuyện với người này cùng với hai hay ba người khác, để giúp hiểu rõ hơn điều anh ta đã làm; nếu đã làm như vậy mà anh ta vẫn từ chối, thì phải đem ra nói với cộng đồng; và nếu anh ta vẫn không nghe lời của cộng dồng, thì phải làm cho anh ta nhận thức được sự phân ly chính anh ta đã gây nên là bị tách rời ta khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội."
Đức Thánh Cha Benedict XVI giải thích, "Tất cả điều này biểu hiệu là có một sự đồng trách nhiệm trên con đường của đời sống Kitô: mỗi người ý thức được chính những giới hạn của các thiếu sót của mình, đều được mời gọi để chấp nhận việc sửa sai trong tình thân hữu và giúp đỡ người khác bằng dịch vụ đặc biệt này."
Đức Thánh Cha cũng nhắc đến một hoa quả khác của đức bác ái trong cộng đồng là kinh nguyện hòa điệu. Ngài mời gọi các tín hữu thực hành việc sửa sai trong tình thân hữu. Điều này "đòi hỏi nhiều sự khiêm tốn và một tâm hồn giản dị", nhưng cũng vẫn còn cần đến lời cầu nguyện, "để lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa từ một cộng đồng thực sự hiệp nhất trong Chúa Kitô.": "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." (Mt 18,19-20).
Đa số cử tri Úc bác bỏ hôn nhân đồng tính
Vũ Văn An
22:08 05/09/2011
Theo tin của Văn Phòng Truyền Thông Công Giáo, Tổng Giáo Phận Sydney, cuộc tranh luận tại Quốc Hội Liên Bang Úc vào ngày 24 tháng 8 vừa qua về hôn nhân đồng tính cho thấy nhiều đơn vị bầu cử cương quyết chống lại việc tu chính đạo luật hôn nhân hiện hành để cho phép các cặp đồng tính kết hôn với nhau. Không những thế, nhiều dân biểu còn cho rằng cuộc tranh luận này chỉ là việc mất thì giờ trong khi nước Úc và Chính Phủ còn có nhiều vấn đề cấp bách hơn cần phải giải quyết.
Trong số những vị coi cuộc tranh luận trên là vô ích có dân biểu Queensland thuộc Đảng Quốc Gia, George Christensen, thuộc đơn vị Dawson, là đơn vị bao gồm Mackay, Whitsundays, Prosperine và Bowen. Ông cho rằng: “các cử tri có những ưu tư quan trọng hơn vấn đề này nhiều”.
Nhiều dân biểu khác cũng thuộc Đảng Quốc Gia tại Queensland cho hay: các đơn vị cử tri của họ không ủng hộ bất cứ sự thay đổi nào đối với đạo luật hôn nhân hiện hành nhằm cho phép các cuộc hôn nhân đồng tính. Tại đơn vị Hinkler của dân biểu Paul Neville, là đơn vị bao gồm Bundaberg và Hervey Bay, chỉ có 14 người ủng hộ việc tu chính đạo luật hôn nhân giúp các cặp đồng tính kết hôn mà thôi, trong khi 595 người được hỏi ý kiến đã phản đối việc tu chính này.
Dù tỏ bày sự ngạc nhiên trước việc có quá ít người trong đơn vị Hinkler ủng hộ hôn nhân đồng tính, Dân Biểu Neville vẫn cảnh giác trước việc người ta tìm cách giảm tầm quan trọng của hôn nhân truyền thống trong xã hội Úc vì theo ông điều ấy sẽ có nguy cơ dẫn tới một “xã hội không có người cha”.
Một đơn vị bầu cử khác đồng loạt chống lại việc hợp pháp hóa các cặp hôn nhân đồng tính là đơn vị Fowler ở Sydney, đơn vị bao gồm Liverpool và phần lớn khu Tây Sydney. Đơn vị này hiện do Dân Biểu Chris Hayes của Đảng Lao Động nắm giữ. Trả lời một bản câu hỏi về hôn nhân đồng tính, đại đa số cử tri thuộc đơn vị này dứt khoát ghi chữ “không”. Tại đơn vị Werriwa cũng thế: trong số 395 người được hỏi ý kiến, hơn 90% chống lại bất cứ tu chính nào nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Một chính khách khác cũng thuộc khu ngoại Tây của Sydney là Dân Biểu Alex Hawke của Đảng Tự Do cho hay: dù nhiều người ủng hộ việc luật pháp thừa nhận các cuộc kết hợp đồng tính về phương diện dân sự, nhưng điều ấy không có nghĩa phải thay đổi định nghĩa của chính hôn nhân. Nói cách khác, người ta có thể nhìn nhận các cuộc kết hợp có tính dân sự giữa những người đồng tính, nhưng không được thay đổi chính Đạo Luật Hôn Nhân. Đơn vị của ông là Mitchell, bao gồm Baulkham Hills, Northmead, North Rocks, Castle Hill, Kenthurst, Box Hill, Kellyville, Maraylaya, Dural và West Pennant Hills.
Cuộc tranh luận tại Hạ Viện này chỉ là sáng kiến của dân biểu độc nhất thuộc Đảng Xanh là Adam Bandt, người đã nêu vấn đề vào tháng 11 năm ngoái, yêu cầu các dân biểu Liên Bang phải tìm hiểu xem các cử tri của họ nghĩ gì về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, để rồi tường trình kết quả cho Quốc Hội vào tháng 8 năm nay. Việc tường trình này được dự trù vào ngày 17 tháng 8, nhưng đã triển hạn qua ngày 24 cùng tháng. Các dân biểu đã lần lượt phúc trình lại các ý nghĩ họ nhận được từ các cử tri của họ.
Dù cả nữ thủ tướng Julia Gillard lẫn thủ lãnh đối lập Tony Abbott đều nói rõ họ không ủng hộ việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân để hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, suốt năm qua, càng ngày càng có kiến nghị cũng như áp lực vận động hành lang đòi phải hợp pháp hóa các cuộc hôn nhân đồng tính. Vấn đề này cũng sẽ được mang ra tranh luận tại đại hội Đảng Lao Động vào tháng 12 sắp tới.
Tuy nhiên, cuộc tranh luận tại Hạ Nghị Viện vào ngày 24 tháng 8 vừa qua chỉ là một cuộc thăm dò dư luận vì không có một dự luật nào được đệ trình. Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính nếu nghĩ rằng đại đa số các đơn vị bầu cử ủng hộ việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân để hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính, thì hẳn họ thấy ý nghĩ ấy đã hết sức sai lầm.
Trong số các dân biểu mà đơn vị bầu cử của họ mạnh mẽ chống lại hôn nhân đồng tính trong cuộc tranh luận ngày 24 tháng 8 có John Murphy, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Reid thuộc vùng Nội Tây đông dân của Sydney; Alby Schultz, thuộc Đảng Tự Do, hiện nắm đơn vị Hume bao gồm Yass Valley, Goulburn, Cootamundra, Gunning và Colo Vale; Mike Symon, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Deakin ở vùng Đông Melbourne; và Deb O'Neill, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Robertson, bao gồm Terrigal, Wiseman's Ferry, Erina, Gosford và Woy Woy.
O'Neill tường trình rằng hơn 70% đơn vị bầu cử của bà muốn duy trì hôn nhân theo nghĩa truyền thống trong khi ấy, Mike Symon cho hay: chỉ có 6.02% các cử tri của ông nghiêng về hôn nhân đồng tính, còn 93.98% thì cực lực chống lại.
Cũng có những đơn vị bầu cử ủng hộ hôn nhân đồng tính. Như đơn vị Wentworth ở các thị trấn vùng Đông Sydney, một đơn vị hiện do Dân Biểu và là Cựu Thủ Lãnh Đối Lập của Đảng Tự Do, Malcolm Turnbull, nắm giữ. Ông này tường trình rằng trong số 2333 cử tri được hỏi ý kiến, hết 77.7% ủng hộ hôn nhân đồng tính, 16.8% chống lại nhưng vẫn ủng hộ các cuộc kết hợp đồng tính, chỉ có 7.2% chống lại cả hôn nhân lẫn kết hợp đồng tính về phương diện dân sự.
Điều trên không gây ngạc nhiên cho ai vì Wentworth là đơn vị không những có nhiều người xưa nay cổ vũ cho hôn nhân đồng tính mà còn là đơn vị có nhiều cử tri đồng tính luyến ái cả nam lẫn nữ. Cuộc diễn hành Thứ Ba Béo (Mardi Gras) hàng năm vẫn được tổ chức tại đây.
Dân Biểu Đảng Xanh Adam Bandt, người từng tạo cơ hội cho cuộc tranh luận tại Hạ Viện, cũng tường trình rằng tại đơn vị nội thành Melbourne của ông, nhiều người ủng hộ hôn nhân đồng tính. Ông cho rằng trong số 475 người trả lời, chỉ có 1 người chống lại hôn nhân đồng tính.
Nhưng vấn đề hôn nhân đồng tính ít được sự ủng hộ của các dân biểu độc lập. Người ta cần tới các dân biểu này mới có thể thông qua bất cứ dự luật nào của chính phủ đương thời nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Trong nhiều tháng qua, dân biểu độc lập Bob Katter đã liên tiếp lên tiếng chống lại hôn nhân đồng tính dù người em cùng mẹ khác cha của ông là Carl công khai tuyên bố mình là người đồng tính luyến ái trên các đài truyền hình quốc gia.
Một dân biểu độc lập khác là Rob Oakeshott cho hay đơn vị của ông cũng chống đối hôn nhân đồng tính. Ông tường trình với Quốc Hội rằng ông quyết định theo ý muốn của đơn vị ông. Và sau khi tham khảo rộng rãi, ông kết luận rằng đại đa số cử tri của ông xác tín sâu sắc đối với tầm quan trọng của cuộc hôn nhân truyền thống giữa một người đàn ông và một người đàn bà.
Dân biểu độc lập thứ ba là Tony Windsor cũng cho hay đơn vị ông cực lực chống lại hôn nhân đồng tính. Như thế, viễn tượng một dự luật nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính khó có thể xẩy ra. Trước khi có cuộc tranh luận tại Hạ Viện này, hơn 50 nhà lãnh đạo các giáo hội Kitô Giáo, trong đó có Tổng Giám Mục Sydney là Đức HY George Pell, Tổng Giám Mục Anh Giáo của Sydney là Peter Jensen, Chủ Tịch Giáo Hội Luthêrô là Mike Semmler, và Tổng Ủy Viên Cứu Thế Quân (Salvation Army) là Raymond Finger, đã cùng vận động 226 dân biểu Liên Bang, yêu cầu họ không thay đổi Đạo Luật Hôn Nhân và đánh bại bất cứ động thái nào của Đảng Xanh cũng như của một số dân biều Lao Động nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Vấn đề cần nhấn mạnh là: hôn nhân truyền thống tức xác tín cho rằng hôn nhân chỉ có thể xẩy ra giữa một người đàn ông và một người đàn bà không phải là một vấn đề của riêng Kitô Giáo. Các tín ngưỡng khác như Hồi Giáo và Do Thái Giáo cũng chống lại hôn nhân đồng tính. Và dựa trên cuộc tranh luận tại Hạ Viện, rõ ràng đại đa số người dân Úc hẳn phải đồng ý với xác tín của Dân Biểu đơn vị Reid, John Murphy, rằng đa số thầm lặng người Úc cần bỏ phiếu chống lại việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân nhằm bao gồm các cặp đồng tính.
Nhưng, trong số các diễn giả hôm 24 tháng 8, có lẽ vị cựu bộ trưởng trong chính phủ Howard trước đây là Kevin Andrews đã tóm lược hay hơn cả khi ông bác bỏ động thái của Dân Biểu Bandt và chính cả cuộc tranh luận nữa, coi chúng chỉ là để “tạo một tiếng nói cho Đảng Xanh”.
Trong số những vị coi cuộc tranh luận trên là vô ích có dân biểu Queensland thuộc Đảng Quốc Gia, George Christensen, thuộc đơn vị Dawson, là đơn vị bao gồm Mackay, Whitsundays, Prosperine và Bowen. Ông cho rằng: “các cử tri có những ưu tư quan trọng hơn vấn đề này nhiều”.
Nhiều dân biểu khác cũng thuộc Đảng Quốc Gia tại Queensland cho hay: các đơn vị cử tri của họ không ủng hộ bất cứ sự thay đổi nào đối với đạo luật hôn nhân hiện hành nhằm cho phép các cuộc hôn nhân đồng tính. Tại đơn vị Hinkler của dân biểu Paul Neville, là đơn vị bao gồm Bundaberg và Hervey Bay, chỉ có 14 người ủng hộ việc tu chính đạo luật hôn nhân giúp các cặp đồng tính kết hôn mà thôi, trong khi 595 người được hỏi ý kiến đã phản đối việc tu chính này.
Dù tỏ bày sự ngạc nhiên trước việc có quá ít người trong đơn vị Hinkler ủng hộ hôn nhân đồng tính, Dân Biểu Neville vẫn cảnh giác trước việc người ta tìm cách giảm tầm quan trọng của hôn nhân truyền thống trong xã hội Úc vì theo ông điều ấy sẽ có nguy cơ dẫn tới một “xã hội không có người cha”.
Một đơn vị bầu cử khác đồng loạt chống lại việc hợp pháp hóa các cặp hôn nhân đồng tính là đơn vị Fowler ở Sydney, đơn vị bao gồm Liverpool và phần lớn khu Tây Sydney. Đơn vị này hiện do Dân Biểu Chris Hayes của Đảng Lao Động nắm giữ. Trả lời một bản câu hỏi về hôn nhân đồng tính, đại đa số cử tri thuộc đơn vị này dứt khoát ghi chữ “không”. Tại đơn vị Werriwa cũng thế: trong số 395 người được hỏi ý kiến, hơn 90% chống lại bất cứ tu chính nào nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Một chính khách khác cũng thuộc khu ngoại Tây của Sydney là Dân Biểu Alex Hawke của Đảng Tự Do cho hay: dù nhiều người ủng hộ việc luật pháp thừa nhận các cuộc kết hợp đồng tính về phương diện dân sự, nhưng điều ấy không có nghĩa phải thay đổi định nghĩa của chính hôn nhân. Nói cách khác, người ta có thể nhìn nhận các cuộc kết hợp có tính dân sự giữa những người đồng tính, nhưng không được thay đổi chính Đạo Luật Hôn Nhân. Đơn vị của ông là Mitchell, bao gồm Baulkham Hills, Northmead, North Rocks, Castle Hill, Kenthurst, Box Hill, Kellyville, Maraylaya, Dural và West Pennant Hills.
Cuộc tranh luận tại Hạ Viện này chỉ là sáng kiến của dân biểu độc nhất thuộc Đảng Xanh là Adam Bandt, người đã nêu vấn đề vào tháng 11 năm ngoái, yêu cầu các dân biểu Liên Bang phải tìm hiểu xem các cử tri của họ nghĩ gì về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, để rồi tường trình kết quả cho Quốc Hội vào tháng 8 năm nay. Việc tường trình này được dự trù vào ngày 17 tháng 8, nhưng đã triển hạn qua ngày 24 cùng tháng. Các dân biểu đã lần lượt phúc trình lại các ý nghĩ họ nhận được từ các cử tri của họ.
Dù cả nữ thủ tướng Julia Gillard lẫn thủ lãnh đối lập Tony Abbott đều nói rõ họ không ủng hộ việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân để hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, suốt năm qua, càng ngày càng có kiến nghị cũng như áp lực vận động hành lang đòi phải hợp pháp hóa các cuộc hôn nhân đồng tính. Vấn đề này cũng sẽ được mang ra tranh luận tại đại hội Đảng Lao Động vào tháng 12 sắp tới.
Tuy nhiên, cuộc tranh luận tại Hạ Nghị Viện vào ngày 24 tháng 8 vừa qua chỉ là một cuộc thăm dò dư luận vì không có một dự luật nào được đệ trình. Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính nếu nghĩ rằng đại đa số các đơn vị bầu cử ủng hộ việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân để hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính, thì hẳn họ thấy ý nghĩ ấy đã hết sức sai lầm.
Trong số các dân biểu mà đơn vị bầu cử của họ mạnh mẽ chống lại hôn nhân đồng tính trong cuộc tranh luận ngày 24 tháng 8 có John Murphy, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Reid thuộc vùng Nội Tây đông dân của Sydney; Alby Schultz, thuộc Đảng Tự Do, hiện nắm đơn vị Hume bao gồm Yass Valley, Goulburn, Cootamundra, Gunning và Colo Vale; Mike Symon, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Deakin ở vùng Đông Melbourne; và Deb O'Neill, thuộc Đảng Lao Động, hiện nắm đơn vị Robertson, bao gồm Terrigal, Wiseman's Ferry, Erina, Gosford và Woy Woy.
O'Neill tường trình rằng hơn 70% đơn vị bầu cử của bà muốn duy trì hôn nhân theo nghĩa truyền thống trong khi ấy, Mike Symon cho hay: chỉ có 6.02% các cử tri của ông nghiêng về hôn nhân đồng tính, còn 93.98% thì cực lực chống lại.
Cũng có những đơn vị bầu cử ủng hộ hôn nhân đồng tính. Như đơn vị Wentworth ở các thị trấn vùng Đông Sydney, một đơn vị hiện do Dân Biểu và là Cựu Thủ Lãnh Đối Lập của Đảng Tự Do, Malcolm Turnbull, nắm giữ. Ông này tường trình rằng trong số 2333 cử tri được hỏi ý kiến, hết 77.7% ủng hộ hôn nhân đồng tính, 16.8% chống lại nhưng vẫn ủng hộ các cuộc kết hợp đồng tính, chỉ có 7.2% chống lại cả hôn nhân lẫn kết hợp đồng tính về phương diện dân sự.
Điều trên không gây ngạc nhiên cho ai vì Wentworth là đơn vị không những có nhiều người xưa nay cổ vũ cho hôn nhân đồng tính mà còn là đơn vị có nhiều cử tri đồng tính luyến ái cả nam lẫn nữ. Cuộc diễn hành Thứ Ba Béo (Mardi Gras) hàng năm vẫn được tổ chức tại đây.
Dân Biểu Đảng Xanh Adam Bandt, người từng tạo cơ hội cho cuộc tranh luận tại Hạ Viện, cũng tường trình rằng tại đơn vị nội thành Melbourne của ông, nhiều người ủng hộ hôn nhân đồng tính. Ông cho rằng trong số 475 người trả lời, chỉ có 1 người chống lại hôn nhân đồng tính.
Nhưng vấn đề hôn nhân đồng tính ít được sự ủng hộ của các dân biểu độc lập. Người ta cần tới các dân biểu này mới có thể thông qua bất cứ dự luật nào của chính phủ đương thời nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Trong nhiều tháng qua, dân biểu độc lập Bob Katter đã liên tiếp lên tiếng chống lại hôn nhân đồng tính dù người em cùng mẹ khác cha của ông là Carl công khai tuyên bố mình là người đồng tính luyến ái trên các đài truyền hình quốc gia.
Một dân biểu độc lập khác là Rob Oakeshott cho hay đơn vị của ông cũng chống đối hôn nhân đồng tính. Ông tường trình với Quốc Hội rằng ông quyết định theo ý muốn của đơn vị ông. Và sau khi tham khảo rộng rãi, ông kết luận rằng đại đa số cử tri của ông xác tín sâu sắc đối với tầm quan trọng của cuộc hôn nhân truyền thống giữa một người đàn ông và một người đàn bà.
Dân biểu độc lập thứ ba là Tony Windsor cũng cho hay đơn vị ông cực lực chống lại hôn nhân đồng tính. Như thế, viễn tượng một dự luật nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính khó có thể xẩy ra. Trước khi có cuộc tranh luận tại Hạ Viện này, hơn 50 nhà lãnh đạo các giáo hội Kitô Giáo, trong đó có Tổng Giám Mục Sydney là Đức HY George Pell, Tổng Giám Mục Anh Giáo của Sydney là Peter Jensen, Chủ Tịch Giáo Hội Luthêrô là Mike Semmler, và Tổng Ủy Viên Cứu Thế Quân (Salvation Army) là Raymond Finger, đã cùng vận động 226 dân biểu Liên Bang, yêu cầu họ không thay đổi Đạo Luật Hôn Nhân và đánh bại bất cứ động thái nào của Đảng Xanh cũng như của một số dân biều Lao Động nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Vấn đề cần nhấn mạnh là: hôn nhân truyền thống tức xác tín cho rằng hôn nhân chỉ có thể xẩy ra giữa một người đàn ông và một người đàn bà không phải là một vấn đề của riêng Kitô Giáo. Các tín ngưỡng khác như Hồi Giáo và Do Thái Giáo cũng chống lại hôn nhân đồng tính. Và dựa trên cuộc tranh luận tại Hạ Viện, rõ ràng đại đa số người dân Úc hẳn phải đồng ý với xác tín của Dân Biểu đơn vị Reid, John Murphy, rằng đa số thầm lặng người Úc cần bỏ phiếu chống lại việc tu chính Đạo Luật Hôn Nhân nhằm bao gồm các cặp đồng tính.
Nhưng, trong số các diễn giả hôm 24 tháng 8, có lẽ vị cựu bộ trưởng trong chính phủ Howard trước đây là Kevin Andrews đã tóm lược hay hơn cả khi ông bác bỏ động thái của Dân Biểu Bandt và chính cả cuộc tranh luận nữa, coi chúng chỉ là để “tạo một tiếng nói cho Đảng Xanh”.
Top Stories
With Charity Comes Responsibility, Says Pope
Zenit
07:08 05/09/2011
Reflects on Importance of Fraternal Correction
CASTEL GANDOLFO, Italy, SEPT. 4, 2011 (Zenit.org).- Benedict XVI underlined the importance of fraternal correction in the life of the Church on Sunday in his weekly address before praying the midday Angelus.
Addressing the crowds that gathered in the courtyard at Castel Gandolfo, the Pope reflected on the Gospel for the day, which centered on the theme of fraternal charity, which he said "has its source in the communion of the Trinity."
The Pope notes that in the Gospel text, taken from Matthew 18, it states that "brotherly love also includes reciprocal responsibility, on account of which, if my brother sins against me, I must be charitable to him and, first of all, speak with him personally, showing him that that what he said or did is not good."
"This way of behaving," he said, "is called fraternal correction: it is not a reaction to the offense I have suffered but a being moved by love for my brother."
Benedict XVI asked, "And what if my brother does not listen to me?"
He answered that Christ indicates in the Gospel "a gradual approach": "First go back and talk to him with two or three other persons so as to help him better grasp what he has done; if despite this he rejects the observation, the community must be told; and if he does not listen to the community either, it is necessary to make him see the rupture that he himself has provoked, separating himself from the Church."
"All of this shows that there is a co-responsibility in the journey of the Christian life," the Pope concluded. "Everyone, conscious of his own limits and defects, is called to welcome fraternal correction and to help others with this particular service."
CASTEL GANDOLFO, Italy, SEPT. 4, 2011 (Zenit.org).- Benedict XVI underlined the importance of fraternal correction in the life of the Church on Sunday in his weekly address before praying the midday Angelus.
Addressing the crowds that gathered in the courtyard at Castel Gandolfo, the Pope reflected on the Gospel for the day, which centered on the theme of fraternal charity, which he said "has its source in the communion of the Trinity."
The Pope notes that in the Gospel text, taken from Matthew 18, it states that "brotherly love also includes reciprocal responsibility, on account of which, if my brother sins against me, I must be charitable to him and, first of all, speak with him personally, showing him that that what he said or did is not good."
"This way of behaving," he said, "is called fraternal correction: it is not a reaction to the offense I have suffered but a being moved by love for my brother."
Benedict XVI asked, "And what if my brother does not listen to me?"
He answered that Christ indicates in the Gospel "a gradual approach": "First go back and talk to him with two or three other persons so as to help him better grasp what he has done; if despite this he rejects the observation, the community must be told; and if he does not listen to the community either, it is necessary to make him see the rupture that he himself has provoked, separating himself from the Church."
"All of this shows that there is a co-responsibility in the journey of the Christian life," the Pope concluded. "Everyone, conscious of his own limits and defects, is called to welcome fraternal correction and to help others with this particular service."
Tin Giáo Hội Việt Nam
Mừng sinh Nhật 90 năm Legio Mariae thế giới và 63 năm tại Việt Nam
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
07:00 05/09/2011
- Hội Đồng Trung ương (Concilium Legionis), trụ sở đặt tại nước Ái Nhĩ Lan.
- Hội Đồng Miền (Senatus), tại các quốc gia.
- Hội Đồng Tỉnh (Regia).
- Hội Đồng Giáo Phận (Comitium).
- Hội Đồng Hạt (Curia).
- Đơn vị hoặc một chi nhánh (Praesidium).
Giáo hội Việt Nam vinh dự tiếp nhận tổ chức Legio Mariae lần đầu tiên tại Nhà thờ Hàm Long, Hà Nội vào ngày 12.8.1948, Cha Sở Giuse Maria Trịnh Như Khuê làm linh giám (sau này ngài là vị Hồng Y tiên khởi GHCGVN). Ở Giáo phận Sài Gòn, Praesidium đầu tiên được thành lập ngày 27.06.1954 tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, 6 năm sau, ngày 01.05.1960 Hội đồng miền Sài Gòn được thành lập.
Từ khởi điểm này, tổ chức Legio Mariae, ngày càng khuếch trương rộng ra cả nước, trong thập niên 50 thế kỷ trước từ các đơn vị thấp Praesidia (cấp Giáo xứ), các hội đồng Curiae (cấp Giáo hạt), các hội đồng Comitia (cấp Giáo phận), các hội đồng Regiae (cấp liên Giáo phận).
Từ khi thành lập Praesidium “Đức Mẹ Lên Trời” đầu tiên ngày 12.8.1948 tại Nhà thờ Hàm Long, đến ngày 12.8.2011 là tròn 63 năm. Legio Mariae tại Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm, có lúc tưởng chừng như không còn hoạt động được nữa, nhưng nhờ có Mẹ Maria luôn luôn đồng hành, nâng đỡ, hướng dẫn, ban ơn, củng cố tổ chức nên hoạt động và phát triển không ngừng và còn phát triển qua 2 Giáo hội: Campuchia và Lào. Hiện nay, Legio Mariae đã có mặt khắp 26 Giáo phận Việt Nam với số hội viên, hoạt động và tán trợ khoảng gần 100.000 người.
A. 90 năm Legio Mariae Thế giới
Buổi họp đầu tiên của họ được diễn ra vào lúc 08 giờ tối ngày 07.09.1921, là ngày áp lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, tại căn nhà của chị Maria, nằm trên đường Phanxicô, thành phố Dublin, nước Ái Nhĩ Lan (Ireland). Đơn vị đầu tiên này nhận danh hiệu “Đức Mẹ Từ Bi”, nên được gọi là “Hội đoàn Đức Mẹ Từ Bi”. Thật là một điều trùng hợp kỳ diệu, ngày sinh nhật của Đức Mẹ (8.9) cũng là ngày tổ chức nhỏ bé này đã được khai sinh.
Nhóm giáo dân nhỏ bé này đã đến với nhau, ngoài lòng nhiệt thành với công cuộc làm sáng danh Chúa, đã không hề có ý định thành lập một hội đoàn to tát nào. Họ đã không ngờ rằng, chính Đức Maria đã qui tụ họ lại và Đức Chúa Thánh Thần đã là sức sống cho tổ chức nhỏ bé này mau chóng phát triển đến tầm vóc không thể nào ngờ được, và đã trở thành một đạo quân hùng mạnh chiến đấu dưới bóng cờ Đức Mẹ Maria.
Ông Frank Duff (07.06.1889 – 07.11.1980), một trong những Hội viên đầu tiên của nhóm giáo hữu này. Ông đã nhận ra Chúa Thánh Thần đã tác động mạnh mẽ trong tổ chức hoạt động tông đồ này. Từ một nhóm nhỏ đã nảy sinh ra nhiều nhóm nhỏ khác. Chẳng khác gì từ một thân cây đã mau chóng phát triển cành lá xanh tươi khi mùa Xuân đến.
Sau nhiều buổi cầu nguyện, họ đã đề cử ông Frank Duff như một Đấng Sáng Lập, đệ trình hồ sơ lên Đức Thánh Cha xin thành lập một tổ chức lấy danh hiệu “Legio Mariae” (Đạo Binh Đức Mẹ) cùng với cờ hiệu như chúng ta thấy ngày hôm nay.
- Ngày 16.09.1933 Đức Piô X đã gửi thư chúc lành cho Legio Mariae. Ngài viết “… Do đó, Thiên Chúa sẽ làm cho chúng con nên những tay cộng tác trong việc cứu rỗi, và đây là phương pháp tốt nhất để tỏ lòng các con biết ơn Đấng Cứu Chuộc”.
- Ngày 22.07.1953 Quyền chưởng ấn J.B. Montini gởi thư cho ông Frank Duff, nhờ chuyển đến tổ chức Legio Mariae một thông điệp bày tỏ lòng ái mộ và những lời khen tặng của Đức Thánh Cha Piô XII “… Ngài chia vui với ông khi nhận thấy ngọn cờ của Legio được dựng lên khắp bốn phương…”
- Ngày 19.03.1960 Đức Gioan XXIII đã gởi đến Legio Mariae, bức thư ngắn nội dung như sau: “Ta thân ái gởi đến các Ủy viên và Hội Viên Legio Mariae trên toàn thế giới phép lành Tòa Thánh đặc biệt, để chứng tỏ mối tình phụ tử của Ta và bảo đảm những thành quả liêng liêng dồi dào cho công cuộc đáng khen ngợi mà họ đang thực hiện”.
- Ngày 06.01.1965 Đức Phaolô VI gởi đến ông Frank Duff thông điệp, bắt đầu như sau: “Ông Duff thân mến, Đức Thánh Cha muốn nhân dịp này ban một thông điệp khen thưởng và khích lệ Legio Mariae (…) vì những mục trên đạo đức, những công việc đã thực hiện và phát triển rộng rãi, mang lại nhiều lợi ích lớn lao cho việc tông đồ Công giáo. Sự kiện ấy chứng minh quý phong trào là một khí cụ kiến hiệu lạ lùng, để xây dựng và mở rộng nước Chúa”… (qua Quốc Vụ khanh A.G. Cicognani).
- Ngày 02.06.1966 Quốc Vụ khanh A. Dell Acqua đã gởi đến ông Frank Duff bức thư trả lời về việc Đức Thánh Cha chấp nhận trên nguyên tắc kinh nhật tụng (có sửa chữa phần nào) và Thủ Bản Legio Mariae (giữ nguyên).
Mục đích: Legio Mariae luôn nỗ lực phấn đấu để đạt những mục đích sau:
1. Làm vinh danh Thiên Chúa, loan truyền Tin Mừng, cộng tác với Thiên Chúa cứu rỗi các linh hồn qua việc các hội viên sống đời cầu nguyện, thánh hóa bản thân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của giáo quyền.
2. Cộng tác chặt chẽ với các linh mục để công tác mục vụ của các ngài mang lại hiệu quả cao hơn.
3. Làm công tác tông đồ giáo dân qua sự hướng dẫn của Cha Sở.
4. Noi gương Đức Mẹ Maria trong đời sống Đức Tin, Đức Ái và Đức khiêm nhường. Cổ động và Sùng kính Đức Mẹ Maria bằng tràng chuỗi Mân Côi.
Legio Mariae hiện có mặt và hoạt động ở 180 quốc gia trên thế giới, với gần 200 ngôn ngữ. Theo thống kê năm 2001: có 3.800.000 hội viên hoạt động, trên 20.000.000 hội viên bảo trợ, tán trợ, hiệp sỹ.
B. 63 năm Legio Mariae Việt Nam
Cách đây đúng 63 năm, ngày 12.08.1948, đơn vị Legio Mariae “Đức Mẹ Lên Trời” Việt Nam đã được khai sinh với bốn hội viên đầu tiên ở nhà thờ Hàm Long thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội. Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, lúc bấy giờ đang là Cha Sở giáo xứ Hàm Long đã trở thành thành viên đầu tiên người Việt Nam của Đạo binh Đức Mẹ. Ngài đã dành nhiều sự quan tâm và dìu dắt, để Legio mỗi ngày thêm phát triển và vững mạnh. Giáo xứ Hàm Long từ lâu đã được coi như cái nôi khai sinh của Legio Mariae. Ngày 15.04.1954 Praesidium “Đức Mẹ Lên Trời” được nâng cấp lên Curia, sau này khi tái hoạt động trở thành Comitium Hà Nội ngày 21.03.2005.
Tại Tổng Giáo phận Huế Praesidium tiên khởi “Đức Mẹ Đi Viếng Bà Thánh I-sa-ve” được thành lập ngày 04.11.1951. Cấp hội đồng Curia ngày 07.10.1954, cấp Comitium ngày 15.08.1997.
Ở Giáo phận Sài Gòn, Praesidium “Đức Mẹ Thông Ơn Thiên Chúa” đầu tiên được thành lập ngày 27.06.1954 tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, Curia đầu tiên thành lập ngày 04.10.1955, cấp Comitium ngày 04.08.1957, sau ba năm ngày 01.05.1960 được nâng cấp lên hội đồng Senatus cấp toàn quốc được thành lập. Cha linh giám tiên khởi là Giuse Phạm Văn Thiên (Giám mục gp. Phú Cường 1965).
Hoa Trái Nở Rộ
Hiện nay, tính đến tháng 06.2010, Legio Mariae đã có mặt khắp 26 Giáo phận Việt Nam với hệ thống tổ chức 01 Hội đồng Senatus cấp toàn quốc; 02 Regia cấp liên Giáo phận gồm Regia Huế thành lập ngày 16.08.2002 gồm 03 Giáo phận Huế, Đà Nẵng và Quy Nhơn. Regia Nha Trang thành lập ngày 29.04.2003 gồm có 03 Giáo phận Nha Trang, Ban Mê Thuột và Kontum.
Các cấp Hội đồng trực thuộc gồm 30 Comitiae cấp Giáo phận gồm Hà Nội, Nam Hà, Bùi Chu, Hải Phòng, Vinh, Phan Thiết, Đà Lạt, Bảo Lộc, Vĩnh Long, Bà Rịa, Phú Cường, Mỹ Tho, Cần Thơ, Hưng Hóa, Thanh Hóa. Trong đó 03 Commitiae thuộc Giáo phận Xuân Lộc; 03 Comitiae thuộc Regia Huế; 06 Comitiae thuộc Regia Nha Trang và 03 Comitiae thuộc Gp Sài gòn.
Với tổng số 328 Curiae, 51 Curia Junior, 4082 Praesidiae Senior và 827 Praesidiae Junior. Số hội viên hoạt động là 49.983, Junior là 15.194 hội viên và 73.410 hội viên bảo trợ và tán trợ.
Tại Giáo phận Phnompenh (Campuchia), Praesidium tiên khởi là “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” thành lập 09.02.2005, lên Curiae ngày 29.10.2006 gồm 13 Praesidiae Senior và 03 Praesidiae Junior.
Tại Giáo phận Batambang có 03 Praesidiae Junior và Praesidium tiên khởi là “Nữ Vương Rất Thánh mân Côi” lập ngày 19.08.2005 tại giáo xứ Kongpongcham.
Tại Lào, có 03 Praesidiae lập ngày 08.07.2008. Hiện nay được 02 Curiae tại Viengchan và Paksé. Đặc biệt, anh chị em bên Lào đã có Thủ Bản bằng tiếng Lào do sự quan tâm chăm sóc và ưu ái của Comitium Vinh và Senatus chuyển ngữ.
63 năm qua, Legio Mariae Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, thậm chí có thời gian không được hoạt động. Nhưng nhờ có Mẹ Maria luôn đồng hành, Mẹ đã hướng dẫn, nâng đỡ, ban ơn, củng cố để hội đoàn Legio Mariae Việt Nam mới tồn tại đến ngày hôm nay và còn có nhiều cơ hội để tiếp tục phát triển.
Qua các hoạt đông công tác tông đồ, hội viên Legio đã kết hợp nhuần nhuyễn đường hướng hoạt động của Legio với đường hướng mục vụ của HĐGMVN năm 1980: “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Và cũng thật phù hợp với Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa của HĐGMVN Năm Thánh 2010: “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương tình thương và sự sống”.
Thực tế đã cho thấy rõ, nơi nào có Legio, giáo dân ý thức trách nhiệm của mình và được cộng tác với hàng giáo sĩ chấn chỉnh lòng đạo đức, đời sống nội tâm, thực hành bổn phận Công giáo, quan tâm giáo dục con cái, thế hệ trẻ và thể hiện tình làng nghĩa xóm…
C. Nhìn lại để Tạ Ơn.
Hướng về ngày mừng sinh nhật lần thứ 90 trọng đại (07.09.1921 – 07.09.2011), Legio Mariae nhìn lại dòng thời gian qua với biết bao nhiêu cảm nghiệm: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1).
Nhìn lại với tâm tình Tạ Ơn Thiên Chúa “vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” (Tv 117,2).
Nhìn lại, để cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa đã ban cho các hội viên Legio Mariae có một đời sống Đức Tin, Đức Ái và Đức Khiêm Nhường theo gương Đức Mẹ Maria. Nhìn lại để ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân còn sống cũng như đã qua đời; các ngài đã gầy dựng Praesidium trong hy sinh gian khổ, với một tấm lòng quảng đại và tràn đầy tình yêu Thiên Chúa. Các ngài đã để lại cho thế hệ kế thừa một gia sản thiêng liêng quý giá, đó là một Đại gia đình năng động và có tinh thần đoàn kết yêu thương. Đời sống chuyên chăm cầu nguyện cùng với những việc bác ái, từ thiện, thăm viếng đã trở nên những khí cụ để Legio Mariae có thể đem Chúa đến cho mọi người. Nhờ Mẹ Maria và cùng với Mẹ, các hội viên của Legio Mariae sẽ trở nên những chứng nhân tình yêu cho Tin Mừng được loan báo tới muôn dân.
Nhìn lại trong tâm tình sống lại ước nguyện của Tôi Tớ Chúa là Frank Duff, Đấng sáng lập Praesidium Legio Mariae đầu tiên, Legio Mariae tha thiết hướng đến tương lai trong tinh thần tích cực học hỏi Thủ Bản mỗi ngày để thấm nhuần và đón nhận ơn lành. Mỗi hội viên ủng hộ mạnh mẽ và chuyển lời kêu gọi cầu nguyện trong việc tuyên Chân Phước cho ngài Frank Duff, Tôi Tớ của Thiên Chúa.
D. Nhiều sinh hoạt mừng sinh nhật
Mừng sinh nhật, Concilium (Hội đồng Trung ương) mời gọi Legio Mariae của từng giáo phận tổ chức lễ Tạ Ơn kỷ niệm 90 năm ngày khai sinh Legio Mariae tại Thành phố Dublin nước Ai Nhĩ Lan (07.09.1921) và gia tăng cầu nguyện cho việc phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa là ngài Frank Duff, Đấng sáng lập Legio Mariae.
Ngày 12/08/2011 với hơn 4.000 ủy viên, hội viên cả nước đã về Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang mừng ngày Đại hội truyền thống của Legio. Tham dự Đại hội có Lm Gc Lê Sỹ Hiền Quản nhiệm Trung tâm hành hương Thánh Mẫu La Vang, Lm Phêrô Giuse Maria Hà Thiên Trúc Phó Linh Giám Senatus, Lm Giuse Vũ Ngọc Ruẫn Linh giám Commitium Hà Nội, Lm GB Lê Quang Quý Linh giám Regia Huế, Lm Giuse Nguyễn Văn Sỹ P. Linh giám Regia Nha Trang và 16 linh mục, 02 Soeurs Linh giám, Hội đồng quản trị Senatus Việt Nam, Comitium và Curiae của 03 Giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
Giáo tỉnh Hà Nội: Lạng Sơn, Nam Hà, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Hóa, Thanh Hóa, Vinh, Bùi Chu, Phát Diệm.
Giáo tỉnh Huế: Quy Nhơn, Đà Nẵng, Kontum, Nha Trang, Cam Ranh, Ban Mê Thuột.
Giáo tỉnh Sài Gòn: Sài Gòn 2 và 3, Phú Cường, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bảo Lộc, Đà Lạt, Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Gia Phương, Long Xuyên.
Thánh lễ tạ ơn mừng kính trọng thể Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cha Gc Lê Sĩ Hiền chủ tế, cùng 20 cha Linh giám đồng tế.
Ban chiều với kinh Catena và chương trình giao lưu, sinh hoạt văn nghệ, đại hội bế mạc lưu luyến chia tay.
Ban quản trị Senatus tiếp tục lên Kontum, hành hương đến Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen. Sau đó về Ban Mê Thuột, dâng thánh lễ trọng thể mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời với cộng đoàn giáo xứ Chính tòa Thánh Tâm. Ban chiều đoàn đi viếng Đồi Đức Mẹ Giang Sơn cách Tp Buôn Ma Thuột 30km về phía đông nam theo QL 27 đường đi Đà Lạt. Đây là Trung Tâm Hành Hương nổi tiếng thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột. Tượng đài Đức Mẹ được linh mục Giuse Nguyễn Hữu Nghị khởi công năm 1961. Sau hai năm xây dựng, cha chính GB Trần Thanh Ngoạn chủ sự làm phép và long trọng tổ chức lễ khánh thành trong 03 ngày (từ ngày 13 đến 15.08.1963), có rất đông giáo dân về tham dự.Tượng Đức Mẹ cao 6m32 do điêu khắc gia Đinh Văn Lượng thuộc giáo xứ Phát diệm Phú nhuận, Giáo phận Sài Gòn đảm trách, nét mặt Mẹ hiền từ nhân hậu, trên đầu Đức Mẹ mang triều thiên 12 ngôi sao. Tượng đài xây dựng trên đồi đá xếp tự nhiên ở độ cao 823m so với mặt biển. Đường từ quốc lộ lên đến tượng đài dốc đứng, rộng hơn 3m, dài khoảng 1,5km, lát đá hộc. Dọc bên đường có sẵn ghế đá để khách hành hương nghỉ chân.Vào năm 2000, cha Phêrô Bùi Văn Thục cho trùng tu, tôn tạo lại bệ tượng Đức Mẹ bằng đá hoa cương, mở rộng mặt bằng, gia cố bờ tường chung quanh lễ đài, xây dựng bốn gian nhà và hai phòng cơm dành cho khách hành hương. Tháng 11.2002, xây dựng nhà Bát Phúc và hoàn thành công trình trùng tu vào ngày 31.12.2002. Vào các ngày mồng 03 Tết Nguyên Đán, 15.08 hàng năm và các ngày thứ Bảy đầu tháng, có rất đông khách hành hương từ khắp nơi về dự Thánh lễ để tôn vinh Mẹ.
Ban quản trị Senatus tham quan nhà thờ gỗ Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột. Đức Giám Mục Giáo phận đón tiếp rất trịnh trọng và thân tình. Đoàn đến viếng mộ Đức cố Giám mục Giuse Nguyễn Tích Đức.
Sau một tuần hành hương bổ ích và thú vị, đoàn trở về Sài gòn.
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8.9 sắp đến, từ khắp các giáo phận, giáo hạt, giáo xứ, Legio Mariae tổ chức đại hội và dâng thánh lễ tạ ơn.
E. Góp phần truyền giáo
Linh đạo quan trọng nhất của Legio là: “Ad Jesum Per Mariam” (Đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria). Qua các hoạt động tông đồ như thăm viếng người bệnh, người nghèo khổ, và nhất là các giờ cầu nguyện, Đạo binh Đức Mẹ tại Việt Nam đã và đang trở thành một hội đi đầu trong phong trào giáo dân, đóng góp cho công cuộc truyền giáo. Đặc biệt, với ngày kỷ niệm 90 năm Legio thế giới và 63 năm Legio Việt Nam, Legio Mariae Việt Nam chào mừng các anh chị em hội viên của hai nước láng giềng Lào và Campuchia.
Mỗi hội viên Legio noi theo mẫu gương của Đức Mẹ, sống xứng đáng là những Kitô hữu nhiệt thành để đem Chúa đến cho mọi người. Giáo hội Hàn Quốc, với con số giáo dân tăng lên không ngừng, nhờ công sức đóng góp rất quan trọng của Legio Mariae. “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13, 22).
Trong sứ vụ truyền giáo hiện nay, Legio Mariae có một vị trí và vai trò khá quan trọng. Legio Mariae là một hội đoàn giáo dân năng động và có tinh thần đoàn kết yêu thương, làm việc bác ái, thăm viếng, như những khí cụ bình an để Legio Mariae có thể đem Chúa đến cho mọi người. Nhờ Mẹ Maria và cùng với Mẹ Maria, các hội viên Legio Marie trở nên những chứng nhân tình yêu cho Tin Mừng.
Xin hiệp thông tạ ơn Chúa, tri ân Mẹ Maria nhân sự kiện trọng đại mừng sinh nhật Legio Mariae.
Giáo xứ Lai Tê đón Thánh giá
Tomaso Phùng
07:29 05/09/2011
BẮC NINH - Trong niềm vui chung với Giáo Phận chuẩn bị tổ chức Đại Hội Giới Trẻ giáo tỉnh Miền Bắc được tổ chức tại trung tâm văn hóa Kinh Bắc tỉnh Bắc Ninh ngày 11-11-2011, Giáo Xứ Lai Tê đã long trọng cung nghinh Thánh Giá giới trẻ từ giáo họ Hương La, Giáo Xứ Tử Nê.
Xem hình ảnh
Buổi chiều hôm trước đón Thánh Giá, Giáo Xứ đã bố trí một chiếc xe ô tô có gắn loa phóng thanh đi quảng cáo khắp khu vực làm cho nhiều người tưởng chừng như Nhà Thờ Lai Tê chuẩn bị có đoàn văn nghệ ở trung ương về biểu diễn, nhưng không phải thế, đó chỉ là đi quảng cáo những bài hát của Đại Hội Giới Trẻ.
Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm trời đã đổ cơn mưa rất to báo hiệu như là câu ca dao đã diễn tả: “ơn trời mưa móc phải thì, nơi thì cầy ruộng nơi thì bừa sâu”. Tuy nhiên khi trời mưa cũng làm cho nhiều người lo lắng tưởng như cuộc rước Thánh Giá không thể diễn ra được, nhưng chỉ sau 30 phút cơn mưa tạnh hẳn và trời hửng nắng, đúng là hồng ân Chúa như mưa như mưa.
Đúng 8 giờ đoàn rước có mặt tại Nhà Thờ Hương La, Cha Xứ và đông đảo bà con giáo dân làm nghi thức trao Thánh Giá cho các bạn trẻ Lai Tê, sau đó Thánh Giá được rước lên xe ô tô. Trên quãng đường 8 cây số mà phải mất một tiếng 15 phút mới về đến nhà, tức là đi rất chậm, đoàn rước kéo dài khoảng 1,5 Km.
Khi Thánh Giá về đến Nhà Thờ, Cha Xứ xông hương và đọc lời nguyện sau đó các bạn trẻ đã cử vũ điệu: Ta mang trên vai: ta mang trên vai xứ mạng của Người, ta mang trong tim tình yêu Đức Ki tô. Phục vụ tha nhân ta phục vụ chính Đức Ki tô, như là cánh tay của Người ở giữa gian trần...
Tiếp theo là Thánh Lễ tạ ơn có đông đảo quý cha cùng hiệp dâng. ngày hôm nay niềm vui còn được nhân lên bởi phụng vụ Thánh Lễ hôm nay là kính 2 thánh: Phêrô Nguyễn Văn Tự và Giuse Hoàng Lương Cảnh. Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh là bảo trợ Ban Hành Giáo đương cựu toàn khu vực II bắc Ninh, do vậy mà có đông đảo quý vị Ban Hành Giáo cùng tham dự.
Trong bài giảng Cha Tôma đã nhấn mạnh đến tình bạn với Chúa Giêsu, một tình bạn thâm sâu xuất phát từ cõi lòng, như trong thư gửi các bạn trẻ, Đức Cha Giáo phận đã chia sẻ: bạn bè có thể ăn uống với nhau, vui chơi với nhau, tâm sự với nhau, giúp đỡ lẫn nhau...nhưng nếu thiếu yêu mến thì không phải là bạn bè.
Và trong sách Hc 6,15-17: “không gì đổi lấy được người bạn trung thành và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, những ai kính sợ Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”.
Sau Thánh Lễ Cha Xứ đã chia sẻ với cộng đoàn về tình yêu cứu độ của Thánh Giá Chúa Ki tô, kêu gọi mọi người đáp lại Lời Chúa trong Tin Mừng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình vác Thập giá mình hàng ngày mà theo”. (Lc 9,23). Xin mọi người hãy nhiệt tình đáp lại tiếng Chúa kêu mời bằng cách noi gương các thánh tử đạo. Cụ thể trong Nhà Thờ Giáo xứ Lai Tê có hài cốt của Thánh Đaminh Nguyễn Văn Cẩm và 16 vị đầu mục, là những người con của Lai Tê. Các ngài đã anh dũng làm chứng cho Thánh Giá Chúa bằng cái chết anh dũng của mình.
Ban tối là Thánh Lễ khai giảng năm học mới, có chương trình văn nghệ mừng đón Thánh Giá và vui chơi xổ số cho các bạn trẻ cũng như các em thiếu nhi.
Xem hình ảnh
Buổi chiều hôm trước đón Thánh Giá, Giáo Xứ đã bố trí một chiếc xe ô tô có gắn loa phóng thanh đi quảng cáo khắp khu vực làm cho nhiều người tưởng chừng như Nhà Thờ Lai Tê chuẩn bị có đoàn văn nghệ ở trung ương về biểu diễn, nhưng không phải thế, đó chỉ là đi quảng cáo những bài hát của Đại Hội Giới Trẻ.
Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm trời đã đổ cơn mưa rất to báo hiệu như là câu ca dao đã diễn tả: “ơn trời mưa móc phải thì, nơi thì cầy ruộng nơi thì bừa sâu”. Tuy nhiên khi trời mưa cũng làm cho nhiều người lo lắng tưởng như cuộc rước Thánh Giá không thể diễn ra được, nhưng chỉ sau 30 phút cơn mưa tạnh hẳn và trời hửng nắng, đúng là hồng ân Chúa như mưa như mưa.
Đúng 8 giờ đoàn rước có mặt tại Nhà Thờ Hương La, Cha Xứ và đông đảo bà con giáo dân làm nghi thức trao Thánh Giá cho các bạn trẻ Lai Tê, sau đó Thánh Giá được rước lên xe ô tô. Trên quãng đường 8 cây số mà phải mất một tiếng 15 phút mới về đến nhà, tức là đi rất chậm, đoàn rước kéo dài khoảng 1,5 Km.
Khi Thánh Giá về đến Nhà Thờ, Cha Xứ xông hương và đọc lời nguyện sau đó các bạn trẻ đã cử vũ điệu: Ta mang trên vai: ta mang trên vai xứ mạng của Người, ta mang trong tim tình yêu Đức Ki tô. Phục vụ tha nhân ta phục vụ chính Đức Ki tô, như là cánh tay của Người ở giữa gian trần...
Tiếp theo là Thánh Lễ tạ ơn có đông đảo quý cha cùng hiệp dâng. ngày hôm nay niềm vui còn được nhân lên bởi phụng vụ Thánh Lễ hôm nay là kính 2 thánh: Phêrô Nguyễn Văn Tự và Giuse Hoàng Lương Cảnh. Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh là bảo trợ Ban Hành Giáo đương cựu toàn khu vực II bắc Ninh, do vậy mà có đông đảo quý vị Ban Hành Giáo cùng tham dự.
Trong bài giảng Cha Tôma đã nhấn mạnh đến tình bạn với Chúa Giêsu, một tình bạn thâm sâu xuất phát từ cõi lòng, như trong thư gửi các bạn trẻ, Đức Cha Giáo phận đã chia sẻ: bạn bè có thể ăn uống với nhau, vui chơi với nhau, tâm sự với nhau, giúp đỡ lẫn nhau...nhưng nếu thiếu yêu mến thì không phải là bạn bè.
Và trong sách Hc 6,15-17: “không gì đổi lấy được người bạn trung thành và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, những ai kính sợ Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”.
Sau Thánh Lễ Cha Xứ đã chia sẻ với cộng đoàn về tình yêu cứu độ của Thánh Giá Chúa Ki tô, kêu gọi mọi người đáp lại Lời Chúa trong Tin Mừng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình vác Thập giá mình hàng ngày mà theo”. (Lc 9,23). Xin mọi người hãy nhiệt tình đáp lại tiếng Chúa kêu mời bằng cách noi gương các thánh tử đạo. Cụ thể trong Nhà Thờ Giáo xứ Lai Tê có hài cốt của Thánh Đaminh Nguyễn Văn Cẩm và 16 vị đầu mục, là những người con của Lai Tê. Các ngài đã anh dũng làm chứng cho Thánh Giá Chúa bằng cái chết anh dũng của mình.
Ban tối là Thánh Lễ khai giảng năm học mới, có chương trình văn nghệ mừng đón Thánh Giá và vui chơi xổ số cho các bạn trẻ cũng như các em thiếu nhi.
Caritas Phát Diệm tổ chức trao học bổng, sách vở cho các em học sinh nghèo
VP Caritas Phát Diệm
09:13 05/09/2011
Caritas Phát Diệm tổ chức trao học bổng, sách vở cho các em học sinh nghèo
Để giúp các em học sinh chuẩn bị bước vào năm học mới 2011-2012, Caritas Phát Diệm đã hỗ trợ 237 suất học bổng dành cho các học sinh nghèo trong Giáo Phận Phát Diệm.
Cùng với việc trao học bổng, Caritas khuyến học còn hỗ trợ sách vở và phương tiện học tập cho 560 em học sinh nghèo khác.
Tiêu chí xét cấp học bổng và trao quà sách vở là đối tượng học sinh cấp I, cấp II có hoàn cảnh khó khăn thuộc những khu vực vùng sâu xa, vùng nghèo và con em bệnh nhân HIV/ AID, không phân biệt lương, giáo.
Địa bàn Giáo phận Phát Diệm có nhiều vùng còn khó khăn về đời sống kinh tế, mặt bằng dân trí thấp. Giáo dân phần lớn làm nghề thuần nông. Trong hoàn cảnh khó khăn kinh tế suy thoái, lạm phát leo thang, người nghèo lại càng nghèo; nhất là những gia đình nghèo khó đang có con em ở độ tuổi đến trường.
Những giáo xứ khu vực Nho Quan thuộc miền núi sâu xa, đất đai cằn cỗi, lại thường hay hứng chịu thiên tai bão lũ nên dân còn nghèo và có tỉ lệ các em phải bỏ học nhiều, hoặc có đến trường nhưng cũng chẳng đủ điều kiện để học tốt. Hồ sơ của nhiều em cho thấy mới chỉ học lớp 1, lớp 2 mà đã “đúp lên đúp xuống” đến hai ba lần. Nhiều gia đình chưa có nhà cửa, chỉ sống tạm bợ trên những thuyền nhỏ; con em họ phải học bài ngay trên tấm gỗ kê tạm ở góc thuyền chung cho cả gia đình.
Vùng Kim Sơn và Hoa Lư là nơi có nhiều đối tượng con em bệnh nhân HIV/AID. Nhiều em chỉ còn bố hoặc mẹ, có những em đang phải sống nhờ sự chăm sóc của ông bà. Tuổi thơ non nớt của các em có quá nhiều sự thiệt thòi, thiếu thốn so với các bạn cùng trang lứa.
Tổng trị giá của chương trình khuyến học lần này là 160.000.000 đồng mà ban khuyến học đã nhận được từ sự giúp đỡ của Đức Cha giáo phận và lòng hảo tâm của ân nhân. Ban Caritas đã cố gắng hoàn tất công việc trước khi khai giảng năm học mới. Chương trình đã được thực hiện ở Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Kim Sơn và Yên Mô. Đó là những vùng miền còn nhiều khó khăn về kinh tế và có tệ nạn xã hội cao.
Số tiền trợ cấp, số quà được trao tuy còn nhỏ bé, ít ỏi, không đủ để giải quyết hết mọi vấn đề, nhưng hy vọng phần nào làm vơi đi những thiệt thòi, mất mát và khó khăn của các em cũng như gia đình các em. Hy vọng bước vào năm học mới 2011-2012, các em sẽ cố gắng vươn lên vượt khó và phấn đấu để đạt kết quả cao trong học tập. Hy vọng đó được khởi đầu bằng những ánh mắt háo hức, và niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt các em khi đón nhận phần quà.
Với số tiền hạn chế nên còn nhiều trường hợp học sinh khó khăn nghèo khác chưa nhận được sự trợ giúp. Hy vọng bằng nội lực, các giáo xứ có thể bù đắp phần hạn chế này. Trong thư mục vụ nhân dịp khai giảng năm học mới, Đức Cha giáo phận ngoài việc nhắn nhủ định hướng cho các sinh viên, học sinh một số lưu tâm về vấn đề giáo dục; Ngài cũng đã kêu gọi phát huy nội lực để thực hiện công tác khuyến học: “Xin quí cha và ban chấp hành các giáo xứ, giáo họ rà soát trong địa bàn giáo xứ xem có những em nào không có đủ tiền đến trường, và kêu gọi mọi người trong giáo xứ hợp lực giúp đỡ để mọi trẻ lương cũng như giáo, có thể hoàn tất chương trình giáo dục cơ sở và phổ thông”.
Quan tâm đến giáo dục và nâng cao dân trí được Đức Cha giáo phận lưu tâm hàng đầu và đặc biệt nhấn mạnh trong ngày Caritas Phát Diệm ra mắt tại trung tâm mục vụ giáo phận hôm 21tháng 01năm 2011. Hy vọng tới đây, khi Caritas các giáo xứ thành lập và hoàn thiện sẽ có những hoạt động thiết thực và hiệu quả để niềm vui trước mỗi mùa khai giảng được nhân lên thêm mãi.
VP Caritas Phát Diệm
Cùng với việc trao học bổng, Caritas khuyến học còn hỗ trợ sách vở và phương tiện học tập cho 560 em học sinh nghèo khác.
Tiêu chí xét cấp học bổng và trao quà sách vở là đối tượng học sinh cấp I, cấp II có hoàn cảnh khó khăn thuộc những khu vực vùng sâu xa, vùng nghèo và con em bệnh nhân HIV/ AID, không phân biệt lương, giáo.
Địa bàn Giáo phận Phát Diệm có nhiều vùng còn khó khăn về đời sống kinh tế, mặt bằng dân trí thấp. Giáo dân phần lớn làm nghề thuần nông. Trong hoàn cảnh khó khăn kinh tế suy thoái, lạm phát leo thang, người nghèo lại càng nghèo; nhất là những gia đình nghèo khó đang có con em ở độ tuổi đến trường.
Những giáo xứ khu vực Nho Quan thuộc miền núi sâu xa, đất đai cằn cỗi, lại thường hay hứng chịu thiên tai bão lũ nên dân còn nghèo và có tỉ lệ các em phải bỏ học nhiều, hoặc có đến trường nhưng cũng chẳng đủ điều kiện để học tốt. Hồ sơ của nhiều em cho thấy mới chỉ học lớp 1, lớp 2 mà đã “đúp lên đúp xuống” đến hai ba lần. Nhiều gia đình chưa có nhà cửa, chỉ sống tạm bợ trên những thuyền nhỏ; con em họ phải học bài ngay trên tấm gỗ kê tạm ở góc thuyền chung cho cả gia đình.
Vùng Kim Sơn và Hoa Lư là nơi có nhiều đối tượng con em bệnh nhân HIV/AID. Nhiều em chỉ còn bố hoặc mẹ, có những em đang phải sống nhờ sự chăm sóc của ông bà. Tuổi thơ non nớt của các em có quá nhiều sự thiệt thòi, thiếu thốn so với các bạn cùng trang lứa.
Tổng trị giá của chương trình khuyến học lần này là 160.000.000 đồng mà ban khuyến học đã nhận được từ sự giúp đỡ của Đức Cha giáo phận và lòng hảo tâm của ân nhân. Ban Caritas đã cố gắng hoàn tất công việc trước khi khai giảng năm học mới. Chương trình đã được thực hiện ở Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Kim Sơn và Yên Mô. Đó là những vùng miền còn nhiều khó khăn về kinh tế và có tệ nạn xã hội cao.
Số tiền trợ cấp, số quà được trao tuy còn nhỏ bé, ít ỏi, không đủ để giải quyết hết mọi vấn đề, nhưng hy vọng phần nào làm vơi đi những thiệt thòi, mất mát và khó khăn của các em cũng như gia đình các em. Hy vọng bước vào năm học mới 2011-2012, các em sẽ cố gắng vươn lên vượt khó và phấn đấu để đạt kết quả cao trong học tập. Hy vọng đó được khởi đầu bằng những ánh mắt háo hức, và niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt các em khi đón nhận phần quà.
Với số tiền hạn chế nên còn nhiều trường hợp học sinh khó khăn nghèo khác chưa nhận được sự trợ giúp. Hy vọng bằng nội lực, các giáo xứ có thể bù đắp phần hạn chế này. Trong thư mục vụ nhân dịp khai giảng năm học mới, Đức Cha giáo phận ngoài việc nhắn nhủ định hướng cho các sinh viên, học sinh một số lưu tâm về vấn đề giáo dục; Ngài cũng đã kêu gọi phát huy nội lực để thực hiện công tác khuyến học: “Xin quí cha và ban chấp hành các giáo xứ, giáo họ rà soát trong địa bàn giáo xứ xem có những em nào không có đủ tiền đến trường, và kêu gọi mọi người trong giáo xứ hợp lực giúp đỡ để mọi trẻ lương cũng như giáo, có thể hoàn tất chương trình giáo dục cơ sở và phổ thông”.
Quan tâm đến giáo dục và nâng cao dân trí được Đức Cha giáo phận lưu tâm hàng đầu và đặc biệt nhấn mạnh trong ngày Caritas Phát Diệm ra mắt tại trung tâm mục vụ giáo phận hôm 21tháng 01năm 2011. Hy vọng tới đây, khi Caritas các giáo xứ thành lập và hoàn thiện sẽ có những hoạt động thiết thực và hiệu quả để niềm vui trước mỗi mùa khai giảng được nhân lên thêm mãi.
VP Caritas Phát Diệm
Hai trường khuyết tật do các Nữ tu Mến Thánh Giá Nha Trang khai giảng năm học mới
Paul Nguyễn-văn-Sự
10:27 05/09/2011
ĐÀ NẴNG - Cùng với hàng triệu học sinh trên toàn quốc, hôm nay ngày 05.9.2011. Hai trường khuyết tật do các Soeurs thuộc Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang đảm nhiệm nằm trong địa bàn Thành phố Phan Thiết cùng khai giảng năm học mới.
Xem hình ảnh
Đến dự lễ Khai giảng lúc 07g30 tại Trường “TỔ ẤM HUYNH ĐỆ” có Đức Cha Nicolas Huỳnh-văn-Nghi (người sáng lập trường). Cha Giuse H?-si-H?u, thư ký Tòa Giám Mục. phía quan khách có quý bà Hội trưởng, hội phó Hội Phụ nữ Thành phố, bà Phó chủ tịch Phường Lạc Đạo, và các ban ngành đoàn thể địa phương, Quý Soeurs thuộc văn phòng Caritas Giáo phận, Quý Thầy làm việc tại Tòa Giám Mục cùng với quý vị phụ huynh của 95 em học sinh thiểu năng gồm 4 chứng bệnh: bại não, down, chậm phát triển và tự kỷ.
Phát biểu trong ngày tựu trường năm học mơi, quý vị đại diện Hội Phụ nữ Thành phố, bà Phó Chủ tịch Phường và đại diện Phụ huynh đều bày tỏ lòng tri ân đối với Đức Cha Nicolas, vì tình thương đã sáng lập ra mái ấm Huynh đệ, nơi đây trở thành chỗ dựa tinh thần và niềm an ủi lớn lao cho các bậc phụ huynh có con em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, mang những chứng bệnh hiểm nghèo; Nơi đây cũng chứng minh cho quyền con người mà Tạo hóa đã tạo dựng; đó là được sống, được học tập, vui chơi . . . Với Quý Soeurs, và các Cô giáo đa số là thanh tuyển Hội dòng MTT Nha Trang, các vị đại diện biểu dương tinh thần hy sinh phục vụ, “Dạy một trẻ bình thường đã khó, huống gì những trẻ bệnh tật, không trí nhớ, ngang nghịch, thế mà các Nữ tu đã kiên nhẫn chịu đựng, tận tuy, để các em biết đọc, biết viết, có nhiều em, sau thời gian học ở mái ấm này không những biết viết, mà còn viết đúng chính tả, biết tính toán . . . Thành quả này là do tình thương đối với true khuyết tật và lòng yêu nghề của Quý Soeurs và các Cô giáo . . .”.
Thay lời cho Đức Cha chủ tọa, Cha Thư ký TGM đã đề cao và động viên tinh thần Quý Soeurs, các Cô giâo, đồng thời kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ giữa các vị Phụ huynh và mái ấm Huynh đệ, Ngài nhấn mạnh: ”Chúng ta đừng xem đây là những trẻ khuyết tật mà hãy cảm nhận các em này đều là con của Chúa, chúng ta có trách nhiệm, bổn phận phải nuôi dạy, chăm sóc theo từng khả năng mỗi người, từng điều kiện hoàn cảnh mỗi em . . .”
Đan xen giữa các bài phát biểu trên là những tiết mục văn nghệ của Cô giáo và các học viên của Trường. Ngững tràng pháo tay dòn giã của quý khách, phụ huynh và các em báo hiệu một năm học mới sẽ mang lại nhiều thành quả. Hôm nay cũng là ngày sinh nhật thou bảy của trường (05.9.2004 – 05.9.2011)
Lễ khai giảng diễn ra không ngoài một tiếng đồng hồ, nhưng đã mang lại niềm phấn khích cho các vị khách, Phụ huynh và các em
Trường khuyết tật câm điếc “HÙNG-ĐÔNG” nằm trên địa bàn giáo xứ Đông Hải (Phường Hưng Long Phan-Thiết) cùng lúc đã làm lễ khai giảng năm học 2011-2012.
Với tính chất đặc biệt, nhà trường cần thưa chuyện nhiều với các vị phụ huynh, đồng thời giải quyết những ưu tư nguyện vọng của họ trong việc giáo dục, vì thế năm nay Trường không mời các vị khách đến dự như những năm trước; Soeur cũng báo cho phụ huynh đươc biết, nhờ vào sự rộng tay của nhiều vị ân nhân, năm nay trường đã sắm được một số máy may để hướng nghiệp cho các em, đồng thời đã trang bị thêm một ít máy móc hiện đại để các em được dùng tại trường như: máy giặt, máy nước nóng lanh . . .
Đại điện phụ huynh đã bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà trường và Quý Soeurs đã tận tụy chăm lo cho con em của họ.
Lễ khai giảng trường câm điếc Hừng Đông đã kết thúc lúc 09g30.
Được biết, nhiều trường khuyết tật trong địa bàn Giáo Phận Phan Thiết do quý Soeurs Hội Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang và MTG Phan Thiết đảm trách sáng nay cũng đều tổ chức Lễ khai giảng.
Xem hình ảnh
Đến dự lễ Khai giảng lúc 07g30 tại Trường “TỔ ẤM HUYNH ĐỆ” có Đức Cha Nicolas Huỳnh-văn-Nghi (người sáng lập trường). Cha Giuse H?-si-H?u, thư ký Tòa Giám Mục. phía quan khách có quý bà Hội trưởng, hội phó Hội Phụ nữ Thành phố, bà Phó chủ tịch Phường Lạc Đạo, và các ban ngành đoàn thể địa phương, Quý Soeurs thuộc văn phòng Caritas Giáo phận, Quý Thầy làm việc tại Tòa Giám Mục cùng với quý vị phụ huynh của 95 em học sinh thiểu năng gồm 4 chứng bệnh: bại não, down, chậm phát triển và tự kỷ.
Phát biểu trong ngày tựu trường năm học mơi, quý vị đại diện Hội Phụ nữ Thành phố, bà Phó Chủ tịch Phường và đại diện Phụ huynh đều bày tỏ lòng tri ân đối với Đức Cha Nicolas, vì tình thương đã sáng lập ra mái ấm Huynh đệ, nơi đây trở thành chỗ dựa tinh thần và niềm an ủi lớn lao cho các bậc phụ huynh có con em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, mang những chứng bệnh hiểm nghèo; Nơi đây cũng chứng minh cho quyền con người mà Tạo hóa đã tạo dựng; đó là được sống, được học tập, vui chơi . . . Với Quý Soeurs, và các Cô giáo đa số là thanh tuyển Hội dòng MTT Nha Trang, các vị đại diện biểu dương tinh thần hy sinh phục vụ, “Dạy một trẻ bình thường đã khó, huống gì những trẻ bệnh tật, không trí nhớ, ngang nghịch, thế mà các Nữ tu đã kiên nhẫn chịu đựng, tận tuy, để các em biết đọc, biết viết, có nhiều em, sau thời gian học ở mái ấm này không những biết viết, mà còn viết đúng chính tả, biết tính toán . . . Thành quả này là do tình thương đối với true khuyết tật và lòng yêu nghề của Quý Soeurs và các Cô giáo . . .”.
Thay lời cho Đức Cha chủ tọa, Cha Thư ký TGM đã đề cao và động viên tinh thần Quý Soeurs, các Cô giâo, đồng thời kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ giữa các vị Phụ huynh và mái ấm Huynh đệ, Ngài nhấn mạnh: ”Chúng ta đừng xem đây là những trẻ khuyết tật mà hãy cảm nhận các em này đều là con của Chúa, chúng ta có trách nhiệm, bổn phận phải nuôi dạy, chăm sóc theo từng khả năng mỗi người, từng điều kiện hoàn cảnh mỗi em . . .”
Đan xen giữa các bài phát biểu trên là những tiết mục văn nghệ của Cô giáo và các học viên của Trường. Ngững tràng pháo tay dòn giã của quý khách, phụ huynh và các em báo hiệu một năm học mới sẽ mang lại nhiều thành quả. Hôm nay cũng là ngày sinh nhật thou bảy của trường (05.9.2004 – 05.9.2011)
Lễ khai giảng diễn ra không ngoài một tiếng đồng hồ, nhưng đã mang lại niềm phấn khích cho các vị khách, Phụ huynh và các em
Trường khuyết tật câm điếc “HÙNG-ĐÔNG” nằm trên địa bàn giáo xứ Đông Hải (Phường Hưng Long Phan-Thiết) cùng lúc đã làm lễ khai giảng năm học 2011-2012.
Với tính chất đặc biệt, nhà trường cần thưa chuyện nhiều với các vị phụ huynh, đồng thời giải quyết những ưu tư nguyện vọng của họ trong việc giáo dục, vì thế năm nay Trường không mời các vị khách đến dự như những năm trước; Soeur cũng báo cho phụ huynh đươc biết, nhờ vào sự rộng tay của nhiều vị ân nhân, năm nay trường đã sắm được một số máy may để hướng nghiệp cho các em, đồng thời đã trang bị thêm một ít máy móc hiện đại để các em được dùng tại trường như: máy giặt, máy nước nóng lanh . . .
Đại điện phụ huynh đã bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà trường và Quý Soeurs đã tận tụy chăm lo cho con em của họ.
Lễ khai giảng trường câm điếc Hừng Đông đã kết thúc lúc 09g30.
Được biết, nhiều trường khuyết tật trong địa bàn Giáo Phận Phan Thiết do quý Soeurs Hội Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang và MTG Phan Thiết đảm trách sáng nay cũng đều tổ chức Lễ khai giảng.
Giáo xứ Tân Lộc chầu lượt và tổng kết năm Giáo lý
Antôn Hoàng Cảnh Hồng
10:32 05/09/2011
VINH - Chúa nhật XXII QN, ngày 28/8/2011 giáo xứ Tân Lộc khai mạc tuần chầu để chuẩn bị bước vào ngày cao điểm 04/09/2011.
Xem hình ảnh
Cha quản xứ Martinô Nguyễn Xuân Hoàng và HĐ Mục vụ giáo xứ đã tổ chức và lên lịch cho suốt cả tuần chầu. Tối Chúa Nhật khai mạc, ngày thứ hai giành cho giới trẻ và Hội Têrêxa HĐ Giêsu, cha Antôn Hoàng Trung Hoa quản xứ Làng Nam về tĩnh tâm và chia sẻ.
Ngày thứ ba giành cho giới phụ nữ toàn xứ cha quản xứ tĩnh tâm và chia sẻ với giới phụ nữ.
Ngày thứ tư cha Px Võ Thanh Tâm và cha Antôn Hoàng Đức Luyến tĩnh tâm chia sẻ với giới nam phụ huynh và gia đình Khôi Bình.
Trong tâm tình đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể thay cho toàn giáo phận, năm nay ngày thứ sáu được Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp cùng đông đảo Quý Cha về dâng thánh lễ.
Ngày thứ bảy lại được sự ưu ái của Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên về thăm và dâng thánh lễ cầu nguyện cho bà con giáo dân trong toàn giáo xứ. Hai Đức Cha đã dành cho giáo xứ nhiều ân tình và huấn từ trong những ngày chầu lượt của xứ nhà.
Tối thứ bảy giáo xứ tổ chức rước Thánh Thể cung nghênh chung quanh Thánh đường một vòng phía ngoài khuôn viên nhà thờ, hàng ngàn ngọn nến được thắp lên sáng rực như mong muốn mỗi một người là một ngọn nến sáng giữa đời về cuộc sống đạo và về đời sống đức tin giữa thời đại hôm nay. Thánh lễ cao điểm của tuần chầu được anh em bà con trong và ngoài giáo hạt tập trung về hiệp đâng thánh lễ, dòng người đông đúc về dâng lễ chật cả khuôn viên nhà thờ.
Ngày thứ bảy Ban giáo lý giáo hạt tổng kết giáo lý và phát phần thưởng cho các đơn vị và những em xuất xắc trong năm học 2010 – 2011. Cha trưởng Ban và cha Đặc trách giáo lý mong muốn mọi người hãy chung tay trong công việc giáo dục đức tin, giúp các em có kiến thức giáo lý để từ đó qua kiến thức đã học các em cảm nhận bài học bằng con tim, tức là yêu mến những gì đã học và sau đó thực hành bài học bằng cuộc sống như đại hội giáo lý toàn quốc lần thứ 3 mong muốn.
Xem hình ảnh
Cha quản xứ Martinô Nguyễn Xuân Hoàng và HĐ Mục vụ giáo xứ đã tổ chức và lên lịch cho suốt cả tuần chầu. Tối Chúa Nhật khai mạc, ngày thứ hai giành cho giới trẻ và Hội Têrêxa HĐ Giêsu, cha Antôn Hoàng Trung Hoa quản xứ Làng Nam về tĩnh tâm và chia sẻ.
Ngày thứ ba giành cho giới phụ nữ toàn xứ cha quản xứ tĩnh tâm và chia sẻ với giới phụ nữ.
Ngày thứ tư cha Px Võ Thanh Tâm và cha Antôn Hoàng Đức Luyến tĩnh tâm chia sẻ với giới nam phụ huynh và gia đình Khôi Bình.
Trong tâm tình đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể thay cho toàn giáo phận, năm nay ngày thứ sáu được Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp cùng đông đảo Quý Cha về dâng thánh lễ.
Ngày thứ bảy lại được sự ưu ái của Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên về thăm và dâng thánh lễ cầu nguyện cho bà con giáo dân trong toàn giáo xứ. Hai Đức Cha đã dành cho giáo xứ nhiều ân tình và huấn từ trong những ngày chầu lượt của xứ nhà.
Tối thứ bảy giáo xứ tổ chức rước Thánh Thể cung nghênh chung quanh Thánh đường một vòng phía ngoài khuôn viên nhà thờ, hàng ngàn ngọn nến được thắp lên sáng rực như mong muốn mỗi một người là một ngọn nến sáng giữa đời về cuộc sống đạo và về đời sống đức tin giữa thời đại hôm nay. Thánh lễ cao điểm của tuần chầu được anh em bà con trong và ngoài giáo hạt tập trung về hiệp đâng thánh lễ, dòng người đông đúc về dâng lễ chật cả khuôn viên nhà thờ.
Ngày thứ bảy Ban giáo lý giáo hạt tổng kết giáo lý và phát phần thưởng cho các đơn vị và những em xuất xắc trong năm học 2010 – 2011. Cha trưởng Ban và cha Đặc trách giáo lý mong muốn mọi người hãy chung tay trong công việc giáo dục đức tin, giúp các em có kiến thức giáo lý để từ đó qua kiến thức đã học các em cảm nhận bài học bằng con tim, tức là yêu mến những gì đã học và sau đó thực hành bài học bằng cuộc sống như đại hội giáo lý toàn quốc lần thứ 3 mong muốn.
Gần 300 em thiếu nhi giáo xứ Cồn Cả được rước lễ lần đầu
PV Cồn Cả
12:54 05/09/2011
VINH - Hôm nay ngày 03 tháng 9 năm 2011, 208 em thuộc Giáo xứ Cồn Cả được Cha Quản xứ Antôn Nguyễn Văn Đính cho xưng tội và rước lễ lần đầu.
Xem hình ảnh
Đây là một biến cố quan trọng trong cuộc đời của các em. Chính vì vậy, các em đã được chuẩn bị hết sức kỹ lượng. Suốt gần ba tháng qua, các em đã được Quý Thầy, Quý Xơ tận tình dạy dỗ Giáo Lý và hướng dẫn cách xưng tội rước lễ. Trước khi được xưng tội và rước lễ, Cha quản xứ đã dành ba ngày để tĩnh tâm cho các em.
Trong bài giảng của thánh lễ hôm nay, một lần nữa Cha quản xứ giúp các em và cộng đoàn hiểu rõ hơn về Bí tích Giao Hòa và Bí tíchThánh Thể : sự cần thiết của Bí tích Giao Hòa; sự cao trọng của Bí Tích Thánh Thế. Ngài kêu gọi các bậc Cha Mẹ luôn quan tâm lo lắng cho các em về mọi phương diện. Đặc biệt Cha mẹ phải luôn làm gương sáng cho con cái trong đời sống đức tin, tiếp tục hướng dẫn các em để các em biết quý trọng Bí tích Giao Hòa và Bí tích Thánh Thể.
Được xưng tội rước lễ lần đầu là niềm vui lớn lao đối với các em. Điều này thể hiện trên từng khuôn mặt của các em, tâm tình của các em cuối thánh lễ cũng nói lên tất cả :
“Kính thưa Cha quản xứ, kính thưa cộng đoàn,
Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất của đời chúng con, vì hôm nay là lần đâu tiên chúng con được Chúa Cả Trời Đất ngự vào tâm hồn.
Chúng con xin chân thành cám ơn Cha Quản xứ, quý Thày, quý Xơ đã dạy dỗ và hướng dẫn chúng con biết xưng tội và lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng con ghi nhớ công ơn của Thầy Cô Giáo Lý Viên đã giảng dạy Giáo lý và chia sẻ đức tin cho chúng con trong suốt những năm qua. Chúng con biết ơn các Ban Nghành trong giáo xứ đã quan tâm khích lệ chúng con trong việc học Giáo lý.
Và trong ngày vui hôm nay, chúng con xin được nói lời tri ân Cha Mẹ đã sinh thành, dưỡng dục lo liệu cho chúng con được làm con cái Chúa, thúc giục chúng con đi học giáo lý. Và hôm nay Cha Mẹ đã dọn mình xưng tội để cầm tay dắt chúng con tới gặp Chúa Giêsu Thánh Thể. Những ngày vừa qua, hẳn Cha mẹ đã vất vả nhiều để chúng con được có bộ quần áo mới xứng đáng đến gặp Chúa Giêsu Thánh Thể.
Để luôn xứng đáng là thiếu nhi ngoan, chúng con xin hứa biết vâng lời Cha xứ, nghe theo sự hướng dẫn của quý Thầy quý Xơ, hiếu thảo với Cha mẹ ông bà, quý trọng tình bạn và luôn làm gương cho các em nhỏ. Chúng con sẽ gia nhập vào hội Thiếu Nhi Thánh Thể và Hội Con Đức Mẹ để có cơ hội rèn luyện bản thân và sống tốt hơn.
Một lần nữa chúng con xin cám ơn Cha quản xứ, cám ơn quý Thầy, quý Xơ, cám ơn Cha mẹ và cộng đoàn”.
Cũng trong dịp này (ngày 5 tháng 9), Cha Quản xứ đã dành thời gian tới dự lễ khai giảng năm học mới ở các trường Tiểu học và Trung học trong địa bàn của Giáo xứ và tặng quà cho 100 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Được biết, ngày bế giảng năm học vừa qua Cha Quản xứ đã tới trao phần thưởng cho gần 50 em học sinh giỏi tỉnh và huyện tại các trường này.
Món quà tuy ít, việc làm tuy nhỏ mọn nhưng thể hiện sự quan tâm của Cha Quản xứ đối với việc học của con em trong địa bàn Giáo xứ.
Tất cả những việc làm trên đây của Cha Quản xứ đều nhằm mục đích “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai.
Xem hình ảnh
Đây là một biến cố quan trọng trong cuộc đời của các em. Chính vì vậy, các em đã được chuẩn bị hết sức kỹ lượng. Suốt gần ba tháng qua, các em đã được Quý Thầy, Quý Xơ tận tình dạy dỗ Giáo Lý và hướng dẫn cách xưng tội rước lễ. Trước khi được xưng tội và rước lễ, Cha quản xứ đã dành ba ngày để tĩnh tâm cho các em.
Trong bài giảng của thánh lễ hôm nay, một lần nữa Cha quản xứ giúp các em và cộng đoàn hiểu rõ hơn về Bí tích Giao Hòa và Bí tíchThánh Thể : sự cần thiết của Bí tích Giao Hòa; sự cao trọng của Bí Tích Thánh Thế. Ngài kêu gọi các bậc Cha Mẹ luôn quan tâm lo lắng cho các em về mọi phương diện. Đặc biệt Cha mẹ phải luôn làm gương sáng cho con cái trong đời sống đức tin, tiếp tục hướng dẫn các em để các em biết quý trọng Bí tích Giao Hòa và Bí tích Thánh Thể.
Được xưng tội rước lễ lần đầu là niềm vui lớn lao đối với các em. Điều này thể hiện trên từng khuôn mặt của các em, tâm tình của các em cuối thánh lễ cũng nói lên tất cả :
“Kính thưa Cha quản xứ, kính thưa cộng đoàn,
Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất của đời chúng con, vì hôm nay là lần đâu tiên chúng con được Chúa Cả Trời Đất ngự vào tâm hồn.
Chúng con xin chân thành cám ơn Cha Quản xứ, quý Thày, quý Xơ đã dạy dỗ và hướng dẫn chúng con biết xưng tội và lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng con ghi nhớ công ơn của Thầy Cô Giáo Lý Viên đã giảng dạy Giáo lý và chia sẻ đức tin cho chúng con trong suốt những năm qua. Chúng con biết ơn các Ban Nghành trong giáo xứ đã quan tâm khích lệ chúng con trong việc học Giáo lý.
Và trong ngày vui hôm nay, chúng con xin được nói lời tri ân Cha Mẹ đã sinh thành, dưỡng dục lo liệu cho chúng con được làm con cái Chúa, thúc giục chúng con đi học giáo lý. Và hôm nay Cha Mẹ đã dọn mình xưng tội để cầm tay dắt chúng con tới gặp Chúa Giêsu Thánh Thể. Những ngày vừa qua, hẳn Cha mẹ đã vất vả nhiều để chúng con được có bộ quần áo mới xứng đáng đến gặp Chúa Giêsu Thánh Thể.
Để luôn xứng đáng là thiếu nhi ngoan, chúng con xin hứa biết vâng lời Cha xứ, nghe theo sự hướng dẫn của quý Thầy quý Xơ, hiếu thảo với Cha mẹ ông bà, quý trọng tình bạn và luôn làm gương cho các em nhỏ. Chúng con sẽ gia nhập vào hội Thiếu Nhi Thánh Thể và Hội Con Đức Mẹ để có cơ hội rèn luyện bản thân và sống tốt hơn.
Một lần nữa chúng con xin cám ơn Cha quản xứ, cám ơn quý Thầy, quý Xơ, cám ơn Cha mẹ và cộng đoàn”.
Cũng trong dịp này (ngày 5 tháng 9), Cha Quản xứ đã dành thời gian tới dự lễ khai giảng năm học mới ở các trường Tiểu học và Trung học trong địa bàn của Giáo xứ và tặng quà cho 100 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Được biết, ngày bế giảng năm học vừa qua Cha Quản xứ đã tới trao phần thưởng cho gần 50 em học sinh giỏi tỉnh và huyện tại các trường này.
Món quà tuy ít, việc làm tuy nhỏ mọn nhưng thể hiện sự quan tâm của Cha Quản xứ đối với việc học của con em trong địa bàn Giáo xứ.
Tất cả những việc làm trên đây của Cha Quản xứ đều nhằm mục đích “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai.
TGM Leopoldo Girelli thăm Giáo phận Đà Nẵng
Tôma Trương Văn Ân
14:40 05/09/2011
Đà Nẵng, Sáng ngày 5 / 9 / 2011 Đức TGM Leopodo Gerelli ( Đức TGM ), Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam và phái đoàn, được đoàn Đại diện Giáo phận Đà Nẵng đón rước từ TGM Huế vào thăm Giáo phận Đà Nẵng. 10 giờ, Ngài đã đến thăm Giáo xứ Phú Thượng, một trong những điểm truyền Giáo đầu tiên tại Giáo phận Đà Nẵng. ( cộng đoàn đức tin tại Phú thượng đã ra đời rất sớm, đầu thế kỷ thứ 17, khi các vị thừa sai dòng Tên đặt chân đến Cửa Hàn và Hội An vào ngày 18/01/1615. Sau đó, các linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris tiếp tục ổn định và phát triển trong những thế kỷ dài).
Xem hình ảnh
14 giờ, Ngài đã gặp gỡ thân tình các Linh Mục Đoàn Giáo phận sau đó là quý Nữ Tu tại TGM Đà Nẵng.
16 giờ đoàn Giáo dân khắp nơi trong Giáo phận đã tuôn về chật kín sân và tràn ra cả vỉa hè nhà thờ Chính tòa, trong yêu quý vâng phục Đức Thánh Cha Bênêdic XVI qua vị Đại diện của Ngài.
17 giờ, Cha Bonaventura Mai Thái, Trưởng Ban Phụng Vụ, Quản xứ Chính Tòa đọc tiểu sử của Đức TGM và mời gọi cộng đoàn dâng Thánh lễ, trong tinh thần Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông tuyền, mọi người được hiệp nhất trong Mẹ Hội Thánh. Tiếp đó, đoàn rước Đức TGM từ Tòa Giám Mục vào lễ đài trong sân nhà thờ Chính Tòa, tiếng vỗ tay chào đón của cộng đoàn vang cả khoảng trời.
ĐGM Giáo phận Đại diện cộng đoàn chào mừng Ngài, những bông hoa và món quà vị Đại diện Giáo xứ Chính Tòa dâng tặng, tỏ lòng yêu mến vâng phục Đức Thánh Cha của toàn Dân Chúa mà Ngài là vị Đại diện. Đáp từ, Ngài đã dành nhiều tình cảm đặc biệt với Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận Đà Nẵng.
Đã mấy ngày qua, chiều nào cũng đỗ cơn mưa, cũng vậy cơn mưa rào ập nhanh đến, lúc chuẩn bị khởi đầu Thánh lễ làm nhiều người ái ngại, vậy mà khi Cha Trưởng Phụng Vụ hỏi ý Đức TGM việc cần vào trong nhà thờ tiếp tục dâng Thánh Lễ, Ngài đã quyết định dâng Thánh Lễ trong trời mưa với sự hân hoan đồng lòng của Cộng đoàn Phụng Vụ.
Cùng dâng Thánh Lễ Tạ Ơn với Ngài, có ĐGM Giáo phận, ĐGM Fx Nguyễn Quang Sách ( nguyên GM Giáo phận Đà Nẵng ) và Linh Mục Đoàn Giáo phận.
Trong phần chia sẻ sau Lời Chúa, Ngài cảm tạ Thiên Chúa và cầu nguyện cho sự hiệp nhất qua sự hiện diện Đại diện Đức Thánh Cha, Ngài cũng cám ơn ĐGM Giuse, GM Giáo phận và ĐGM Fx đang nghĩ hưu. Ngài cho biết Đức Thánh Cha quan tâm đặc biệt đến Giáo Hội Việt Nam, luôn để ý cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam. Tiếp đó, Ngài dùng lời Chúa mời gọi người Ki Tô hữu, ngoài việc sống theo luật dân sự như mọi người còn phải tuân theo luật Chúa là Chân Lý muôn đời, là ân sủng trong Đức Kito Giêsu, là kính yêu Chúa và yêu người thân cận. Ngài mời gọi mọi Tín hữu hãy giữ thân mật, bước theo Chúa cách gắn bó. Ngài quan tâm đến công cuộc truyền Giáo của Giáo phận, đến quý Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Giáo Lý Viên và tất cả cộng đoàn. Để kết thúc phần chia sẻ, Ngài đã xin Đức Mẹ La Vang, Á Thánh Anre Phú Yên, các Thánh Tử Đạo Việt Nam che chở cho tất cả.
Cơn mưa đã tạnh, Thánh lễ được tiếp tục khi tiếng La Tinh, lúc tiếng Việt, có lúc lại tiếng Anh. Như phần nào nói lên Hội Thánh hiệp nhất không phân biệt dân tộc, quốc gia, ngôn ngữ trong Thánh Thần Thiên Chúa.
Một điều đặc biệt, Ngài đã trao Mình Thánh Chúa cho 46 vị Đại diện 46 Giáo xứ trong Giáo phận, đây là một góc độ cho thấy sự hiệp nhất từ Đức Thánh Cha đến từng Giáo hữu Giáo hội địa phương, trong một tấm bánh, một Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô.
Trước lúc kết thúc Thánh lễ, các Tập sinh của dòng Phao Lô với đuốc sáng trong tay và nhiều cử điệu đầy ý nghĩa hoạt vũ bài hát Kinh Hòa Bình của Thánh Fr Assisi. Cha Mai Thái cám ơn Đức TGM Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. ĐGM Giáo phận, ĐGM Fx, quý Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Chính Quyền, tất cả các đoàn thể đã chung tay cộng tác cho buổi đón, Lễ được thành công tốt đẹp.
Kết lễ, Đức TGM và ĐGM Giáo phận đã chụp hình lưu niệm với Linh Mục đoàn, Tu Sĩ, các đoàn thể và cộng đoàn Giáo dân.
Sau Lễ. Đức TGM, ĐGM Giáo phận, quý Cha, quý Nữ Tu và hơn 500 khách của các đoàn thể cộng tác trong buổi lễ và các vị Đại diện các Giáo xứ, đã dùng cơm tối trong tình yêu thương hiệp nhất tại hội trường tràn ra cả hành lang và sân của nhà thờ Chính Tòa.
19 giờ 30: Đức TGM và ĐGM Giáo phận trong bộ Quốc Phục Việt Nam, áo dài khăn đóng đã gặp gỡ Giáo dân. Ngài rất vui khi mang bộ Quốc Phục này, thấy gần gũi như ở trong nhà Anh Chị Em, qua đó Ngài cũng ước nguyện ở lại lâu dài với ACE. Ngài tâm tình: “ cho dù chưa thường trú tại Việt Nam, nhưng đã cảm nhận Giáo Hội Việt Nam thường trú trong tim Tôi “
Cha Giuse Vũ Dần, Cha Marcello Đoàn Minh đã giới thiệu và chuyển ngữ lời của các vị Đại diện gia đình trẻ, Ban Đại Diện Giáo xứ, Tông Đồ Khuyết Tật, Giới trẻ, nêu tâm tư nguyện vọng của mọi thành phần Dân Chúa lên Đức TGM. Ngài cũng ân cần quý mến chia sẻ mọi khúc mắc cho từng người. Ngài cũng mời gọi mọi người có mặt tự do phát biểu ý kiến của mình để Ngài giải đáp. Những tràn pháo tay vui mừng và biết ơn của cộng đoàn với từng lời thấu tình đạt ý của Ngài.
21 giờ, kết thúc, một lần nữa, những người tham dự lại vây kín Ngài để ghi hình lưu niệm.
ngày mai, 6 / 9 / 2011, Ngài sẽ dâng Thánh Lễ tại Dòng Thánh Phao Lô, thăm UBND Thành phố Đà Nẵng, thăm trung tâm Mục Vụ và các Chủng Sinh, thăm Giáo xứ Hội An ( Một trong các Giáo điểm truyền Giáo đầu tiên tại Đà Nẵng), viếng đền Thánh An Rê Phú Yên Phước Kiều, thăm UBND huyện Duy Xuyên, và cuối cùng dâng Thánh Lễ tại Trà Kiệu.
Xem hình ảnh
14 giờ, Ngài đã gặp gỡ thân tình các Linh Mục Đoàn Giáo phận sau đó là quý Nữ Tu tại TGM Đà Nẵng.
16 giờ đoàn Giáo dân khắp nơi trong Giáo phận đã tuôn về chật kín sân và tràn ra cả vỉa hè nhà thờ Chính tòa, trong yêu quý vâng phục Đức Thánh Cha Bênêdic XVI qua vị Đại diện của Ngài.
17 giờ, Cha Bonaventura Mai Thái, Trưởng Ban Phụng Vụ, Quản xứ Chính Tòa đọc tiểu sử của Đức TGM và mời gọi cộng đoàn dâng Thánh lễ, trong tinh thần Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông tuyền, mọi người được hiệp nhất trong Mẹ Hội Thánh. Tiếp đó, đoàn rước Đức TGM từ Tòa Giám Mục vào lễ đài trong sân nhà thờ Chính Tòa, tiếng vỗ tay chào đón của cộng đoàn vang cả khoảng trời.
ĐGM Giáo phận Đại diện cộng đoàn chào mừng Ngài, những bông hoa và món quà vị Đại diện Giáo xứ Chính Tòa dâng tặng, tỏ lòng yêu mến vâng phục Đức Thánh Cha của toàn Dân Chúa mà Ngài là vị Đại diện. Đáp từ, Ngài đã dành nhiều tình cảm đặc biệt với Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận Đà Nẵng.
Đã mấy ngày qua, chiều nào cũng đỗ cơn mưa, cũng vậy cơn mưa rào ập nhanh đến, lúc chuẩn bị khởi đầu Thánh lễ làm nhiều người ái ngại, vậy mà khi Cha Trưởng Phụng Vụ hỏi ý Đức TGM việc cần vào trong nhà thờ tiếp tục dâng Thánh Lễ, Ngài đã quyết định dâng Thánh Lễ trong trời mưa với sự hân hoan đồng lòng của Cộng đoàn Phụng Vụ.
Cùng dâng Thánh Lễ Tạ Ơn với Ngài, có ĐGM Giáo phận, ĐGM Fx Nguyễn Quang Sách ( nguyên GM Giáo phận Đà Nẵng ) và Linh Mục Đoàn Giáo phận.
Trong phần chia sẻ sau Lời Chúa, Ngài cảm tạ Thiên Chúa và cầu nguyện cho sự hiệp nhất qua sự hiện diện Đại diện Đức Thánh Cha, Ngài cũng cám ơn ĐGM Giuse, GM Giáo phận và ĐGM Fx đang nghĩ hưu. Ngài cho biết Đức Thánh Cha quan tâm đặc biệt đến Giáo Hội Việt Nam, luôn để ý cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam. Tiếp đó, Ngài dùng lời Chúa mời gọi người Ki Tô hữu, ngoài việc sống theo luật dân sự như mọi người còn phải tuân theo luật Chúa là Chân Lý muôn đời, là ân sủng trong Đức Kito Giêsu, là kính yêu Chúa và yêu người thân cận. Ngài mời gọi mọi Tín hữu hãy giữ thân mật, bước theo Chúa cách gắn bó. Ngài quan tâm đến công cuộc truyền Giáo của Giáo phận, đến quý Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Giáo Lý Viên và tất cả cộng đoàn. Để kết thúc phần chia sẻ, Ngài đã xin Đức Mẹ La Vang, Á Thánh Anre Phú Yên, các Thánh Tử Đạo Việt Nam che chở cho tất cả.
Cơn mưa đã tạnh, Thánh lễ được tiếp tục khi tiếng La Tinh, lúc tiếng Việt, có lúc lại tiếng Anh. Như phần nào nói lên Hội Thánh hiệp nhất không phân biệt dân tộc, quốc gia, ngôn ngữ trong Thánh Thần Thiên Chúa.
Một điều đặc biệt, Ngài đã trao Mình Thánh Chúa cho 46 vị Đại diện 46 Giáo xứ trong Giáo phận, đây là một góc độ cho thấy sự hiệp nhất từ Đức Thánh Cha đến từng Giáo hữu Giáo hội địa phương, trong một tấm bánh, một Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô.
Trước lúc kết thúc Thánh lễ, các Tập sinh của dòng Phao Lô với đuốc sáng trong tay và nhiều cử điệu đầy ý nghĩa hoạt vũ bài hát Kinh Hòa Bình của Thánh Fr Assisi. Cha Mai Thái cám ơn Đức TGM Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. ĐGM Giáo phận, ĐGM Fx, quý Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Chính Quyền, tất cả các đoàn thể đã chung tay cộng tác cho buổi đón, Lễ được thành công tốt đẹp.
Kết lễ, Đức TGM và ĐGM Giáo phận đã chụp hình lưu niệm với Linh Mục đoàn, Tu Sĩ, các đoàn thể và cộng đoàn Giáo dân.
Sau Lễ. Đức TGM, ĐGM Giáo phận, quý Cha, quý Nữ Tu và hơn 500 khách của các đoàn thể cộng tác trong buổi lễ và các vị Đại diện các Giáo xứ, đã dùng cơm tối trong tình yêu thương hiệp nhất tại hội trường tràn ra cả hành lang và sân của nhà thờ Chính Tòa.
19 giờ 30: Đức TGM và ĐGM Giáo phận trong bộ Quốc Phục Việt Nam, áo dài khăn đóng đã gặp gỡ Giáo dân. Ngài rất vui khi mang bộ Quốc Phục này, thấy gần gũi như ở trong nhà Anh Chị Em, qua đó Ngài cũng ước nguyện ở lại lâu dài với ACE. Ngài tâm tình: “ cho dù chưa thường trú tại Việt Nam, nhưng đã cảm nhận Giáo Hội Việt Nam thường trú trong tim Tôi “
Cha Giuse Vũ Dần, Cha Marcello Đoàn Minh đã giới thiệu và chuyển ngữ lời của các vị Đại diện gia đình trẻ, Ban Đại Diện Giáo xứ, Tông Đồ Khuyết Tật, Giới trẻ, nêu tâm tư nguyện vọng của mọi thành phần Dân Chúa lên Đức TGM. Ngài cũng ân cần quý mến chia sẻ mọi khúc mắc cho từng người. Ngài cũng mời gọi mọi người có mặt tự do phát biểu ý kiến của mình để Ngài giải đáp. Những tràn pháo tay vui mừng và biết ơn của cộng đoàn với từng lời thấu tình đạt ý của Ngài.
21 giờ, kết thúc, một lần nữa, những người tham dự lại vây kín Ngài để ghi hình lưu niệm.
ngày mai, 6 / 9 / 2011, Ngài sẽ dâng Thánh Lễ tại Dòng Thánh Phao Lô, thăm UBND Thành phố Đà Nẵng, thăm trung tâm Mục Vụ và các Chủng Sinh, thăm Giáo xứ Hội An ( Một trong các Giáo điểm truyền Giáo đầu tiên tại Đà Nẵng), viếng đền Thánh An Rê Phú Yên Phước Kiều, thăm UBND huyện Duy Xuyên, và cuối cùng dâng Thánh Lễ tại Trà Kiệu.
Văn Hóa
Ký sự: Bên Đường Thiên Lý
Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
10:07 05/09/2011
BÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ
TỰ BẠCH
Bạn thân mến,
Tập ký sự “BÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ” ra mắt bạn đọc như một tặng phẩm tinh thần tới người thân. Vì thế, nó cần được sự bao dung của độc giả khi đọc nó dưới góc độ chuyên môn hoặc nghiên cứu. Trong suốt hành trình bốn mươi lăm ngày trên đất Hoa Kỳ, chúng tôi đã được đón nhận bao ân huệ: Ân huệ từ trời và ân huệ từ con người. Chúng tôi trân trọng ghi ơn quý Linh mục, tu sĩ, giáo dân, thân nhân và bạn hữu đã giúp chúng tôi về tinh thần và vật chất để có được một chuyến đi giàu cảm xúc.
Những tư liệu trong tập ký sự này là tích hợp đa dạng tin tức: Từ quan sát thực tế bên đường đến thông tin báo chí và chuyển tải trên mạng Internet. Chúng tôi xin lỗi vì không thể trích dẫn tác giả chính xác như một tài liệu biên khảo. Nó phản ánh một góc độ hẹp, một cách nhìn hạn chế so với cuộc sống sôi động muôn nẻo ngàn trùng.
Xin mạnh dạn trao gửi tới tay bạn đọc món quà này mong phần nào thể hiện được tấm lòng đồng điệu tri âm.
Linh mục Phêrô Hồng Phúc.
BÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ
(ký sự)
HÀ NỘI –TAIPE
Thời gian thấm thoát trôi qua, đã sáu năm kể từ năm 2005, năm mà mười anh em linh mục chúng tôi lên đường đi Rôma. Lần này, chỉ có ba anh em trẻ linh mục chúng tôi sang Mỹ. Bốn cha già trong đoàn năm đó nay đã ngoài bẩy mươi, ba cha chưa có cơ hội. Tôi và cha Antôn Phan Văn Tự, quản lý Toà Giám mục Phát Diệm, Cha Antôn Đoàn Minh Hải, chính xứ Cồn Thoi lên đường vào ngày 15 / 07/ 2011. Chương trình viếng thăm Hoa Kỳ 45 ngày được Đức cha giáo phận cho phép, cha văn phòng đã giúp chúng tôi hoàn tất những thủ tục ban đầu. Chương trình tiếp theo tại Mỹ đã được hai cha Phêrô Trần Quang Đức và Phêrô Mai Văn Vọng lên kế hoạch chi tiết. Chúng tôi khởi hành từ sân bay Nội Bài – Hà Nội đáp xuống sân bay TPE-TAIPEI thuộc TAIWAN (Đài Loan) rồi tiếp tục bay sang California, đáp xuống sân bay Los-Angeles miền nam California, nơi cha Phêrô Trần Quang Đức du học, ngày về sẽ từ sân bay San-Francisco miền bắc California, nơi cha Phêrô Mai Văn Vọng du học. Chúng tôi sẽ có cơ hội đi thêm một vài tiểu bang nữa trong số 50 tiểu bang thuộc Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ (U.S.A.). Nhìn bao quát như thế, thì đây chỉ là một chuyến du lịch “Cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi, nhưng là một cuộc “cưỡi ngựa thánh Gióng”, nghĩa là ngựa có thể bay lên trời được! Chuyến đi hứa hẹn nhiều điều ngoạn mục và bổ ích.
Xe hơi đưa chúng tôi qua cầu vượt nối liền từ Pháp Vân tới đường cao tốc đi sân bay Nội Bài, công trình đang trong giai đoạn hoàn thiện. Đó là sự thay đổi lớn về giao thông đường bộ ở Việt Nam so với sáu năm về trước. Khi đó chúng tôi phải len lỏi qua những khu phố đông dân cư Hà Nội để tới được đường cao tốc đến Nội Bài. Không có gì khó khăn khi chúng tôi làm thủ tục xuất cảnh. Chuyến bay quốc tế cũng xuất phát đúng giờ quy định và hạ cánh an toàn tại TEI-TAIPEI. Hãng hàng không Đài Loan phục vụ rất tốt trong chuyến đi. Chúng tôi hiểu tại sao có hai ông bà kia từ Saigon ra Hà Nội để bay sang Mỹ, vì theo ông nói, hãng máy bay này có bảng và cả người chỉ đường chu đáo mỗi khi phải chuyển máy bay tại các phi trường trung gian. Tôi cũng vừa hiểu ra tại sao số máy bay của chúng tôi từ Hà Nội đi TAIPEI là 792 và từ TAIPEI đi LOS ANGELES là 006 lại đều ghi hãng quốc gia là CI. Vì là hãng hàng không CHINA AIRLINE. Nếu viết tắt hai chữ đầu là CA thì sẽ bị lẫn với California là tiểu bang của Mỹ, nên CI là chữ viết tắt của hãng hàng không Đài Loan CHINA AIRLINE.
TPE-TAIPEI
Sau ba giờ bay, chúng tôi hạ cánh tại phi trường TPE-TAIPEI. Những mong có dịp nhìn bao quát một góc đảo Đài Loan, nhưng chúng tôi đã lầm. Kiến trúc hành lang của phi trường vừa sang trọng, vừa hiện đại và khép kín tới mức không ai có thể nhìn ra bên ngoài. Phòng đợi rộng rãi, với những gian hàng trưng bày các tác phẩm thủ công mỹ nghệ vừa tạo một không gian nghệ thuật, vừa rực rỡ những sắc mầu ấm áp phù hợp với lối đi trải thảm sạch sẽ sâu hút tầm nhìn. Chúng tôi theo bảng chỉ dẫn, đến một phòng có hành lang khá rộng, một số người đang đứng trước một khung cửa kính trong tư thế sẵn sàng, phía sau họ là một xe lăn có người tàn tật đang ngồi phía góc cuối. Tôi vừa bước vào chưa kịp quan sát thì bỗng cả hành lang này chuyển động. Thì ra đó là một xe điện được thiết kế mặt sàn xe vừa bằng với nền nhà, xe lăn dễ dàng sang ngang như đi từ trong nhà ra hành lang. Xe đi êm và nhanh đến nỗi cha Phan Văn Tự mới chỉ kịp ngó đầu mà chân chưa kịp bước vào xe, cha Đoàn Minh Hải phía sau cha Tự chưa kịp phản ứng gì thì xe đã biến mất trong tầm mắt! Rất may là từ chuyến đi thăm Rôma lần trước, chúng tôi đã có quy ước với nhau là nếu lên xe điện, xe bus… mà bị xé đoàn, thì ai đến ga phía trước sẽ dừng lại chờ người đến sau. Một quy ước ở Ý mà sáu năm rồi nay mới có dịp thực hiện tại Đài Loan!
Chuyến bay vượt Thái Bình Dương nối kết Đông – Tây của chúng tôi đã bắt đầu hồi 16h30 ngày 15/07/2011. Mọi thông báo trong chuyến bay được phát đi bằng hai ngôn ngữ chính là tiếng Đài Loan và tiếng Anh. Trong những thông báo quan trọng có thêm tiếng Việt Nam, chứng tỏ cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại đã và đang ngày càng được chú trọng hơn. Chúng tôi rất xúc động khi nghe thông báo: “Máy bay hiện đang bay qua vùng nhiễm phóng xạ, xin quý khách hạ tấm chắn cửa sổ và tạm thời không đi vệ sinh trong thời gian này”. Tôi bùi ngùi nhớ tới nạn động đất và sóng thần ngày 11/03/2011 vừa qua tại Nhật Bản, 12 ngàn người chết và 15 ngàn người bị mất tích, bốn trong số sáu lò phản ứng hạt nhân nguyên tử tại nhà máy điện nguyên tử Fukushima Daiichi ở tỉnh Fukushima bị phá huỷ. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3 vừa qua có thể gây thiệt hại lên tới 235 tỷ USD. Điều tệ hại hơn nữa là ngay từ ngày 12/03/2011, theo nhà khoa học người Pháp, ông Andre-Claude Lacoste đã nói: “Hướng gió hiện giờ có thể sẽ phát tán chất phóng xạ về phía Thái Bình Dương, tình huống này rất nghiêm trọng". Và thông báo hôm nay đang xác nhận điều đó. Tôi thầm lặng lần hạt Mân côi, cầu nguyện cho nước Nhật Bản đau thương và cách riêng là những nạn nhân đáng thương trong trận động đất kinh hoàng này. Liếc nhìn sang người ngồi ghế bên cạnh là cha Phan Văn Tự, tôi cũng thấy cha đang lần tràng hạt trên tay…
Trang bị ghế ngồi trên máy bay rất đầy đủ. Ghế máy bay được chế tạo bằng chất liệu đặc biệt, có thể chịu được 5 phút ở nhiệt độ 1000oC. Giả thiết máy bay bị cháy thì thời gian đó đủ để hành khách rời ghế, chạy tới cửa thoát hiểm. Gầm ghế có ngăn đựng áo phao cho từng hành khách phòng khi máy bay gặp trường hợp khẩn cấp, tay ghế lắp bộ điều khiển để hành khách có thể tự chọn các chương trình video khác nhau, phục vụ hành khách trên màn hình nhỏ gắn ngay sau mỗi ghế phía trước. Nhờ màn hình này, tôi quan sát được máy bay đang di chuyển từ sân bay TPE-TAIPEI đến LAX - LOS ANGELES dọc theo ven biển Thái Bình Dương. Máy bay đã bay ngang qua quần đảo Hawaii tiểu bang thứ 50, tiểu bang cuối cùng của Mỹ, trung tâm tiểu bang là Honolulu trong đó có đảo Molokai, bất giác tôi nhớ lại câu chuyện: “Cha Damien tông đồ người hủi” với bao những chi tiết cảm động về một cha Thừa sai người Pháp đã tình nguyện ra quần đảo Honolunu để chung sống, phục vụ và chết với những người bệnh phong cùi tại đảo Monokai. Tên của quần đảo hiện lên như trang sử hào hùng về một tấm gương bác ái, hy sinh quên mình của cha Damien, vị thừa sai đã noi gương Chúa Giêsu để hiến mạng sống mình vì những người bệnh phong. Đắm mình trong những hồi ức, tôi như đang được cúi xuống gặp gỡ cha Damien, tay tôi giơ ra nâng tràng hạt Mân côi như một cử chỉ thân thiện được bắt tay cha Damien đáng kính.
Máy bay đã tiếp cận châu Mỹ. Tôi theo dõi trên màn hình hiện sóng thấy độ cao máy bay vượt trên 11000km, nhiệt độ bên ngoài xuống tới -57¬o¬C. Đường bay phải bay vòng lên phía bắc để xuống phía nam California. Tuy nhiên khi hạ cánh xuống sân bay, nhiệt độ bên ngoài chỉ 19oC, nhiệt độ lý tưởng như một máy điều hoà khổng lồ dành cho miền tây nam Mỹ. Chúng tôi đặt những bước chân đầu tiên lên nước Mỹ.
LOS ANGELES
Một thế giới văn minh vật chất hiện ra trước mắt chúng tôi. Phi trường rộng lớn về không gian, nhưng nhất là về văn minh hiện đại và khoa học kỹ thuật nữa. Khi đi trả lời phỏng vấn xin cấp Visa nhập cảnh Mỹ phải in vân tay, soi diện mặt thế nào, thì thủ tục nhập cảnh cũng phải một lập trình như vậy. Đấy là chưa kể tờ khai xem bạn có mang hạt giống, cây giống hay thực phẩm gì vào nước Mỹ không? Người ta phòng ngừa sâu bệnh, virút gây bệnh cũng như đề phòng gian lận như thế đó.
Cha Phêrô Trần Quang Đức đã đợi từ một tiếng đồng hồ trước đó để đón chúng tôi tại sân bay. Cứ ngỡ như đẩy xe tay dọc thành phố hồi lâu rồi mà tới khi lên xe hơi mới biết chúng tôi chưa ra khỏi khu vực sân bay. Một công trình kiến trúc khác lạ hiện ra trước mắt chúng tôi. Không phải tháp nước, không phải dome (mái tròn) nhà, mà là cấu trúc kết hợp cả hai. Hỏi ra mới biết đó là quán cà-phê của phi trường Lax-Los Angeles. Ngồi từ tầng hai của lầu quán Cà-phê này, người ta có thể quan sát rõ cứ đúng một phút lại có một chuyến bay hạ cánh hoặc cất cánh nhịp nhàng. Thấy chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, cha Đức cho biết thêm, là tại phi trường Atlanta, còn lên tới 4 chuyến trên một phút nữa. Đúng là một thế giới giao lưu qua đường hàng không !
Chúng tôi chạy dọc theo xa lộ 405 mà dân chúng Mỹ gọi là freeway 405 – phải kết hợp cả tính năng của đường cao tốc và đường vành đai ở Việt Nam thì mới hiểu được freeway là gì. Thông thường là tám làn xe xuôi ngược trên đường này, ở những đoạn rộng hơn còn có thêm hai làn đường dành riêng cho xe chở từ hai người trở lên. Quy định như thế để nhà nước khuyến khích đi đông người trên một xe nhằm giảm bớt số lượng xe lưu hành trên các trục giao thông. Mặc dù thế, chúng tôi quan sát hầu hết đều là xe riêng của mỗi người tự lái. Chúng tôi đã gặp thấy cụ bà 84 tuổi vẫn tỉnh táo tự ngồi lái xe, tay điều khiển vô-lăng nhẹ nhàng như các cụ già cầm quạt nan phe phẩy ở Việt Nam.
Công việc đầu tiên của chúng tôi là điện thoại về nhà báo tin bình an. Nắng chiều còn rất cao nhưng đã là 16h30 ngày 15/07/2011, giờ Los Angeles tương ứng với 6h30 ngày 16/07/2011, giờ Việt Nam. Vào giờ này ở Việt Nam đã bắt đầu làm việc nhưng ở Mỹ thì khác. Thông thường giờ hành chính tại Mỹ là 8h đến 17h, không có khái niệm nghỉ trưa. Vào mùa hè như hiện nay thì 20h30 mặt trời mới xế bóng. Chúng tôi gọi điện thoại về cha văn phòng và nối liên lạc được với Đức cha. Tiếng nói thân thương của Đức cha Giuse Nguyễn Năng từ Việt Nam chúc mừng chúng tôi tới Mỹ bình an và rất ngắn gọn chúc chúng tôi hai chữ “thích nghi”. Chúng tôi vui mừng tạ ơn Chúa và phấn khởi tiến về phía trước. Việt Nam và Los Angeles cách nhau hơn 16.000km tương đương với 10.000 dặm (mile = 1,61 km) đúng như người ta vẫn nói: “Đường xa vạn dặm”. Không gian Đông – Tây xa cách, thời gian cũng cách nhau 14 tiếng. Chúng tôi có hai ngày 15/07 vì khởi hành 11h35’ ngày 15/07 giờ Việt Nam, khi tới Los Angeles là 14h5’ giờ Los Angeles cũng vẫn ngày 15/07/2011. Chúng tôi được nghỉ hẳn một ngày Kinh Phụng vụ !
Xe chúng tôi chạy với vận tốc trung bình tại đây là 100km/h. Nhiệt độ lý tưởng mà không khí cũng trong lành lý tưởng. Không gian thoáng đãng không nhìn thấy vẩn bụi, ánh nắng vàng nhạt lúc nào cũng như khoảnh khắc bình minh ngắn ngủi tại Việt Nam. Suốt dọc đường không thấy xuất hiện một chiếc xe máy nào, cũng không có cột mốc km chỉ đường mà chỉ có bảng chỉ đường ghi rõ đường về hướng đông, tây hoặc nam bắc của thành phố. Người ta tính khoảng cách quãng đường bằng thời gian xe đi mất bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ. Không có tiếng còi xe suốt đêm ngày, không có cảnh sát dọc đường nhưng nếu ai lỗi luật giao thông thì lập tức đã thấy cảnh sát xuất hiện, hoặc sẽ có giấy báo phạt tiền đến tận nhà. Hệ thống đèn giao thông báo hiệu tự động suốt ngày, đêm. Mỗi khi xe hơi dừng chờ đúng vạch quy định, lập tức đèn laze quét tín hiệu lệnh cho hệ thống đèn hiệu làm việc.
Chúng tôi đi vào thành phố. Những mái nhà xinh xắn nhưng mái thấp như làng quê Việt Nam. Toàn bang California rộng lớn này đều xây nhà trên một nền móng bê-tông sắt thép rất kiên cố, lớp móng này đổ theo hình thức móng bè sử dụng tới phi sắt 22 làm cốt. Người ta rất chú trọng tới việc chống động đất và đây là một phương pháp tốt nhất. Những ngôi nhà cao tầng thì sử dụng xà bằng sắt, các căn nhà phổ thông thường dựng gỗ thành tường. Công nghệ làm tường rất kỹ thuật. Người ta dùng gỗ thông xẻ mỏng để dựng nghiêng với bề dày từ 10cm tới 30cm tuỳ theo diện tích sử dụng và lối kiến trúc của ngôi nhà. Khoảng trống đó được lấp đầy bằng một chất xốp chống nóng gọi là insulation (chống nhiệt), dán bao phủ bằng một lớp chống âm gọi là Sheetrock để tiếng ồn không thể lọt vào trong phòng, kế đến là một lớp lưới thép nhỏ để trên đó trát lớp bên ngoài cùng gọi là stucco (nhẹ như thạch cao), lớp này gồm xi-măng và bột hoà trộn với mầu để phun lên thành tường nhà hoàn chỉnh. Mái gỗ lợp bằng một thứ giấy nện vừa mỏng vừa có độ bền cao. Sở dĩ làm nhà thấp và vật liệu gỗ nhẹ là để tránh động đất. Khí hậu khô mát ở đây cho phép thiết kế như vậy. Cũng chính vì khí hậu tốt lành này mà người ta dựng cột điện toàn bằng gỗ thông. Những cây thông thẳng tắp được xử lý công nghệ hoá chất để trở thành cột điện hàng trăm năm vẫn tốt nguyên như ban đầu. Tuy nhiên, vì là nhà gỗ, cột điện gỗ nên công tác cứu hoả ở đây được chú trọng tối ưu. Suốt các hè phố đều có những van nước đặc biệt được chia đều theo khoảng cách và chỉ dùng cho việc cứu hoả. Ngay lề đường cũng có nhiều điểm viết rõ NO PARKING/FIRE LINE AT ANY TIME nghĩa là NHỮNG CHỖ ĐẬU CHỈ DÀNH RIÊNG CHO XE CỨU HOẢ. Lề đường cũng được quy định cho chiều cao một kích thước đồng bộ, để khắp nơi khi ôtô đỗ sát vỉa hè, thì cửa xe hơi vẫn mở ra hè phố một cách bình thường. Thiết kế đơn giản này cũng đòi hỏi một kỹ thuật tương đối chuẩn về độ phẳng mặt đường.
Chúng tôi đã nhìn thấy xe hơi chết máy dọc đường. Điều này cũng là rất bình thường, nhưng đáng nói là cách ứng xử của cư dân. Người tài xế có nhu cầu xin giúp đỡ, mọi người đều thân ái từ hai ba xe gần đó chạy đến giúp đẩy xe gài số. Không ai bình luận chê cười, càng không có người khoanh tay bàng quan đứng nhìn.
Xe rẽ vào khu dân cư, đây là những mái nhà yên tĩnh ẩn sau những cây cảnh, những khóm hoa rực rỡ. Mặt đường nhựa mịn sáng lúc nào cũng sạch bóng và mở rộng như sân riêng của mỗi căn nhà. Nghe nói cứ ba năm một lần, người ta lại phủ lên một lớp nhựa vì thế mặt đường mới luôn sáng bóng được như vậy. Đất ở đây mầu mỡ như một quà tặng của thiên nhiên. Trồng cấy loại cây gì cũng xanh tốt, ghép giống gì cũng thành công. Chúng tôi say mê nhìn ngắm những cây thông, cây tùng cổ thụ vươn mình vào không gian cao vút dọc hai đường phố. Chúng tôi cũng ngạc nhiên thấy những cây táo Trung Quốc, lê Trung Quốc, thanh long, bưởi Việt Nam, ổi, bí ngô Nhật Bản, ổi Thái Lan, bầu Italia, đu đủ Hawaii, na Úc …xanh tươi và trĩu quả dưới bầu trời California. Người ta xử lý cỏ dại ở những diện tích nhỏ dọc đường phố, trong vườn cảnh hoặc vườn nhà bằng cách trải nylon dưới lớp đất thấp, khoét lỗ cấy cây đã lựa chọn, rồi phủ lớp đất mầu lên trên. Lớp đất mầu này chủ yếu được xay từ các cây cổ thụ, từ thân mục tới cành lá các loại, từ các rác thải đã được phân loại…Những căn hộ ít diện tích thường cấy cây trong thùng nhựa lớn có chứa đất mầu này.
Xe đi vào sân nhà liền sát với gara. Đây là những khu nhà nhập cư Mỹ từ hàng chục năm trở lên. Họ thường chọn khu yên tĩnh xa trục đường chính nên rộng đất hơn để xe có thể đỗ tại sân riêng của gia đình. Mỗi nhà một hai xe là chuyện bình thường. Các gia đình mới nhập cư thường lại thích chọn nhà mặt đường theo quan niệm thương mại Việt Nam. Trên đường tới đây, vì vào giờ nghỉ hành chính của Mỹ, chúng tôi đã thấy cả hàng xe thẳng tắp đỗ ven đường. Đó là xe của mỗi nhà đỗ trước cửa nhà mình. Chúng tôi chợt hiểu ra tại sao người nhập cư lâu năm lại chọn khu đất rộng xa mặt đường.
Người ta nói Mỹ là nước thực dụng, nhưng “Trăm nghe không bằng một thấy”. Giờ thì chúng tôi thấy rõ khi vừa bước chân vào trong nhà. Dưới mái nhà yên tĩnh nhìn từ bên ngoài, là cả một thế giới đồ sộ bên trong và đầy đủ tiện nghi. Mỗi người một xe hơi, một computer phổ thông như mỗi người một xe máy, một đồng hồ ở Việt Nam. Người dân sống dưới sự phong toả của pháp luật mà cũng là hưởng quyền lợi từ pháp luật. Họ phải đóng tới 20%, cao nhất có thể tới 35% thuế lợi tức, nhưng khi về già thì họ lại được hưởng lại theo tiêu chuẩn tiền chu cấp cho người già. Từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, ai neo đơn, ốm yếu, nếu có đề nghị, nhà nước tới phỏng vấn rồi cho người tới giúp. Trường hợp quá khó khăn thì tiền công người giúp do nhà nước trả. Người già cũng được khuyến khích theo học lớp dạy vi tính miễn phí. Xe quét rác đường cũng trích lương từ thuế người dân đã đóng, nhưng ngày thông báo quét rác, ai không thường trực chuyển xe thoáng chỗ cho xe quét rác sẽ bị phạt mỗi xe tới 45 USD.
Giờ phút gặp mặt người thân bao giờ cũng cảm động. Những nét mặt vui tươi, những phong thái rất Việt Nam: tình cảm mặn nồng, tíu tít hỏi thăm quê hương, nhắc lại những kỷ niệm hồi thơ ấu, nhắc nhớ những phong tục, tập quán, những món đặc sản quê hương…Có một bà đã tâm sự:
- Hồi đầu sang đây “Lạ nước lạ cái”. Trong nhà cháu thì đi học, cháu thì đi làm, chiều một mình ở nhà chẳng biết làm gì buồn ơi là buồn !
Một ông kể lại cách tự nhiên:
- Mười tám năm trước đây, khi vừa sang “ngố” hết sức. Mấy tháng sau học biết lái xe, lái xe ra đường bị cảnh sát chặn lại cảnh cáo: “mày lái xe như vậy thì chết hết hả”
Một cụ già tâm sự:
- Lần đầu tiên nhận được thư từ quê hương, đọc thấy hai chữ Lưu Phương tôi oà khóc đấy.
......
Bây giờ thì mọi sự đã ổn định và đang trên đà phát triển. Cộng đồng người Việt Nam tại đây đã có những khu kinh tế mang tên như SAIGON CITY, LITTLE SAIGON (Saigon thu nhỏ) PHƯỚC LỘC THỌ… Người Việt Nam đến đây mua bán, sinh hoạt cộng đồng cảm giác như ở quê hương vì ngôn ngữ, phong tục tập quán, các mặt hàng đều mang phong thái rất Việt Nam.
Gia đình thân chủ mà cha Trần Quang Đức sắp xếp cho chúng tôi trú ngụ trong thời gian hai tuần ở nam California là gia đình quê hương giáo phận Phát Diệm. Tối đầu tiên trên đất Mỹ, vừa bước chân vào nhà, chúng tôi đã gặp một số cặp gia đình Việt Nam. Họ đến đây không phải để đón chúng tôi, nhưng là để sinh hoạt theo lịch sinh hoạt bình thường của chương trình “Thăng tiến Hôn nhân Gia đình”. Chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng tham dự giờ chia sẻ với họ. Những kinh nghiệm đời sống gia đình được trao đổi cởi mở nhằm giúp thăng tiến hôn nhân gia đình theo đúng nghĩa. Cặp gia đình hai bác Cửu – Dung, thân chủ của chúng tôi, chia sẻ:
-Hồi đầu sang đây, khó khăn mọi sự, gia đình tôi được một người con nuôi trợ cấp cho 100 ngàn Đô-la để xây sửa ngôi nhà này. Đến sau, khi gia đình tôi đã ổn định, các cháu trưởng thành, tôi quyết định trả lại số tiền cho người con nuôi, mặc dù người con này rất chân thành muốn giúp vợ chồng tôi để đáp nghĩa. Các con trong gia đình tôi nhận biết điều này nên đến trường tâm sự với bạn bè: “Bố mẹ tôi tốt như vậy, nên chúng tôi cũng phải sống sao cho xứng đáng với lòng tốt của bố mẹ chúng tôi”. Chính suy nghĩ này của các cháu khiến chúng tôi càng cố gắng sống sao cho xứng đáng niềm tự hào của các con đối với cha mẹ.
Cách suy nghĩ của thân chủ, và nhất là vì có sự đồng hành của chúng tôi với chương trình “Thăng tiến Hôn nhân Gia đình” đã làm cho mối thân tình giữa chủ - khách không còn xa lạ. Chúng tôi được hai bác trao chìa khoá để đi về bất cứ giờ nào. Mọi trao đổi sinh hoạt được cởi mở như chính ở nhà mình. Yên tâm và hồ hởi, chúng tôi đi dâng lễ ở cộng đồng công giáo Việt Nam. Tại giáo phận ORANGE đây có 15 cộng đoàn do các linh mục Việt Nam làm chính xứ, trong đó có 6 cộng đoàn mang tên rất Việt Nam, đó là các cộng đoàn: Giáo xứ Chính toà Chúa Kitô, Cộng đoàn Đức Mẹ La Vang, Cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu giúp, Cộng đoàn Tam Biên, Cộng đoàn Thánh Linh và Cộng đoàn Đức Mẹ Vô nhiễm. Chúng tôi đến với cộng đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm vào lễ chiều thứ bẩy và Cộng đoàn Thánh Linh vào chiều Chúa nhật XVI thường niên. Các Nhà thờ ở đây hầu hết đều được xây dựng theo hình thức đúng với tinh thần phụng vụ khuyến khích: nhà thờ mở rộng chiều ngang để kê tới 6 hàng ghế quy về tâm điểm là gian Cung thánh. Ca đoàn ở sát Cung thánh luôn. Tại nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, thánh lễ do cha quản nhiệm Nguyễn Thái chủ tế, ngài giảng rất thực tế và đi vào lòng người. Cuối lễ ngài cùng chúng tôi xuống cuối nhà thờ bắt tay thân thiện, chào hỏi những người dự lễ về. Biết chúng tôi từ quê nhà sang, một số người lưu lại hỏi thăm quê hương và tặng quà. Bầu khí thật ấm tình Việt Nam. Chắc chắn đây là điểm đáng tự hào của người Công giáo Việt Nam tại Mỹ, vì so với Trung Quốc, một cường quốc trên một tỉ dân, thì mọi mặt sinh hoạt xã hội, thương mại cộng đồng tại Mỹ họ đều vượt trội trên người Việt Nam. Nhưng những cộng đoàn Công giáo và nhất là Trung tâm Công giáo Việt Nam tại giáo phận Orange đây là một điểm son vượt hẳn Trung Quốc vì Trung Quốc không có, hoặc chỉ có một hai cộng đồng Công giáo Trung Hoa tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi đến thăm và dâng thánh lễ đồng tế tại Trung tâm Công giáo Việt Nam vào ngày thường trong tuần, vì ngày Chúa nhật Trung tâm không có lễ mà dành dâng lễ tại các cộng đoàn. Chúng tôi được cùng đồng tế với ba cha từ Việt Nam mới sang là cha Mathêu Trần Bảo Long chính xứ Hải Sơn, giáo phận Bà Rịa-Vũng Tàu, cha Phaolô Trương Văn Luyện chính xứ Gò Dầu, giáo phận Phú Cường và cha Giuse Bùi Văn Tuyền chính xứ Phúc Hải, giáo phận Bùi Chu. Nhà thờ Trung tâm nổi bật với bức ảnh 117 thánh Tử đạo Việt Nam vẽ trên bức hậu phông gian Cung thánh. Ngọn tháp xây kiểu Á Đông với ba chữ lớn THÁNH THÁNH THÁNH (THÁNH THÁNH THÁNH) ở mặt tiền ngọn tháp, kiểu dáng chữ thư pháp vừa Á Đông vừa nghệ thuật, nhưng trên hết là một lời tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng ba lần thánh. Tại khu trường học Công giáo nằm trong khuôn viên nhà thờ Tam Biên, trên biểu ngữ căng ngang cổng vào, chúng tôi đọc thấy dòng chữ HÃNH DIỆN LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO được ghi bằng ba thứ tiếng Anh, Việt và Tây Ban Nha.
Tôi được gặp lại người bác, người dì là anh và em ruột của mẹ. Bác năm nay đã 96, dì đã 84, cả bác và dì đều đã lẫn không còn nhớ được ai nữa, nhưng các em các cháu họp mặt đón anh, đón bác, đón các cha tới thăm. Khung cảnh cảm động diễn ra tại nhà hàng Việt Nam, chủ nhà hàng cũng hoà đồng với bầu khí họp mặt gia đình nên biếu một chai rượu đã dùng trong tiệc không tính tiền.
Chúng tôi còn gặp ở nơi “Đất khách quê người” những câu chuyện cảm động vì ơn Chúa. Một vị từng là luật sư tại Việt Nam cảm phục trước lối sống của một người công giáo đã quyết định xin tòng giáo, người công giáo này hiện là trưởng hội người đồng hương Việt Nam. Người tân tòng tâm sự:
- Người khác chỉ cần học ba tháng thì tôi phải học một năm. Vì bài học nào tôi cũng đưa ra câu hỏi và đòi giải thích. Cha giáo hỏi sao anh cứ đòi giải thích hoài? Tôi nói không hiểu thì tôi làm sao chấp nhận được?! Hồi đầu sang Mỹ, tôi vẫn còn giữ kiểu cách như vậy, nhưng một cha Mỹ rất tốt lành bảo tôi: Anh cứ làm đi rồi sẽ hiểu sau.
Ông tỏ ra rất quý cha Phan Văn Tự vì ông nghe chuyện về ơn gọi của ngài từ giúp lễ tới khi được thụ phong Linh mục. Với người khác thì qua câu chuyện của cha Phan Văn Tự họ chỉ hiểu về bối cảnh lịch sử, nhưng ông lại nhìn thấy ơn Chúa lạ lùng và nhờ đó lòng tin của ông được lớn lên. Với tôi, ông chỉ nhận xét ngắn gọn:
- Cha sống ở bắc Việt Nam mà mới gặp cha tôi đã thấy cảm tình gần gũi như vậy cũng là lạ lắm đấy.
Tờ báo Hiệp thông của giáo hạt Orange đã đăng câu chuyện về phó biện lý toà án Orange County. Suốt chín năm, ông đã có bồ và tương lai rất sán lạn, nhưng rồi bỗng được ơn Chúa dám từ bỏ hết mọi sự, sống theo ơn gọi và trở thành linh mục, vừa thụ phong ngày 11/06/2011 vừa qua. Đó là cha Trần Đình Quân. Câu chuyện ngài trở lại cũng rất lạ lung. Chính nhờ mấy hội viên Legio Maria nêu gương sáng tác động đến ngài mà ngài đã có những quyết định bất ngờ như thế.
Giáo phận Orange đang có ý định mua lại một công trình đã nổi tiếng thế giới. Đó là Nhà thờ kính của Tin Lành. Nhà thờ được xây dựng năm 1955, hoàn thành năm 1980, cấu trúc bằng khung ghép hơn 10.000 ô kính chữ nhật dán bằng keo đặc biệt, không sử dụng một đinh ốc nào. Để bảo trì một nhà thờ kính như vậy, mỗi năm phải chi trả khoảng 200,000 USA, vì thế từ ngày 18 / 10 / 2010, Hội đồng quản lý nhà thờ này đã đặt nhà thờ dưới sự quản lý của các nhà đầu tư và lãnh đạo. Đầu tháng 7 / 2011, mục sư Rober H. Schuller, người thành lập nhà thờ này hết quyền quản lý nhà thờ, giáo phận Orange thông báo: “Có khả năng mua nhà thờ này vì nhu cầu mục vụ của 1.200.000 giáo dân trong giáo phận”.
Chúng tôi tới thăm nhà thờ vào ngày 21/07/2011, nhìn ngọn tháp cao hơn 200m tán xạ dưới ánh sáng mặt trời thật là rực rỡ. Bên trong nhà thờ rộng lớn như một quảng trường, khắp nơi được phân chia ánh sáng tự nhiên êm dịu mà không cần điện quang. Những nhạc cụ của những dàn giao hưởng được bài trí tại ba điểm quan trọng là hai đầu nhà thờ và từ một góc rộng phía giữa nhà thờ. Những pho tượng diễn tả sự kiện Kinh thánh Cựu và Tân ước được dựng lên tại không gian rộng lớn hai bên sân nhà thờ. Hình ảnh Môisê cầm hai bia đá tạc Mười Điều răn từ trên núi Sinai đi xuống, hình ảnh Thánh Giuse đưa Chúa Giêsu và Đức Mẹ tránh sang Ai-cập, hình ảnh Chúa yêu thương các trẻ em, hình ảnh dụ ngôn Người con phung phá trở về. Đặc biệt là hình ảnh Chúa giảng trên bờ biển được dựng lên giữa một khoảng không trải rộng, nước trong lành gợn chảy dưới chân, gợi cảnh biển sinh động và phong phú. Có một điểm khác lạ là Lời Kinh thánh được viết trên đá lát dọc đường đi. Mỗi phiến đá là một lời Kinh Thánh. Ước nguyện của tác giả tác phẩm này là mong gợi hứng cho du khách để đánh thức một tiềm thức thêm yêu mến Đấng Kitô hơn.
Chúng tôi đi thăm Nhà thờ Chính toà Tổng giáo phận Los Angeles và mới hiểu tại sao Giáo phận Orange County lại có hướng mua Nhà thờ kính của Tin lành như vậy. Tầng hầm để xe của Nhà thờ chính toà cũng thu phí, vì không dễ dàng tìm được một bãi đỗ xe ở Los Angeles đây, vì Los Angeles là khu trung tâm thành phố nên nhiều công trình, công sở, khu dân cư tập trung ở đây. Nhiều nhà tầng và biệt thự, hotel đẹp đã được kiến trúc với mật độ dày. Xây dựng một nhà thờ ở Mỹ không khó, nhưng tìm một bãi xe đủ cho dung lượng nhà thờ thì không dễ, mà luật pháp thì đòi hỏi phải có bãi đỗ xe đủ thì mới được cấp phép xây dựng nhà thờ.
Ảnh tượng ở đây cũng chất lượng như châu Âu, nghĩa là chỉ kém Roma mà thôi, nhưng giá thì chỉ người Âu Mỹ mới mua được. Chúng tôi chẳng dám mua gì nếu cứ tính ngang sang giá tiền Việt Nam !
Nhà thờ Chính toà đặc biệt với pho tượng chịu nạn bằng đồng cực lớn và treo cũng cực thấp nếu so với cung cách trang trí Cung thánh nhà thờ tại Việt Nam. Chúng tôi đến tận dưới chân Thánh giá để nhìn ngắm tượng chịu nạn, chính nét sần sùi tự nhiên của kim loại đồng làm tăng thêm nét sầu thảm của tượng Chúa khổ nạn. Chị Vân Khanh là người hướng dẫn và là người giúp đỡ chúng tôi đã đến ôm chân Chúa. Tôi bất giác quỳ gối xuống, cầu nguyện cho cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, cầu nguyện cho giáo hội Việt Nam, xin cánh tay giang rộng yêu thương của Chúa thánh hoá những thương đau và chúc phúc lành cho cuộc sống lữ hành trần gian của chúng con.
Chúng tôi cũng đến thăm Hội dòng Mến Thánh Giá tại Los Angeles. Hội dòng này mới được biệt lập để tách khỏi quyền điều hành từ Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp Việt Nam. Đây là một xử lý tình thế sáng suốt và đánh dấu sự trưởng thành của Hội dòng Mến Thánh giá. Trước đây mọi điều hành đều từ nhà chính Gò Vấp, cách một nửa bán cầu. Mọi thông tin cập nhật, mọi tương quan hành chính xã hội, điều hành nhân sự lâm vào tình trạng “Một cổ hai tròng” khiến cho cả hai bên đều vất vả. Phải có sự giúp đỡ tận tình của Đức ông Vicentê Trần Ngọc Thụ tại Roma cùng với thiện chí của Đức cha giáo phận Orange tiếp nhận, Hội dòng mới có một vị thế như hôm nay. Từ Nhà chính, Hội dòng này đã phát triển thêm năm cộng đoàn nhỏ, tổng số khoảng 60 nữ tu đang phục vụ tại giáo phận Los Angeles. Các soeurs đón tiếp chúng tôi rất thịnh tình và dọn đồ nước bằng hoa quả mà Việt Nam không có: dưa Nhật Bản, đào Los Angeles, cherry (họ nhà dâu VN) hương thơm và chất dịu ngọt của nó có lẽ khi chúng tôi về tới Việt Nam vẫn còn ! Chúng tôi còn nhìn thấy quả bí ngô Nhật Bản to bằng cái thúng ở Việt Nam, ai không tin, xin mời qua Tu viện Hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles mà xem !
Mùa hè tại Mỹ mà không đi xem biển thì là một thiếu sót như uống bia mà không có đá lạnh vậy! Chúng tôi đi thăm biển vào một buổi tối tại biển Hungtinton Beach. Một thành phố thu nhỏ vươn mình ra biển. Nói thế vì một cây cầu rộng khoảng 10m chạy dài tới 300m ra biển. Hai bên cầu dàn đều những người câu cá. Thật thú vị khi giật được những con cá có thể ôm ngang người. Chính sách bảo vệ môi trường ở đây rất tuyệt vời, bạn có thể bị phạt rất nặng khi bắt những con cá chưa đủ trọng lượng hoặc kích thước cho phép bắt. Bạn sẽ bị cầm tù khi giết chó ăn thịt. Chúng tôi đã đọc thấy những dòng chữ trên một ngôi nhà “American Animal Hospital of Dog and Cat” (bệnh viện chó và mèo). Theo ánh sáng điện suốt dọc cây cầu, chúng tôi đi đến tận cùng, điểm gút này được thiết kế bằng một ngôi nhà tròn đủ rộng như một nhà hàng thành phố phục vụ giải khát và ăn nhẹ. Những phòng nhỏ chia khoảng cách hai bên thành cầu được gọi là restroom dành cho bạn tự do đi vệ sinh. Khắp nước Mỹ đều chú trọng tới vệ sinh cá nhân, dù dọc bãi biển, dù giữa sa mạc đều có restroom rất sạch sẽ, thậm chí sang trọng như ở hotel.
Chúng tôi không hài lòng về những tấm hình chụp buổi tối không thể lấy toàn cảnh, vì thế khi có dịp là chúng tôi lại trở lại thăm biển Long Beach vào ban ngày. Đi dọc theo bờ biển, chúng tôi đã chụp được hình toàn cảnh cây cầu đua ra biển. Những ngày nghỉ cuối tuần, cả gia đình cùng ra tắm biển. Biển trong lành và bãi biển dịu dàng không chỉ quy tụ đủ các sắc mầu, quốc tịch nơi đây, mà còn hội tụ cả thiên nhiên thơ mộng. Những con hải âu Mỹ to như chim bồ câu thậm chí còn to như vịt trời ở Việt Nam, đậu xuống bãi biển và cũng thân thiện với người như chim bồ câu vậy. Luật bảo vệ sinh thái giúp cho loài chim đáng yêu này không phải mỏi cánh trên biển mà không dám lên bờ biển chung với con người. Chúng tôi nhặt những rong biển do sóng vỗ vào bờ. Những rong biển to như bèo bồng ở Việt Nam, những sinh vật dễ thương mang đầy sức sống và cũng “to lớn” như Mỹ vậy.
Chúng tôi trở về trong bầu trời đêm khuya của miền nam California, ngước nhìn lên bầu trời thanh quang yên tĩnh, nhớ về Việt Nam, hôm nay âm lịch là ngày 17 tháng 6 Tân Mão. Mặt trăng của đêm “Mười bảy sảy giường chiếu” đã lên cao. Ánh trăng sáng ngời toả ánh dịu hiền xuống thành phố. Ở miền nam California này, do gần biển và khúc xạ ánh sáng, mặt trăng to gấp rưỡi so với vị trí đứng nhìn từ Việt Nam. Đúng là một nước Mỹ rộng lớn nên tất cả đều là “Cảnh vật chiều người”!
Còn tiếp - Ngày mai: Las Vegas.
LM Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
TỰ BẠCH
Bạn thân mến,
Tập ký sự “BÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ” ra mắt bạn đọc như một tặng phẩm tinh thần tới người thân. Vì thế, nó cần được sự bao dung của độc giả khi đọc nó dưới góc độ chuyên môn hoặc nghiên cứu. Trong suốt hành trình bốn mươi lăm ngày trên đất Hoa Kỳ, chúng tôi đã được đón nhận bao ân huệ: Ân huệ từ trời và ân huệ từ con người. Chúng tôi trân trọng ghi ơn quý Linh mục, tu sĩ, giáo dân, thân nhân và bạn hữu đã giúp chúng tôi về tinh thần và vật chất để có được một chuyến đi giàu cảm xúc.
Những tư liệu trong tập ký sự này là tích hợp đa dạng tin tức: Từ quan sát thực tế bên đường đến thông tin báo chí và chuyển tải trên mạng Internet. Chúng tôi xin lỗi vì không thể trích dẫn tác giả chính xác như một tài liệu biên khảo. Nó phản ánh một góc độ hẹp, một cách nhìn hạn chế so với cuộc sống sôi động muôn nẻo ngàn trùng.
Xin mạnh dạn trao gửi tới tay bạn đọc món quà này mong phần nào thể hiện được tấm lòng đồng điệu tri âm.
Linh mục Phêrô Hồng Phúc.
BÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ
(ký sự)
HÀ NỘI –TAIPE
Thời gian thấm thoát trôi qua, đã sáu năm kể từ năm 2005, năm mà mười anh em linh mục chúng tôi lên đường đi Rôma. Lần này, chỉ có ba anh em trẻ linh mục chúng tôi sang Mỹ. Bốn cha già trong đoàn năm đó nay đã ngoài bẩy mươi, ba cha chưa có cơ hội. Tôi và cha Antôn Phan Văn Tự, quản lý Toà Giám mục Phát Diệm, Cha Antôn Đoàn Minh Hải, chính xứ Cồn Thoi lên đường vào ngày 15 / 07/ 2011. Chương trình viếng thăm Hoa Kỳ 45 ngày được Đức cha giáo phận cho phép, cha văn phòng đã giúp chúng tôi hoàn tất những thủ tục ban đầu. Chương trình tiếp theo tại Mỹ đã được hai cha Phêrô Trần Quang Đức và Phêrô Mai Văn Vọng lên kế hoạch chi tiết. Chúng tôi khởi hành từ sân bay Nội Bài – Hà Nội đáp xuống sân bay TPE-TAIPEI thuộc TAIWAN (Đài Loan) rồi tiếp tục bay sang California, đáp xuống sân bay Los-Angeles miền nam California, nơi cha Phêrô Trần Quang Đức du học, ngày về sẽ từ sân bay San-Francisco miền bắc California, nơi cha Phêrô Mai Văn Vọng du học. Chúng tôi sẽ có cơ hội đi thêm một vài tiểu bang nữa trong số 50 tiểu bang thuộc Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ (U.S.A.). Nhìn bao quát như thế, thì đây chỉ là một chuyến du lịch “Cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi, nhưng là một cuộc “cưỡi ngựa thánh Gióng”, nghĩa là ngựa có thể bay lên trời được! Chuyến đi hứa hẹn nhiều điều ngoạn mục và bổ ích.
TPE-TAIPEI
Sau ba giờ bay, chúng tôi hạ cánh tại phi trường TPE-TAIPEI. Những mong có dịp nhìn bao quát một góc đảo Đài Loan, nhưng chúng tôi đã lầm. Kiến trúc hành lang của phi trường vừa sang trọng, vừa hiện đại và khép kín tới mức không ai có thể nhìn ra bên ngoài. Phòng đợi rộng rãi, với những gian hàng trưng bày các tác phẩm thủ công mỹ nghệ vừa tạo một không gian nghệ thuật, vừa rực rỡ những sắc mầu ấm áp phù hợp với lối đi trải thảm sạch sẽ sâu hút tầm nhìn. Chúng tôi theo bảng chỉ dẫn, đến một phòng có hành lang khá rộng, một số người đang đứng trước một khung cửa kính trong tư thế sẵn sàng, phía sau họ là một xe lăn có người tàn tật đang ngồi phía góc cuối. Tôi vừa bước vào chưa kịp quan sát thì bỗng cả hành lang này chuyển động. Thì ra đó là một xe điện được thiết kế mặt sàn xe vừa bằng với nền nhà, xe lăn dễ dàng sang ngang như đi từ trong nhà ra hành lang. Xe đi êm và nhanh đến nỗi cha Phan Văn Tự mới chỉ kịp ngó đầu mà chân chưa kịp bước vào xe, cha Đoàn Minh Hải phía sau cha Tự chưa kịp phản ứng gì thì xe đã biến mất trong tầm mắt! Rất may là từ chuyến đi thăm Rôma lần trước, chúng tôi đã có quy ước với nhau là nếu lên xe điện, xe bus… mà bị xé đoàn, thì ai đến ga phía trước sẽ dừng lại chờ người đến sau. Một quy ước ở Ý mà sáu năm rồi nay mới có dịp thực hiện tại Đài Loan!
Trang bị ghế ngồi trên máy bay rất đầy đủ. Ghế máy bay được chế tạo bằng chất liệu đặc biệt, có thể chịu được 5 phút ở nhiệt độ 1000oC. Giả thiết máy bay bị cháy thì thời gian đó đủ để hành khách rời ghế, chạy tới cửa thoát hiểm. Gầm ghế có ngăn đựng áo phao cho từng hành khách phòng khi máy bay gặp trường hợp khẩn cấp, tay ghế lắp bộ điều khiển để hành khách có thể tự chọn các chương trình video khác nhau, phục vụ hành khách trên màn hình nhỏ gắn ngay sau mỗi ghế phía trước. Nhờ màn hình này, tôi quan sát được máy bay đang di chuyển từ sân bay TPE-TAIPEI đến LAX - LOS ANGELES dọc theo ven biển Thái Bình Dương. Máy bay đã bay ngang qua quần đảo Hawaii tiểu bang thứ 50, tiểu bang cuối cùng của Mỹ, trung tâm tiểu bang là Honolulu trong đó có đảo Molokai, bất giác tôi nhớ lại câu chuyện: “Cha Damien tông đồ người hủi” với bao những chi tiết cảm động về một cha Thừa sai người Pháp đã tình nguyện ra quần đảo Honolunu để chung sống, phục vụ và chết với những người bệnh phong cùi tại đảo Monokai. Tên của quần đảo hiện lên như trang sử hào hùng về một tấm gương bác ái, hy sinh quên mình của cha Damien, vị thừa sai đã noi gương Chúa Giêsu để hiến mạng sống mình vì những người bệnh phong. Đắm mình trong những hồi ức, tôi như đang được cúi xuống gặp gỡ cha Damien, tay tôi giơ ra nâng tràng hạt Mân côi như một cử chỉ thân thiện được bắt tay cha Damien đáng kính.
Máy bay đã tiếp cận châu Mỹ. Tôi theo dõi trên màn hình hiện sóng thấy độ cao máy bay vượt trên 11000km, nhiệt độ bên ngoài xuống tới -57¬o¬C. Đường bay phải bay vòng lên phía bắc để xuống phía nam California. Tuy nhiên khi hạ cánh xuống sân bay, nhiệt độ bên ngoài chỉ 19oC, nhiệt độ lý tưởng như một máy điều hoà khổng lồ dành cho miền tây nam Mỹ. Chúng tôi đặt những bước chân đầu tiên lên nước Mỹ.
LOS ANGELES
Một thế giới văn minh vật chất hiện ra trước mắt chúng tôi. Phi trường rộng lớn về không gian, nhưng nhất là về văn minh hiện đại và khoa học kỹ thuật nữa. Khi đi trả lời phỏng vấn xin cấp Visa nhập cảnh Mỹ phải in vân tay, soi diện mặt thế nào, thì thủ tục nhập cảnh cũng phải một lập trình như vậy. Đấy là chưa kể tờ khai xem bạn có mang hạt giống, cây giống hay thực phẩm gì vào nước Mỹ không? Người ta phòng ngừa sâu bệnh, virút gây bệnh cũng như đề phòng gian lận như thế đó.
Cha Phêrô Trần Quang Đức đã đợi từ một tiếng đồng hồ trước đó để đón chúng tôi tại sân bay. Cứ ngỡ như đẩy xe tay dọc thành phố hồi lâu rồi mà tới khi lên xe hơi mới biết chúng tôi chưa ra khỏi khu vực sân bay. Một công trình kiến trúc khác lạ hiện ra trước mắt chúng tôi. Không phải tháp nước, không phải dome (mái tròn) nhà, mà là cấu trúc kết hợp cả hai. Hỏi ra mới biết đó là quán cà-phê của phi trường Lax-Los Angeles. Ngồi từ tầng hai của lầu quán Cà-phê này, người ta có thể quan sát rõ cứ đúng một phút lại có một chuyến bay hạ cánh hoặc cất cánh nhịp nhàng. Thấy chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, cha Đức cho biết thêm, là tại phi trường Atlanta, còn lên tới 4 chuyến trên một phút nữa. Đúng là một thế giới giao lưu qua đường hàng không !
Chúng tôi chạy dọc theo xa lộ 405 mà dân chúng Mỹ gọi là freeway 405 – phải kết hợp cả tính năng của đường cao tốc và đường vành đai ở Việt Nam thì mới hiểu được freeway là gì. Thông thường là tám làn xe xuôi ngược trên đường này, ở những đoạn rộng hơn còn có thêm hai làn đường dành riêng cho xe chở từ hai người trở lên. Quy định như thế để nhà nước khuyến khích đi đông người trên một xe nhằm giảm bớt số lượng xe lưu hành trên các trục giao thông. Mặc dù thế, chúng tôi quan sát hầu hết đều là xe riêng của mỗi người tự lái. Chúng tôi đã gặp thấy cụ bà 84 tuổi vẫn tỉnh táo tự ngồi lái xe, tay điều khiển vô-lăng nhẹ nhàng như các cụ già cầm quạt nan phe phẩy ở Việt Nam.
Công việc đầu tiên của chúng tôi là điện thoại về nhà báo tin bình an. Nắng chiều còn rất cao nhưng đã là 16h30 ngày 15/07/2011, giờ Los Angeles tương ứng với 6h30 ngày 16/07/2011, giờ Việt Nam. Vào giờ này ở Việt Nam đã bắt đầu làm việc nhưng ở Mỹ thì khác. Thông thường giờ hành chính tại Mỹ là 8h đến 17h, không có khái niệm nghỉ trưa. Vào mùa hè như hiện nay thì 20h30 mặt trời mới xế bóng. Chúng tôi gọi điện thoại về cha văn phòng và nối liên lạc được với Đức cha. Tiếng nói thân thương của Đức cha Giuse Nguyễn Năng từ Việt Nam chúc mừng chúng tôi tới Mỹ bình an và rất ngắn gọn chúc chúng tôi hai chữ “thích nghi”. Chúng tôi vui mừng tạ ơn Chúa và phấn khởi tiến về phía trước. Việt Nam và Los Angeles cách nhau hơn 16.000km tương đương với 10.000 dặm (mile = 1,61 km) đúng như người ta vẫn nói: “Đường xa vạn dặm”. Không gian Đông – Tây xa cách, thời gian cũng cách nhau 14 tiếng. Chúng tôi có hai ngày 15/07 vì khởi hành 11h35’ ngày 15/07 giờ Việt Nam, khi tới Los Angeles là 14h5’ giờ Los Angeles cũng vẫn ngày 15/07/2011. Chúng tôi được nghỉ hẳn một ngày Kinh Phụng vụ !
Xe chúng tôi chạy với vận tốc trung bình tại đây là 100km/h. Nhiệt độ lý tưởng mà không khí cũng trong lành lý tưởng. Không gian thoáng đãng không nhìn thấy vẩn bụi, ánh nắng vàng nhạt lúc nào cũng như khoảnh khắc bình minh ngắn ngủi tại Việt Nam. Suốt dọc đường không thấy xuất hiện một chiếc xe máy nào, cũng không có cột mốc km chỉ đường mà chỉ có bảng chỉ đường ghi rõ đường về hướng đông, tây hoặc nam bắc của thành phố. Người ta tính khoảng cách quãng đường bằng thời gian xe đi mất bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ. Không có tiếng còi xe suốt đêm ngày, không có cảnh sát dọc đường nhưng nếu ai lỗi luật giao thông thì lập tức đã thấy cảnh sát xuất hiện, hoặc sẽ có giấy báo phạt tiền đến tận nhà. Hệ thống đèn giao thông báo hiệu tự động suốt ngày, đêm. Mỗi khi xe hơi dừng chờ đúng vạch quy định, lập tức đèn laze quét tín hiệu lệnh cho hệ thống đèn hiệu làm việc.
Chúng tôi đi vào thành phố. Những mái nhà xinh xắn nhưng mái thấp như làng quê Việt Nam. Toàn bang California rộng lớn này đều xây nhà trên một nền móng bê-tông sắt thép rất kiên cố, lớp móng này đổ theo hình thức móng bè sử dụng tới phi sắt 22 làm cốt. Người ta rất chú trọng tới việc chống động đất và đây là một phương pháp tốt nhất. Những ngôi nhà cao tầng thì sử dụng xà bằng sắt, các căn nhà phổ thông thường dựng gỗ thành tường. Công nghệ làm tường rất kỹ thuật. Người ta dùng gỗ thông xẻ mỏng để dựng nghiêng với bề dày từ 10cm tới 30cm tuỳ theo diện tích sử dụng và lối kiến trúc của ngôi nhà. Khoảng trống đó được lấp đầy bằng một chất xốp chống nóng gọi là insulation (chống nhiệt), dán bao phủ bằng một lớp chống âm gọi là Sheetrock để tiếng ồn không thể lọt vào trong phòng, kế đến là một lớp lưới thép nhỏ để trên đó trát lớp bên ngoài cùng gọi là stucco (nhẹ như thạch cao), lớp này gồm xi-măng và bột hoà trộn với mầu để phun lên thành tường nhà hoàn chỉnh. Mái gỗ lợp bằng một thứ giấy nện vừa mỏng vừa có độ bền cao. Sở dĩ làm nhà thấp và vật liệu gỗ nhẹ là để tránh động đất. Khí hậu khô mát ở đây cho phép thiết kế như vậy. Cũng chính vì khí hậu tốt lành này mà người ta dựng cột điện toàn bằng gỗ thông. Những cây thông thẳng tắp được xử lý công nghệ hoá chất để trở thành cột điện hàng trăm năm vẫn tốt nguyên như ban đầu. Tuy nhiên, vì là nhà gỗ, cột điện gỗ nên công tác cứu hoả ở đây được chú trọng tối ưu. Suốt các hè phố đều có những van nước đặc biệt được chia đều theo khoảng cách và chỉ dùng cho việc cứu hoả. Ngay lề đường cũng có nhiều điểm viết rõ NO PARKING/FIRE LINE AT ANY TIME nghĩa là NHỮNG CHỖ ĐẬU CHỈ DÀNH RIÊNG CHO XE CỨU HOẢ. Lề đường cũng được quy định cho chiều cao một kích thước đồng bộ, để khắp nơi khi ôtô đỗ sát vỉa hè, thì cửa xe hơi vẫn mở ra hè phố một cách bình thường. Thiết kế đơn giản này cũng đòi hỏi một kỹ thuật tương đối chuẩn về độ phẳng mặt đường.
Chúng tôi đã nhìn thấy xe hơi chết máy dọc đường. Điều này cũng là rất bình thường, nhưng đáng nói là cách ứng xử của cư dân. Người tài xế có nhu cầu xin giúp đỡ, mọi người đều thân ái từ hai ba xe gần đó chạy đến giúp đẩy xe gài số. Không ai bình luận chê cười, càng không có người khoanh tay bàng quan đứng nhìn.
Xe rẽ vào khu dân cư, đây là những mái nhà yên tĩnh ẩn sau những cây cảnh, những khóm hoa rực rỡ. Mặt đường nhựa mịn sáng lúc nào cũng sạch bóng và mở rộng như sân riêng của mỗi căn nhà. Nghe nói cứ ba năm một lần, người ta lại phủ lên một lớp nhựa vì thế mặt đường mới luôn sáng bóng được như vậy. Đất ở đây mầu mỡ như một quà tặng của thiên nhiên. Trồng cấy loại cây gì cũng xanh tốt, ghép giống gì cũng thành công. Chúng tôi say mê nhìn ngắm những cây thông, cây tùng cổ thụ vươn mình vào không gian cao vút dọc hai đường phố. Chúng tôi cũng ngạc nhiên thấy những cây táo Trung Quốc, lê Trung Quốc, thanh long, bưởi Việt Nam, ổi, bí ngô Nhật Bản, ổi Thái Lan, bầu Italia, đu đủ Hawaii, na Úc …xanh tươi và trĩu quả dưới bầu trời California. Người ta xử lý cỏ dại ở những diện tích nhỏ dọc đường phố, trong vườn cảnh hoặc vườn nhà bằng cách trải nylon dưới lớp đất thấp, khoét lỗ cấy cây đã lựa chọn, rồi phủ lớp đất mầu lên trên. Lớp đất mầu này chủ yếu được xay từ các cây cổ thụ, từ thân mục tới cành lá các loại, từ các rác thải đã được phân loại…Những căn hộ ít diện tích thường cấy cây trong thùng nhựa lớn có chứa đất mầu này.
Xe đi vào sân nhà liền sát với gara. Đây là những khu nhà nhập cư Mỹ từ hàng chục năm trở lên. Họ thường chọn khu yên tĩnh xa trục đường chính nên rộng đất hơn để xe có thể đỗ tại sân riêng của gia đình. Mỗi nhà một hai xe là chuyện bình thường. Các gia đình mới nhập cư thường lại thích chọn nhà mặt đường theo quan niệm thương mại Việt Nam. Trên đường tới đây, vì vào giờ nghỉ hành chính của Mỹ, chúng tôi đã thấy cả hàng xe thẳng tắp đỗ ven đường. Đó là xe của mỗi nhà đỗ trước cửa nhà mình. Chúng tôi chợt hiểu ra tại sao người nhập cư lâu năm lại chọn khu đất rộng xa mặt đường.
Người ta nói Mỹ là nước thực dụng, nhưng “Trăm nghe không bằng một thấy”. Giờ thì chúng tôi thấy rõ khi vừa bước chân vào trong nhà. Dưới mái nhà yên tĩnh nhìn từ bên ngoài, là cả một thế giới đồ sộ bên trong và đầy đủ tiện nghi. Mỗi người một xe hơi, một computer phổ thông như mỗi người một xe máy, một đồng hồ ở Việt Nam. Người dân sống dưới sự phong toả của pháp luật mà cũng là hưởng quyền lợi từ pháp luật. Họ phải đóng tới 20%, cao nhất có thể tới 35% thuế lợi tức, nhưng khi về già thì họ lại được hưởng lại theo tiêu chuẩn tiền chu cấp cho người già. Từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, ai neo đơn, ốm yếu, nếu có đề nghị, nhà nước tới phỏng vấn rồi cho người tới giúp. Trường hợp quá khó khăn thì tiền công người giúp do nhà nước trả. Người già cũng được khuyến khích theo học lớp dạy vi tính miễn phí. Xe quét rác đường cũng trích lương từ thuế người dân đã đóng, nhưng ngày thông báo quét rác, ai không thường trực chuyển xe thoáng chỗ cho xe quét rác sẽ bị phạt mỗi xe tới 45 USD.
Giờ phút gặp mặt người thân bao giờ cũng cảm động. Những nét mặt vui tươi, những phong thái rất Việt Nam: tình cảm mặn nồng, tíu tít hỏi thăm quê hương, nhắc lại những kỷ niệm hồi thơ ấu, nhắc nhớ những phong tục, tập quán, những món đặc sản quê hương…Có một bà đã tâm sự:
- Hồi đầu sang đây “Lạ nước lạ cái”. Trong nhà cháu thì đi học, cháu thì đi làm, chiều một mình ở nhà chẳng biết làm gì buồn ơi là buồn !
Một ông kể lại cách tự nhiên:
- Mười tám năm trước đây, khi vừa sang “ngố” hết sức. Mấy tháng sau học biết lái xe, lái xe ra đường bị cảnh sát chặn lại cảnh cáo: “mày lái xe như vậy thì chết hết hả”
Một cụ già tâm sự:
- Lần đầu tiên nhận được thư từ quê hương, đọc thấy hai chữ Lưu Phương tôi oà khóc đấy.
......
Bây giờ thì mọi sự đã ổn định và đang trên đà phát triển. Cộng đồng người Việt Nam tại đây đã có những khu kinh tế mang tên như SAIGON CITY, LITTLE SAIGON (Saigon thu nhỏ) PHƯỚC LỘC THỌ… Người Việt Nam đến đây mua bán, sinh hoạt cộng đồng cảm giác như ở quê hương vì ngôn ngữ, phong tục tập quán, các mặt hàng đều mang phong thái rất Việt Nam.
Gia đình thân chủ mà cha Trần Quang Đức sắp xếp cho chúng tôi trú ngụ trong thời gian hai tuần ở nam California là gia đình quê hương giáo phận Phát Diệm. Tối đầu tiên trên đất Mỹ, vừa bước chân vào nhà, chúng tôi đã gặp một số cặp gia đình Việt Nam. Họ đến đây không phải để đón chúng tôi, nhưng là để sinh hoạt theo lịch sinh hoạt bình thường của chương trình “Thăng tiến Hôn nhân Gia đình”. Chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng tham dự giờ chia sẻ với họ. Những kinh nghiệm đời sống gia đình được trao đổi cởi mở nhằm giúp thăng tiến hôn nhân gia đình theo đúng nghĩa. Cặp gia đình hai bác Cửu – Dung, thân chủ của chúng tôi, chia sẻ:
-Hồi đầu sang đây, khó khăn mọi sự, gia đình tôi được một người con nuôi trợ cấp cho 100 ngàn Đô-la để xây sửa ngôi nhà này. Đến sau, khi gia đình tôi đã ổn định, các cháu trưởng thành, tôi quyết định trả lại số tiền cho người con nuôi, mặc dù người con này rất chân thành muốn giúp vợ chồng tôi để đáp nghĩa. Các con trong gia đình tôi nhận biết điều này nên đến trường tâm sự với bạn bè: “Bố mẹ tôi tốt như vậy, nên chúng tôi cũng phải sống sao cho xứng đáng với lòng tốt của bố mẹ chúng tôi”. Chính suy nghĩ này của các cháu khiến chúng tôi càng cố gắng sống sao cho xứng đáng niềm tự hào của các con đối với cha mẹ.
Cách suy nghĩ của thân chủ, và nhất là vì có sự đồng hành của chúng tôi với chương trình “Thăng tiến Hôn nhân Gia đình” đã làm cho mối thân tình giữa chủ - khách không còn xa lạ. Chúng tôi được hai bác trao chìa khoá để đi về bất cứ giờ nào. Mọi trao đổi sinh hoạt được cởi mở như chính ở nhà mình. Yên tâm và hồ hởi, chúng tôi đi dâng lễ ở cộng đồng công giáo Việt Nam. Tại giáo phận ORANGE đây có 15 cộng đoàn do các linh mục Việt Nam làm chính xứ, trong đó có 6 cộng đoàn mang tên rất Việt Nam, đó là các cộng đoàn: Giáo xứ Chính toà Chúa Kitô, Cộng đoàn Đức Mẹ La Vang, Cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu giúp, Cộng đoàn Tam Biên, Cộng đoàn Thánh Linh và Cộng đoàn Đức Mẹ Vô nhiễm. Chúng tôi đến với cộng đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm vào lễ chiều thứ bẩy và Cộng đoàn Thánh Linh vào chiều Chúa nhật XVI thường niên. Các Nhà thờ ở đây hầu hết đều được xây dựng theo hình thức đúng với tinh thần phụng vụ khuyến khích: nhà thờ mở rộng chiều ngang để kê tới 6 hàng ghế quy về tâm điểm là gian Cung thánh. Ca đoàn ở sát Cung thánh luôn. Tại nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, thánh lễ do cha quản nhiệm Nguyễn Thái chủ tế, ngài giảng rất thực tế và đi vào lòng người. Cuối lễ ngài cùng chúng tôi xuống cuối nhà thờ bắt tay thân thiện, chào hỏi những người dự lễ về. Biết chúng tôi từ quê nhà sang, một số người lưu lại hỏi thăm quê hương và tặng quà. Bầu khí thật ấm tình Việt Nam. Chắc chắn đây là điểm đáng tự hào của người Công giáo Việt Nam tại Mỹ, vì so với Trung Quốc, một cường quốc trên một tỉ dân, thì mọi mặt sinh hoạt xã hội, thương mại cộng đồng tại Mỹ họ đều vượt trội trên người Việt Nam. Nhưng những cộng đoàn Công giáo và nhất là Trung tâm Công giáo Việt Nam tại giáo phận Orange đây là một điểm son vượt hẳn Trung Quốc vì Trung Quốc không có, hoặc chỉ có một hai cộng đồng Công giáo Trung Hoa tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi đến thăm và dâng thánh lễ đồng tế tại Trung tâm Công giáo Việt Nam vào ngày thường trong tuần, vì ngày Chúa nhật Trung tâm không có lễ mà dành dâng lễ tại các cộng đoàn. Chúng tôi được cùng đồng tế với ba cha từ Việt Nam mới sang là cha Mathêu Trần Bảo Long chính xứ Hải Sơn, giáo phận Bà Rịa-Vũng Tàu, cha Phaolô Trương Văn Luyện chính xứ Gò Dầu, giáo phận Phú Cường và cha Giuse Bùi Văn Tuyền chính xứ Phúc Hải, giáo phận Bùi Chu. Nhà thờ Trung tâm nổi bật với bức ảnh 117 thánh Tử đạo Việt Nam vẽ trên bức hậu phông gian Cung thánh. Ngọn tháp xây kiểu Á Đông với ba chữ lớn THÁNH THÁNH THÁNH (THÁNH THÁNH THÁNH) ở mặt tiền ngọn tháp, kiểu dáng chữ thư pháp vừa Á Đông vừa nghệ thuật, nhưng trên hết là một lời tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng ba lần thánh. Tại khu trường học Công giáo nằm trong khuôn viên nhà thờ Tam Biên, trên biểu ngữ căng ngang cổng vào, chúng tôi đọc thấy dòng chữ HÃNH DIỆN LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO được ghi bằng ba thứ tiếng Anh, Việt và Tây Ban Nha.
Tôi được gặp lại người bác, người dì là anh và em ruột của mẹ. Bác năm nay đã 96, dì đã 84, cả bác và dì đều đã lẫn không còn nhớ được ai nữa, nhưng các em các cháu họp mặt đón anh, đón bác, đón các cha tới thăm. Khung cảnh cảm động diễn ra tại nhà hàng Việt Nam, chủ nhà hàng cũng hoà đồng với bầu khí họp mặt gia đình nên biếu một chai rượu đã dùng trong tiệc không tính tiền.
Chúng tôi còn gặp ở nơi “Đất khách quê người” những câu chuyện cảm động vì ơn Chúa. Một vị từng là luật sư tại Việt Nam cảm phục trước lối sống của một người công giáo đã quyết định xin tòng giáo, người công giáo này hiện là trưởng hội người đồng hương Việt Nam. Người tân tòng tâm sự:
- Người khác chỉ cần học ba tháng thì tôi phải học một năm. Vì bài học nào tôi cũng đưa ra câu hỏi và đòi giải thích. Cha giáo hỏi sao anh cứ đòi giải thích hoài? Tôi nói không hiểu thì tôi làm sao chấp nhận được?! Hồi đầu sang Mỹ, tôi vẫn còn giữ kiểu cách như vậy, nhưng một cha Mỹ rất tốt lành bảo tôi: Anh cứ làm đi rồi sẽ hiểu sau.
Ông tỏ ra rất quý cha Phan Văn Tự vì ông nghe chuyện về ơn gọi của ngài từ giúp lễ tới khi được thụ phong Linh mục. Với người khác thì qua câu chuyện của cha Phan Văn Tự họ chỉ hiểu về bối cảnh lịch sử, nhưng ông lại nhìn thấy ơn Chúa lạ lùng và nhờ đó lòng tin của ông được lớn lên. Với tôi, ông chỉ nhận xét ngắn gọn:
- Cha sống ở bắc Việt Nam mà mới gặp cha tôi đã thấy cảm tình gần gũi như vậy cũng là lạ lắm đấy.
Tờ báo Hiệp thông của giáo hạt Orange đã đăng câu chuyện về phó biện lý toà án Orange County. Suốt chín năm, ông đã có bồ và tương lai rất sán lạn, nhưng rồi bỗng được ơn Chúa dám từ bỏ hết mọi sự, sống theo ơn gọi và trở thành linh mục, vừa thụ phong ngày 11/06/2011 vừa qua. Đó là cha Trần Đình Quân. Câu chuyện ngài trở lại cũng rất lạ lung. Chính nhờ mấy hội viên Legio Maria nêu gương sáng tác động đến ngài mà ngài đã có những quyết định bất ngờ như thế.
Giáo phận Orange đang có ý định mua lại một công trình đã nổi tiếng thế giới. Đó là Nhà thờ kính của Tin Lành. Nhà thờ được xây dựng năm 1955, hoàn thành năm 1980, cấu trúc bằng khung ghép hơn 10.000 ô kính chữ nhật dán bằng keo đặc biệt, không sử dụng một đinh ốc nào. Để bảo trì một nhà thờ kính như vậy, mỗi năm phải chi trả khoảng 200,000 USA, vì thế từ ngày 18 / 10 / 2010, Hội đồng quản lý nhà thờ này đã đặt nhà thờ dưới sự quản lý của các nhà đầu tư và lãnh đạo. Đầu tháng 7 / 2011, mục sư Rober H. Schuller, người thành lập nhà thờ này hết quyền quản lý nhà thờ, giáo phận Orange thông báo: “Có khả năng mua nhà thờ này vì nhu cầu mục vụ của 1.200.000 giáo dân trong giáo phận”.
Chúng tôi tới thăm nhà thờ vào ngày 21/07/2011, nhìn ngọn tháp cao hơn 200m tán xạ dưới ánh sáng mặt trời thật là rực rỡ. Bên trong nhà thờ rộng lớn như một quảng trường, khắp nơi được phân chia ánh sáng tự nhiên êm dịu mà không cần điện quang. Những nhạc cụ của những dàn giao hưởng được bài trí tại ba điểm quan trọng là hai đầu nhà thờ và từ một góc rộng phía giữa nhà thờ. Những pho tượng diễn tả sự kiện Kinh thánh Cựu và Tân ước được dựng lên tại không gian rộng lớn hai bên sân nhà thờ. Hình ảnh Môisê cầm hai bia đá tạc Mười Điều răn từ trên núi Sinai đi xuống, hình ảnh Thánh Giuse đưa Chúa Giêsu và Đức Mẹ tránh sang Ai-cập, hình ảnh Chúa yêu thương các trẻ em, hình ảnh dụ ngôn Người con phung phá trở về. Đặc biệt là hình ảnh Chúa giảng trên bờ biển được dựng lên giữa một khoảng không trải rộng, nước trong lành gợn chảy dưới chân, gợi cảnh biển sinh động và phong phú. Có một điểm khác lạ là Lời Kinh thánh được viết trên đá lát dọc đường đi. Mỗi phiến đá là một lời Kinh Thánh. Ước nguyện của tác giả tác phẩm này là mong gợi hứng cho du khách để đánh thức một tiềm thức thêm yêu mến Đấng Kitô hơn.
Chúng tôi đi thăm Nhà thờ Chính toà Tổng giáo phận Los Angeles và mới hiểu tại sao Giáo phận Orange County lại có hướng mua Nhà thờ kính của Tin lành như vậy. Tầng hầm để xe của Nhà thờ chính toà cũng thu phí, vì không dễ dàng tìm được một bãi đỗ xe ở Los Angeles đây, vì Los Angeles là khu trung tâm thành phố nên nhiều công trình, công sở, khu dân cư tập trung ở đây. Nhiều nhà tầng và biệt thự, hotel đẹp đã được kiến trúc với mật độ dày. Xây dựng một nhà thờ ở Mỹ không khó, nhưng tìm một bãi xe đủ cho dung lượng nhà thờ thì không dễ, mà luật pháp thì đòi hỏi phải có bãi đỗ xe đủ thì mới được cấp phép xây dựng nhà thờ.
Ảnh tượng ở đây cũng chất lượng như châu Âu, nghĩa là chỉ kém Roma mà thôi, nhưng giá thì chỉ người Âu Mỹ mới mua được. Chúng tôi chẳng dám mua gì nếu cứ tính ngang sang giá tiền Việt Nam !
Nhà thờ Chính toà đặc biệt với pho tượng chịu nạn bằng đồng cực lớn và treo cũng cực thấp nếu so với cung cách trang trí Cung thánh nhà thờ tại Việt Nam. Chúng tôi đến tận dưới chân Thánh giá để nhìn ngắm tượng chịu nạn, chính nét sần sùi tự nhiên của kim loại đồng làm tăng thêm nét sầu thảm của tượng Chúa khổ nạn. Chị Vân Khanh là người hướng dẫn và là người giúp đỡ chúng tôi đã đến ôm chân Chúa. Tôi bất giác quỳ gối xuống, cầu nguyện cho cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, cầu nguyện cho giáo hội Việt Nam, xin cánh tay giang rộng yêu thương của Chúa thánh hoá những thương đau và chúc phúc lành cho cuộc sống lữ hành trần gian của chúng con.
Chúng tôi cũng đến thăm Hội dòng Mến Thánh Giá tại Los Angeles. Hội dòng này mới được biệt lập để tách khỏi quyền điều hành từ Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp Việt Nam. Đây là một xử lý tình thế sáng suốt và đánh dấu sự trưởng thành của Hội dòng Mến Thánh giá. Trước đây mọi điều hành đều từ nhà chính Gò Vấp, cách một nửa bán cầu. Mọi thông tin cập nhật, mọi tương quan hành chính xã hội, điều hành nhân sự lâm vào tình trạng “Một cổ hai tròng” khiến cho cả hai bên đều vất vả. Phải có sự giúp đỡ tận tình của Đức ông Vicentê Trần Ngọc Thụ tại Roma cùng với thiện chí của Đức cha giáo phận Orange tiếp nhận, Hội dòng mới có một vị thế như hôm nay. Từ Nhà chính, Hội dòng này đã phát triển thêm năm cộng đoàn nhỏ, tổng số khoảng 60 nữ tu đang phục vụ tại giáo phận Los Angeles. Các soeurs đón tiếp chúng tôi rất thịnh tình và dọn đồ nước bằng hoa quả mà Việt Nam không có: dưa Nhật Bản, đào Los Angeles, cherry (họ nhà dâu VN) hương thơm và chất dịu ngọt của nó có lẽ khi chúng tôi về tới Việt Nam vẫn còn ! Chúng tôi còn nhìn thấy quả bí ngô Nhật Bản to bằng cái thúng ở Việt Nam, ai không tin, xin mời qua Tu viện Hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles mà xem !
Mùa hè tại Mỹ mà không đi xem biển thì là một thiếu sót như uống bia mà không có đá lạnh vậy! Chúng tôi đi thăm biển vào một buổi tối tại biển Hungtinton Beach. Một thành phố thu nhỏ vươn mình ra biển. Nói thế vì một cây cầu rộng khoảng 10m chạy dài tới 300m ra biển. Hai bên cầu dàn đều những người câu cá. Thật thú vị khi giật được những con cá có thể ôm ngang người. Chính sách bảo vệ môi trường ở đây rất tuyệt vời, bạn có thể bị phạt rất nặng khi bắt những con cá chưa đủ trọng lượng hoặc kích thước cho phép bắt. Bạn sẽ bị cầm tù khi giết chó ăn thịt. Chúng tôi đã đọc thấy những dòng chữ trên một ngôi nhà “American Animal Hospital of Dog and Cat” (bệnh viện chó và mèo). Theo ánh sáng điện suốt dọc cây cầu, chúng tôi đi đến tận cùng, điểm gút này được thiết kế bằng một ngôi nhà tròn đủ rộng như một nhà hàng thành phố phục vụ giải khát và ăn nhẹ. Những phòng nhỏ chia khoảng cách hai bên thành cầu được gọi là restroom dành cho bạn tự do đi vệ sinh. Khắp nước Mỹ đều chú trọng tới vệ sinh cá nhân, dù dọc bãi biển, dù giữa sa mạc đều có restroom rất sạch sẽ, thậm chí sang trọng như ở hotel.
Chúng tôi không hài lòng về những tấm hình chụp buổi tối không thể lấy toàn cảnh, vì thế khi có dịp là chúng tôi lại trở lại thăm biển Long Beach vào ban ngày. Đi dọc theo bờ biển, chúng tôi đã chụp được hình toàn cảnh cây cầu đua ra biển. Những ngày nghỉ cuối tuần, cả gia đình cùng ra tắm biển. Biển trong lành và bãi biển dịu dàng không chỉ quy tụ đủ các sắc mầu, quốc tịch nơi đây, mà còn hội tụ cả thiên nhiên thơ mộng. Những con hải âu Mỹ to như chim bồ câu thậm chí còn to như vịt trời ở Việt Nam, đậu xuống bãi biển và cũng thân thiện với người như chim bồ câu vậy. Luật bảo vệ sinh thái giúp cho loài chim đáng yêu này không phải mỏi cánh trên biển mà không dám lên bờ biển chung với con người. Chúng tôi nhặt những rong biển do sóng vỗ vào bờ. Những rong biển to như bèo bồng ở Việt Nam, những sinh vật dễ thương mang đầy sức sống và cũng “to lớn” như Mỹ vậy.
Chúng tôi trở về trong bầu trời đêm khuya của miền nam California, ngước nhìn lên bầu trời thanh quang yên tĩnh, nhớ về Việt Nam, hôm nay âm lịch là ngày 17 tháng 6 Tân Mão. Mặt trăng của đêm “Mười bảy sảy giường chiếu” đã lên cao. Ánh trăng sáng ngời toả ánh dịu hiền xuống thành phố. Ở miền nam California này, do gần biển và khúc xạ ánh sáng, mặt trăng to gấp rưỡi so với vị trí đứng nhìn từ Việt Nam. Đúng là một nước Mỹ rộng lớn nên tất cả đều là “Cảnh vật chiều người”!
Còn tiếp - Ngày mai: Las Vegas.
LM Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Người Mẹ
TS Thiên Tân
12:13 05/09/2011
Câu chuyện của một Tiến sĩ toán học Harvard University
"...Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường ĐH tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường ĐH này, thì những trường ĐH như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ...".
Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc.
Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất... Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà.
Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu.
Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: "Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?"
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
"Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học..."
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...
Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...". Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.
Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: "Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa."
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì.
Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
"Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!" Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
Tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
"Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: "Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng."
Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!"
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ...
Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.
Trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
"Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: "Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ."
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh.
Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi."
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...
"...Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường ĐH tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường ĐH này, thì những trường ĐH như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ...".
Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc.
Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất... Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà.
Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu.
Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: "Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?"
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
"Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học..."
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...
Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...". Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.
Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: "Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa."
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì.
Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
"Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!" Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
Tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
"Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: "Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng."
Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!"
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ...
Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.
Trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
"Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: "Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ."
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh.
Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi."
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...
Bài Ca Của Chúa
Bùi Hữu Thư
14:53 05/09/2011
Những đỉnh núi cao vời,
Thể hiện quyền năng Ngài.
Ngọn cỏ gió đùa chơi,
Nói lên lòng lành Ngài.
Những vì sao im lặng,
Như kim cương lấp lánh,
Mô tả trí khôn ngoan,
Quá cao vời khôn sánh.
Giòng suối hiền róc rách,
Như thì thầm bài ca,
Ngợi khen Ngài Chí Thánh,
Tụng danh Ngài cao xa.
Bầy chim ca thánh thót,
Nhẩy nhót trên cành cây,
Hát lên lời dịu ngọt,
Bản tình ca dâng Ngài.
Bởi vì Ngài đã phán:
"Ta ngự trị hồn con,
"Ban cho con tình bạn,
"Muôn đời không héo hon.?
"Ta với con nên một,
"Ðể niềm vui Nước Trời,
"Bao la và dịu ngọt, ?
"Cho con nếm đời đời.?"
Những khó khăn tan biến,
Mọi khổ đau nguôi dần,
Ðời tôi xin dâng hiến,
Vì Ngài xin dấn thân.?
Băn khoăn kiếp người
Trầm Thiên Thu
18:29 05/09/2011
Nhưng đừng bỏ mặc con nghèo quá thôi
Vì khi nghèo rớt mồng tơi
Hoặc khi giàu sụ thì đời con nguy!
Giàu, nghèo cũng khiến con hư
Và con có thể làm ô danh Ngài
Xin thương nâng đỡ từng ngày
Đừng phải đọa đày, thiếu thốn, Chúa ơi!
Nếu tâm can cứ rối bời
Thì con quên Chúa, rã rời tin yêu
Kiếp người đầy vết khổ đau
Nỗi đời trĩu nặng sớm chiều băn khoăn
Giàu, nghèo ranh giới mong manh
Con xin tín thác chân thành sớm khuya
Xin Tình Yêu Chúa bao la
Thêm Tin Cậy Mến cho vừa khát khao.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Những Cánh Hải Điểu
Nguyễn Cao Nhã
11:24 05/09/2011
NHỮNG CÁNH HẢI ĐIỂU
Ảnh của Nguyễn Cao Nhã
Những con hải điểu mang tim lạnh
Thả tiếng tàn phai xuống gọi đàn.
(Trích thơ của Du Tử Lê)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Nguyễn Cao Nhã
Những con hải điểu mang tim lạnh
Thả tiếng tàn phai xuống gọi đàn.
(Trích thơ của Du Tử Lê)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ngủ cho Ngoan
Dominic Đức Nguyễn
22:12 05/09/2011
NGỦ CHO NGOAN
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Yên chí ngủ con ơi, đừng hoảng sợ
Rồi mặt trời cũng mọc ở phương đông!
(Trích thơ của Cao Nguyên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Yên chí ngủ con ơi, đừng hoảng sợ
Rồi mặt trời cũng mọc ở phương đông!
(Trích thơ của Cao Nguyên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền