Ngày 27-10-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:49 27/10/2019

68. Ai muốn hiểu biết mình tiến bộ như thế nào trên đàng nhân đức, thì họ sẽ có thể nhìn thấy trong ngoài đức khiêm tốn của bản thân mình mỗi ngày tiến bộ như thế nào.

(Thánh Agathangelo of Vendome)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


--------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:53 27/10/2019
48. KHÔNG PHẢI ĐẤT QUÝ

Viên Liễu Phàm nói về địa lý rất giỏi, đã đi đến Quang Phúc để khảo sát địa vực, hỏi một người nông dân ở trong thôn:

- “Ông có nghe nói đến một vài nơi ở đây có tình trạng đất quý không ?”

Người nông dân trả lời:

- “Tiểu nhân sinh trưởng ở đây đã hơn ba mươi năm rồi, chỉ có thấy người đội mũ cánh chuồn chôn ở đất Quang Phúc, chứ chưa thấy người đội mũ cánh chuồn đến cúng tại phần mộ”.

Họ Viên không còn lời để nói, lủi thủi bỏ đi.

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 48:

Người đội mũ cánh chuồn tức là các quan trong triều đình, mà các quan thì phải có tiền bạc, mà có tiền bạc thì chắc chắn phải kiếm cho mình một phần mộ tốt, mà mộ tốt thì không phải là đất quý sao ?

Khoe mình nói giỏi về địa lý là một chuyện, nhưng biết long mạch đất quý tốt nằm ở vùng nào thì lại là chuyện khác, chuyện dễ dàng trước mắt là có người ta mách cho biết thấy người đội mũ cánh chuồn chôn ở đây nhưng không đoán ra đất tốt thì đúng là dở.

Có một vài người Ki-tô hữu nói về thánh kinh thần học, giáo lý, lý luận chữ này chữ nọ trong kinh thánh rất là hay và rất là uyên bác nhưng không có tính thuyết phục được người khác, bởi vì họ chỉ dùng lý trí có hạn và kiêu căng của con người để lý luận và chỉ trích người khác, và -có lúc- phản đối Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su, bởi vì kiêu ngạo thì che mất lý trí nên họ không nhìn ra một điều rất nhỏ nhưng quan trọng, đó là: Lời Chúa là sự bình an. Cho nên đem Lời Chúa để chỉ trích người khác với ý đồ kiêu ngạo thì sẽ bị Lời Chúa xét xử rất nặng nề…

Người khoe mình nói giỏi địa lý đã lủi thủi bỏ đi vì không hiểu được câu nói của người nông dân, nhưng người Ki-tô hữu thì không khoe mình nói giỏi nói hay về thánh kinh Lời Chúa, nhưng họ luôn khiêm tốn thực hành những gì mình đã hiểu được trong thánh kinh Lời Chúa.

Đó là người tài giỏi và hạnh phúc vậy…

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 30 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:55 27/10/2019
Chúa Nhật 30 THƯỜNG NIÊN

Tin mừng: Lc 18, 9-14.

“Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người Pha-ri-siêu thì không.”


Bạn thân mến,

Cuộc sống của con người với nhiều lo âu hơn là thoải mái, nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc, nhiều áp lực hơn là tự do. Cuộc sống của con người –qua mọi thế hệ- cũng đều cần đến một sức mạnh thần thiêng từ cõi vô hình đầy quyền thế giúp đỡ, để con người an vui sống và làm việc trong xã hội, chúng ta –những người Ki-tô hữu- gọi Đấng vô hình đó là Thiên Chúa và cầu nguyện với Ngài, nhưng có rất nhiều lần chúng ta cầu nguyện mà không thấy Thiên Chúa trả lời.

Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay đã đưa ra hai mẫu cầu nguyện của hai loại người, để cho chúng ta thấy được Thiên Chúa thích nghe lời cầu nguyện của loại người nào: của người thích phê bình, so đo, kiêu ngạo hay là của người có tâm tình khiêm tốn nhận biết tội mình để xin thương xót ?

Người Pha-ri-siêu cầu nguyện

Đây là lời cầu nguyện của người Pha-ri-siêu: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.

Lời cầu nguyện này đáng lý ra là được Thiên Chúa nhậm lời vì nó bao hàm lời chúc tụng ngợi khen và cảm tạ, nhưng trái lại, Thiên Chúa đã không nhậm lời cầu nguyện này, vì trong lời cầu nguyện có sự so đo phân bì và xúc phạm đến tha nhân, đó là nguyên nhân khiến cho lời cầu nguyện trở nên vô giá trị trước mặt Thiên Chúa và người đời.

Người Pha-ri-siêu đã so sánh mình với người thu thuế tội lỗi.

Trong cuộc sống, ai đem mình ra so sánh với người tội lỗi là chính họ tội lỗi hơn cả người tội lỗi, bởi vì phàm ai tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống. Tôn mình lên là coi mình hơn người khác, là đem danh dự của tha nhân đạp dưới chân mình, cho nên họ đã đi trên chông gai mà không biết và họ sẽ ngã quỵ vì chông gai đó chính là sự kiêu ngạo của mình.

Khi đem mình so sánh với người khác là xúc phạm đến họ, dù họ là người tội lỗi công khai hay bị người khác khinh dể, bởi vì một Ma-ri-a Mag-da-la đã được Đức Chúa Giê-su chữa lành, một thu thuế Gia-kêu lùn đã được vinh dự đón tiếp Đức Chúa Giê-su ngay tại nhà mình, một tên trộm bị án tử trên thập giá với Đức Chúa Giê-su đã được vào thiên đàng trước cả người Pha-ri-siêu và những kinh sư thông luật.

Người thu thuế cầu nguyện

Ông ta cầu nguyện cách ngắn gọn nhưng rất hiệu quả: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”.

Đây không thể là lời cầu nguyện lý tưởng đối với những người am hiểu Kinh Thánh, bởi vì nó không hội đủ điều kiện để trở thành lời cầu nguyện, nhưng nó lại có thế giá trước mặt Thiên Chúa và người thu thuế tội lỗi đã ra về bình an, bởi vì trong lời cầu nguyện đơn sơ này hàm chứa một tâm hồn trông cậy và khiêm tốn.

Đây không thể là lời cầu nguyện hay, nhưng đây là lời nói thỏ thẻ của người con biết nhận ra sai lầm của mình để xin cha mẹ thứ tha. Không một người cha người mẹ nào làm ngơ trước lời thú tội rất chân thành của đứa con mình, Thiên Chúa lại càng không thể “ngoảnh mặt làm ngơ” với lời cầu xin tha thứ rất khiêm tốn và chân thành của người tội lỗi, cho nên, lời cầu nguyện hay chưa chắc là lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng chỉ có lời cầu nguyện chân thành và khiêm tốn mới được Thiên Chúa nhậm lời.

Bạn thân mến,

Lời cầu nguyện của người Pha-ri-siêu và lời cầu nguyện của người thu thuế, đã cho chúng ta thấy được đâu là lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa và đâu là lời cầu nguyện không đẹp lòng Ngài.

Lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa không nhất thiết phải kể lể dài dòng, nhưng cần phải có tâm tình yêu mến, chân thành và khiêm tốn, bởi vì Thiên Chúa thích nghe lời cầu nguyện của những tội nhân biết hối cải, hơn là thích nghe lời cầu nguyện khách sáo của người tự cho mình là người công chính mà khinh dể tha nhân.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

---------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon
J.B. Đặng Minh An dịch
08:50 27/10/2019
Thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon đã diễn ra tại Đền Thờ Thánh Phêrô lúc 10g sáng Chúa Nhật 27 tháng Mười. Đồng tế với Đức Thánh Cha Phanxicô có đông đảo các nghị phụ tham gia Thượng Hội Đồng và các vị trong giáo triều Rôma.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:


Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta cầu nguyện qua ba nhân vật: trong câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giêsu, cả người Pharisêu và người thu thuế đều cầu nguyện; trong khi bài đọc thứ nhất nói về lời cầu nguyện của một người nghèo.

1. Lời cầu nguyện của người Pharisêu bắt đầu thế này: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa”.

Đây là một khởi đầu tuyệt vời, bởi vì lời cầu nguyện đẹp nhất là lòng biết ơn, là lời ngợi khen. Tuy nhiên, ngay lập tức chúng ta thấy lý do tại sao anh ta tạ ơn Chúa: “vì con không như những người khác” (Lc 18,11). Anh cũng giải thích lý do: anh ăn chay mỗi tuần hai lần, mặc dù vào thời đó luật chỉ buộc mỗi năm một lần; và anh dâng một phần mười tất cả các hoa lợi mặc dù thuế thập phân chỉ được quy định trên các sản phẩm quan trọng nhất (xem Đnl 14: 22ff). Nói tóm lại, anh ta tự hào vì anh ta thực hiện một số điều răn cụ thể ở mức độ tốt nhất có thể được. Nhưng anh ta quên mất điều răn lớn nhất: yêu mến Thiên Chúa và người lân cận mình (x. Mt 22: 36-40). Ngập tràn lòng tự tin về khả năng tuân giữ các điều răn, những công đức và đức hạnh của mình, anh ta chỉ tập trung vào chính mình. Bi kịch của người đàn ông này là anh ta không có tình yêu. Ngay cả những điều tốt nhất, nếu không có tình yêu, cũng chẳng là gì, như Thánh Phaolô nói (xem 1 Cô 13). Không có tình yêu, kết quả là gì? Cuối cùng anh ta tự khen mình thay vì cầu nguyện. Thực tế, anh ta không xin gì từ Chúa vì anh ta không cảm thấy cần thiết hay thiếu thốn điều chi, trái lại, anh ta cảm thấy rằng Chúa đang nợ anh ta một cái gì đó. Anh ta đứng trong đền thờ của Thiên Chúa, nhưng anh ta tôn thờ một vị thần khác: đó chính anh ta. Và nhiều nhóm “thế giá” các “Kitô hữu Công Giáo”, cũng đi theo con đường này.

Khi cầu nguyện cùng với Chúa, anh ta quên mất người hàng xóm của mình; thật vậy, anh ta coi thường người ấy. Đối với người Pharisêu này, hàng xóm của anh ta chẳng đáng chi, không có giá trị gì. Anh ta tự coi mình là tốt hơn so với những người khác, những người mà anh ta gọi thẳng ra là “những người khác, phần còn lại” (loipoi, Lc 18:11). Nghĩa là, họ là “phần sót lại” , họ là đồ phế thải mà người ta cần phải giữ khoảng cách. Đã bao lần chúng ta thấy điều này xảy ra, và lặp đi lặp lại trong cuộc sống cũng như trong lịch sử! Đã bao nhiêu lần những người nổi bật, như người Pharisêu này trong tương quan với người thu thuế, đã dựng lên các bức tường để tăng khoảng cách, khiến người khác cảm thấy bị từ chối nhiều hơn. Hay khi xem họ là lạc hậu và ít giá trị, xem thường truyền thống của họ, xóa bỏ lịch sử của họ, chiếm đất đai của họ và chiếm đoạt hàng hóa của họ. Biết bao giả định cho mình là ưu việt, đã được biến thành áp bức và bóc lột, tồn tại ngay cả ngày nay! Chúng ta đã thấy điều này trong Thượng hội đồng khi nói về việc khai thác thiên nhiên, bóc lột con người, lợi dụng cư dân Amazon, buôn người, buôn bán con người! Những sai lầm trong quá khứ không đủ để ngăn chặn việc cướp bóc người khác và gây ra những vết thương cho anh chị em của chúng ta và cho trái đất của chúng ta: chúng ta đã nhìn thấy nó trong khuôn mặt đầy sẹo của khu vực Amazon. Việc sùng bái chính mình tiếp tục một cách giả hình với các nghi thức của nó và “những lời cầu nguyện” - nhiều người là Công Giáo, họ xưng mình Công Giáo, nhưng đã quên họ là Kitô hữu và là con người – họ quên mất sự thờ phượng đích thực Thiên Chúa luôn luôn phải được thể hiện trong tình yêu một người lân cận. Ngay cả các Kitô hữu cầu nguyện và đi lễ mỗi Chúa Nhật cũng phục tùng thứ tôn giáo sùng bái bản thân này. Chúng ta hãy kiểm tra bản thân để xem liệu chúng ta cũng nghĩ rằng ai đó là thấp kém hơn mình và có thể bị gạt sang một bên, dù chỉ trong lời nói của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện xin ân sủng đừng coi mình là ưu tuyển, đừng tin rằng mình tốt lắm rồi, đừng trở nên cay cú và chê bai. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu chữa lành chúng ta tật nói xấu và phàn nàn người khác, coi thường người này hay người kia: những điều này không vừa lòng Chúa. Và trong Thánh lễ hôm nay, ơn Chúa quan phòng cho chúng ta được đồng hành không chỉ với những người bản địa Amazon, mà còn với những người nghèo nhất từ các xã hội phát triển của chúng ta: đó là những anh chị em khuyết tật từ Cộng đồng L’Arche. Họ ở cùng chúng ta, ngay các hàng ghế đầu.

2. Chúng ta hãy chuyển sang lời cầu nguyện khác. Lời cầu nguyện của người thu thuế giúp chúng ta hiểu những gì đẹp lòng Chúa. Anh ta không bắt đầu từ công trạng của mình mà từ những thiếu sót của anh ta; không phải từ sự giàu có của anh ta mà từ sự nghèo khó của mình. Anh không phải là người nghèo về mặt kinh tế - những người thu thuế rất giàu và có xu hướng kiếm tiền một cách bất công trên xương máu của đồng bào mình - nhưng anh cảm thấy nghèo trong cuộc sống, vì chúng ta không bao giờ sống sung mãn trong tội lỗi. Người thu thuế bóc lột người khác thừa nhận mình nghèo hèn trước mặt Chúa và Chúa đã nghe lời cầu nguyện của anh ta, chỉ bằng bảy từ nhưng là đó là một biểu hiện của sự chân thành. Trong thực tế, khi người Pharisêu đứng phía trước vững vàng trên đôi chân của mình (x v. 11), người thu thuế đứng xa và “thậm chí không dám ngước mắt lên trời” , bởi vì anh tin rằng Thiên Chúa thực sự cao cả, trong khi anh biết mình là người nhỏ bé. Anh “đấm ngực” (cf. v. 13), vì ngực là nơi của con tim. Lời cầu nguyện của anh phát sinh thẳng từ trái tim; nó là một lời cầu nguyện minh bạch. Anh đặt trái tim mình trước mặt Chúa, chứ không phải là dáng vẻ bên ngoài. Cầu nguyện là đứng trước đôi mắt Chúa - đó là Chúa nhìn tôi khi tôi cầu nguyện - không ảo tưởng, bào chữa hay biện minh. Thông thường những hối tiếc của chúng ta chứa đầy sự tự biện minh có thể khiến chúng ta bật cười. Khi đó không còn là hối hận nữa, nhưng dường như chúng ta đang phong thánh cho chính mình. Những lời tự biện minh của chúng ta là bóng tối và dối trá đến từ ma quỷ; ngược lại sự minh bạch trong tâm hồn chúng ta là ánh sáng, và sự thật đến từ Thiên Chúa. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời, và tôi rất biết ơn, các thành viên thân yêu trong Thượng hội đồng, rằng chúng ta đã có thể nói chuyện với nhau trong những tuần qua từ trái tim, từ sự chân thành và thẳng thắn, và đặt những nỗ lực và hy vọng của chúng ta trước mặt Chúa và anh chị em chúng ta.

Hôm nay, nhìn vào người thu thuế, chúng ta khám phá lại điểm khởi đầu: đó là từ xác tín rằng chúng ta, tất cả chúng ta, đang cần ơn cứu rỗi. Đây là bước đầu tiên để thật sự thờ phượng Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót đối với những ai nhìn nhận nhu cầu của mình. Mặt khác, gốc rễ của mọi lỗi lầm về tâm linh, như các tu sĩ xưa đã dạy, là tin rằng chúng ta là người công chính. Tự coi mình là công chính là rời bỏ Thiên Chúa, Đấng công chính duy nhất, để băng mình trong giá lạnh. Lập trường ban đầu này rất quan trọng đến nỗi Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một sự so sánh khác thường, khi Ngài đặt kề bên nhau trong dụ ngôn này người Pharisêu, là nhân vật ngoan đạo và sùng đạo nhất thời bấy giờ, và người thu thuế, là người tội lỗi tỏ tường. Phán quyết bị đảo ngược: người tốt nhưng tự phụ thì thất bại; còn người là một thảm họa nhưng khiêm nhường thì được Chúa nâng lên. Nếu chúng ta nhìn vào bản thân một cách trung thực, chúng ta sẽ thấy trong tất cả chúng ta có cả hình bóng của người thu thuế lẫn người Pharisêu. Chúng ta có một chút của người thu thuế vì chúng ta là kẻ có tội, và một chút của người Pharisêu vì chúng ta tự phụ, có thể tự biện minh cho chính mình, và là các bậc thầy trong nghệ thuật tự biện hộ. Điều này thường có thể có tác dụng với chính chúng ta, nhưng với Thiên Chúa thì không. Trò này không có tác dụng với Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện xin ân sủng biết cảm thấy bản thân mình cần đến lòng thương xót, vì chúng ta nghèo nàn trong tâm hồn. Vì lý do này, chúng ta phải liên kết với người nghèo, để nhắc nhở bản thân rằng chúng ta nghèo, để nhắc nhớ chính mình rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa chỉ hoạt động trong một bầu khí nhận ra sự nghèo khó trong tâm hồn.

3. Giờ đây chúng ta đến với lời cầu nguyện của người nghèo, từ bài đọc thứ nhất. Lời cầu nguyện này, sách Huấn Ca nói, “sẽ vọng lên tới các tầng mây” (35:21). Trong khi lời cầu nguyện của những người cho rằng mình là công chính vẫn còn ở trần gian, và bị nghiền nát bởi lực hấp dẫn của bản ngã; thì lời cầu nguyện của người nghèo được đưa thẳng lên cùng Chúa. Cảm thức đức tin của dân Chúa được tìm thấy nơi người nghèo “những người gác cổng trời”: trong khi cảm thức đức tin đã lạc mất trong phát biểu của người Pharisêu. Những người nghèo là những người sẽ mở rộng hay không cánh cổng của sự sống vĩnh cửu. Họ không được coi là những ông chủ trong cuộc sống này, họ không đặt mình lên trước người khác; vì họ đã có sự giàu có nơi một mình Chúa. Những người này là các biểu tượng sống động của lời tiên tri Kitô giáo.

Trong Thượng hội đồng này, chúng ta đã có cơ hội lắng nghe tiếng nói của người nghèo và suy ngẫm về sự bấp bênh trong cuộc sống của họ, luôn bị đe dọa bởi các mô hình phát triển săn mồi. Nhưng chính xác trong tình huống này, nhiều người đã làm chứng cho chúng ta rằng có thể nhìn thực tế theo một cách khác, chấp nhận nó với vòng tay rộng mở như một ân sủng, coi thế giới được tác tạo này không phải là một tài nguyên để khai thác mà là một ngôi nhà để giữ gìn, với niềm tin vào Chúa. Ngài là Cha chúng ta, và sách Huấn Ca nói một lần nữa, rằng “Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu” (câu 16). Đã bao nhiêu lần, ngay cả trong Giáo hội, tiếng nói của người nghèo không được lắng nghe và có lẽ bị chế giễu hoặc làm câm nín vì những tiếng nói ấy gây bất tiện. Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để có thể lắng nghe tiếng kêu của người nghèo: đây là tiếng kêu hy vọng của Giáo hội. Tiếng kêu của người nghèo là tiếng kêu hy vọng của Giáo Hội. Khi chúng ta xem tiếng kêu của họ là tiếng kêu của chính chúng ta, chúng ta có thể chắc chắn rằng, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ chạm tới những tầng mây.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Tóm lược Tài Liệu Cuối Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon
Vũ Văn An
23:29 27/10/2019
Vatican News, ngày 26/10, cung cấp bản tóm lược sau đây về Tài Liệu Cuối Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon vừa kết thúc với phiên họp cuối cùng chiều thứ Bẩy, 26 tháng 10, và Thánh Lễ Bế Mạc sáng Chúa Nhật 27/10/2019.

Năm chương, cộng với phần giới thiệu và phần kết luận ngắn gọn: Tài liệu cuối cùng của Phiên họp đặc biệt của Thượng hội đồng giám mục cho Vùng Toàn-Amazon được phát hành vào tối ngày 26 tháng 10, theo ý chí rõ ràng của Đức Giáo Hoàng. Tài liệu này đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm truyền giáo, hội nhập văn hóa, sinh thái toàn diện, bảo vệ các dân tộc bản địa, nghi lễ Amazon, vai trò của phụ nữ và các thừa tác vụ mới, đặc biệt là tại các khu vực thiếu tiếp cận với Bí tích Thánh Thể.



Hoán cải: đây là sợi chỉ xuyên suốt tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng Toàn Vùng Amazon. Hoán cải được phát biểu với các nhấn mạnh khác nhau: toàn diện, mục vụ, văn hóa, sinh thái và đồng nghị (synodal). Bản văn này là kết quả của cuộc trao đổi “cởi mở, tự do và tôn trọng” được thực hiện trong ba tuần làm việc của Thượng hội đồng, để kể lại câu truyện các thách đố và tiềm năng của vùng Amazon, vốn là “trái tim sinh học của thế giới”, trải rộng trên chín quốc gia và có hơn 33 triệu người sinh sống, trong đó có khoảng 2.5 triệu người bản địa. Tuy nhiên, vùng này, theo diện tích vốn dễ bị tổn thương nhất trên thế giới vì sự thay đổi khí hậu do con người gây ra, đang “tận lực chạy đua đến cái chết”. Và do đó, Tài liệu nhắc lại rằng một hướng đi mới là điều cần thiết để cứu nó, để tránh một tác động thảm khốc trên toàn hành tinh.

Chương I - Hoán cải Toàn diện

Ngay từ đầu, tài liệu đã khuyên chúng ta bước vào một “cuộc hoán cải toàn diện thực sự”, với một cuộc sống đơn giản và đạm bạc, theo cách của Thánh Phanxicô Assisi, để dấn thân vào việc liên kết hài hòa với “ngôi nhà chung”, vốn là công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Sự hoán cải như vậy sẽ dẫn dắt Giáo hội trở thành một Giáo hội “luôn di động”, bước vào trái tim của mọi dân tộc Amazon. Tiếng nói Amazon là một thông điệp về sự sống được phát biểu qua một thực tại đa sắc tộc và đa văn hóa, được tượng trưng nơi những khuôn mặt đa dạng sống trong đó. “Sống tốt”, và “làm tốt” là lối sống của người dân Amazon. Điều này có nghĩa là sống hòa hợp với chính mình, với người khác và với đấng tối cao, trong một liên thông đạt duy nhất giữa toàn bộ vũ trụ, để tạo ra một dự án sống trọn vẹn cho mọi người.

Nỗi đau khổ của Amazon: tiếng kêu của đất và tiếng kêu của người nghèo

Tuy nhiên, bản văn không quên nhiều nỗi buồn và bạo lực lớn hiện đang làm tổn thương và biến dạng Amazon, đe dọa chính sự sống của nó: tư hữu hóa các của cải tự nhiên; các mô hình sản xuất có tính trấn lột; nạn phá rừng đã ảnh hưởng đến 17% toàn vùng; ô nhiễm từ các ngành công nghiệp khai khoáng; thay đổi khí hậu; buôn bán ma túy; nghiện ngập; buôn lậu; việc kết tội các nhà lãnh đạo và bảo vệ lãnh thổ; các nhóm vũ trang bất hợp pháp. Trên cơ sở rộng lớn hơn, có câu truyện cay đắng về di dân ở Amazon ở nhiều bình diện khác nhau: tính di động truyền thống của các nhóm bản địa trong lãnh thổ của họ; buộc dân cư bản địa phải di cư; di dân quốc tế và người tị nạn. Tất cả các nhóm này cần được chăm sóc mục vụ xuyên biên giới, bao gồm quyền được tự do đi lại. Chúng ta đọc thấy, vấn đề di dân nên được đối đầu một cách có phối hợp bởi các Giáo hội ở biên giới. Ngoài ra, một công việc chăm sóc mục vụ thường trực phải được xem xét cho các di dân đang trở thành các nạn nhân của nạn buôn người. Tài liệu Thượng Hội Đồng cũng mời chúng ta chú ý đến việc di cư cưỡng bức của các gia đình bản địa ở các trung tâm đô thị, nhấn mạnh rằng hiện tượng này đòi “một đáp ứng mục vụ chung” ở các khu ngoại vi. Do đó, có lời khuyên thành lập các nhóm truyền giáo, phối hợp với các giáo xứ, sẽ có thể đối phó với khía cạnh này, cung ứng các nền phụng vụ hội nhập văn hóa và tạo điều kiện dễ dàng cho việc hội nhập các cộng đồng này vào các thành phố.

Chương II - Hoán cải mục vụ

Nhắc lại bản chất truyền giáo của Giáo hội là điều chủ yếu. Bản văn nói, truyền giáo không phải là một điều tùy chọn, bởi vì Giáo hội là truyền giáo, và hành động truyền giáo là mô hình cho mọi việc làm của Giáo hội. Ở Vùng Amazon, Giáo hội phải lấy Người Samaritanô nhân hậu làm mẫu mực, nghĩa là Giáo Hội phải ra ngoài để gặp gỡ mọi người. Giáo Hội phải là Mađalêna, được yêu thương và hòa giải để vui mừng loan báo Chúa Kitô Phục sinh, và phải là “Maria”, nghĩa là Giáo Hội phải sinh ra những đứa con trong đức tin, nhưng cũng phải được hội nhập văn hóa nơi các dân tộc được Giáo Hội phục vụ. Do đó, điều quan trọng là phải chuyển từ một thừa tác vụ “viếng thăm” sang một thừa tác vụ có mặt thường trực. Vì lý do này, Tài liệu Thượng Hội Đồng gợi ý rằng các Tu hội tu sĩ trên toàn thế giới thiết lập ít nhất một tiền đồn truyền giáo tại một trong các quốc gia của vùng Amazon.

Sự hy sinh của các vị tử đạo truyền giáo

Thượng hội đồng không quên nhiều nhà truyền giáo đã dành cả cuộc đời của họ để truyền bá Tin Mừng ở Amazon; những trang vinh quang nhất trong lịch sử đó đã được các vị tử đạo viết. Đồng thời, Tài liệu nhắc nhớ rằng việc loan báo Chúa Kitô trong vùng thường được thực hiện trong thông đồng với các quyền lực đàn áp người dân. Vì lý do này, ngày nay, Giáo hội có “cơ hội lịch sử tự tách mình” khỏi “các thế lực thực dân mới, bằng cách lắng nghe các dân tộc Amazon và thực hiện một cách minh bạch hoạt động tiên tri của mình".

Đối thoại đại kết và liên tôn

Trong bối cảnh này, cả đối thoại đại kết lẫn liên tôn đều rất quan trọng. Bản văn viết, đó là “nẻo đường truyền giảng tin mừng không thể thiếu ở Amazon”. Một mặt, nó phải lấy điểm xuất phát từ Lời Chúa để khởi diễn những nẻo đường hiệp thông thực sự. Mặt khác, liên quan đến đối thoại liên tôn, Tài liệu khuyến khích sự hiểu biết lớn hơn về các tôn giáo và giáo phái bản địa, để các Kitô hữu và người ngoài Kitô giáo, có thể cùng nhau hành động để bảo vệ ngôi nhà chung của họ. Vì lý do này, những khoảnh khắc gặp gỡ, nghiên cứu và đối thoại giữa các Giáo Hội Amazon và các tín đồ của các tôn giáo bản địa được đề nghị.

Nhu cầu cấp thiết cho thừa tác mục vụ bản địa và thừa tác vụ giới trẻ

Tài liệu tiếp tục nhắc nhớ sự cần thiết của một nền mục vụ bản địa, một nền mục vụ sẽ có một vị trí chuyên biệt trong Giáo hội: thực thế, điều cần thiết là phải tạo ra và duy trì “việc ưu tiên chọn các sắc dân bản địa”, và tạo ra một xung lực truyền giáo lớn hơn nơi các ơn gọi bản địa, để Amazon có thể được chính người Amazon truyền giảng tin mừng.

Hơn nữa, phải dành chỗ cho tuổi trẻ Amazon, với cả ánh sáng lẫn bóng tối của họ: đang bị chia rẽ giữa truyền thống và canh tân; đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng dữ dội về các giá trị; nạn nhân của những thực tại đáng buồn như nghèo đói, bạo lực, thất nghiệp, các hình thức nô lệ mới và khó tiếp cận giáo dục. Bản văn nhận định rằng họ thường kết thúc trong tù, hoặc tự tử. Tuy nhiên, những người Amazon trẻ tuổi có cùng ước mơ và hy vọng như những người trẻ tuổi khác trên thế giới - và Giáo hội, được kêu gọi trở thành sự hiện diện tiên tri, phải đồng hành với họ trên hành trình của họ, để ngăn chặn việc danh tính và lòng tự trọng của họ khỏi bị nguy hại hoặc bị phá hủy. Đặc biệt, Tài liệu gợi ý “một thừa tác vụ tuổi trẻ đổi mới và can đảm”, với một thừa tác mục vụ luôn tích cực, tập chú vào Chúa Giêsu. Thực vậy, những người trẻ tuổi là một nguồn cứ liệu thần học (theological “locus”) và là các nhà tiên tri của hy vọng, họ muốn trở thành những người chủ đạo, và Giáo hội Amazon muốn thừa nhận chỗ đứng của họ. Do đó, có lời mời cổ vũ các hình thức truyền giảng tin mừng mới, bao gồm cả việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, và giúp đỡ những người bản địa trẻ tuổi đạt được tính liên văn hóa lành mạnh.

Chăm sóc mục vụ tại các thành phố và gia đình

Bản văn cuối cùng của Thượng hội đồng sau đó đề cập đến chủ đề thừa tác mục vụ thành thị, đặc biệt chú ý đến gia đình. Ở các khu ngoại vi đô thị, họ phải chịu cảnh nghèo đói, thất nghiệp, thiếu nhà ở, cũng như vô số vấn đề về sức khỏe. Do đó, điều trở nên cần thiết là bảo vệ quyền của mọi người để mọi người đều có quyền truy cập như nhau các lợi ích mà thành phố phải cung cấp trên cơ sở các nguyên tắc bền vững, dân chủ và công bằng xã hội. Bản văn viết, điều cần thiết là chiến đấu, để trong “các thị trấn bùn lầy nước đọng”, các quyền căn bản có thể được bảo đảm. Thiết lập “một thừa tác vụ chào đón” cũng nên được coi có tính trung tâm, vì tình liên đới huynh đệ với di dân, người tị nạn và người vô gia cư sống trong bối cảnh đô thị. Trong lĩnh vực này, sự trợ giúp hợp lệ có thể phát xuất từ các cộng đồng giáo hội cơ bản, vốn là “hồng phúc của Thiên Chúa ban cho các Giáo hội địa phương của vùng Amazon”. Đồng thời, các chính sách công nhằm cải thiện phẩm chất cuộc sống ở các vùng nông thôn cũng được kêu gọi, để tránh việc người dân di chuyển không kiểm soát vào các thành phố.

Chương III - Hoán cải văn hóa

Tài liệu viết tiếp, hội nhập văn hóa và liên văn hóa là điều quan trọng, để đạt được một sự hoán cải văn hóa dẫn các Kitô hữu ra ngoài để gặp gỡ người khác và học hỏi từ họ. Thực thế, người dân Amazon với “mùi hương cổ xưa” của họ - một mùi hương cho thấy sự tương phản giữa sự tuyệt vọng mà người ta hít thở trên lục địa, với các giá trị hỗ tương, liên đới và ý thức cộng đồng của họ - cung ứng nhiều giáo huấn về sự sống và một viễn kiến toàn diện về thực tại có khả năng hiểu rằng trọn bộ sáng thế được nối kết với nhau ; và, do đó, bảo đảm một nền quản trị bền vững. Bản văn Thượng Hội Đồng lặp lại, Giáo hội cam kết liên minh với các sắc dân bản địa, đặc biệt trong việc tố cáo các cuộc tấn công vào cuộc sống của họ, các dự án thương mại trấn lột, chính sách diệt chủng và diệt sinh thái, và việc kết tội các phong trào xã hội.

Bảo vệ đất đai và bảo vệ sự sống

Bản văn viết, việc bảo vệ đất đai “không có mục đích nào khác ngoài việc bảo vệ sự sống”, và đặt căn bản trên nguyên tắc tin mừng bảo vệ phẩm giá con người. Do đó, cần phải tôn trọng các quyền tự quyết, phân định lãnh thổ của họ và tham khảo ý kiến trước của người dân bản địa về việc sử dụng đất đai của họ. Một điểm chuyên biệt được dành riêng cho các sắc dân bản địa trong các vùng cô lập tự nguyện, mà con số lên khoảng 130 ở Amazon ngày nay. Thường là nạn nhân của thanh lọc sắc tộc, Giáo hội phải thực hiện hai loại hành động, một có tính mục vụ và loại kia áp dụng áp lực để các chính quyền quốc gia chịu bảo vệ quyền lợi và tính bất khả xâm phạm của các lãnh thổ của những dân tộc này.

Thần học bản địa và lòng đạo đức bình dân

Do đó, theo quan điểm hội nhập văn hóa - nghĩa là nhập thể Tin Mừng vào các nền văn hóa bản địa - nền thần học bản địa đã được dành chỗ và cả lòng đạo đức bình dân nữa, mà các cách phát biểu của nó phải được đánh giá cao, đồng hành, phát huy và đôi khi phải “thanh tẩy”, vì chúng là những khoảnh khắc ưu hạng của việc truyền giảng tin mừng, một sự truyền giảng phải dẫn đến một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Việc loan báo Tin Mừng không phải là một diễn trình hủy diệt, mà là một diễn trình tăng trưởng và củng cố những “hạt giống của Lời Chúa” trong các nền văn hóa. Từ đó, có sự bác bỏ mạnh mẽ “lối truyền giảng tin mừng theo phong cách thuộc địa” và “duy cải đạo” để tiếp nhận lối loan báo hội nhập văn hóa nhằm cổ vũ một Giáo Hội có bộ mặt Amazon, biết tôn trọng và bình đẳng trọn vẹn với lịch sử, văn hóa và lối sống của người dân địa phương. Về phương diện này, Tài liệu của Thượng Hội Đồng đề nghị rằng các trung tâm nghiên cứu trong Giáo hội nên nghiên cứu và thu thập các truyền thống, ngôn ngữ, tín ngưỡng và khát vọng của người bản địa, khuyến khích nền giáo dục dựa trên bản sắc và văn hóa của chính họ.

Tạo ra một mạng lưới truyền thông giáo hội Toàn Vùng Amazon

Tài liệu viết tiếp, cả trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dự án giáo dục này nên cổ vũ kiến thức cổ xưa về y học cổ truyền trong mọi nền văn hóa. Đồng thời, Giáo hội cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở những nơi mà các chương trình chăm sóc sức khỏe quốc gia không với tới. Ngoài ra còn có lời kêu gọi mạnh mẽ phải có việc giáo dục về tình liên đới, đặt căn bản trên ý thức về nguồn gốc chung và tương lai chung của mọi người, cũng như một nền văn hóa truyền thông nhằm cổ vũ đối thoại, gặp gỡ và chăm sóc “ngôi nhà chung”. Một cách chuyên biệt, bản văn của Thượng Hội Đồng đề nghị tạo ra một mạng lưới truyền thông giáo hội Toàn-Vùng Amazon; một mạng lưới học thuật về giáo dục song ngữ và các hình thức giáo dục mới, và thậm chí cả học hàm thụ nữa.

Chương IV - Hoán cải sinh thái

Trước “một cuộc khủng hoảng môi trường xã hội chưa từng có”, Thượng Hội Đồng kêu gọi một Giáo hội Amazon có khả năng cổ vũ một hệ sinh thái toàn diện và một sự hoán cải sinh thái, theo đó, mọi “điều được nối kết với nhau”.

Sinh thái toàn diện, con đường duy nhất có thể có

Hy vọng rằng nhờ việc thừa nhận “các vết thương do con người gây ra” cho lãnh thổ, người ta có thể tìm ra các mô hình phát triển dựa trên công lý và tình liên đới. Điều này diễn dịch thành một thái độ biết liên kết việc chăm sóc mục vụ cho thiên nhiên với công lý cho những người nghèo nhất và thiệt thòi nhất trên thế giới. Sinh thái toàn diện không nên được hiểu như một con đường nữa mà Giáo hội có thể chọn cho tương lai, mà là con đường duy nhất có thể có để cứu vùng này khỏi sự khai khoáng trấn lột, khỏi sự đổ máu vô tội và khỏi việc kết tội những người bảo vệ Amazon. Giáo hội, trong tư cách là “thành phần của tình liên đới quốc tế”, nên phát huy vai trò trung tâm của sinh quần Amazon trong việc duy trì sự cân bằng của hành tinh và khuyến khích cộng đồng quốc tế cung cấp các nguồn lực kinh tế mới để bảo vệ nó, tăng cường các công cụ của quy ước khung về khí hậu.

Việc bảo vệ nhân quyền và các đòi hỏi của đức tin

Hơn cả một bổn phận chính trị và nghĩa vụ xã hội, bảo vệ và cổ vũ nhân quyền còn là những điều được Đức tin của chúng ta đòi hỏi. Trước nghĩa vụ Kitô giáo này, Tài liệu tố cáo sự vi phạm nhân quyền, cũng như sự phá hủy khai khoáng; trong liên minh với các Giáo Hội khác, tiếp nhận và hỗ trợ các chiến dịch chống đầu tư vào các công ty khai khoáng gây thiệt hại về xã hội và sinh thái cho Amazon; đề nghị một sự chuyển đổi năng lượng triệt để và tìm kiếm các hình thức năng lượng khác để thay thế; và cũng đề nghị việc phát triển các chương trình đào tạo để chăm sóc “ngôi nhà chung”. Các quốc gia được yêu cầu ngừng nghĩ vùng này như một nguồn tài nguyên vô tận, và cũng có vị hy vọng có được một “mô hình mới về việc phát triển bền vững” biết kết hợp khoa học và y học cổ truyền. Có kiến nghị cho rằng không được đặt các quan tâm thương mãi lên trên mối quan tâm đối với môi trường và nhân quyền.

Một Giáo hội liên minh với các cộng đồng Amazon

Lời kêu gọi nhận trách nhiệm: tất cả chúng ta được kêu gọi bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Các nhân vật chủ đạo của việc chăm sóc và bảo vệ cũng như bênh vực các dân tộc là chính các cộng đồng Amazon. Giáo hội là đồng minh của họ, cùng bước đi với họ, mà không áp đặt một cách hành động đặc thù nào; nhìn nhận sự khôn ngoan của các dân tộc liên quan đến tính đa dạng sinh học, và chống lại bất cứ hình thức cướp đoạt sinh học (biopiracy) nào. Có lời yêu cầu rằng các tác nhân mục vụ và các thừa tác viên thụ phong được đào tạo về sự nhạy cảm đối với môi trường xã hội này, theo gương của các vị tử đạo Amazon. Ý tưởng là tạo ra các thừa tác vụ để chăm sóc ngôi nhà chung.

Bảo vệ sự sống

Trong Tài liệu, cam kết của Giáo hội là bảo vệ sự sống “từ khi thụ thai đến lúc kết thúc tự nhiên của nó”, và cổ vũ đối thoại liên văn hóa và đại kết, để chống lại các cơ cấu của sự chết, tội lỗi, bạo lực và bất công. Hoán cải sinh thái và bảo vệ sự sống ở Amazon, đối với Giáo hội, là một lời kêu gọi “học bỏ, học hỏi và học hỏi lại để vượt qua bất cứ xu hướng nào nghiêng về các mô hình thực dân từng gây hại trong quá khứ”.

Tội lỗi sinh thái và quyền có nước uống được

Định nghĩa “tội sinh thái” như “một hành động hoặc một thiếu sót chống lại Thiên Chúa, chống lại người lân cận của mình, chống lại cộng đồng, môi trường”, các thế hệ tương lai và đức công bằng đã được đề nghị. Để trả món nợ sinh thái mà các quốc gia vốn nợ của Amazon, Tài liệu đề nghị tạo ra một quỹ hoàn cầu cho các cộng đồng Amazon, để bảo vệ họ khỏi những ham muốn trấn lột của các công ty quốc gia và đa quốc gia.

Thượng hội đồng nhắc nhớ “nhu cầu cấp bách phải khai triển các chính sách năng lượng nhằm giảm thiểu đáng kể lượng khí thải carbon dioxide và các loại khí khác liên quan đến việc biến đổi khí hậu”; cổ vũ các loại năng lượng sạch; và tập trung sự chú ý vào việc có nước uống được, một quyền căn bản của con người và là một điều kiện để thực hiện các nhân quyền khác.

Bảo vệ trái đất có nghĩa là khuyến khích việc tái sử dụng và tái biến chế; giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và chất nhựa; sửa đổi các thói quen ăn uống như tiêu thụ quá nhiều thịt và cá; áp dụng lối sống đạm bạc; trồng cây.

Trong bối cảnh này, có một đề nghị thiết lập một Văn phòng Mục vụ Xã hội Amazon, làm việc hợp lực với CELAM, CLAR, Caritas, REPAM, các Hội đồng Giám mục, các Giáo hội địa phương, các trường đại học Công Giáo và các thực thể phi giáo hội. Việc tạo lập một văn phòng Amazon tại Thánh bộ Cổ vũ việc Phát triển Con người Toàn diện cũng đã được đề nghị.

Chương V - Những cách hoán cải mới có tính đồng nghị

Vượt qua chủ nghĩa giáo sĩ trị và các áp đặt độc đoán; củng cố nền văn hóa đối thoại, lắng nghe và biện phân tâm linh; đáp ứng các thách đố mục vụ: đó là những đặc điểm mà việc hoán cải đồng nghị phải dựa vào; một sự hoán cải mà Giáo hội được kêu gọi phải tiến bước trong sự hài hòa, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần ban sự sống và với sự táo bạo của tin mừng.

Tính đồng nghị, thừa tác vụ, vai trò tích cực của giáo dân và đời sống thánh hiến

Thách đố là diễn giải các dấu hiệu của thời đại dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, và nhận diện nẻo đường phải đi theo để phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa. Các hình thức thi hành tính đồng nghị rất đa dạng và phải được phân quyền, chú ý đến các diễn trình địa phương, mà không làm suy yếu các mối dây nối kết với các Giáo hội chị em và với Giáo hội hoàn cầu. Liên tục với Công đồng Vatican II, tính đồng nghị, được diễn dịch thành tính đồng trách nhiệm và thừa tác vụ của mọi người; bằng cách đặc biệt chú ý đến sự tham gia của giáo dân, cả nam và nữ, được coi là “các diễn viên ưu tuyển”. Tài liệu giải thích, sự tham gia của giáo dân, cả về tham khảo lẫn lẫn việc ra quyết định trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo hội, phải được tăng cường và mở rộng, bắt đầu với việc cổ vũ và trao quyền các thừa tác vụ “cho nam giới và nữ giới theo nguyên tắc công bằng”.

Tài liệu đề nghị rằng các Giám mục “có thể ủy thác, trong một thời gian chuyên biệt, khi không có linh mục, việc thi hành chăm sóc mục vụ của các cộng đồng cho một người không được trao ban phẩm tính linh mục, nhưng là thành viên của cộng đồng”. Tài liệu quy định rõ, trách nhiệm đối với cộng đồng vẫn thuộc về vị mục tử.

Thượng hội đồng sau đó đề nghị đời sống thánh hiến “nên có khuôn mặt Amazon”, bắt đầu với việc củng cố các ơn gọi bản xứ. Bên trong đề nghị này là việc nhấn mạnh đến tính hành trình (itinerancy) của những người thánh hiến đối với những người nghèo khổ và bị loại trừ nhất. Tài liệu cũng yêu cầu rằng việc đào tạo phải tập trung vào tính hội nhập văn hóa, việc hội nhập văn hóa và đối thoại giữa các nền linh đạo và các vũ trụ quan của Amazon.

Một khoảnh khắc thuận lợi cho phụ nữ

Một không gian rộng rãi trong Tài liệu đã được dành cho sự hiện diện của phụ nữ. Như sự khôn ngoan của các bậc tổ tiên đã cho thấy, mẹ đất có khuôn mặt nữ tính; và trong thế giới bản địa, phụ nữ là “một hiện diện sống động và có trách nhiệm trong việc phát huy con người”. Thượng hội đồng yêu cầu tiếng nói của phụ nữ được lắng nghe, họ được hỏi ý kiến, họ được tham gia một cách cương quyết hơn vào việc đưa ra quyết định, họ có thể đóng góp vào tính đồng nghị của giáo hội, và nắm quyền lãnh đạo mạnh mẽ hơn trong Giáo hội, trong các hội đồng mục vụ, hay “ngay cả trong các lãnh vực cai quản”. Là các nhân vật chủ đạo và những người bảo vệ sáng thế và của ngôi nhà chung, phụ nữ thường là “nạn nhân của bạo lực thể xác, luân lý và tôn giáo, bao gồm cả nạn diệt nữ [feminicide]”. Bản văn tái khẳng định cam kết của Giáo Hội trong việc bảo vệ các quyền lợi của họ, đặc biệt đối với các phụ nữ di cư. Đồng thời, nó công nhận các thừa tác vụ được Chúa Giêsu giao phó cho phụ nữ và kêu gọi “duyệt lại Tự Sắc Ministeria quaedam của Thánh Phaolô VI, để, khi được đào tạo và chuẩn bị thỏa đáng, phụ nữ cũng có thể nhận được các thừa tác vụ giúp lễ (acolyte) và đọc sách, song song với các thừa tác vụ khác họ vốn đã thi hành.

Một cách chuyên biệt, trong những bối cảnh trong đó các cộng đồng Công Giáo được hướng dẫn bởi phụ nữ, tài liệu yêu cầu thành lập một thừa tác vụ công nhận phụ nữ là nhà lãnh đạo của cộng đồng. Thượng hội đồng nhận định rằng nhiều cuộc tham vấn về Amazon muốn có “chức phó tế vĩnh viễn cho phụ nữ”, một chủ đề hiện diện rất nhiều trong diễn trình làm việc của Thượng hội đồng tại Vatican. Tài liệu bày tỏ mong muốn của những người tham gia Thượng hội đồng được chia sẻ kinh nghiệm của họ và các suy tư đã xuất hiện từ trước đến nay với “Ủy ban nghiên cứu về chức phó tế Phụ nữ”, được thành lập năm 2016 bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô và “chờ đợi kết quả”.

Các phó tế vĩnh viễn

Việc cổ vũ, huấn luyện và hỗ trợ các phó tế vĩnh viễn được mô tả là khẩn cấp. Phó tế, dưới quyền của Đức Giám Mục, là để phục vụ cộng đồng, và ngày nay có nghĩa vụ cổ vũ sinh thái toàn diện, phát triển con người, chăm sóc về mục vụ và xã hội và phục vụ những người gặp phải tình huống dễ bị tổn thương và nghèo đói, khiến họ giống như Chúa Kitô. Do đó, cần phải nhấn mạnh vào sự đào tạo liên tục, được đánh dấu bằng học tập học thuật và thực hành mục vụ, trong đó vợ và con cái ứng viên cũng tham gia. Thượng hội đồng quy định rõ, giáo trình đào tạo nên bao gồm các chủ đề ủng hộ đối thoại đại kết, liên tôn giáo và liên văn hóa; lịch sử Giáo hội tại Amazon; cảm giới và tính dục; vũ trụ quan bản địa; và sinh thái toàn diện. Nó khuyến nghị rằng các đội đào tạo gồm các thừa tác viên thụ phong và hàng giáo dân và việc đào tạo các phó tế vĩnh viễn trong tương lai trong các cộng đồng bản địa sống dọc theo các dòng sông được khuyến khích.

Việc đào tạo các linh mục

Việc đào tạo các linh mục nên được hội nhập văn hóa: cần phải chuẩn bị các mục tử biết sống Tin Mừng; biết giáo luật; biết cảm thương, theo gương Chúa Giêsu; sống gần gũi với mọi người; có khả năng lắng nghe, chữa lành và an ủi, mà không tìm cách áp đặt bản thân; biểu lộ sự dịu dàng của Chúa Cha. Trong lĩnh vực đào tạo chức linh mục, Tài liệu hy vọng bao gồm các môn học như sinh thái toàn diện, thần học sinh thái, thần học sáng thế, thần học bản địa, linh đạo sinh thái, lịch sử Giáo hội Amazon và nhân chủng học văn hóa Amazon. Thượng hội đồng khuyến cáo rằng các trung tâm đào tạo, thích đáng hơn, nên được đưa vào thực tế của Amazon, và những người trẻ không phải người Amazon nên có cơ hội tham gia vào việc đào tạo như vậy ở khu vực Amazon.

Tham dự bí tích Thánh Thể và việc phong chức linh mục

Việc tham dự Thánh Thể là trung tâm của cộng đồng Kitô giáo. Thế nhưng, Thượng hội đồng nhận định, nhiều cộng đồng giáo hội trong lãnh thổ Amazon gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận Bí tích Thánh Thể. Có thể cả nhiều tháng hoặc thậm chí cả nhiều năm, một linh mục mới có thể trở lại cộng đồng để cử hành Thánh lễ hoặc ban các Bí tích Hòa giải và Xức dầu. Tài liệu tái khẳng định việc đánh giá cao luật sống độc thân như một hồng phúc của Thiên Chúa, vì nó cho phép linh mục cống hiến trọn vẹn con người của ngài cho việc phục vụ cộng đồng, và tài liệu làm mới lại lời cầu xin cho có nhiều ơn gọi vào lối sống độc thân. Nhìn nhận rằng, “kỷ luật này không được yêu cầu bởi chính bản chất của chức linh mục”; và xem xét khoảng rộng mênh mông của lãnh thổ Amazon và sự khan hiếm các thừa tác viên thụ phong, Tài liệu cuối cùng đề nghị “các thẩm quyền có năng quyền thiết lập các tiêu chuẩn và tư thái, trong khuôn khổ của Lumen gentium 26, để phong chức linh mục cho những người đàn ông phù hợp, những người đã tạo lập hợp pháp một gia đình ổn định, được cộng đồng tôn trọng, những người đã sống chức phó tế vĩnh viễn một cách có hiệu quả và là những người đã nhận được một sự đào tạo thỏa đáng về chức linh mục để duy trì đời sống của cộng đồng Kitô giáo qua việc rao giảng Lời Chúa và cử hành các Bí tích ở những vùng xa xôi nhất của Amazon. Tài liệu xác định rằng, về phương diện này, “một số vị ủng hộ phương thức phổ quát hơn đối với chủ đề”.

Một cơ cấu giáo hội vùng hậu Thượng hội đồng, và một đại học Amazon

Thượng hội đồng đề nghị tái cơ cấu hóa các Giáo hội địa phương theo quan điểm Toàn Vùng Amazon, thay đổi kích thước các khu vực địa lý rộng lớn của nhiều giáo phận; gom thành nhóm các Giáo hội đặc thù hiện đang có mặt trong cùng một khu vực; và tạo ra một Quỹ Amazon cho mục đích truyền giảng tin mừng. Ý tưởng tạo ra một cơ cấu giáo hội vùng hậu Thượng Hội Đồng, được tổ chức cùng với REPAM và CELAM, để tiếp nhận nhiều đề nghị xuất hiện tại Thượng hội đồng. Trong lĩnh vực giáo dục, có đề nghị thành lập một trường đại học Công Giáo vùng Amazon, dựa trên nghiên cứu liên ngành, hội nhập văn hóa và đối thoại liên văn hóa, và Kinh thánh trong khi tôn trọng các phong tục và truyền thống của người bản địa.

Một nghi lễ Amazon

Để đáp ứng theo phong cách Công Giáo đích thực yêu cầu của cộng đồng Amazon muốn thích nghi phụng vụ bằng cách sử dụng viễn kiến của họ về thế giới, các truyền thống, biểu tượng và nghi thức gốc của họ, cơ cấu giáo hội nói ở trên được yêu cầu thiết lập một ủy ban có năng quyền ủy nhiệm một cuộc nghiên cứu về việc khai triển một nghi lễ Amazon có thể “phát biểu gia tài phụng vụ, thần học, kỷ luật và linh đạo của Amazon”. Một nghi lễ như vậy sẽ là một bổ sung cho 23 nghi lễ riêng biệt đã có trong Giáo Hội Công Giáo, làm phong phú thêm công việc truyền giảng tin mừng; khả năng phát biểu niềm tin vào nền văn hóa của riêng mình; và cảm thức phân quyền và tính hợp đoàn mà Giáo Hội Công Giáo có thể phát biểu. Gợi ý cũng được đưa ra là một nghi lễ giáo hội như vậy sẽ bổ sung cho cách thức trong đó người Amazon chăm sóc lãnh thổ và liên quan đến nguồn nước của họ. Cuối cùng, để khuyến khích diễn trình hội nhập văn hóa đức tin, Thượng hội đồng bày tỏ nhu cầu cấp thiết phải thành lập các ủy ban để dịch thuật và soạn thảo các bản văn Kinh thánh và phụng vụ bằng các ngôn ngữ địa phương, “duy trì chất thể các bí tích và thích nghi chúng với mô thức, mà không quên điều chủ yếu". Âm nhạc và ca hát cũng nên được khuyến khích ở bình diện phụng vụ.

Trong phần kết luận Tài liệu, các Nghị phụ Thượng Hội Đồng khẩn cầu sự bảo vệ của Trinh nữ Amazon, Mẹ của Amazon, được tôn sùng dưới nhiều danh hiệu khác nhau trong vùng.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ truy điệu & an táng 81 hài cốt Tử Sĩ Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Thanh Phong / Viễn Đông
16:43 27/10/2019
LITTLE SAIGON, California - Một sự kiện đặc biệt vừa diễn ra tại Little Saigon, thủ đô tinh thần của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản. Đó là Lễ Truy Điệu và An Táng 81 Hài Cốt Tử Sĩ thuộc Đại đội 72, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Quân Lực VNCH sau hơn 33 năm được cất giữ tại cơ sở quân đội Hoa Kỳ tại Hawaii, và nay buổi lễ được tổ chức nhờ công của ông Jim Webb, cựu Bộ Trưởng Hải Quân dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan, cựu Nghị Sĩ Dân Chủ tiểu bang Virginia. Phu nhân của ông Webb là người Việt Nam.

Cựu Nghị Sĩ Jim Webb và phu nhân, vị đại ân nhân Gia Đình Mũ Đỏ VNCH. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Ông và Đại Tá Castagnetti, hai người là bạn thân khi còn chiến đấu tại Việt Nam trong cùng một binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Khi được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chuẩn thuận cho cựu Nghị Sĩ Jim Webb được làm người Giám Hộ để nhận 81 hài cốt tử sĩ Nhảy Dù VNCH từ Cơ Quan Tìm Kiếm Người Tù Binh, Mất Tích ở Hawaii, hai ông đã thành lập hội bất vụ lợi Lost Soldiers Foundation vào tháng 6, 2019 và hai ông đã liên lạc với bác sĩ Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam và giao cho luật sư McFadden lo thủ tục hành chánh.

Các ông đã có công đem được hài cốt 81 tử sĩ Nhảy Dù đến Little Saigon, Nam California để làm lễ truy điệu tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster, và an táng tại khu Tượng Đài Thuyền Nhân trong nghĩa trang Peek Funeral Home, Westminster vào sáng ngày thứ Bảy 26 tháng 10, 2019.

Ngoài Lễ Truy Điệu, và sau khi an táng, vào lúc 5 giờ 30 chiều cùng ngày còn có chương trình Lễ Tưởng Niệm, Thắp Nến, Cầu Nguyện và Hát cho những người nằm xuống do Gia Đình Mũ Đỏ phụ trách theo lễ nghi quân cách và truyền thống văn hóa Việt Nam.

Trước khi tường trình buổi lễ, chúng tôi ghi lại đôi nét về sự hy sinh của bốn quân nhân Hoa Kỳ và 81 chiến sĩ Nhảy Dù VNCH:

Vào ngày 11 tháng 12, 1965, chiếc vận tải cơ C123 của Không Lực Hoa Kỳ có số đuôi 64376 do Thiếu Tá Robert M. Horsky lái, phi công này từng lái pháo đài bay B52 trước khi lái vận tải cơ C123. Chiếc máy bay có phi hành đoàn gồm bốn quân nhân Hòa Kỳ và 81 lính Dù thuộc Đại Đội 72 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được không vận từ Pleiku về Tuy Hòa.

Phi cơ cất cánh lúc 10 giờ 18 phút sáng. Sau đó mọi điện đàm bị mất và màn hình radar cũng không còn dấu vết chiếc vận tải cơ C 123. Ngay sau đó, Hoa Kỳ đã cho máy bay trinh sát để tìm dấu vết phi cơ lâm nạn. Sau ba ngày 11, 12, 13 tháng 12, 1965 liên tiếp tìm kiếm nhưng không kết quả vì sương mù dầy đặc nên phải tạm ngưng tìm kiếm. Bảy ngày sau, trên phi cơ trinh sát, toán tìm kiếm đã phát hiện chiếc phi cơ lâm nạn bị gẫy nát chỉ còn khoảng 20 bộ nằm trên đỉnh núi về phía Tây Nam Tuy Hòa khoảng 20 dặm.

Phi cơ rớt nằm trên độ cao khỏang 4,000 bộ, toán trên phi cơ trinh sát không thấy có sự sống của phi hành đoàn và những người trên phi cơ lâm nạn. Sáu tháng sau đó, cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục nhưng không ai đặt chân vào được vì khu vực do lực lượng Việt Cộng kiểm soát. Phải 8 năm rưỡi sau, vào ngày 16 tháng 6, 1974, một toán tìm kiếm khác gồm hai cựu quân nhân VNCH và 8 người thợ rừng tiến vào khu vực phi cơ lâm nạn để quan sát tình hình trước.

Bảy ngày sau tức là 30 tháng 6, 1971 toán tìm kiếm trên lại vào và thu gom được 17 bao tải của những hiện vật rải rác phía ngoài chiếc vận tải cơ. Toán tìm kiếm không vào trong phi cơ được vì còn nhiều lựu đạn và đạn M79 chưa nổ.

Ngày 28 tháng 6, 1974 Hoa Kỳ đưa 17 bao tải hiện vật thu được qua Thái Lan để xác định và phân tích. Hài cốt bốn người Hoa Kỳ trong phi hành đoàn đã được đưa về Hawaii nhận dạng, sau đó đưa về an táng tại nghĩa trang Quốc Gia Arlington Hoa Kỳ.

Riêng 81 quân nhân Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù chuyển quân trên chiếc phi cơ đó, vì không có danh sách nên mãi đến hôm nay, qua sự thông báo của Gia Đình Mũ Đỏ trên các cơ quan truyền thông Việt Ngữ, và căn cứ trên các thẻ bài hay căn cước quân nhân, mới chỉ có 19 thân nhân của các tử sĩ xác nhận người thân của mình đã vĩnh viễn ra đi.

Số còn lại, đúng như lời ông Jim Webb nói với chính phủ và người dân Hoa Kỳ, “Chúng ta có thể không bao giờ biết những hài cốt này là ai, chỉ biết họ là những đồng minh của chúng ta. Sau buổi lễ, những người bị lãng quên này sẽ được yên nghỉ trong một nghĩa trang của người Mỹ gốc Việt lớn nhất trên đất nước chúng ta.”

Phát biểu trong dịp này, NS Jim Webb nói, “Tôi mới biết được trường hợp này hai năm trước đây. Sau nhiều tháng thương lượng khó khăn vế mặt ngoại giao và mặt luật pháp, giờ đây sự kiện này mới có thể xảy ra.

Những mảng xương và những món đồ cá nhân của họ đã được thu thập, tất cả hài cốt đã trộn lẫn vào nhau để có thể đưa vào trong một quan tài và được chuyển đến Bankok, Thái Lan. Những quân nhân Mỹ đã được xác định danh tính bằng phương pháp thử nghiệm DNA và được chôn cất chu đáo.

“Thế nhưng đối với những người lính VNCH vì họ không có bản kê khai trên chuyến bay nên vào năm 1986 hài cốt của họ được gửi tới phòng thí nghiệm POW/MIA ở Hawaii và đã được cất giữ tại đó trong suốt 33 năm qua.

“ Đã hai lần nhà cầm quyền Hà Nội từ chối nhận những hài cốt này để an táng tại Việt Nam, và vì họ cũng không phải là công dân hay quân nhân Hoa Kỳ nên cũng không có cách nào khác để vinh danh và chôn cất họ tại Hoa Kỳ.

“Họ là những người lính vô danh và thực sự là những người vô tổ quốc sau khi họ đã chiến đấu và hy sinh cho một đất nước mà hiện nay đã không còn
.”

21 phát súng tiễn đưa 81 tử sĩ về miền miên viễn. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Ông Jim Webb cũng phát biểu ca ngợi sự hy sinh của 81 tử sĩ Nhảy Dù và sự can trường của người Việt trong cuộc trốn chạy chế độ Cộng Sản vào cuối tháng Tư 1975.

Ông Jim Webb nói, “Đây sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của cuộc hành trình phức tạp dài 54 năm, bắt đầu trong một cuộc chiến ác liệt, xé nát đất nước chúng ta để lại 58,000 quân nhân Hoa Kỳ và hàng triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng. Những người lính này sẽ được an táng tại một nơi ghi nhớ sự can đảm và sự đóng góp của hàng trăm ngàn người tỵ nạn Việt Nam. Những người đã liều mạng ra khơi trong giai đoạn nguy hiểm nhất, hy sinh tất cả để có thể đến được đất nước Hoa Kỳ này.”

Chương trình Lễ Truy Điệu được bắt đầu vào lúc 9 giờ sáng thứ Bảy, ngày 26 tháng 10, 2019 (trùng vào ngày Quốc Khánh thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa) với nghi thức tiếp rước linh cữu mang hài cốt 81 tử sĩ Nhảy Dù một cách long trọng và trang nghiêm.

Cựu Nghị Sĩ Jim Webb, các cựu quân nhân Hoa Kỳ và cựu quân nhân QL/VNCH trong quân phục chỉnh tề làm hàng rào danh dự đón chào quan tài mang 81 hài cốt tử sĩ Nhảy Dù VNCH được rước vào lễ đài đặt trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Sau đó, toán rước Quốc, Quân Kỳ Mỹ do đơn vị U.S. Marine Corps Band phụ trách và toán rước Quốc, quân kỳ VNCH do toán hầu kỳ danh dự của QL/ VNCH phụ trách tiến vào vị trí ấn định. Mọi người nghiêm chỉnh chào cờ và hát vang hai bài Quốc Ca Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam cùng với Ban Tù Ca Xuân Điềm.

LM Đặng Văn Chín, Trung tá Hải Quân Hoa Kỳ làm phép huyệt mộ. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Sau đó, Linh Mục Đặng Văn Chín, cựu Tuyên Úy Quân Lực Hoa Kỳ dâng lời cầu nguyện:

Lạy Thượng Đế Chí Tôn cực Thánh, Hôm nay chúng con quây quần nơi đây để truy điệu và cầu nguyện cho 81 Tử Sĩ Nhảy Dù, thịt nát xương tan đã trải qua 9 năm nằm trên sườn núi, rừng sâu và 45 năm lưu đày!

“Họ là những Anh Hùng Vô Danh mà Đằng Phương đã ca ngợi: Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách / Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên / Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên / Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật / Nhưng máu họ đã loang vào mạch đất / Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông / Và anh hồn chung với tấm trinh trung / Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

“Nguyện xin Chúa Tể Trời Đất đón nhận linh hồn 81 anh hùng mũ đỏ can trường vào an hưởng hạnh phúc ngàn thu trên Thiên Đàng cực lạc
.”

Linh Mục Đặng Văn Chín cũng dâng lời cầu nguyện cho tất cả những tử sĩ vẫn còn đang mất tích trong những cuộc giao tranh, trong rừng sâu núi thẳm, ngoài biển khơi trong trận hải chiến Hoàng Sa, trong các mồ chôn tập thể thời Tết Mậu Thân và trên đồng ruộng, ven sông ở các trại tù cải tạo.

Nguyện xin anh linh, hương hồn cùng gương dũng cảm, hào chí quật cường bất khuất của các tử sĩ thúc đẩy và phù hộ chúng con và giới trẻ, Gia Đình Mũ Đỏ cùng đồng bào trong nước cũng như hải ngoại, can đảm vùng lên đoàn kết đấu tranh cho tự Do, Nhân quyền, Chủ Quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quê hương Việt Nam.

“Cúi xin Ơn Trên chúc lành, an ủi và phù hộ các thân nhân, gia đình bạn hữu 81 tử sĩ Nhảy Dù đã nằm xuống không một lời trối trăn, không một giây giã từ. Khẩn cầu cho linh hồn 81 tử sĩ Nhảy Dù cuối cùng rồi cũng trở thành những Thiên Thần Mũ Đỏ trên vương quốc vĩnh hằng. Tạ ơn Anh / Người anh hùng mũ đỏ / Tận hiến trọn đời cho Tổ Quốc Ghi Ơn. Amen
.”

Sau lời cầu nguyện, Cựu Nghị Sĩ Jim Webb, bác sĩ Nguyễn Quốc Hiệp (Chủ Tịch Trung Ương Gia Đình Mũ Đỏ); cựu Đại Úy Nhảy Dù Hoàng Tấn Kỳ (Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ Orange County và vùng phụ cận), mỗi vị lần lượt mang một Vòng Hoa Tưởng Niệm lên đặt trước linh cữu 81 hài cốt tử sĩ Nhảy Dù.

Sau nghi thức Tưởng Niệm, ban tổ chức mời Thị Trưởng Westminster ông Tạ Đức Trí, trong vai trò chủ nhà, phát biểu trước. Sau lời phát biểu, ông và Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ trao tặng cựu Nghị Sĩ Jim Webb, Bộ Trưởng Hải Quân Richard Spencer và ông McFadden mỗi người một tấm Bằng Tri Ân.

Sau đó đến ông Richard Spencer, Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ, ông Fred Smith, Chủ Tịch Federal Express, nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, cựu sĩ quan Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù và sau cùng là lời phát biểu của bác sĩ Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ Tịch Trung Ương Gia Đình Mũ Đỏ VNCH.

Trong lời phát biểu, các vị trên đều lên tiếng ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm, sự hy sinh cao cả của các tử sĩ Nhảy Dù VNCH. Bác sĩ Nguyễn Quốc Hiệp đã trao tặng Đại Tá Castagnetti, ông Jim Webb, ông McFadden mỗi vị một tấm Placque Tri Ân.

Trong lời phát biểu, Đại tá Castagnetti nói, “Chúng ta không chỉ vinh danh 81 tử sĩ Nhảy Dù này mà chúng ta vinh danh tất cả những chiến sĩ QL/VNCH, những người đã chiến đấu cho tổ quốc Việt Nam và nay con cháu họ, thế hệ tiếp nối cũng đang cầm súng bảo vệ nước Mỹ và đóng góp vào xã hội này.”

Niên trưởng Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Trung Ương, bác sĩ Hiệp cũng như cựu sĩ quan Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, anh Phan Nhật Nam đều kể lại đầu đuôi câu chuyện giống như những gì chúng tôi vừa nêu.

Sau các lời phát biểu, mọi người đều đứng lên cử hành nghi thức Tưởng Niệm, cựu Nghị Sĩ Jim Webb, Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ Richard Spencer, Đại Tá Castagnetti, Thị Trưởng Trí Tạ, BS Hiệp Nguyễn và ông Phan Nhật Nam lên trước linh cữu cúi đầu, trong khi tiếng kèn truy điệu do một người Ái Nhĩ Lan trổi lên nghe ai oán não nùng.

Cùng lúc đó, đội lính 1 St Marine Division Bank với 7 quân nhân mặc quân phục bắn 21 phát súng tiễn đưa, và Linh Mục Đặng Văn Chín một lần nữa đươc mời dâng lời cầu nguyễn tiễn biệt 81 tử sĩ Nhảy Dù.

Sau tất cả các nghi thức trên, linh cữu đựng hài cốt 81 tử sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù VNCH được di quan ra nghĩa trang Feek Funerald Home. Từ Tượng Đài ra đến ngoài đường All American Way, hai hàng quân danh dự gồm Hải, Lục, Không Quân và CSQG/VNCH mặc quân phục chỉnh tề giơ tay chào kính, trong lúc hàng ngàn người thinh lặng cúi đầu.

Bà Lê Thị Sẻ cầm tấm ảnh chồng bùi ngùi thương nhớ. (Thanh Phong/Viễn Đông)


Đoàn xe tang với chín xe Môtô Cảnh Sát dẫn đường, theo sau là một chiếc Limousine màu trắng chở quan tài trong đó có 81 hài cốt tử sĩ Nhảy Dù. Sau xe tang có 7, 8 xe Jeep quân đội thời VNCH gắn phù hiệu Nhảy Dù rồi đến xe của cựu NS Jim Webb và Chủ Tịch Trung Ương Gia Đình Mũ Đỏ VNCH, các vị khách người Hoa Kỳ, xe chở các binh chủng Mũ Đỏ, các Hội Đoàn Quân Đội bạn, các Hội Đoàn Dân Sự, sau cùng là đồng hương VN.

Đoàn xe vào tới nghĩa trang lúc 10 giờ 15. Tại đây có sự hiện diện của đại lão Hòa Thượng Thích Chơn Thành, Viện Chủ chùa Liên Hoa cùng tất cả thành viên Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ, thân nhân các tử sĩ, trong đó có bà Lê Thị Sẻ có chồng là tử sĩ Nguyễn Thảo, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tử nạn trong chuyến bay C123 và nay được an táng.

Bà Lê Thị Sẻ cho Viễn Đông biết, lúc chồng mất, bà mới có hơn hai mươi tuổi và sanh con mới 11 tháng.

Chiếc quan tài được phủ quốc kỳ VNCH và đặt trên huyệt mộ. Một toán lính mũ đỏ làm nghi thức thâu cờ, và trao cờ cho cựu NS Jim Webb, ông nhận lá cờ và trao lại cho bác sĩ Nguyễn Hiệp, Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ.

BS Hiệp nhận cờ và nói, “Đây là báu vật, là bằng chứng sự hy sinh của 81 tử sĩ Nhảy Dù, xin trao lại cho chiến hữu Hoàng Tấn Kỳ, Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ Nam Cali cất giữ để tôn thờ mãi mãi.”

Sau đó, Linh Mục Đặng Văn Chín dâng lời cầu nguyện, làm phép huyệt mộ rẩy nước thánh trên quan tài, và ban phục vụ của nghĩa trang bắt đầu hạ huyệt. Khi quan tài đang hạ huyệt, tiếng kèn chiêu hồn tử sĩ lại vang lên, các toán quân danh dự của Mỹ và Việt bồng súng chào, 21 phát súng lại được bắn lên trời tiễn đưa 81 tử sĩ vào lòng đất.

Cựu Nghị Sĩ Jim Webb là người đầu tiên lấy một bông hoa màu đỏ trao cho phu nhân bỏ xuống huyệt. Sau đó phần mộ 81 tử sĩ được lấp đất bằng phẳng. Trước phần mộ đã có làm sẵn tấm bia đứng rất đẹp bằng đá hoa cương đen. Buổi lễ truy điệu và an táng 81 hài cốt tử sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù VNCH theo lễ nghi quân cách của quân đội Hoa Kỳ kết thúc tốt đẹp tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ vào lúc 10 giờ 30 và tại Nghĩa Trang Feek Funerald Home vào lúc 11 giờ 45.

Hàng ngàn người tham dự, khuôn viên trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ không đủ chỗ đứng, nhiều người phải lên lầu 2 của Police Parking đối diện để theo dõi diễn tiến buổi lễ.

Niên Trưởng Bùi Đức Lạc, sĩ quan Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù trong trận Hạ Lào (1971), trên ngực áo đầy ắp huy chương, ông cho Viễn Đông biết cảm tưởng của mình, “Tôi rất vừa lòng vì các anh em đã được chôn xuống, như tôi thấy các anh em bị vất vưởng lâu quá, tôi rất đau lòng. Thực ra bây giờ tôi không biết tôi vui hay tôi buồn nữa, nhưng tôi rất hài lòng về chuyện chôn cất ngày hôm nay. Người nằm xuống cũng được ấm lòng mà thân nhân còn sống cũng đỡ tủi thân.”

Niên trưởng Bùi Đức Lạc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù cho Viễn Đông biết cảm tưởng của ông về buổi lễ. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Chiến hữu Hoàng Tấn Kỳ, Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ vùng Orange County và vùng phụ cận ngỏ lời cám ơn quý niên trưởng, chiến hữu và các cơ quan truyền thông cũng như đồng hương và kính mời tiếp tục tham dự lễ Tưởng Niệm, Thắp Nến Cầu Nguyện, Hát Cho Người Nằm Xuống được tổ chức vào lúc 5 giờ 30 chiều cùng ngày tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ theo Lễ Nghi Quân Cách và Văn Hóa Việt Nam.

(Nguồn: Viễn Đông Daily)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Phố Cũ Bên Sông/Old Town
Robert Helfman
21:47 27/10/2019
PHỐ CŨ BÊN SÔNG/OLD TOWN
Ảnh của Robert Helfman

Về thăm phố cũ bên sông
Không trung văng vẳng tiếng chuông nhà thờ.
(bt)
 
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, ngày 27/10/2019
VietCatholic Network
15:31 27/10/2019

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật ngày 27 tháng 10, 2019.

2- Tài liệu tổng kết của Thượng Hội Đồng Amazon đã được bỏ phiếu.

3- Chia sẻ Linh mục trên toàn cầu cũng là giải pháp cho vấn đề thiếu Linh mục ở Amazon.

4- Hai bổ nhiệm quan trọng tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.

5- 300 triệu Kitô hữu bị bách hại.

6- Đại hội Hội đồng Giới trẻ Đại kết tại Châu Âu.

7- Đại Hội Mùa Thu của các Giám mục Hoa Kỳ.

8- Bắt đầu án phong thánh cho một phụ nữ trẻ người Australia.

9- Một nửa làng ở Bangladesh lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

10- Đức Hồng Y Charles Bo chào mừng Đức Thánh Cha thăm Thái Lan và Nhật Bản.

11- Người Công Giáo Việt Nam tại Nhật mong chờ Đức Thánh Cha.

12- Giới thiệu Thánh Ca: Maria Mẹ Của Con.

Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết:
 
Giáo Hội Năm Châu 28/10/2019: Các con số thống kê về đời sống Giáo Hội Công Giáo
Giáo Hội Năm Châu
17:37 27/10/2019
1. Đức Thánh Cha gặp gỡ nhóm người bản địa.

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ một nhóm người bản địa tham gia Thượng hội đồng Vùng Amazon và nhìn nhận sự cần thiết phải đem Tin Mừng tới cho vùng này. (Tin Vatican)

Khoảng 3 giờ 30 chiều ngày thứ năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ khoảng 40 người dân bản địa, một số tham gia Thượng hội đồng Amazon, số khác tham gia vào các hoạt động văn hóa đang diễn ra song song với Thượng Hội đồng tại Rome. Nhóm này được Đức Hồng Y Claudio Hummes, người Brazil và Đức Tổng Giám Mục Roque Paloschi, giáo phận Porto Velho, Brazil tháp tùng

Theo tuyên cáo của ông Matteo Bruni, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh thì cuộc họp được mở đầu bằng hai bài phát biểu ngắn, được một người nữ và một người nam, đại diện cho người dân bản địa trình bầy. Họ bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha vì đã triệu tập Thượng hội đồng, và yêu cầu giúp đỡ thực hiện những ước muốn của dân bản địa, đảm bảo một nếp sống bình an và hạnh phúc cho người dân bản địa, chăm sóc vùng rừng núi của họ và bảo vệ vùng sông biển của họ cho con cháu được thừa hưởng trong tương lai!

Sau đó Đức Thánh Cha Phanxicô đáp từ ngắn cho những người hiện diện, nhấn mạnh đến cách rao giảng Tin mừng, như một hạt giống rơi xuống đất tốt làm phát sinh ra nhiều hoa trái... Liên quan đến Vùng Amazon, Văn phòng Báo chí Vatican tiếp tục thì Đức Thánh Cha đã nêu ra sự nguy hiểm của các hình thức thực dân mới.

Cuối cùng, Đức Thanh Cha Phanxicô đề cập đến nguồn gốc Kitô giáo, được phát sinh ra từ Do Thái, được phát triển trong thế giới Hy Lạp - Latinh, và sau đó lan tỏa đến các vùng đất khác như Slavic, Á Đông và Mỹ châu và Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại sự cần thiết phải tái truyền bá Tin Mừng. Mọi người có thể đón nhận được Tin mừng của Chúa bằng văn hóa riêng của quê hương đất nước họ sinh sống.

2. Nhận định của Đức Hồng Y Christoph Schönborn về Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon

Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna là thành viên của Ủy Ban Soạn Thảo Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon. Ngài nói với Đài Phát Thanh Vatican về việc lên tiếng của ngài tại Thượng Hội Đồng và suy nghĩ của ngài đối với các hình thức thừa tác vụ mới.

Đức Hồng Y nói rằng ngài đã không đưa ra đề nghị “vì tôi ở đây với tư cách là một trong số ít người châu Âu trong Thượng hội đồng, và tôi nghĩ vai trò của chúng tôi chủ yếu là lắng nghe”.

Vì vậy, ngài nghĩ rằng tốt nhất là đặt câu hỏi và không đưa ra các đề nghị.

“Câu hỏi đầu tiên của tôi là: ‘Sự kiện 60% dân số Kitô giáo ở vùng Amazon ít nhiều theo phái Ngũ Tuần có nghĩa gì?’ Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta, Giáo Hội Công Giáo mà rất nhiều người dân của chúng tôi đã rời khỏi Giáo Hội Công Giáo cổ truyền, nó có ý nghĩa gì đối với công việc mục vụ của chúng ta?”

Đức Hồng Y Schönborn nói, câu trả lời từ Thượng Hội Đồng là cần phải có một nền mục vụ không những chỉ viếng thăm - mà còn hiện diện nữa. Nếu những cộng đồng này, vốn phân tán trên cả hàng trăm kilômét trong vùng Amazon, được một linh mục đến thăm mỗi năm một lần, thì theo ngài, đó không phải là nền mục vụ hiện diện.

Ngài nhấn mạnh, “Phái Ngũ tuần hiện diện ở hầu hết các ngôi làng”, vì vậy thách đố không phải chủ yếu là các thừa tác vụ mới mà là sự hiện diện tốt hơn. Và hiện diện có nghĩa là ở tại chỗ, và có nghĩa là người ta sống ở đó”.

Đức Hồng Y Schönborn đã nhấn mạnh rằng có những giai đoạn cho mọi cuộc phong chức linh mục và giai đoạn đầu tiên là trở thành một phó tế.

Ngài kết luận, đã 50 năm, kể từ Vatican II, người ta đã bắt đầu với các phó tế vĩnh viễn, “vì vậy tôi nghĩ đáng đặt những câu hỏi này!”.

3. Đức Hồng Y Ấn Độ Oswald Gracias nhận xét về Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon

Đức Hồng Y Ấn Độ Oswald Gracias là một Nghị phụ Thượng hội đồng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm. Trong một cuộc phỏng vấn với Vatican News, ngài nhìn Thượng hội đồng và các vấn đề của nó theo viễn ảnh Ấn Độ.

Là một nghị phụ, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm, Đức Hồng Y Gracias là chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Ấn Độ (CBCI), nơi quy tụ các giám mục nghi lễ Latinh của Ấn Độ cũng như hai Giáo hội nghi thức phương Đông - Syro-Malabar và Syro Malankara.

Ngài từng là chủ tịch của Hội đồng Giám mục Công Giáo Ấn Độ (CCBI) theo nghi thức Latinh trong 3 nhiệm kỳ và cũng là cựu chủ tịch của Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC).

Lắng nghe những can thiệp khác nhau của Thượng hội đồng cho đến nay, Đức Hồng Y Gracias nói rằng ngài cảm thấy Giáo hội thực sự là một thân thể. Ngài nhận xét rằng châu Á, cũng như Ấn Độ, có những thách đố tương tự như người dân Amazon.

Đức Hồng Y bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cử ngài vào Thượng hội đồng vì ngài học hỏi được rất nhiều về những thách đố của người dân Amazon, hơi khác một chút nhưng như nhau về căn bản, như làm cho các giá trị Tin Mừng hiện diện và vươn tay ra với người nghèo ở các khu ngoại vi.

Một khía cạnh khác của Thượng hội đồng khiến Đức Hồng Y ngạc nhiên là sự quan tâm nhiệt tình của các giám mục Amazon dành cho những người nghèo khó đang đau khổ của các ngài. Các giám mục là tiếng nói của những người không có tiếng nói. Các ngài lắng nghe tiếng kêu than của người dân chống lại bạo lực, bóc lột, bất công và quan tâm sâu sắc đến tương lai của họ. Do đó, được hiện diện trong Thượng hội đồng là một kinh nghiệm học tập và là nguồn cảm hứng tốt đối với Đức Hồng Y Gracias.

4. Thủ tướng Abiy của nước Ethiopia giành được giải Hòa bình Nobel

Vị Thủ tướng rất linh hoạt của Ethiopia, Tiến sĩ Abiy Ahmed, đã được trao giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2019. Qua giải thưởng này những nỗ lực của ông nhằm chấm dứt sự thù hận giữa đất nước ông với Eritrea cũng như những cải cách tích cực khác mà ông đã đề ra đã được nhìn nhận.

Ông Chủ tịch Berit Reiss-Andersen của Tổ chức trao giải Hòa bình Nobel tại Na Uy đã công bố tin ông Abiy thắng giải vào thứ Sáu tuần qua ngày 18/10/2019.

Thủ tướng Abiy, một nhà lãnh đạo trẻ nhất của Châu Phi, mới 43 tuổi, đã đề ra nhiều thay đổi tích cực đến độ đất nước này cho là họ đang phải cố gắng lắm mới bắt kịp được những viễn kiến của ông.

Các nhà phê bình và bình luận cho hay những chương trình thẳng thắn của Thủ tướng Abiy dù trên thực tế nước Eritrea đã không đáp ứng lại các thỏa thuận hòa bình của Ethiopia… Tuy nhiên ông chủ tịch Berit Reiss-Andersen cho hay hiện tại, những nỗ lực của Thủ tướng Abiy Ahmed được thừa nhận và được đem ra thực hành.

Theo Tổ chức Giải Hòa bình Nobel thì dù đất nước Ethiopia còn nhiều việc phải làm, nhưng Thủ tướng Abiy Ahmed đã có công khởi xướng những cải cách quan trọng mang lại cho dân chúng nhiều hy vọng về một cuộc sống tươi đẹp và một tương lai sáng lạn. Ông đã dành 100 ngày đầu tiên trong chức Thủ tướng của mình để cứu nguy cho đất nước, ân xá hàng ngàn tù nhân chính trị, chấm dứt nạn kiểm duyệt báo chí, hợp pháp hóa các nhóm đối lập ngoài vòng kiêm tỏa của luật pháp, bãi nhiệm chức vụ của các tướng lãnh quân sự và dân sự tham nhũng, và bảo vệ và làm thăng tiến đáng kể vai trò nữ giới trong đời sống chính trị và cộng đồng của người Ethiopia. Ông cũng cam kết dân chủ hóa chính quyền qua việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng.

Vào tháng Giêng năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có dịp tiếp kiến Thủ tướng Chính phủ Ethiopia.

Theo một thông báo được Văn phòng Báo chí Vatican phát hành thì vào thời điểm đó, Tòa thánh và Thủ tướng Abiy đã có những cuộc đàm phán thân thiện.

Vào ngày 7 tháng 1, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ca ngợi nước Ethiopia và Eritrea đã có những mối giao hảo tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Abiy.

Đức Thánh Cha nói với các nhà ngoại giao rằng trong suốt năm qua, đã có dấu hiệu chung sống hòa bình được bảo đảm qua những thỏa thuận lịch sử giữa Ethiopia và Eritrea, nhằm chấm dứt hai mươi năm xung đột và khôi phục được mối giao hảo ngoại giao giữa hai nước.

Trước đây ngày 1 tháng 7 năm 2018, trong một buổi đọc Kinh Truyền tin tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài đã theo dõi các sự kiện đang diễn tiến ở Ethiopia.

Trong muôn vàn người, tôi muốn nêu lên một nhân vật có nhiều viễn kiến được cho là có tính cách lịch sử, và đó là một tin tuyệt vời! Giờ đây sau 20 năm, chính phủ của Ethiopia và Eritrea đang có những đàm phán về chung sống hòa bình với nhau...

5. Cải tiến Hiệp Ước Hang Toại Đạo, ưu tiên chọn người nghèo và bảo vệ môi trường

Một nhóm Nghị Phụ Thượng Hội Đồng lặp lại “Hiệp Ước Hang Toại Đạo”. Vatican News cho hay, theo chân một số Nghị Phụ Công Đồng (Vatican II) năm 1965, một nhóm tham dự viên tại Thượng Hội Đồng Amazon đã tới Hang Toại Đạo Domitilla để tái khẳng định phương thức thời danh “ưu tiên chọn người nghèo”.

Ngày 16 tháng 11 năm 1965, chỉ mấy ngày trước khi bế mạc Công Đồng Vatican II, 42 Nghị Phụ Công đồng đã cử hành một Thánh Lễ tại Hang Toại Đạo Domitilla, khẩn xin Thiên Chúa ban ơn “trung thành với tinh thần của Chúa Giêsu” trong việc phục vụ người nghèo. Sau khi cử hành Thánh Lễ ấy, các ngài đã ký “Hiệp Ước Toại Đạo về Một Giáo Hội Nghèo và Phục Dịch”. Sau đó, hơn 500 Nghị Phụ Công Đồng đã ghi tên các ngài vào Hiệp Ước.

Hơn 50 năm sau, di sản của các Nghị Phụ Công đồng đã được nối tiếp bởi một nhóm tham dự viên tại Thượng Hội Đồng Giám Mục cho vùng Toàn-Amazon, một Thượng Hội Đồng đang tập chú vào chủ đề “Những nẻo đường mới cho Giáo hội và cho một hệ sinh thái toàn diện”. Đức Hồng Y Claudio Hummes, Tổng tường trình viên của Thượng hội đồng, đã chủ trì thánh lễ tại hang toại đạo, sau đó, các Nghị phụ Thượng hội đồng đã ký một “Hiệp ước Toại Đạo mới về Ngôi nhà chung. Về một Giáo hội có khuôn mặt Amazon, người nghèo và người phục dịch, tiên tri và Samaritanô”.

6. Các con số thống kê về đời sống Giáo Hội Công Giáo

Nhân Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 93, được cử hành trong bối cảnh Tháng Truyền giáo ngoại thường tháng 10/2019, như thường lệ, hãng tin Fides đưa ra một số thống kê được chọn để cung cấp một cái nhìn toàn bộ về Giáo hội trên thế giới.

Các số liệu thống kê trích từ Niên giám Tòa Thánh và được cập nhật ngày 31/12/2017, liên quan đến các thành phần trong Giáo hội, các cơ sở mục vụ, các hoạt động trong lãnh vực y tế, từ thiện và giáo dục.

Dân số thế giới gia tăng

Theo thống kê này, cho đến ngày 31/12/2017, dân số thế giới là 7.408.374.000; tăng hơn 56 triệu người so với năm 2016 trước đó. Dân số gia tăng cao nhất là tại châu Phi, rồi đến châu Á, tiếp đến là châu Mỹ, châu Âu và châu Đại dương. Đặc biệt, sau 3 năm liên tục giảm, dân sô châu Âu tăng hơn 1 triệu người trong năm 2017.

Số tín hữu Công Giáo cũng gia tăng

Cũng vào cùng ngày cuối năm 2017, số tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới là 1.313.278.000, tăng 14.219.000, bằng với số tín hữu gia tăng trong năm 2016. Sau 3 năm liên tục giảm, số tín hữu Công Giáo tại châu Âu tăng 259 ngàn trong năm 2017. Số tín hữu tại các châu lục khác cũng gia tăng, nổi bật là châu Phi với hơn 5,5 triêu, tiếp đến là Mỹ châu với hơn 6 triệu, và Á châu hơn 2 triệu.

Số tín hữu trung bình cho một linh mục

Với tỷ số gia tăng, tỷ lệ trung bình giáo dân mà một linh mục phải chăm sóc mục vụ cũng gia tăng; trung bình là 3.168 tín hữu cho một linh mục. Tại Mỹ châu, Âu châu và châu Đại dương, số tín hữu trung bình mỗi linh mục chăm sóc gia tăng, nhưng tại Á châu và Phi châu thì lại giảm.

Số cơ sở truyền giáo có một linh mục thường trú tăng thêm 2.659; đặc biệt tại Mỹ châu tăng thêm 460 điểm và Á châu thêm 133, trong khi tại châu Phi và châu Âu có suy giảm. Cách chung, các cơ sở truyền giáo không có linh mục thường trú giảm tại tất cả châu lục, tổng cộng giảm bớt 4.696 cơ sở.

Giám mục, linh mục

Số Giám mục trong năm 2017 là 5389 vị, tăng thêm 36 vị so với năm 2016. Số linh mục giảm 387 vị so với năm 2016, còn 414.582 vị; trong số này có 281.810 linh mục triều và 132.772 linh mục dòng. Số linh mục tại châu Âu giảm nhiều nhất, 2.946 vị, trong khi tại châu Phi và châu Á, mỗi nơi tăng hơn 1000 vị.

Số phó tế vĩnh viễn gia tăng thêm 582 vị, với tổng số là 46.894 vị; châu Mỹ có số phó tế vĩnh viễn tăng thêm nhiều nhất, 408 vị, tiếp đến là châu Âu, 142 vị.

Tu sĩ

Các nam tu sĩ không phải là linh mục giảm năm thứ năm liên tiếp; năm 2017 giảm gần 1100 vị, xuống còn 51.535 vị. Chỉ có tại châu Phi tăng 48 vị, còn tại các châu lục khác đều giảm.

Số nữ tu cũng giảm bớt 10.535 chị, xuống còn 648.910. Tại Phi châu tăng gần 1500 chị và Á châu tăng 1.118 chị, còn tại châu Âu giảm gần 8000 và châu Mỹ giảm gần 5000.

Số thành viên các tu hội đời nam còn 585, giảm nhẹ tại các châu lục. Trong khi các tu hội đời nữ cũng giảm bớt 343 thành viên, xuống còn 22.057 chị.

Số thừa sai giáo dân và giáo lý viên gia tăng

Số các thừa sai giáo dân và giáo lý viên trên toàn thế giới là 355.800, tăng 1.057, đặc biệt lại châu Âu tăng 836 và châu Mỹ tăng 691. Số giáo lý viên tổng cộng trên 5 châu lục là 3.120.321. Chỉ có châu Âu bị giảm gần 2900 người, còn tại các châu lục khác đều gia tăng, đặc biệt tại Mỹ châu tăng 22.532 và Phi châu tăng 11.405.

Số đại chủng sinh, cả triều và dòng, giảm hơn 800 trong năm 2017, tổng số còn 115.328 thầy. Châu Phi tăng 786 thầy trong khi Mỹ châu giảm 853, Âu châu 401 và Á châu 385. Số tiểu chủng sinh cũng giảm 835 người, còn 100.781.

Lĩnh vực giáo dục

Trong lĩnh vực giáo dục, Công Giáo điều hành hơn 71 ngàn trường mẫu giáo, với gần 7 triệu 304 ngàn học sinh; 101.527 trường tiểu học với hơn 34 triệu 558 ngàn học sinh; 48.560 trường trung học cơ sở với hơn 20 triệu 320 ngàn học sinh. Giáo hội còn đào tạo gần 2 triệu 346 ngàn học sinh trung học và hơn 2 triệu 945 ngàn sinh viên đại học.

Lĩnh vực bác ái và y tế

Về lĩnh vực bác ái và y tế, Giáo hội điều hành 5.269 bệnh viện, phần lớn ở châu Mỹ và châu Phi; hơn 16 ngàn trạm xã, chủ yếu tại châu Phi, châu Mỹ và châu Á; 646 cơ sở chăm soc người phong cùi, chủ yếu ở Ấ và Phi châu; hơn 15.700 nhà cho người cao niên hay khuyết tật; 9813 nhà mồ côi; hơn 13 ngàn trung tâm tư vấn hôn nhân; hơn 3100 trung tâm phục hồi và hơn 31 ngàn các loại cơ sở khác.

Các nước truyền giáo

Có 1.115 giáo phận và các cấu trúc thuộc Bộ Truyền giáo, phần lớn ở Phi và Á châu.