Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Scola: Cho người ly dị và tái hôn rước lễ là trái với giáo huấn của Giáo hội
Anthony Nguyễn
00:20 09/09/2018
Đức Hồng Y Angelo Scola, năm nay 77 tuổi, nguyên Tổng Giám Mục Milan, vừa cho ra mắt một cuốn sách mới bàn về Tông huấn Amoris Laetitia. Angelo Scola, "Ho scommesso sulla libertà. Autobiografia", Conversazioni con Luigi Geninazzi, Solferino, Milan, 2018. (Angelo Scola, "Tôi đặt cược vào tự do, Tự truyện", Trò chuyện với Luigi Geninazzi, Solferino, Milan, 2018).
Dan Hitchens, phó tổng biên tập Catholic Herald có bài nhận định sau.
Nguyên bản tiếng Anh: Cardinal Scola: Communion for the remarried contradicts Church teaching – Đức Hồng Y Scola: Cho người ly dị tái hôn rước lễ là trái với giáo huấn của Giáo Hội.
Dưới đây là bản dịch Việt ngữ.
Đức Hồng Y Angelo Scola, một Hồng Y nổi tiếng và vào năm 2013 đã là một trong các vị Hồng Y được báo chí dự đoán có nhiều khả năng trở thành Giáo Hoàng, đã tái gia nhập vào cuộc tranh luận về việc cho người tái hôn được rước lễ.
Trong một cuốn sách mới ghi lại một cuộc phỏng vấn dài, cựu Tổng giám mục Milan đã lên tiếng bảo vệ giáo huấn truyền thống của Giáo hội, cụ thể là những người ly dị và tái hôn không thể Rước lễ trừ khi họ quyết tâm sống cuộc sống “hoàn toàn khiết tịnh”.
Giáo huấn này, theo Đức Hồng Y Scola, “bắt nguồn từ chính tính cách đặc thù của hôn nhân Kitô giáo”, vì sự liên hệ chặt chẽ giữa mối giây hôn nhân và mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội của Người.
Đức Hồng Y cho biết ngài đã bày tỏ ý kiến của mình với Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong một buổi triều yết riêng.
Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình năm 2014 và 2015, Đức Hồng Y Walter Kasper đã đề xuất rằng những người ly dị và tái hôn có thể rước lễ, trong khi tiếp tục có quan hệ tình dục với một đối tác mới, nếu họ đã trải qua một “tiến trình thống hối”.
Nhưng các giám mục đã không cảm thấy thuyết phục đối với đề xuất này, là điều đã không được đề cập trực tiếp trong tài liệu cuối cùng của Thượng Hội Đồng hoặc trong Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được công bố vào năm 2016. Tông huấn này, và những phát biểu tiếp theo sau đó của Đức Giáo Hoàng, đã nhận được những giải thích mâu thuẫn của các giám mục và các nhà thần học.
Chẳng hạn, hai giám mục của Malta tuyên bố rằng, theo Amoris Laetitia, đòi buộc những người ly dị và tái hôn sống như anh trai em gái với đối tác mới của họ có thể là một yêu cầu “không khả thi”. Ngược lại, tại Canada, sáu giám mục của Alberta và vùng lãnh thổ Tây Bắc khẳng định giáo lý truyền thống trong cách giải thích của các ngài về Tông huấn Amoris Laetitia.
Tương tự như thế, các giám mục trên khắp thế giới đã đưa ra những giải thích khá khác biệt với nhau về Tông huấn Amoris Laetitia. Ngoại trừ Á Căn Đình, hầu hết các Hội Đồng Giám Mục, kể cả Hội Đồng Giám Mục Anh và xứ Wales, đã giữ im lặng.
Trong cuộc phỏng vấn, theo trích dẫn của L’Espresso, Đức Hồng Y Scola nói rằng “cốt lõi của vấn đề” là liên hệ mật thiết giữa hôn nhân và Hiệp Thông Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể, theo Đức Hồng Y, “là bí tích của tình yêu phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.”
Ngài nhấn mạnh rằng Thánh Thể là “nền tảng” cho hôn nhân, cho nên một người rời bỏ hôn nhân và bắt đầu một kết hiệp mới cũng đương nhiên “loại trừ chính mình khỏi Thánh Thể”.
Ngài viết: “Việc từ chối ban bí tích Thánh Thể cho người ly dị và tái hôn không phải là một hình phạt có thể được thu hồi hoặc hạ giảm, nhưng vốn có trong chính tính cách của hôn nhân Kitô giáo, như tôi đã nói, là sống trên nền tảng của ân sủng Thánh Thể của Chúa Kitô là chú rể và cô dâu của Người là Giáo Hội.”
Lập luận của Đức Hồng Y Scola vang vọng ngôn ngữ được sử dụng bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Familiaris Consortio của ngài được công bố vào năm 1981. Vị Giáo hoàng Ba Lan nói Giáo hội “tái khẳng định thực hành của mình, dựa trên Thánh Kinh, không ban bí tích Thánh Thể cho những người ly dị và tái hôn.”
Đức Gioan Phaolô giải thích điều này trên mối liên hệ giữa hôn nhân và Thánh Thể: “Họ không thể được rước lễ từ thực tế rằng tình trạng và điều kiện sống của họ đối kháng một cách khách quan với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được thể hiện và thực hiện bởi Thánh Thể.”
Giáo huấn này đã được Thánh Gioan Phaolô tái khẳng định, cũng như đã được khẳng định bởi Bộ Giáo Lý Đức Tin và bởi Đức Bênêđictô XVI.
Viện dẫn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Scola nói rằng người tái hôn chỉ có thể được Rước lễ nếu họ xưng tội và quyết tâm sống hoàn toàn khiết tịnh.
Đức Hồng Y Scola cũng chỉ ra rằng Amoris Laetitia không phải là trường hợp đầu tiên trong lịch sử cho thấy “sự chú ý” và “nhạy cảm” của Giáo Hội đối với những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn. Hồng Y Scola nhắc nhớ rằng vào năm 2012, Đức Benedict XVI đã nhấn mạnh rằng rằng “Giáo hội phải yêu thương những anh chị em này, nhưng như thế cũng chưa đủ, chính họ cũng phải nhìn thấy và cảm nhận được tình yêu này.” Và ngài nói thêm rằng “đau khổ của họ, nếu được chấp nhận từ nội tâm, là một món quà cho Giáo Hội.”
Dan Hitchens, phó tổng biên tập Catholic Herald có bài nhận định sau.
Nguyên bản tiếng Anh: Cardinal Scola: Communion for the remarried contradicts Church teaching – Đức Hồng Y Scola: Cho người ly dị tái hôn rước lễ là trái với giáo huấn của Giáo Hội.
Dưới đây là bản dịch Việt ngữ.
Đức Hồng Y Angelo Scola, một Hồng Y nổi tiếng và vào năm 2013 đã là một trong các vị Hồng Y được báo chí dự đoán có nhiều khả năng trở thành Giáo Hoàng, đã tái gia nhập vào cuộc tranh luận về việc cho người tái hôn được rước lễ.
Trong một cuốn sách mới ghi lại một cuộc phỏng vấn dài, cựu Tổng giám mục Milan đã lên tiếng bảo vệ giáo huấn truyền thống của Giáo hội, cụ thể là những người ly dị và tái hôn không thể Rước lễ trừ khi họ quyết tâm sống cuộc sống “hoàn toàn khiết tịnh”.
Giáo huấn này, theo Đức Hồng Y Scola, “bắt nguồn từ chính tính cách đặc thù của hôn nhân Kitô giáo”, vì sự liên hệ chặt chẽ giữa mối giây hôn nhân và mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội của Người.
Đức Hồng Y cho biết ngài đã bày tỏ ý kiến của mình với Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong một buổi triều yết riêng.
Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình năm 2014 và 2015, Đức Hồng Y Walter Kasper đã đề xuất rằng những người ly dị và tái hôn có thể rước lễ, trong khi tiếp tục có quan hệ tình dục với một đối tác mới, nếu họ đã trải qua một “tiến trình thống hối”.
Nhưng các giám mục đã không cảm thấy thuyết phục đối với đề xuất này, là điều đã không được đề cập trực tiếp trong tài liệu cuối cùng của Thượng Hội Đồng hoặc trong Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được công bố vào năm 2016. Tông huấn này, và những phát biểu tiếp theo sau đó của Đức Giáo Hoàng, đã nhận được những giải thích mâu thuẫn của các giám mục và các nhà thần học.
Chẳng hạn, hai giám mục của Malta tuyên bố rằng, theo Amoris Laetitia, đòi buộc những người ly dị và tái hôn sống như anh trai em gái với đối tác mới của họ có thể là một yêu cầu “không khả thi”. Ngược lại, tại Canada, sáu giám mục của Alberta và vùng lãnh thổ Tây Bắc khẳng định giáo lý truyền thống trong cách giải thích của các ngài về Tông huấn Amoris Laetitia.
Tương tự như thế, các giám mục trên khắp thế giới đã đưa ra những giải thích khá khác biệt với nhau về Tông huấn Amoris Laetitia. Ngoại trừ Á Căn Đình, hầu hết các Hội Đồng Giám Mục, kể cả Hội Đồng Giám Mục Anh và xứ Wales, đã giữ im lặng.
Trong cuộc phỏng vấn, theo trích dẫn của L’Espresso, Đức Hồng Y Scola nói rằng “cốt lõi của vấn đề” là liên hệ mật thiết giữa hôn nhân và Hiệp Thông Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể, theo Đức Hồng Y, “là bí tích của tình yêu phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.”
Ngài nhấn mạnh rằng Thánh Thể là “nền tảng” cho hôn nhân, cho nên một người rời bỏ hôn nhân và bắt đầu một kết hiệp mới cũng đương nhiên “loại trừ chính mình khỏi Thánh Thể”.
Ngài viết: “Việc từ chối ban bí tích Thánh Thể cho người ly dị và tái hôn không phải là một hình phạt có thể được thu hồi hoặc hạ giảm, nhưng vốn có trong chính tính cách của hôn nhân Kitô giáo, như tôi đã nói, là sống trên nền tảng của ân sủng Thánh Thể của Chúa Kitô là chú rể và cô dâu của Người là Giáo Hội.”
Lập luận của Đức Hồng Y Scola vang vọng ngôn ngữ được sử dụng bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Familiaris Consortio của ngài được công bố vào năm 1981. Vị Giáo hoàng Ba Lan nói Giáo hội “tái khẳng định thực hành của mình, dựa trên Thánh Kinh, không ban bí tích Thánh Thể cho những người ly dị và tái hôn.”
Đức Gioan Phaolô giải thích điều này trên mối liên hệ giữa hôn nhân và Thánh Thể: “Họ không thể được rước lễ từ thực tế rằng tình trạng và điều kiện sống của họ đối kháng một cách khách quan với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được thể hiện và thực hiện bởi Thánh Thể.”
Giáo huấn này đã được Thánh Gioan Phaolô tái khẳng định, cũng như đã được khẳng định bởi Bộ Giáo Lý Đức Tin và bởi Đức Bênêđictô XVI.
Viện dẫn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Scola nói rằng người tái hôn chỉ có thể được Rước lễ nếu họ xưng tội và quyết tâm sống hoàn toàn khiết tịnh.
Đức Hồng Y Scola cũng chỉ ra rằng Amoris Laetitia không phải là trường hợp đầu tiên trong lịch sử cho thấy “sự chú ý” và “nhạy cảm” của Giáo Hội đối với những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn. Hồng Y Scola nhắc nhớ rằng vào năm 2012, Đức Benedict XVI đã nhấn mạnh rằng rằng “Giáo hội phải yêu thương những anh chị em này, nhưng như thế cũng chưa đủ, chính họ cũng phải nhìn thấy và cảm nhận được tình yêu này.” Và ngài nói thêm rằng “đau khổ của họ, nếu được chấp nhận từ nội tâm, là một món quà cho Giáo Hội.”
Âm mưu đảo chánh Đức Giáo Hoàng Phanxicô -tiếp theo và hết-
Trần Mạnh Trác
13:58 09/09/2018
Xem Bài 1
-----------------
(TGM) Viganò, có thể đang ẩn mặt ở một nơi nào đó bên Hoa Kỳ sau khi viết lá thư độc địa, vẫn nhỏ giọt nhiều trái bom chống (GH) Phanxicô qua các trang web bảo thủ và qua các nhà báo chống (GH) Phanxicô, đưa thêm những tiết lộ mới về cuộc gặp gỡ đằng sau hậu trường giữa (GH) Phanxicô và Kim Davis, là người thư ký quận cuả Kentucky, đã không tuân lệnh cuả toà án và từ chối ký giấy phép kết hôn cho người đồng tính, về sự việc đã như thế nào và ai đã nói điều gì gian dối. Bây giờ thì, ngay cả những người đang cố gắng bảo vệ (GH) Phanxicô cũng bị buộc phải thừa nhận rằng tất cả mọi người đã nói dối về cách thức mà cuộc họp đó xảy ra, không như những tuyên bố chính thức từ Vatican vào thời điểm đó. Những người cùng phe với (TGM) Viganò nói rằng sẽ còn rất nhiều thứ khác nữa.
Mặc dù (GH) Phanxicô vẫn giữ im lặng, ngoại trừ vài bài giảng ở công trường mà những người ủng hộ ông đã cố gắng giải thích như là những thông điệp có chứa đựng ẩn dụ, cái âm mưu (đảo chính) vẫn tiếp tục dày lên. Điều đó đặc biệt đúng trong Giáo Hội Hoa Kỳ, là giáo hội không chỉ nảy sinh ra một kẻ thù nhiệt thành nhất là Hồng Y Raymond Burke, đang được chiến lược gia quyền lực người Mỹ là Steve Bannon ủng hộ hết mình, mà còn là một giáo hội chứa chất rất nhiều ngòi thuốc súng từ cái đặc sản lạm dụng tình dục cuả hàng giáo sĩ và những sự che đậy dường như có dây dợ móc nối thẳng từ Hoa Kỳ đến Vatican.
Đặc biệt, bản báo cáo nguy hại cuả bồi thẩm đoàn Pennsylvania đã nêu đích danh hơn 300 linh mục săn mồi, mà nạn nhân là hơn 1.000 trẻ em, trong khoảng thời gian hơn bảy thập kỷ, chỉ trong tiểu bang đó mà thôi, và đã tạo ra một thủ phạm đáng kể: Hồng Y Donald Wuerl. Ông là người kế nhiệm McCarrick làm tổng giám mục Washington, DC và ông củng là cựu giám mục niên trưởng ở Pennsylvania, liên kết ông với hai vụ bê bối lớn nhất mà ngay bây giờ (GH) Phanxicô đang phải đương đầu.
Hầu hết những người trong ban nhạc chống Wuerl muốn ông ta từ chức, hoặc tốt hơn là bị (GH) Phanxicô sa thải, với lý do ông đã thừa nhận đã giải quyết sai những tội lạm dụng tình dục ở Pennsylvania khi ông là tổng giám mục. Ông là một người làm mẫu trong báo cáo Pennsylvania, tên của ông xuất hiện hàng chục lần. Các nhà phê bình Wuerl cũng nói rằng ông đã nói dối khi ông nói rằng, giống như (GH) Phanxicô, chưa bao giờ nghe những tin đồn lan tràn về McCarrick, mà những quan hệ tình dục đáng nôn mữa với các chủng sinh trẻ đã được chứng minh.
(HY) Wuerl đã không giúp ích cho ông chủ của mình được bao nhiêu. Thay vào đó, ông ta dường như đang đổ thêm vấn đề cho vị giáo hoàng. Các nhà lý thuyết bảo thủ cuả âm mưu đã ồn ào hôm thứ Năm tuần trước khi có vẻ như (HY) Wuerl đã biến mất. OnePeterFive, một trang web truyền thống cực kỳ phổ biến, đặt tên theo một câu trong Kinh Thánh, ví mình với những người "chăn giắt đàn chiên của Thiên Chúa trong thời gian nguy biến" khi phải đối mặt với ma quỷ, đã đăng một cột với tiêu đề " Where's Wuerldo ?" với đầy đủ những bức tranh biếm hoạ kiểu Waldo mô tả vị giám mục mất tích.
Trích dẫn các trang Công Giáo bảo thủ nổi tiếng đang chống (GH) Phanxicô, là Lifesite và Church Militant, OnePeterFive tuyên bố rằng (HY) Wuerl đã chạy trốn tới Roma để tránh mặt các nhà chức trách thế tục ở Mỹ, nhà ở cuả ông đang trông giống như một thị trấn ma ”và chiếc điện thoại di động của ông đã bị tắt trong khi ông" tự giam cầm mình trong một khách sạn ở DC ".
Steve Skojec, người sáng lập ra OnePeterFive, báo động “Wuerl sẽ là mục tiêu chính,” trích dẫn nguồn tin giấu tên ở Lifesite “là Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn ông ta ra khỏi nước vì sợ rằng ông ta tiết lộ 'tất cả những gì ông ta biết' bởi vì bất kỳ trường hợp tiềm năng nào mà bộ [Tư pháp] (điều tra) sẽ dẫn tới Vatican.”
Sự việc (HY) Wuerl có thể đã được dẫn đi an toàn đến sau bức tường thành kiên cố của Tòa Thánh là một chuyện không đến nỗi hoang đường đâu. Xét cho cùng, Vatican đã có một lịch sử lâu dài bảo vệ người của mình từ các chính quyền thế tục, gần đây nhất họ đưa LM Carlo Alberto Capella trở về Rome vào tháng 9 năm ngoái khi các nhà chức trách Hoa Kỳ và Canada muốn tìm kiếm ông.
Đừng quên rằng chính Viganò là người tuyển mộ Capella một năm trước đó. Capella, một nhân viên trung cấp ngoại giao của Vatican, đã bị FBI phát hiện các dấu hiệu ấu dâm, và yêu cầu Vatican bãi bỏ quyền đặc miễn ngoại giao và giúp vào việc điều tra.
Khi Capella gặp rắc rối, Đức Giáo Hoàng đã đưa ông đến Rome an toàn, ông phải đối mặt với một tòa án Vatican hồi tháng trước . Ông bị kết án 5 năm tù giam tại Vatican và phạt tiền 5.000 euro. Các nhà chức trách thế tục Hoa Kỳ và Canada có thể sẽ không bao giờ có cơ hội truy tố ông ta và, nếu nhìn vào lịch sử như là một tiền lệ, thì giáo hoàng cuối cùng sẽ tha thứ cho ông.
Nhưng các trang web bảo thủ chỉ đúng có một phần. (HY) Wuerl đã bí mật đi Rome tuần trước, ông đã gặp Giáo Hoàng để thảo luận về những gì cần làm cho những rắc rối của mình ở Mỹ. Nhưng có vẻ như ông ta không tìm nơi trú ẩn, ông ta đã trở lại bục giảng ở DC hôm Chúa Nhật, nơi ông ta bị la ó bởi những kẻ thù ghét . Vatican đã không chính thức xác nhận chuyến viếng thăm của (HY) Wuerl, và cũng không liệt kê trong lịch trình chính thức của giáo hoàng, được phân phát cho báo chí ở Vatican. Do đó, sự im lặng cuả Giáo Hoàng lại đưa thêm mồi lửa cho một ngọn lửa mà các kẻ thù bảo thủ của ông đang nuôi dưỡng.
Chuyên gia Vatican và tác giả của cuốn sách Vatican Diaries là John Thavis, giải thích cho The Daily Beast những gì có thể xảy ra ở đằng sau sự miễn cưỡng tham gia của giáo hoàng . “Nếu có bất cứ điều gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô ghét, thì đó là những tin đồn,” Thavis nói. “Và tôi nghĩ ngài đã coi bức thư của Viganò như là mười một trang tin đồn, toàn nói bóng gió và hoàn toàn miệt thị cá nhân (innuendo and outright character assassination). Thật là không thiết thực khi mong đợi giáo hoàng này hay giáo triều trả lời từng điểm cuả những việc tấn công đó. ”
Tuy nhiên, Thavis nói ông ngạc nhiên khi Vatican vẫn chưa đáp ứng lời buộc tội chính của bức thư - rằng Viganò đã cảnh báo (GH) Phanxicô trước về lệnh trừng phạt chống lại McCarrick, và rằng giáo hoàng đã thiếu sót không xem xét tiếp. "Đây có thể là một trường hợp đáng bàn, tuy nhiên, một lời giải thích đầy đủ của (GH) Phanxicô sẽ có thể đưa đến những chỉ trích cho hai vị tiền nhiệm cuả mình, GH Benedictô và John Paul II," Thavis nói. “Đó là điều mà tôi chắc chắn giáo hoàng muốn tránh, và có thể giúp giải thích sự im lặng của ngài.”
Trong thực tế, có một người có thể dọn dẹp hết đống lộn xộn này một lần và mãi mãi. Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI, người đang giết thì giờ trong một tu viện ở bên trong Vatican, là một người biết chính xác những gì và khi nào (GH) Phanxicô biết, nhưng ngài cũng từ chối đưa ra một tuyên bố công khai về vấn đề này, và như thế ngọn lửa cuả cả hai phe tiếp tục gây thêm phân hoá trong Giáo Hội.
Khi âm mưu cung điện tiếp tục ở Rome, thì những gì liên quan với việc lạm dụng cuả giáo sĩ cũng vẫn tiếp tục ở Mỹ khi nhiều tiểu bang, tiểu bang này theo sau tiểu bang khác, bắt đầu điều tra lạm dụng tình dục cuả giáo sĩ và các che đậy của Giáo Hội Công Giáo sau báo cáo nổi bật của Pennsylvania. Một cuộc điều tra đang được tiến hành ở Missouri, nơi mà người chống (GH) Phanxicô là Hồng Y Burke và người ủng hộ (GH) Phanxicô là Hồng Y Timothy Dolan, đang là tổng giám mục New York, đã đều phục vụ, (cuộc điều tra) đó có thể tàn phá giáo hội Mỹ. Bishop Accountability, một cơ sở dữ liệu của tất cả các báo cáo về các linh mục săn mồi, liệt kê ra Missouri có 114 kẻ lạm dụng trong bốn giáo phận. Ngoài ra còn có những điều tra đáng tin cậy về lạm dụng tình dục cuả giáo sĩ đang diễn ra ở Florida, Illinois và New York, chưa kể đến sự tiếp tục điều tra ở Pennsylvania mà nhiều linh mục tiếp tục bị nêu tên và điều tra. Hôm thứ Năm, tổng chưởng lý cuả tiểu bang New York đã đòi hỏi tất cả các giáo phận ở tiểu bang New York phải nộp hồ sơ bí mật của họ về tình trạng lạm dụng.
Về phần (HY) Wuerl, sự từ chức sẽ được hoan nghênh bởi các nạn nhân của lạm dụng tình dục và nhiều những người ủng hộ (GH) Phanxicô cũng tin rằng vị Hồng Y đang nhanh chóng đeo gông trên cổ của mình, Trong thực tế thì Giáo Hoàng Francis đã có lá thư từ chức của vị Hồng Y ở trước mặt ông rồi, kể từ tháng 11 năm 2015, khi (HY) Wuerl tròn 75 tuổi, là lúc tất cả các tổng giám mục đều phải yêu cầu từ chức. Quả bóng (HY) Wuerl đang hoàn toàn được đưa vào chân của (GH) Phanxicô, và, trên thực tế, là toàn bộ vụ bê bối mà (cái áo cuả) Giáo Hội đang bị xé rách ở ngay các đường chỉ may.
-----------------
(TGM) Viganò, có thể đang ẩn mặt ở một nơi nào đó bên Hoa Kỳ sau khi viết lá thư độc địa, vẫn nhỏ giọt nhiều trái bom chống (GH) Phanxicô qua các trang web bảo thủ và qua các nhà báo chống (GH) Phanxicô, đưa thêm những tiết lộ mới về cuộc gặp gỡ đằng sau hậu trường giữa (GH) Phanxicô và Kim Davis, là người thư ký quận cuả Kentucky, đã không tuân lệnh cuả toà án và từ chối ký giấy phép kết hôn cho người đồng tính, về sự việc đã như thế nào và ai đã nói điều gì gian dối. Bây giờ thì, ngay cả những người đang cố gắng bảo vệ (GH) Phanxicô cũng bị buộc phải thừa nhận rằng tất cả mọi người đã nói dối về cách thức mà cuộc họp đó xảy ra, không như những tuyên bố chính thức từ Vatican vào thời điểm đó. Những người cùng phe với (TGM) Viganò nói rằng sẽ còn rất nhiều thứ khác nữa.
Mặc dù (GH) Phanxicô vẫn giữ im lặng, ngoại trừ vài bài giảng ở công trường mà những người ủng hộ ông đã cố gắng giải thích như là những thông điệp có chứa đựng ẩn dụ, cái âm mưu (đảo chính) vẫn tiếp tục dày lên. Điều đó đặc biệt đúng trong Giáo Hội Hoa Kỳ, là giáo hội không chỉ nảy sinh ra một kẻ thù nhiệt thành nhất là Hồng Y Raymond Burke, đang được chiến lược gia quyền lực người Mỹ là Steve Bannon ủng hộ hết mình, mà còn là một giáo hội chứa chất rất nhiều ngòi thuốc súng từ cái đặc sản lạm dụng tình dục cuả hàng giáo sĩ và những sự che đậy dường như có dây dợ móc nối thẳng từ Hoa Kỳ đến Vatican.
Đặc biệt, bản báo cáo nguy hại cuả bồi thẩm đoàn Pennsylvania đã nêu đích danh hơn 300 linh mục săn mồi, mà nạn nhân là hơn 1.000 trẻ em, trong khoảng thời gian hơn bảy thập kỷ, chỉ trong tiểu bang đó mà thôi, và đã tạo ra một thủ phạm đáng kể: Hồng Y Donald Wuerl. Ông là người kế nhiệm McCarrick làm tổng giám mục Washington, DC và ông củng là cựu giám mục niên trưởng ở Pennsylvania, liên kết ông với hai vụ bê bối lớn nhất mà ngay bây giờ (GH) Phanxicô đang phải đương đầu.
Hầu hết những người trong ban nhạc chống Wuerl muốn ông ta từ chức, hoặc tốt hơn là bị (GH) Phanxicô sa thải, với lý do ông đã thừa nhận đã giải quyết sai những tội lạm dụng tình dục ở Pennsylvania khi ông là tổng giám mục. Ông là một người làm mẫu trong báo cáo Pennsylvania, tên của ông xuất hiện hàng chục lần. Các nhà phê bình Wuerl cũng nói rằng ông đã nói dối khi ông nói rằng, giống như (GH) Phanxicô, chưa bao giờ nghe những tin đồn lan tràn về McCarrick, mà những quan hệ tình dục đáng nôn mữa với các chủng sinh trẻ đã được chứng minh.
(HY) Wuerl đã không giúp ích cho ông chủ của mình được bao nhiêu. Thay vào đó, ông ta dường như đang đổ thêm vấn đề cho vị giáo hoàng. Các nhà lý thuyết bảo thủ cuả âm mưu đã ồn ào hôm thứ Năm tuần trước khi có vẻ như (HY) Wuerl đã biến mất. OnePeterFive, một trang web truyền thống cực kỳ phổ biến, đặt tên theo một câu trong Kinh Thánh, ví mình với những người "chăn giắt đàn chiên của Thiên Chúa trong thời gian nguy biến" khi phải đối mặt với ma quỷ, đã đăng một cột với tiêu đề " Where's Wuerldo ?" với đầy đủ những bức tranh biếm hoạ kiểu Waldo mô tả vị giám mục mất tích.
Trích dẫn các trang Công Giáo bảo thủ nổi tiếng đang chống (GH) Phanxicô, là Lifesite và Church Militant, OnePeterFive tuyên bố rằng (HY) Wuerl đã chạy trốn tới Roma để tránh mặt các nhà chức trách thế tục ở Mỹ, nhà ở cuả ông đang trông giống như một thị trấn ma ”và chiếc điện thoại di động của ông đã bị tắt trong khi ông" tự giam cầm mình trong một khách sạn ở DC ".
Steve Skojec, người sáng lập ra OnePeterFive, báo động “Wuerl sẽ là mục tiêu chính,” trích dẫn nguồn tin giấu tên ở Lifesite “là Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn ông ta ra khỏi nước vì sợ rằng ông ta tiết lộ 'tất cả những gì ông ta biết' bởi vì bất kỳ trường hợp tiềm năng nào mà bộ [Tư pháp] (điều tra) sẽ dẫn tới Vatican.”
Sự việc (HY) Wuerl có thể đã được dẫn đi an toàn đến sau bức tường thành kiên cố của Tòa Thánh là một chuyện không đến nỗi hoang đường đâu. Xét cho cùng, Vatican đã có một lịch sử lâu dài bảo vệ người của mình từ các chính quyền thế tục, gần đây nhất họ đưa LM Carlo Alberto Capella trở về Rome vào tháng 9 năm ngoái khi các nhà chức trách Hoa Kỳ và Canada muốn tìm kiếm ông.
Đừng quên rằng chính Viganò là người tuyển mộ Capella một năm trước đó. Capella, một nhân viên trung cấp ngoại giao của Vatican, đã bị FBI phát hiện các dấu hiệu ấu dâm, và yêu cầu Vatican bãi bỏ quyền đặc miễn ngoại giao và giúp vào việc điều tra.
Khi Capella gặp rắc rối, Đức Giáo Hoàng đã đưa ông đến Rome an toàn, ông phải đối mặt với một tòa án Vatican hồi tháng trước . Ông bị kết án 5 năm tù giam tại Vatican và phạt tiền 5.000 euro. Các nhà chức trách thế tục Hoa Kỳ và Canada có thể sẽ không bao giờ có cơ hội truy tố ông ta và, nếu nhìn vào lịch sử như là một tiền lệ, thì giáo hoàng cuối cùng sẽ tha thứ cho ông.
Nhưng các trang web bảo thủ chỉ đúng có một phần. (HY) Wuerl đã bí mật đi Rome tuần trước, ông đã gặp Giáo Hoàng để thảo luận về những gì cần làm cho những rắc rối của mình ở Mỹ. Nhưng có vẻ như ông ta không tìm nơi trú ẩn, ông ta đã trở lại bục giảng ở DC hôm Chúa Nhật, nơi ông ta bị la ó bởi những kẻ thù ghét . Vatican đã không chính thức xác nhận chuyến viếng thăm của (HY) Wuerl, và cũng không liệt kê trong lịch trình chính thức của giáo hoàng, được phân phát cho báo chí ở Vatican. Do đó, sự im lặng cuả Giáo Hoàng lại đưa thêm mồi lửa cho một ngọn lửa mà các kẻ thù bảo thủ của ông đang nuôi dưỡng.
Chuyên gia Vatican và tác giả của cuốn sách Vatican Diaries là John Thavis, giải thích cho The Daily Beast những gì có thể xảy ra ở đằng sau sự miễn cưỡng tham gia của giáo hoàng . “Nếu có bất cứ điều gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô ghét, thì đó là những tin đồn,” Thavis nói. “Và tôi nghĩ ngài đã coi bức thư của Viganò như là mười một trang tin đồn, toàn nói bóng gió và hoàn toàn miệt thị cá nhân (innuendo and outright character assassination). Thật là không thiết thực khi mong đợi giáo hoàng này hay giáo triều trả lời từng điểm cuả những việc tấn công đó. ”
Tuy nhiên, Thavis nói ông ngạc nhiên khi Vatican vẫn chưa đáp ứng lời buộc tội chính của bức thư - rằng Viganò đã cảnh báo (GH) Phanxicô trước về lệnh trừng phạt chống lại McCarrick, và rằng giáo hoàng đã thiếu sót không xem xét tiếp. "Đây có thể là một trường hợp đáng bàn, tuy nhiên, một lời giải thích đầy đủ của (GH) Phanxicô sẽ có thể đưa đến những chỉ trích cho hai vị tiền nhiệm cuả mình, GH Benedictô và John Paul II," Thavis nói. “Đó là điều mà tôi chắc chắn giáo hoàng muốn tránh, và có thể giúp giải thích sự im lặng của ngài.”
Trong thực tế, có một người có thể dọn dẹp hết đống lộn xộn này một lần và mãi mãi. Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI, người đang giết thì giờ trong một tu viện ở bên trong Vatican, là một người biết chính xác những gì và khi nào (GH) Phanxicô biết, nhưng ngài cũng từ chối đưa ra một tuyên bố công khai về vấn đề này, và như thế ngọn lửa cuả cả hai phe tiếp tục gây thêm phân hoá trong Giáo Hội.
Khi âm mưu cung điện tiếp tục ở Rome, thì những gì liên quan với việc lạm dụng cuả giáo sĩ cũng vẫn tiếp tục ở Mỹ khi nhiều tiểu bang, tiểu bang này theo sau tiểu bang khác, bắt đầu điều tra lạm dụng tình dục cuả giáo sĩ và các che đậy của Giáo Hội Công Giáo sau báo cáo nổi bật của Pennsylvania. Một cuộc điều tra đang được tiến hành ở Missouri, nơi mà người chống (GH) Phanxicô là Hồng Y Burke và người ủng hộ (GH) Phanxicô là Hồng Y Timothy Dolan, đang là tổng giám mục New York, đã đều phục vụ, (cuộc điều tra) đó có thể tàn phá giáo hội Mỹ. Bishop Accountability, một cơ sở dữ liệu của tất cả các báo cáo về các linh mục săn mồi, liệt kê ra Missouri có 114 kẻ lạm dụng trong bốn giáo phận. Ngoài ra còn có những điều tra đáng tin cậy về lạm dụng tình dục cuả giáo sĩ đang diễn ra ở Florida, Illinois và New York, chưa kể đến sự tiếp tục điều tra ở Pennsylvania mà nhiều linh mục tiếp tục bị nêu tên và điều tra. Hôm thứ Năm, tổng chưởng lý cuả tiểu bang New York đã đòi hỏi tất cả các giáo phận ở tiểu bang New York phải nộp hồ sơ bí mật của họ về tình trạng lạm dụng.
Về phần (HY) Wuerl, sự từ chức sẽ được hoan nghênh bởi các nạn nhân của lạm dụng tình dục và nhiều những người ủng hộ (GH) Phanxicô cũng tin rằng vị Hồng Y đang nhanh chóng đeo gông trên cổ của mình, Trong thực tế thì Giáo Hoàng Francis đã có lá thư từ chức của vị Hồng Y ở trước mặt ông rồi, kể từ tháng 11 năm 2015, khi (HY) Wuerl tròn 75 tuổi, là lúc tất cả các tổng giám mục đều phải yêu cầu từ chức. Quả bóng (HY) Wuerl đang hoàn toàn được đưa vào chân của (GH) Phanxicô, và, trên thực tế, là toàn bộ vụ bê bối mà (cái áo cuả) Giáo Hội đang bị xé rách ở ngay các đường chỉ may.
Giám Mục Ái Nhĩ Lan khích lệ một khởi đầu mới trong quan hệ giữa Giáo Hội và nhà nước
Đặng Tự Do
16:50 09/09/2018
Đức Cha Brendan Leahy Giám mục Limerick đã khuyến khích một sự hợp tác mới mẻ giữa Giáo hội và chính phủ Cộng hòa Ái Nhĩ Lan.
“Tôi đưa ra một lời cầu xin khiêm tốn với tất cả những ai muốn bắt đầu với chúng ta một lần nữa theo một cách mới, điều mà thủ tướng đã gọi là một giao ước mới; chúng ta hãy xây dựng lại một Giáo Hội phục vụ xã hội Ái Nhĩ Lan”, ngài nói với tờ Irish Times.
Ngài nhấn mạnh rằng mối quan hệ mới sẽ cho phép Giáo Hội “phục vụ hiệu quả người Ái Nhĩ Lan”.
Ý kiến của Đức Giám Mục Leahy đã được đưa ra sau Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới, trong đó Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cập đến những tai tiếng lạm dụng tính dục làm điêu đứng Giáo Hội tại đây.
Theo Đức Cha Limerick những tai tiếng lạm dụng tính dục là “một sự mù lòa trong Giáo hội” mà bây giờ đang được nhìn bằng đôi mắt mở rộng. Ngài nói rằng mặc dù các tai tiếng này gây chán nản trong Giáo Hội, đức tin vẫn rất sống động trong nước, như đã được thể hiện trong Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới.
“Tôi đã nhìn về mọi phía. Vào thời điểm mà có nhiều người - vì một lý do nào đó, không chỉ là những tai tiếng lạm dụng tính dục mà thôi – đã tránh xa những biểu hiện của đức tin công khai, thì giờ đây tôi thấy mọi người cảm thấy nhẹ nhàng hơn vì chuỗi các sự kiện cuối tuần [Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới]. Sự tự do và niềm vui khi họ cử hành như là một phần của vương quốc nước Trời thật đáng mừng và chưa từng được thấy từ năm 1979 ở đất nước này.”
Điều này không phủ nhận cái ác đã xảy ra, ngài nói thêm. Tuy nhiên, ngài nhận xét rằng thật là không công bằng để trình bày những khả năng hiện tại và tương lai của Giáo Hội chỉ trong tầm nhìn hạn hẹp của những tai tiếng lạm dụng tính dục.
“Rõ ràng những người tham dự các nghi lễ ở Dublin và Knock có một tình yêu sâu sắc đối với đức tin của họ và chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng điều đó. Đó là nhiệm vụ của chúng ta. Các tội lỗi của quá khứ không thể được phép nhận chìm sứ mệnh đó,” ngài nói.
Đức Cha nhấn mạnh rằng Giáo Hội đã có những bước tiến to lớn trong việc cải thiện việc bảo vệ trẻ em và ngài nhắc lại quyết tâm của Giáo Hội hợp tác chặt chẽ với các nhà chức trách trong vấn đề này. Với các giáo sĩ đã từng bao che cho các vụ lạm dụng, ngài khuyến khích họ hãy đưa vụ việc ra ánh sáng.
“Tôi cầu xin những vị ấy tiến ra ngay lập tức và thừa nhận điều này, một lần nữa với chính quyền và các nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đừng đặt mình vào tình huống mà chất độc bên trong có thể lây sang người khác. Không có chỗ cho việc này trong nhà Chúa.”
Quan hệ giữa Giáo hội và chính phủ Ái Nhĩ Lan đã rất căng thẳng trong những năm gần đây.
Vào tháng Năm, các cử tri đã bãi bỏ Tu chính án thứ tám, trong đó cấm phá thai. Một tháng sau, thủ tướng Leo Varadkar nói rằng các bệnh viện được tài trợ bằng quỹ công ở Ái Nhĩ Lan sẽ phải thực hiện các ca phá thai, ngay cả khi đó là các bệnh viện Công Giáo và các bệnh viện phản đối thủ tục này về mặt luân lý.
Các chuyên gia y tế cá nhân sẽ có thể chọn không thực hiện phá thai, nhưng toàn bộ bệnh viện sẽ không thể làm như vậy.
Source: Catholic Herald - Bishop advocates new beginning between Church, Irish government
“Tôi đưa ra một lời cầu xin khiêm tốn với tất cả những ai muốn bắt đầu với chúng ta một lần nữa theo một cách mới, điều mà thủ tướng đã gọi là một giao ước mới; chúng ta hãy xây dựng lại một Giáo Hội phục vụ xã hội Ái Nhĩ Lan”, ngài nói với tờ Irish Times.
Ngài nhấn mạnh rằng mối quan hệ mới sẽ cho phép Giáo Hội “phục vụ hiệu quả người Ái Nhĩ Lan”.
Ý kiến của Đức Giám Mục Leahy đã được đưa ra sau Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới, trong đó Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cập đến những tai tiếng lạm dụng tính dục làm điêu đứng Giáo Hội tại đây.
Theo Đức Cha Limerick những tai tiếng lạm dụng tính dục là “một sự mù lòa trong Giáo hội” mà bây giờ đang được nhìn bằng đôi mắt mở rộng. Ngài nói rằng mặc dù các tai tiếng này gây chán nản trong Giáo Hội, đức tin vẫn rất sống động trong nước, như đã được thể hiện trong Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới.
“Tôi đã nhìn về mọi phía. Vào thời điểm mà có nhiều người - vì một lý do nào đó, không chỉ là những tai tiếng lạm dụng tính dục mà thôi – đã tránh xa những biểu hiện của đức tin công khai, thì giờ đây tôi thấy mọi người cảm thấy nhẹ nhàng hơn vì chuỗi các sự kiện cuối tuần [Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới]. Sự tự do và niềm vui khi họ cử hành như là một phần của vương quốc nước Trời thật đáng mừng và chưa từng được thấy từ năm 1979 ở đất nước này.”
Điều này không phủ nhận cái ác đã xảy ra, ngài nói thêm. Tuy nhiên, ngài nhận xét rằng thật là không công bằng để trình bày những khả năng hiện tại và tương lai của Giáo Hội chỉ trong tầm nhìn hạn hẹp của những tai tiếng lạm dụng tính dục.
“Rõ ràng những người tham dự các nghi lễ ở Dublin và Knock có một tình yêu sâu sắc đối với đức tin của họ và chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng điều đó. Đó là nhiệm vụ của chúng ta. Các tội lỗi của quá khứ không thể được phép nhận chìm sứ mệnh đó,” ngài nói.
Đức Cha nhấn mạnh rằng Giáo Hội đã có những bước tiến to lớn trong việc cải thiện việc bảo vệ trẻ em và ngài nhắc lại quyết tâm của Giáo Hội hợp tác chặt chẽ với các nhà chức trách trong vấn đề này. Với các giáo sĩ đã từng bao che cho các vụ lạm dụng, ngài khuyến khích họ hãy đưa vụ việc ra ánh sáng.
“Tôi cầu xin những vị ấy tiến ra ngay lập tức và thừa nhận điều này, một lần nữa với chính quyền và các nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đừng đặt mình vào tình huống mà chất độc bên trong có thể lây sang người khác. Không có chỗ cho việc này trong nhà Chúa.”
Quan hệ giữa Giáo hội và chính phủ Ái Nhĩ Lan đã rất căng thẳng trong những năm gần đây.
Vào tháng Năm, các cử tri đã bãi bỏ Tu chính án thứ tám, trong đó cấm phá thai. Một tháng sau, thủ tướng Leo Varadkar nói rằng các bệnh viện được tài trợ bằng quỹ công ở Ái Nhĩ Lan sẽ phải thực hiện các ca phá thai, ngay cả khi đó là các bệnh viện Công Giáo và các bệnh viện phản đối thủ tục này về mặt luân lý.
Các chuyên gia y tế cá nhân sẽ có thể chọn không thực hiện phá thai, nhưng toàn bộ bệnh viện sẽ không thể làm như vậy.
Source: Catholic Herald - Bishop advocates new beginning between Church, Irish government
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chương Trình Thánh Ca : Ca Vang Đời Chứng Nhân Của Giới Trẻ Giáo Hạt Hội An – Giáo Phận Đà Nẵng
Toma Trương Văn Ân
15:42 09/09/2018
Chương Trình Thánh Ca : Ca Vang Đời Chứng Nhân Của Giới Trẻ Giáo Hạt Hội An – Giáo Phận Đà Nẵng
Sống tinh thần Đại Hội Giới trẻ Giáo phận Đà Nẵng năm 2018 : “ Người trẻ , Chứng nhân tình yêu Thiên Chúa” . lúc 19 giờ 30 ngày 9 / 9 / 2018, tại khuôn viên Giáo xứ Cồn Dầu , Giới trẻ Giáo Hạt Hội An đã tổ chức Chương trình Thánh ca lần thứ 2 (*) với chủ đề : “Ca Vang Đời Chứng Nhân”.
Xem Hình
Đời sống Chứng nhân, bằng chính đời sống yêu thương, tốt lành, một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, là tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Sống theo Lời Chúa dạy và lời cầu nguyện, sẻ tác động trực tiếp đến anh chị em chưa nhận biết Chúa và anh chị em đã biết Chúa nhưng nguội lạnh xa Chúa, trở về Thành một đoàn con Thiên Chúa.
Trong tâm tình đó , Giới trẻ Giáo hạt Hội An dùng lời ca tiếng hát , cung đàn điệu múa , diễn tả lại một phần chân dung Đạo Yêu thương mà mỗi người đang sống và cố gắng sống ngày nên hoàn thiện , để đem Chúa Tình yêu đến cho mọi người xung quanh nơi mình đang sống và làm việc.
Cha Giuse Nguyễn Thanh Sơn – Quản xứ Cồn Dầu chủ sự Nghi thức khai mạc. Cha nói đến những ưu tư của các Linh mục đặc biệt quan tâm đến Giới trẻ, cần có những chương trình mục vụ giới trẻ phù hợp, để Giới trẻ làm chứng nhân theo cách của Giới trẻ, nhưng vẫn một mục tiêu : “làm nhân chứng Tin Mừng giữa đời, nơi mình đang sống và làm việc”. Cha có lời chào mừng các Bạn trẻ của nhiều Giáo xứ hội tụ về đây, đây là niềm vui của cả giới thiếu nhi và toàn thể Giáo xứ Cồn Dầu. Cha cũng mời gọi mỗi người : “khi chuẩn bị sự hoành tráng lộng lẫy bên ngoài, thì cũng nói lên niềm vui trong tâm hồn” . Những tràng pháo tay nồng nhiệt chúc mừng và thân ái chào nhau.
Đây là dịp tốt để Giới trẻ Giáo hạt gặp gỡ làm việc chung trong tinh thần hiệp nhất- yêu thương - phục vụ và mời gọi cộng đoàn tham dự hỗ trợ một phần kinh phí chỉnh trang khuôn viên Tượng đài Thánh Phê –rô tại Giáo xứ Cồn Dầu ( Bổn mạng Giới trẻ Giáo xứ Cồn Dầu) và hỗ trợ 70 phần quà Tết Trung thu cho các em thiếu nhi tại Giáo xứ Tam Thành ( Quảng Nam) .
Có 15 tiết mục của 7 giáo xứ trong Giáo hạt tham dự. Rất đa dạng loại hình nghệ thuật nhưng đều xoay quanh chủ đề Đời sống Chứng nhân của Người Ki-tô hữu.
Một điểm đặc biệt : “ Ra mắt” Ban nhạc Giới trẻ Giáo hạt, gồm các nhạc công của nhiều Giáo xứ cùng cộng tác , và sự góp tiết mục : “Bao La Tình Chúa Yêu Con” của 8 Dự Tu Dòng Augustino, hiện đang Tu học và công tác mục vụ tại Giáo phận Đà Nẵng.
Chương trình được khép lại với phần lắng đọng tâm hồn, cầu nguyện theo phương pháp của cộng đoàn Taize. Những lời tạ ơn vì Thiên Chúa cho mọi thuận lợi của không gian và thời gian , mọi tình yêu và sự nhiệt thành đóng góp chia sẻ của rất nhiều n nhân và các Thành phần dân Chúa …. Để có một Chương trình Thánh ca rất thành công. Tạ ơn vì cơ hội gặp gỡ quý báu của Giới trẻ Giáo phận Đà Nẵng , cách riêng là Giới trẻ Hạt Hội An.
Trước đó , lúc 17 giờ cùng ngày. Cha Giuse – Quản xứ Cồn Dầu đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện cho Giới trẻ tại Thánh Đường Giáo xứ Cồn Dầu.
Xin Thiên Chúa hướng dẫn Giới trẻ biết lắng nghe , biếp đáp lại lời mời gọi, sẵn sàng trở thành khí cụ của Chúa và thành nhân chứng của Thiên Chúa Tình yêu nơi mình đang sống và làm việc.
Toma Trương Văn Ân
(*) lần thứ nhất tổ chức vào ngày 17 / 6 / 2018 tại Giáo xứ An Hải , với Chủ đề : “Công Ơn Cha Mẹ”
Sống tinh thần Đại Hội Giới trẻ Giáo phận Đà Nẵng năm 2018 : “ Người trẻ , Chứng nhân tình yêu Thiên Chúa” . lúc 19 giờ 30 ngày 9 / 9 / 2018, tại khuôn viên Giáo xứ Cồn Dầu , Giới trẻ Giáo Hạt Hội An đã tổ chức Chương trình Thánh ca lần thứ 2 (*) với chủ đề : “Ca Vang Đời Chứng Nhân”.
Xem Hình
Đời sống Chứng nhân, bằng chính đời sống yêu thương, tốt lành, một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, là tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Sống theo Lời Chúa dạy và lời cầu nguyện, sẻ tác động trực tiếp đến anh chị em chưa nhận biết Chúa và anh chị em đã biết Chúa nhưng nguội lạnh xa Chúa, trở về Thành một đoàn con Thiên Chúa.
Trong tâm tình đó , Giới trẻ Giáo hạt Hội An dùng lời ca tiếng hát , cung đàn điệu múa , diễn tả lại một phần chân dung Đạo Yêu thương mà mỗi người đang sống và cố gắng sống ngày nên hoàn thiện , để đem Chúa Tình yêu đến cho mọi người xung quanh nơi mình đang sống và làm việc.
Cha Giuse Nguyễn Thanh Sơn – Quản xứ Cồn Dầu chủ sự Nghi thức khai mạc. Cha nói đến những ưu tư của các Linh mục đặc biệt quan tâm đến Giới trẻ, cần có những chương trình mục vụ giới trẻ phù hợp, để Giới trẻ làm chứng nhân theo cách của Giới trẻ, nhưng vẫn một mục tiêu : “làm nhân chứng Tin Mừng giữa đời, nơi mình đang sống và làm việc”. Cha có lời chào mừng các Bạn trẻ của nhiều Giáo xứ hội tụ về đây, đây là niềm vui của cả giới thiếu nhi và toàn thể Giáo xứ Cồn Dầu. Cha cũng mời gọi mỗi người : “khi chuẩn bị sự hoành tráng lộng lẫy bên ngoài, thì cũng nói lên niềm vui trong tâm hồn” . Những tràng pháo tay nồng nhiệt chúc mừng và thân ái chào nhau.
Đây là dịp tốt để Giới trẻ Giáo hạt gặp gỡ làm việc chung trong tinh thần hiệp nhất- yêu thương - phục vụ và mời gọi cộng đoàn tham dự hỗ trợ một phần kinh phí chỉnh trang khuôn viên Tượng đài Thánh Phê –rô tại Giáo xứ Cồn Dầu ( Bổn mạng Giới trẻ Giáo xứ Cồn Dầu) và hỗ trợ 70 phần quà Tết Trung thu cho các em thiếu nhi tại Giáo xứ Tam Thành ( Quảng Nam) .
Có 15 tiết mục của 7 giáo xứ trong Giáo hạt tham dự. Rất đa dạng loại hình nghệ thuật nhưng đều xoay quanh chủ đề Đời sống Chứng nhân của Người Ki-tô hữu.
Một điểm đặc biệt : “ Ra mắt” Ban nhạc Giới trẻ Giáo hạt, gồm các nhạc công của nhiều Giáo xứ cùng cộng tác , và sự góp tiết mục : “Bao La Tình Chúa Yêu Con” của 8 Dự Tu Dòng Augustino, hiện đang Tu học và công tác mục vụ tại Giáo phận Đà Nẵng.
Chương trình được khép lại với phần lắng đọng tâm hồn, cầu nguyện theo phương pháp của cộng đoàn Taize. Những lời tạ ơn vì Thiên Chúa cho mọi thuận lợi của không gian và thời gian , mọi tình yêu và sự nhiệt thành đóng góp chia sẻ của rất nhiều n nhân và các Thành phần dân Chúa …. Để có một Chương trình Thánh ca rất thành công. Tạ ơn vì cơ hội gặp gỡ quý báu của Giới trẻ Giáo phận Đà Nẵng , cách riêng là Giới trẻ Hạt Hội An.
Trước đó , lúc 17 giờ cùng ngày. Cha Giuse – Quản xứ Cồn Dầu đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện cho Giới trẻ tại Thánh Đường Giáo xứ Cồn Dầu.
Xin Thiên Chúa hướng dẫn Giới trẻ biết lắng nghe , biếp đáp lại lời mời gọi, sẵn sàng trở thành khí cụ của Chúa và thành nhân chứng của Thiên Chúa Tình yêu nơi mình đang sống và làm việc.
Toma Trương Văn Ân
(*) lần thứ nhất tổ chức vào ngày 17 / 6 / 2018 tại Giáo xứ An Hải , với Chủ đề : “Công Ơn Cha Mẹ”
Văn Hóa
Dẫn nhập vào văn chương tiên tri, kỳ 2
Vũ Văn An
01:22 09/09/2018
(III) Việc nói tiên tri tại Israel
Sự thịnh hành của mẫu thức tiên tri tại khắp miền Cận Đông vừa là nguồn cội cho việc nói tiên tri tại Israel vừa nhấn mạnh tới các đặc tính đặc trưng của nó. Vì tôn giáo Do Thái có những nét chung với các tôn giáo của các dân tộc khác thuộc miền Cận Đông, nhất là các dân tộc thuộc nhóm Semitic, nên nó có nhiều định chế tôn giáo tương tự như thế nào, trong đó có định chế nói tiên tri, thì cũng vì tôn giáo Do Thái có những nét hoàn toàn đặc thù so với các tôn giáo của vùng này, nên phong trào nói tiên tri của nó cũng là một nét độc đáo riêng khác với thế giới Cận Đông như thế.
(A) Lịch sử việc nói tiên tri tại Israel
Người Do Thái nghĩ gì khi họ nói về nābîʼ, từ ngữ mà Bản Bẩy Mươi dịch là “tiên tri”? Bề ngoài xem ra câu hỏi này khá sơ đẳng, nhưng ta không thể trả lời một cách chính xác cho nó chỉ bằng cách dựa vào các kiến thức hiện nay của ta mà thôi. Bởi vì chưa có bất cứ đồng thuận bác học nào về nguồn gốc của từ ngữ này, một từ ngữ chắc hẳn được ngôn ngữ Hípri vay mượn đâu đó. Ta chỉ có thể dựa vào cách Cựu Ước sử dụng nó để có thể đưa ra bất cứ định nghĩa nào. Việc xem sét này cũng giúp giải quyết một số vấn đề khác, kể cả vấn đề phát sinh do sự kiện nghịch lý này là từ ngữ này từng bị chính những người chúng ta vốn nghĩ là tiên tri bác bỏ hay ít nhất tránh né.
(a) Việc nói tiên tri lúc ban đầu
Truyền thống Thánh Kinh vẫn coi nguồn gốc việc nói tiên tri tại Israel là chính Mô-sê, và ít nhất, nếu hiểu điều này có ý nói việc nói tiên tri có cùng lúc với Israel, thì không có lý do gì để không chấp nhận truyền thống ấy. Khung cảnh mô tả tại Ds 11:24-30, thuộc truyền thống E, chắc chắn đã mô phỏng cuộc tập họp của các tiên tri xuất thần thời sau này, nhưng Am 2:11 cũng nhắc tới cùng một loại tiên tri này khi cho rằng thời đại Mô-sê chính là thời khởi nguyên của hình thức nĕbîʼîm. Chắc chắn loại tiên tri này là loại đầu tiên được hiểu qua chữ nābî. Đã đành, trong các bản văn về sau, chữ này có một nghĩa rộng hơn, để chỉ bất cứ ai được linh hứng, hay ít nhất những ai được nhìn nhận là Thiên Chúa che chở, như Áp-ra-ham, trong St 20:7 (EJ) chẳng hạn. Do đó, trong Ngũ Kinh, Mô-sê thường được gọi là nābîʼ, cũng như A-ha-ron (không những trong Xh 7:1 [P] mà cả trong Ds 12:2-8 [E]) và Miriam (trong Xh 15:20 [P]. Trong Tl 4:4, Đơ-vô-ra cũng được gọi là một nĕbîʼâ. Các bản văn này không cho ta biết nhiều về ý nghĩa lúc ban đầu của từ ngữ này; như 1Sm 9:9 đã cho thấy, đến lúc này, từ ngữ nābîʼ không còn chỉ giới hạn vào ý nghĩa một loại “người thánh” duy nhất nào nữa.
Nếu không có lý do gì để tra vấn truyền thống coi nĕbîʼîm đã có nguyên lai từ thời Môsê, thì ta phải nhìn nhận rằng chúng ta không nghe nói đến nguyên lai này trước cuối thời các thủ lãnh và đầu thời các vua khi nó được nhắc đến liên quan tới các cuộc chiến tranh với người Philitinh. Hoàn cảnh này không gây ngạc nhiên chi, vì một chức năng lớn của các tiên tri xuất thần này, cũng như của phái Nazirites, hình như là để kích thích lòng yêu nước và lòng đạo. Thông thường những vị này nói tiên tri theo từng nhóm mà kinh nghiệm có tính cộng đồng của họ được mô tả trong các đoạn đại loại như trong 1Sm 10:6-8, 10-13. Bởi thế, họ thường được dành cho một cái tên chung là “con các tiên tri” (běnêhanněbîʼîm), vốn được giải thích như là “thành viên của phường hội tiên tri”, “các tiên tri chuyên nghiệp và “các môn đệ nói tiên tri” (xem 1V 20:35, 2V 2:3 tt; 5:22; 6:1...) Tất cả các giải thích này đều có thể được biện minh. Kinh nghiệm xuất thần dùng như bầu khí cho việc nói tiên tri thường được gây ra bởi việc bị ảnh hưởng lẫn nhau qua nhẩy múa và âm nhạc. Các tiên tri này cũng thường được coi như các môn đệ hay người tập sự của các tiên tri đã nổi tiếng; tuy nhiên, họ cũng sống biệt lập như các cá nhân tư riêng (xem 2V 4:1). Trong cả hai khả năng này, người ta có thể thấy họ liên kết với các cung thánh như các “tiên tri thờ cúng” (cult prophets) (xem 1V 14:1tt; 2V 22:14-17) hay phục vụ nhà vua trong tư cách “tiên tri triều đình” (xem 2Sm 7:1tt; 12:1tt). Họ mặc loại y phục khác biệt bằng da lông (2V 1:8) và thường mang các đặc điểm khác nữa (xem 1V 20:38, 41) và đôi khi có thể cạo đầu (xem 2V 2:23).
Kinh nghiệm xuất thần biến đổi vị tiên tri, làm ông thành “một người khác” (1S 10:6). Trong tình trạng ấy, các trò cười của ông có thể lố bịch khiến người ta có thể thân mật gọi ông là “người khùng” (2V 9:11) trong khi nghề của ông bị coi như ít phù hợp với tư cách công dân có trách nhiệm, đáng kính (1Sm 10:11). Thời cổ, người ta ít phân biệt được các bất thường tâm linh (psychic abnormalities) không biết chúng phát xuất từ linh hứng, sự mê loạn hay điên khùng. Chắc chắn điều kiện này là phương thế cho trải nghiệm tôn giáo chân chính trong đó, người ta đạt được sự tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Nhưng điều cũng chắc chắn là nó dễ dàng là một nguồn lừa đảo và mê tín, như các cuộc bút chiến về sau của các tiên tri cổ điển chống lại nĕbîʼîm sẽ chứng tỏ.
Chủ trương xuất thần vẫn tiếp diễn tới 1 mức nào đó qua suốt thời kỳ tiên tri của Do Thái. Samuen, có lần, đã bị mô tả như đứng đầu nhóm tiên tri xuất thần này (1Sm 19: 20tt). Cả Êlia và Êlisa cũng thường liên hệ với “các con của tiên tri” này trong tư cách bậc thầy và lãnh tụ (xem 2V chương 2). Qui mô ảnh hưởng của chủ trương xuất thần đối với việc nói tiên tri về sau, nhất là tiên tri văn bản cổ điển, hiện vẫn còn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận có ý nghĩa. Trong 1V 22:5-28, tiên tri giả Xít-ki-gia-hu lấy việc mình sở hữu được “thần khí của Đức Chúa” và các bạn đồng xuất thần của mình làm chứng cớ chống lại việc nói tiên tri của Mi-kha-giơ-hu, người xem ra không có “thần trí” này. Mi-kha-giơ-hu chỉ gán việc nói tiên tri cho thị kiến của mình; cũng nhờ thị kiến này, ông biết kinh nghiệm của Xít-ki-gia-hu là kinh nghiệm của một “thần trí dối trá”. Cũng thế, Grm 29:26 cho thấy tiên tri xuất thần rất thông thường thời Giêrêmia, nhưng chính Giêrêmia thì không bao giờ nại tới việc sở hữu “thần khí” tiên tri. Tuy nhiên, mặt khác, Êdêkien chắc chắn nhận được nhiều lời tiên tri của mình trong những lúc xuất thần và chứng thực nhiều lần rằng mình được “thần trí” và “bàn tay Giavê” chiếm hữu.
Mối liên hệ cổ xưa giữa “thầy chiêm” (1) (rōʼeh hay ḥōzeh, [seer]) và nābîʼ là điều chưa ai biết chắc. Về nguyên tự, thầy chiêm là một người thị kiến chứ không hẳn xuất thần, nhưng không loại bỏ việc các thị kiến này nhận được do một kinh nghiệm xuất thần. Gát, một nābîʼ, cũng được gọi là ḥōzeh của Đavít trong 2Sm 24:11; 1Sb 21:9; điều này chắc chắn phản ảnh việc đồng hóa các từ ngữ này sau đó như được thấy trong 1Sm 9:9. Mặc dù vai trò của thầy chiêm là nói tiên tri (nghĩa là hành động 1 phần của nābîʼ, xem Am 7:12), nhưng thầy chiêm vẫn khác với tiên tri như trong 2V 17:13; Is 29:10; 30:10; Mk 3:6-7. Đệ Nhị Luật 13:2-6 nói đến “tiên tri và kẻ chuyên nghề chiêm bao”; như thế rõ ràng thầy chiêm đồng nhất với những người “chuyên nghề chiêm bao” này. Khi dựa vào các giấc mơ như nguồn mạc khải của Thiên Chúa, Israel cổ thời đã tiếp tục chia sẻ mẫu người được linh hứng của Cận Đông cổ xưa. Việc sử dụng bói toán (divinatory) cũng có thể có vai trò trong các thị kiến của thầy chiêm; tuy nhiên, nói chung, Đạo Do Thái có xu hướng coi bói toán là chuyện mê tín. Từ ngữ “thầy bói” không bao giờ được sử dụng trong Thánh Kinh để chỉ người phát ngôn chân thực của Thiên Chúa.
Với việc tinh vi hóa hay đơn giản hóa ngôn ngữ tôn giáo, các từ ngữ được các tôn giáo không phải Do Thái Giáo ưa dùng (“thầy bói”, “thầy chiêm bao”...) trở thành có nghĩa xấu và mọi loại linh hứng đều được ngụ hàm trong hạn từ nābîʼ. Tuy nhiên, xu hướng này dẫn nhập một sự hàm hồ tối nghĩa nào đó, từng được Amốt cảm nhận; ngài chấp nhận nĕbîʼîm của quá khứ nhưng bác bỏ việc ngài là một nābîʼ theo nghĩa của A-mát-gia (7:12-15) nghĩa là một tiên tri thờ cúng xâm phạm lãnh thổ của tiên tri tư tế của Bết-ên.
(b) Nói tiên tri cổ điển
Qua cụm từ “nói tiên tri cổ điển”, chúng ta muốn nói tới kiểu nói tiên tri của những vị mà Cựu Ước dạy ta coi như điển hình cho các tiên tri Do Thái, nghĩa là tất cả những gì tách biệt họ khỏi khuôn mẫu Cận Đông. Đây là những vị tiên tri mà lời dạy được duy trì trong Cựu Ước và nhất là các vị mà tên được dùng đặt tên cho các sách tiên tri. Cựu Ước cũng gọi các ngài là nĕbîʼîm, như thành phần trong diễn trình tiêu chuẩn hóa thuật ngữ, và, ít nhất, chính các ngài, cuối cùng, cũng đã tự gọi mình như thế. Trên thực tế, quả một số tiên tri cổ điển cũng là nĕbîʼîm theo nghĩa chúng ta vừa nói. Các tiên tri chuyên nghiệp cũng có thể trở thành các tiên tri nhờ ơn gọi đặc biệt của Thiên Chúa, dù đây không hẳn là việc thông thường.
Điều trên dẫn ta tới một vấn đề mà nay ta nên bàn tới, tức vấn đề của những người được gọi là tiên tri giả. Đây không phải là 1 hạn từ của Thánh Kinh: Thánh Kinh Do Thái chỉ biết đến nĕbîʼîm mà thôi (dù họ có thể bị coi như các triên tri nói láo hay có thần trí nói láo), mặc dù các dịch giả của Bản Bẩy Mươi, ở một số chỗ, có đưa vào hạn từ pseudoprophētēs. Vì tính hàm hồ tối nghĩa của hạn từ nābîʼ, nên có sự nghịch lý là một số lời tố cáo chua cay nhất tìm thấy nơi các tiên tri văn bản (literary prophets) đã được ngỏ với, hay liên quan, tới “các tiên tri”. Vô vàn các đoạn văn như thế đã tố cáo “các tiên tri” hay, không kém thường xuyên, các tiên tri và tư tế đi đôi với nhau, đã phạm đủ thứ tội luân lý và xã hội chống lại Giavê và dân của Người, và đã hợp tác với các thành phần tồi tệ nhất trong luật lệ và thực hành Do Thái để phản lại thánh ý Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, dưới con mắt của Israel và của chính các tiên tri cổ điển, các tiên tri giả là các tiên tri thực sự giống như các tiên tri cổ điển. Mặc dù trong số họ, có những người có thể có những lời tiên tri phỏng theo hay đội lốt (simulated), nhưng ta không nên nghĩ họ “giả” theo nghĩa họ cố tình và cố ý giả, là điều họ không là. Đúng hơn, họ là những tiên tri bị đánh lừa bởi chính các phương thế tiên tri của họ, sai lầm trong phán đoán, lẫn lộn các niềm hy vọng và hoài mong của họ với lời chân chính của Giavê (xem Is 28:7; Grm 25:3tt). Cũng không loại bỏ việc cùng một tiên tri có lúc nói sự thật có lúc nói sự sai trái, vì lời tiên tri chân thực lúc nào cũng là một hồng ân của Thiên Chúa (xem Đnl 13:2-6, hạn chế tiêu chuẩn có phần không được tinh vi về tiên tri thật và tiên tri giả trong Đnl 18:21-22). Dưới mắt Cựu Ước, hoạt động của tiên tri giả cũng do Giavê muốn có như một phương tiện để thử thách những kẻ trung thành theo Người (Grm 4:10; 1V 22:19-23...)
Các tiên tri giả thường là các tiên tri ở triều đình chỉ biết nói cho vua và các cận thần của ông ta những điều họ muốn nghe; họ cũng thường là những người thu tích được tiền bạc từ những lời tiên tri có lợi cho khách hàng, bảo đảm với họ được Thiên Chúa chúc phúc hay không làm lương tâm họ bối rối. Tuy nhiên, có lẽ phần lớn họ là những người bị cuốn vào thảm kịch chung của dân họ, nghĩa là những người đã trở nên xác tín rằng “lối sống của người Do Thái” tượng trưng cho bất cứ điều gì thuộc về Thiên Chúa đến độ họ có một thứ kể như bản nhiên thứ hai muốn đo lường thánh ý Giavê theo thành quả của Israel chứ không phải ngược lại. Thảm kịch thường được lặp đi lặp lại này không hề chỉ có cổ thời Israel mới có. Trong một thời đại mà niềm tự hào quốc gia nói bằng ngôn từ tôn giáo, thì điều không thể tránh được là ngôn từ này cũng nói bằng tiếng nói tiên tri.
Điều hiển nhiên là sự phân biệt giữa hai lối nói tiên tri giả và tiên tri thật thời các tiên tri cổ điển không luôn luôn rõ ràng. Việc chiếm hữu “thần trí” tiên tri xuất thần không phải là một tiêu chuẩn chắc chắn: các tiên tri có thể có thần trí mà vẫn nói tiên tri giả và phần lớn các tiên tri cổ điển không cho thấy dấu chỉ nào là xuất thần cả. Việc nên trọn lời tiên tri, dù nó luôn hiển nhiên đối với các người đương thời của vị tiên tri, cũng không phải lả dấu chỉ vô ngộ, như Đnl 13:2tt đã chứng tỏ; hơn nữa, các lời tiên tri thật xem ra cũng thường không nên trọn, làm nản lòng cả chính vị tiên tri (xem Grm 20:7tt). Khi tiên tri Kha-na-gia nói tiên tri điều ông mơ tưởng khi tiên đoán cuộc lưu đầy Babilon sẽ kết thúc trong hai năm và việc phục hồi Giơ-khon-gia (Grm 28:1tt), thì Tiên Tri Giêrêmia chẳng phản bác được bao nhiêu ngoài xác tín của ngài về sự thật trong lời tiên tri ngược lại của mình. "A-men! Ước gì ĐỨC CHÚA làm như thế! Ước gì Người thực hiện các điều ông vừa tuyên sấm...” Giêrêmia buồn bã nói thế, vì chính ông cũng muốn nói như Kha-na-gia, nhưng ông biết ông không thể nói thế, vì đó không phải là lời của Giavê.
Giêrêmia cũng biện minh lời tiên tri của ông một cách khiến ta lạ lùng: “Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ ĐỨC CHÚA sai đến thật sự!" (28: 8-9).
Thực sự, Giêrêmia không có ý nói tiên tri sự dữ thì phải được tin còn tiên tri tiên đoán hòa bình thì phải bị bác bỏ. Ngài chỉ đưa ra quan điểm của ngài về truyền thống tiên tri từng phục vụ truyền thống Giavít chân chính; ngài sử dụng cùng một luận điểm như trong Đnl 13:2tt. Bất cứ ai thực sự biết Thiên Chúa đều sẽ nhận ra vị tiên tri đích thực của Người và biện phân vị này với tiên tri giả, vì việc nói tiên tri phải phù hợp với các kế sách của Thiên Chúa như Người đã mạc khải cho họ. Theo Tin Mừng Gioan 5:3 tt, Chúa Giêsu cũng đã tương tự bênh vực quan điểm của Người như thế trước thế hệ của Người. Bất cứ ai nhìn nhận tình thế của Israel trong tương quan với thánh ý Thiên Chúa, đều cũng phải biết rằng lời tiên tri hòa bình giống như lời tiên tri của Kha-na-gia không thể là lời thực sự của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh như thế.
Nếu các tiên tri cổ điển chỉ có thể cung ứng cho người đương thời chứng từ của chính lời tiên tri, thì họ đã không làm điều gì khác hơn bất cứ tiên tri đích thực nào vẫn được chờ mong phải làm: chính lời này phải tìm được đáp ứng trong trái tim vốn sẵn sàng tiếp nhận lời lẽ của Thiên Chúa. Xác tín của họ đối với sự thật trong lời tiên tri của mình dựa vào cùng nền tảng; bởi thế, trình thuật ơn gọi tiên tri, cảm nghiệm thánh nhan Thiên Chúa, đóng một vai trò chủ chốt trong việc ghi lại các tiên tri văn bản. Chứng từ này tạo nên uy tín của họ, cho chính họ và cho những người họ được sai đến.
Việc nhìn nhận mục đích độc đáo mà Giavê đã dành cho việc nói tiên tri trong thời đại cổ điển đã được tìm thấy trong Cựu Ước qua câu truyện về Samuen. Vị này là một nābîʼ, đứng đầu một nhóm běnêhanněbîʼîm, sự hiện hữu của những nhóm như thế trên một qui mô lớn vốn đã được giả thiết trong sử biên niên Thánh Kinh; thế nhưng, khi Samuen được giới thiệu lần đầu (1Sm 3:1), ta đọc thấy rằng “lời Giavê thật hiếm hoi trong những ngày này – các thị kiến không có thường.” Nói cách khác, với Samuen, việc nói tiên tri ở Do Thái phải đạt được một chiều kích mới. Chiều kích mới này là gì, ít nhất dưới mắt của chính tác giả sách này, đã được nói rõ trong lời biện bạch của Samuen (1Sm 12:1-5), một tuyển tập ngôn từ của Amốt, Mikha, Hôsê và Malaki. Cũng có thể nói cùng điều này về ngôn từ tiên tri được gán cho nābîʼ Nathan trong 2Sm 12:1tt. Việc không sợ sệt tỏ lộ ý muốn của Giavê về luân lý, tức giao ước của Thiên Chúa Israel, một điều phải được coi như đặc điểm của tiên tri cổ điển làm nó khác với mọi tiên tri khác, cả ở Israel lẫn ở những nơi khác, đã bắt đầu với các đại diện của giai cấp nābîʼcổ xưa này.
Theo cách tương tự, Êlia đã tố cáo tội lỗi của A-kháp trong 1V 21:17-24, bằng thứ ngôn ngữ rất xứng danh một Amốt hay một Giêrêmia. 1V 19:4tt mô tả cảm nghiệm “gió hiu hiu” của Êlia trong đó, ngài nghe thấy tiếng của Giavê như chưa bao giờ ngài nghe thấy trước đây, như là ơn gọi mới để nói tiên tri và như khởi đầu của một đường lối tiên tri mới (xem câu 14). Liền ngay sau đó, Êlisa được kêu gọi làm môn đệ của Êlia và, sau cùng, làm người kế nhiệm ngài trong tư cách “cha Israel”. Trong khi tác giả của trình thuật Êlisa phần lớn chỉ lưu ý tới vị tiên tri này trong tư cách làm điều lạ lùng, ông vẫn tìm ra thì giờ để trình bầy cả giáo huấn của ngài nữa bằng những hạn từ có tiếng vang nơi các tiên tri “xã hội” sau này (xem 2V 5:26).
Như thế, quả không khó để thấy lý do tại sao Amốt, dù tự biết mình là một điều gì nhiều hơn là một nābîʼ, vì thể chế truyền thống này tiếp diễn qua thời của ngài và sau đó nữa, đã không bác bỏ thể chế cổ xưa này. Tuy nhiên, ngài gán đặc tính khác biệt trong việc nói tiên tri của mình cho ơn gọi đặc biệt của Giavê (Am 7:15) như Êlia có lẽ cũng làm và rất nhiều tiên tri văn bản khác cũng làm (xem Hs 1-3; Is 6; Grm 1... Trong cùng một Chúa Thánh Thần, các tiên tri có xu hướng tự cấp cho mình các tên không phải là nābîʼ, những cái tên nói rõ tầm quan trọng của họ như là những người Thiên Chúa chỉ định một cách đặc biệt. Họ là “sứ giả của Giavê” (Is 44:26; Kg 1:13; Mk 3:1), “Tôi trung Thiên Chúa” (Is 20:3; Am 3:7; Grm 7:25; 24:4), “Các mục tử” (Grm 17:16; Dc 1:4); “người giám hộ” (Is 62:6; Kb 2:1), “lính canh” (Am 3:4; Is 56:10; Grm 6:17; Edk 3:17).
Các tiên tri nổi tiếng nhất đối với chúng ta là các vị gọi là tiên tri văn bản (literary prophets) thuộc các thế kỷ 8,7 và 6 trước CN. Theo thứ tự thời gian, đó là các Tiên Tri Amốt, Hôsê, Isaia, Mikha, Nakhum, Xôphônia, Khabacúc, Giêrêmia, và Êdêkien. Trừ Hôsê, tất cả các vị này đều là người Giuđa, mặc dù Amốt, vì các lý do thực tiễn, vẫn tiếp tục truyền thống tiên tri cổ điển của người Do Thái miền bắc, vốn bắt đầu với Samuen và Êlia. Tuy nhiên, không nên hạn chế việc nói tiên tri cổ điển vào các vị này; cũng có các vị tiên tri văn bản khác mà chúng ta không biết. Một trong các vị này, thực sự là một trong các vị tiên tri vĩ đại nhất, là vị tiên tri thời lưu đầy mà chúng ta vẫn gọi là Đệ Nhị Isaia; ngoài ra, còn rất nhiều các tiên tri ẩn danh từng đóng góp các phụ lục cho các sách tiên tri, sách thánh vịnh và các trước tác tiên tri khác tìm thấy ở những nơi khác trong Cựu Ước. Rồi cũng còn các tiên tri khác trong truyền thống cổ điển mà lời lẽ thực sự của các ngài ta được thấy một phần nhỏ hay không thấy chút nào. Thậm chí chúng ta không biết cả tên của một số vị. Giêrêmia 7:25; 11:7 chỉ nói đến truyền thống liên tục của tiên tri thật từ thuở đầu của Israel. Với một số vị, ta chỉ biết tên, như U-ri-gia được nhắc đến ở Giêrêmia 26:20-23; việc nói tiên tri của vị này diễn ra cùng thời với Giêrêmia và trong tinh thần của vị tiên tri này.
Ơn gọi đặc biệt của Giavê, một ơn gọi đã đóng một vai trò quan trọng như thế đối với các suy nghĩ của các tiên tri cổ điển, không phải chỉ là tước hiệu tiên tri của các ngài mà thôi. Theo cung cách nó được lồng vào các lời lẽ tiên tri của các ngài, thì nó là điều chủ chốt đối với việc nói tiên tri của các ngài, vì các tiên tri là những nhà tư tưởng có tính cá nhân cao mà nhân cách khác biệt chính là những dụng cụ đa dạng để qua đó, lời Thiên Chúa được đưa ra. Đã đành là có học lý tiên tri chung dễ nhận thấy nói về những nét chủ yếu của tôn giáo tôn thờ Giavê và cả nhiều chi tiết khác nữa, và trong quá khứ, đã có khuynh hướng quá nhấn mạnh đến khía cạnh thiên tài và độc đáo của các tiên tri cá nhân, nhưng cũng đúng là không ai, khi đã quen thuộc với văn chương tiên tri lại có nguy cơ lẫn lộn vị tiên tri này với vị tiên tri kia. Sự tương tự của các ngài phát sinh từ lòng tôn trọng của các ngài đối với các lý tưởng chung và từ việc các ngài tùy thuộc vào các truyền thống và định chế chung. Tuy nhiên, việc làm trung gian của các ngai cho các lời tiên tri thì có tính bản vị cao. Ít khi các ngài trích dẫn lẫn nhau, thậm chí nhìn nhận sự hiện hữu của nhau. Nói cách khác, thế giá trong các lời các ngài nói phát xuất từ niềm tin tưởng thanh thản có tính cá nhân của các ngài rằng các ngài có thần trí của Giavê.
Trong khi các tiên tri cổ điển trước thời lưu đầy ít nhiều có xu hướng tiên tri phán xét chống lại Israel và Giuđa, thì lời tiên tri của Nakhum rõ ràng là một ngoại lệ. Lời tiên tri của Nakhum là một bản tán tụng ca (paen) chiến thắng trước sự tan rã của đế quốc Átsua, mà kết liễu của nó ngài từng tiên đoán sắp diễn ra. Điều này không nhất thiết có nghĩa Nakhum là một trong các “tiên tri hòa bình” mà niềm tự hào duy quốc gia vốn bị Giêrêmia tởm gớm. Việc làm nhục các quốc gia không phải là Israel cũng là thành phần trong sứ điệp của các tiên tri cổ điển khác vốn không hề là “tiên tri hòa bình”. Một tiên tri khác không dễ dàng bị xếp vào khuôn mẫu tiền lưu đầy là Khabacúc, không hẳn vì nội dung lời tiên tri của ngài, vì ý nghĩa chính xác của nó vẫn có thể còn bị tranh cãi, cho bằng vì hình thức của nó. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi nghĩ rằng các tiên tri phải tuân theo một bản liệt kê các đặc điểm độc dạng. Khabacúc rất có thể là một tiên tri thờ cúng giống như nữ tiên tri Khunđa (2V 22:14). Những vị chịu trách nhiệm lo các thánh vịnh vương giả thường cũng là các tiên tri thờ cúng hay triều đình, thế nhưng rõ ràng có sự khác nhau giữa tâm tư người viết Thánh Vịnh 2 và tâm tư người sáng tác Thánh Vịnh 72. Xét theo bản chất của việc nói tiên tri, qua đó lời Thiên Chúa được gióng lên qua đủ loại dụng cụ tuyển chọn, thì kết quả này là điều đương nhiên.
(c) Nói tiên tri thời hậu lưu đầy
Trong thời lưu đầy, Israel được ban cho một viễn kiến mới mẻ về nhiệm cục Thiên Chúa, đó là viễn kiến của các tiên tri vĩ đại thời lưu đầy: Giêrêmia, Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các đặc điểm của viễn kiến mới này, lẽ dĩ nhiên, sẽ được bàn tới ở các lời nhận định về các vị tiên tri này. Ở đây chỉ xin ghi nhận ảnh hưởng của các ngài đối với giai đoạn cuối cùng của phong trào tiên tri Do Thái, tức thời kỳ Do Thái Giáo ở Palestine sau cuộc lưu đầy.
Việc nói tiên tri thời hậu lưu đầy thiếu nhiều tính mạnh mẽ và bộc phát của việc nói tiên tri tiền lưu đầy; dù sao, nó cũng đã tạo nên một loại riêng mời gọi ta phải tách nó ra khỏi thời kỳ tiên tri cổ điển. Lindlom, trong Prophecy in Ancient Israel, viết rằng “Các tiên tri thời này sống phần lớn nhờ các ý tưởng của các tiên tri trước đó, và đặc biệt, của các tiên tri thời lưu đầy. Các đặc điểm của họ ít thấy trong các ý tưởng độc đáo của riêng họ cho bằng ở trong các khuynh hướng vốn đã nổi bật và trong cung cách họ thay đổi các ý tưởng vay mượn.” Các tiên tri thuộc loại này, liệt kê theo thứ tự thời gian, là tiên tri hay các tiên tri chịu trách nhiệm phần cuối cùng của Isaia: Khácgai, Dacaria, (các chương 1-8), Malakhi, Ôvađia, Gioen và các tiên tri ẩn danh viết Dcr 9-11, 12-14, ấy là chưa kể một số bàn tay tiên tri đã can thiệp vào việc sản sinh ra lần cuối nhiều sách tiên tri cổ xưa hơn, nhất là Isaia, Giêrêmia và Êdêkien.
Hợp tuyển tiên tri hậu lưu đầy có lẽ có tính nhất quán hơn là hợp tuyển tiền lưu đầy. Ôvađia hậu lưu đầy ít nhiều tương ứng với Nakhum tiền lưu đầy trong việc nói tiên tri về hòa bình cho Israel trong khi hủy diệt kẻ thù đáng ghét. Tuy nhiên, sự kiện Cuốn An Ủi của Đệ Nhị Isaia có trước lời tiên tri của Ôvađia đã khiến phải đặt vị này vào truyền thống hậu lưu đầy mạnh mẽ hơn là lời tiên tri của Nakhum đặt ngài vào truyền thống tiền lưu đầy. Nói chung, các tiên tri hậu lưu đầy có cái nhìn “lạc quan” về số phận Israel hơn các tiên tri tiền lưu đầy, vì đại họa mà các vị sau tiên báo nay đã đến rồi đi, và niềm hy vọng mới có thể được tìm thấy trong khuôn mạo của người đầy tớ Chúa được mạc khải trong Isaia lưu đầy. Dacaria và Malakhi biểu lộ sự quan tâm đối với Đền Thờ, lề luật, mà các vấn đề tế tự vốn không thể tìm thấy nơi các tiên tri tiền lưu đầy. Tuy nhiên, sự quan tâm này tiếp nối quan tâm của Êdêkien, một tiên tri đích thực tiên đoán điềm gở cho Isarel và là người đồng thời đã thị kiến được một giao ước mới mà Giavê sẽ thực hiện trên đất Palestine khi các điều kiện thay đổi sẽ đòi sự thống nhất và các căng thẳng mới về tôn giáo. Phần gọi là Trito-Isaia (các chương 56-66) cũng chịu ảnh hưởng lớn của Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các hình ảnh mạnh bạo có tính khải huyền của Dacaria, Gioen và phần phụ lục Isaia (các chương 24-27, 34-35) đã được báo trước nơi Êdêkien vốn được nhiều học giả coi như cha đẻ của văn chương khải huyền.
Sự đa dạng của lời tiên tri hậu lưu đầy, xem ra, chủ yếu là một trong các văn phong dẫn khởi từ và thiếu sự tươi mát của các sấm ngôn tiên tri trước đó. Các chủ đề khá thông thường và thích hợp với một dân tộc hiện đang sống dưới một Do Thái Giáo khi Đền Thờ và Kinh Tôra đã trở thành các thực tại lâu bền sẽ tiếp diễn như nền thống nhất của Israel sau khi tiếng nói tiên tri bị nín thinh. Chính lời tiên tri đã giúp cho việc chuyển tiếp qua các điều kiện nhờ đó dân Chúa có thể sống còn trong nhiều thế hệ (mặc dù việc thiếu nó được liên tục cảm nhận, xem 1Mcb 4:46; 14:41). Nó làm thế nhờ đáp ứng các nhu cầu mà Giêrêmia và Êdêkien từng đã thấy trước trước thời lưu đầy, bằng cách nhấn mạnh tới trách nhiệm và lòng trung thành cá nhân đối với lề luật, với một Israel mà Thiên Chúa không còn xử lý với chỉ như một dân tộc tốt hay xấu, thịnh vượng hay gian nan, mà như một tôn giáo trong đó mọi thành viên phải tuân theo luật sống đã đặt ra cho họ cho tới hừng đông một hy vọng còn tốt đẹp hơn nữa (xem Edk 3:16-21; 33:1-20). Sau một lưu ý vắn vỏi vào việc phục hồi nhà Đavít (Dcr 6:9-15), nó trở lại với các chủ đề cứu rỗi mà tính đa dạng đã được phong phú hóa nơi lời tiên tri lưu đầy và nhờ cách này, tiếp tục chứng từ tiên tri cho việc thống trị hoàn vũ của Giavê (xem Mk 1:11; Is 19:9-10...). Cuối cùng, nó hứa hẹn rằng lời tiên tri sẽ trở lại (xem Mk 3:22-24) và, thực sự, một cách nào đó, nó sẽ trở thành ơn phúc cho toàn thể dân Thiên Chúa.
Sự mất dạng của việc nói tiên tri ở Israel cũng kín đáo như lúc nó khởi đầu; không thể xác định ai là tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Trong 200 năm trước CN, các tác giả khôn ngoan đã thi hành một cách đầy ý thức truyền thống thừa hưởng được từ các tiên tri (xem Hc 24:32; Kn 7:27) tuy nhiên đã không cho là mình sở hữu thần khí tiên tri.
(B) Các đặc điểm phân biệt của nó
Từ những gì chúng ta đã nói trên đây, hẳn ta sẽ dễ dàng tổng quát hóa đặc điểm phân biệt của lối nói tiên tri ở Israel; ta sẽ đề cập tới một số đặc điểm này trong các phần sau đây.
Vì Israel có các tiên tri thờ cúng và cung đình hay các tiên tri mà năng khiếu là để phục vụ quốc gia hay các khách hàng tham khảo công tư, nên việc nói tiên tri ở Israel cũng là thành phần của khuôn mẫu tiên tri ở Cận Đông như đã nhắc. Nhưng ngay trong trường hợp này, việc phù hợp với khuôn mẫu cũng không có chi là y hệt, vì nội dung của việc nói tiên tri này có tính Do Thái riêng biệt. Người ta dễ dàng tìm thấy một song hành không Do Thái nơi 400 tiên tri được Vua Israel mời ở 1V 22, nhưng không có song hành nào như thế nơi tiên tri Mikhagiơhu, người cũng được nhà vua cho vời. Điều cũng bất khả hữu là tìm ra một tiên tri cung đình không phải người Do Thái nhưng nói chuyện với vua của mình như Nathan nói với Đavít, hoặc ngay cả một tiên tri nói với vua của mình như các tiên tri hoàng gia. Không một song hành thực sự nào đối với nền văn chương như thế đã được tìm thấy bên ngoài Israel, vì đây là biểu thức nói lên một tôn giáo không hề có song hành nào thực sự trong thế giới đương thời.
Không hề có một song hành không phải Do Thái nào đối với việc nói tiên tri thời cổ điển, cả về hình thức lẫn nội dung. Xem ra không hề có lý do vững chắc nào để đặt điều kiện cho phán đoán đã được đưa ra cách nay 80 năm bởi 1 tác giả không ngần ngại tối thiểu hóa điều độc đáo ở Israel là “kết quả cuộc tìm kiếm thực sự các lời nói tiên tri đúng nghĩa ở Babylon đang làm người ta thất vọng” và do đó, tác giả này đã dám “hoài nghi rằng [Babylon và Átsua] không hề có bất cứ lời nói tiên tri nào” (T.K. Cheyne, The Two Religions of Israel [London, 1911] 7-8). Mà cuộc tìm kiếm ấy cũng chẳng thành công gì ở các nơi khác. Một vài mảnh “luân lý tiên tri” có thể ráp nối với nhau từ hàng trăm năm nghiên cứu lịch sử văn chương có nhiều tài liệu của cổ Ai Cập cũng không thể trở thành bât cứ điều gì có thể so sánh với việc nói tiên tri ở Israel, chứ đừng nói bất cứ điều gì có thể biện minh cho lý thuyết kỳ quái có lúc đã được những người say mê Ai Cập Học đề xuất, tức việc giáo huấn luân lý tiên tri của Israel bắt nguồn từ Ai Cập. Các chất liệu Ai Cập, tức văn chương khôn ngoan của Trung Vương Quốc hay của thời kỳ giữa hai vị vua nối tiếp Cổ Vương Quốc (NET, 407-10), là bằng chứng cho thấy Ai Cập đôi khi sản xuất được một số tiếng nói luân lý đáng để so sánh với các tiếng nói trong Cựu Ước nhưng không bao giờ có được truyền thống tiên tri như truyền thống của Israel. Việc nói tiên tri của Israel ly khai với khuôn mẫu cổ thời khi nó bắt đầu sản xuất ra các tiên tri lên tiếng không chỉ từ các định chế Do Thái mà còn phê phán chúng và trở thành lương tâm của chúng nữa. Như thế, ta có được các hình thức văn chương khác biệt mà tiếng dội chân thực của nó không tìm đâu thấy trong nền văn chương khác của cổ thời.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng dịch là “thầy chiêm” trong khi Bản của Tin Lành (Phan Khôi) thì dịch là “người tiên kiến”.
Kỳ sau: II. Việc nói tiên tri và các định chế của Israel
Sự thịnh hành của mẫu thức tiên tri tại khắp miền Cận Đông vừa là nguồn cội cho việc nói tiên tri tại Israel vừa nhấn mạnh tới các đặc tính đặc trưng của nó. Vì tôn giáo Do Thái có những nét chung với các tôn giáo của các dân tộc khác thuộc miền Cận Đông, nhất là các dân tộc thuộc nhóm Semitic, nên nó có nhiều định chế tôn giáo tương tự như thế nào, trong đó có định chế nói tiên tri, thì cũng vì tôn giáo Do Thái có những nét hoàn toàn đặc thù so với các tôn giáo của vùng này, nên phong trào nói tiên tri của nó cũng là một nét độc đáo riêng khác với thế giới Cận Đông như thế.
(A) Lịch sử việc nói tiên tri tại Israel
Người Do Thái nghĩ gì khi họ nói về nābîʼ, từ ngữ mà Bản Bẩy Mươi dịch là “tiên tri”? Bề ngoài xem ra câu hỏi này khá sơ đẳng, nhưng ta không thể trả lời một cách chính xác cho nó chỉ bằng cách dựa vào các kiến thức hiện nay của ta mà thôi. Bởi vì chưa có bất cứ đồng thuận bác học nào về nguồn gốc của từ ngữ này, một từ ngữ chắc hẳn được ngôn ngữ Hípri vay mượn đâu đó. Ta chỉ có thể dựa vào cách Cựu Ước sử dụng nó để có thể đưa ra bất cứ định nghĩa nào. Việc xem sét này cũng giúp giải quyết một số vấn đề khác, kể cả vấn đề phát sinh do sự kiện nghịch lý này là từ ngữ này từng bị chính những người chúng ta vốn nghĩ là tiên tri bác bỏ hay ít nhất tránh né.
(a) Việc nói tiên tri lúc ban đầu
Truyền thống Thánh Kinh vẫn coi nguồn gốc việc nói tiên tri tại Israel là chính Mô-sê, và ít nhất, nếu hiểu điều này có ý nói việc nói tiên tri có cùng lúc với Israel, thì không có lý do gì để không chấp nhận truyền thống ấy. Khung cảnh mô tả tại Ds 11:24-30, thuộc truyền thống E, chắc chắn đã mô phỏng cuộc tập họp của các tiên tri xuất thần thời sau này, nhưng Am 2:11 cũng nhắc tới cùng một loại tiên tri này khi cho rằng thời đại Mô-sê chính là thời khởi nguyên của hình thức nĕbîʼîm. Chắc chắn loại tiên tri này là loại đầu tiên được hiểu qua chữ nābî. Đã đành, trong các bản văn về sau, chữ này có một nghĩa rộng hơn, để chỉ bất cứ ai được linh hứng, hay ít nhất những ai được nhìn nhận là Thiên Chúa che chở, như Áp-ra-ham, trong St 20:7 (EJ) chẳng hạn. Do đó, trong Ngũ Kinh, Mô-sê thường được gọi là nābîʼ, cũng như A-ha-ron (không những trong Xh 7:1 [P] mà cả trong Ds 12:2-8 [E]) và Miriam (trong Xh 15:20 [P]. Trong Tl 4:4, Đơ-vô-ra cũng được gọi là một nĕbîʼâ. Các bản văn này không cho ta biết nhiều về ý nghĩa lúc ban đầu của từ ngữ này; như 1Sm 9:9 đã cho thấy, đến lúc này, từ ngữ nābîʼ không còn chỉ giới hạn vào ý nghĩa một loại “người thánh” duy nhất nào nữa.
Nếu không có lý do gì để tra vấn truyền thống coi nĕbîʼîm đã có nguyên lai từ thời Môsê, thì ta phải nhìn nhận rằng chúng ta không nghe nói đến nguyên lai này trước cuối thời các thủ lãnh và đầu thời các vua khi nó được nhắc đến liên quan tới các cuộc chiến tranh với người Philitinh. Hoàn cảnh này không gây ngạc nhiên chi, vì một chức năng lớn của các tiên tri xuất thần này, cũng như của phái Nazirites, hình như là để kích thích lòng yêu nước và lòng đạo. Thông thường những vị này nói tiên tri theo từng nhóm mà kinh nghiệm có tính cộng đồng của họ được mô tả trong các đoạn đại loại như trong 1Sm 10:6-8, 10-13. Bởi thế, họ thường được dành cho một cái tên chung là “con các tiên tri” (běnêhanněbîʼîm), vốn được giải thích như là “thành viên của phường hội tiên tri”, “các tiên tri chuyên nghiệp và “các môn đệ nói tiên tri” (xem 1V 20:35, 2V 2:3 tt; 5:22; 6:1...) Tất cả các giải thích này đều có thể được biện minh. Kinh nghiệm xuất thần dùng như bầu khí cho việc nói tiên tri thường được gây ra bởi việc bị ảnh hưởng lẫn nhau qua nhẩy múa và âm nhạc. Các tiên tri này cũng thường được coi như các môn đệ hay người tập sự của các tiên tri đã nổi tiếng; tuy nhiên, họ cũng sống biệt lập như các cá nhân tư riêng (xem 2V 4:1). Trong cả hai khả năng này, người ta có thể thấy họ liên kết với các cung thánh như các “tiên tri thờ cúng” (cult prophets) (xem 1V 14:1tt; 2V 22:14-17) hay phục vụ nhà vua trong tư cách “tiên tri triều đình” (xem 2Sm 7:1tt; 12:1tt). Họ mặc loại y phục khác biệt bằng da lông (2V 1:8) và thường mang các đặc điểm khác nữa (xem 1V 20:38, 41) và đôi khi có thể cạo đầu (xem 2V 2:23).
Kinh nghiệm xuất thần biến đổi vị tiên tri, làm ông thành “một người khác” (1S 10:6). Trong tình trạng ấy, các trò cười của ông có thể lố bịch khiến người ta có thể thân mật gọi ông là “người khùng” (2V 9:11) trong khi nghề của ông bị coi như ít phù hợp với tư cách công dân có trách nhiệm, đáng kính (1Sm 10:11). Thời cổ, người ta ít phân biệt được các bất thường tâm linh (psychic abnormalities) không biết chúng phát xuất từ linh hứng, sự mê loạn hay điên khùng. Chắc chắn điều kiện này là phương thế cho trải nghiệm tôn giáo chân chính trong đó, người ta đạt được sự tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Nhưng điều cũng chắc chắn là nó dễ dàng là một nguồn lừa đảo và mê tín, như các cuộc bút chiến về sau của các tiên tri cổ điển chống lại nĕbîʼîm sẽ chứng tỏ.
Chủ trương xuất thần vẫn tiếp diễn tới 1 mức nào đó qua suốt thời kỳ tiên tri của Do Thái. Samuen, có lần, đã bị mô tả như đứng đầu nhóm tiên tri xuất thần này (1Sm 19: 20tt). Cả Êlia và Êlisa cũng thường liên hệ với “các con của tiên tri” này trong tư cách bậc thầy và lãnh tụ (xem 2V chương 2). Qui mô ảnh hưởng của chủ trương xuất thần đối với việc nói tiên tri về sau, nhất là tiên tri văn bản cổ điển, hiện vẫn còn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận có ý nghĩa. Trong 1V 22:5-28, tiên tri giả Xít-ki-gia-hu lấy việc mình sở hữu được “thần khí của Đức Chúa” và các bạn đồng xuất thần của mình làm chứng cớ chống lại việc nói tiên tri của Mi-kha-giơ-hu, người xem ra không có “thần trí” này. Mi-kha-giơ-hu chỉ gán việc nói tiên tri cho thị kiến của mình; cũng nhờ thị kiến này, ông biết kinh nghiệm của Xít-ki-gia-hu là kinh nghiệm của một “thần trí dối trá”. Cũng thế, Grm 29:26 cho thấy tiên tri xuất thần rất thông thường thời Giêrêmia, nhưng chính Giêrêmia thì không bao giờ nại tới việc sở hữu “thần khí” tiên tri. Tuy nhiên, mặt khác, Êdêkien chắc chắn nhận được nhiều lời tiên tri của mình trong những lúc xuất thần và chứng thực nhiều lần rằng mình được “thần trí” và “bàn tay Giavê” chiếm hữu.
Mối liên hệ cổ xưa giữa “thầy chiêm” (1) (rōʼeh hay ḥōzeh, [seer]) và nābîʼ là điều chưa ai biết chắc. Về nguyên tự, thầy chiêm là một người thị kiến chứ không hẳn xuất thần, nhưng không loại bỏ việc các thị kiến này nhận được do một kinh nghiệm xuất thần. Gát, một nābîʼ, cũng được gọi là ḥōzeh của Đavít trong 2Sm 24:11; 1Sb 21:9; điều này chắc chắn phản ảnh việc đồng hóa các từ ngữ này sau đó như được thấy trong 1Sm 9:9. Mặc dù vai trò của thầy chiêm là nói tiên tri (nghĩa là hành động 1 phần của nābîʼ, xem Am 7:12), nhưng thầy chiêm vẫn khác với tiên tri như trong 2V 17:13; Is 29:10; 30:10; Mk 3:6-7. Đệ Nhị Luật 13:2-6 nói đến “tiên tri và kẻ chuyên nghề chiêm bao”; như thế rõ ràng thầy chiêm đồng nhất với những người “chuyên nghề chiêm bao” này. Khi dựa vào các giấc mơ như nguồn mạc khải của Thiên Chúa, Israel cổ thời đã tiếp tục chia sẻ mẫu người được linh hứng của Cận Đông cổ xưa. Việc sử dụng bói toán (divinatory) cũng có thể có vai trò trong các thị kiến của thầy chiêm; tuy nhiên, nói chung, Đạo Do Thái có xu hướng coi bói toán là chuyện mê tín. Từ ngữ “thầy bói” không bao giờ được sử dụng trong Thánh Kinh để chỉ người phát ngôn chân thực của Thiên Chúa.
Với việc tinh vi hóa hay đơn giản hóa ngôn ngữ tôn giáo, các từ ngữ được các tôn giáo không phải Do Thái Giáo ưa dùng (“thầy bói”, “thầy chiêm bao”...) trở thành có nghĩa xấu và mọi loại linh hứng đều được ngụ hàm trong hạn từ nābîʼ. Tuy nhiên, xu hướng này dẫn nhập một sự hàm hồ tối nghĩa nào đó, từng được Amốt cảm nhận; ngài chấp nhận nĕbîʼîm của quá khứ nhưng bác bỏ việc ngài là một nābîʼ theo nghĩa của A-mát-gia (7:12-15) nghĩa là một tiên tri thờ cúng xâm phạm lãnh thổ của tiên tri tư tế của Bết-ên.
(b) Nói tiên tri cổ điển
Qua cụm từ “nói tiên tri cổ điển”, chúng ta muốn nói tới kiểu nói tiên tri của những vị mà Cựu Ước dạy ta coi như điển hình cho các tiên tri Do Thái, nghĩa là tất cả những gì tách biệt họ khỏi khuôn mẫu Cận Đông. Đây là những vị tiên tri mà lời dạy được duy trì trong Cựu Ước và nhất là các vị mà tên được dùng đặt tên cho các sách tiên tri. Cựu Ước cũng gọi các ngài là nĕbîʼîm, như thành phần trong diễn trình tiêu chuẩn hóa thuật ngữ, và, ít nhất, chính các ngài, cuối cùng, cũng đã tự gọi mình như thế. Trên thực tế, quả một số tiên tri cổ điển cũng là nĕbîʼîm theo nghĩa chúng ta vừa nói. Các tiên tri chuyên nghiệp cũng có thể trở thành các tiên tri nhờ ơn gọi đặc biệt của Thiên Chúa, dù đây không hẳn là việc thông thường.
Điều trên dẫn ta tới một vấn đề mà nay ta nên bàn tới, tức vấn đề của những người được gọi là tiên tri giả. Đây không phải là 1 hạn từ của Thánh Kinh: Thánh Kinh Do Thái chỉ biết đến nĕbîʼîm mà thôi (dù họ có thể bị coi như các triên tri nói láo hay có thần trí nói láo), mặc dù các dịch giả của Bản Bẩy Mươi, ở một số chỗ, có đưa vào hạn từ pseudoprophētēs. Vì tính hàm hồ tối nghĩa của hạn từ nābîʼ, nên có sự nghịch lý là một số lời tố cáo chua cay nhất tìm thấy nơi các tiên tri văn bản (literary prophets) đã được ngỏ với, hay liên quan, tới “các tiên tri”. Vô vàn các đoạn văn như thế đã tố cáo “các tiên tri” hay, không kém thường xuyên, các tiên tri và tư tế đi đôi với nhau, đã phạm đủ thứ tội luân lý và xã hội chống lại Giavê và dân của Người, và đã hợp tác với các thành phần tồi tệ nhất trong luật lệ và thực hành Do Thái để phản lại thánh ý Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, dưới con mắt của Israel và của chính các tiên tri cổ điển, các tiên tri giả là các tiên tri thực sự giống như các tiên tri cổ điển. Mặc dù trong số họ, có những người có thể có những lời tiên tri phỏng theo hay đội lốt (simulated), nhưng ta không nên nghĩ họ “giả” theo nghĩa họ cố tình và cố ý giả, là điều họ không là. Đúng hơn, họ là những tiên tri bị đánh lừa bởi chính các phương thế tiên tri của họ, sai lầm trong phán đoán, lẫn lộn các niềm hy vọng và hoài mong của họ với lời chân chính của Giavê (xem Is 28:7; Grm 25:3tt). Cũng không loại bỏ việc cùng một tiên tri có lúc nói sự thật có lúc nói sự sai trái, vì lời tiên tri chân thực lúc nào cũng là một hồng ân của Thiên Chúa (xem Đnl 13:2-6, hạn chế tiêu chuẩn có phần không được tinh vi về tiên tri thật và tiên tri giả trong Đnl 18:21-22). Dưới mắt Cựu Ước, hoạt động của tiên tri giả cũng do Giavê muốn có như một phương tiện để thử thách những kẻ trung thành theo Người (Grm 4:10; 1V 22:19-23...)
Các tiên tri giả thường là các tiên tri ở triều đình chỉ biết nói cho vua và các cận thần của ông ta những điều họ muốn nghe; họ cũng thường là những người thu tích được tiền bạc từ những lời tiên tri có lợi cho khách hàng, bảo đảm với họ được Thiên Chúa chúc phúc hay không làm lương tâm họ bối rối. Tuy nhiên, có lẽ phần lớn họ là những người bị cuốn vào thảm kịch chung của dân họ, nghĩa là những người đã trở nên xác tín rằng “lối sống của người Do Thái” tượng trưng cho bất cứ điều gì thuộc về Thiên Chúa đến độ họ có một thứ kể như bản nhiên thứ hai muốn đo lường thánh ý Giavê theo thành quả của Israel chứ không phải ngược lại. Thảm kịch thường được lặp đi lặp lại này không hề chỉ có cổ thời Israel mới có. Trong một thời đại mà niềm tự hào quốc gia nói bằng ngôn từ tôn giáo, thì điều không thể tránh được là ngôn từ này cũng nói bằng tiếng nói tiên tri.
Điều hiển nhiên là sự phân biệt giữa hai lối nói tiên tri giả và tiên tri thật thời các tiên tri cổ điển không luôn luôn rõ ràng. Việc chiếm hữu “thần trí” tiên tri xuất thần không phải là một tiêu chuẩn chắc chắn: các tiên tri có thể có thần trí mà vẫn nói tiên tri giả và phần lớn các tiên tri cổ điển không cho thấy dấu chỉ nào là xuất thần cả. Việc nên trọn lời tiên tri, dù nó luôn hiển nhiên đối với các người đương thời của vị tiên tri, cũng không phải lả dấu chỉ vô ngộ, như Đnl 13:2tt đã chứng tỏ; hơn nữa, các lời tiên tri thật xem ra cũng thường không nên trọn, làm nản lòng cả chính vị tiên tri (xem Grm 20:7tt). Khi tiên tri Kha-na-gia nói tiên tri điều ông mơ tưởng khi tiên đoán cuộc lưu đầy Babilon sẽ kết thúc trong hai năm và việc phục hồi Giơ-khon-gia (Grm 28:1tt), thì Tiên Tri Giêrêmia chẳng phản bác được bao nhiêu ngoài xác tín của ngài về sự thật trong lời tiên tri ngược lại của mình. "A-men! Ước gì ĐỨC CHÚA làm như thế! Ước gì Người thực hiện các điều ông vừa tuyên sấm...” Giêrêmia buồn bã nói thế, vì chính ông cũng muốn nói như Kha-na-gia, nhưng ông biết ông không thể nói thế, vì đó không phải là lời của Giavê.
Giêrêmia cũng biện minh lời tiên tri của ông một cách khiến ta lạ lùng: “Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ ĐỨC CHÚA sai đến thật sự!" (28: 8-9).
Thực sự, Giêrêmia không có ý nói tiên tri sự dữ thì phải được tin còn tiên tri tiên đoán hòa bình thì phải bị bác bỏ. Ngài chỉ đưa ra quan điểm của ngài về truyền thống tiên tri từng phục vụ truyền thống Giavít chân chính; ngài sử dụng cùng một luận điểm như trong Đnl 13:2tt. Bất cứ ai thực sự biết Thiên Chúa đều sẽ nhận ra vị tiên tri đích thực của Người và biện phân vị này với tiên tri giả, vì việc nói tiên tri phải phù hợp với các kế sách của Thiên Chúa như Người đã mạc khải cho họ. Theo Tin Mừng Gioan 5:3 tt, Chúa Giêsu cũng đã tương tự bênh vực quan điểm của Người như thế trước thế hệ của Người. Bất cứ ai nhìn nhận tình thế của Israel trong tương quan với thánh ý Thiên Chúa, đều cũng phải biết rằng lời tiên tri hòa bình giống như lời tiên tri của Kha-na-gia không thể là lời thực sự của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh như thế.
Nếu các tiên tri cổ điển chỉ có thể cung ứng cho người đương thời chứng từ của chính lời tiên tri, thì họ đã không làm điều gì khác hơn bất cứ tiên tri đích thực nào vẫn được chờ mong phải làm: chính lời này phải tìm được đáp ứng trong trái tim vốn sẵn sàng tiếp nhận lời lẽ của Thiên Chúa. Xác tín của họ đối với sự thật trong lời tiên tri của mình dựa vào cùng nền tảng; bởi thế, trình thuật ơn gọi tiên tri, cảm nghiệm thánh nhan Thiên Chúa, đóng một vai trò chủ chốt trong việc ghi lại các tiên tri văn bản. Chứng từ này tạo nên uy tín của họ, cho chính họ và cho những người họ được sai đến.
Việc nhìn nhận mục đích độc đáo mà Giavê đã dành cho việc nói tiên tri trong thời đại cổ điển đã được tìm thấy trong Cựu Ước qua câu truyện về Samuen. Vị này là một nābîʼ, đứng đầu một nhóm běnêhanněbîʼîm, sự hiện hữu của những nhóm như thế trên một qui mô lớn vốn đã được giả thiết trong sử biên niên Thánh Kinh; thế nhưng, khi Samuen được giới thiệu lần đầu (1Sm 3:1), ta đọc thấy rằng “lời Giavê thật hiếm hoi trong những ngày này – các thị kiến không có thường.” Nói cách khác, với Samuen, việc nói tiên tri ở Do Thái phải đạt được một chiều kích mới. Chiều kích mới này là gì, ít nhất dưới mắt của chính tác giả sách này, đã được nói rõ trong lời biện bạch của Samuen (1Sm 12:1-5), một tuyển tập ngôn từ của Amốt, Mikha, Hôsê và Malaki. Cũng có thể nói cùng điều này về ngôn từ tiên tri được gán cho nābîʼ Nathan trong 2Sm 12:1tt. Việc không sợ sệt tỏ lộ ý muốn của Giavê về luân lý, tức giao ước của Thiên Chúa Israel, một điều phải được coi như đặc điểm của tiên tri cổ điển làm nó khác với mọi tiên tri khác, cả ở Israel lẫn ở những nơi khác, đã bắt đầu với các đại diện của giai cấp nābîʼcổ xưa này.
Theo cách tương tự, Êlia đã tố cáo tội lỗi của A-kháp trong 1V 21:17-24, bằng thứ ngôn ngữ rất xứng danh một Amốt hay một Giêrêmia. 1V 19:4tt mô tả cảm nghiệm “gió hiu hiu” của Êlia trong đó, ngài nghe thấy tiếng của Giavê như chưa bao giờ ngài nghe thấy trước đây, như là ơn gọi mới để nói tiên tri và như khởi đầu của một đường lối tiên tri mới (xem câu 14). Liền ngay sau đó, Êlisa được kêu gọi làm môn đệ của Êlia và, sau cùng, làm người kế nhiệm ngài trong tư cách “cha Israel”. Trong khi tác giả của trình thuật Êlisa phần lớn chỉ lưu ý tới vị tiên tri này trong tư cách làm điều lạ lùng, ông vẫn tìm ra thì giờ để trình bầy cả giáo huấn của ngài nữa bằng những hạn từ có tiếng vang nơi các tiên tri “xã hội” sau này (xem 2V 5:26).
Như thế, quả không khó để thấy lý do tại sao Amốt, dù tự biết mình là một điều gì nhiều hơn là một nābîʼ, vì thể chế truyền thống này tiếp diễn qua thời của ngài và sau đó nữa, đã không bác bỏ thể chế cổ xưa này. Tuy nhiên, ngài gán đặc tính khác biệt trong việc nói tiên tri của mình cho ơn gọi đặc biệt của Giavê (Am 7:15) như Êlia có lẽ cũng làm và rất nhiều tiên tri văn bản khác cũng làm (xem Hs 1-3; Is 6; Grm 1... Trong cùng một Chúa Thánh Thần, các tiên tri có xu hướng tự cấp cho mình các tên không phải là nābîʼ, những cái tên nói rõ tầm quan trọng của họ như là những người Thiên Chúa chỉ định một cách đặc biệt. Họ là “sứ giả của Giavê” (Is 44:26; Kg 1:13; Mk 3:1), “Tôi trung Thiên Chúa” (Is 20:3; Am 3:7; Grm 7:25; 24:4), “Các mục tử” (Grm 17:16; Dc 1:4); “người giám hộ” (Is 62:6; Kb 2:1), “lính canh” (Am 3:4; Is 56:10; Grm 6:17; Edk 3:17).
Các tiên tri nổi tiếng nhất đối với chúng ta là các vị gọi là tiên tri văn bản (literary prophets) thuộc các thế kỷ 8,7 và 6 trước CN. Theo thứ tự thời gian, đó là các Tiên Tri Amốt, Hôsê, Isaia, Mikha, Nakhum, Xôphônia, Khabacúc, Giêrêmia, và Êdêkien. Trừ Hôsê, tất cả các vị này đều là người Giuđa, mặc dù Amốt, vì các lý do thực tiễn, vẫn tiếp tục truyền thống tiên tri cổ điển của người Do Thái miền bắc, vốn bắt đầu với Samuen và Êlia. Tuy nhiên, không nên hạn chế việc nói tiên tri cổ điển vào các vị này; cũng có các vị tiên tri văn bản khác mà chúng ta không biết. Một trong các vị này, thực sự là một trong các vị tiên tri vĩ đại nhất, là vị tiên tri thời lưu đầy mà chúng ta vẫn gọi là Đệ Nhị Isaia; ngoài ra, còn rất nhiều các tiên tri ẩn danh từng đóng góp các phụ lục cho các sách tiên tri, sách thánh vịnh và các trước tác tiên tri khác tìm thấy ở những nơi khác trong Cựu Ước. Rồi cũng còn các tiên tri khác trong truyền thống cổ điển mà lời lẽ thực sự của các ngài ta được thấy một phần nhỏ hay không thấy chút nào. Thậm chí chúng ta không biết cả tên của một số vị. Giêrêmia 7:25; 11:7 chỉ nói đến truyền thống liên tục của tiên tri thật từ thuở đầu của Israel. Với một số vị, ta chỉ biết tên, như U-ri-gia được nhắc đến ở Giêrêmia 26:20-23; việc nói tiên tri của vị này diễn ra cùng thời với Giêrêmia và trong tinh thần của vị tiên tri này.
Ơn gọi đặc biệt của Giavê, một ơn gọi đã đóng một vai trò quan trọng như thế đối với các suy nghĩ của các tiên tri cổ điển, không phải chỉ là tước hiệu tiên tri của các ngài mà thôi. Theo cung cách nó được lồng vào các lời lẽ tiên tri của các ngài, thì nó là điều chủ chốt đối với việc nói tiên tri của các ngài, vì các tiên tri là những nhà tư tưởng có tính cá nhân cao mà nhân cách khác biệt chính là những dụng cụ đa dạng để qua đó, lời Thiên Chúa được đưa ra. Đã đành là có học lý tiên tri chung dễ nhận thấy nói về những nét chủ yếu của tôn giáo tôn thờ Giavê và cả nhiều chi tiết khác nữa, và trong quá khứ, đã có khuynh hướng quá nhấn mạnh đến khía cạnh thiên tài và độc đáo của các tiên tri cá nhân, nhưng cũng đúng là không ai, khi đã quen thuộc với văn chương tiên tri lại có nguy cơ lẫn lộn vị tiên tri này với vị tiên tri kia. Sự tương tự của các ngài phát sinh từ lòng tôn trọng của các ngài đối với các lý tưởng chung và từ việc các ngài tùy thuộc vào các truyền thống và định chế chung. Tuy nhiên, việc làm trung gian của các ngai cho các lời tiên tri thì có tính bản vị cao. Ít khi các ngài trích dẫn lẫn nhau, thậm chí nhìn nhận sự hiện hữu của nhau. Nói cách khác, thế giá trong các lời các ngài nói phát xuất từ niềm tin tưởng thanh thản có tính cá nhân của các ngài rằng các ngài có thần trí của Giavê.
Trong khi các tiên tri cổ điển trước thời lưu đầy ít nhiều có xu hướng tiên tri phán xét chống lại Israel và Giuđa, thì lời tiên tri của Nakhum rõ ràng là một ngoại lệ. Lời tiên tri của Nakhum là một bản tán tụng ca (paen) chiến thắng trước sự tan rã của đế quốc Átsua, mà kết liễu của nó ngài từng tiên đoán sắp diễn ra. Điều này không nhất thiết có nghĩa Nakhum là một trong các “tiên tri hòa bình” mà niềm tự hào duy quốc gia vốn bị Giêrêmia tởm gớm. Việc làm nhục các quốc gia không phải là Israel cũng là thành phần trong sứ điệp của các tiên tri cổ điển khác vốn không hề là “tiên tri hòa bình”. Một tiên tri khác không dễ dàng bị xếp vào khuôn mẫu tiền lưu đầy là Khabacúc, không hẳn vì nội dung lời tiên tri của ngài, vì ý nghĩa chính xác của nó vẫn có thể còn bị tranh cãi, cho bằng vì hình thức của nó. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi nghĩ rằng các tiên tri phải tuân theo một bản liệt kê các đặc điểm độc dạng. Khabacúc rất có thể là một tiên tri thờ cúng giống như nữ tiên tri Khunđa (2V 22:14). Những vị chịu trách nhiệm lo các thánh vịnh vương giả thường cũng là các tiên tri thờ cúng hay triều đình, thế nhưng rõ ràng có sự khác nhau giữa tâm tư người viết Thánh Vịnh 2 và tâm tư người sáng tác Thánh Vịnh 72. Xét theo bản chất của việc nói tiên tri, qua đó lời Thiên Chúa được gióng lên qua đủ loại dụng cụ tuyển chọn, thì kết quả này là điều đương nhiên.
(c) Nói tiên tri thời hậu lưu đầy
Trong thời lưu đầy, Israel được ban cho một viễn kiến mới mẻ về nhiệm cục Thiên Chúa, đó là viễn kiến của các tiên tri vĩ đại thời lưu đầy: Giêrêmia, Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các đặc điểm của viễn kiến mới này, lẽ dĩ nhiên, sẽ được bàn tới ở các lời nhận định về các vị tiên tri này. Ở đây chỉ xin ghi nhận ảnh hưởng của các ngài đối với giai đoạn cuối cùng của phong trào tiên tri Do Thái, tức thời kỳ Do Thái Giáo ở Palestine sau cuộc lưu đầy.
Việc nói tiên tri thời hậu lưu đầy thiếu nhiều tính mạnh mẽ và bộc phát của việc nói tiên tri tiền lưu đầy; dù sao, nó cũng đã tạo nên một loại riêng mời gọi ta phải tách nó ra khỏi thời kỳ tiên tri cổ điển. Lindlom, trong Prophecy in Ancient Israel, viết rằng “Các tiên tri thời này sống phần lớn nhờ các ý tưởng của các tiên tri trước đó, và đặc biệt, của các tiên tri thời lưu đầy. Các đặc điểm của họ ít thấy trong các ý tưởng độc đáo của riêng họ cho bằng ở trong các khuynh hướng vốn đã nổi bật và trong cung cách họ thay đổi các ý tưởng vay mượn.” Các tiên tri thuộc loại này, liệt kê theo thứ tự thời gian, là tiên tri hay các tiên tri chịu trách nhiệm phần cuối cùng của Isaia: Khácgai, Dacaria, (các chương 1-8), Malakhi, Ôvađia, Gioen và các tiên tri ẩn danh viết Dcr 9-11, 12-14, ấy là chưa kể một số bàn tay tiên tri đã can thiệp vào việc sản sinh ra lần cuối nhiều sách tiên tri cổ xưa hơn, nhất là Isaia, Giêrêmia và Êdêkien.
Hợp tuyển tiên tri hậu lưu đầy có lẽ có tính nhất quán hơn là hợp tuyển tiền lưu đầy. Ôvađia hậu lưu đầy ít nhiều tương ứng với Nakhum tiền lưu đầy trong việc nói tiên tri về hòa bình cho Israel trong khi hủy diệt kẻ thù đáng ghét. Tuy nhiên, sự kiện Cuốn An Ủi của Đệ Nhị Isaia có trước lời tiên tri của Ôvađia đã khiến phải đặt vị này vào truyền thống hậu lưu đầy mạnh mẽ hơn là lời tiên tri của Nakhum đặt ngài vào truyền thống tiền lưu đầy. Nói chung, các tiên tri hậu lưu đầy có cái nhìn “lạc quan” về số phận Israel hơn các tiên tri tiền lưu đầy, vì đại họa mà các vị sau tiên báo nay đã đến rồi đi, và niềm hy vọng mới có thể được tìm thấy trong khuôn mạo của người đầy tớ Chúa được mạc khải trong Isaia lưu đầy. Dacaria và Malakhi biểu lộ sự quan tâm đối với Đền Thờ, lề luật, mà các vấn đề tế tự vốn không thể tìm thấy nơi các tiên tri tiền lưu đầy. Tuy nhiên, sự quan tâm này tiếp nối quan tâm của Êdêkien, một tiên tri đích thực tiên đoán điềm gở cho Isarel và là người đồng thời đã thị kiến được một giao ước mới mà Giavê sẽ thực hiện trên đất Palestine khi các điều kiện thay đổi sẽ đòi sự thống nhất và các căng thẳng mới về tôn giáo. Phần gọi là Trito-Isaia (các chương 56-66) cũng chịu ảnh hưởng lớn của Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các hình ảnh mạnh bạo có tính khải huyền của Dacaria, Gioen và phần phụ lục Isaia (các chương 24-27, 34-35) đã được báo trước nơi Êdêkien vốn được nhiều học giả coi như cha đẻ của văn chương khải huyền.
Sự đa dạng của lời tiên tri hậu lưu đầy, xem ra, chủ yếu là một trong các văn phong dẫn khởi từ và thiếu sự tươi mát của các sấm ngôn tiên tri trước đó. Các chủ đề khá thông thường và thích hợp với một dân tộc hiện đang sống dưới một Do Thái Giáo khi Đền Thờ và Kinh Tôra đã trở thành các thực tại lâu bền sẽ tiếp diễn như nền thống nhất của Israel sau khi tiếng nói tiên tri bị nín thinh. Chính lời tiên tri đã giúp cho việc chuyển tiếp qua các điều kiện nhờ đó dân Chúa có thể sống còn trong nhiều thế hệ (mặc dù việc thiếu nó được liên tục cảm nhận, xem 1Mcb 4:46; 14:41). Nó làm thế nhờ đáp ứng các nhu cầu mà Giêrêmia và Êdêkien từng đã thấy trước trước thời lưu đầy, bằng cách nhấn mạnh tới trách nhiệm và lòng trung thành cá nhân đối với lề luật, với một Israel mà Thiên Chúa không còn xử lý với chỉ như một dân tộc tốt hay xấu, thịnh vượng hay gian nan, mà như một tôn giáo trong đó mọi thành viên phải tuân theo luật sống đã đặt ra cho họ cho tới hừng đông một hy vọng còn tốt đẹp hơn nữa (xem Edk 3:16-21; 33:1-20). Sau một lưu ý vắn vỏi vào việc phục hồi nhà Đavít (Dcr 6:9-15), nó trở lại với các chủ đề cứu rỗi mà tính đa dạng đã được phong phú hóa nơi lời tiên tri lưu đầy và nhờ cách này, tiếp tục chứng từ tiên tri cho việc thống trị hoàn vũ của Giavê (xem Mk 1:11; Is 19:9-10...). Cuối cùng, nó hứa hẹn rằng lời tiên tri sẽ trở lại (xem Mk 3:22-24) và, thực sự, một cách nào đó, nó sẽ trở thành ơn phúc cho toàn thể dân Thiên Chúa.
Sự mất dạng của việc nói tiên tri ở Israel cũng kín đáo như lúc nó khởi đầu; không thể xác định ai là tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Trong 200 năm trước CN, các tác giả khôn ngoan đã thi hành một cách đầy ý thức truyền thống thừa hưởng được từ các tiên tri (xem Hc 24:32; Kn 7:27) tuy nhiên đã không cho là mình sở hữu thần khí tiên tri.
(B) Các đặc điểm phân biệt của nó
Từ những gì chúng ta đã nói trên đây, hẳn ta sẽ dễ dàng tổng quát hóa đặc điểm phân biệt của lối nói tiên tri ở Israel; ta sẽ đề cập tới một số đặc điểm này trong các phần sau đây.
Vì Israel có các tiên tri thờ cúng và cung đình hay các tiên tri mà năng khiếu là để phục vụ quốc gia hay các khách hàng tham khảo công tư, nên việc nói tiên tri ở Israel cũng là thành phần của khuôn mẫu tiên tri ở Cận Đông như đã nhắc. Nhưng ngay trong trường hợp này, việc phù hợp với khuôn mẫu cũng không có chi là y hệt, vì nội dung của việc nói tiên tri này có tính Do Thái riêng biệt. Người ta dễ dàng tìm thấy một song hành không Do Thái nơi 400 tiên tri được Vua Israel mời ở 1V 22, nhưng không có song hành nào như thế nơi tiên tri Mikhagiơhu, người cũng được nhà vua cho vời. Điều cũng bất khả hữu là tìm ra một tiên tri cung đình không phải người Do Thái nhưng nói chuyện với vua của mình như Nathan nói với Đavít, hoặc ngay cả một tiên tri nói với vua của mình như các tiên tri hoàng gia. Không một song hành thực sự nào đối với nền văn chương như thế đã được tìm thấy bên ngoài Israel, vì đây là biểu thức nói lên một tôn giáo không hề có song hành nào thực sự trong thế giới đương thời.
Không hề có một song hành không phải Do Thái nào đối với việc nói tiên tri thời cổ điển, cả về hình thức lẫn nội dung. Xem ra không hề có lý do vững chắc nào để đặt điều kiện cho phán đoán đã được đưa ra cách nay 80 năm bởi 1 tác giả không ngần ngại tối thiểu hóa điều độc đáo ở Israel là “kết quả cuộc tìm kiếm thực sự các lời nói tiên tri đúng nghĩa ở Babylon đang làm người ta thất vọng” và do đó, tác giả này đã dám “hoài nghi rằng [Babylon và Átsua] không hề có bất cứ lời nói tiên tri nào” (T.K. Cheyne, The Two Religions of Israel [London, 1911] 7-8). Mà cuộc tìm kiếm ấy cũng chẳng thành công gì ở các nơi khác. Một vài mảnh “luân lý tiên tri” có thể ráp nối với nhau từ hàng trăm năm nghiên cứu lịch sử văn chương có nhiều tài liệu của cổ Ai Cập cũng không thể trở thành bât cứ điều gì có thể so sánh với việc nói tiên tri ở Israel, chứ đừng nói bất cứ điều gì có thể biện minh cho lý thuyết kỳ quái có lúc đã được những người say mê Ai Cập Học đề xuất, tức việc giáo huấn luân lý tiên tri của Israel bắt nguồn từ Ai Cập. Các chất liệu Ai Cập, tức văn chương khôn ngoan của Trung Vương Quốc hay của thời kỳ giữa hai vị vua nối tiếp Cổ Vương Quốc (NET, 407-10), là bằng chứng cho thấy Ai Cập đôi khi sản xuất được một số tiếng nói luân lý đáng để so sánh với các tiếng nói trong Cựu Ước nhưng không bao giờ có được truyền thống tiên tri như truyền thống của Israel. Việc nói tiên tri của Israel ly khai với khuôn mẫu cổ thời khi nó bắt đầu sản xuất ra các tiên tri lên tiếng không chỉ từ các định chế Do Thái mà còn phê phán chúng và trở thành lương tâm của chúng nữa. Như thế, ta có được các hình thức văn chương khác biệt mà tiếng dội chân thực của nó không tìm đâu thấy trong nền văn chương khác của cổ thời.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng dịch là “thầy chiêm” trong khi Bản của Tin Lành (Phan Khôi) thì dịch là “người tiên kiến”.
Kỳ sau: II. Việc nói tiên tri và các định chế của Israel
Tản mạn đời tha hương : Ai Mê Bói Toán & Phong Thủy?
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
09:54 09/09/2018
Tản mạn đời tha hương: Ai Mê Bói Toán & Phong Thủy?
Mê như điếu đổ là khác. Bà con qua xứ Mỹ văn minh tân tiến mà vẫn cứ lai rai kiếm nơi để gieo quẻ, xin xăm và đi coi thày bói xem vận mệnh mình ra sao. Dĩ nhiên cái mục ‘Phong thủy’ cũng giúp nhiều ‘chuyên gia’ trổ tài kiếm ăn. Nói rộng ra, ta thấy lan tràn nhiều mục: Tra cứu tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, coi lá số tử vi, bói bài, phân tích các điềm trời và các quẻ, những hiện tượng "nhìn thấy" quá khứ và tương lai, những vụ đồng cốt, v.v…, tất cả đều hàm ý muốn thống trị và vượt trên thời gian, vượt trên lịch sử và vượt trên con người, đồng thời muốn chiếm được sự đồng tình của những quyền lực bí ẩn.
Trước hết ta bàn về mục coi bói phổ thông hàng đầu: Thường thì mục này tùy thuộc vào chủ ý của người đi xem bói, mà họ có thể đề nghị thầy bói xem cho mình về tình duyên, gia đạo, việc học hành thi cử, tuổi tác, việc thăng quan tiến chức… hoặc như xem ngày giờ tốt để khai trương hàng quán, làm nhà, cưới hỏi, mai táng người thân…
Trong xã hội Việt Nam, xem bói có từ xa xưa, thông qua các hình thức như bói chỉ tay, xem tướng, bói Kiều, bói bài, Các chuyên gia tâm lý học cho rằng, những người luôn có nhu cầu xem bói thường là những người có vấn đề về bản thân hay
gia đình. Họ là những người sống trong tâm thế bất an, sợ hãi, thiếu niềm tin nơi bản thân và bế tắc, cuộc sống không có định hướng nên với họ, xem bói như là cứu cánh; Nhưng cũng có những người đi xem bói xuất phát bởi sự tò mò…
Khai thác những đặc điểm tâm lý của thân chủ, các thầy bói thiếu lương tâm thường lợi dụng về tiền bạc, và thậm chí hậu quả của việc xem bói gây ra những hệ lụy thật nặng nề: ‘Xem bói ra ma, quét nhà ra rác’ ! Nhưng xem ra ‘vấn nạn’ xem bói thật khó xóa bỏ, mà luôn là một thách thức nơi gia đình và xã hội. Nó xem chừng luôn tồn tại như một quy luật cung-cầu, để nhiều người đặt để niềm tin của mình vào một tương lai vô định.
Còn về ‘phong thủy’ thì sao ? Đại khái là tìm ảnh hưởng của ‘gió’ và ‘nước’ tới đời sống con người. Nó bao gồm mọi yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm,, không gian…Khoa này dựa vào thuyết âm dương, dịch lý và ngũ hành. Nó cũng lan rộng tới việc chọn chỗ cho mồ mả để chôn cất người quá cố. Và dĩ nhiên nó cũng có nhiều trường phái. Và cũng dĩ nhiên nó có những điểm hữu lý và ích lợi, dựa theo khoa học thiên nhiên trời đất ( ví dụ nhà thì cần thoáng gió…) Nói tổng quát, chuyện phong thủy thường phóng đại những sự kiện thiên nhiên, để rồi trở thành một dịch vụ kiếm tiền khá lộ liễu, nhất là làm hại những kẻ nhẹ dạ.
Bản tin của hãng thông tấn CNN (https://www.cnn.com/style/article/hong-kong-skyscrapers-with-holes/index.html) mới đây đăng tin tại một số cao ốc ở Hồng Kông, khi xây đều có để một khoảng trống thông thoáng từ trước ra sau. Ký giả viết tin thắc mắc vì sao có hiện tượng này? Các nhà phong thủy Hồng Kông giải thích rằng, những cao ốc đó, mặt trước quay ra biển, mặt sau là núi, mà núi theo phong thủy thì phải có Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ, nghiã là núi bên trái có Rồng Xanh, bên phải có Hổ Trắng. Xây cao ốc mà không để lỗ hổng lớn tức là ngăn cản Rồng, không cho Rồng thoát xuống biển. Rồng xuống biển được sẽ đem thịnh vượng cho cao ốc khách sạn.
Tuy nhiên, chuyện mê tín vào phong thủy cũng khó tránh khỏi: Phú quý sinh lễ nghĩa. Đây nói chung cũng chỉ là phong trào. Mà phong trào thì lúc xuống, lúc lên. Mỗi khi kinh tế khó khăn, vợ chồng cãi vã, bồ bịch lăng nhăng, công việc bế tắc, con thi trường nào trượt trường đó... đều đổ tại lá số tử vi, tại phong thủy không tốt...
Không khó để tìm ra sai lầm trong các quan niệm nền tảng của phong thủy, vì bản thân học thuyết âm dương ngũ hành cũng chỉ là một học thuyết duy vật thô sơ, và biện chứng chất phác. Muốn biết ‘âm dương ngũ hành’ và những ‘học thuyết diễn dịch’ từ nó đã kìm hãm các xã hội phương Đông như thế nào, hãy nhớ tới trường hợp các nhà nho thời Tự Đức: Nguy cơ mất nước đã nhãn tiền, thế mà họ vẫn cho rằng khoa học Tây phương chỉ là giả trá, vì tìm mãi không thấy âm dương ngũ hành đâu, nên quyết không chịu canh tân theo Nguyễn Trường Tộ. Thế là mất nước !
Mê tín dị đoan dễ ‘lừa’ dân lành. Mọi nơi mọi lúc.
Nhiều thầy bói rất thích dự đoán việc xấu xảy ra trong tương lai cho khách hàng của mình. Lý do là bởi bộ não con người thường ghi nhớ rất lâu những điều không hay, chi tiết rùng rợn, đáng sợ, ma mị.
Khi nhận những thông tin không tốt như vậy, khách hàng rất dễ bị ám ảnh. Họ suy nghĩ về nó nhiều hơn và thường có khả năng gặp thất bại theo đúng cách như vậy. Một số người không có lý trí vững vàng và thiếu niềm tin ở cuộc sống sẽ cần bám víu vào một "ánh sáng hy vọng" từ "thế lực tâm linh". Yếu đuối về lý trí, tâm lý hoang mang sẽ đưa đẩy họ tới gặp thầy bói. Đó chính là lý do vì sao con người lại luôn tin vào bói toán.
Nói khác đi, tin bói toán là tại không tin vào bản thân mình.
Có nhiều người bị bệnh không đi bệnh viện mà lại đến “cầu thầy”, tin lời “thầy” đi giải phẫu thẩm mỹ, để mong xoay chiều số mệnh, lắm khi tiền mất tật mang. Từ những lời phán tưởng chừng vô thưởng vô phạt của “thầy”, còn “đẻ” ra những chuyện cúng bái, giải hạn, vừa gây tốn tiền vô bổ, mà còn ảnh hưởng đến nếp sống văn minh mà chúng ta đang tích cực xây dựng.
Bây giờ cần giúp mọi người phân biệt đâu là tôn giáo, tín ngưỡng, đâu là mê tín dị đoan, từ đó thấy được đâu là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng chân chính, đâu là lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động mê tín dị đoan.
Theo giáo huấn của Hội thánh, mọi hình thức dị đoan bói toán đều bị cấm đoán. Một hành vi, tưởng như thật đơn giản khi xòe bàn tay ra để xem bói, nhưng đã là hành vi lầm lỗi, vì phạm vào điều răn thứ nhất: “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Nói cách khác, người Công Giáo chỉ tin duy nhất Một Thiên Chúa mà thôi!
Khi xem bói, người ta có thể bao biện, nhưng chắc hẳn nơi góc khuất của mình dù ít hay nhiều, thì người ta vẫn trông chờ vào những quyền lực viển vông, mà người ta quên rằng đó là thứ quyền lực đối nghịch với Thiên Chúa.
Nếu như vị thầy bói nào đó cho rằng ngày mai là ngày xấu không nên đi ra khỏi nhà, nhưng khi có việc thì tôi vẫn cứ đi, vì tôi luôn tin rằng ngày nào cũng là Ngày Của Chúa. Nếu như tử vi 12 con giáp cho rằng tuổi của tôi xung khắc với người yêu, không nên cưới, nhưng chúng tôi vẫn sẽ đến với nhau nếu chúng tôi yêu nhau thật long, và nhất là tình yêu của chúng tôi được chắp cánh bởi tình yêu Thiên Chúa; hoặc như tử vi nói tuổi những đứa con xung khắc với tôi, thì tôi vẫn luôn yêu thương chúng, vì con cái của tôi chính là ân huệ Thiên Chúa trao ban; Hay như tôi chưa được thăng quan tiến chức, thì tôi hiểu rằng khả năng của mình chỉ đến đó, nên tôi sẽ bằng lòng với vị trí hiện tại, chứ không phải bằng mọi cách tìm kiếm những cái không thuộc về mình…
Và dĩ nhiên, tôi sẽ không tin vào lời thầy bói, nhà chiêm tinh (không phải các nhà thiên văn học) vì tôi đã có Lời Chúa dạy tôi hàng ngày, và tôi luôn xác tín rằng Lời Chúa là Lời Hằng Sống. Tốt hơn hết là hãy biết thưa với Chúa thế này: Nguyện xin Chúa nâng đỡ, chở che con, vì con hiểu rằng Chúa biết hết mọi sự nơi bản thân và cuộc sống từng người. Và con luôn tâm nguyện rằng, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Tiên Tri duy nhất của đời con.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Thư
Vẫn lắm kẻ mê:
Trước hết ta bàn về mục coi bói phổ thông hàng đầu: Thường thì mục này tùy thuộc vào chủ ý của người đi xem bói, mà họ có thể đề nghị thầy bói xem cho mình về tình duyên, gia đạo, việc học hành thi cử, tuổi tác, việc thăng quan tiến chức… hoặc như xem ngày giờ tốt để khai trương hàng quán, làm nhà, cưới hỏi, mai táng người thân…
Trong xã hội Việt Nam, xem bói có từ xa xưa, thông qua các hình thức như bói chỉ tay, xem tướng, bói Kiều, bói bài, Các chuyên gia tâm lý học cho rằng, những người luôn có nhu cầu xem bói thường là những người có vấn đề về bản thân hay
Khai thác những đặc điểm tâm lý của thân chủ, các thầy bói thiếu lương tâm thường lợi dụng về tiền bạc, và thậm chí hậu quả của việc xem bói gây ra những hệ lụy thật nặng nề: ‘Xem bói ra ma, quét nhà ra rác’ ! Nhưng xem ra ‘vấn nạn’ xem bói thật khó xóa bỏ, mà luôn là một thách thức nơi gia đình và xã hội. Nó xem chừng luôn tồn tại như một quy luật cung-cầu, để nhiều người đặt để niềm tin của mình vào một tương lai vô định.
Còn về ‘phong thủy’ thì sao ? Đại khái là tìm ảnh hưởng của ‘gió’ và ‘nước’ tới đời sống con người. Nó bao gồm mọi yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm,, không gian…Khoa này dựa vào thuyết âm dương, dịch lý và ngũ hành. Nó cũng lan rộng tới việc chọn chỗ cho mồ mả để chôn cất người quá cố. Và dĩ nhiên nó cũng có nhiều trường phái. Và cũng dĩ nhiên nó có những điểm hữu lý và ích lợi, dựa theo khoa học thiên nhiên trời đất ( ví dụ nhà thì cần thoáng gió…) Nói tổng quát, chuyện phong thủy thường phóng đại những sự kiện thiên nhiên, để rồi trở thành một dịch vụ kiếm tiền khá lộ liễu, nhất là làm hại những kẻ nhẹ dạ.
Tuy nhiên, chuyện mê tín vào phong thủy cũng khó tránh khỏi: Phú quý sinh lễ nghĩa. Đây nói chung cũng chỉ là phong trào. Mà phong trào thì lúc xuống, lúc lên. Mỗi khi kinh tế khó khăn, vợ chồng cãi vã, bồ bịch lăng nhăng, công việc bế tắc, con thi trường nào trượt trường đó... đều đổ tại lá số tử vi, tại phong thủy không tốt...
Không khó để tìm ra sai lầm trong các quan niệm nền tảng của phong thủy, vì bản thân học thuyết âm dương ngũ hành cũng chỉ là một học thuyết duy vật thô sơ, và biện chứng chất phác. Muốn biết ‘âm dương ngũ hành’ và những ‘học thuyết diễn dịch’ từ nó đã kìm hãm các xã hội phương Đông như thế nào, hãy nhớ tới trường hợp các nhà nho thời Tự Đức: Nguy cơ mất nước đã nhãn tiền, thế mà họ vẫn cho rằng khoa học Tây phương chỉ là giả trá, vì tìm mãi không thấy âm dương ngũ hành đâu, nên quyết không chịu canh tân theo Nguyễn Trường Tộ. Thế là mất nước !
Lợi hại ra sao
Nhiều thầy bói rất thích dự đoán việc xấu xảy ra trong tương lai cho khách hàng của mình. Lý do là bởi bộ não con người thường ghi nhớ rất lâu những điều không hay, chi tiết rùng rợn, đáng sợ, ma mị.
Khi nhận những thông tin không tốt như vậy, khách hàng rất dễ bị ám ảnh. Họ suy nghĩ về nó nhiều hơn và thường có khả năng gặp thất bại theo đúng cách như vậy. Một số người không có lý trí vững vàng và thiếu niềm tin ở cuộc sống sẽ cần bám víu vào một "ánh sáng hy vọng" từ "thế lực tâm linh". Yếu đuối về lý trí, tâm lý hoang mang sẽ đưa đẩy họ tới gặp thầy bói. Đó chính là lý do vì sao con người lại luôn tin vào bói toán.
Nói khác đi, tin bói toán là tại không tin vào bản thân mình.
Bây giờ cần giúp mọi người phân biệt đâu là tôn giáo, tín ngưỡng, đâu là mê tín dị đoan, từ đó thấy được đâu là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng chân chính, đâu là lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động mê tín dị đoan.
Người con Chúa nghĩ gì ?
Theo giáo huấn của Hội thánh, mọi hình thức dị đoan bói toán đều bị cấm đoán. Một hành vi, tưởng như thật đơn giản khi xòe bàn tay ra để xem bói, nhưng đã là hành vi lầm lỗi, vì phạm vào điều răn thứ nhất: “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Nói cách khác, người Công Giáo chỉ tin duy nhất Một Thiên Chúa mà thôi!
Khi xem bói, người ta có thể bao biện, nhưng chắc hẳn nơi góc khuất của mình dù ít hay nhiều, thì người ta vẫn trông chờ vào những quyền lực viển vông, mà người ta quên rằng đó là thứ quyền lực đối nghịch với Thiên Chúa.
Và dĩ nhiên, tôi sẽ không tin vào lời thầy bói, nhà chiêm tinh (không phải các nhà thiên văn học) vì tôi đã có Lời Chúa dạy tôi hàng ngày, và tôi luôn xác tín rằng Lời Chúa là Lời Hằng Sống. Tốt hơn hết là hãy biết thưa với Chúa thế này: Nguyện xin Chúa nâng đỡ, chở che con, vì con hiểu rằng Chúa biết hết mọi sự nơi bản thân và cuộc sống từng người. Và con luôn tâm nguyện rằng, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Tiên Tri duy nhất của đời con.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Thư
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Hai 10/9/2018: Đức Thánh Cha nói: Hãy lên án chính mình, đừng lên án người khác.
VietCatholic Network
15:05 09/09/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật ngày 9 tháng 9 năm 2018.
2- Đức Thánh Cha nói: Hãy lên án chính mình, đừng lên án người khác.
3- Ý chỉ cầu nguyện tháng 9 của Đức Thánh Cha: cho giới trẻ Phi Châu được giáo dục và có việc làm.
4- Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến 1.400 thành viên Hiệp Hội Cha Mẹ Italia.
5- Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp 75 Giám Mục thuộc các xứ truyền giáo.
6- Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời phỏng vấn báo Il Sole 24.
7- Đức Thánh Cha Phanxicô đãi kem cho người di dân.
8- Dòng Truyền Giáo Bác Ái long trọng tổ chức lễ kính Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta.
9- Công Giáo đang phát triển ở Portland, Oregon, Hoa Kỳ: có 6 nhà thờ mới trong 5 năm.
10- Đức Hồng Y Tổng trưởng bộ Tu sĩ và Đời sống Thánh hiến thăm Tổng Giáo phận Huế.
11- Giới thiệu Thánh Ca: Mẹ Là Bóng Mát.
https://youtu.be/s25utmArNvI
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết
Giáo Hội Năm Châu 10/09/2018: Những thiệt hại kinh hoàng của Giáo Hội Ba Lan thời Quốc Xã
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:58 09/09/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ tại Ba Lan, được tự do, các Giám Mục nước này đã tiến hành một cuộc điều tra sâu rộng về những thiệt hại nghiêm trọng mà Giáo Hội tại quốc gia này đã phải gánh chịu trong thế kỷ qua, cả trong thời kỳ Đức Quốc Xã cai trị quốc gia này và trong thời kỳ cộng sản.
Ngày 31 tháng 8, Phòng Báo Chí của Hội Đồng Giám Mục Ba Lan đã công bố các kết quả điều tra liên quan đến thời kỳ Đức Quốc Xã nhân kỷ niệm 79 năm ngày Đức Quốc Xã mở cuộc tấn côngxâm lược Ba Lan 11/09/1939.
Toàn văn tuyên bố như sau:
Linh mục phát ngôn viên của Hội Đồng Giám Mục nhắc nhở rằng trong Thế chiến II ở Ba Lan đã có một sự bách hại dã man các giáo sĩ. “Các linh mục, tu sĩ, nữ tu bị bắn, bị đưa đến trại tập trung, bị cầm tù và bị tra tấn. Người Đức tịch thu tài sản của Giáo hội và đóng cửa các nhà thờ. Tuy nhiên, đức tin của Giáo hội ở Ba Lan đã tồn tại trong suốt thời kỳ tối tăm của khủng bố Đức Quốc xã” - ngài nói thêm.
Cha Rytel-Andrianik đã chỉ ra những dữ liệu bi thảm trong Thế chiến II. “Theo nghiên cứu khoa học, vào năm 1939, Giáo Hội Ba Lan có khoảng 10,000 linh mục triều. Đức Quốc xã đã giết chết khoảng 2,000 linh mục, nghĩa là cứ 5 linh mục thì có 1 linh mục bị giết. Trong số khoảng 8,000 tu sĩ theo số liệu năm 1939, 370 vị đã bị sát hại. Trong khoảng 17,000 nữ tu, Đức quốc xã đã giết khoảng 280 chị. Ngoài ra, trong Thế chiến II, khoảng 4,000 linh mục và tu sĩ, và khoảng 1,100 nữ tu đã bị cầm tù trong các trại tập trung của Đức. Những người được tại ngoại cũng bị bách hại cách này cách khác” - phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Ba Lan nhấn mạnh.
Trong Thế chiến II, gần một nửa số giáo phận Ba Lan bị trống tòa. Trong hai mươi mốt giáo phận Công Giáo ở Ba Lan, có chín giáo phận trống tòa vì giám mục bản quyền bị giam giữ hoặc bị buộc phải di cư, và một trong các giám mục giáo phận đã bị giết.
“Trong những tình huống xem ra sự khinh miệt mạng sống con người và hận thù thắng thế, ta phải luôn nhớ lại hậu quả của Thế chiến II, đó là sự sụp đổ của nền văn minh châu Âu, cuộc bách hại thường dân và nạn diệt chủng người Do Thái. Do đó, Giáo Hội muốn nhắc nhở luật tự nhiên bao gồm sự tôn trọng mạng sống của mỗi con người từ khi thụ thai đến cái chết tự nhiên. Không có ngoại lệ nào hết. Cuộc chiến này đã cho thấy những hậu quả là thê thảm đến thế nào khi con người cố gắng phủ nhận Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục nhắc nhở những lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: + đừng chiến tranh nữa ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và đừng chiến tranh nữa trong các cộng đồng và gia đình của chúng ta” - Cha Rytel-Andrianik nói.
2. Cuộc gặp gỡ của 30 Giám Mục Âu Châu tại viện bảo tàng tội ác cộng sản tại Spac, Albania
“Quản lý các chứng tích tội ác cộng sản. Học tập và hoạt động cho tương lai của châu Âu”- đó là chủ đề của trại hè quốc tế đầu tiên quy tụ các Giám Mục Âu Châu được tổ chức trên những cánh đồng nơi từng là trại lao động cải tạo cộng sản ở Spac, Albania.
Quỹ Maximilian Kolbe - được thành lập bởi các giám mục Ba Lan và Đức cho việc hòa giải hai dân tộc – đã phối hợp với viện Bảo tàng Spac và Renovabis để thực hiện sáng kiến này như là một phần trong nỗ lực biến đổi trại lao động cải tạo khét tiếng này thành một đài tưởng niệm tội ác cộng sản tại Albania.
30 vị Giám Mục đã tham gia trại hè này đến từ Albania, Bulgaria, Đức, Ba Lan và Ukraine. Một thông cáo của Hội Đồng Giám Mục Đức được đưa ra hôm thứ Hai 3 tháng 9 cho biết các vị đã có cuộc gặp gỡ các cựu tù nhân và tham dự các cuộc thảo luận sâu rộng về chủ đề tội ác cộng sản và những hậu quả tại Albania.
Thông báo cũng cho biết trong số các vị tham dự có Đức Tổng Giám Mục Ludwig Schick, người Đức, là Tổng Giám Mục Bamberg và Đức Tổng Giám Mục Angelo Massafra, người Albania, là Tổng Giám Mục Shkodër.
Đức Tổng Giám Mục Ludwig Schick nhận xét rằng “Sự thật về quá khứ là điều cần thiết cho tương lai, đặc biệt là khi chúng ta đánh giá giai đoạn lịch sử từ năm 1944 đến năm 1991”.
Ngài nhấn mạnh thêm rằng đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải bảo tồn phần còn lại của trại lao động này như một “ký ức về thời gian đó”, để giúp “an ủi những người sống sót và những người thân yêu của họ, để phơi bày sự thật của lịch sử đau buồn này, và tạo ra những địa điểm quan trọng để suy tư.”
Các vị tham dự cũng đích thân tham gia vào việc làm sạch cỏ dại và thu nhặt rác rưởi tại khu vực này như là một cử chỉ tượng trưng đóng góp cụ thể cho việc bảo tồn khu vực.
3. Dân chúng Estonia cầu nguyện và mong chờ chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên kế hoạch thăm viếng ba quốc gia vùng Baltic là Lithuania, Latvia và Estonia, từ ngày 22 đến 25 tháng Chín này.
Người Công Giáo Estonia đã dành trọn ngày thứ Bảy 1/9/2018 vừa qua để ăn chay và cầu nguyện chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô đến thủ đô Tallin của họ trong vài tuần nữa.
Sáng kiến ăn chay cầu nguyện là một lời mời gọi của Đức Giám Mục Philippe Jourdan, Giám Quản Tông Tòa Estonia, đã gửi cho mọi tín hữu Công Giáo trong giáo phận vào ngày 22/7 vừa qua.
“Việc ăn chay và cầu nguyện thường đi đôi với nhau,” Đức Giám Mục Jourdan viết trong bức thư của Ngài, “Vì vậy, tôi tha thiết xin anh chị em dành ít nhất một ngày để ăn chay cho ý chỉ này và ngày này là thứ Bảy mùng 1 tháng 9.
Nhớ lại tháng Tám với nhiều lễ hội về Đức Maria như lễ Đức Mẹ xuống Tuyết ngày 5 tháng 8, Lễ Mẹ Lên trời ngày 15 tháng 8, lễ Mẹ Trinh Nữ vương ngày 22 tháng 8 và chuyến hành hương của toàn dân Estonia về Đền thờ Đức Mẹ ở Viru-Nigula vào ngày 25 tháng Tám, Đức Giám Mục Jourdan nói, “trong những ngày tôn kính Đức Mẹ này, tôi tha thiết xin tất cả hãy dâng lời cầu nguyện qua tràng chuỗi Mân Côi để cầu nguyện cho sự thành công của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô.”
Đức cha nói tiếp: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô được hiện thực bời mọi người chúng ta và tùy thuộc vào tất cả chúng ta, và sự chuẩn bị tinh thần thì quan trọng hơn là sự chuẩn bị bề ngoài. “
“Những khoảnh khắc cầu nguyện và nhịn ăn này có thể là những cam kết chung của chúng ta trong việc chuẩn bị cho chuyến thăm của Đức Thánh Cha. Tôi chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta và sẽ cho chúng ta thâu gặt được nhiều hoa trái hơn lòng chúng ta mơ ước.” Đức Giám Mục Jourdan nói thế.
Trong tổng số 1,3 triệu người dân Estonia, có khoảng 7.000 người Công Giáo (dưới 1%), và một số tín đồ của Giáo phái Tin lành Lutheran và Chính thống giáo trong một dân số 75% không có tôn giáo.
Chuyến đi nước ngoài thứ 25 của Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là chuyến tông du đầu tiên của Ngài đến với các quốc gia vùng Baltic trong một phần tư thế kỷ qua chưa có chuyến tông du nào của vị cha chung. Ngài sẽ là vị giáo hoàng thứ hai tông du đến ba quốc gia này, chính xác 25 năm sau khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm vào tháng 9 năm 1993.
4. Xu thế hình thành Giáo Hội Chính Thống tự trị Ukraine là không thể đảo ngược
Một nhà lãnh đạo Chính thống hàng đầu cho biết Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô của Constantinople đang nghiêng hẳn về khuynh hướng công nhận một Giáo hội Chính thống Ukraine tự trị, bất kể sự phản đối quyết liệt của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa.
Sau một cuộc họp thượng đỉnh ngày 31 tháng 8 giữa Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô và Đức Thượng Phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, cả hai Đức Thượng Phụ đều không đưa ra các tuyên bố chính thức về chủ đề chính của cuộc đối thoại là việc nhìn nhận hay không một Giáo hội Chính thống Ukraine tự trị.
Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Chính Thống Giáo Emmanuel của Pháp, là người đã tham dự cuộc họp, nói rằng “Đức Thượng Phụ đã quyết định xong.” Ngài nói thêm rằng tiến trình hình thành Giáo hội Chính thống Ukraine tự trị giờ đây là “không thể đảo ngược”.
Đức Thượng Phụ thành Constantinople - người được thừa nhận là “vị đầu tiên trong số những Thượng Phụ bình đẳng” của thế giới Chính thống, và là người theo truyền thống có quyền quyết định những tuyên bố đòi tự trị của các Giáo Hội Chính thống - đã cân nhắc một yêu cầu ban cấp tình trạng tự trị cho Giáo hội Ukraine. Yêu cầu đó đã gây ra một sự phản đối dữ dội từ Mạc Tư Khoa, nơi các nhà lãnh đạo Chính thống Nga nhấn mạnh rằng Ukraine vẫn là một phần trong “lãnh thổ giáo luật” của họ.
Trong những tháng gần đây, Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đã tuyên bố ngài hoàn toàn có thẩm quyền ban cấp cho một Giáo Hội Chính Thống tân lập tại Ukraine tư cách “Tomos of Autocephaly” - một Giáo Hội tự trị hoàn toàn, mà chính phủ Ukraine đang mong đợi.
Các nhà lãnh đạo thân phương Tây của Ukraine đã từng bước tìm cách di chuyển nước cộng hòa Xô Viết cũ này ra khỏi quỹ đạo của Nga, sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea vào lãnh thổ của mình năm 2014 và xúi dục một cuộc nổi loạn ở miền đông Ukraine.
Tại Ukraine hiện nay có đến 3 Giáo Hội Chính Thống Giáo. Nhóm đông nhất là nhóm Chính Thống Giáo Nga trực thuộc tòa thượng phụ Mạc Tư Khoa. Nhóm thứ hai là Chính Thống Giáo Ukraine và nhóm thứ ba là Chính Thống Giáo Ukraine tự trị với đa số là các vị Chính Thống Giáo Ukraine trở về từ hải ngoại sau khi cộng sản sụp đổ.
Kiev coi nhóm Chính Thống Giáo Nga trực thuộc tòa thượng phụ Mạc Tư Khoa là một công cụ để điện Kremlin tác động lên nội tình của Ukraine. Cho đến nay, nhóm này là nhóm Chính Thống Giáo duy nhất tại Ukraine được thế giới Chính Thống Giáo nhìn nhận.
Tháng Tư vừa qua, tại Istanbul, tổng thống Poroshenko đã gặp Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô, lãnh đạo tinh thần của các Kitô hữu Chính thống toàn thế giới, để tìm kiếm sự hỗ trợ trong việc nhìn nhận tính cách hợp pháp của Chính Thống Giáo Ukraine.
Ông Poroshenko đã so sánh việc có một Giáo Hội tự trị với nguyện vọng của Kiev được gia nhập Liên minh châu Âu và NATO, “bởi vì điện Kremlin coi Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga là một trong những công cụ quan trọng ảnh hưởng đến Ukraine.”
5. Một linh mục Công Giáo đến đền thờ Hồi giáo cám ơn sự giúp đỡ sau lũ lụt
Nhân ngày thứ Sáu là ngày cầu nguyện của tín hữu Hồi Giáo, một linh mục Công Giáo Ấn Độ đã đến đền thờ Hồi Giáo ở Kerala để cám ơn các tín hữu ở đây đã trợ giúp nhân đạo cho các nạn nhân lũ lụt tại Kerala
Điều đáng ghi nhận là vị giáo sĩ Hồi Giáo đã tỏ tình đoàn kết đặc biệt bằng cách để linh mục Công Giáo được dùng giảng đài của Giáo Sĩ Hồi giáo trong đền thờ để Linh Mục nói với tìn hữu Hồi Giáo.
Đền thờ Hồi giáo Juma toạ lạc tại Vechoor, quận Kottayam, bang Kerala Nam Ấn Độ. Trước tín hữu Hồi Giáo hiện diện, cha Puthussery phát biểu rằng: Nhờ tinh thần đoàn kết vĩ đại, nhiều tín đồ Hồi giáo đã mang thức ăn vật dụng đến trợ giúp các nạn nhân lũ lụt đang trú ẩn tại nhà thờ Thánh Antôn, nằm trong Tổng Giáo Phận Ernakulam-Angamaly.
Được biết nhà thờ thánh Antôn ở Achinakom, thuộc quận Kottayam là nơi trú ẩn cho hơn 580 nạn nhân vô gia cư bị lũ lụt. Cơn lụt xảy ra tại 12 trong số 14 quận hạt ở bang Kerala nên các nhà thờ, các tổ chức Công Giáo ở đây đã làm mọi thứ để giúp đõ những nạn nhân lũ lụt.
Cha Puthussery nói với tìn hữu Hồi Giáo: Chúng tôi thiếu lương thực và nước uống cách nghiêm trọng, chúng tôi đã đến thẳng đền thờ Hồi Giáo xin sự giúp đỡ. Ngay sau đó, các anh em Hồi Giáo đã đến nhà thờ Thánh Antôn với một lượng thực phẩm và nước uống. Còn các thanh niên đã đến phát thuốc cho các nạn nhân lũ lụt.
Cha Puthussery nói với các tín hữu Hồi Giáo trong khoảng 10 phút. Cha nói: “Tôi không có lời nào để bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi đối với các anh em Hồi giáo vì sự hỗ trợ hào phóng của anh em đã cung cấp cho các nạn nhân trong thời kỳ khó khăn nhất.
Cha nói tiếp: Lũ Lụt đã lấy đi rất nhiều đồ vật có giá trị nhưng lũ lụt cũng đã lấy đi bức tường ngăn cách, ích kỷ giữa chúng ta. Cha Puthussery nhắc lại ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là hãy xây dựng cầu, đừng xây bức tường ngăn cách. Chúng ta cần hợp tác liên tôn để thúc đây sự hòa hợp trong xã hội. Chúng ta phải tiếp tục duy trì tình huynh đệ. Qua cơn lụt này chúng ta phải truyền thừa tinh thần huynh đệ cho các thế hệ mai sau.
Ông Niyaz Nasser, một người Hồi Giáo nghe cha Puthussery nói đã phát biểu: Cơ hội này là dịp vui mừng và hy vọng, sẽ đưa lại một tương lai sáng lạn cho chúng ta.
6. Tổng Giám Mục Singapore: Cuộc khủng hoảng liên quan đến tội ác lạm dụng tính dục là lời mời gọi chúng ta bừng tỉnh
Dưới ánh sáng của các báo cáo gần đây về việc lạm dụng tình dục trẻ em của các linh mục ở Pennsylvania, Hoa Kỳ, Đức Tổng Giám Mục William Goh của Singapore, cho biết hôm thứ Bảy 1 tháng 9 rằng đó là “một lời mời gọi chúng ta bừng tỉnh, vì Giáo Hội Công Giáo ở Singapore cũng không miễn nhiễm khỏi những cáo buộc lạm dụng trẻ em”, và một số trường hợp đang được điều tra.
Đức Cha Goh cũng bảo đảm rằng không có sự bao che trong tổng giáo phận Singapore, và các hướng dẫn đã được đưa ra để giảm thiểu những nguy cơ lạm dụng như vậy. Ngài nói trong một bức thư mục vụ được công bố vào hôm thứ Bảy.
Ngài nói thêm rằng các trường hợp tố cáo trong quá khứ đã được đánh giá với kết luận cụ thể bởi Văn phòng Giám sát các Tiêu chuẩn chuyên nghiệp (PSO), và được xác nhận bởi Bộ Giáo Lý Đức Tin ở Rôma.
PSO, được thành lập bởi vị tiền nhiệm của Đức Cha Goh là Đức Tổng Giám Mục Nicholas Chia vào năm 2011, đã và đang hỗ trợ Giáo hội trong việc điều tra các khiếu nại lạm dụng tình dục. Để “đảm bảo tính công bằng và không có sự can thiệp nào từ Tòa Tổng Giám mục”, PSO có nhân viên là các chuyên gia giáo dục và các thành viên không phải là giáo sĩ.
Đức Tổng Giám Mục Goh nói thêm rằng một báo cáo của cảnh sát phải được thực hiện bất cứ khi nào PSO giải quyết một vụ kiện. Ngài giải thích rằng đó là phương cách để ngăn cản những tuyên bố có tính chất mạ lị, hoặc phóng đại nhằm gây hại cho người vô tội.
“Nỗi đau của việc bị thẩm vấn và sống dưới sự nghi ngờ trong khi chờ phán quyết của những linh mục này cũng không thua gì sự đau khổ mà những người thực sự bị lạm dụng phải chịu,” ngài nói.
Đức Tổng Giám Mục cũng vạch ra một số hệ thống và quy trình mới để bảo vệ các tín hữu khỏi bị lạm dụng tình dục.
Ngài nhấn mạnh rằng tất cả các linh mục và những người làm việc cho tổng giáo phận giờ đây phải tuyên bố rằng họ chưa từng bị kết tội lạm dụng tình dục. Những người có hồ sơ về tội ác này sẽ không được phép làm việc mục vụ hoặc “hòa nhập với những người dễ bị tổn thương”.
Hơn nữa, các chủng sinh và tập sinh cũng sẽ phải chịu những hình thức kiểm tra tâm lý và lý lịch nghiêm ngặt hơn trước khi được nhận vào đời sống tu trì.
7. Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân: Những cáo buộc của Đức Tổng Giám Mục Viganò cần được trả lời khẩn cấp
Đức Tổng Giám Mục Romulo G. Valles của tổng giáo phận Davao, là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân đã ra tuyên bố sau.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội
Anh chị em trong Chúa Kitô,
Trong những ngày gần đây, chúng ta lại cảm thấy một lần nữa, với cường độ ngày càng tăng, nỗi đau và sự nhục nhã, vì nhiều điều được phơi bày về hành vi sai trái tình dục, đặc biệt là những trường hợp lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, nhưng không chỉ trẻ vị thành niên mà thôi, bởi một số đáng kể các giáo sĩ, cả một số giám mục và những người thánh hiến. Nỗi đau càng thêm tê tái bởi các báo cáo che đậy những lạm dụng và các tội ác này.
Các báo cáo về hành vi sai trái tình dục của một Hồng Y ở Hoa Kỳ, là một trong những điều làm tăng thêm cường độ của nỗi đau và sự nhục nhã mà Giáo Hội hiện đang phải chịu đựng. Chứng từ và những tiết lộ gần đây của một Sứ Thần Tòa Thánh về những hành vi sai trái tình dục và cách thức giải quyết những tội ác này, đã mang đến nhiều câu hỏi còn đau đớn hơn nữa, và rõ ràng là cần những câu trả lời khẩn cấp để cho chúng ta thấy được sự thật.
Điều này nhắc nhở một sự thừa nhận của các giám mục ở đây, ở Phi Luật Tân này, trong Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân hồi tháng 7 năm 2018 gần đây của chúng tôi: “Chúng tôi thừa nhận một cách khiêm nhường rằng chúng ta là một Giáo hội của những người tội lỗi, được kêu gọi hoán cải và đồng thời nên thánh thiện. Chúng tôi cúi đầu hổ thẹn khi nghe về những hành vi lạm dụng do một số nhà lãnh đạo Giáo Hội anh em của chúng tôi gây ra - đặc biệt là những người được phong chức để ‘hành động đại diện cho Chúa Kitô.’”
Đức Thánh Cha của chúng ta, trong Lá Thư gần đây của ngài cho dân Chúa, nói: “Nhìn về quá khứ, không có nỗ lực nào cầu xin sự tha thứ và tìm cách sửa chữa những tổn hại có thể coi là đủ. Nhìn về tương lai, không một nỗ lực nào có thể bị lơ là hầu tạo ra một nền văn hóa có khả năng không chỉ chặn đứng những tình huống như vậy xảy ra mà thôi, nhưng còn phải ngăn chặn được khả năng bao che và để cho các tình huống như thế tiếp diễn. Nỗi đau của các nạn nhân và gia đình của họ cũng là nỗi đau của chúng ta, và do đó, điều khẩn cấp là chúng ta một lần nữa phải tái khẳng định cam kết bảo vệ các trẻ vị thành niên và những người lớn dễ bị tổn thương.”(Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô cho dân Chúa ngày 20 tháng 8 năm 2018).
Tình trạng đau đớn hiện nay là một dịp tốt để các giám mục chúng tôi duyệt xét lại các hướng dẫn hiện hành mà chúng tôi có trong tay ngõ hầu bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương, với quyết tâm và cam kết mới để thực hiện những hướng dẫn này và không bao giờ bao che.
Tình hình này cũng mời gọi chúng ta đến một điều quan trọng. Nó nhắc nhở chúng ta hãy đến với Chúa trong lời cầu nguyện. Và vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề nghị chúng ta nên cầu nguyện và chay tịnh. “Chiều kích thống hối của chay tịnh và cầu nguyện sẽ giúp chúng ta trong tư cách dân Chúa đến trước mặt Ngài và trước mặt những anh chị em bị thương tổn của chúng ta như những tội nhân cầu xin sự tha thứ và ân sủng biết xấu hổ và hoán cải. Bằng cách này, chúng ta sẽ đưa ra những hành động có thể tạo ra các nguồn lực hài hòa với Tin Mừng” (Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô cho dân Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018).
Đây là điều mà chúng ta có thể tổ chức và thực hiện trong các giáo phận và giáo xứ của chúng ta, trong các cộng đồng tôn giáo của chúng ta, và trong các gia đình của chúng ta.
Tôi muốn kết thúc với lời cầu nguyện tuyệt vời này:
“Lạy Chúa toàn năng, chúng con cầu xin Chúa cho Giáo Hội Chúa luôn là một dân tộc thánh thiện, được nên một nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Con và Chúa Thánh Thần, một dân có thể cho thế giới thấy Bí Tích về sự thánh thiện và hiệp nhất của Người và xin dẫn Hội Thánh đến sự hoàn thiện trong lòng mến. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen” (Lời nguyện đầu lễ, Sách Lễ)
+ ROMULO G. VALLES, D.D
Tổng Giám Mục Davao
Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân
30 tháng 8 năm 2018
8. Cộng Sản Trung Quốc đòi buộc: Theo đảng dứt khoát phải bỏ đạo.
Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa ban hành một luật về hành vi đảng viên, theo đó đảng viên phải từ bỏ mọi niềm tin tôn giáo, không được tuyên truyền “tin đồn chính trị làm tổn hại đến sự đoàn kết của đảng”.
Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương của đảng Cộng Sản Trung Quốc ban hành luật này vào ngày hôm qua 1 tháng 9, nhưng thực ra việc áp dụng luật này đã bắt đầu từ lâu.
Người vi phạm luật này sẽ bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản và có thể bị truy tố hình sự.
Luật sửa đổi về hành vi đảng viên nói: “Các đảng viên có niềm tin tôn giáo phải được cải tạo bằng giáo dục, nếu tổ chức đảng đã giáo dục họ, mà vẫn không thay đổi, thì khuyến khích họ ra khỏi đảng cộng sản”.
Một điều khoản mới cũng kêu gọi trừng phạt những đảng viên xuyên tạc lịch sử đất nước, lịch sử đảng, và lịch sử quân đội.
Đảng Cộng Sản ban hành khung kỷ luật mới nhằm xiết chặt việc kiểm soát các đảng viên, không cho họ có niềm tin tưởng tôn giáo, cho dù ngay cả khi họ đã về hưu.
Theo số liệu được báo chí nói, gần ¼ số đảng viên đảng Cộng Sản Trung Quốc có niềm tin tôn giáo.
Kể từ khi ông Tập Cận Bình lên nắm chính quyền cách đây vài năm, ông mở chiến dịch chống tham nhũng mà chủ yếu là nhắm vào các đối thủ chính trị của ông và ban hành chính sách đàn áp tôn giáo mà cụ thể là mới đây Đảng Cộng sản ban hành một chính sách mới gọi là Hán Hóa Tôn Giáo,theo đó các tôn giáo phải độc lập với ngoại quốc, phải đồng hóa với văn hóa và xã hội Trung Hoa.