Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:20 15/10/2025
24. Thiên Chúa không thưởng cho chúng ta đôi cánh thì chúng ta đừng vọng tưởng bay cao, chỉ nên đi chậm chậm dưới đất.
(Chân phúc Avitus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:24 15/10/2025
69. TIỀN CÔNG NHUỘM VẢI
Người nọ mua một xấp vải và bỏ ra một trăm năm mươi xu tiền, đến tiệm nhuộm thành màu xanh, giá tiền phải trả là ba trăm xu tiền.
Nhuộm xong, đã qua một năm mà không thấy người ấy đến lấy vải về, chủ tiệm nhuộm bèn đến chỗ ở của chủ xấp vải và hỏi:
- “Anh mắc nợ tôi ba trăm xu lâu rồi sao không trả?! Tôi phải đến quan phủ cáo tội anh !”
Người chủ xấp vải quỳ xuống đất van xin:
- “Xấp vải của tôi trị giá là một trăm năm mươi xu tiền, tôi lại bỏ ra thêm một trăm năm mươi xu tiền nữa, như thế có thể tha thứ cho tôi được chứ?
Ông chủ tiệm nhuộm cầm được tiền trong tay mới đi về.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 69:
Đem vải đi nhuộm màu xanh thì nhất định vải phải là màu trắng, bởi vì khó mà nhuộm màu đen thành màu xanh, khi nhuộm xong rồi thì không lấy về được vì hết tiền.
Có một vài người Ki-tô hữu đem cuộc sống bình an hạnh phúc của mình đi nhuộm thành màu đen, bằng những đua đòi không phù hợp với tinh thần Phúc Âm; lại có những thanh niên nam nữ tương lai đẹp như mơ, tâm hồn hướng thiện, nhưng lại đem đời mình nhuộm thành màu đen màu đỏ theo đua đòi cái gọi là “thời thượng” của xã hội, nên tâm hồn trắng tinh của họ trở thành đen tối khó mà làm trắng lại được...
Vải trắng đã nhuộm đen nhuộm đỏ rồi thì không thể nào làm lại cho trắng được, nhưng việc mà con người không thể làm thì Thiên Chúa lại làm được, Ngài nói như thế này:
“Tội các ngươi, dầu có đỏ như son,
cũng ra trắng như tuyết;
có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông...” (Is 1, 18).
Hạnh phúc thay người nghe và tin lời này của Thiên Chúa...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Người nọ mua một xấp vải và bỏ ra một trăm năm mươi xu tiền, đến tiệm nhuộm thành màu xanh, giá tiền phải trả là ba trăm xu tiền.
Nhuộm xong, đã qua một năm mà không thấy người ấy đến lấy vải về, chủ tiệm nhuộm bèn đến chỗ ở của chủ xấp vải và hỏi:
- “Anh mắc nợ tôi ba trăm xu lâu rồi sao không trả?! Tôi phải đến quan phủ cáo tội anh !”
Người chủ xấp vải quỳ xuống đất van xin:
- “Xấp vải của tôi trị giá là một trăm năm mươi xu tiền, tôi lại bỏ ra thêm một trăm năm mươi xu tiền nữa, như thế có thể tha thứ cho tôi được chứ?
Ông chủ tiệm nhuộm cầm được tiền trong tay mới đi về.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 69:
Đem vải đi nhuộm màu xanh thì nhất định vải phải là màu trắng, bởi vì khó mà nhuộm màu đen thành màu xanh, khi nhuộm xong rồi thì không lấy về được vì hết tiền.
Có một vài người Ki-tô hữu đem cuộc sống bình an hạnh phúc của mình đi nhuộm thành màu đen, bằng những đua đòi không phù hợp với tinh thần Phúc Âm; lại có những thanh niên nam nữ tương lai đẹp như mơ, tâm hồn hướng thiện, nhưng lại đem đời mình nhuộm thành màu đen màu đỏ theo đua đòi cái gọi là “thời thượng” của xã hội, nên tâm hồn trắng tinh của họ trở thành đen tối khó mà làm trắng lại được...
Vải trắng đã nhuộm đen nhuộm đỏ rồi thì không thể nào làm lại cho trắng được, nhưng việc mà con người không thể làm thì Thiên Chúa lại làm được, Ngài nói như thế này:
“Tội các ngươi, dầu có đỏ như son,
cũng ra trắng như tuyết;
có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông...” (Is 1, 18).
Hạnh phúc thay người nghe và tin lời này của Thiên Chúa...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Ngày 16/10: Hai chữ Tự Do của tôn giáo hiểu như thế nào? – Lm. Antôn Nguyễn Thế Nhân, SSS
Giáo Hội Năm Châu
03:16 15/10/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với mấy nhà thông luật rằng : “Khốn cho các người ! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy ! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.
49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán : “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng : chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết : thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.
52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật ! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết : các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Đó là Lời Chúa
Lịch sử của một dân tộc không chung thủy
Lm. Minh Anh
17:08 15/10/2025
LỊCH SỬ HỎNG HÓC
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.
“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Chúa!” - Will & Ariel Durant.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến lịch sử một dân tộc không tin, một dân tộc dường như không có một gương sáng đạo đức nào đáng kể. Đó là ‘lịch sử hỏng hóc’ của Israel!
Lịch sử của Israel là một lịch sử từ chối Thiên Chúa, giết các tiên tri; đó là lịch sử của một dân không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân - những kẻ không tin Chúa Giêsu - đang làm điều tương tự; họ đi trên vết xe đổ của cha ông. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài! Lịch sử của Israel là tấm gương phản chiếu ‘lịch sử hỏng hóc’ cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng là một lịch sử bất trung, thất bại. Từ đó, chúng ta được thôi thúc để quay về với Chúa bằng việc sám hối. “Lịch sử là một tấm gương; khi nhìn vào đó, ta thấy cả thất bại lẫn lời mời gọi quay về!” - Madeleine L’Engle.
Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, bước ra. Cô gái sững sờ! Và ngần ấy đủ cho cô. Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin Công Giáo có cơ sở như thế nào. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang hỏng hóc nổi loạn. Chỉ với gương sáng của một bà nội trợ, cô ấy đủ để trở thành một vị thánh của Đức, của châu Âu - một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ - được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng kín Carmel.
Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến ‘lịch sử hỏng hóc’ của một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.
Anh Chị em,
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Lịch sử Israel, lịch sử Edith Stein - những lịch sử được xót thương! Một dân tộc nhiều lần chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri, vẫn được Ngài thương xót; một thiếu nữ lạc lối, tâm hồn nổi loạn, từng mảnh hư hỏng trong lòng cô được ân sủng chữa lành và biến đổi. Cũng thế, bên trong mỗi người chúng ta luôn tồn tại một sự hỏng hóc. Vậy mà những thất bại, những sai lầm không kết thúc câu chuyện, nhưng mở ra cơ hội để ân sủng toả sáng. Hãy để Chúa viết nên một câu chuyện cứu độ trong đời mình; Ngài sẽ biến hỏng hóc, vết thương và thất vọng thành nguồn sống, hy vọng và lời tạ ơn. “Lịch sử cho thấy những thất bại của chúng ta, nhưng lòng xót thương Chúa luôn tìm cách cứu chuộc và chữa lành!” - Desmond Tutu.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử hỏng hóc, đầy những lỗ hổng được Chúa xót thương lấp đầy; và rồi, con cũng nên thánh. Tại sao không?”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.
“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Chúa!” - Will & Ariel Durant.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến lịch sử một dân tộc không tin, một dân tộc dường như không có một gương sáng đạo đức nào đáng kể. Đó là ‘lịch sử hỏng hóc’ của Israel!
Lịch sử của Israel là một lịch sử từ chối Thiên Chúa, giết các tiên tri; đó là lịch sử của một dân không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân - những kẻ không tin Chúa Giêsu - đang làm điều tương tự; họ đi trên vết xe đổ của cha ông. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài! Lịch sử của Israel là tấm gương phản chiếu ‘lịch sử hỏng hóc’ cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng là một lịch sử bất trung, thất bại. Từ đó, chúng ta được thôi thúc để quay về với Chúa bằng việc sám hối. “Lịch sử là một tấm gương; khi nhìn vào đó, ta thấy cả thất bại lẫn lời mời gọi quay về!” - Madeleine L’Engle.
Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, bước ra. Cô gái sững sờ! Và ngần ấy đủ cho cô. Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin Công Giáo có cơ sở như thế nào. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang hỏng hóc nổi loạn. Chỉ với gương sáng của một bà nội trợ, cô ấy đủ để trở thành một vị thánh của Đức, của châu Âu - một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ - được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng kín Carmel.
Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến ‘lịch sử hỏng hóc’ của một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.
Anh Chị em,
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Lịch sử Israel, lịch sử Edith Stein - những lịch sử được xót thương! Một dân tộc nhiều lần chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri, vẫn được Ngài thương xót; một thiếu nữ lạc lối, tâm hồn nổi loạn, từng mảnh hư hỏng trong lòng cô được ân sủng chữa lành và biến đổi. Cũng thế, bên trong mỗi người chúng ta luôn tồn tại một sự hỏng hóc. Vậy mà những thất bại, những sai lầm không kết thúc câu chuyện, nhưng mở ra cơ hội để ân sủng toả sáng. Hãy để Chúa viết nên một câu chuyện cứu độ trong đời mình; Ngài sẽ biến hỏng hóc, vết thương và thất vọng thành nguồn sống, hy vọng và lời tạ ơn. “Lịch sử cho thấy những thất bại của chúng ta, nhưng lòng xót thương Chúa luôn tìm cách cứu chuộc và chữa lành!” - Desmond Tutu.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử hỏng hóc, đầy những lỗ hổng được Chúa xót thương lấp đầy; và rồi, con cũng nên thánh. Tại sao không?”, Amen.
(Tgp. Huế)
Hãy ra đi gieo niềm hy vọng
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
20:52 15/10/2025
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 – 6; Lc 24,44-53)
Hãy ra đi gieo niềm hy vọng
Hôm nay, 19 tháng 10, toàn thể Hội Thánh cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo. Sứ mạng này không phải là điều mới mẻ, nhưng ngày càng trở nên cấp bách, vì Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Giáo hội hiện hữu để truyền giáo
Ngay từ bốn sách Tin Mừng, sứ vụ truyền giáo đã được khẳng định. Đức Giê-su Phục sinh nói với các Tông đồ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Như thế, chính Chúa Con tiếp tục sai Giáo hội lên đường đến tận cùng trái đất, mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI viết: “Giáo hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng dạy, hòa giải tội nhân với Thiên Chúa, và duy trì hy lễ của Đức Ki-tô trong Thánh lễ.”
Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định: “Sứ mạng của Giáo hội kéo dài sứ mạng của Chúa Ki-tô. Giáo hội rao giảng Tình Phụ Tử của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng chứng tá đời sống.”
Đức cố Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI cũng nhấn mạnh: “Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn tự bản chất là thừa sai” (x. Ad gentes, số 2).
Đức Lê-ô XIV tha thiết kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tích cực tham gia Ngày Thế giới Truyền giáo… bằng lời cầu nguyện, lòng quảng đại góp phần loan báo Tin Mừng, nâng đỡ các chương trình mục vụ và giáo lý, xây dựng các nhà thờ mới, đồng thời chăm sóc những nhu cầu về y tế và giáo dục của anh chị em chúng ta nơi các vùng truyền giáo”. Ngài thúc giục mọi người trở thành ‘những nhà truyền giáo của hy vọng giữa các dân tộc’ …mang Đức Ki-tô, Niềm Hy vọng của chúng ta, đến tận cùng trái đất”.
Gieo niềm hy vọng giữa thế giới khủng hoảng
Thế giới hôm nay đang chìm trong nhiều “bóng tối” chiến tranh, hận thù, bất công, cô đơn và khủng hoảng niềm tin. Con người khao khát ánh sáng, nhưng lại bị bao vây bởi ánh sáng giả tạo của chủ nghĩa hưởng thụ và vô cảm. Trong hoàn cảnh ấy, lời ngôn sứ I-sai-a vẫn vang lên: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên!” (Is 60,1).
Hội Thánh không thể chờ đợi hoàn cảnh thuận lợi mới loan báo Tin Mừng. Nếu ta im lặng, thế giới sẽ thiếu đi niềm hy vọng.
Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2025 khẳng định: “Mỗi Ki-tô hữu là một môn đệ thừa sai.” Trích lời Đức Giê-su: “Anh em là ánh sáng thế gian… không ai thắp đèn rồi để dưới thùng, nhưng đặt trên giá để soi sáng cho mọi người trong nhà” (Mt 5,14-15). Ánh sáng ấy không tồn tại cho chính mình, nhưng để chiếu soi cho thế giới.
Truyền giáo không chỉ là công việc của một số người được sai đi, mà là bổn phận của mọi người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Mỗi Ki-tô hữu được mời gọi làm “ngọn đèn hy vọng” giữa đời, bằng lời nói, hành động, và lòng thương xót trong gia đình, nơi làm việc, hay trường học.
Nếu ta thật sự tin Đức Ki-tô là Ánh Sáng cứu độ, ta không thể giữ ánh sáng ấy cho riêng mình.
Tham gia vào mùa truyền giáo mới
Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác vào sứ mạng của Người. Sứ điệp sai đi của Chúa Giê-su vẫn vang vọng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
Chủ đề Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm 2025: “Mang hy vọng trong một thế giới khủng hoảng” nhắc chúng ta rằng truyền giáo không chỉ là rao giảng, mà là mang niềm hy vọng và sự chữa lành đến với thế giới bị tổn thương.
Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô mời gọi: “Tôi nhấn mạnh đến tính hiệp hành truyền giáo của Giáo hội, khuyến khích mọi người – từ trẻ em, thanh thiếu niên đến người cao tuổi – tích cực tham gia sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng chứng tá đời sống, lời cầu nguyện, hy sinh và lòng quảng đại.”
Truyền giáo không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Mỗi người, dù ở đâu, đều có thể góp phần qua việc cầu nguyện, hỗ trợ vật chất, hay đơn giản là sống đức tin cách trung thực.
Trong buổi gặp gỡ các phong trào Công Giáo tại quảng trường Thánh Phê-rô, Đức Lê-ô XIV nhấn mạnh: truyền giáo trước hết là cầu nguyện vì cầu nguyện chính là hành động truyền giáo đầu tiên. Sau đó là loan báo Tin Mừng cho một thế giới bị thương tổn, không loại trừ ai, để mang Chúa, Đấng là Hy vọng đến với thế giới thất vọng.
Theo Đức Lê-ô, con đường truyền giáo chính là con đường của các Mối Phúc khiêm tốn, hiền lành, xót thương, và xây dựng hòa bình. Người truyền giáo không cần quyền lực hay chiến lược thế gian, vì truyền giáo luôn là công việc của Thiên Chúa.
Chúa không đòi chúng ta làm những điều vĩ đại, nhưng mời gọi ra đi với trái tim bừng cháy niềm tin và hy vọng, để thế giới nhận ra khuôn mặt yêu thương của Người.
Thế giới hôm nay đang khát niềm hy vọng. Giáo hội và từng người Ki-tô hữu được mời gọi trở nên người gieo hy vọng, gieo ánh sáng Tin Mừng vào lòng nhân loại.
Truyền giáo không chỉ là công việc của linh mục, tu sĩ hay nhà truyền giáo chuyên nghiệp, mà là sứ mạng của mỗi người tin. Dù bằng một lời cầu nguyện nhỏ bé, một hành động yêu thương âm thầm, hay một đóng góp khiêm tốn, tất cả đều có giá trị vô cùng trước mặt Chúa.
Vì thế, chúng ta cùng thưa với Người: “Lạy Chúa, này con đây, xin sai con đi.”
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 – 6; Lc 24,44-53)
Hãy ra đi gieo niềm hy vọng
Hôm nay, 19 tháng 10, toàn thể Hội Thánh cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo. Sứ mạng này không phải là điều mới mẻ, nhưng ngày càng trở nên cấp bách, vì Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Giáo hội hiện hữu để truyền giáo
Ngay từ bốn sách Tin Mừng, sứ vụ truyền giáo đã được khẳng định. Đức Giê-su Phục sinh nói với các Tông đồ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Như thế, chính Chúa Con tiếp tục sai Giáo hội lên đường đến tận cùng trái đất, mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI viết: “Giáo hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng dạy, hòa giải tội nhân với Thiên Chúa, và duy trì hy lễ của Đức Ki-tô trong Thánh lễ.”
Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định: “Sứ mạng của Giáo hội kéo dài sứ mạng của Chúa Ki-tô. Giáo hội rao giảng Tình Phụ Tử của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng chứng tá đời sống.”
Đức cố Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI cũng nhấn mạnh: “Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn tự bản chất là thừa sai” (x. Ad gentes, số 2).
Đức Lê-ô XIV tha thiết kêu gọi mọi giáo xứ Công Giáo trên thế giới hãy tích cực tham gia Ngày Thế giới Truyền giáo… bằng lời cầu nguyện, lòng quảng đại góp phần loan báo Tin Mừng, nâng đỡ các chương trình mục vụ và giáo lý, xây dựng các nhà thờ mới, đồng thời chăm sóc những nhu cầu về y tế và giáo dục của anh chị em chúng ta nơi các vùng truyền giáo”. Ngài thúc giục mọi người trở thành ‘những nhà truyền giáo của hy vọng giữa các dân tộc’ …mang Đức Ki-tô, Niềm Hy vọng của chúng ta, đến tận cùng trái đất”.
Gieo niềm hy vọng giữa thế giới khủng hoảng
Thế giới hôm nay đang chìm trong nhiều “bóng tối” chiến tranh, hận thù, bất công, cô đơn và khủng hoảng niềm tin. Con người khao khát ánh sáng, nhưng lại bị bao vây bởi ánh sáng giả tạo của chủ nghĩa hưởng thụ và vô cảm. Trong hoàn cảnh ấy, lời ngôn sứ I-sai-a vẫn vang lên: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên!” (Is 60,1).
Hội Thánh không thể chờ đợi hoàn cảnh thuận lợi mới loan báo Tin Mừng. Nếu ta im lặng, thế giới sẽ thiếu đi niềm hy vọng.
Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2025 khẳng định: “Mỗi Ki-tô hữu là một môn đệ thừa sai.” Trích lời Đức Giê-su: “Anh em là ánh sáng thế gian… không ai thắp đèn rồi để dưới thùng, nhưng đặt trên giá để soi sáng cho mọi người trong nhà” (Mt 5,14-15). Ánh sáng ấy không tồn tại cho chính mình, nhưng để chiếu soi cho thế giới.
Truyền giáo không chỉ là công việc của một số người được sai đi, mà là bổn phận của mọi người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Mỗi Ki-tô hữu được mời gọi làm “ngọn đèn hy vọng” giữa đời, bằng lời nói, hành động, và lòng thương xót trong gia đình, nơi làm việc, hay trường học.
Nếu ta thật sự tin Đức Ki-tô là Ánh Sáng cứu độ, ta không thể giữ ánh sáng ấy cho riêng mình.
Tham gia vào mùa truyền giáo mới
Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác vào sứ mạng của Người. Sứ điệp sai đi của Chúa Giê-su vẫn vang vọng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
Chủ đề Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm 2025: “Mang hy vọng trong một thế giới khủng hoảng” nhắc chúng ta rằng truyền giáo không chỉ là rao giảng, mà là mang niềm hy vọng và sự chữa lành đến với thế giới bị tổn thương.
Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô mời gọi: “Tôi nhấn mạnh đến tính hiệp hành truyền giáo của Giáo hội, khuyến khích mọi người – từ trẻ em, thanh thiếu niên đến người cao tuổi – tích cực tham gia sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng chứng tá đời sống, lời cầu nguyện, hy sinh và lòng quảng đại.”
Truyền giáo không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Mỗi người, dù ở đâu, đều có thể góp phần qua việc cầu nguyện, hỗ trợ vật chất, hay đơn giản là sống đức tin cách trung thực.
Trong buổi gặp gỡ các phong trào Công Giáo tại quảng trường Thánh Phê-rô, Đức Lê-ô XIV nhấn mạnh: truyền giáo trước hết là cầu nguyện vì cầu nguyện chính là hành động truyền giáo đầu tiên. Sau đó là loan báo Tin Mừng cho một thế giới bị thương tổn, không loại trừ ai, để mang Chúa, Đấng là Hy vọng đến với thế giới thất vọng.
Theo Đức Lê-ô, con đường truyền giáo chính là con đường của các Mối Phúc khiêm tốn, hiền lành, xót thương, và xây dựng hòa bình. Người truyền giáo không cần quyền lực hay chiến lược thế gian, vì truyền giáo luôn là công việc của Thiên Chúa.
Chúa không đòi chúng ta làm những điều vĩ đại, nhưng mời gọi ra đi với trái tim bừng cháy niềm tin và hy vọng, để thế giới nhận ra khuôn mặt yêu thương của Người.
Thế giới hôm nay đang khát niềm hy vọng. Giáo hội và từng người Ki-tô hữu được mời gọi trở nên người gieo hy vọng, gieo ánh sáng Tin Mừng vào lòng nhân loại.
Truyền giáo không chỉ là công việc của linh mục, tu sĩ hay nhà truyền giáo chuyên nghiệp, mà là sứ mạng của mỗi người tin. Dù bằng một lời cầu nguyện nhỏ bé, một hành động yêu thương âm thầm, hay một đóng góp khiêm tốn, tất cả đều có giá trị vô cùng trước mặt Chúa.
Vì thế, chúng ta cùng thưa với Người: “Lạy Chúa, này con đây, xin sai con đi.”
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài Giáo lý hàng tuần của Đức Leo XIV: chia sẻ cách ứng phó với những thăng trầm của cuộc sống
Vũ Văn An
14:30 15/10/2025

Theo Kathleen N. Hattrup, trên Aleteia ngày 15/10/2025, Đức Giáo Hoàng Leo XIV thừa nhận rằng sự lạc quan thường làm chúng ta thất vọng. Vậy thì chúng ta phải làm gì?
Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã chuyển trọng tâm bài giáo lý thứ Tư tuần này, ngày 15 tháng 10, sang việc suy gẫm về "ánh sáng cứu độ khi tiếp xúc với thực tại lịch sử và nhân bản hiện tại".
Hôm nay, ngài nhìn vào trải nghiệm của con người về khao khát hạnh phúc, nhưng lại nhận thấy rằng hành trình cuộc sống "thường gian nan, đau khổ và huyền bí".
Đức Giáo Hoàng nói: "Chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng rất khó để hạnh phúc một cách liên tục, không có bóng tối".
Ngài suy gẫm: Trong sự huyền nhiệm và khao khát này, chúng ta tìm thấy sự Phục Sinh. Ngài quả quyết: "Chúa Giêsu, với sự Phục Sinh của Người, đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết.
Dưới đây là bản dịch đầy đủ bài giáo lý của ngài, dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh:
~
Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!
Trong các bài giáo lý Năm Thánh, cho đến nay, chúng ta đã lần theo cuộc đời của Chúa Giêsu, theo các sách Tin Mừng, từ khi Người giáng sinh đến khi chịu chết và phục sinh. Nhờ đó, cuộc hành hương hy vọng của chúng ta đã tìm thấy nền tảng vững chắc, con đường chắc chắn của nó. Giờ đây, trong phần cuối của hành trình, chúng ta sẽ để mầu nhiệm Chúa Kitô, đạt đến đỉnh cao trong sự Phục sinh, tỏa sáng ánh sáng cứu độ của nó khi tiếp xúc với thực tại nhân bản và lịch sử hiện tại, với những câu hỏi và thách thức của nó.
Cuộc sống của chúng ta được đánh dấu bởi vô số biến cố, đầy những sắc thái và trải nghiệm khác nhau. Đôi khi chúng ta cảm thấy vui tươi, đôi khi buồn bã, đôi khi viên mãn hoặc căng thẳng, hài lòng hoặc chán nản. Chúng ta sống một cuộc sống bận rộn, chúng ta tập trung vào việc đạt được kết quả, và thậm chí chúng ta đạt được những mục tiêu cao cả, danh giá. Ngược lại, chúng ta vẫn lơ lửng, bấp bênh, chờ đợi thành công và sự công nhận nhưng bị trì hoãn hoặc thậm chí không bao giờ đến. Tóm lại, chúng ta thấy mình đang trải qua một tình huống nghịch lý: chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng lại rất khó để được hạnh phúc liên tục, không có bóng tối. Chúng ta chấp nhận những hạn chế của mình, đồng thời, với một thôi thúc không thể cưỡng lại là cố gắng vượt qua chúng. Chúng ta cảm thấy sâu thẳm bên trong rằng mình luôn thiếu thốn điều gì đó.
Quả thực, chúng ta được tạo dựng không phải để thiếu thốn, mà là để được viên mãn, để vui hưởng cuộc sống, và cuộc sống dư dật, theo lời Chúa Giêsu diễn tả trong Tin Mừng Gioan (x. 10:10).
Niềm khao khát sâu thẳm trong lòng chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời cuối cùng không phải ở địa vị, quyền lực, sở hữu, mà là ở niềm tin chắc chắn rằng có một Đấng bảo đảm cho động lực cấu thành nên nhân tính của chúng ta; ở nhận thức rằng kỳ vọng này sẽ không bị thất vọng hay cản trở. Niềm tin chắc chắn này trùng khớp với hy vọng. Điều này không có nghĩa là suy nghĩ theo hướng lạc quan: sự lạc quan thường làm chúng ta thất vọng, khiến kỳ vọng của chúng ta sụp đổ, trong khi hy vọng hứa hẹn và đáp ứng.
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu Phục Sinh là bảo đảm cho sự giải thoát này! Người là nguồn mạch thỏa mãn cơn khát của chúng ta, cơn khát vô tận về sự viên mãn mà Chúa Thánh Thần đã thấm nhiễm vào lòng chúng ta. Thật vậy, sự Phục sinh của Chúa Kitô không chỉ là một biến cố đơn thuần của lịch sử nhân bản, mà là biến cố đã biến đổi lịch sử từ bên trong.
Chúng ta hãy nghĩ về một nguồn nước. Đặc điểm của nó là gì? Nó giải khát và làm tươi mát các tạo vật, tưới mát đất đai, làm cho những gì nếu không có nước trở nên màu mỡ và tươi sống. Nó mang lại sự tươi mát cho lữ khách mệt mỏi, mang đến cho họ niềm vui của một ốc đảo tươi mát. Một nguồn nước xuất hiện như một món quà được ban tặng nhưng không cho thiên nhiên, cho các tạo vật, cho con người. Không có nước thì không thể sống được.
Đấng Phục sinh là nguồn mạch sống động, không bao giờ cạn kiệt và không bao giờ thay đổi. Nó luôn tinh khiết và sẵn sàng cho bất cứ ai khát khao. Và chúng ta càng nếm trải mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta càng bị thu hút vào nó, mà không bao giờ cảm thấy hoàn toàn no thỏa. Thánh Augustinô, trong Sách Tự Thuật thứ mười, đã nắm bắt chính xác nỗi khao khát vô tận này của trái tim chúng ta và diễn tả nó trong Bài Ca Vẻ Đẹp nổi tiếng của ngài: “Ngài đã tỏa hương thơm, và con hít vào hơi thở và khao khát Ngài. Con đã nếm, và con đã đói khát. Ngài đã chạm đến con, và con đã bừng cháy lên vì sự bình an của Ngài” (X, 27, 38).
Với sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Người là Đấng Hằng Sống (x. Kh 1:18), là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết. Vì vậy, Người có thể ban cho chúng ta sự tươi mát trong cuộc hành trình trần thế và đảm bảo cho chúng ta một sự bình an trọn vẹn trong cõi vĩnh hằng. Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại, mới có thể trả lời những câu hỏi sâu xa nhất trong lòng chúng ta: Liệu có đích đến thực sự cho chúng ta không? Cuộc đời chúng ta có ý nghĩa gì không? Và nỗi đau khổ của biết bao người vô tội, làm sao có thể cứu chuộc được?
Chúa Giêsu Phục Sinh không ban cho chúng ta một câu trả lời “từ trên cao”, nhưng trở thành người bạn đồng hành của chúng ta trên hành trình thường đầy gian nan, đau đớn và mầu nhiệm này. Chỉ có Người mới có thể lấp đầy chiếc bình rỗng của chúng ta khi cơn khát trở nên không thể chịu đựng nổi.
Và Người cũng là đích đến của hành trình chúng ta. Nếu không có tình yêu của Người, hành trình cuộc đời sẽ trở nên lang thang không mục tiêu, một sai lầm bi thảm với một điểm đến bị bỏ lỡ. Chúng ta là những tạo vật mong manh. Sai lầm là một phần của nhân tính; chính vết thương tội lỗi khiến chúng ta ngã xuống, bỏ cuộc, tuyệt vọng. Thay vào đó, trỗi dậy có nghĩa là đứng dậy và đứng vững trên đôi chân của mình. Đấng Phục Sinh bảo đảm cho chúng ta đến nơi, dẫn chúng ta về nhà, nơi chúng ta được chờ đợi, yêu thương và cứu rỗi. Đồng hành cùng Người có nghĩa là trải nghiệm được sự nâng đỡ bất chấp tất cả, được thỏa mãn cơn khát và được tươi mới giữa những khó khăn và đấu tranh, giống như những tảng đá nặng, đe dọa cản trở hoặc làm chệch hướng lịch sử của chúng ta.
Các bạn thân mến, từ sự Phục Sinh của Chúa Kitô nảy sinh niềm hy vọng, cho chúng ta nếm trước, bất chấp sự mệt mỏi của cuộc sống, một sự bình an sâu sắc và hân hoan: rằng sự bình an mà chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta vào lúc cuối cùng, vô tận.
Các nhà lãnh đạo Kitô giáo tại Đất Thánh ca ngợi thỏa thuận hòa bình ở Gaza
Vũ Văn An
14:49 15/10/2025

Charles Collins, giám đốc Điều hành của Crux, ngày 15 tháng 10 năm 2025, tường trình rằng: Các nhà lãnh đạo Kitô giáo tại Đất Thánh cho biết họ "vui mừng" trước việc ban hành lệnh ngừng bắn ở Gaza và việc thả thành công các tù nhân bị nhóm Hồi giáo Hamas và nhà nước Israel giam giữ.
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã sắp xếp thỏa thuận hòa bình, theo đó việc trao đổi con tin dự kiến hoàn tất vào thứ Ba.
Chiến tranh Gaza bùng nổ sau cuộc tấn công bất ngờ của các chiến binh Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 khiến 1,200 người Israel thiệt mạng và hơn 250 người bị bắt làm con tin.
Israel ngay lập tức phát động một cuộc tấn công trả đũa ở Gaza nhằm lật đổ Hamas khỏi vị trí lãnh đạo, với cuộc xung đột sau đó đã khiến gần 70,000 người ở Gaza thiệt mạng, theo ước tính của Palestine.
Thỏa thuận hòa bình do TT Trump đề xuất đã được Israel chấp nhận vào cuối tháng 9 và sau đó được Hamas chấp nhận vào ngày 3 tháng 10. Mặc dù đang được duy trì, nhưng nó vẫn được coi là mong manh. Mặc dù tất cả các con tin còn sống đã được Gaza trả tự do, Israel cho biết họ vẫn đang chờ đợi một số thi thể của các con tin đã thiệt mạng.
Cùng với hàng triệu người đang sống trên khắp khu vực bị chiến tranh tàn phá của chúng ta, các giáo trưởng và người đứng đầu các Giáo hội tại Giêrusalem đã ra một tuyên bố vào thứ Ba ca ngợi thỏa thuận này.
Tuyên bố cho biết: "Chúng tôi nhân cơ hội này ghi nhận những nỗ lực to lớn và dũng cảm của tất cả những người đã làm việc để đạt được thành tựu to lớn này, đặc biệt là của Tổng thống Trump".
Các nhà lãnh đạo Giáo hội viết: “Như ông đã tuyên bố trước Quốc hội Israel (Knesset) hôm qua, chúng tôi tin tưởng rằng giai đoạn đầu tiên của lệnh ngừng bắn này thực sự báo hiệu sự kết thúc của Chiến tranh Gaza, và bất cứ bất đồng nào giữa các bên sẽ được giải quyết thông qua đàm phán hoặc hòa giải thay vì tiếp tục các cuộc giao tranh. Thật vậy, toàn bộ khu vực của chúng ta đã phải chịu đựng đủ lâu để có thể suy nghĩ khác đi”.
Họ cũng cho biết họ nhận thấy rằng người dân Gaza và các cộng đồng khác trong khu vực vẫn đang tiếp tục chịu đựng, với hàng trăm nghìn người đã mất nhà cửa, sức khỏe, người thân và sinh kế.
Tuyên bố cho biết: “Do đó, chúng tôi mạnh mẽ khuyến khích việc nhanh chóng cung cấp lương thực, nước sạch, nhiên liệu, vật tư y tế và nơi trú ẩn tạm thời cho Dải Gaza và các cộng đồng bị ảnh hưởng khác như một phần mở đầu cho một chương trình được ban hành nhanh chóng nhằm dọn dẹp và xây dựng lại quy mô lớn nhà cửa, doanh nghiệp và cơ sở hạ tầng dân sự bị phá hủy”.
Các nhà lãnh đạo Giáo hội nói thêm: “Hơn nữa, chúng tôi kêu gọi các bên liên quan và cộng đồng quốc tế nói chung mở rộng phạm vi các cuộc đàm phán hiện tại để bao gồm việc chấm dứt chiếm đóng cả Gaza và Bờ Tây, dẫn đến việc thành lập một nhà nước Palestine chung sống hòa bình với nhà nước Israel hiện tại. Chỉ bằng cách này, chúng tôi tin rằng, một nền hòa bình công bằng và lâu dài mới thực sự được thiết lập tại Đất Thánh và trên khắp Trung Đông rộng lớn hơn”.
Các vị cũng bày tỏ lời động viên đặc biệt tới những người đang sống bên trong Nhà thờ Chính thống giáo St. Porphyrios và Nhà thờ Công Giáo Holy Family, cũng như những người phục vụ tại Bệnh viện Anh giáo Al-Ahli.
Dải Gaza có một cộng đồng Kitô giáo nhỏ: Trong số hơn 2 triệu người, chỉ có khoảng 1,000 người Kitô hữu.
Vào tháng 7, nhà thờ Công Giáo duy nhất trong khu vực đã bị trúng đạn pháo từ xe tăng Israel, khiến ba người thiệt mạng.
Một số người khác bị thương, bao gồm cả Cha Gabriel Romanelli, cha xứ của nhà thờ.
Các vị lãnh đạo Giáo hội viết: “Sự kiên trì trong đức tin của anh chị em giữa những khó khăn không thể đo đếm được của hai năm qua đã trở thành tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng ta. Chúng tôi xin hứa sẽ tiếp tục cầu nguyện và hỗ trợ anh chị em, đồng thời sẽ nỗ lực hết mình để đảm bảo rằng những tuần và tháng sắp tới sẽ minh chứng cho niềm tin của anh chị em vào sự quan phòng thần thiêng của Thiên Chúa”.
Các ngài viết: “Với tinh thần này, chúng tôi cùng với các anh chị em Kitô hữu và những người thiện chí khác trên khắp thế giới tạ ơn Đấng Toàn Năng đã dẫn dắt chúng ta đến thời khắc tốt lành này, ngay cả khi chúng ta nhận ra rằng công việc xây dựng hòa bình chỉ mới bắt đầu”.
Tuyên bố kết thúc: “Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tất cả ân sủng để tái hiến mình cho nhiệm vụ quan trọng này, dẫn dắt chúng ta đến thời đại hòa bình hoàng kim mà các tiên tri và hiền triết xưa đã hình dung từ lâu—và vì thời đại đó, chính Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã hy sinh mạng sống mình, sống lại cuộc sống mới sau khi chết”.
Nhóm Định nghĩa Tội Lạm dụng Tinh thần của Tòa Thánh đang có những tiến triển tốt.
Vũ Văn An
15:54 15/10/2025

Elise Ann Allen của tạp chí Crux, ngày 15 tháng 10, 2025, cho biết: Một nhóm làm việc để định nghĩa và phân loại tội lạm dụng tinh thần trong Giáo luật đang đạt được những tiến triển và đang tiếp tục tiến bước, với người đứng đầu nhóm đã được xác nhận mặc dù đã được chuyển sang một bộ khác.
Vào tháng 11 năm 2024, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phê chuẩn việc thành lập một nhóm làm việc để phân loại tội lạm dụng tinh thần trong Giáo luật, giao nhiệm vụ này cho cả Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) và Bộ Văn bản Lập pháp, do Bộ sau chủ tọa.
Với tư cách là Tổng trưởng Bộ Văn bản Lập pháp lúc bấy giờ, Đức Tổng Giám Mục người Ý Filippo Iannone đã được bổ nhiệm làm chủ tịch nhóm công tác.
Tuy nhiên, sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bổ nhiệm Iannone làm Tổng trưởng Bộ Giám mục của Vatican vào tháng trước, nhóm công tác đã không còn chủ tịch.
Trong một thông cáo được công bố hôm thứ Ba, Đức Hồng Y người Argentina Victor Fernandez, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, cho biết nhóm đã "làm việc rất hiệu quả" và ngài yêu cầu Iannone, mặc dù đã được điều chuyển khỏi Bộ Văn bản Lập pháp, "được xác nhận là người đứng đầu nhóm này".
Yêu cầu đó đã được Đức Giáo Hoàng Lêô chấp thuận trong buổi tiếp kiến ĐHY Fernandez vào ngày 10 tháng 10, có nghĩa là nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục làm việc với ĐTGM Iannone làm người lãnh đạo, tránh mọi sự chậm trễ tiềm ẩn trong quá trình này.
Việc Đức Giáo Hoàng Leo bổ nhiệm ĐTGM Iannone làm người thay thế ngài tại Bộ Giám mục đã gây bất ngờ cho nhiều người. Tuy nhiên, việc ngài bổ nhiệm một chuyên gia giáo luật khác vào vị trí này được coi là một hành động tiếp nối những cải cách giáo triều của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vì Iannone đã tham gia vào việc tái cấu trúc giáo triều, và một số nhà quan sát cũng diễn giải đây là một nỗ lực hỗ trợ công việc của nhóm nghiên cứu.
Yêu cầu của Đức HY Fernandez trong cuộc gặp mặt Đức Giáo Hoàng Leo được đưa ra một ngày sau khi một hội đồng gồm năm thẩm phán được chọn để nghe bằng chứng trong vụ án chống lại Linh mục Marko Rupnik người Slovenia, người bị cáo buộc tấn công tình dục hàng chục phụ nữ trưởng thành.
Trong số những cáo buộc khác, Rupnik bị cáo buộc thao túng những người phụ nữ này bằng cách sử dụng những trải nghiệm tâm linh và thần bí sai lầm để dụ dỗ và tấn công họ.
Hiện tại, không có tội danh nào được định nghĩa rõ ràng trong Luật Giáo hội để giải quyết hình thức lạm dụng này, vốn đã trở nên phổ biến hơn trong những thập niên gần đây. Nhiều chuyên gia từ lâu đã phàn nàn rằng lỗ hổng pháp lý này đã cho phép những kẻ bị cáo buộc lạm dụng như Rupnik tránh được hình phạt.
Nếu nhóm nghiên cứu về lạm dụng tâm linh hoàn thành công việc của mình trước khi kết thúc thủ tục tố tụng của Rupnik, thì có khả năng tội danh mới sẽ được áp dụng cho trường hợp của ông, nghĩa là ông có thể là người đầu tiên bị buộc tội chính thức về tội lạm dụng tâm linh theo luật định.
Video cho thấy ngọn lửa lớn thiêu rụi tu viện khi 21 nữ tu thoát nạn
Đặng Tự Do
17:03 15/10/2025
Một vụ hỏa hoạn kinh hoàng đã thiêu rụi Tu viện Bernaga lịch sử gần Milan, Ý, vào tối thứ Bảy, các phương tiện truyền thông địa phương và các quan chức đưa tin.
Tu viện Bernaga, được thành lập năm 1628 tại La Valletta Brianza, cách Milan khoảng 19 dặm về phía đông, được công nhận là di sản kiến trúc. Theo nhiều báo cáo trên phương tiện truyền thông, đây cũng là nơi Thánh Carlo Acutis đã rước lễ lần đầu. Thánh Actuis là vị thánh đầu tiên trong thiên niên kỷ này của Giáo Hội Công Giáo được phong thánh. Chúa Nhật vừa qua đánh dấu ngày lễ đầu tiên kính nhớ Thánh Acutis.
Theo truyền thông địa phương, vụ hỏa hoạn bắt đầu vào khoảng sau 8 giờ tối giờ địa phương vào thứ Bảy và đã phá hủy một phần tòa nhà được xây dựng từ thế kỷ XVII.
Đội cứu hỏa đã điều động nhiều đội từ các thành phố lân cận để khống chế đám cháy.
Theo ủy viên hội đồng khu vực Massimo Sertori, 21 nữ tu đang cư trú tại tu viện đã được di tản an toàn. 19 nữ tu đã được chuyển đến tu viện Little Apostles ở Ponte Lambro, trong khi hai nữ tu khác đang ở trong một nơi trú ẩn gần Erba, Sertori cho biết.
Sertori cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội vào Chúa Nhật rằng ngọn lửa có thể đã lan rộng do chập điện ở một trong các phòng giam của tu viện, và nói thêm rằng thiệt hại đối với tòa nhà, nơi mà ông cho biết có chứa những bức tranh quý giá, là rất lớn.
Những hình ảnh được lực lượng cứu hỏa quốc gia Ý chia sẻ, cùng với các cảnh quay lan truyền trên mạng xã hội, cho thấy lính cứu hỏa có mặt tại hiện trường khi ngọn lửa gây thiệt hại đáng kể cho mái của công trình.
Source:Newsweek
Các tín hữu kinh hoàng nói: Triển lãm graffiti báng bổ khiến nhà thờ Canterbury trông giống như một bãi đậu xe dưới hầm ở Peckham
Đặng Tự Do
17:04 15/10/2025
Một cuộc triển lãm graffiti mới tại Nhà thờ Canterbury đã bị mô tả là “phạm thượng” khi có người nói rằng nó khiến nhà thờ lịch sử trông giống như “một bãi đậu xe dưới hầm ở Peckham”.
Tác phẩm nghệ thuật sắp đặt 'Hear Us' cho phép mọi người đặt câu hỏi với Chúa, sau đó những câu hỏi này sẽ được dán lên các cột trụ, tường và sàn nhà xung quanh tòa nhà cổ kính ở Kent.
Trong khi một số người bày tỏ sự thích thú, nhiều tín hữu lại cảm thấy bị xúc phạm khi nhìn thấy các tác phẩm nghệ thuật này.
Một người cho rằng tác phẩm này là “phạm thượng” trong khi người khác lại nói rằng nó phù hợp hơn với bãi đậu xe ở phía nam Luân Đôn.
Những người khác hỏi, 'ai sẽ giúp tôi thoát khỏi những hình ảnh đồ họa phiền phức này?' và 'làm sao để mọi người không cảm thấy khó chịu?'.
'Thật kinh khủng. Nhà thờ Canterbury, các người đang làm gì vậy?', một người khác hỏi.
Trong khi một người khác nói: 'Không phải loại “nghệ thuật” mà tôi mong đợi ở một nhà thờ gothic cổ kính.'
Một người khác thắc mắc: “Tại sao không vẽ nó trên vải?”.
'Bất cứ ai thực sự chấp thuận điều này chắc hẳn không nghĩ rằng mọi người chúng ta khó chịu và ghê tởm khi xem nó. '
Hình ảnh theo phong cách graffiti tạm thời cũng được thêm vào cùng với các hình vẽ graffiti lịch sử của nhà thờ, bao gồm các dấu hiệu của người thợ xây cổ xưa có niên đại hàng trăm năm.
Tác phẩm sắp đặt này có những câu trả lời cho câu hỏi 'Bạn sẽ cầu xin Chúa điều gì?' bằng kiểu chữ graffiti hiện đã được gắn trên các cột đá, tường và sàn nhà thờ.
Một số câu trả lời bao gồm 'Bạn có ở đó không?' và 'Tại sao bạn lại tạo ra sự thù hận khi tình yêu mạnh mẽ hơn nhiều?'.
Những người khác đặt câu hỏi 'Mọi thứ đều có linh hồn sao?' và 'Bạn có hối hận về sáng tạo của mình không?'.
Ban tổ chức hy vọng sự tương phản nổi bật giữa kiến trúc cổ đại và thông điệp đương đại sẽ giúp khơi mào các cuộc trò chuyện xoay quanh các câu hỏi này.
David Monteith, Trưởng khoa Canterbury, người nhận ra khả năng Hear Us có thể gây chia rẽ dư luận, cho biết: “Có một sự thô sơ được phóng đại bởi phong cách graffiti gây rối loạn”.
'Những gì được nói ra cũng có tính tranh cãi vì nó không được lọc, không được chỉnh sửa hay khử trùng.
'Trên hết, bức tranh graffiti này khiến tôi tự hỏi tại sao tôi không phải lúc nào cũng có thể thành thật như vậy, đặc biệt là trong những lời cầu nguyện của mình.
'Triển lãm này cố tình xây dựng cầu nối giữa các nền văn hóa, phong cách và thể loại và đặc biệt cho phép chúng ta tiếp nhận những món quà từ những người trẻ tuổi, những người có nhiều điều để nói và là những người mà chúng ta cần lắng nghe nhiều.'
Tác phẩm này là sự hợp tác giữa nhà thơ Alex Vellis và giám tuyển Jacquiline Creswell với các cộng đồng thiểu số và một nhóm nghệ sĩ tài năng.
Nói về công việc hợp tác, nhà thơ Vellis cho biết thêm: 'Về cơ bản, dự án này là về cộng đồng, sử dụng tiếng nói của bạn và thay đổi.
'Ngôn ngữ là ngôn ngữ của những người nói ngôn ngữ đó, và graffiti là ngôn ngữ của những người không được lắng nghe.
'Bằng cách vẽ graffiti tạm thời bên trong Nhà thờ Canterbury, chúng ta sẽ cùng hòa vào giai điệu của những điều bị lãng quên, lạc lối và kỳ diệu.
'Những người muốn để lại dấu ấn của mình, muốn nói rằng 'Tôi đã ở đây' và muốn những bức khắc của họ truyền tải tiếng nói của mình qua nhiều thế kỷ.'
Người phụ trách bảo tàng, bà Creswell cho biết: 'Chắc hẳn chúng ta đều từng thắc mắc về những điều bí ẩn của vũ trụ, ý nghĩa của cuộc sống, hoặc trong thời điểm bất ổn, tìm kiếm lời khuyên?
'Trong bối cảnh thần học, việc đặt câu hỏi với Chúa được xem như một hình thức cầu nguyện, thiền định hoặc chiêm nghiệm, đổi lại nhận được sự hướng dẫn và an ủi từ một nguồn được tường trình toàn năng và từ bi.
'Bằng cách tìm đến Đấng thiêng liêng với những câu hỏi cá nhân, mỗi cá nhân có thể tìm thấy sự an ủi, sáng suốt và phương hướng giữa những điều bất định của cuộc sống.'
Hear Us chính thức khai trương vào thứ sáu, ngày 17 tháng 10 và kéo dài đến ngày 18 Tháng Giêng năm 2026.
Source:Daily Mail
Giáo phận cho biết thánh tích dường như tự di chuyển không phải có nguồn gốc siêu nhiên
Đặng Tự Do
17:06 15/10/2025
Giáo phận Lincoln, Nebraska, đã xác định rằng một thánh tích chuyển động “không có nguồn gốc siêu nhiên” sau khi video về hiện tượng rõ ràng này lan truyền trên mạng xã hội.
Video lan truyền mô tả một thánh tích hạng nhất của Thánh Gemma Galgani dường như tự di chuyển phía sau tủ trưng bày.
Du khách được tường trình đã đến Trung tâm Newman tại Đại học Nebraska-Lincoln để xem di vật có vẻ chuyển động này.
Nhưng một cuộc điều tra của giáo phận đã phát hiện ra rằng nguồn gốc của chuyển động này là một chiếc móc cong.
Cha Caleb La Rue, chưởng ấn của Giáo phận Lincoln, đã điều tra xem liệu thánh tích chuyển động này có thể có nguồn gốc siêu nhiên hay không với sự giúp đỡ của một linh mục khác.
Ngài nói với CNA rằng Giáo hội phải xem xét những điều như vậy với “sự hoài nghi lành mạnh” để xem liệu có bất kỳ nguyên nhân “tự nhiên” nào gây ra những sự việc này hay không.
“Không phải là những điều này không thể xảy ra — tất nhiên, chúng hoàn toàn có thể xảy ra,” ngài nói. “Chúa có thể hành động theo vô vàn cách.”
Cha La Rue phát hiện móc treo bị cong, khiến một thánh tích tương tự cũng di chuyển theo cùng một cách khi treo trên cùng một móc. Khi thánh tích của Thánh Gemma được lấy ra khỏi móc, nó ngừng chuyển động. Cha La Rue cho biết do móc treo bị cong, trọng lượng của hộp đựng thánh tích có thể “không được phân bổ đều”.
Nhưng Cha La Rue cũng lưu ý rằng các phép lạ trên thế giới vẫn xảy ra và khuyến khích mọi người tìm kiếm những cách thông thường mà Chúa thể hiện sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
Cha La Rue cho biết: “Ngay cả khi không phải là điều siêu nhiên, tôi nghĩ rằng có điều gì đó mà Chúa muốn tất cả chúng ta rút ra được từ trải nghiệm này vì Người đã muốn hoặc cho phép điều đó xảy ra”.
Thế nào được coi là phép lạ?
Các nhà chức trách Giáo hội điều tra những phép lạ được tường trình có thật khi họ nhận được báo cáo. Những hiện tượng kỳ diệu này thường liên quan đến Bí tích Thánh Thể, các lần Đức Mẹ hiện ra, và các phép lạ chữa lành, cùng nhiều điều khác.
Michael O'Neill, một chuyên gia về phép lạ, người đã phát triển một trang web theo dõi phép lạ và là người dẫn chương trình “Miracle Hunter” hay “Người săn tìm phép lạ” của EWTN, nói với CNA rằng Giáo hội “sẽ không điều tra một thánh tích chuyển động trong thời hiện đại”.
“Theo truyền thống, chỉ có một vài loại phép lạ được điều tra, cụ thể là phép lạ chữa lành, phép lạ Đức Mẹ hiện ra, phép lạ Thánh Thể, tượng hoặc một bức tượng khóc, và các tượng thánh không bị hủy hoại trong các tai ương thiên nhiên,” O'Neill nói. “Và mỗi loại đều có quy trình điều tra riêng.”
Tuy nhiên, Cha La Rue lưu ý rằng không phải là không có khả năng một di vật có thể di chuyển một cách kỳ diệu theo cách này.
“Tất nhiên là có thể. Có rất nhiều điều kỳ diệu xảy ra mỗi ngày,” Cha La Rue nói. “Bạn không muốn làm giảm nhiệt huyết một cách vội vã. Nhưng đồng thời, Giáo hội cũng thận trọng vì một lý do, bởi vì Giáo hội muốn chúng ta tập trung vào những điều thực sự kỳ diệu.”
Liệu phép lạ vẫn còn xảy ra không?
Giáo hội đã ghi nhận nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa bệnh, Bí tích Thánh Thể và sự hiện ra của Đức Mẹ.
Phép lạ chữa lành đặc biệt quan trọng trong việc điều tra các vị thánh tiềm năng. Những người muốn trở thành thánh cần phải có nhiều phép lạ chữa lành được ghi nhận nhờ lời chuyển cầu của họ trước khi Giáo hội phong thánh cho họ.
Theo O'Neill, những phép lạ chữa lành này trải qua một cuộc điều tra kỹ lưỡng theo “Tiêu chuẩn Lambertini”. Một phép lạ chỉ có thể được xác nhận nếu không có lời giải thích khoa học nào cho việc chữa lành.
Giáo phận Lincoln lưu ý trong một tuyên bố rằng phép lạ vẫn xảy ra, đặc biệt là phép lạ Bí tích Thánh Thể, trong đó bánh và rượu được thánh hiến trở thành thân thể, máu, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu.
Giáo phận cho biết trong một tuyên bố chia sẻ với CNA vào thứ năm rằng: “Thiên Chúa bao quanh chúng ta bằng những phép lạ mỗi ngày, với sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể là điều nổi bật nhất”.
Cha La Rue lưu ý rằng Trung tâm Newman có hoạt động tôn thờ Thánh Thể cả ngày, nơi sinh viên và nhân viên đến cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô.
Cha La Rue cho biết: “Trong suốt thời gian sự việc này xảy ra, luôn có nghi thức trưng bày Thánh Thể”.
Ngài lưu ý rằng Bí tích Thánh Thể “là dấu chỉ cuối cùng về sự hiện diện lâu dài của Thiên Chúa với dân Người và mong muốn trở thành một phần trong cuộc sống của chúng ta”.
“Ngay cả khi điều này không phải là điều mà một số người hy vọng, điều đó không có nghĩa là Chúa vẫn không hiện diện nhiều trong cuộc sống của chúng ta. Đôi khi có lẽ chúng ta không để ý đến những điều nhỏ nhặt mà Ngài thể hiện.”
O'Neill lưu ý rằng các chuẩn mực chính thức để giải quyết phép lạ đã được điều chỉnh vào năm ngoái, nghĩa là Giáo hội không tuyên bố rõ ràng các sự kiện là siêu nhiên, mà sử dụng thuật ngữ “nihil obstat”, có nghĩa là “không có gì cản trở”.
Điều này có nghĩa là phép lạ có “dấu hiệu” của Chúa Thánh Thần và không có gì “quan trọng hay nguy hiểm” được phát hiện.
Trong khi nihil obstat là danh hiệu cao nhất mà một phép lạ được đề xuất có thể nhận được trong thời hiện đại, thì theo các chuẩn mực gần đây, Vatican cũng có thể lên án những phép lạ được tường trình có thật nếu Giáo hội thấy chúng đáng lo ngại, không có nguồn gốc siêu nhiên, hoặc thậm chí là gian lận.
Cha La Rue khuyến khích những người hy vọng vào phép màu hãy “lưu tâm đến những cách thông thường mà Chúa truyền đạt tình yêu và ân sủng của Ngài cho chúng ta trong suốt cả ngày”.
Cha La Rue cho biết: “Không nhất thiết phải là điều gì đó ngoạn mục, nhưng có rất nhiều cách nhỏ bé cho thấy Chúa luôn quan tâm đến chúng ta”.
Cha La Rue, người hiện đang cư trú tại Trung tâm Newman, lưu ý rằng cộng đồng sôi động này đang phát triển.
Ngài cho biết: “Đây là nơi những người trẻ thực sự gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, xây dựng tình bạn bền chặt và lâu dài dựa trên tình yêu chung dành cho Chúa và mong muốn sống một cuộc sống trọn vẹn, một cuộc sống vui vẻ”.
Khoảng 70 người đã gia nhập Giáo hội thông qua chương trình OCIA của trung tâm vào năm ngoái.
“ Số lượng người đến nhà thờ năm ngoái chỉ đơn giản là xuất hiện — không ai đến gặp họ cả,” Cha La Rue nói. “Chúng tôi chắc chắn có những người như vậy, nhưng rất nhiều người trong số họ tự đến.”
Cha cho biết Thánh lễ Chúa Nhật “chỉ còn chỗ đứng”.
“Tôi đã có thể nhìn thấy thực tế của những người trẻ khi nhận ra rằng thế giới không có câu trả lời — rằng những thứ của thế gian không làm họ thỏa mãn,” ngài nói. “Và họ đến đây để tìm thấy sự bình an, tình yêu và tự do đích thực nơi Chúa chúng ta.”
Source:Catholic News Agency
Những vấn đề với cụm từ Người Công Giáo LGBTQ
J.B. Đặng Minh An dịch
17:07 15/10/2025
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “The Problem(s) with “LGBTQ Catholic”“, nghĩa là “Những vấn đề với cụm từ “Người Công Giáo LGBTQ”“.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Cha cố Richard John Neuhaus có mối quan hệ vừa yêu vừa ghét với tờ New York Times.
Cha Richard là một người ủng hộ nhiệt thành cho Thành phố New York, nơi mà đôi khi ngài mô tả như một bản xem trước của Giêrusalem Mới, nhưng tính địa phương hẹp hòi của tờ báo vẫn khiến ngài thỉnh thoảng coi tờ nhật báo uy tín nhất New York là một “bản tin giáo xứ”. Ngài thường xuyên chỉ trích các bài xã luận của tờ Times vì vẻ tự mãn cho rằng mình không thể sai lầm của chúng. Và rồi Cha Richard (và nhiều hơn thế nữa) tỏ ra khó chịu với chủ nghĩa tự do phản ứng nhanh nhạy của tờ Times, vốn, bằng cách ủng hộ mọi lý tưởng tả khuynh có thể tưởng tượng được, đã đẩy nhanh sự suy tàn của chính trị tự do thành việc thúc đẩy lối sống phóng túng. Do đó, Cha Richard đã đi trước Joseph Ratzinger nhiều năm trong việc đưa ra những cảnh báo về chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối, hậu quả chính trị không thể tránh khỏi của sự dịch chuyển văn hóa sang cánh tả của tờ Times.
Mặt khác, Cha Richard Neuhaus không thể tưởng tượng được việc bỏ qua tờ New York Times vào buổi sáng cũng như không thể tưởng tượng được việc bắt đầu một ngày mà không có nhiều tách cà phê, một bát Honey Nut Cheerios và một điếu thuốc.
Mối quan hệ yêu/ghét đó đã được kết tinh trong một sự việc trong những ngày Cha Richard còn là một mục sư Lutheran ở khu phố Bedford-Stuyvesant nghèo đói của Brooklyn, khi tờ Times từ chối gọi một mục sư da đen địa phương (từ phân khu thương mại toàn tòng Tin lành) là “Giám mục”. Trong cơn tức giận, Cha Richard Neuhaus đã viết thư cho AM Rosenthal, lúc đó là biên tập viên quản lý của tờ Times, và hỏi chuyện gì đang xảy ra. Người đàn ông này tự gọi mình là “Giám mục”. Người dân của ông ta gọi ông ta là “Giám mục”. Biển hiệu ở mặt tiền của cơ sở tôn giáo của ông ta xác định ông ta là “Giám mục”. Tờ Times nghĩ đó là ai, và tờ Times nghĩ họ đang làm gì, khi từ chối người đàn ông này danh hiệu mà ông ta và người dân của ông ta đã sử dụng?
Cuối cùng, Abe Rosenthal đã viết cho Cha Richard một bức thư cáu kỉnh, nói rằng, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng theo đúng quy định của tờ báo quốc gia, tờ Times từ nay sẽ gọi vị quý ông được nhắc đến là “Giám mục”. Bức thư kết thúc bằng một câu khiến Cha Richard Neuhaus cười phá lên trong nhiều thập niên: “Và vì vậy, thưa Cha Neuhaus, ngài có thể cảm thấy hài lòng khi biết rằng, khi nêu vấn đề này với chúng tôi, ngài đã đóng góp một phần nhỏ vào lịch sử thời đại chúng ta.”
Hoặc những từ ngữ có tác dụng tương tự, nếu tôi được tha thứ vì đã trích dẫn Richard Rich đáng ghét trong tác phẩm A Man for All Seasons.
Hơn ba mươi năm tình bạn và sự hợp tác, tôi hẳn đã nghe Cha Richard kể câu chuyện đó hàng chục lần, nhưng tôi không nghĩ mình đã nghĩ về nó nhiều hơn một hoặc hai lần kể từ khi ngài qua đời vào năm 2009. Sau đó, gần đây, tôi đọc một bài báo cho biết một giáo sĩ mà tôi ngưỡng mộ, người đã bày tỏ sự đồng cảm với cáo buộc rằng Giáo Hội Công Giáo ở phương Tây “bị ám ảnh” với các vấn đề về đạo đức tình dục, tuy nhiên bản thân ngài lại sử dụng thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ”.
Bây giờ, xét về mặt phép lịch sự, tôi đồng ý với nội dung khiếu nại của Cha Richard gửi Abe Rosenthal: mọi người thường nên được nhận diện theo cách họ tự nhận diện mình, và dù sao đi nữa, tờ New York Times không có thẩm quyền quyết định ai là giám mục và ai không phải là giám mục. Nhưng việc một giáo sĩ sử dụng thuật ngữ “Công Giáo LGBTQ” để chỉ bất kỳ thành viên nào của Giáo Hội Công Giáo, với tôi, lại là một vấn đề khác.
Đầu tiên, tôi thấy thật vô lý khi ít nhất là gật đầu tin tưởng vào lời cáo buộc rằng một số bộ phận của Giáo hội thế giới bị ám ảnh bởi đạo đức tình dục rồi sau đó lại sử dụng thuật ngữ cực đoan về tình dục “Công Giáo LGBTQ” — bất kể nguồn gốc của nó là gì, thì thuật ngữ này đều hạ thấp một cá nhân xuống thành ham muốn tình dục, sự bối rối hoặc cả hai.
Thứ hai, như đã được chỉ ra tại một số Thượng Hội đồng Giám mục, bắt đầu từ Thượng Hội đồng Giám mục 2018, cách sử dụng này không có cơ sở trong lịch sử Công Giáo, vì Giáo hội chưa bao giờ xác định các thành viên của mình bằng ham muốn tình dục. Điều này có nghĩa là việc gọi “người Công Giáo dị tính” cũng khiếm nhã như gọi “người Công Giáo LGBTQ”. Tại sao? Bởi vì “tất cả anh em đều là một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gal 3:28), và việc chia rẽ người Công Giáo theo cách này sẽ làm rạn nứt sự hiệp nhất của Giáo hội.
Cuối cùng, trong thời điểm chính trị và văn hóa này, thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ” vừa là phương tiện truyền tải một chương trình thần học — sự chuyển đổi những hiểu biết đã được xác lập của Công Giáo về con người và đời sống đạo đức — vừa là biểu tượng của nhiều mục đích chính trị khác nhau: những mục đích không hề bị nao núng chút nào bởi mối đe dọa từ “chế độ độc tài tương đối” của Đức Ratzinger. Thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ” không mang tính mô tả trung lập; đúng hơn, nó khá nặng nề về mặt thần học và chính trị.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân, luôn cần đến ân sủng cứu chuộc của Chúa Kitô, như Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã mạnh mẽ nhắc nhở. Khi nhớ điều đó, có lẽ chúng ta sẽ bớt đi khuynh hướng phân định lẫn nhau (và chính mình) bằng ham muốn, khuynh hướng tình dục, hay hành vi tình dục.
Source:First Things
Chuyện vui hành hương Međugorje, thiên đường địa giới là đây.
Trần Mạnh Trác
19:26 15/10/2025
Xem hình ảnh
Có nơi nào cảnh đẹp, nhà rẻ, bầu không khí thì phảng phất thần thánh linh thiêng, mà nhất là món thịt Biftek thì ngon như thịt Kobe của Nhật mà giá thì lại rẻ như bèo (đồng BAM) không?
Xin thưa tôi đã định bụng rằng, nếu chẳng vì lý do nào khác ngoài cái lý do “dung dưỡng thói tham ăn” (là một trong 7 mối tội đầu theo Đạo Công Giáo) thì hằng năm tôi nhất định sẽ "liều mình" đi Međugorje, Bosnia and Herzegovina, ít là một lần.
Ngưới Công Giáo chúng ta gọi Međugorje là Đức Mẹ Mễ Du vì có truyền thuyết Đức Mẹ đã hiện ra ở đây.
Nhưng Međugorje cũng đang được giới trẻ đua nhau đi du lịch vì có thác nước đẹp để tắm (thác Kravica), có núi đá để thử sức leo trèo (Apparition Hill).
Riêng tôi thì món thịt Biftek của người Bosnia sao mà ngon thế!
Chúng tôi 4 người gọi 1 đĩa Combo (cho 2 người mà chia nhau ăn) gồm có Biftek 8 oz mỗi người, thịt gà tẩm bơ 8 oz nữa, khoai tây chiên và rau xài không hết, rồi thêm vào là món khai vị vegetable cream soup có bánh nướng ăn cũng không hết được…tất cả được phục dịch trong một nhà hàng 5 sao, có hầu bàn mặc sơ mi trắng ủi hồ thẳng nếp…vậy mà sau khi tính tiền xong thì mỗi người chỉ phải trả khoảng 10 đô mà thôi, nghĩa là rẻ hơn một tô phở ở Dallas TX (Bosnia không cần cho Tip).
Cho nên trong khi ở Međugorje 3 ngày 2 đêm, chúng tôi đã chọn các nhà hàng “sang” nhất mà ăn, ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều và ăn tối cho đã “đời”!
Rồi sau đó, chúng tôi đi cầu nguyện liên miên với Đức Mẹ Mễ Du theo đúng truyền thống VN là “có thực mới vực được đạo”.
Việc cầu nguyện ở nhà thờ thì bất kỳ giờ nào trong ngày cũng có 1 chương trình nào đó và lúc nào cũng chật cứng người tham gia (xin nhớ thuê máy thông dịch để nghe bằng tiếng Anh)
Nói cho vui vậy, nhưng nghiêm chỉnh hơn thì nếu quí bạn nào muốn đi Međugorje rẻ như chúng tôi thì phải theo phương pháp sau đây mà hai anh chị Lâm và Tố Hà đã khám phá ra và rủ chúng tôi cùng đi (anh Lâm đang là Candidate phó tế ở địa phận Dallas):
Chúng tôi bay từ Rome qua Split, Croatia (1 giờ bay giá vé là $200,) rồi thuê xe ở Split mà lái 2 giờ qua Međugorje, Bosnia (khỏang $200 cho 3 ngày, có lệ phí qua biên giới).
Tiền máy bay và xe là những chi phí lớn nhất, còn các chi phí khác thì rẻ như đồng BAM (tiền của Bosnia, 2 BAM là 1 Euro).
Nhờ có xe cho nên chúng tôi có thể thuê phòng xa trung tâm, giá rẻ hơn nhiều lắm, hôm chúng tôi đến thì có hotel ở trung tâm đòi tới $300/1 đêm, vậy mà chúng tôi chỉ phải trả có $70/2 đêm cho một phòng đủ tiện nghi cách xa trung tâm chỉ có 1 cây số mà thôi.
Rồi thì nhờ có xe cho nên chúng tôi tha hồ mà đi tìm nhà hàng, tha hồ đi ngắm cảnh sông núi thác biển…tha hồ mà tang bồng hồ thỉ..vv và vv.
Tổng cộng chuyến đi (từ Rome) vừa qua, mỗi người tốn khoảng $500 mà thôi.
Thế nhé, nếu có ai muốn copy cuộc “hành hương Đức Mẹ Mễ Du” của chúng tôi thì xin cứ Welcomed và nhớ ăn Biftek nhé.
Có nơi nào cảnh đẹp, nhà rẻ, bầu không khí thì phảng phất thần thánh linh thiêng, mà nhất là món thịt Biftek thì ngon như thịt Kobe của Nhật mà giá thì lại rẻ như bèo (đồng BAM) không?
Xin thưa tôi đã định bụng rằng, nếu chẳng vì lý do nào khác ngoài cái lý do “dung dưỡng thói tham ăn” (là một trong 7 mối tội đầu theo Đạo Công Giáo) thì hằng năm tôi nhất định sẽ "liều mình" đi Međugorje, Bosnia and Herzegovina, ít là một lần.
Ngưới Công Giáo chúng ta gọi Međugorje là Đức Mẹ Mễ Du vì có truyền thuyết Đức Mẹ đã hiện ra ở đây.
Nhưng Međugorje cũng đang được giới trẻ đua nhau đi du lịch vì có thác nước đẹp để tắm (thác Kravica), có núi đá để thử sức leo trèo (Apparition Hill).
Riêng tôi thì món thịt Biftek của người Bosnia sao mà ngon thế!
Chúng tôi 4 người gọi 1 đĩa Combo (cho 2 người mà chia nhau ăn) gồm có Biftek 8 oz mỗi người, thịt gà tẩm bơ 8 oz nữa, khoai tây chiên và rau xài không hết, rồi thêm vào là món khai vị vegetable cream soup có bánh nướng ăn cũng không hết được…tất cả được phục dịch trong một nhà hàng 5 sao, có hầu bàn mặc sơ mi trắng ủi hồ thẳng nếp…vậy mà sau khi tính tiền xong thì mỗi người chỉ phải trả khoảng 10 đô mà thôi, nghĩa là rẻ hơn một tô phở ở Dallas TX (Bosnia không cần cho Tip).
Cho nên trong khi ở Međugorje 3 ngày 2 đêm, chúng tôi đã chọn các nhà hàng “sang” nhất mà ăn, ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều và ăn tối cho đã “đời”!
Rồi sau đó, chúng tôi đi cầu nguyện liên miên với Đức Mẹ Mễ Du theo đúng truyền thống VN là “có thực mới vực được đạo”.
Việc cầu nguyện ở nhà thờ thì bất kỳ giờ nào trong ngày cũng có 1 chương trình nào đó và lúc nào cũng chật cứng người tham gia (xin nhớ thuê máy thông dịch để nghe bằng tiếng Anh)
Nói cho vui vậy, nhưng nghiêm chỉnh hơn thì nếu quí bạn nào muốn đi Međugorje rẻ như chúng tôi thì phải theo phương pháp sau đây mà hai anh chị Lâm và Tố Hà đã khám phá ra và rủ chúng tôi cùng đi (anh Lâm đang là Candidate phó tế ở địa phận Dallas):
Chúng tôi bay từ Rome qua Split, Croatia (1 giờ bay giá vé là $200,) rồi thuê xe ở Split mà lái 2 giờ qua Međugorje, Bosnia (khỏang $200 cho 3 ngày, có lệ phí qua biên giới).
Tiền máy bay và xe là những chi phí lớn nhất, còn các chi phí khác thì rẻ như đồng BAM (tiền của Bosnia, 2 BAM là 1 Euro).
Nhờ có xe cho nên chúng tôi có thể thuê phòng xa trung tâm, giá rẻ hơn nhiều lắm, hôm chúng tôi đến thì có hotel ở trung tâm đòi tới $300/1 đêm, vậy mà chúng tôi chỉ phải trả có $70/2 đêm cho một phòng đủ tiện nghi cách xa trung tâm chỉ có 1 cây số mà thôi.
Rồi thì nhờ có xe cho nên chúng tôi tha hồ mà đi tìm nhà hàng, tha hồ đi ngắm cảnh sông núi thác biển…tha hồ mà tang bồng hồ thỉ..vv và vv.
Tổng cộng chuyến đi (từ Rome) vừa qua, mỗi người tốn khoảng $500 mà thôi.
Thế nhé, nếu có ai muốn copy cuộc “hành hương Đức Mẹ Mễ Du” của chúng tôi thì xin cứ Welcomed và nhớ ăn Biftek nhé.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chia sẻ cách ứng phó với những thăng trầm của cuộc sống
Thanh Quảng sdb
19:37 15/10/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chia sẻ cách ứng phó với những thăng trầm của cuộc sống

Kathleen N. Hattrup - Ateleia
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV thừa nhận rằng đời lạc quan thường làm chúng ta thất vọng. Vậy thì chúng ta phải làm gì?
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã chuyển trọng tâm bài giáo lý thứ Tư tuần này, ngày 15 tháng 10, sang việc suy ngẫm về "ánh sáng cứu độ khi tiếp xúc với thực tại lịch sử và nhân loại hiện tại".
Hôm nay, ngài nhìn vào trải nghiệm của con người về khao khát hạnh phúc, nhưng lại nhận thấy rằng hành trình cuộc sống "thường gian nan, đau khổ và bí hiểm".
Đức Giáo Hoàng chia sẻ "Chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng rất khó để hạnh phúc một cách liên tục, không có bóng gian chuân".
Trong đời huyền nhiệm và khao khát này, chúng ta tìm thấy sự Phục Sinh của Chúa.
ĐTC xác quyết: "Chúa Giêsu, với sự Phục Sinh của Người, đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết".
Dưới đây là bài giáo lý của ngài:
Anh chị em thân mến,
Trong loạt bài giáo lý Năm Thánh, cho đến nay, chúng ta đã lần theo dõi cuộc đời của Chúa Giêsu, theo các sách Phúc Âm, từ khi Người giáng sinh đến khi chịu chết và phục sinh. Nhờ đó, cuộc hành hương hy vọng của chúng ta đã tìm thấy nền tảng vững chắc, con đường chắc chắn của nó. Giờ đây, trong phần cuối của hành trình, chúng ta sẽ để mầu nhiệm Chúa Kitô, đạt đến đỉnh cao trong sự Phục sinh, tỏa sáng ánh sáng cứu độ khi tiếp xúc với thực tại nhân loại và lịch sử hiện tại, với những câu hỏi và thách thức của nó.
Cuộc sống của chúng ta được đánh dấu bởi vô số biến cố, đầy những sắc thái và trải nghiệm khác nhau. Đôi khi chúng ta cảm thấy vui tươi, đôi khi buồn bã, đôi khi viên mãn hoặc căng thẳng, hài lòng hoặc chán nản. Chúng ta sống một cuộc sống bận rộn, chúng ta tập trung vào việc đạt được kết quả, và thậm chí chúng ta đạt được những mục tiêu cao cả, danh giá. Ngược lại, chúng ta vẫn lơ lửng, bấp bênh, chờ đợi thành công và sự công nhận mà lại bị trì hoãn hoặc thậm chí không bao giờ đến đích điểm. Tóm lại, chúng ta thấy mình đang trải qua một tình huống nghịch lý: chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng lại rất khó để hạnh phúc một cách liên tục, mà không có bóng tối. Chúng ta chấp nhận những hạn chế của mình, đồng thời, với một thôi thúc không thể cưỡng lại là cố gắng vượt qua chúng. Chúng ta cảm thấy sâu thẳm bên trong rằng mình luôn thiếu thốn điều gì đó.
Thực ra, chúng ta được tạo dựng không phải để thiếu thốn, mà là để được viên mãn, để vui hưởng cuộc sống, một cuộc sống dư dật, theo lời Chúa Giêsu diễn tả trong Phúc Âm Gioan (x. 10:10).
Niềm khao khát sâu thẳm trong lòng chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời cuối cùng không phải ở địa vị, quyền lực, sở hữu, mà là ở niềm tin chắc chắn rằng có một Đấng bảo đảm cho động lực cấu thành nên nhân tính của chúng ta; ở nhận thức rằng kỳ vọng này sẽ không bị thất vọng hay cản trở. Niềm tin chắc chắn này trùng khớp với hy vọng. Điều này không có nghĩa là suy nghĩ theo hướng lạc quan: sự lạc quan thường gặp những nản vọng, khiến kỳ vọng của chúng ta sụp đổ, trong khi hy vọng hứa hẹn và đáp ứng.
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu Phục Sinh là bảo đảm cho sự giải thoát này! Ngài là nguồn mạch thỏa mãn cơn khát vọng của chúng ta, cơn khát vô tận về sự viên mãn mà Chúa Thánh Thần gieo vào lòng chúng ta. Thật vậy, sự Phục sinh của Chúa Kitô không chỉ là một biến cố đơn thuần của lịch sử nhân loại, mà là biến cố đã biến đổi lịch sử từ bên trong.
Chúng ta hãy nghĩ về một nguồn nước. Đặc điểm của nó là gì? Nó giải khát và làm tươi mát các tạo vật, tưới mát đất đai, làm cho những gì nếu không có nước trở nên màu mỡ và tươi sống. Nó mang lại sự tươi mát cho lữ khách mệt mỏi, mang đến cho họ niềm vui của một ốc đảo tươi mát. Một nguồn nước xuất hiện như một món quà được ban tặng nhưng không cho thiên nhiên, cho các tạo vật, cho con người. Không có nước thì không thể sống được.
Đấng Phục sinh là nguồn mạch sống động, không bao giờ cạn kiệt và không bao giờ thay đổi. Nó luôn tinh khiết và sẵn sàng cho bất cứ ai khát khao. Và chúng ta càng nếm trải mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta càng bị thu hút vào nó, mà không bao giờ cảm thấy hoàn toàn no thỏa. Thánh Augustinô, trong Sách Tự Thuật thứ mười, đã nắm bắt chính xác nỗi khao khát vô tận này của trái tim chúng ta và diễn tả nó trong Bài Ca Vẻ Đẹp nổi tiếng của ngài: “Ngài đã làm tỏa hương thơm, và con hít hà vào hơi thở và con khao khát Ngài. Con đã nếm, và con đã đói khát. Ngài đã chạm đến con, và con đã bừng cháy lên vì sự bình an của Ngài” (X, 27, 38).
Với sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Ngài là Đấng Hằng Sống (x. Kh 1:18), là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết. Vì vậy, Ngài có thể ban cho chúng ta sự tươi mát trong cuộc hành trình trần thế và đảm bảo cho chúng ta một sự bình an trọn vẹn trong cõi vĩnh hằng. Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại, mới có thể đáp trả những vấn nạn sâu xa nhất trong lòng chúng ta: Liệu đó có phải là đích đến thực sự cho chúng ta không? Cuộc đời chúng ta có ý nghĩa gì không? Và nỗi đau khổ của biết bao người vô tội, làm sao có thể cứu chuộc được?
Chúa Giêsu Phục Sinh không ban cho chúng ta một câu trả lời “từ trên cao”, nhưng trở thành người bạn đồng hành với chúng ta trên hành trình thường gian nan, đau đớn và bí ẩn này. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy chiếc bình rỗng của chúng ta khi cơn khát của chúng ta trở nên không thể chịu đựng được.
Và Ngài cũng là cùng đích của cuộc hành trình của chúng ta. Nếu không có tình yêu của Ngài, cuộc hành trình cuộc đời sẽ nên vô vọng không mục tiêu, một sai lầm bi thảm với một đích lầm lỡ. Chúng ta là những tạo vật mỏng manh. Sai lầm là một phần của nhân tính; chính vết thương tội lỗi khiến chúng ta xa ngã, bỏ cuộc, tuyệt vọng. Thay vào đó, trỗi dậy có nghĩa là đứng dậy và đứng vững trên đôi chân của mình. Đấng Phục Sinh bảo đảm cho chúng ta sự trở về, dẫn chúng ta về nhà Cha, nơi chúng ta được chờ đợi, yêu thương và cứu rỗi. Hành trình cùng Ngài có nghĩa là trải nghiệm được nâng đỡ bất chấp tất cả, được giải tỏa cơn khát và được tươi mới giữa những khó khăn tranh đấu, giống như những tảng đá nặng, đe dọa cản trở hoặc làm chệch hướng lịch sử của chúng ta.
Chúng con thân mến, từ sự Phục Sinh của Chúa Kitô nảy sinh niềm hy vọng, cho chúng ta nếm cảm, bất chấp sự mệt mỏi của cuộc sống, một sự bình an sâu sắc và hân hoan: sự bình an vô tận mà Ngài chỉ ban cho chúng ta vào giờ phút cuối cùng…

Kathleen N. Hattrup - Ateleia
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV thừa nhận rằng đời lạc quan thường làm chúng ta thất vọng. Vậy thì chúng ta phải làm gì?
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã chuyển trọng tâm bài giáo lý thứ Tư tuần này, ngày 15 tháng 10, sang việc suy ngẫm về "ánh sáng cứu độ khi tiếp xúc với thực tại lịch sử và nhân loại hiện tại".
Hôm nay, ngài nhìn vào trải nghiệm của con người về khao khát hạnh phúc, nhưng lại nhận thấy rằng hành trình cuộc sống "thường gian nan, đau khổ và bí hiểm".
Đức Giáo Hoàng chia sẻ "Chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng rất khó để hạnh phúc một cách liên tục, không có bóng gian chuân".
Trong đời huyền nhiệm và khao khát này, chúng ta tìm thấy sự Phục Sinh của Chúa.
ĐTC xác quyết: "Chúa Giêsu, với sự Phục Sinh của Người, đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết".
Dưới đây là bài giáo lý của ngài:
Anh chị em thân mến,
Trong loạt bài giáo lý Năm Thánh, cho đến nay, chúng ta đã lần theo dõi cuộc đời của Chúa Giêsu, theo các sách Phúc Âm, từ khi Người giáng sinh đến khi chịu chết và phục sinh. Nhờ đó, cuộc hành hương hy vọng của chúng ta đã tìm thấy nền tảng vững chắc, con đường chắc chắn của nó. Giờ đây, trong phần cuối của hành trình, chúng ta sẽ để mầu nhiệm Chúa Kitô, đạt đến đỉnh cao trong sự Phục sinh, tỏa sáng ánh sáng cứu độ khi tiếp xúc với thực tại nhân loại và lịch sử hiện tại, với những câu hỏi và thách thức của nó.
Cuộc sống của chúng ta được đánh dấu bởi vô số biến cố, đầy những sắc thái và trải nghiệm khác nhau. Đôi khi chúng ta cảm thấy vui tươi, đôi khi buồn bã, đôi khi viên mãn hoặc căng thẳng, hài lòng hoặc chán nản. Chúng ta sống một cuộc sống bận rộn, chúng ta tập trung vào việc đạt được kết quả, và thậm chí chúng ta đạt được những mục tiêu cao cả, danh giá. Ngược lại, chúng ta vẫn lơ lửng, bấp bênh, chờ đợi thành công và sự công nhận mà lại bị trì hoãn hoặc thậm chí không bao giờ đến đích điểm. Tóm lại, chúng ta thấy mình đang trải qua một tình huống nghịch lý: chúng ta muốn được hạnh phúc, nhưng lại rất khó để hạnh phúc một cách liên tục, mà không có bóng tối. Chúng ta chấp nhận những hạn chế của mình, đồng thời, với một thôi thúc không thể cưỡng lại là cố gắng vượt qua chúng. Chúng ta cảm thấy sâu thẳm bên trong rằng mình luôn thiếu thốn điều gì đó.
Thực ra, chúng ta được tạo dựng không phải để thiếu thốn, mà là để được viên mãn, để vui hưởng cuộc sống, một cuộc sống dư dật, theo lời Chúa Giêsu diễn tả trong Phúc Âm Gioan (x. 10:10).
Niềm khao khát sâu thẳm trong lòng chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời cuối cùng không phải ở địa vị, quyền lực, sở hữu, mà là ở niềm tin chắc chắn rằng có một Đấng bảo đảm cho động lực cấu thành nên nhân tính của chúng ta; ở nhận thức rằng kỳ vọng này sẽ không bị thất vọng hay cản trở. Niềm tin chắc chắn này trùng khớp với hy vọng. Điều này không có nghĩa là suy nghĩ theo hướng lạc quan: sự lạc quan thường gặp những nản vọng, khiến kỳ vọng của chúng ta sụp đổ, trong khi hy vọng hứa hẹn và đáp ứng.
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu Phục Sinh là bảo đảm cho sự giải thoát này! Ngài là nguồn mạch thỏa mãn cơn khát vọng của chúng ta, cơn khát vô tận về sự viên mãn mà Chúa Thánh Thần gieo vào lòng chúng ta. Thật vậy, sự Phục sinh của Chúa Kitô không chỉ là một biến cố đơn thuần của lịch sử nhân loại, mà là biến cố đã biến đổi lịch sử từ bên trong.
Chúng ta hãy nghĩ về một nguồn nước. Đặc điểm của nó là gì? Nó giải khát và làm tươi mát các tạo vật, tưới mát đất đai, làm cho những gì nếu không có nước trở nên màu mỡ và tươi sống. Nó mang lại sự tươi mát cho lữ khách mệt mỏi, mang đến cho họ niềm vui của một ốc đảo tươi mát. Một nguồn nước xuất hiện như một món quà được ban tặng nhưng không cho thiên nhiên, cho các tạo vật, cho con người. Không có nước thì không thể sống được.
Đấng Phục sinh là nguồn mạch sống động, không bao giờ cạn kiệt và không bao giờ thay đổi. Nó luôn tinh khiết và sẵn sàng cho bất cứ ai khát khao. Và chúng ta càng nếm trải mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta càng bị thu hút vào nó, mà không bao giờ cảm thấy hoàn toàn no thỏa. Thánh Augustinô, trong Sách Tự Thuật thứ mười, đã nắm bắt chính xác nỗi khao khát vô tận này của trái tim chúng ta và diễn tả nó trong Bài Ca Vẻ Đẹp nổi tiếng của ngài: “Ngài đã làm tỏa hương thơm, và con hít hà vào hơi thở và con khao khát Ngài. Con đã nếm, và con đã đói khát. Ngài đã chạm đến con, và con đã bừng cháy lên vì sự bình an của Ngài” (X, 27, 38).
Với sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã bảo đảm cho chúng ta một nguồn sống vĩnh cửu: Ngài là Đấng Hằng Sống (x. Kh 1:18), là Đấng yêu thương sự sống, là Đấng chiến thắng mọi sự chết. Vì vậy, Ngài có thể ban cho chúng ta sự tươi mát trong cuộc hành trình trần thế và đảm bảo cho chúng ta một sự bình an trọn vẹn trong cõi vĩnh hằng. Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại, mới có thể đáp trả những vấn nạn sâu xa nhất trong lòng chúng ta: Liệu đó có phải là đích đến thực sự cho chúng ta không? Cuộc đời chúng ta có ý nghĩa gì không? Và nỗi đau khổ của biết bao người vô tội, làm sao có thể cứu chuộc được?
Chúa Giêsu Phục Sinh không ban cho chúng ta một câu trả lời “từ trên cao”, nhưng trở thành người bạn đồng hành với chúng ta trên hành trình thường gian nan, đau đớn và bí ẩn này. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy chiếc bình rỗng của chúng ta khi cơn khát của chúng ta trở nên không thể chịu đựng được.
Và Ngài cũng là cùng đích của cuộc hành trình của chúng ta. Nếu không có tình yêu của Ngài, cuộc hành trình cuộc đời sẽ nên vô vọng không mục tiêu, một sai lầm bi thảm với một đích lầm lỡ. Chúng ta là những tạo vật mỏng manh. Sai lầm là một phần của nhân tính; chính vết thương tội lỗi khiến chúng ta xa ngã, bỏ cuộc, tuyệt vọng. Thay vào đó, trỗi dậy có nghĩa là đứng dậy và đứng vững trên đôi chân của mình. Đấng Phục Sinh bảo đảm cho chúng ta sự trở về, dẫn chúng ta về nhà Cha, nơi chúng ta được chờ đợi, yêu thương và cứu rỗi. Hành trình cùng Ngài có nghĩa là trải nghiệm được nâng đỡ bất chấp tất cả, được giải tỏa cơn khát và được tươi mới giữa những khó khăn tranh đấu, giống như những tảng đá nặng, đe dọa cản trở hoặc làm chệch hướng lịch sử của chúng ta.
Chúng con thân mến, từ sự Phục Sinh của Chúa Kitô nảy sinh niềm hy vọng, cho chúng ta nếm cảm, bất chấp sự mệt mỏi của cuộc sống, một sự bình an sâu sắc và hân hoan: sự bình an vô tận mà Ngài chỉ ban cho chúng ta vào giờ phút cuối cùng…
Văn Hóa
CÁC ĐÓNG GÓP Công Giáo TRONG CÁC THẾ KỶ 20 VÀ 21 CHO KHOA CHÚ GIẢI KINH THÁNH, PHẦN MỘT, M1T2C2
Vũ Văn An
19:53 15/10/2025
Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết Hai: Dẫn nhập vào các sách lịch sử
(7) Chương Hai: Sách Gio-suê
Michael David Coogan
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.110-112
Tài liệu Tham khảo
Bình luận:
Boling, R. G. và G. E. Wright, Joshua (AB 6; GC, 1982).
Cooke, G. A., The Book of Joshua [Sách Gio-suê] (CBSC; Cambridge, 1918).
Gray,J., Joshua, Judges and Ruth [Gio-suê, Thẩm phán và Rút] (CentB; London, 1967).
Miller, J. M. và G. M. Tucker, The Book of Joshua [Sách Gio-suê] (CBC; Cambridge, 1974).
Noth, M., Das BuchJosua (HAT; ấn bản lần thứ 2; Tubingen, 1953).
Soggin, J. A., Joshua (OTL; Phi, 1972).
Nghiên cứu:
Auld, A. G., Joshua, Moses and the Land [Gio-suê, Mô-sê và lãnh thổ] (Edinburgh, 1980).
Polzin, R., Moses and the Deuteronomist [Mô-sê và Nhà Đệ nhị luật] (NY, 1980).
Weipert, M., The Settlement of the Israelite Tribes in Palestine [Việc định cư các Chi tộc Israel ở Palestine] (SBT 21; London, 1980).
Để biết thêm tài liệu tham khảo, hãy xem J. M. Miller, “Joshua, Book of, [Gio-suê, Sách]” IDBSup 496; CIOTS 239-41.
Dẫn nhập
(I). Bản văn
Tình trạng văn bản của sách khá phức tạp; như trong hai sách Samuen 1-2, có hai truyền thống chính, đại biểu bởi Bản Masoretic (MT) và Bản Bẩy Mươi (LXX). Sự ăn ý giữa LXX và Giô-suê của Qumran 4 (4QJos) cho thấy LXX dựa vào một bản văn Híp-ri khác với bản văn được MT đại biểu; tại nhiều chỗ, bản văn này ngắn hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, việc phát triển văn bản vẫn tiếp diễn sau việc dịch bản văn Híp-ri nguyên thủy này sang tiếng Hy Lạp; nhiều thay đổi cố ý, tức bình luận, nới rộng và sửa đổi, tiếp tục được đưa vào cả hai truyền thống Hípri và Hy Lạp, và nhiều lỗi sao chép vô tình cũng đã xẩy ra. Do đó, mỗi trường hợp cần được lượng giá riêng rẽ, bằng cách quan tâm tới các bản Phổ Thông (Vg) và Syriac (Syr) cũng như nhiều dịch bản xưa nữa.
(II). Lịch sử văn chương
Các nhà phê bình thuở đầu thấy trong Giô-suê một sự liên tục của nhiều truyền thống ngũ kinh, và họ gọi toàn tập từ Sáng Thế tới Giô-suê là Lục Kinh (Hexateuch). Từ thời có công trình đầy khai phá của M. Noth, người ta thấy rõ điều này: nói tới tứ kinh (tetrateuch) gồm bốn sách từ Sáng Thế tới Dân Số sẽ thích đáng hơn. Đệ Nhị Luật được dùng như một thứ lời nói đầu có tính thần học cho các sách có tính đệ nhị luật (Dtr) tức phần lịch sử theo truyền thống đệ nhị luật, sách Giô-suê và 2Vua. Truyền thống đệ nhị luật (Dtr) có lịch sử riêng của nó, được các nghiên cứu gần đây cho là phức tạp. Phần lớn các học giả nhất trí rằng trong hình thức hiện nay, công trình này phần lớn là sản phẩm của thế kỷ thứ 7 (triều đại Giô-si-gia) rồi được duyệt lại trong thời lưu đày dưới ánh sáng các biến cố của các năm 587/586. Công trình thời Giô-si-gia có thể đã rút tỉa từ những tài liệu có trước, có lẽ từ thời Khít-ki-gia. Trong ngữ cảnh rộng rãi này, Giô-suê có nhiều chủ đề rất khác biệt.
(III). Các chủ đề của Giô-suê
Một trong các chủ đề này được nói lên tại 1:5: “Ta sẽ ở với ngươi như ta đã ở với Mô-sê”. Chủ đề này được lặp lại tại 3:7 và 4:14. Nó được khai triển qua việc Giô-suê lặp lại nhiều hành động của Mô-sê; theo thứ tự các biến cố trong Giô-suê, ta nên ghi nhận các song đối sau đây
(a) Từ sa mạc, Mô-sê sai người đi thám thính Ca-na-an (Ds 13; Đnl 1:19-46); từ bên kia sông Gio-đan, Giô-suê sai người đi thám thính vùng đất gần Giê-ri-khô (Gs 2).
(b) Dưới sự lãnh đạo của Mô-sê, dân Do Thái băng qua Biển Sậy như băng qua đất khô (Xh 14); dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, dân Do Thái vượt qua sông Gio-đan như đi qua đất khô (Gs 3).
(c) Trước khi xuất hành ra khỏi Ai Cập, Mô-sê và dân Do Thái cử hành Lễ Vượt Qua (Xh 12), sau khi vào Ca-na-an, Giô-suê và dân Do Thái cử hành Lễ Vượt Qua (Gs 5:10-12).
(d) Trong hoang địa nơi Mô-sê có nhiệm vụ lãnh đạo người Do Thái, ông được thị kiến bụi gai bốc lửa và được chỉ thị “hãy cởi giầy ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3:5); tại lãnh thổ nơi Giô-suê dẫn dân Do Thái vào, ông được thị kiến thấy một tư lệnh của đạo quân Giavê ra lệnh cho ông “cởi giầy ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh” (Gs 5:15).
(e) Sau khi vào Đất Hứa, Giô-suê sai người đi do thám vùng bên kia sông Gio-đan giống như Mô-sê sai người đi do thám Gia-de (Ds 21:32).
(f) Tay cầm “cây gậy của Thiên Chúa”, Mô-sê giơ tay lên thì quân Do Thái thắng quân A-ma-lếch (Xh 17:8-13); tay cầm ngọn lao”, Giô-suê giơ tay lên, thì quân Do Thái thắng dân Ai (8:18-26).
(g) Trước khi qua đời, cả Mô-sê (Đnl) lẫn Giô-suê (Gs 23-24) đều có diễn văn từ biệt gửi dân Do Thái.
(h) Các song đối khác bao gồm việc dạy dân tự thánh hóa để chuẩn bị cho Thiên Chúa tỏ mình ra (Xh 19:10; Gs 3:5); chuyển cầu cho người Do Thái xúc phạm đến Thiên Chúa (Xh 32:11-14; Ds 11:2; 14:13-19; Đnl 9:25-29; Gs 7:6-9); và các vai trò của Mô-sê và của Giô-suê trong tư cách người trung gian giao ước (Xh 24; Gs 24).
Ngoài các song đối trên, còn nhiều đoạn trong đó nói tới việc Giô-suê minh nhiên chu toàn các lệnh truyền của Mô-sê. Những đoạn này bao gồm chỉ thị của Giô-suê cho các chi tộc Rưu-vên, Gát và Đông Mơ-na-xe phải tham gia với các chi tộc khác trong việc chiếm đất Ca-na-an (Gs 1:12-18; xem Ds 32; Đnl 3:12-20); việc dựng bàn thờ trên núi Ê-van (Gs 8:30-35; xem Đnl 27:1-26); việc tận diệt dân trên đất vừa chiếm (Gs 11:15; xem Đnl 20:16) và tận diệt người A-nác (Gs 11:21; xem Đnl 9:2); sự chia đất bằng cách bốc thăm (Gs 14:2; xem Ds 34:13); và việc thiết lập các thành ẩn náu (Gs 20; xem Ds 35:9-15; Đnl 19:1-10) và các thành cho các thầy Lê-vi (Gs 21:1-42; xem Ds 35:1-8).
Một hậu quả của những song đối và chu toàn trên là: Giô-suê được trình bày chỉ hơn một bản sao chép Mô-sê một chút và do đó khó mà tới được phía sau các truyền thống văn chương để tìm cho ra một Giô-suê lịch sử. Không như Mô-sê, Giô-suê là một nhà lãnh đạo không có khuyết điểm cũng như do dự; thực cậy, ông được mô tả như một nhà lãnh đạo lý tưởng của Israel, một nhà lãnh đạo biết tuân giữ các giáo huấn của Mô-sê trong toàn diện tính của nó (Gs 1:7-8; 11:15) và trong tư cách ấy, theo truyền thống đệ nhị luật, ông là nguyên mẫu cho vị vua lý tưởng của Israel, đặc biệt là Đa-vít, Khít-ki-gia và nhất là Giô-si-gia (xem R.D. Nelson, “Josiah in the book of Joshua”Journal of Biblical Litterature 100 [1981]531-540). Giống vị vua lý tưởng trong Đnl 17:18, Giô-suê sao chép một bản các lời giáo huấn của Mô-sê (Gs 8:12; đây là lần thứ hai có thuật ngữ “sao chép giáo huấn”, mà tiếng Hípri là tôrâ. Giô-suê cũng được coi là mẫu người tương phản với Sa-un, ông vua thứ nhất nhưng thất bại: trái với Sa-un (1Sm 13-15), Giô-suê cho thi hành các qui luật của thánh chiến (Gs 7) và giữ lời đoan thệ với người Ghíp-ôn (Gs 9; xem 2Sm 21:1-14).
Sự hiện hữu của các song đối trên, nhất là các song đối có trích dẫn các đoạn khác, cũng cho thấy sách Giô-suê là một sáng tạo văn chương lấy nguồn từ những truyền thống Israel trước đó về Mô-sê, giống như Cựu Ước vốn là nguồn cho các tin mừng mô tả về cuộc đời và nhất là cái chết của Chúa Giêsu. Căn cứ vào việc khai triển công phu này, ta có thể nói rằng Giô-suê là người thuộc chi tộc Ép-ra-im (xem Gs 19:50; 24:30), có lẽ nguyên thủy là một anh hùng địa phương, rồi sau đó đã trở nên tiêu điểm cho việc tái dựng Israel đầy lý tưởng hóa trong truyền thống đệ nhị luật.
Trong việc soạn tác trình thuật, một trong các nguồn mà các sử gia theo truyền thống đệ nhị luật dựa vào, chính là truyền thống P có trước đó, một truyền thống khác với nguồn P trong Ngũ Kinh sau này. Trong suốt sách Giô-suê, ta thấy lối dùng từ cũng như lối nhấn mạnh mang đặc tính P rất rõ nét, và những điều này đi vào sách theo các giai đoạn khác nhau trong lịch sử sách.
Chủ đề cuối cùng cần xem sét là việc dùng tầm nguyên luận (etiology), tức nhờ các truyện tích liên quan tới Giô-suê để giải thích các yếu tố khác nhau, nhất là các nét địa dư, vốn quen thuộc với các thính giả của Giô-suê. Các trình thuật có tính tầm nguyên này thường được đánh dấu bằng kiểu nói “cho đến ngày nay” (xem Gs 4:9; 5:9; 6:25; 7:26; 8:28, 29; 9:27; 10:27; 13:13; 14:14; 15:63; 16:10). Việc sử dụng thuật ngữ này ngầm cho hiểu khoảng cách về thời gian, theo cái nhìn trở lui. Hiểu như thế, thì việc sử dụng thuật ngữ này đã củng cố sự phân tích của chúng tôi trước đây coi Giô-suê như một trình thuật được khai triển khá lâu sau các biến cố được mô tả trong sách. Tương tự như các trình thuật có tính tầm nguyên luận, ta cũng thấy các giải thích có tính từ nguyên học (etymological) cũng được khai triển trong các tình tiết của truyện như 5:3; 22:34.
(IV) Giô-suê trong các truyền thống khác
Trong Ngũ Kinh, Giô-suê chỉ là một nhân vật thứ yếu. Trong dòng văn J, ông xuất hiện đầu tiên tại Xh 17:8 như một phụ tá quân sự của Mô-sê đang chỉ huy trận đánh với người A-ma-lếch, mà không có giới thiệu, như thể ai cũng đã biết ông rồi. Sau đó, ông tháp tùng Mô-sê lúc Mô-sê chuẩn bị lên núi (Xh 24:13; 32:17), chia sẻ với Mô-sê sự gần gũi với Thiên Chúa (Xh 33:11), và hành xử như một cố vấn khá nhanh nhẩu kiểu thanh niên cho Mô-sê (Ds 11:28). Trong cả hai dòng văn J và P, Giô-suê đều có mặt trong tình tiết phái người đi do thám (Ds 13-14) nhưng rõ ràng ông là bề dưới của Ca-lếp (xem Ds 14:24, 30). Trong dòng văn P, ông lại càng là nhân vật phụ hơn nữa; tên của ông hai lần bị gọi là Hô-sê-a (Ds 13:8; Đnl 32:44) và tư tế E-la-da được kể trước Giô-suê trong hàng chỉ huy liên quan tới các chi tộc ở bên kia sông Gio-đan (Ds 32:28) cũng như việc phân phối đất đai (Ds 34:17; xem thêm Gs 14:1; 17:4; 19:51; 21:1). Ngay trong Đệ Nhị Luật, vai trò của ông cũng nhỏ; ông chỉ được nhắc đến ở những phần sau cùng của sách, dự ứng trước việc ông được Mô-sê trao việc kế nhiệm (Đnl 3:28; 31:14, 23) và thỉnh thoảng xem ra như được chêm vào những đoạn văn đã có sẵn sau khi truyền thống đệ nhị luật đã hoàn tất để hoà hợp Đệ Nhị Luật với Giô-suê (Đnl 1:38).
Trái với tên tuổi các nhân vật chính khác của Kinh thánh, tên của Giô-suê, lấy từ gốc có nghĩa “cứu vớt” cũng không phải chỉ dành riêng cho con trai ông Nun, nhưng cũng được dùng cho hai cá nhân khác trong Kinh thánh, đó là chủ nhân của cánh đồng nơi hòm bia dừng lại sau khi được quân Phi-li-tinh trao trả (1Sm 6:14, Nhóm CGKPV dịch là Giơ-hô-su-a) và thống đốc Giêrusalem thời Giô-si-gia (2V 23:8). Điều này cho thấy trong truyền thống Do Thái, nhân vật Giô-suê không phải là nhân vật chính cho tới khi được truyền thống đệ nhị luật khai triển. Kết luận này xem ra được củng cố căn cứ vào sự kiện thiếu nhắc đến tên Giô-suê trong các lời giảng cũng như thánh ca trong lịch sử buổi đầu của Israel: Giô-suê không được nhắc đến trong 1Sm 12; Nkm 9:6-31; các thánh vịnh 78, 105, 106, 136. Điều này cũng đúng đối với nhiều biến cố xẩy ra trong Giô-suê: Giê-ri-khô thất thủ, chiếm Ai, chia đất, và giao ước tại Si-khem tất cả chỉ được nhắc tới trong Giô-suê chứ không được nhắc tới ở nơi khác trong Kinh thánh. Ngay trong truyền thống đệ nhị luật, Giô-suê cũng chỉ được nhắc đến trong Tl 1:1; 2:6-9 và 1V 16:34. Thời hậu lưu đày, Giô-suê cũng ít được chú ý, chỉ được nhắc đến tên mà không được bình luận thêm gì trong gia phả chi tộc Ép-ra-im (1Sb 7:27) và được nhắc vắn vỏi trong Nkm 8:17. Chỉ vào cuối thời Kinh thánh, Giô-suê và các biến cố của sách Giô-suê mới được nhắc tới cách thường xuyên (xem 2 Er 7:107; 1Mcb 2:55; Hc 46:1-8; Cv 7:45; Dt 4:8). Trong những đoạn này, ta thấy có sự khai triển liên tục của truyền thống về Giô-suê: ông là phán quan (1Mcb 2:55) và là một tiên tri (Hc 46:1).
Trong truyền thống Do Thái về sau, Giô-suê là sợi giây nối kết chủ yếu trong dây chuyền chuyển giao Tôra từ Mô-sê. Trong truyền thống Kitô Giáo, Giô-suê trở thành nguyên mẫu của người chiến binh Kitô Giáo, và ở nhiều giai đoạn lịch sử, người ta đặc biệt nhắc tới Giô-suê để biện minh cho các hành động quân sự cực đoan, như trong các Thập Tự Chinh chẳng hạn. Đặc biệt trong ý thức hệ hành hương, Giô-suê được coi như một mẫu mực và là đảm bảo từ Chúa: ví như một lớp người thoát áp bức vượt qua sông nước tới bến bờ quan phòng. Xác tín này tiếp tục gợi hứng cho lịch sử Hoa Kỳ thể hiện qua chủ trương về một “định mệnh hiển nhiên” và nhiều địa danh khắp vùng New England và cả nước.
(V). Giô-suê và chứng cớ khảo cổ
Việc miêu tả một cuộc chinh phục toàn diện của Israel chỉ là một cái nhìn trở lui thời kỳ đầu tiền quân chủ của sự kiện quân chủ chính trị thực sự. Chứng cớ nội tại của Kinh thánh thường mâu thuẫn với bức tranh vẽ cảnh tận diệt toàn bộ dân chúng tại lãnh thổ chiếm đóng (đặc biệt nên xem Tl 1-2 cũng như một số chi tiết trong chính sách Giô-suê). Các chứng cớ khảo cổ học đã củng cố việc phân tích sách về phương diện văn chương: rất ít các tình tiết chính tỏ ra có tính lịch sử. Do đó, cả Giê-ri-khô, Ai lẫn Ghíp-on đều không bị chiếm vào thời các học giả định niên biểu cho hiện tượng người Do Thái xuất hiện tại Ca-na-an (khoảng năm 1200). Dù một số thành được nói là do Giô-suê hủy diệt có chứng cớ bị hủy diệt vào thời đó, nhưng niên biểu rất khác nhau; Kha-do chẳng hạn bị hủy diệt một thế kỷ trước La-khít. Bởi thế phần lớn chứng cớ khảo cổ học đi ngược lại trình thuật của sách. Điều này cũng đúng đối với cả các chi tiết nhỏ: không có các phong tục đặc thù, các yếu tố địa dư chính trị, hay nghệ phẩm nào nhắc tới trong Giô-suê có thể định niên biểu là chỉ thuộc duy nhất vào cuối thiên niên kỷ thứ hai, trái lại phần đông thuộc thiên niên kỷ thứ nhất. Mặt khác, Giô-suê có cho thấy thời gian soạn thảo ra nó. Như danh sách các thành thuộc chi tộc Lê-vi ở chương 21 không thể thu thập trước thế kỷ thứ 8 vì đó là lúc chúng hiện hữu.
(VI). Ý định
Có thể coi sách là một hư cấu vừa có tính lịch sử vừa có tính thần học, mà nguồn đệ nhất đẳng chính là nền văn chương có trước đó của Israel. Các tư liệu khác, đặc biệt là các danh sách phân ranh ở các chương 13-21, đã được gộp vào sách này để trình bày một bức tranh về Israel lý tưởng dưới quyền lãnh lý tưởng. Một số tình tiết được trình bày như những truyện tích nhằm khuyên răn (cautionary tales), bằng cách mô tả các hậu quả của việc không tuân hành các giới răn của Mô-sê, và nhận định về các hoàn cảnh của thời tác giả. Nhưng bên dưới tác phẩm văn chương này là một xác tín sâu sắc: Giavê đã ban lãnh thổ cho Israel, và để duy trì được việc chiếm lãnh thổ ấy, Israel phải tuân giữ luật lệ của Người.
(8) Chương ba: Sách Thủ Lãnh
M. O’Connor,
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr. 132-135
Tài liệu Tham khảo
Boling, R. G. Judges (AB 6A; GC, 1975).
Burney,C. F,, The Book of Judges (ấn bản lần thứ 2; London, 1918).
Gaster, T. H., Myth, Legend, and Custom in the Old Testament [Huyền thoại, Dã sử và Phong tục trong Cựu Ước] (NY, 1969).
Gottwald, N. K., The Tribes of Yahweh [Các chi tộc của Gia-vê] (Maryknoll, 1979).
Gray, J., Joshua, Judges, Ruth [Giô-suê, Thủ lãnh, Rút] (NCB; 1986).
Martin, J. D., Judges (CBC; Cambridge, 1975).
Mayes, A. D. H., Judges (Sheffield, 1985).
Mendenhall, G. E., The Tenth Generation [Thế hệ Thứ Mười] (Baltimore, 1973).
Moore, G. F. Judges (ICC; Edinburgh, 1895).
O’Connor, M., “The Women in the Book of Judges [Những người phụ nữ trong Sách Thủ lãnh,” HAR 10 (1987) 277-93.
Polzin, R., Moses and the Deuteronomist [Mô-sê và Nhà Đệ nhị luật] (NY, 1980).
Revell, E. J., “The Battle with Benjamin (Judges xx 29-48) and Hebrew Narrative Techniques [Trận chiến với Benjamin (Thủ lãnh xx 29-48) và Kỹ thuật tường thuật tiếng Do Thái],” VT 35 (1985) 417-33.
Richter, W., Die Bearbeitungen des "Retterbuches” in der deuteronomischen Epoche (BBB 21; Bonn, 1964).
Soggin, J. k. Judges (OTL; Phi, 1981).
Trible, P., Texts of Terror [Bản văn của Khủng bố] (Phi, 1984).
De Vaux, R., EHI683-94.
Dẫn Nhập
(I) Về sách
Thủ Lãnh là một trong một vài cuốn sách liên quan tới giai đoạn giữa cái chết của Giô-suê và việc xuất hiện của Sa-un. Với việc qua đời của Giô-suê, thời đại Mô-sê bắt đầu xuống dốc; với việc xuất hiện của Sa-un, thời đại Đa-vít và các vua bắt đầu thành hình. Theo cai nhìn khá quen thuộc của lịch sử Kinh thánh, sự đổi thời này là một giai đoạn khá nguy hiểm và bất ổn, và kinh nghiệm của Israel trong giai đọan này khá bấp bênh, như còn chân trong chân ngoài, ở ngưỡng cửa (liminal). Trong đời người, mô hình của giai đoạn ngưỡng cửa chính là tuổi dậy thì, và các nghi thức dành cho tuổi dậy thì này nhằm chuẩn bị để các thiếu niên sẵn sàng giáp mặt với cuộc đời trong tư cách người trưởng thành sau này, giúp chúng vượt qua ngưỡng cửa vào đời. Các nghi thức chuyển tiếp chính là việc xã hội nhìn nhận tính ngưỡng cửa của tuổi ấy.
Sách Thủ Lãnh là cái nhìn có tính văn chương và nghiên cứu lịch sử (historiographic) về tính ngưỡng cửa. Nó muốn đặt câu hỏi: Làm thế nào Israel có thể sống sót mà không có vị lãnh tụ vĩ đại? Để rồi tự đưa ra câu trả lời: nó đã sống thoát, dù không luôn luôn tốt đẹp. Các ngưỡng cửa hay biên giới được quan tâm hơn cả dĩ nhiên có tính chính trị và xã hội. Israel đã sống thoát ra sao với các lân bang luôn cướp phá mình: phía tây thì người Phi-li-tinh, phía nam thì người Ma-đi-an (xem các chương 2-3, 6-16)? Những người sống theo lối cũ, tức những người Ca-na-an chuyên sống tại thị thành, phản ứng ra sao đối với người Do Thái và các đổi mới của họ (các chương 1, 4-5)? Và chính các nhóm Do Thái đã hành xử qua lại với nhau như thế nào, giữa chi tộc này với chi tộc nọ, giữa chi họ này với chi họ kia, giữa làng này với làng nọ, giữa vùng này với vùng kia (các chương 17-21)? Đó là các câu hỏi lớn lên khuôn cho cho trình thuật Thủ lãnh này.
Các câu hỏi trên đã không được trả lời một cách trực tiếp nhưng qua hàng loạt những chú giải bóng bẩy đầy óc tưởng tượng cho thấy hình ảnh biên giới hay ngưỡng cửa. Một số chú giải này khá đơn giản. Cửa lều nơi Gia-ên đứng (4:20) và chiếc cửa sổ mà mẹ Xi-xơ-ra nhìn qua (5:28) là để phân cách lãnh vực nội trợ và tư riêng với lãnh vực công. Biểu tượng rõ nhất cho tính ngưỡng cửa này và sự nguy hiểm của nó tìm thấy trong trình thuật về người tì thiếp của thầy Lê-vi (chương 19). Tính hiếu khách cần thiết cho cuộc sống an bình đã bị bẻ gẫy (19:23; xem thêm 4:21 và 5:26). Sau một đêm bị cưỡng hiếp và hành hạ, người thiếu phụ vô danh bò về nơi chồng nàng đang cư ngụ. Nàng ngất xỉu bên cửa nhà “hai tay vắt trên ngưỡng cửa” (19:27). Câu truyện có tính chủ yếu này chính là lời phi lộ dẫn ta vào cuộc nội chiến thảm hại từng dùng làm kết luận cho cuốn sách. Trong câu tryện này, ta còn thấy nhiều khuôn mặt có tính ngưỡng cửa khác: người Lê-vi, chi tộc duy nhất của Israel không có sản nghiệp đất đai; người Ép-ra-him chủ nhà sống như một khách trú (19:16) giữa người thuộc chi tộc Ben-gia-min; và người tì thiếp. Không sách nào trong Kinh thánh đã xử trí vai trò của người đàn bà một cách vô tình như Thủ Lãnh, ngoại trừ sách Rút là sách cũng có cùng một niên hiệu như Thủ Lãnh (R 1:1). Trong câu truyện người tì thiếp của thầy Lê-vi, ta cũng thấy biên giới giữa sống và chết, được nhiều chỗ khác trong sách gợi lại như câu truyện cơn khát cùng cực của Xi-xơ-ra và Sam-sôn (4:19; 15:18) hay trường hợp Sam-sôn lấy mật ong trong xác chết con sư tử mà ăn (14:8-9).
Ngưỡng cửa quan trọng nhất là ngưỡng cửa phân cách con người với Thiên Chúa, phân cách Israel với Gia-vê. Mô-sê là khuôn mặt điển hình của ngưỡng cửa này; nhấn mạnh thích ứng đã tìm thấy trong các câu truyện vĩ đại của Xh 33-34, đề cập tới biên giới trại như là địa điểm gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 33:7), tới ngưỡng cửa lều (33:8), tới khăn che mặt của Mô-sê không để Israel trông thấy (34:35). Ở một bên ngưỡng cửa ấy, gần với Thiên Chúa hơn, ta thấy nhiều đại diện giữ nhiệm vụ thông đạt, chủ yếu là các thần sứ hay thiên thần: các thiên thần tại Bô-khim (2:1), thiên thần hiện ra với Ghít-ôn (6:11-24), với Ma-nô-ác và vợ ông (13:2-23), thần sứ nguyền rủa Mê-rốt (5:23) tất cả đều là những trình thuật có tính thăm dò phương cách để Gia-vê nói với Israel. Dấu chỉ Thiên Chúa chấp nhận hay chứng thực cho mình đã được ban cho trong trường hợp Ghít-ôn (chính ông xin: xem 6:35) và Ma-nô-ác (không xin: xem 13:19). Một đại diện khác chính là vị tiên tri ẩn danh (6:7-10). Có liên hệ tới các thiên thần là những lần thần trí Gia-vê tỏ mình ra. Thần trí này đã hiện xuống (3:10; 11:19), đã tràn ngập (6:34), tác động (13:25) hay ập xuống (14:6,19; 15:14) trên nhiều người. Lời sấm trong giấc mộng (7:13) cũng là một phương tiện để thông đạt; một phương tiện nữa, tuy không được rõ, là số phần (lot, lottery) dùng ở các chương mở đầu và kết thúc (1:2; 20:18, cả hai của Giu-đa).
Phía bên kia ngưỡng cửa phân cách con người với Thiên Chúa, phía gần Israel hơn, là các lãnh tụ được gọi là šōpĕtîm, một từ ngữ mà đại đa số các bản dịch thường dịch là thẩm phán, phán quan hay quan xét (judicum, judges). Ở đây, chúng tôi theo cách dịch “thủ lãnh” của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, chỉ vì tính tiện dụng của Bản Dịch này mà thôi (1). Mười hai vị cứu tinh của chi tộc này hay chi tộc nọ hay của một nhóm chi tộc nào đó đều là các giao diện chủ yếu giữa Gia-vê và dân; họ thi hành ý định của Thiên Chúa cũng như mọi kế sách của Người. Đơ-vô-ra là một nhân vật ngưỡng cửa xét theo ba phương diện: là đàn bà, là tiên tri và là thẩm phán và lịch sử đời bà là một tình tiết chính yếu. Phần giữa cuốn sách là câu truyện về A-vi-me-léc, một phán quan giả hiệu từng cố gắng một cách bất hợp pháp để cưỡng chế việc chuyển qua quân chủ. Theo cái nhìn chặt chẽ có tính lịch sử, thì hai thủ lãnh sau cùng đã không được kể vào sách. Thực vậy, Ê-li và Sa-mu-en đã được kể tại 1Sm 1-12, vốn được coi như lời phi lộ dẫn ta vào nền quân chủ. Giống Sách Rút, lời mở đầu của 1Sm cũng đề cập tới cùng một thời gian như Thủ Lãnh nhưng với một tập chú được chuyên môn hóa nhiều hơn về chủ đề. Phán quan đã thất bại trong tư cách một loại lãnh tụ đối với Israel (thiếu đặc tính toàn Do Thái [pan-Israelite]), và nền quân chủ mà Sa-mu-en chần chừ lúc ban đầu không chịu dẫn khởi đã đưa lại một loại lãnh tụ khác, tức vị vua, tương tự như các lân bang lúc ấy. Điệp khúc kết thúc: “Không có vua tại Israel” chính là nỗi mong chờ nền quân chủ (17:6; 18:1; 19:1; 21:25).
Ngưỡng cửa gây chú ý nhất cho các nhà văn và những người sưu tầm Sách Thủ Lãnh về phương diện lịch sử là ngưỡng cửa Mô-sê và nền quân chủ. Không phải tất cả các sử gia Kinh thánh đều nhìn thấy tầm quan trọng của ngưỡng cửa này. Tác giả Sử Biên, viết vào khoảng thế kỷ thứ 5 TCN, đã bắt đầu lịch sử Israel bằng cách nhìn qua tới Sa-un (1Sb 10) và sau đó xét tới Đa-vít, chứ không tỏ ra quan tâm chi tới các thủ lãnh. Các sử gia Kinh thánh từng thừa nhận tầm quan trọng của các thủ lãnh và hoàn tất sách nói về họ này trong hình thức sau cùng quả đã làm việc ở một thời kỳ trước đó, có thể là thế kỷ thứ 6, lúc đang bị lưu đày tại Ba-by-lon. Cuộc cải cách của Giô-si-gia, vốn thất bại không tránh được quốc nạn năm 587, là một ký ức quan trọng và sống động (2V 23:22). Tuy nhiên, các nhà hiệu đính thời lưu đày không phải là những người đầu tiên cũng như người cuối cùng tham dự vào việc lên khuôn cho cuốn sách dưới dạng qui điển; các quan tâm có tính ngưỡng cửa của khá nhiều người thuật truyện và học giả đã tạo nên trình thuật khá phức tạp và đầy cảm hứng này.
(II) Các tư liệu của Sách
Giống như Sáng Thế, Xuất Hành, Dân Số, Đệ Nhị Luật, 1 và 2 Sa-mu-en, Thủ Lãnh có một số lượng nhỏ các câu viết dưới ngữ cảnh tản văn. Loại tản văn này khá phong phú và được lặp đi lặp lại cho nên dễ bị hư hại trong diễn trình chuyển giao. Nhiều bản dịch bằng tiếng Hy Lạp cổ (ở đây được trưng dẫn tổng hợp như là Bản Bẩy Mươi mặc dù chúng có nhiều dị biệt đáng kể) cung cấp cho ta nhiều dữ kiện căn bản để hiểu việc tái tạo và sửa lại bản văn; các phiên bản cổ xưa khác và cả các sách cuộn Biển Chết nữa cũng góp phần vào công trình này (xem R.G. Boling, Judges 38-42).
Một số tản văn này cùng hội cùng thuyền với Đệ Nhị Luật và truyền thống đệ nhị luật (tức Giôsuê-2Vua), nhưng phần lớn thì không như thế, mà có tính kể truyện lôi cuốn và ít dạy đời hơn. Câu truyện về Éc-lon (chương 3) khá sống động trong lối biếm họa của nó đối với ông vua béo phị bị người Do Thái tinh khôn đánh lừa đến bỏ mạng. Việc nhắc đi nhắc lại ba lần hay thấy trong các truyện thần tiên đã được sử dụng trong ngụ ngôn về Giô-tham (9:8, 10, 12), trong lời nài nỉ của Đa-li-la (16:6, 10, 13) và trong lời khẩn khoản của ông già người Bê-lem (19: 5, 8, 9). Giống như trong 1Sm, cuộc đàm thoại đôi khi cho thấy những nét ngữ học làm phát sinh ra cuộc đàm thoại ấy từ trình thuật tản văn có ngay trong nó, mặc dù các nét đó họa hiếm lắm mới được các bản dịch lưu tâm tới.
Một số đoạn là những trình thuật có tính tầm nguyên, dành để giải thích nguyên lai các địa danh (1:17; xem thêm Ds 21:1-3; Tl 2:5; 6:24; 15:17, 19; 18:12) hoặc, các ngày lễ như trong các câu 11:39-40. Hai trong các giải thích về địa danh này còn cho rằng “cho đến nay” nơi ấy vẫn được gọi như vậy (6:24; 18:12). Thế hệ học giả có tuổi hơn có khuynh hướng nghĩ rằng những trình thuật này được duy trì chỉ là vì chức năng giải thích này mà thôi, nhưng quan điểm này ngày nay không còn được ủng hộ nữa.
Các trình thuật tản văn không phải chỉ là những quan tâm có tính văn chương hay giải thích lịch sử (historiographic) như đã nhắc; chúng còn có chung một chú tâm tới hành động của Thiên Chúa trong thế giới nhân bản. Các phán quan hay thủ lãnh khi được kể là do Gia-vê lập nên, đều vì thế có liên hệ với hành động của Người, dù chỉ theo nghĩa chính trị xã hội. Câu truyện về Ghít-ôn chẳng hạn, khi phối hợp mặc khải Thiên Chúa với chức thủ lãnh của mình, là một trong những trình thuật phong phú nhất của sách.
Chỉ có hai nhóm thơ: trong chương 5 và trong các chương 14-15. Bài ca ngoạn mục và khó hiểu của Đơ-vô-ra (106 dòng) thường được coi là bản văn lâu đời nhất của Kinh thánh, và người ta cũng có ly khi coi tám dòng thơ trong truyện Sam-sôn cũng là một bản văn rất xưa (14:14, 18; 15:16). Một số đoạn khác đôi lúc được coi là thơ nhưng thực ra chỉ là tản văn có nhịp điệu; ngụ ngôn Giô-tham được coi là quan trọng nhất (9:8-15) khá xưa về phương diện ý thức hệ, nhưng về phương diện ngữ học, thì lại cùng hội cùng thuyền với các bản văn chung quanh. Các bản văn này bao gồm: 1:14-15; 6:3, 8-9 và 16:23-24 (Boling coi cả 5 đoạn này là thơ; O. Loretz (Uragit-Forschungen 7, 1975, 594-595) coi tất cả, trừ đoạn sau cùng, là tản văn.
Việc kết hợp cả văn xuôi lẫn văn vần trong các chương 4 và 5 (giống như Xh 14-15 và St 34; 49:5-7) giúp ta có cái nhìn rất nổi đối với các biến cố, giống như hình ảnh ba chiều (stereoscopic). Kiểu nhìn như thế đã lên khuôn cho nhiều nét khác của sách. Sự xen kẽ giữa các trình thuật ngắn dài khác nhau về các thủ lãnh cũng cho thấy một khuôn mẫu về tương phản. Cách các con trai con gái của thủ lãnh Íp-san kết hôn (12:9) đã xác định và khuyến khích các cuộc hôn nhân lầm lẫn của Sam-sôn (14-16). Một cặp trình thuật bằng hình ảnh (stereopticons) đã được cung cấp nhờ dùng hai dẫn nhập (1:1-2:5 và 2:6-3:6) và hai kết thúc (các chương 17-18 và các chương 19-21).
Có hai trình thuật mà nếu mang so sánh với Sáng Thế ta sẽ thấy nổi hẳn lên. Đó là những tội dâm bôn thái quá của dân Xơ-đôm (St 19) và của dân Ghíp-a (Tl 19). Hai trình thuật này trích dẫn lẫn nhau hầu như ở mọi bình diện, và rõ ràng lệ thuộc lẫn nhau, tuy kết thúc có hơi khác: Xơ-đôm gặp thiên tai khủng khiếp còn Ghíp-a thì bị Israel tiêu diệt. Câu truyện hiến tế Ixaác và việc Gíp-tác hy sinh con gái duy nhất tuy tương tự nhau, nhưng không trực tiếp liên hệ với nhau, dù nhiều nhà bình luận hậu Kinh thánh từng nối kết chúng lại với nhau.
Các tên riêng về người đáng ta chú ý một cách đặc biệt. Nhiều tên bằng tiếng Híp-ri khá rõ ràng về phương diện ngữ học, nghĩa là có thể hiểu như một chữ, một nhóm chữ hay một câu. Những tên như thế đã được dùng để làm sống động bản văn, mặc dù việc sử dụng như thế thường buộc người ta phải hiểu những tên đó bên ngoài ngữ cảnh tôn giáo của chúng; khá nhiều tên như thế đã được dùng trong Thủ Lãnh. Các tên có gốc bārāq trên căn bản thường chỉ về thần minh, nhưng chính tên Ba-rắc (chương 4) thì được dùng để chỉ về ông như “tia chớp” hoặc chỉ vai trò của ông trong trận đánh có mưa như thác đổ. Tên Ghíp-tắc, một tên viết tắt của tên Ghíp-tắc Ên (Jiptahel) trong Giô-suê 19:14, có nghĩa là “[Chúa] mở [dạ mẹ]”, nhưng trong truyện này có nghĩa “[chính Ghíp-tắc] mở [đường dẫn tới tự do]”. Tên Giô-tham có thể là một lối chơi chữ, nó vốn có nghĩa “Gia-vê [yô] là Đấng Hoàn Hảo (tām) nhưng ở đây nó có nghĩa là yātôm “đứa trẻ không có cha, mồ côi”.
(III) Việc soạn thảo sách
Các học giả thường phân biệt ra 3 giai đoạn: (A) Cốt lõi là sưu tập cứu tinh mà trước nhất chỉ gồm các truyện về Ê-hút, Đơ-vô-ra và Ghít-ôn; giống như các phiên bản sau này của sách, đây quả là một sưu tập điển hình (xem chủ đề thử thách tại 3:1-2). Một cái nhìn tổng thể về các thủ lãnh chưa có vào lúc này; ta chỉ nên ghi nhận vị thủ lãnh “mất tích” là Bơ-đan, chỉ được nhắc qua tại 1Sm 12:11. Phần nói về Ót-ni-ên được viết dưới dạng một tóm lược. Các tư liệu nói về A-vi-me-léc đã được thêm vào. Năm thủ lãnh được nhắc đến một cách vắn tắt (10:1-5; 12:8-15) cũng được thêm vào sau đó, cùng với các tư liệu về Ghíp-tắc; và có lẽ cuối cùng, trọn bộ hay hầu hết các trình thuật về Sam-sôn đã được lồng vào sau. Địa dư có tính cách giản đồ khá rõ ràng trong công trình tiền đệ nhị luật vào thời cuối cùng này. Mỗi chi tộc không có hơn một thủ lãnh. Kẻ thù thì tính từ phía bắc (A-ram 3:8) qua đông nam (Mô-áp 3:12), trở lại phía bắc một lần nữa (Kha-do 4:2), rồi qua phía nam (Ma-đi-an 6:1), và phía đông (Am-mon 10:7) và sau cùng phía tây (Phi-li-tinh 13:1).
(B) Thế kỷ thứ 7, các nhà san định thuộc truyền thống đệ nhị luật (Gs-2V) đã thêm phần phi lộ (2:6-3:6; nhất là 2:11-19) và đã soạn ra hay lên khuôn lại các phần bắc cầu (3:7-10; 10:6-16; 13:1; 15:20; 16:31) để giới thiệu, kết luận, và đem các thủ lãnh lại với nhau. Việc ấn định niên đại có tính giản lược và phần đông có tính thổi phồng (có lẽ được cột chặt vào 1Vua 6 và từ đó tính ngược trở lại) cũng thuộc truyền thống đệ nhị luật (xem Richter, Retterbuches 132-141). Bốn thế kỷ rưỡi các hành động được giả thiết trong sách thực ra chỉ tương hợp với non hai thế kỷ lịch sử thực sự. Các nhà san định đệ nhị luật của thời lưu đày, nhờ làm việc trong một tình thế đã ra khác so với tình thế các bậc đàn anh, nên đã lên khuôn lại nhiều đoạn trong lịch sử như một toàn bộ, nhưng lại chỉ làm rất ít như thế đối với sách Thủ Lãnh (xem 18:30).
(C) Các học giả thời hậu truyền thống đệ nhị luật đã đưa vào lời dẫn nhập đầu tiên cho sách (1:1-2:5), một dẫn nhập đã làm đứt đoạn dòng văn liên tục từ Gs 24:28 tới Tl 2:6 và các lời bạt tức các chương 17-21. Các chương này đã làm đứt đoạn sự liên tục từ Tl 16:31 (Sam-sôn) tới 1Sm 1:1 (Ê-li, vị thủ lãnh sau đó). Bản văn mới thêm vào đó có thể thuộc nguồn tiền lưu đày và thực sự rất cổ xưa. Chính vì chúng rơi ra ngoài khoảng thời gian trong niên đại đệ nhị luật, nên các học giả mới coi các chương 17-21 (và đôi khi cả chương 16 nữa) là “phụ lục”. Những phần thêm vào sau đó, nói chung, đem lại cho sách một hình thù rất “phi niên đại” (unchronolonized). Thí dụ, địa điểm của họ Đan chẳng hạn, thoạt đầu thì ở phía nam (1:34), rồi phía bắc (5:17), rồi lại phía nam một lần nữa (13:25; 18:2), sau đó lại phía bắc (18:28); phần đông nghĩ rằng trên thực tế, họ Đan thoạt đầu ở tại phía nam, sau di chuyển lên phía bắc. Về truyền thống đệ nhị luật, xem M. Noth, The Deuteronomistic History, Journal for the Study of the New Testament-Supplement Series 15, Sheffield, 1981, Gotwald, Tribes 142-175.
(IV) Khung cảnh lịch sử và xã hội
Giô-suê và Thủ Lãnh là nguồn chính để ta dựng lại thời kỳ giữa năm 1200 và năm 1050. Các nguồn khác bao gồm nghiên cứu địa dư, các di tích khảo cổ của nửa đầu thời kỳ Đồ Sắt I và những xem sét lại các dữ kiện địa dư căn bản căn cứ vào khảo cổ (xem C.L. Meyers, Bulletin of the American Schools of Oriental Research 252, 1983, 47-59).
Các biến cố chính của Palestine và vùng Bên Kia Sông Gioa-đan vào thời này đều là các phản ứng đối với các tai họa cuối thời Đồ Đồng; theo cái nhìn Kinh thánh, các biến cố chính gồm việc thiết lập Israel thành một dân ( ‘am, 2:6,7; 5:11; 14:3; 20:2) hay một quốc gia (gôy, 2:20). Giô-suê trình bày việc này như một biến cố quân sự, trong khi Thủ Lãnh coi nó như một diễn trình chậm chạp và phức tạp hơn; quan điểm chiết trung, giữa hai quan điểm trên, thường có tính thậm xưng, nói quá; như đã nói trên đây, lời dẫn nhập thứ nhất đã rơi ra ngoài cái khung niên đại của các ấn bản trước đó, nên khó có thể xác định được yêu sách lịch sử của nó. Phần còn lại của Thủ Lãnh trình bày Israel như một liên bang, một liên minh gồm nhiều chi tộc nhưng thiếu một thẩm quyền trung ương liên tục; quyền lãnh đạo tạm thời nằm trong tay các thủ lãnh hay phán quan (người ta đã bác bỏ các cố gắng nhằm nhằm liên tưởng hình thức liên bang này với hình thức liên minh thị xã xưa của Hy Lạp [amphictionis] (xem A.D.H. Mayes, trong Israelite and Judean History, Phl 1977, 297-308). Các trình thuật trong sách cho hay cac thả lãnh lãnh đạo một chi tộc hay một nhóm chi tộc; nhóm lớn nhất được nhắc tới trong Bài Ca Đơ-vô-ra và dường như bao gồm mọi chi tộc ở phía bắc, trừ Giu-đa hay Si-mê-ôn. Khuôn khổ san định đã mở rộng phạm vị hoạt động của các thủ lãnh ra toàn cõi Israel.
Hệ thống xã hội tiềm ẩn trong Thủ Lãnh đã được nghiên cứu một cách có hiệu quả trong ngữ cảnh các cơ cấu xã hội đã được kỹ nghệ hóa; Israel buổi sơ khai là một nhóm phần đông theo nghề nông, không sống ở đô thị, họ là nông dân. Các cơ cấu chi tộc và tương tự phản ảnh nhiều hòan cảnh khác nhau, trong đó có cả nơi chốn, ý thức hệ và thân tộc. Các lãnh tụ xuất hiện trong các hoàn cảnh này có tính tạm thời, và việc phục vụ của họ không dựa trên việc kế nghiệp (như trường hợp các vua) cũng không dựa vào các cơ cấu thường trực (như việc bầu cử trong các chế độ dân chủ), dù có khuynh hướng coi “các thủ lãnh nhỏ” là các viên chức giữ các chức vụ chính thức (officeholders). Max Weber (1864-1920), nhà khoa học xã hội Đức, gọi căn bản tạo ra hình thức lãnh đạo ấy là “thần ân” (charisma), vốn là một từ ngữ lấy của Tân Ước với nghĩa là hồng ân Thiên Chúa. Mấy thập niên qua, ý niệm lãnh đạo thần ân đã được phổ thông hoá và trở thành ý niệm lôi cuốn hay được lòng dân. Phải nhận rằng, coi các thủ lãnh như các nhà lãnh đạo thần ân quả có nói lên một điều gì đó nơi các nhà soạn thảo ra Sách Thánh. Việc Israel chuyển dịch ra khỏi một xã hội phân mảnh đã được nhiều yếu tố thúc đẩy, dù các sử gia Kinh thánh thường cho rằng việc đó do áp lực bên ngoài của người Phi-li-tinh gây ra. Tiếp theo là các giai đoạn lãnh chúa (thời Sa-un và cả thời Đa-vít), quốc gia trung ương tập quyền (thời Đavít) và đế chế (thời Sa-lô-môn).
Hai điểm có tầm văn học quan trọng đôi khi làm lu mờ cả việc nghiên cứu lịch sử: (1) Chu kỳ có tính đệ nhị luật gồm tội lỗi - khủng hoảng - cứu rỗi đôi khi bị bác bỏ vì hoàn toàn giả tạo. Dù việc nhấn mạnh đến tội lỗi có phản ảnh một cái nhìn bị thần học hóa về lịch sử, nhưng quan điểm chu kỳ không vì thế mà cần bị bác bỏ: “Ngữ cảnh của quan điểm này không nhất thiết nói lên một ý niệm có tính ý thức hệ sau này… Có thể và chắc hẳn nó có chứa đựng các suy tư chân chính và duy trì được nhiều yếu tố thuộc thực tại lịch sử xưa” (Malamat, “Charismatic” 155”. (2) Một số nhân vật được nói đến với nhiều chi tiết trong khi có những người chỉ được đề cập một cách vắn vỏi. Từ tính đa dạng này, các học giả đã cố gắng suy ra ý niệm về hai loại thủ lãnh: loại lớn (các thủ lãnh có thần ân; các thủ lãnh quân sự) và loại nhỏ (các thủ lãnh phán xử; các viên chức được bầu lên). Môt học gỉa đã viết như thế này: “Xét một cách chủ yếu, có hai hình thức ghi chép khác nhau và hai kiểu cá nhân khác nhau” (Mayes, Judges 17). Thực ra, việc suy từ 2 nguồn ghi chép khác nhau qua hai kiểu người khác nhau là điều không chính đáng (xem Boling, Judges 7-9; E.T. Mullen, Catholic Biblical Quaterly 44, 1982, 185-201), vì hiện có rất nhiều bất đồng về việc nên coi ai là thủ lãnh nhỏ. Tất cả các học giả đều coi 5 thủ lãnh trong các đoạn 10:1-5 và 12:8-15 là các thủ lãnh ấy, nhưng nhiều người còn thêm cả Gíp-tác, Ót-ni-ên, Sam-ga hay Sam-sôn vì nhiều lý do khác nhau. Dù sao, thì sự phân chia lớn/nhỏ chả có chi hữu ích về phương diện lịch sử.
(V) Các quan điểm sau này về Thủ Lãnh
Trong các truyền thống Kinh thánh Do Thái, bên ngoài các Tiên Tri Tiền (Former Prophets), các thủ lãnh không quan trọng bao nhiêu. Khi suy tư về quan tâm của qui điển đối với các thủ lãnh, cả Huấn Ca 46:11-12 lẫn thư Do Thái 11:32-34 tuy có ca tụng họ, nhưng không chú ý nhiều tới các chi tiết. Trong truyền thống sau này, các thủ lãnh nổi tiếng hơn cả là Sam-sôn, người được đồng hóa với Hercules cũng như Đavít được đồng hóa với Orpheus; Gíp-tác, vì lời thề hứa của ông; và Đơ-vô-ra. Sở dĩ Sam-sôn nổi hơn các thủ lãnh khác là nhờ hình bóng Kitô học; Các hình ảnh về Đức Maria được tìm thấy trong sương mai của Ghít-ôn và trong mật ong của Sam-sôn.
George Buchanan (1506-1582), nhà nhân văn học Thệ Phản người Tô Cách Lan và là một học giả Tân Latinh đã sáng tác ra Iephthes, một trong các bi kịch sớm nhất của thời Phục Hưng, bằng cách lên khuôn lại câu truyện Gíp-tác. Shakespeare trích dẫn một ca khúc về con gái Gíp-tác trong Hamlet (2.2.422-39). Tác phẩm của Buchanan đã gợi hứng cho trường ca Jephthah (1743) của George Frederick Handels. Handel cũng sáng tác một trường ca khác về Deborah (1739), Samson (1743) và Gideon (1769). Sáng tác vĩ đại nhất của thời kỳ hậu Kinh thánh chắc chắn là của John Milton về vị thủ lãnh “Mù Mắt tại Ga-da” Samson Agonistes (1671)
___________________________________________________
(1) Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ giải thích cách dịch của mình như sau: “Gọi theo danh từ chung chỉ các vị anh hùng trong cuốn sách, họ là những người được Thiên Chúa sai đến cầm đầu cuộc giải phóng rồi làm người xét xử mọi việc trong dân, vì thế cũng dịch là 'quan án', 'phán quan' – 'xét xử' ở nền văn hóa này đồng nghĩa với cai trị” (Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Và Tân Ước, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 23). Về điểm này, M. O’Connor nhận định như sau: Các từ ngữ chủ yếu là các từ ngữ lấy từ gốc šāpaṭ vốn không có nghĩa là xử án theo nghĩa hẹp của việc thi hành quyền tài phán, nhưng thực ra là cai trị. Từ šāpiṭum tại Mari và suffete tại Carthage giống từ šōpēṭ của Do Thái vốn nghĩa là các nhà cai trị, có quyền thi hành hàng loạt nhiều bổn phận công cộng kể cả việc ngồi xét xử. Bởi thế dịch là quan án có phần không được chỉnh lắm.
VietCatholic TV
Mỹ đánh chìm chiến hạm cảnh cáo TQ. Thứ Sáu: Hội đàm TT Trump-Zelenskiy. Nổ tung tổng kho dầu Nga
VietCatholic Media
03:19 15/10/2025
1. Video cho thấy Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm chiến hạm
Hoa Kỳ tiếp tục cải thiện năng lực của mình để chống lại mối đe dọa hải quân ngày càng gia tăng từ Trung Quốc, khi đoạn phim mới công bố cho thấy gần đây nước này đã tiến hành một cuộc tập trận đánh chìm tàu.
Đối mặt với sự mở rộng nhanh chóng của hạm đội tàu chiến Trung Quốc - hiện là hạm đội lớn nhất thế giới tính theo số lượng tàu, với hơn 370 tàu - quân đội Hoa Kỳ đã tăng cường các biện pháp đối phó bằng cách phát triển các loại vũ khí tiên tiến như Hỏa tiễn chống hạm tầm xa và bom dẫn đường chính xác được cải tiến có tên là QUICKSINK.
Các cuộc tập trận đánh chìm, còn được gọi là SINKEX, thường xuất hiện trong các cuộc tập trận hải quân của Hoa Kỳ và bao gồm việc sử dụng vũ khí bắn đạn thật. Theo Hải quân Hoa Kỳ, những cuộc tập trận như vậy mang đến cho các đơn vị tham gia cơ hội xây dựng năng lực và sự tự tin vào vũ khí và hệ thống của mình thông qua huấn luyện thực tế mà không thể sao chép được trong các chương trình mô phỏng.
Lực lượng Hoa Kỳ đã thực hiện cuộc tập trận SINKEX gần đây nhất trong Cuộc tập trận UNITAS 2025, một cuộc tập trận hàng hải đa quốc gia thường niên được tổ chức từ ngày 15 tháng 9 đến ngày 6 tháng 10 ngoài khơi Bờ biển phía Đông Hoa Kỳ và trên bờ, với sự tham gia của khoảng 8.000 quân nhân từ 25 quốc gia.
Bộ Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ phía Nam—chịu trách nhiệm về các hoạt động hàng hải ở vùng Caribe, Trung Mỹ và Nam Mỹ—đã công bố video lễ bế mạc cuộc tập trận, trong đó có cảnh quay một tàu chiến bị tấn công bằng SINKEX.
Những bức ảnh do bộ chỉ huy công bố trước đó cũng cho thấy các trực thăng MH-60R và MH-60S cất cánh từ tàu khu trục USS Thomas Hudner và tàu vận tải đổ bộ USS Arlington trong một cuộc tập trận SINKEX như một phần của Cuộc tập trận UNITAS 2025 vào ngày 28 tháng 9.
Trong khi đó, Phi đội Khu trục hạm 40 của Hải quân Hoa Kỳ đã chia sẻ ảnh về cuộc tập trận UNITAS 2025 trên Facebook, cho thấy hai trực thăng đang bay và một tàu chiến mục tiêu đang phun khói. Hiện vẫn chưa rõ loại đạn dược nào đã được sử dụng trong cuộc tập trận SINKEX.
Theo @WarshipCam trên nền tảng mạng xã hội X, tàu chiến bị nhắm đến có thể là tàu khu trục USS Simpson cũ của Hải quân Hoa Kỳ, được nhìn thấy đang được kéo ra khỏi Cơ sở bảo dưỡng tàu không hoạt động của Hải quân ở Philadelphia vào ngày 25 tháng 9.
Trích dẫn một bức ảnh chụp trong Cuộc tập trận UNITAS 2025 và được Bộ Tư lệnh miền Nam của Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ công bố, @SA_Defensa, một quan sát viên quân sự trên X, cho biết SINKEX diễn ra ở Đại Tây Dương, cách bờ biển Bắc Carolina khoảng 200 dặm.
[Newsweek: Video Shows US Navy Sinking Warship]
2. Ukraine đã tấn công một cơ sở năng lượng ở miền trung nước Nga, theo một hãng truyền thông Nga
Hãng truyền thông Nga Astra đưa tin trên Telegram rằng một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã gây ra hỏa hoạn tại một nhà máy điện ở miền trung nước Nga.
Theo báo cáo, dịch vụ FIRMS của NASA, được sử dụng để theo dõi các bất thường về nhiệt độ, đã ghi nhận một vụ cháy tại trạm biến áp Arzamas ở khu vực Lesogorsk thuộc vùng Nizhny Novgorod. Chính quyền địa phương cho biết “các mảnh vỡ rơi xuống” từ vụ tấn công đã gây ra tình trạng mất điện tạm thời, nhưng sau đó điện đã được khôi phục.
Nizhny Novgorod nằm ở miền trung nước Nga, bên sông Volga, cách biên giới Ukraine khoảng 540 dặm và cách Mạc Tư Khoa khoảng 260 dặm về phía đông.
[Kyiv Independent: Ukraine struck an energy facility in central Russia, according to a Russian media outlet]
3. Một bệ phóng hỏa tiễn Tomahawk mới vừa được xuất xưởng
Công ty quốc phòng Oshkosh Defense của Hoa Kỳ ngày 13 tháng 10 đã tiết lộ một bệ phóng hỏa tiễn di động trên mặt đất mới có khả năng mang hỏa tiễn hành trình Tomahawk.
Tomahawk hiện đang là tâm điểm của các cuộc thảo luận địa chính trị khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cân nhắc việc gửi chúng đến Ukraine để gây áp lực buộc Nga phải ngồi vào bàn đàm phán.
Nhưng có một vấn đề tiềm ẩn đang gây tranh cãi - thường được phóng từ tàu chiến hoặc máy bay ném bom chiến lược chuyên dụng, vậy Ukraine sẽ phóng hỏa tiễn Tomahawk bằng cách nào?
Xe tự hành đa nhiệm vụ cực mạnh hay X-MAVcó thể giải quyết vấn đề đó — theo Oshkosh, bệ phóng X-MAV được thiết kế để hoạt động tự động và vận chuyển vũ khí hạng nặng trên quãng đường dài.
[Kyiv Independent: A new Tomahawk missile launcher just dropped]
4. Tướng Syrskyi: Khu vực tiêu diệt máy bay điều khiển từ xa hiện mở rộng hơn 6 dặm
“Vùng tiêu diệt” ở tiền tuyến — tức là khu vực liên tục bị đe dọa bởi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất, gọi tắt là FPV — hiện mở rộng lên tới 10 km, gây phức tạp cho công tác hậu cần di tản binh lính bị thương khỏi chiến trường, chỉ huy cao cấp của Ukraine Oleksandr Syrskyi viết trong bài đăng trên Facebook ngày 14 tháng 10.
Để thích ứng với mối đe dọa, Syrskyi cho biết các nhân viên y tế thuộc Lữ đoàn Phòng thủ Lãnh thổ Riêng biệt 106 đang sử dụng các thiết bị gọi là Tư vấn Y tế Dã chiến, gọi tắt là FMC. RBC-Ukraine đưa tin rằng các thiết bị này cho phép “các bác sĩ bệnh viện và quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu có thể hội chẩn từ xa”.
Mối đe dọa liên tục từ máy bay điều khiển từ xa FPV đã khiến việc tiếp tế và di tản trở nên khó khăn cho cả hai bên trong cuộc chiến giữa Nga và Ukraine. Tờ The Economist đưa tin vào ngày 4 tháng 8 rằng “vùng chết chóc” có thể kéo dài tới 15 km ở mỗi bên chiến tuyến tại một số khu vực.
[Kyiv Independent: Syrskyi: Drone kill zone now extends to more than 6 miles]
5. Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy sẽ gặp nhau vào thứ Sáu tại Washington
Tổng thống Trump có kế hoạch gặp Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu, khi ông tiếp tục thể hiện mối quan hệ chặt chẽ hơn với Ukraine sau nhiều tháng gây áp lực buộc nước này nhượng bộ trong cuộc chiến chống lại Nga.
Một quan chức cao cấp của Ukraine có hiểu biết trực tiếp đã xác nhận với POLITICO vào thứ Hai rằng cuộc họp kín đang diễn ra. NBC News là đơn vị đầu tiên đưa tin về cuộc họp đã được lên kế hoạch.
Và sự việc này xảy ra một ngày sau khi Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy thảo luận qua điện thoại về khả năng Kyiv mua hỏa tiễn Tomahawk để tấn công mạnh hơn vào Nga. Đây là một ý tưởng mà trước đó tổng thống đã phản đối, lo ngại leo thang hơn nữa trong cuộc xung đột kéo dài ba năm rưỡi.
Mối quan hệ của cặp đôi này đã nồng ấm hơn đáng kể kể từ cuộc đối đầu lạnh lùng tại Phòng Bầu dục vào tháng 2, khi Tổng thống Trump và Phó Tổng thống JD Vance công khai chỉ trích Tổng thống Zelenskiy vì, theo họ, đã không cảm ơn Hoa Kỳ một cách thỏa đáng vì đã hỗ trợ Ukraine.
Kể từ đó, Tổng thống Trump đã từ bỏ chiến lược chiều chuộng Vladimir Putin để đẩy Nga vào bàn đàm phán. Ông tuyên bố trong một bài đăng trên Truth Social hồi tháng 9 rằng Ukraine có thể giành lại lãnh thổ, nói rằng Nga trông giống như một “con hổ giấy”. Cũng trong tháng 9, Tổng thống Trump lần đầu tiên gọi Nga là “kẻ xâm lược” trong cuộc chiến.
Trong một cuộc phỏng vấn trên Fox News vào Chúa Nhật, Tổng thống Zelenskiy ám chỉ rằng thành công của Tổng thống Trump trong việc đàm phán lệnh ngừng bắn ở Gaza đã khiến ông tự tin hơn nữa rằng hòa bình có thể đạt được giữa Nga và Ukraine.
Và ông cho biết giải Nobel Hòa bình đáng thèm muốn của Tổng thống Trump vẫn có thể đến sau đó.
“Nhưng nếu ông ấy làm được, tôi hy vọng vậy và cầu Chúa phù hộ cho ông ấy, tất nhiên trong trường hợp này chúng tôi sẽ đề cử ông ấy và chúng tôi sẽ tự hào chúc mừng ông ấy”, ông nói.
[Politico: Trump and Zelenskyy to meet Friday in Washington]
6. Tổng thống Trump nói ông sẽ tập trung vào cuộc chiến ở Ukraine sau khi làm trung gian cho thỏa thuận giữa Israel và Hamas
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết vào ngày 13 tháng 10 rằng ông có kế hoạch tập trung vào cuộc xâm lược Ukraine của Nga sau khi đạt được thỏa thuận hòa bình giữa Israel và Hamas.
Tuyên bố này được đưa ra trong bối cảnh các cuộc đàm phán hòa bình giữa Mạc Tư Khoa và Kyiv vẫn đang bị đình trệ sau khi Putin hủy bỏ các cuộc đàm phán trực tiếp với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy - một sáng kiến mà cá nhân Tổng thống Trump ủng hộ.
“Sẽ thật tuyệt nếu chúng ta có thể đạt được một thỏa thuận hòa bình với (Iran)... Trước tiên, chúng ta phải giải quyết vấn đề Nga,” Tổng thống Trump phát biểu trong bài phát biểu tại Knesset, cơ quan lập pháp của Israel. “Hãy tập trung vào Nga trước.”
Hamas đã thả tất cả 20 con tin Israel còn sống còn lại theo một thỏa thuận hòa bình ở Gaza vào ngày 13 tháng 10. Động thái này là một phần của thỏa thuận hòa bình do Hoa Kỳ làm trung gian nhằm chấm dứt chiến tranh Israel-Hamas ở Gaza, vốn đã diễn ra từ tháng 10 năm 2023.
Khi thảo luận về những người tham gia ký kết thỏa thuận Israel-Hamas, Tổng thống Trump đã nêu tên đặc phái viên Hoa Kỳ Steve Witkoff, người cũng đã cố gắng đàm phán một thỏa thuận hòa bình với Putin. Witkoff đã gặp nhà lãnh đạo Nga nhiều lần.
Tổng thống Trump kể lại rằng khi Witkoff gặp Putin, Tổng thống Trump đã gọi điện thoại nửa tiếng sau khi cuộc họp bắt đầu, dự kiến nó sẽ kết thúc. Tuy nhiên, ông được thông báo rằng cuộc họp vẫn đang diễn ra.
“Năm tiếng sau, ông ấy bước ra. Tôi hỏi, 'Ông nói cái quái gì suốt năm tiếng đồng hồ vậy?' Và ông ấy nói, 'Chỉ toàn là những điều thú vị thôi.' Nhưng bạn không thể nói về chuyện đó suốt năm tiếng đồng hồ được,” Tổng thống Trump nói.
Tổng thống Hoa Kỳ cho biết vào thời điểm đó, Witkoff “không biết gì về nước Nga, không biết nhiều về Putin, không biết nhiều về chính trị”, nhưng lại có “phẩm chất” mà Tổng thống Trump đang tìm kiếm.
Điện Cẩm Linh hoan nghênh việc Tổng thống Trump chuyển trọng tâm sang chấm dứt chiến tranh ở Ukraine đồng thời ca ngợi Witkoff là một nhà đàm phán “hiệu quả”.
“Chúng tôi đã quen biết ông Witkoff. Ông ấy rất hiệu quả — ông ấy đã chứng minh được hiệu quả của mình ở Trung Đông”, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov phát biểu vào ngày 14 tháng 10.
Ông nói thêm: “Chúng tôi hy vọng tài năng của ông ấy sẽ tiếp tục đóng góp cho con đường của Ukraine”, đồng thời khẳng định Mạc Tư Khoa vẫn cởi mở với một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến.
Đường lối đàm phán của Witkoff đã phải đối mặt với phản ứng dữ dội vì ông thường nhắc lại quan điểm của Putin, được tường trình thiếu hiểu biết rõ ràng về lập trường của Ukraine.
Những bình luận này được đưa ra gần hai tháng sau khi Tổng thống Trump và Putin gặp nhau tại Alaska để thảo luận về việc giải quyết hòa bình trong cuộc chiến của Nga với Ukraine và hợp tác rộng rãi hơn, đánh dấu cuộc gặp đầu tiên của họ kể từ khi Tổng thống Trump trở lại nhiệm sở.
Trong khi Tổng thống Trump cam kết sắp xếp các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Tổng thống Zelenskiy và Putin, không có thỏa thuận nào được đạt được.
Tổng thống Zelenskiy đã từ chối lời mời gặp mặt của Putin tại Mạc Tư Khoa, cho rằng điều đó là không thể trong khi Nga vẫn đang ném bom Ukraine, nhưng nhiều lần nói rằng ông sẵn sàng gặp nhà lãnh đạo Nga ở nơi trung lập.
Bloomberg đưa tin, trích dẫn nguồn tin, rằng cuộc gặp với Tổng thống Trump đã thuyết phục Putin rằng ông có thể tăng cường các cuộc không kích vào Ukraine mà không phải đối mặt với sự phản đối nghiêm trọng từ Washington.
Gần đây, Tổng thống Trump đã cứng rắn hơn với Nga khi tuyên bố vào tháng 9 rằng Ukraine có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến và giành lại toàn bộ lãnh thổ bị Nga tạm chiếm đã mất kể từ cuộc xâm lược.
Washington cũng đang cân nhắc việc gửi hỏa tiễn hành trình Tomahawk có tầm bắn lên tới 2.500 km tới Ukraine, cho phép tấn công sâu vào lãnh thổ Nga.
Putin cảnh báo rằng động thái như vậy, cho phép Kyiv tấn công dãy Ural và một số vùng ở Siberia, sẽ đánh dấu “giai đoạn leo thang mới” và có thể làm suy yếu mọi tiến triển đạt được trong quan hệ Mỹ-Nga.
Tổng thống Trump cho biết vào ngày 12 tháng 10 rằng ông đã sẵn sàng gửi hỏa tiễn tầm xa Tomahawk tới Ukraine nhưng dự định sẽ thảo luận vấn đề này trước với Putin.
[Politico: Trump says he'll focus on Ukraine war after brokering Israel-Hamas deal]
7. Iran phản ứng với bài phát biểu của Tổng thống Trump tại Israel
Bộ Ngoại giao Iran đã chỉ trích mạnh mẽ những “cáo buộc vô căn cứ, vô trách nhiệm và đáng xấu hổ” của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump trong bài phát biểu trước Knesset của Israel.
Thỏa thuận hòa bình lịch sử mà Tổng thống Trump làm trung gian để chấm dứt cuộc chiến tàn khốc ở Gaza giữa Israel và Hamas có thể đặt nền móng cho một nền hòa bình lâu dài ở Trung Đông, nhưng nguy cơ chiến tranh tái diễn giữa Israel và Iran vẫn còn hiện hữu ở khu vực này.
Iran có ảnh hưởng rất lớn đến các tính toán an ninh của Israel, các quốc gia vùng Vịnh và các nước láng giềng khác, và bất kỳ căng thẳng nào với Hoa Kỳ và đồng minh khu vực chính của nước này là Israel đều làm dấy lên lo ngại về nguy cơ xung đột mới có thể làm gián đoạn thị trường năng lượng và đe dọa sự ổn định toàn cầu.
Trong bài phát biểu hôm thứ Hai, Tổng thống Trump đã ca ngợi các cuộc tấn công của Hoa Kỳ và Israel vào Iran vào tháng 6, nói rằng “nhiều tên khủng bố hàng đầu của Iran” đã bị “tiêu diệt khỏi trái đất này” và chương trình hạt nhân của nước này đã bị xóa sổ.
Tổng thống Trump cũng cho biết Iran chỉ đang cố gắng tồn tại thay vì xây dựng lại chương trình hạt nhân sau một “cú đánh lớn” như vậy và ông kêu gọi Tehran “từ bỏ khủng bố” và lập hòa bình với Israel - một thành phần quan trọng của hòa bình lâu dài ở Trung Đông.
Bộ Ngoại giao Iran cho biết trong một tuyên bố, ban đầu bằng tiếng Ba Tư: “Mỹ, với tư cách là quốc gia sản sinh ra chủ nghĩa khủng bố lớn nhất thế giới và là nước ủng hộ chế độ khủng bố và giết hại trẻ em theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, không có tư cách đạo đức để buộc tội người khác”.
“Người dân Iran, với lòng kính trọng sâu sắc đối với vị anh hùng bất diệt của Iran và khu vực, Tướng Qassem Soleimani—người đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ và ISIS gây ra—không tha thứ cũng không quên những tên tội phạm chiến tranh người Mỹ và đồng phạm của chúng trong hành động khủng bố đó.”
Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng thống Trump đã ra lệnh ám sát Soleimani khi vị tướng hàng đầu của Iran đến thăm Baghdad, Iraq.
Bộ Ngoại giao Iran khẳng định lại rằng việc lặp lại những tuyên bố sai sự thật về chương trình hạt nhân hòa bình của Iran không thể biện minh cho những tội ác, hành vi xâm lược và lời thú tội chung của Hoa Kỳ và chế độ Zionist về chủ nghĩa khủng bố và vụ ám sát con trai của Iran trên đất Iran.
Tổng thống Trump, trong khi hoan nghênh các cuộc không kích của Israel và Hoa Kỳ vào Iran vào tháng 6, cũng phát biểu với Knesset vào thứ Hai rằng “cả Hoa Kỳ và Israel đều không có bất kỳ thái độ thù địch nào với người dân Iran”.
“Chúng tôi chỉ muốn sống trong hòa bình. Chúng tôi không muốn bất kỳ mối đe dọa nào lơ lửng trên đầu. Và chúng tôi thậm chí không muốn nghĩ đến việc hủy diệt hạt nhân. Điều đó sẽ không xảy ra. Sẽ không bao giờ xảy ra”, Tổng thống Trump nói, ám chỉ việc Iran phát triển vũ khí hạt nhân, một tham vọng mà Tehran phủ nhận.
“Không gì tốt hơn cho khu vực này của thế giới hơn là các nhà lãnh đạo Iran từ bỏ khủng bố, ngừng đe dọa láng giềng, ngừng tài trợ cho các lực lượng ủy nhiệm quân sự, và cuối cùng công nhận quyền tồn tại của Israel. Họ phải làm điều đó. Họ phải làm điều đó.
“Và với Iran—và như các bạn biết đấy, tôi không nói điều này vì yếu đuối, chẳng có yếu đuối nào cả—nhưng tôi sẽ nói thế này: Chúng tôi đã sẵn sàng khi các bạn sẵn sàng, và đó sẽ là quyết định tốt nhất mà Iran từng đưa ra. Và điều đó sẽ xảy ra.”
[Newsweek: Iran Reacts to Trump’s Speech in Israel]
8. Điện Cẩm Linh cho biết người Nga bị Latvia trục xuất được chào đón nồng nhiệt trở về nước
Mạc Tư Khoa sẽ chào đón nồng nhiệt hơn 800 công dân Nga bị Latvia trục xuất vì không tuân thủ các quy định nhập cư mới.
“Nếu họ là công dân Nga… họ có thể trở về Tổ quốc, về Nga. Và xây dựng cuộc sống ở đây”, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov nói với các phóng viên hôm thứ Hai.
Bình luận của ông được đưa ra sau khi POLITICO đưa tin vào cuối tuần trước rằng chính quyền quốc gia vùng Baltic này đã ra lệnh cho 841 người Nga rời khỏi đất nước trước ngày 13 tháng 10 vì không chứng minh được trình độ tiếng Latvia, không vượt qua được cuộc kiểm tra an ninh và không nộp đơn xin cấp tư cách thường trú nhân dài hạn đúng hạn.
Việc trục xuất hàng trăm người Nga có thể sẽ được Điện Cẩm Linh coi là bằng chứng cho thấy sự thù địch của Âu Châu - đặc biệt là các nước vùng Baltic - đối với nước láng giềng và công dân của họ.
Trước đó vào thứ Hai, Irina Volk, phát ngôn nhân của Bộ Nội vụ Nga, cho biết chính quyền Nga đã chuẩn bị “một loạt các biện pháp” để giúp nhóm người bị ảnh hưởng “ổn định và thích nghi”.
“Khi đến Nga, họ sẽ được hỗ trợ toàn diện”, Volk viết trong bài đăng trên Telegram.
Không thể liên lạc được với Bộ Nội vụ qua điện thoại để biết thông tin chi tiết về những biện pháp đó.
Sau cuộc tấn công toàn diện của Nga vào Ukraine năm 2022, Latvia đã thắt chặt các quy định đối với công dân Nga sinh sống tại nước này.
Theo Madara Puķe, Trưởng phòng Quan hệ Công chúng tại Văn phòng Công dân và Di trú Latvia, gọi tắt là OCMA, khoảng 30.000 người Nga đã bị ảnh hưởng bởi các quy định nghiêm ngặt hơn. Bà cho biết khoảng 2.600 người trong số họ đã tự nguyện rời khỏi Latvia.
[Politico: Kremlin says Russians kicked out by Latvia are most welcome back home]
9. Tổng thống Donald Trump bị nghe chế giễu Justin Trudeau trên Gaza Hot Mic
Một cuộc trao đổi đùa cợt giữa Tổng thống Trump và Thủ tướng Canada Mark Carney đã bị ghi âm lại tại hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo thế giới ở Ai Cập, được tường trình để châm chọc cựu lãnh đạo Canada Justin Trudeau.
Tổng thống Trump có mối quan hệ căng thẳng với Trudeau và gọi cựu lãnh đạo Canada là “thống đốc” của “Canada vĩ đại”. Carney đã tuyên thệ nhậm chức thay thế Trudeau vào tháng 3 trong khi tuyên bố Ottawa sẽ “không bao giờ” trở thành một phần của Hoa Kỳ, sau khi Tổng thống Trump nhiều lần gọi Canada là “tiểu bang thứ 51”.
Vẫn đứng gần micro sau khi yêu cầu các nhà báo rời đi, Carney tiến đến gần Tổng thống Trump và nói: “Tôi rất vui vì ông đã thăng chức cho tôi lên làm tổng thống.”
“Ít nhất thì tôi cũng không nói là thống đốc”, Tổng thống Trump đáp lại, trong khi đùa giỡn lấy tay che miệng và vỗ nhẹ vào cánh tay Carney.
Trong những phát biểu trước đó với giới truyền thông, Tổng thống Trump đã nói rằng “tổng thống Canada đã gọi điện” để hỏi về hội nghị thượng đỉnh diễn ra vào thứ Hai tại thành phố nghỉ dưỡng Sharm el-Sheikh của Ai Cập, khiến Carney rõ ràng đã giật đầu bối rối khi đứng trên sân khấu cùng Tổng thống Trump.
“Tôi rất cảm kích vì ngài đã có mặt ở đây, thưa Tổng thống,” Tổng thống Trump nói thêm khi quay sang nói với Carney.
Nhóm chiến binh Palestine Hamas hôm thứ Hai đã trả tự do cho Israel 20 con tin còn sống bị giam giữ ở Gaza trong hơn hai năm, trong khi chính quyền Israel thả gần 2.000 tù nhân Palestine sau khi rút quân khỏi dải Gaza để kiểm soát gần một nửa lãnh thổ.
Phiến quân do Hamas lãnh đạo đã vượt biên vào miền Nam Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, giết hại khoảng 1.200 người và bắt giữ 251 người khác làm con tin. Sau đó, Israel đã phát động chiến tranh trên vùng lãnh thổ này, và các cơ quan y tế Hamas ở Gaza cho biết hơn 67.000 người đã thiệt mạng kể từ khi xung đột bắt đầu. Con số này không phân biệt giữa chiến binh và dân thường, và bị các quan chức Israel tranh cãi, nhưng được nhiều nguồn tin phương Tây trích dẫn.
Cuộc trao đổi hôm thứ Hai đã được chào đón bằng niềm hân hoan ở Israel cũng như ở Gaza và Bờ Tây, nhưng trong bối cảnh chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, Israel đã cảnh báo Hamas không được vi phạm giai đoạn đầu của thỏa thuận do Mỹ làm trung gian khi nhóm chiến binh này trao trả hài cốt của bốn con tin đã chết. Hamas dự kiến sẽ trao trả thi thể của 28 con tin cho Hội Hồng Thập Tự Quốc tế tại Gaza.
Đầu tháng này, Carney đã đến thăm Tòa Bạch Ốc trong một chuyến đi không mang lại tiến triển cụ thể nào hướng tới một thỏa thuận thương mại, nhưng đã thể hiện giọng điệu thân thiện hơn của Tổng thống Trump đối với Carney so với giọng điệu mà đảng Cộng hòa thường dùng với Trudeau.
[Newsweek: Donald Trump Heard Mocking Justin Trudeau on Gaza Hot Mic]
Đánh lớn: 16 bể chứa dầu ở Crimea trong biển lửa. NATO chế giễu Hải Quân Nga. TT Trump khiếu nại
VietCatholic Media
16:27 15/10/2025
1. Cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa khiến nhà máy dầu của Nga ở Crimea bốc cháy, 16 bồn chứa dầu cháy dữ dội
Bộ Tổng tham mưu Ukraine cho biết vào đêm Thứ Tư, 15 Tháng Mười, mười sáu bồn chứa nhiên liệu đã bị tấn công tại tổng kho Morskoi Neftianoi ở Feodosia, Crimea bị Nga tạm chiếm, do một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine.
Trước đó, Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU đã xác nhận với tờ Kyiv Independent rằng máy bay điều khiển từ xa đã tấn công cơ sở ở thành phố Feodosia liên tục từ hôm 13 Tháng Mười.
Truyền thông địa phương đưa tin, ngọn lửa bùng phát vẫn có thể nhìn thấy từ khoảng cách 25 km. Bộ Tổng tham mưu cho biết “một đám cháy quy mô lớn đang diễn ra trên lãnh thổ của doanh nghiệp”.
Vụ tấn công ngày 13 tháng 10 là vụ tấn công thứ hai được xác nhận của Ukraine vào tổng kho này trong vòng một tuần. Các bồn chứa mới bị tấn công được tường trình đã sống sót sau cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa trước đó của Ukraine vào cơ sở này vào ngày 6 tháng 10.
Trong cùng một chiến dịch diễn ra vào ban đêm, Lực lượng Phòng vệ Ukraine cũng tấn công vào một hệ thống radar P-18 gần Krasna Poliana ở Crimea bị tạm chiếm, một trạm chỉ huy máy bay điều khiển từ xa ở Oleshky bị tạm chiếm, Kherson và một kho đạn dược gần Makiivka bị tạm chiếm ở Donetsk, Bộ Tổng tham mưu cho biết thêm.
[Kyiv Independent: Drone strike leaves Russian oil terminal in Crimea burning, 16 tanks damaged]
2. Tổng thư ký NATO chế giễu Hải quân Nga sau khi phát hiện tàu ngầm “bị hỏng”
Tổng thư ký NATO Mark Rutte cho rằng địa điểm “một chiếc tàu ngầm Nga đơn độc và hỏng hóc đang lê bước về nhà” cho thấy lực lượng này yếu hơn nhiều so với những gì người ta từng nghĩ.
Mạc Tư Khoa đã phủ nhận con tàu này bị trục trặc.
Hạm đội tàu ngầm của Mạc Tư Khoa thường được coi là một lực lượng đáng gờm hơn so với tàu nổi. Hơn ba năm rưỡi chiến tranh toàn diện ở Ukraine đã khiến hầu hết tàu ngầm của Nga không bị ảnh hưởng, mặc dù năm ngoái Kyiv tuyên bố đã đánh chìm một tàu ngầm của Hạm đội Hắc Hải Nga tại Crimea do Cẩm Linh kiểm soát.
Một kênh Telegram của Nga tự nhận có liên hệ với các cơ quan an ninh Nga cho biết vào cuối tháng 9 rằng tàu ngầm lớp Kilo Novorossiysk của Mạc Tư Khoa đã gặp phải “sự việc kỹ thuật nghiêm trọng”, nhiên liệu bị rò rỉ vào khoang tàu. Theo kênh Telegram VChK-OGPU, thủy thủ đoàn trên tàu không có kiến thức chuyên môn hay phụ tùng thay thế.
Hạm đội Hắc Hải của Nga cho biết các báo cáo về “một sự việc được tường trình khiến tàu ngầm diesel-điện Novorossiysk phải nổi lên mặt nước khẩn cấp ngoài khơi bờ biển nước Pháp là sai sự thật”.
Thủy thủ đoàn tàu ngầm đang thực hiện “cuộc chuyển quân thường lệ giữa các hạm đội” trên biển Địa Trung Hải, hải quân Nga cho biết trong một tuyên bố được hãng thông tấn nhà nước Nga Tass đăng tải hôm thứ Hai. Hải quân Nga cho biết theo luật pháp quốc tế, tàu ngầm phải nổi lên mặt nước khi di chuyển qua eo biển Manche.
“Có một chiếc tàu ngầm Nga đơn độc và hỏng hóc đang lê bước trở về sau chuyến tuần tra”, Rutte phát biểu trong bài phát biểu tại thủ đô Ljubljana của Slovenia vào thứ Hai.
“Thật là một sự thay đổi so với tiểu thuyết The Hunt for Red October của Tom Clancy năm 1984,” Rutte nói tiếp. “Ngày nay, nó giống như cuộc săn tìm thợ máy gần nhất hơn.”
Cuốn sách năm 1984 và bộ phim chuyển thể năm 1990 của The Hunt For Red October kể về câu chuyện hư cấu về một thuyền trưởng tàu ngầm Liên Xô có kế hoạch đào tẩu sang Hoa Kỳ trong thời Chiến tranh Lạnh.
Hải quân Hoàng gia Anh cho biết một tàu chiến và một trực thăng của họ đã tham gia nỗ lực của NATO nhằm theo dõi “mọi động thái” của tàu ngầm này từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10, gần đảo Ushant của Pháp, ở rìa phía tây nam của eo biển Manche. Quân đội Anh cho biết tàu ngầm đã di chuyển qua eo biển Manche vào Biển Bắc.
Hải quân Hoàng gia cho biết tàu ngầm được một tàu kéo hộ tống. Bộ Quốc phòng Hòa Lan cho biết hải quân nước này đã tiếp quản nhiệm vụ từ tàu Anh sau khi tàu ngầm Nga đi vào vùng biển Hòa Lan.
Bộ Tư lệnh Hàng hải NATO, gọi tắt là MARCOM cho biết vào ngày 9 tháng 10, một tàu khu trục của Hải quân Pháp đã theo dõi tàu Novorossiysk và đăng tải hai hình ảnh về tàu ngầm nổi lên mặt nước.
Tàu Novorossiysk được đưa vào hoạt động năm 2014 và có khả năng mang theo hỏa tiễn hành trình Kalibr tiên tiến phóng từ biển của Nga. Những hỏa tiễn này thường xuyên được sử dụng chống lại Ukraine.
Các bộ trưởng Anh cho biết hoạt động tàu ngầm của Nga qua eo biển Manche đã gia tăng. Từ lâu, sự chú ý đã đổ dồn vào hoạt động tàu ngầm của Nga tại Khe hở GIUK, hay vùng biển giữa Greenland, Iceland và Vương quốc Anh. Khu vực này tự nhiên hạn chế khả năng tiếp cận Bắc Cực đến và đi từ Bắc Đại Tây Dương, và việc đi qua Khe hở GIUK là một phần quan trọng trong chiến lược tàu ngầm của Nga.
Rutte cho biết quân đội Nga đã “kéo căng” và “hầu như không còn sự hiện diện nào của hải quân Nga ở Địa Trung Hải”.
[Newsweek: NATO Chief Mocks Russia’s Navy After ‘Broken’ Submarine Spotted]
3. Người dân Belgorod cho biết cuộc sống ở Nga “hoàn toàn vô vọng” giữa các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine và tình trạng mất điện
Một cư dân ở vùng Belgorod của Nga đã phàn nàn rằng cuộc sống ở Nga “hoàn toàn vô vọng” trong bối cảnh các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine và tình trạng mất điện, theo một cuộc gọi bị cơ quan tình báo quân sự Ukraine, gọi tắt là HUR chặn lại và đăng lên mạng xã hội vào ngày 13 tháng 10.
Trong cuộc gọi, một cư dân của tỉnh Belgorod, giáp với các tỉnh Sumy, Kharkiv và Luhansk của Ukraine, tuyên bố rằng cô đã chứng kiến một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn của Ukraine.
“Hàng chục (máy bay điều khiển từ xa tấn công) đã được phóng đi đâu đó. Bạn có tưởng tượng được không?! Tôi nhìn và thấy nó đang bay. Nó sẽ bay đi đâu, làm gì, nhắm vào mục tiêu gì? Thật vô vọng”, một phụ nữ nói.
[Kyiv Independent: Belgorod resident says life in Russia is 'simply hopeless' amid Ukrainian drone strikes and power outages]
4. Tổng thống Trump nói Putin nên ‘làm gì đó’ để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine, trích dẫn ‘một triệu rưỡi’ tổn thất của Nga
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump phát biểu vào ngày 14 tháng 10 rằng Putin nên “làm gì đó về cuộc chiến” ở Ukraine, gọi đây là thất bại đắt giá đối với Mạc Tư Khoa.
Phát biểu tại cuộc họp báo chung với Tổng thống Á Căn Đình Javier Milei, Tổng thống Trump nói Putin “đáng lẽ phải thắng cuộc chiến đó trong một tuần” và lưu ý rằng cuộc xâm lược toàn diện hiện đã bước sang năm thứ tư. Ông gọi cuộc chiến là “kinh hoàng”, tuyên bố rằng Nga đã “mất một triệu rưỡi binh sĩ” tử trận và bị thương, và nói rằng cuộc chiến đang “khiến Putin trông rất tệ”.
Tuyên bố của Tổng thống Trump về 1,5 triệu thương vong của Nga không được chứng minh bằng các ước tính độc lập. Các đánh giá tình báo phương Tây cho rằng tổng số quân Nga thiệt mạng và bị thương có thể gần hoặc hơn 1 triệu. Một cuộc điều tra chung của hãng tin Nga Mediazona và ban tiếng Nga của BBC đã xác định được hơn 135.000 binh sĩ Nga thiệt mạng tính đến tháng 10 năm 2025, cũng thấp hơn nhiều so với con số của Tổng thống Trump.
Tổng thống Trump cũng khen ngợi khả năng phòng thủ của Ukraine, lưu ý rằng “ai có thể nghĩ rằng Ukraine có thể chiến đấu với Nga trong bốn năm mà về cơ bản là bế tắc?”
Ông nói rằng Putin “phải thực sự giải quyết cuộc chiến này”, và nói thêm, “bạn biết đấy, hiện tại ở Nga đang có những hàng dài người xếp hàng chờ mua xăng... nền kinh tế của ông ấy đột nhiên sụp đổ và tôi muốn thấy ông ấy làm tốt. Ý tôi là, tôi có mối quan hệ rất tốt với Vladimir Putin, nhưng ông ấy không muốn kết thúc cuộc chiến đó.”
Những phát biểu này được đưa ra vài ngày trước khi Tổng thống Trump gặp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy vào ngày 17 tháng 10. Tổng thống Trump đã giới thiệu trước cuộc họp bằng cách nói rằng Tổng thống Zelenskiy “muốn có vũ khí, ông ấy muốn có hỏa tiễn Tomahawk, mọi người khác đều muốn thứ gì đó”, ám chỉ viện trợ quân sự sẽ là trọng tâm của các cuộc đàm phán.
Hỏa tiễn Tomahawk đã trở thành tâm điểm trong các cuộc tranh luận địa chính trị khi Tổng thống Trump cân nhắc việc gửi chúng đến Ukraine để gây áp lực buộc Nga phải đàm phán.
Trước đó, vào ngày 12 tháng 10, Tổng thống Mỹ tuyên bố ông sẵn sàng gửi hỏa tiễn tầm xa Tomahawk đến Ukraine nhưng sẽ thảo luận vấn đề này trước với Putin: “Thành thật mà nói, có lẽ tôi phải nói chuyện với Nga về hỏa tiễn Tomahawk”, Tổng thống Trump nói với các phóng viên. “Liệu họ có muốn hỏa tiễn Tomahawk hướng về phía họ không? Tôi không nghĩ vậy.”
Khi được hỏi liệu ông có ý định nói chuyện với Putin trước khi cung cấp hỏa tiễn hay không, Tổng thống Trump trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào thiện chí chấm dứt chiến tranh của Mạc Tư Khoa. “Có lẽ tôi sẽ nói chuyện với ông ấy. Tôi có thể nói, nếu chiến tranh không được giải quyết, tôi sẽ gửi cho họ hỏa tiễn Tomahawk”, ông nói, gọi vũ khí này là “một vũ khí tấn công rất mạnh”.
Tomahawk là hỏa tiễn hành trình tầm xa, cận âm, được thiết kế cho các cuộc tấn công chính xác. Với tầm bắn từ 1.600 đến 2.500 km, nó sẽ cho phép Kyiv tấn công các mục tiêu xa tới tận Siberia.
[Politico: Trump says Putin should 'do something' to end war in Ukraine, cites 'a million and a half' Russian losses]
5. Tại sao không có tóc và vương miện ‘cực kỳ nhỏ’? Tổng thống Trump chỉ trích trang bìa Time
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã chỉ trích tạp chí Time khi gọi bức ảnh bìa đi kèm bài viết về thỏa thuận hòa bình Trung Đông của ông là “tệ nhất mọi thời đại”.
“Tạp chí Time đã viết một bài khá hay về tôi, nhưng bức ảnh có lẽ là bức tệ nhất mọi thời đại,” Tổng thống Trump nói vào sáng sớm thứ Ba. “Họ đã ‘biến mất’ tóc tôi, rồi để thứ gì đó lơ lửng trên đầu tôi, trông giống như một chiếc vương miện lơ lửng, nhưng lại cực kỳ nhỏ. Thật kỳ lạ!” Ông tiếp tục gọi bức ảnh là “một bức ảnh cực kỳ tệ hại, đáng bị lên án.”
Trang bìa tạp chí Time, ra mắt hôm thứ Hai với tiêu đề “Chiến thắng của ông”, có bức ảnh chụp từ phía dưới Tổng thống Trump, tổng thống đang nhìn lên, dường như được chiếu sáng bởi ánh sáng mặt trời chói chang.
Số báo này đánh dấu sự thừa nhận của tạp chí về cái mà họ gọi là “thành tựu nổi bật của nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump” và là “bước ngoặt chiến lược” đối với Trung Đông: giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận hòa bình giữa Israel và Hamas dẫn đến việc trả tự do cho tất cả các con tin Israel bị giam giữ ở Gaza và trả tự do cho khoảng 2.000 tù nhân Palestine khỏi Israel.
Những phát biểu của Tổng thống Trump được đưa ra vài giờ sau khi ông kết thúc chuyến thăm tới Tel Aviv, Giêrusalem và Sharm el-Sheikh vào thứ Hai, nơi ông giám sát việc ký kết thỏa thuận hòa bình cho Gaza - một kế hoạch mà ông đích thân ủng hộ và chính thức chấm dứt hai năm xung đột sau cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 đã châm ngòi cho chiến tranh trong khu vực.
Tổng thống, người vừa bị chỉ trích vừa được khen ngợi vì đường lối ngoại giao Trung Đông, có một lịch sử lâu dài và phức tạp với tạp chí Time. Tạp chí này thường xuyên đưa hình ảnh ông lên trang bìa, đôi khi không mấy thiện cảm, nhưng cũng đã hai lần vinh danh ông là Nhân vật của năm.
[Politico: Why no hair and an ‘extremely small’ crown? Trump slams Time cover]
6. Tổng thống Donald Trump bị người biểu tình ngắt lời tại Quốc hội Israel
Hai chính trị gia Israel đã bị đuổi khỏi phòng họp quốc hội Israel sau khi ngắt lời bài phát biểu của Tổng thống Trump, trùng với thời điểm thả 20 con tin còn sống từ Gaza và các tù nhân Palestine khỏi nơi giam giữ của Israel.
Tổng thống Trump đã hạ cánh xuống Tel Aviv vào sáng sớm thứ Hai trước khi đến Knesset ở Giêrusalem, nơi ông ca ngợi “bình minh lịch sử của một Trung Đông mới” trong bài phát biểu đầu tiên theo kiểu này kể từ năm 2008.
“Đây không chỉ là sự kết thúc của một cuộc chiến tranh,” Tổng thống Trump nói. “Đây là sự kết thúc của thời đại khủng bố và chết chóc, đồng thời mở ra thời đại của đức tin, hy vọng và của Chúa.”
Những điều cần biết
Bài phát biểu của ông đã bị gián đoạn một lúc bởi hai nhà lập pháp Israel, được truyền thông Israel xác định là Aymen Odeh và Ofer Cassif. Đoạn phim được lan truyền rộng rãi cho thấy hai kẻ la ó đã bị an ninh áp giải đi.
Trong một bài đăng sau đó trên mạng xã hội, Odeh cho biết ông đã giơ cao một tấm biển kêu gọi công nhận Nhà nước Palestine trong bài phát biểu của Tổng thống Trump. “Họ đuổi tôi ra khỏi Knesset chỉ vì tôi đưa ra yêu cầu đơn giản nhất, một yêu cầu mà toàn thể cộng đồng quốc tế đều đồng thuận: Công nhận Nhà nước Palestine!” Odeh nói.
“Hãy nhìn nhận sự thật đơn giản,” Odeh nói. “Có hai dân tộc ở đây, và không ai sẽ đi đâu cả.” Cassif đã chia sẻ một tuyên bố vào sáng thứ Hai, chỉ trích Tổng thống Trump và kêu gọi giải pháp hai nhà nước.
Kế hoạch hòa bình 20 điểm của Hoa Kỳ vẫn để ngỏ cánh cửa cho một nhà nước Palestine, điều mà Hoa Kỳ hiện không công nhận và các quan chức Israel thường bác bỏ. Nhiều đồng minh của Hoa Kỳ, bao gồm Anh và Canada, đã công nhận một nhà nước Palestine vào tháng trước khi làn sóng phản đối các hoạt động quân sự của Israel tại Gaza ngày càng gia tăng.
Trả lời về vụ việc, Tổng thống Trump cho biết: “Thật hiệu quả.” Các chính trị gia khác có mặt đều hô vang tên Tổng thống.
Hamas đã đồng ý giai đoạn đầu tiên của đề xuất ngừng bắn và giải cứu con tin hồi đầu tháng này, mở đường cho một thỏa thuận hòa bình toàn diện hơn cho Gaza. Tổng thống Trump đã hạ cánh tại Ai Cập vào chiều thứ Hai giờ địa phương để tham dự hội nghị thượng đỉnh hòa bình, thảo luận về những gì Cairo cho là con đường “chấm dứt chiến tranh ở Dải Gaza, tăng cường nỗ lực mang lại hòa bình và ổn định cho Trung Đông, và mở ra một giai đoạn mới cho an ninh và ổn định khu vực”.
Theo đề xuất của Hoa Kỳ, Hamas đồng ý trao trả 20 con tin còn sống đang bị giam giữ tại Gaza, cùng với hài cốt của 28 người khác. Israel cũng đồng ý rút quân để kiểm soát khoảng một nửa vùng lãnh thổ này, và trả tự do cho 250 tù nhân Palestine và 1.700 người Gaza bị giam giữ sau các cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Việc các con tin được trả tự do đã được Israel chào đón trong niềm hân hoan. Người dân Gaza ăn mừng khi các tù nhân Palestine được đưa đến bệnh viện Nasser ở phía nam dải Gaza, theo hãng thông tấn Shehab của Palestine.
Nhưng trong một dấu hiệu cho thấy vẫn còn nhiều trở ngại phía trước, Hamas cho biết họ sẽ trả tự do cho bốn con tin đã chết vào thứ Hai, chứ không phải ngày 28. Bộ trưởng Quốc phòng Israel, Israel Katz, cho biết thông báo này là một “thất bại” và cảnh báo rằng “bất kỳ sự chậm trễ hoặc cố ý tránh né nào cũng sẽ bị coi là vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận và sẽ bị đáp trả tương ứng”.
Quân đội Israel cho biết vào tối thứ Hai theo giờ địa phương rằng họ dự kiến sẽ nhận được bốn chiếc quan tài từ IFRC.
Diễn đàn Con tin và Gia đình mất tích, đại diện cho nhiều người thân của các con tin bị bắt cóc từ Israel, cho biết “việc vi phạm thỏa thuận phải bị chính phủ và các bên trung gian giải quyết rất nghiêm khắc”.
Hamas từng nói rằng họ có thể cần thời gian để tìm thấy hài cốt của một số con tin đã chết.
Tháng này đánh dấu hai năm kể từ vụ tấn công ngày 7 tháng 10, khi các chiến binh do Hamas cầm đầu đã xâm nhập vào miền Nam Israel và giết hại khoảng 1.200 người. 251 người khác bị bắt làm con tin tại Dải Gaza.
Sau đó, Israel đã phát động chiến tranh tại dải Gaza, nơi đã bị tàn phá bởi các cuộc ném bom dữ dội và các hoạt động trên bộ của Lực lượng Phòng vệ Israel, gọi tắt là IDF.
Các cơ quan y tế Hamas tại Gaza cho biết hơn 67.000 người đã thiệt mạng tại vùng lãnh thổ này kể từ ngày 7 tháng 10 năm 2023. Con số này không phân biệt giữa chiến binh và dân thường và bị các quan chức Israel tranh cãi, nhưng được nhiều nguồn tin phương Tây trích dẫn.
[Newsweek: Donald Trump Interrupted in Israel Parliament by Protester]
7. Đồng minh của Putin đưa ra cảnh báo hạt nhân đáng ngại cho Tổng thống Trump
Tổng thống Alexander Lukashenko của Belarus, một đồng minh chủ chốt của Điện Cẩm Linh, cho biết việc Hoa Kỳ cung cấp hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk cho Ukraine để sử dụng chống lại Nga sẽ dẫn đến “chiến tranh hạt nhân”. Nga đã điều động vũ khí hạt nhân chiến thuật tới nước láng giềng Belarus và họ đã tổ chức một cuộc tập trận quân sự chung vào tháng 9 để thực hành phóng chúng.
Tổng thống Trump đang xem xét đề nghị của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy về việc cung cấp hỏa tiễn Tomahawk để Kyiv có thể tấn công các mục tiêu sâu bên trong lãnh thổ Nga, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng năng lượng, căn cứ quân sự và nhà máy vũ khí. Điều này cũng sẽ đặt Mạc Tư Khoa vào tầm ngắm của lực lượng Kyiv và, theo Tổng thống Zelenskiy, sẽ gây thêm áp lực lên Putin để đạt được hòa bình.
Tuy nhiên, Putin đã nói rằng động thái như vậy sẽ phá hỏng những cải thiện gần đây trong quan hệ Mỹ-Nga, và Tổng thống Trump cũng cảnh giác với việc leo thang xung đột mà ông đã cố gắng chấm dứt trong nhiều tháng qua, chủ yếu thông qua các nỗ lực ngoại giao với Mạc Tư Khoa. Với rất ít tiến triển, Tổng thống Trump hiện đang cân nhắc cách gây áp lực buộc Điện Cẩm Linh chấm dứt cuộc xâm lược Ukraine.
“Tomahawk sẽ không giải quyết được vấn đề. Chúng sẽ đẩy tình hình leo thang thành chiến tranh hạt nhân”, ông Lukashenko phát biểu tại một cuộc họp ở Minsk hôm thứ Ba, theo hãng thông tấn nhà nước BelTA. “Có lẽ Ông Donald Trump hiểu rõ điều này hơn ai hết, vì ông ấy không vội vàng giao nộp vũ khí sát thương này để tấn công sâu vào lãnh thổ Nga, như Tổng thống Zelenskiy đang trông cậy.”
Tổng thống Zelenskiy sẽ gặp Tổng thống Trump về hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine
Tổng thống Zelenskiy dự kiến sẽ đến Washington trong tuần này để gặp Tổng thống Trump và thúc đẩy vấn đề hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine trong khi tổng thống Mỹ cân nhắc quyết định. Nhà lãnh đạo Ukraine cũng nhiều lần kêu gọi các đối tác phương Tây tăng cường trừng phạt Nga và các đối tác kinh tế và chiến lược lớn của nước này, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ, để gây áp lực lên Mạc Tư Khoa.
Tomahawk là hỏa tiễn hành trình cận âm có tầm bắn lên tới khoảng 1.500 dặm. Ukraine sẽ cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ để sử dụng chúng một cách hiệu quả, bao gồm cả thông tin tình báo để tấn công sâu bên trong lãnh thổ Nga.
“Ngay lúc này, điều quan trọng là phải gửi đi tín hiệu rằng Ukraine sẽ được củng cố bằng mọi cách có thể. Và đây là một trong những biện pháp quan trọng đối với tôi - hỏa tiễn Tomahawk”, Tổng thống Zelenskiy phát biểu tại cuộc họp báo ngày 9 tháng 10, theo tờ Kyiv Independent đưa tin. “Tất cả những điều như vậy có thể củng cố Ukraine và buộc người Nga phải tỉnh táo hơn một chút, ngồi vào bàn đàm phán.”
Phát biểu trên chuyên cơ Không lực Một hôm Chúa Nhật khi đang trên đường đến Trung Đông, Tổng thống Trump nói với các phóng viên rằng ông đã có hai cuộc trò chuyện “rất tốt” với Tổng thống Zelenskiy vào cuối tuần. “Họ rất cần Patriot. Họ muốn có Tomahawk. Đó là bước tiến”, Tổng thống Trump nói, đồng thời nói thêm “chúng ta hãy chờ xem” và “có thể ông sẽ phải nói chuyện với Nga” về vấn đề này.
“Công bằng mà nói, tôi đã nói điều đó với Tổng thống Zelenskiy, vì Tomahawk là một bước tiến mới của sự hung hăng, đúng không?”
Tổng thống Trump nói ông có thể nói với Putin rằng nếu Nga không giải quyết cuộc chiến ở Ukraine, Tổng thống Zelenskiy sẽ phải nhận hỏa tiễn Tomahawk. “Tomahawk là một vũ khí đáng kinh ngạc, một vũ khí tấn công cực mạnh. Và thành thật mà nói, Nga không cần thứ đó”, Tổng thống Trump nói.
[Newsweek: Putin Ally Issues Ominous Nuclear Warning to Trump]
8. Báo cáo cho biết viện trợ quân sự cho Ukraine đã giảm ‘đáng ngạc nhiên’ trong những tháng gần đây
Một báo cáo của Viện Kiel công bố ngày 14 tháng 10 cho thấy viện trợ quân sự cho Ukraine đã giảm mạnh trong những tháng gần đây.
Viện trợ quân sự cho Ukraine đã giảm trong tháng 7 và tháng 8 mặc dù Danh sách Yêu cầu Ưu tiên của Ukraine, gọi tắt là PURL đã được đưa ra, cho phép các đồng minh NATO Âu Châu của Ukraine mua vũ khí cho Kyiv từ Hoa Kỳ.
Suspilne đưa tin vào ngày 18 tháng 9, trích dẫn lời một quan chức NATO giấu tên, rằng lô thiết bị quân sự đầu tiên theo chương trình PURL đã đến Ukraine một tháng trước đó.
Sự sụt giảm viện trợ quân sự trong tháng 7 và tháng 8 là điều đáng ngạc nhiên. Bất chấp sáng kiến PURL của NATO, Âu Châu đang giảm bớt hỗ trợ quân sự tổng thể. Điều quan trọng bây giờ là các con số sẽ thay đổi như thế nào vào mùa thu”, Christoph Trebesch, nhà lãnh đạo Bộ phận Theo dõi Hỗ trợ Ukraine và Giám đốc Nghiên cứu tại Viện Kiel, cho biết.
[Kyiv Independent: 'Surprising' drop in military aid to Ukraine in recent months, report says]
9. Tổng thống Trump nói Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ có thể làm trung gian hòa giải chiến tranh Nga-Ukraine
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan có thể giúp làm trung gian hòa giải cuộc chiến giữa Mạc Tư Khoa và Kyiv vì ông được Nga tôn trọng, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết vào ngày 13 tháng 10.
“Ông ấy được Nga kính trọng. Về Ukraine thì tôi không thể nói cho các bạn biết, nhưng ông ấy được Putin kính trọng”, Tổng thống Trump nói với các nhà báo trên chuyên cơ Không lực Một khi bay từ Ai Cập đến Washington.
Tổng thống Hoa Kỳ đưa ra bình luận này sau khi làm trung gian thành công cho thỏa thuận ngừng bắn giữa Israel và Hamas và tuyên bố nhóm của ông hiện sẽ chuyển trọng tâm sang việc chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.
Tổng thống Trump cho biết ông hòa hợp “với những người cứng rắn” khi nhắc đến Erdogan, lưu ý rằng các nhà lãnh đạo NATO khác thường yêu cầu tổng thống Hoa Kỳ làm trung gian hòa giải các tranh chấp của họ với Ankara.
Điện Cẩm Linh cho biết gần đây không có sự tham gia nào của Thổ Nhĩ Kỳ liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine, nhưng một cuộc gọi điện thoại giữa các nhà lãnh đạo có thể được nhanh chóng sắp xếp nếu cần.
Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov nói với hãng tin Kommersant thân chính phủ Nga rằng: “Không có liên hệ mới nào, nhưng chúng có thể được sắp xếp nhanh chóng”.
Tổng thống Trump và Erdogan trước đó đã gặp nhau tại Sharm el-Sheikh, nơi họ cùng các nhà lãnh đạo Qatar và Ai Cập ký thỏa thuận hòa bình Gaza với tư cách là bên trung gian.
Thổ Nhĩ Kỳ, một thành viên NATO thường bất đồng quan điểm với các đồng minh khác, cũng tự định vị mình là bên trung gian trong cuộc chiến Nga-Ukraine, duy trì quan hệ đối tác kinh tế và chính trị chặt chẽ với Mạc Tư Khoa đồng thời cung cấp vũ khí cho Kyiv.
Istanbul đã tổ chức ba vòng đàm phán hòa bình Nga-Ukraine vào đầu năm nay, dẫn đến các thỏa thuận mới về trao đổi tù nhân, cũng như các cuộc đàm phán ban đầu không thành công khi chiến tranh toàn diện nổ ra vào năm 2022.
Erdogan cũng đã góp phần làm trung gian cho thỏa thuận ngũ cốc Hắc Hải năm 2022, cho phép xuất khẩu nông sản của Ukraine bất chấp tình hình thù địch vẫn đang tiếp diễn. Hiệp ước này đã đổ vỡ một năm sau đó sau khi Mạc Tư Khoa đơn phương rút quân.
[Politico: Trump says Turkey's Erdogan could mediate Russia-Ukraine war]
10. Lukashenko sẵn sàng cho một ‘thỏa thuận lớn’ với Hoa Kỳ nếu nó phục vụ lợi ích của Belarus
Nhà độc tài Belarus Alexander Lukashenko phát biểu vào ngày 14 tháng 10 rằng ông sẵn sàng tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ miễn là động thái này phù hợp với lợi ích của Belarus.
Những bình luận này được đưa ra trong bối cảnh cuộc đối thoại giữa chính quyền Tổng thống Trump và Minsk, một đồng minh quan trọng của Nga trong cuộc chiến toàn diện chống lại Ukraine, đang ngày càng gia tăng.
“Chúng tôi sẽ chờ đợi những đề xuất lớn của họ, một thỏa thuận lớn, như họ vẫn thường nói. Họ thích những thỏa thuận lớn này”, ông Lukashenko phát biểu tại một cuộc họp chính phủ về quan hệ Mỹ-Belarus, theo hãng thông tấn nhà nước Belta.
“Chúng tôi sẵn sàng làm một thỏa thuận lớn với họ.”
Lukashenko không nêu rõ trọng tâm của thỏa thuận tiềm năng nhưng bày tỏ sự sẵn sàng tham gia vào các nỗ lực ngoại giao do Hoa Kỳ dẫn đầu nhằm chấm dứt chiến tranh Nga-Ukraine.
Nhà độc tài Belarus cũng lưu ý rằng cả Minsk và Washington đều có những câu hỏi và yêu cầu riêng liên quan đến mối quan hệ song phương, đồng thời cho biết thêm rằng ông coi đề xuất của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump là “hoàn toàn bình thường”.
“Nhưng lợi ích của chúng ta cũng phải được tính đến.”
Vào tháng 9, Hoa Kỳ đã hỗ trợ đàm phán thả 52 tù nhân chính trị thuộc nhiều quốc tịch khác nhau đang bị giam giữ tại Belarus, trong khi Washington đồng ý dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với hãng hàng không nhà nước Belavia của Belarus.
Đặc phái viên của Tổng thống Trump, Keith Kellogg, sau đó tiết lộ rằng mục tiêu của cuộc đối thoại mới với Belarus là “bảo đảm đường dây liên lạc” với Putin như một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.
Lukashenko, người đã cai trị Belarus từ năm 1994, đã cho phép lực lượng Nga tấn công Ukraine từ lãnh thổ Belarus khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu vào năm 2022. Kết quả là, Belarus phải đối mặt với các lệnh trừng phạt lớn của phương Tây và sự cô lập ngoại giao.
[Politico: Lukashenko ready for 'big deal' with US if it serves Belarus's interests]
11. Tổng thống Venezuela Maduro phản ứng với người đoạt giải Nobel Machado: ‘Phù thủy quỷ dữ’
Tổng thống Venezuela Nicolás Maduro đã chỉ trích gay gắt lãnh đạo phe đối lập María Corina Machado, gọi bà là “phù thủy quỷ dữ” vài ngày sau khi bà được trao giải Nobel Hòa bình năm 2025.
Machado, người được Ủy ban Nobel khen ngợi vì “công việc không mệt mỏi của bà trong việc thúc đẩy quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cuộc đấu tranh để đạt được sự chuyển đổi công bằng và hòa bình từ chế độ độc tài sang dân chủ”, đã ca ngợi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vì đã ủng hộ phong trào dân chủ của Venezuela.
Căng thẳng chính trị gia tăng ở Venezuela trong những tuần gần đây trong bối cảnh cuộc đối đầu leo thang giữa Caracas và Washington, quốc gia đã điều động lực lượng hải quân đến khu vực này để gây áp lực lên chế độ của Maduro.
Việc Machado được trao giải Nobel Hòa bình càng làm nổi bật sự chú ý toàn cầu đối với tình hình bất ổn chính trị tại Venezuela. Đất nước này đã trải qua nhiều năm suy thoái kinh tế, siêu lạm phát và chế độ độc tài dưới thời Maduro, với chính quyền liên tục tấn công vào các nhân vật đối lập. Sự nổi tiếng của Machado làm nổi bật cuộc đấu tranh cho các quyền dân chủ và những tác động rộng lớn hơn của cuộc khủng hoảng Venezuela đối với khu vực.
Giải thưởng này cũng liên quan đến quan hệ Mỹ-Venezuela. Dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ đã điều động lực lượng hải quân đến vùng biển Caribe gần Venezuela để chống lại nạn buôn bán ma túy có liên quan đến các mạng lưới tội phạm của nước này. Các đợt điều động này bao gồm tuần tra và tấn công có chủ đích vào các tàu bị nghi ngờ buôn lậu ma túy. Sự ủng hộ mạnh mẽ của Machado đối với các hoạt động này của Mỹ đã làm gia tăng căng thẳng cả trong nước lẫn quốc tế, làm dấy lên lo ngại về hậu quả của sự can thiệp của nước ngoài vào cuộc khủng hoảng chính trị ở Venezuela.
Trong bài phát biểu kỷ niệm Ngày kháng chiến của người bản địa vào Chúa Nhật, Maduro đã cáo buộc Machado kêu gọi sự can thiệp của nước ngoài.
Ông nói: “90% dân số phản đối mụ phù thủy quỷ dữ Sayona”, đồng thời cho biết thêm rằng người dân Venezuela không chỉ muốn hòa bình mà còn muốn “hòa bình với tự do, với chủ quyền”.
Thuật ngữ “Sayona” ám chỉ một linh hồn báo thù trong văn hóa dân gian Venezuela. Nó thường được sử dụng trên các phương tiện truyền thông nhà nước để hạ thấp Machado, người thường được gọi là “La Sayona”.
Machado dành tặng giải thưởng của mình cho “người dân Venezuela đang đau khổ” và Tổng thống Trump, ca ngợi những nỗ lực quốc tế và vai trò của ông trong việc gây áp lực buộc Maduro hướng tới nền dân chủ.
Vào thứ sáu, Tổng thống Trump xác nhận ông đã nói chuyện với Machado và mô tả cô là “rất tốt bụng” trong cuộc gọi của họ.
“Người thực sự đoạt giải Nobel đã gọi cho tôi hôm nay và nói, 'Tôi nhận giải này để vinh danh ông vì ông thực sự xứng đáng,'“ tổng thống Hoa Kỳ nói. “Một hành động rất đẹp. Tôi không nói, 'Vậy thì trao giải cho tôi đi,' mặc dù tôi nghĩ bà ấy có thể đã nói vậy. Bà ấy rất tốt bụng.”
Quyết định của Ủy ban Nobel đã nhận được nhiều phản ứng trái chiều. Những người ủng hộ coi giải thưởng này là sự công nhận cho sức mạnh kiên cường của phe đối lập Venezuela, trong khi những người chỉ trích cảnh báo rằng nó có thể kích động các cuộc đàn áp khắc nghiệt hơn từ chế độ Maduro.
Một số người cũng coi giải thưởng này như một tín hiệu bật đèn xanh cho việc Hoa Kỳ tăng cường áp lực lên Caracas, làm bùng lên cuộc tranh luận về ảnh hưởng bên ngoài trong cuộc khủng hoảng chính trị ở Venezuela và vai trò rộng hơn của các bên liên quan quốc tế trong việc định hình kết quả dân chủ.
[Newsweek: Venezuela’s Maduro Reacts to Nobel Winner Machado: ‘Demonic Witch’]
Tu viện lịch sử bị thiêu rụi, 21 nữ tu nhanh chân chạy thoát. Thánh tích tự di chuyển gây kinh ngạc
VietCatholic Media
17:02 15/10/2025
1. Video cho thấy ngọn lửa lớn thiêu rụi tu viện khi 21 nữ tu thoát nạn
Một vụ hỏa hoạn kinh hoàng đã thiêu rụi Tu viện Bernaga lịch sử gần Milan, Ý, vào tối thứ Bảy, các phương tiện truyền thông địa phương và các quan chức đưa tin.
Tu viện Bernaga, được thành lập năm 1628 tại La Valletta Brianza, cách Milan khoảng 19 dặm về phía đông, được công nhận là di sản kiến trúc. Theo nhiều báo cáo trên phương tiện truyền thông, đây cũng là nơi Thánh Carlo Acutis đã rước lễ lần đầu. Thánh Actuis là vị thánh đầu tiên trong thiên niên kỷ này của Giáo Hội Công Giáo được phong thánh. Chúa Nhật vừa qua đánh dấu ngày lễ đầu tiên kính nhớ Thánh Acutis.
Theo truyền thông địa phương, vụ hỏa hoạn bắt đầu vào khoảng sau 8 giờ tối giờ địa phương vào thứ Bảy và đã phá hủy một phần tòa nhà được xây dựng từ thế kỷ XVII.
Đội cứu hỏa đã điều động nhiều đội từ các thành phố lân cận để khống chế đám cháy.
Theo ủy viên hội đồng khu vực Massimo Sertori, 21 nữ tu đang cư trú tại tu viện đã được di tản an toàn. 19 nữ tu đã được chuyển đến tu viện Little Apostles ở Ponte Lambro, trong khi hai nữ tu khác đang ở trong một nơi trú ẩn gần Erba, Sertori cho biết.
Sertori cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội vào Chúa Nhật rằng ngọn lửa có thể đã lan rộng do chập điện ở một trong các phòng giam của tu viện, và nói thêm rằng thiệt hại đối với tòa nhà, nơi mà ông cho biết có chứa những bức tranh quý giá, là rất lớn.
Những hình ảnh được lực lượng cứu hỏa quốc gia Ý chia sẻ, cùng với các cảnh quay lan truyền trên mạng xã hội, cho thấy lính cứu hỏa có mặt tại hiện trường khi ngọn lửa gây thiệt hại đáng kể cho mái của công trình.
Source:Newsweek
2. Các tín hữu kinh hoàng nói: Triển lãm graffiti 'báng bổ' khiến nhà thờ Canterbury 'trông giống như một bãi đậu xe dưới hầm ở Peckham'
Một cuộc triển lãm graffiti mới tại Nhà thờ Canterbury đã bị mô tả là “phạm thượng” khi có người nói rằng nó khiến nhà thờ lịch sử trông giống như “một bãi đậu xe dưới hầm ở Peckham”.
Tác phẩm nghệ thuật sắp đặt 'Hear Us' cho phép mọi người đặt câu hỏi với Chúa, sau đó những câu hỏi này sẽ được dán lên các cột trụ, tường và sàn nhà xung quanh tòa nhà cổ kính ở Kent.
Trong khi một số người bày tỏ sự thích thú, nhiều tín hữu lại cảm thấy bị xúc phạm khi nhìn thấy các tác phẩm nghệ thuật này.
Một người cho rằng tác phẩm này là “phạm thượng” trong khi người khác lại nói rằng nó phù hợp hơn với bãi đậu xe ở phía nam Luân Đôn.
Những người khác hỏi, 'ai sẽ giúp tôi thoát khỏi những hình ảnh đồ họa phiền phức này?' và 'làm sao để mọi người không cảm thấy khó chịu?'.
'Thật kinh khủng. Nhà thờ Canterbury, các người đang làm gì vậy?', một người khác hỏi.
Trong khi một người khác nói: 'Không phải loại “nghệ thuật” mà tôi mong đợi ở một nhà thờ gothic cổ kính.'
Một người khác thắc mắc: “Tại sao không vẽ nó trên vải?”.
'Bất cứ ai thực sự chấp thuận điều này chắc hẳn không nghĩ rằng mọi người chúng ta khó chịu và ghê tởm khi xem nó. '
Hình ảnh theo phong cách graffiti tạm thời cũng được thêm vào cùng với các hình vẽ graffiti lịch sử của nhà thờ, bao gồm các dấu hiệu của người thợ xây cổ xưa có niên đại hàng trăm năm.
Tác phẩm sắp đặt này có những câu trả lời cho câu hỏi 'Bạn sẽ cầu xin Chúa điều gì?' bằng kiểu chữ graffiti hiện đã được gắn trên các cột đá, tường và sàn nhà thờ.
Một số câu trả lời bao gồm 'Bạn có ở đó không?' và 'Tại sao bạn lại tạo ra sự thù hận khi tình yêu mạnh mẽ hơn nhiều?'.
Những người khác đặt câu hỏi 'Mọi thứ đều có linh hồn sao?' và 'Bạn có hối hận về sáng tạo của mình không?'.
Ban tổ chức hy vọng sự tương phản nổi bật giữa kiến trúc cổ đại và thông điệp đương đại sẽ giúp khơi mào các cuộc trò chuyện xoay quanh các câu hỏi này.
David Monteith, Trưởng khoa Canterbury, người nhận ra khả năng Hear Us có thể gây chia rẽ dư luận, cho biết: “Có một sự thô sơ được phóng đại bởi phong cách graffiti gây rối loạn”.
'Những gì được nói ra cũng có tính tranh cãi vì nó không được lọc, không được chỉnh sửa hay khử trùng.
'Trên hết, bức tranh graffiti này khiến tôi tự hỏi tại sao tôi không phải lúc nào cũng có thể thành thật như vậy, đặc biệt là trong những lời cầu nguyện của mình.
'Triển lãm này cố tình xây dựng cầu nối giữa các nền văn hóa, phong cách và thể loại và đặc biệt cho phép chúng ta tiếp nhận những món quà từ những người trẻ tuổi, những người có nhiều điều để nói và là những người mà chúng ta cần lắng nghe nhiều.'
Tác phẩm này là sự hợp tác giữa nhà thơ Alex Vellis và giám tuyển Jacquiline Creswell với các cộng đồng thiểu số và một nhóm nghệ sĩ tài năng.
Nói về công việc hợp tác, nhà thơ Vellis cho biết thêm: 'Về cơ bản, dự án này là về cộng đồng, sử dụng tiếng nói của bạn và thay đổi.
'Ngôn ngữ là ngôn ngữ của những người nói ngôn ngữ đó, và graffiti là ngôn ngữ của những người không được lắng nghe.
'Bằng cách vẽ graffiti tạm thời bên trong Nhà thờ Canterbury, chúng ta sẽ cùng hòa vào giai điệu của những điều bị lãng quên, lạc lối và kỳ diệu.
'Những người muốn để lại dấu ấn của mình, muốn nói rằng 'Tôi đã ở đây' và muốn những bức khắc của họ truyền tải tiếng nói của mình qua nhiều thế kỷ.'
Người phụ trách bảo tàng, bà Creswell cho biết: 'Chắc hẳn chúng ta đều từng thắc mắc về những điều bí ẩn của vũ trụ, ý nghĩa của cuộc sống, hoặc trong thời điểm bất ổn, tìm kiếm lời khuyên?
'Trong bối cảnh thần học, việc đặt câu hỏi với Chúa được xem như một hình thức cầu nguyện, thiền định hoặc chiêm nghiệm, đổi lại nhận được sự hướng dẫn và an ủi từ một nguồn được tường trình toàn năng và từ bi.
'Bằng cách tìm đến Đấng thiêng liêng với những câu hỏi cá nhân, mỗi cá nhân có thể tìm thấy sự an ủi, sáng suốt và phương hướng giữa những điều bất định của cuộc sống.'
Hear Us chính thức khai trương vào thứ sáu, ngày 17 tháng 10 và kéo dài đến ngày 18 Tháng Giêng năm 2026.
Source:Daily Mail
3. Giáo phận cho biết thánh tích dường như tự di chuyển 'không phải có nguồn gốc siêu nhiên'
Giáo phận Lincoln, Nebraska, đã xác định rằng một thánh tích chuyển động “không có nguồn gốc siêu nhiên” sau khi video về hiện tượng rõ ràng này lan truyền trên mạng xã hội.
Video lan truyền mô tả một thánh tích hạng nhất của Thánh Gemma Galgani dường như tự di chuyển phía sau tủ trưng bày.
Du khách được tường trình đã đến Trung tâm Newman tại Đại học Nebraska-Lincoln để xem di vật có vẻ chuyển động này.
Nhưng một cuộc điều tra của giáo phận đã phát hiện ra rằng nguồn gốc của chuyển động này là một chiếc móc cong.
Cha Caleb La Rue, chưởng ấn của Giáo phận Lincoln, đã điều tra xem liệu thánh tích chuyển động này có thể có nguồn gốc siêu nhiên hay không với sự giúp đỡ của một linh mục khác.
Ngài nói với CNA rằng Giáo hội phải xem xét những điều như vậy với “sự hoài nghi lành mạnh” để xem liệu có bất kỳ nguyên nhân “tự nhiên” nào gây ra những sự việc này hay không.
“Không phải là những điều này không thể xảy ra — tất nhiên, chúng hoàn toàn có thể xảy ra,” ngài nói. “Chúa có thể hành động theo vô vàn cách.”
Cha La Rue phát hiện móc treo bị cong, khiến một thánh tích tương tự cũng di chuyển theo cùng một cách khi treo trên cùng một móc. Khi thánh tích của Thánh Gemma được lấy ra khỏi móc, nó ngừng chuyển động. Cha La Rue cho biết do móc treo bị cong, trọng lượng của hộp đựng thánh tích có thể “không được phân bổ đều”.
Nhưng Cha La Rue cũng lưu ý rằng các phép lạ trên thế giới vẫn xảy ra và khuyến khích mọi người tìm kiếm những cách thông thường mà Chúa thể hiện sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
Cha La Rue cho biết: “Ngay cả khi không phải là điều siêu nhiên, tôi nghĩ rằng có điều gì đó mà Chúa muốn tất cả chúng ta rút ra được từ trải nghiệm này vì Người đã muốn hoặc cho phép điều đó xảy ra”.
Thế nào được coi là phép lạ?
Các nhà chức trách Giáo hội điều tra những phép lạ được tường trình có thật khi họ nhận được báo cáo. Những hiện tượng kỳ diệu này thường liên quan đến Bí tích Thánh Thể, các lần Đức Mẹ hiện ra, và các phép lạ chữa lành, cùng nhiều điều khác.
Michael O'Neill, một chuyên gia về phép lạ, người đã phát triển một trang web theo dõi phép lạ và là người dẫn chương trình “Miracle Hunter” hay “Người săn tìm phép lạ” của EWTN, nói với CNA rằng Giáo hội “sẽ không điều tra một thánh tích chuyển động trong thời hiện đại”.
“Theo truyền thống, chỉ có một vài loại phép lạ được điều tra, cụ thể là phép lạ chữa lành, phép lạ Đức Mẹ hiện ra, phép lạ Thánh Thể, tượng hoặc một bức tượng khóc, và các tượng thánh không bị hủy hoại trong các tai ương thiên nhiên,” O'Neill nói. “Và mỗi loại đều có quy trình điều tra riêng.”
Tuy nhiên, Cha La Rue lưu ý rằng không phải là không có khả năng một di vật có thể di chuyển một cách kỳ diệu theo cách này.
“Tất nhiên là có thể. Có rất nhiều điều kỳ diệu xảy ra mỗi ngày,” Cha La Rue nói. “Bạn không muốn làm giảm nhiệt huyết một cách vội vã. Nhưng đồng thời, Giáo hội cũng thận trọng vì một lý do, bởi vì Giáo hội muốn chúng ta tập trung vào những điều thực sự kỳ diệu.”
Liệu phép lạ vẫn còn xảy ra không?
Giáo hội đã ghi nhận nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa bệnh, Bí tích Thánh Thể và sự hiện ra của Đức Mẹ.
Phép lạ chữa lành đặc biệt quan trọng trong việc điều tra các vị thánh tiềm năng. Những người muốn trở thành thánh cần phải có nhiều phép lạ chữa lành được ghi nhận nhờ lời chuyển cầu của họ trước khi Giáo hội phong thánh cho họ.
Theo O'Neill, những phép lạ chữa lành này trải qua một cuộc điều tra kỹ lưỡng theo “Tiêu chuẩn Lambertini”. Một phép lạ chỉ có thể được xác nhận nếu không có lời giải thích khoa học nào cho việc chữa lành.
Giáo phận Lincoln lưu ý trong một tuyên bố rằng phép lạ vẫn xảy ra, đặc biệt là phép lạ Bí tích Thánh Thể, trong đó bánh và rượu được thánh hiến trở thành thân thể, máu, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu.
Giáo phận cho biết trong một tuyên bố chia sẻ với CNA vào thứ năm rằng: “Thiên Chúa bao quanh chúng ta bằng những phép lạ mỗi ngày, với sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể là điều nổi bật nhất”.
Cha La Rue lưu ý rằng Trung tâm Newman có hoạt động tôn thờ Thánh Thể cả ngày, nơi sinh viên và nhân viên đến cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô.
Cha La Rue cho biết: “Trong suốt thời gian sự việc này xảy ra, luôn có nghi thức trưng bày Thánh Thể”.
Ngài lưu ý rằng Bí tích Thánh Thể “là dấu chỉ cuối cùng về sự hiện diện lâu dài của Thiên Chúa với dân Người và mong muốn trở thành một phần trong cuộc sống của chúng ta”.
“Ngay cả khi điều này không phải là điều mà một số người hy vọng, điều đó không có nghĩa là Chúa vẫn không hiện diện nhiều trong cuộc sống của chúng ta. Đôi khi có lẽ chúng ta không để ý đến những điều nhỏ nhặt mà Ngài thể hiện.”
O'Neill lưu ý rằng các chuẩn mực chính thức để giải quyết phép lạ đã được điều chỉnh vào năm ngoái, nghĩa là Giáo hội không tuyên bố rõ ràng các sự kiện là siêu nhiên, mà sử dụng thuật ngữ “nihil obstat”, có nghĩa là “không có gì cản trở”.
Điều này có nghĩa là phép lạ có “dấu hiệu” của Chúa Thánh Thần và không có gì “quan trọng hay nguy hiểm” được phát hiện.
Trong khi nihil obstat là danh hiệu cao nhất mà một phép lạ được đề xuất có thể nhận được trong thời hiện đại, thì theo các chuẩn mực gần đây, Vatican cũng có thể lên án những phép lạ được tường trình có thật nếu Giáo hội thấy chúng đáng lo ngại, không có nguồn gốc siêu nhiên, hoặc thậm chí là gian lận.
Cha La Rue khuyến khích những người hy vọng vào phép màu hãy “lưu tâm đến những cách thông thường mà Chúa truyền đạt tình yêu và ân sủng của Ngài cho chúng ta trong suốt cả ngày”.
Cha La Rue cho biết: “Không nhất thiết phải là điều gì đó ngoạn mục, nhưng có rất nhiều cách nhỏ bé cho thấy Chúa luôn quan tâm đến chúng ta”.
Cha La Rue, người hiện đang cư trú tại Trung tâm Newman, lưu ý rằng cộng đồng sôi động này đang phát triển.
Ngài cho biết: “Đây là nơi những người trẻ thực sự gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, xây dựng tình bạn bền chặt và lâu dài dựa trên tình yêu chung dành cho Chúa và mong muốn sống một cuộc sống trọn vẹn, một cuộc sống vui vẻ”.
Khoảng 70 người đã gia nhập Giáo hội thông qua chương trình OCIA của trung tâm vào năm ngoái.
“ Số lượng người đến nhà thờ năm ngoái chỉ đơn giản là xuất hiện — không ai đến gặp họ cả,” Cha La Rue nói. “Chúng tôi chắc chắn có những người như vậy, nhưng rất nhiều người trong số họ tự đến.”
Cha cho biết Thánh lễ Chúa Nhật “chỉ còn chỗ đứng”.
“Tôi đã có thể nhìn thấy thực tế của những người trẻ khi nhận ra rằng thế giới không có câu trả lời — rằng những thứ của thế gian không làm họ thỏa mãn,” ngài nói. “Và họ đến đây để tìm thấy sự bình an, tình yêu và tự do đích thực nơi Chúa chúng ta.”
Source:Catholic News Agency
4. Những vấn đề với cụm từ “Người Công Giáo LGBTQ”
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “The Problem(s) with “LGBTQ Catholic”“, nghĩa là “Những vấn đề với cụm từ “Người Công Giáo LGBTQ”“.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Cha cố Richard John Neuhaus có mối quan hệ vừa yêu vừa ghét với tờ New York Times.
Cha Richard là một người ủng hộ nhiệt thành cho Thành phố New York, nơi mà đôi khi ngài mô tả như một bản xem trước của Giêrusalem Mới, nhưng tính địa phương hẹp hòi của tờ báo vẫn khiến ngài thỉnh thoảng coi tờ nhật báo uy tín nhất New York là một “bản tin giáo xứ”. Ngài thường xuyên chỉ trích các bài xã luận của tờ Times vì vẻ tự mãn cho rằng mình không thể sai lầm của chúng. Và rồi Cha Richard (và nhiều hơn thế nữa) tỏ ra khó chịu với chủ nghĩa tự do phản ứng nhanh nhạy của tờ Times, vốn, bằng cách ủng hộ mọi lý tưởng tả khuynh có thể tưởng tượng được, đã đẩy nhanh sự suy tàn của chính trị tự do thành việc thúc đẩy lối sống phóng túng. Do đó, Cha Richard đã đi trước Joseph Ratzinger nhiều năm trong việc đưa ra những cảnh báo về chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối, hậu quả chính trị không thể tránh khỏi của sự dịch chuyển văn hóa sang cánh tả của tờ Times.
Mặt khác, Cha Richard Neuhaus không thể tưởng tượng được việc bỏ qua tờ New York Times vào buổi sáng cũng như không thể tưởng tượng được việc bắt đầu một ngày mà không có nhiều tách cà phê, một bát Honey Nut Cheerios và một điếu thuốc.
Mối quan hệ yêu/ghét đó đã được kết tinh trong một sự việc trong những ngày Cha Richard còn là một mục sư Lutheran ở khu phố Bedford-Stuyvesant nghèo đói của Brooklyn, khi tờ Times từ chối gọi một mục sư da đen địa phương (từ phân khu thương mại toàn tòng Tin lành) là “Giám mục”. Trong cơn tức giận, Cha Richard Neuhaus đã viết thư cho AM Rosenthal, lúc đó là biên tập viên quản lý của tờ Times, và hỏi chuyện gì đang xảy ra. Người đàn ông này tự gọi mình là “Giám mục”. Người dân của ông ta gọi ông ta là “Giám mục”. Biển hiệu ở mặt tiền của cơ sở tôn giáo của ông ta xác định ông ta là “Giám mục”. Tờ Times nghĩ đó là ai, và tờ Times nghĩ họ đang làm gì, khi từ chối người đàn ông này danh hiệu mà ông ta và người dân của ông ta đã sử dụng?
Cuối cùng, Abe Rosenthal đã viết cho Cha Richard một bức thư cáu kỉnh, nói rằng, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng theo đúng quy định của tờ báo quốc gia, tờ Times từ nay sẽ gọi vị quý ông được nhắc đến là “Giám mục”. Bức thư kết thúc bằng một câu khiến Cha Richard Neuhaus cười phá lên trong nhiều thập niên: “Và vì vậy, thưa Cha Neuhaus, ngài có thể cảm thấy hài lòng khi biết rằng, khi nêu vấn đề này với chúng tôi, ngài đã đóng góp một phần nhỏ vào lịch sử thời đại chúng ta.”
Hoặc những từ ngữ có tác dụng tương tự, nếu tôi được tha thứ vì đã trích dẫn Richard Rich đáng ghét trong tác phẩm A Man for All Seasons.
Hơn ba mươi năm tình bạn và sự hợp tác, tôi hẳn đã nghe Cha Richard kể câu chuyện đó hàng chục lần, nhưng tôi không nghĩ mình đã nghĩ về nó nhiều hơn một hoặc hai lần kể từ khi ngài qua đời vào năm 2009. Sau đó, gần đây, tôi đọc một bài báo cho biết một giáo sĩ mà tôi ngưỡng mộ, người đã bày tỏ sự đồng cảm với cáo buộc rằng Giáo Hội Công Giáo ở phương Tây “bị ám ảnh” với các vấn đề về đạo đức tình dục, tuy nhiên bản thân ngài lại sử dụng thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ”.
Bây giờ, xét về mặt phép lịch sự, tôi đồng ý với nội dung khiếu nại của Cha Richard gửi Abe Rosenthal: mọi người thường nên được nhận diện theo cách họ tự nhận diện mình, và dù sao đi nữa, tờ New York Times không có thẩm quyền quyết định ai là giám mục và ai không phải là giám mục. Nhưng việc một giáo sĩ sử dụng thuật ngữ “Công Giáo LGBTQ” để chỉ bất kỳ thành viên nào của Giáo Hội Công Giáo, với tôi, lại là một vấn đề khác.
Đầu tiên, tôi thấy thật vô lý khi ít nhất là gật đầu tin tưởng vào lời cáo buộc rằng một số bộ phận của Giáo hội thế giới bị ám ảnh bởi đạo đức tình dục rồi sau đó lại sử dụng thuật ngữ cực đoan về tình dục “Công Giáo LGBTQ” — bất kể nguồn gốc của nó là gì, thì thuật ngữ này đều hạ thấp một cá nhân xuống thành ham muốn tình dục, sự bối rối hoặc cả hai.
Thứ hai, như đã được chỉ ra tại một số Thượng Hội đồng Giám mục, bắt đầu từ Thượng Hội đồng Giám mục 2018, cách sử dụng này không có cơ sở trong lịch sử Công Giáo, vì Giáo hội chưa bao giờ xác định các thành viên của mình bằng ham muốn tình dục. Điều này có nghĩa là việc gọi “người Công Giáo dị tính” cũng khiếm nhã như gọi “người Công Giáo LGBTQ”. Tại sao? Bởi vì “tất cả anh em đều là một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gal 3:28), và việc chia rẽ người Công Giáo theo cách này sẽ làm rạn nứt sự hiệp nhất của Giáo hội.
Cuối cùng, trong thời điểm chính trị và văn hóa này, thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ” vừa là phương tiện truyền tải một chương trình thần học — sự chuyển đổi những hiểu biết đã được xác lập của Công Giáo về con người và đời sống đạo đức — vừa là biểu tượng của nhiều mục đích chính trị khác nhau: những mục đích không hề bị nao núng chút nào bởi mối đe dọa từ “chế độ độc tài tương đối” của Đức Ratzinger. Thuật ngữ “Người Công Giáo LGBTQ” không mang tính mô tả trung lập; đúng hơn, nó khá nặng nề về mặt thần học và chính trị.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân, luôn cần đến ân sủng cứu chuộc của Chúa Kitô, như Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã mạnh mẽ nhắc nhở. Khi nhớ điều đó, có lẽ chúng ta sẽ bớt đi khuynh hướng phân định lẫn nhau (và chính mình) bằng ham muốn, khuynh hướng tình dục, hay hành vi tình dục.
Source:First Things