Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Chư Thánh
Lm Jude Siciliano OP
06:08 30/10/2017
Khải Huyền 7: 2-4, 9-14; Tv. 23; I Gioan 3:1-3; Máttthêu 5:1-12
Có một nhóm Kitô hữu hăng hái giúp các trẻ em khuyết tật. Họ tổ chức nào trại hè, đi du ngoạn, mở lớp dạy học, thánh lễ và việc phụng vụ. Họ thường gởi thơ qua máy vi tính cho các ân nhân và những người thường quan tâm đến việc làm của họ. Lời mở đầu thư thường ghi "Các Thánh thân mến". Tôi hơi ngạc nhiên mỗi khi tôi được thơ của họ. Có thể họ là thánh chứ còn tôi? Nói hơi quá sớm!
Trong Giáo hội tiên khởi danh hiệu "thánh" được dùng để diễn tả những người được gọi vào giao ước với Thiên Chúa qua Chúa Kitô. Giáo hội có hệ thống rõ ràng để chỉ những người được chính thức gọi là "thánh". Nhiều người trong số đó được có tên trong lịch phụng vụ. Nhưng ngay cả khi chúng ta kính một số được "chính thức" gọi là thánh, chúng ta không nên quên bản tính và vinh hiệu của chúng ta được chọn theo như sách Khải Huyền mô tả là "Máu của Con Chiên"- qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Máu của Chúa Kitô Phục sinh chảy trong huyết quản của chúng ta, và bởi thế chúng ta có thể thành thật gọi nhau là "thánh". Làm như thế chúng ta không nghĩ gì đến việc chúng ta đã làm hay xứng đáng cho chúng ta, nhưng là chúng ta đã được qua ơn thánh sủng. Chúng ta đã được Thiên Chúa gọi nên thánh thiện và đã được ban đầy đủ ơn chúng ta cần để sống thánh thiện, sống một đời sống thánh.
Nếu chỉ có một sách Kinh Thánh, thì ngay cả những người thường đọc Kinh Thánh, họ thường tránh đọc sách Khải Huyền. Có người nói "thật là lạ lùng! Ai có thể hiểu những hình ảnh, và những con vật nêu ra trong sách Khải Huyền?". Ngay cả bài sách Khải huyền đọc hôm nay có những chi tiết lạ lùng có thể làm người đọc thời nay không hiểu mấy, và cần được thêm chi tiết rõ ràng đúng đắn hơn.
Nếu tôi là một thiếu niên đến dự Thánh Lễ hôm nay, tôi có thể bị ngừng lại trong sửng sốt về những điều có vẻ như là một chuyện lạ lùng. Làm sao những người mặc áo trắng đã giặt sạch và tẩy trắng "trong máu Con Chiên". Sao các áo đó lại không nhuộm màu đỏ? Tôi không thể hiểu hình ảnh tượng trưng đó được. Tôi để điều đó cho các nhà chuyên về Kinh Thánh. Tôi có thể suy nghĩ về bài sách này không phải như một học sinh trung học, trong một lớp vật lý, nhưng suy nghĩ như một học sinh trong lớp văn chương Anh 101. Vì sách Khải Huyền là sách dùng lời văn của thời Cánh Chung nên có nhiều lời văn giống thi thơ hơn là giống văn khoa học.
Vào lối cuối thế kỷ thứ nhất, Kitô hữu bị bắt hại khốc liệt dưới thời vua Domitian và có nhiều cám dỗ làm họ nghĩ là Thiên Chúa không để ý gì đến họ nữa. Trong lời văn thi thơ của sách Khải Huyền, tác giả nói với họ "điều khác" Thị kiến của tác giả chỉ là lời hứa một tương lai vinh hiển cho những ai trung thành với Con Chiên. Vinh hiển không phải chỉ là phần thưởng trong tương lai, nhưng ngay bây giờ. Chúng ta cùng chia sẻ với sự thánh thiện của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. "Các thánh thân mến " có thể là lời gọi thật đẹp cho tất cả chúng ta khi họp nhau trong Phụng vụ hôm nay. Vậy thì chúng ta là các thánh vì chúng ta được Thiên Chúa "yêu thương" chúng ta. Áo của phép Rửa tội đã được tẩy trắng bởi sức sống của Chúa Giêsu, của máu thánh Ngài hoạt động trong đời sống chúng ta.
Tôi thích câu chuyện sau này trong một trường tiểu học: Một cô giáo dạy giáo lý hỏi học sinh lớp 2 "Một vị thánh là ai?" Một em bé gái hình như nhớ lại hình ảnh của các kính mảu trong nhà thờ giáo xứ đáp lại: "Thánh là những người được ánh sáng màu chiếu rọi qua" Ánh sáng bên ngoài nhà thờ chiếu qua các cửa sổ của nhà thờ, qua kính màu có hình các thánh nên có nhiều màu sắc, Câu chuyện các thánh, không ai giống ai. Chúng ta có thể nói không có người sinh đôi giống nhau trong nhà Thiên Chúa. Mỗi thánh ánh sáng chiếu qua là một người khác trong nơi tăm tối trên thế giới.
Vì ánh sáng chiếu qua các thánh quá sáng chói, chúng ta nhìn được tất cả hình các thánh đó để xét xem tất cả chúng ta có được chiếu sáng và được hy vọng. Nếu Thiên Chúa có thể chiếu ánh sang qua Đức Nữ Maria, thánh Giuse, thánh Đaminh, thánh Catherina Siena. Thánh Phanxicô, thánh Clara, thì Thiên Chúa cũng có thể làm như vậy cho chúng ta. Thiên Chúa có thể giúp chúng ta: có sức mạnh trong những lúc bị thử thách và do dự, có thể can trường khi bị thử thách, biết thông cảm khi bị đàn áp, biết khôn ngoan khi bị truy lùng, biết mạnh dạn lên tiếng khi người khác nín thinh, khi làm việc thiện vì thương yêu không cần ai biết đến, biết kiên nhẫn khi phải chiến đấu, biết bênh vực lẻ công chính khi thế giới bỏ qua hay áp bức những người ngoài lề xã hội, biết hiền từ và mạnh dạn trước những gì chống đối phúc âm.
Tôi để danh sách những đức tính thánh thiện nói trên ở đâu? Tôi nghĩ đó vẫn chưa đủ hết. Nhưng tôi nghĩ các đức tính đó trong lúc tôi suy niệm về đời sống các thánh tôi mến yêu như các thánh tôi kể trên. Họ là những thánh lớn. Nhưng tôi cũng nghĩ đến những thánh nhỏ mà tôi đã biết, yêu mến và ngưỡng mộ. Các thánh đó nhắc tôi nhớ đến những gì có thể xãy ra trong đời sống hằng ngày nhỏ mọn của tôi. Tôi chắc các bạn cũng có những vị thánh mến yêu và viết lên danh sách các vị đó ra, với những đức tính đã làm cho họ nên thánh. Khi bạn viết ra các đức tính đó bạn sẽ thấy nó tương đương với các điều Chúa Giêsu nêu ra trong Phúc âm hôm nay là các Mối Phúc.
Các Mối Phúc không phải là các điều răn mà chúng ta nên theo nếu chúng ta muốn sống theo Chúa Giêsu. Trái lại các Mối Phúc đó chỉ cho chúng ta sống khi nguồn sự sống của chúng ta là Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu mà chúng ta được "phúc". Đời sống chúng ta phản chiếu một sự thay đổi sâu đậm, là thành quả của ân sủng của Chúa Giêsu để giúp chúng ta có thể nên: người có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình v.v.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Gioan nói một cách khác. "... hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa". Lễ Các Thánh hôm nay là lễ về sự hiệp nhất giữa chúng ta và với số đông "chứng nhân" đã đi trước chúng ta. Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến tất cả những người đang chiêm ngưởng ánh tôn nhan của Thiên Chúa, và chúng ta hiệp với họ qua lời cầu nguyện và nhớ đến họ. Và vì đời sống của họ, chúng ta có hy vọng cho chúng ta.
Đứa cháu 4 tuổi vẽ tặng tôi một bức hình và nói "đây là ông cậu Jude. Hình này của ông". Hình vẽ bằng viết chì làm tôi có vẻ trông được, với khuôn mặt tròn, mắt mở ra, và với một nụ cười lớn, tai lắng nghe và hai tay giang ra. (Cháu còn vẽ thêm tóc che các chỗ sói trên đầu nữa). Một nhà tâm lý học có thể nói "đó là hình vẽ của một em bé khỏe mạnh và vững vàng. Tôi có thể nói thêm là cháu tôi vẽ tôi như Thiên Chúa đang nhìn tôi, có ơn Chúa và là thành quả của việc Thiên Chúa làm.
Lần sau, khi tôi được thơ "Các thánh thân mến" trên máy vi tính, đáng lẽ tôi lạ lùng, tôi sẽ nói "đúng đấy", vì ơn Thiên Chúa đã hoạt động trong tôi và Thiên Chúa không bỏ rơi tôi, đến khi tôi về đến chính nhà tôi. Và một ngày nào, ở nơi đó tôi sẽ gặp tất cả các thánh trên kính của cửa sổ nhà thờ thành sự thật, và tôi cũng sẽ gặp tất cả các người khác - không kém thánh thiện đâu như là "đám đông người mà không ai đếm được". Chúng ta đã là thánh của Thiên Chúa, không phải vì chúng ta được phần thưởng lớn lao, hay đã qua một đời sống không vương vấn tội lỗi. Nhưng vì lòng thương xót của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta". Khi thánh Phaolô ,trong các bức thơ gởi các tín hữu, gọi họ là các thánh, thánh Phaolô không phải chỉ nói về sự vinh hiển của họ trong tương lai, nhưng là ngay từ bây giờ.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
Feast of All Saints
Rev. 7: 2-4, 9-14; Psalm 24; I John 3:1-3; Matthew 5:1-12
There is a group of diligent lay Christians who minister to children with physical handicaps. They provide opportunities for summer camp, field trips, classes, periodic worship services and Masses. They have a newsletter which they e-mail to a list of benefactors and people interested in their ministry. It’s in the form of a letter and begins, “Dear Saints.” I squirm a bit whenever I receive that salutation from them. They may be saints; but me? It’s too soon!
But the title “saints” was used in the early church to describe those called and in covenant with God through Christ. The church has an elaborate and careful process to determine whom we officially call “Saints.” Many of these we incorporate into our liturgical calendar. But even as we venerate certain “acknowledged” Saints, let’s not dismiss our own identity and dignity received through, what the Book of Revelation describes as, “the Blood of the Lamb ” – the life, death and resurrection of Christ. His risen life blood flows in our veins and so we can truthfully call each other “saints.” In doing so we would not be claiming anything we have done or deserve for ourselves, but have received through the gift of grace. We have been called to holiness by God and are given the gifts we need to live holy, sainted lives.
If there is one biblical book even regular readers of the Scriptures tend to avoid, it is the Book of Revelation. Someone said, “It’s so bizarre! Who can understand those hallucinatory images and strange creatures?” Even today’s reading from Revelation has strange details that could confuse the modern reader’s need for literal exactness.
As a teenager at Mass on this feast I would be stopped dead in my tracks by what seemed an obvious absurdity. How could those wearing robes get them white by washing them “in the Blood of the Lamb?” Wouldn’t that turn them red? I couldn’t get my mind around that image and figured, I’d leave the interpretation to some Bible scholars. I should have reflected on this reading not as a high school student in a physics class, but as a reflective reader in English Literature 101, because the Book of Revelation is apocalyptic literature and has more in common with poetry than science.
Towards the end of the first century Christians were under the severe persecution of Domitian and were tempted to feel abandoned by God. In his poetic style the author tells them – “Quite the contrary.” This vision is a promise of future glory for those who remain faithful to the Lamb. Glory isn’t only a future reward, but even now we share in God’s holiness through Jesus Christ. “Dear Saints” might well be the perfect appellation for those of us gathered in worship today; so saints we are, because we are held “dear” by our God. Our baptismal robes are made white by the life force of Jesus, his blood, at work in our lives.
I like this grammar school story. A religion teacher asked her second-grade class, “What’s a saint?” A little girl, probably remembering the stained glass images in her parish church responded, “Saints are the people the light shines through.” The big or “public lights” are up there in the church windows. Their light shines through in a rainbow of colors. Their biographies tell us that no two were the same. You can say: there are no identical twins in God’s house. Each shone their unique light in one or many dark places in the world.
Because their light has been so brilliant, we raise them up for all to see so that the rest of us can be enlightened and have hope. If God could shine such light through Mary, Joseph, Dominic, Catherine of Siena, Francis and Clare, then God can do that even in us! Keep us: strong in times of trials and doubts; courageous when challenged; compassionate to the broken; wise for those who are searching; outspoken when others hold a fearful silence; anonymous in performing loving deeds; persevering when struggles will not just evaporate; defending justice when the world ignores or presses down those on the margins; gentle and strong in the face of what opposes the gospel.
Where did I get that list of saintly virtues? I grant that it is incomplete, but I came up with it when I reflected on the lives of my favorite Saints – like the ones I named above. They are the “Big S” – Saints. But I also reflected on the “little s” saints I have known and loved and frequently felt in awe of. They remind me what is possible in my small, particular, daily life. I am sure that you have your favorites and are able to draw up your own list of the virtues that make a saint. When you make your own list you will find it parallels what Jesus enumerated in today’s gospel – the Beatitudes.
The Beatitudes aren’t a list of commandments we have to live by if we want to follow Jesus. Instead, they show how we can live when the source of our life is Jesus. Because of him we are “Blessed,” our lives reflect a profound change in us, the result of his grace, which enables us to be: poor in spirit, gentle, merciful, peacemakers, etc.
In our second reading, John puts it another way “... we are God’s children now.” This feast is about Now; about our union with one another and the great “cloud of witnesses” who have preceded us. Today’s feast reminds us of those who are now gazing on God’s brilliance and that we are in communion with them through our prayers and memory. And, because of their lives, we can have hope for our own!
My four-year old grandniece gave me a drawing she made of me. “Here Uncle Jude, this is for you.” The simple pencil-stick work of art made me look good, with a round warm face, wide-open eyes, a huge smile, listening ears and outstretched arms. (She even filled in my bald spots!) A psychologist would say, “That’s a drawing of a healthy and secure child.” I would add that my little niece has a touching and wonderful view of who I am to her right now. I would also say, she’s drawing me as God sees me – graced – the fruit of God’s handiwork.
The next time I get that “Dear Saints” e-mail, instead of squirming, I’m going to say, “Right On!” – because God’s grace is already at work in me and God isn’t going to give up on me until I get to my proper home. There, someday, I’m going to meet all the stained glass Saints in the flesh. I’m also going to meet all the others – no-less-holy, saints, “the great multitude which no one can count.” We are already the saints of God, not because we have earned a great reward or have gone through life unblemished by sin, but because of the mercy of God manifested in Jesus. “Salvation comes from our God, who is seated on the throne and from the Lamb.” When Paul addressed the Christians as the saints in his epistles, he was not only talking about their future glory, but their present status.
Có một nhóm Kitô hữu hăng hái giúp các trẻ em khuyết tật. Họ tổ chức nào trại hè, đi du ngoạn, mở lớp dạy học, thánh lễ và việc phụng vụ. Họ thường gởi thơ qua máy vi tính cho các ân nhân và những người thường quan tâm đến việc làm của họ. Lời mở đầu thư thường ghi "Các Thánh thân mến". Tôi hơi ngạc nhiên mỗi khi tôi được thơ của họ. Có thể họ là thánh chứ còn tôi? Nói hơi quá sớm!
Trong Giáo hội tiên khởi danh hiệu "thánh" được dùng để diễn tả những người được gọi vào giao ước với Thiên Chúa qua Chúa Kitô. Giáo hội có hệ thống rõ ràng để chỉ những người được chính thức gọi là "thánh". Nhiều người trong số đó được có tên trong lịch phụng vụ. Nhưng ngay cả khi chúng ta kính một số được "chính thức" gọi là thánh, chúng ta không nên quên bản tính và vinh hiệu của chúng ta được chọn theo như sách Khải Huyền mô tả là "Máu của Con Chiên"- qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Máu của Chúa Kitô Phục sinh chảy trong huyết quản của chúng ta, và bởi thế chúng ta có thể thành thật gọi nhau là "thánh". Làm như thế chúng ta không nghĩ gì đến việc chúng ta đã làm hay xứng đáng cho chúng ta, nhưng là chúng ta đã được qua ơn thánh sủng. Chúng ta đã được Thiên Chúa gọi nên thánh thiện và đã được ban đầy đủ ơn chúng ta cần để sống thánh thiện, sống một đời sống thánh.
Nếu chỉ có một sách Kinh Thánh, thì ngay cả những người thường đọc Kinh Thánh, họ thường tránh đọc sách Khải Huyền. Có người nói "thật là lạ lùng! Ai có thể hiểu những hình ảnh, và những con vật nêu ra trong sách Khải Huyền?". Ngay cả bài sách Khải huyền đọc hôm nay có những chi tiết lạ lùng có thể làm người đọc thời nay không hiểu mấy, và cần được thêm chi tiết rõ ràng đúng đắn hơn.
Nếu tôi là một thiếu niên đến dự Thánh Lễ hôm nay, tôi có thể bị ngừng lại trong sửng sốt về những điều có vẻ như là một chuyện lạ lùng. Làm sao những người mặc áo trắng đã giặt sạch và tẩy trắng "trong máu Con Chiên". Sao các áo đó lại không nhuộm màu đỏ? Tôi không thể hiểu hình ảnh tượng trưng đó được. Tôi để điều đó cho các nhà chuyên về Kinh Thánh. Tôi có thể suy nghĩ về bài sách này không phải như một học sinh trung học, trong một lớp vật lý, nhưng suy nghĩ như một học sinh trong lớp văn chương Anh 101. Vì sách Khải Huyền là sách dùng lời văn của thời Cánh Chung nên có nhiều lời văn giống thi thơ hơn là giống văn khoa học.
Vào lối cuối thế kỷ thứ nhất, Kitô hữu bị bắt hại khốc liệt dưới thời vua Domitian và có nhiều cám dỗ làm họ nghĩ là Thiên Chúa không để ý gì đến họ nữa. Trong lời văn thi thơ của sách Khải Huyền, tác giả nói với họ "điều khác" Thị kiến của tác giả chỉ là lời hứa một tương lai vinh hiển cho những ai trung thành với Con Chiên. Vinh hiển không phải chỉ là phần thưởng trong tương lai, nhưng ngay bây giờ. Chúng ta cùng chia sẻ với sự thánh thiện của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. "Các thánh thân mến " có thể là lời gọi thật đẹp cho tất cả chúng ta khi họp nhau trong Phụng vụ hôm nay. Vậy thì chúng ta là các thánh vì chúng ta được Thiên Chúa "yêu thương" chúng ta. Áo của phép Rửa tội đã được tẩy trắng bởi sức sống của Chúa Giêsu, của máu thánh Ngài hoạt động trong đời sống chúng ta.
Tôi thích câu chuyện sau này trong một trường tiểu học: Một cô giáo dạy giáo lý hỏi học sinh lớp 2 "Một vị thánh là ai?" Một em bé gái hình như nhớ lại hình ảnh của các kính mảu trong nhà thờ giáo xứ đáp lại: "Thánh là những người được ánh sáng màu chiếu rọi qua" Ánh sáng bên ngoài nhà thờ chiếu qua các cửa sổ của nhà thờ, qua kính màu có hình các thánh nên có nhiều màu sắc, Câu chuyện các thánh, không ai giống ai. Chúng ta có thể nói không có người sinh đôi giống nhau trong nhà Thiên Chúa. Mỗi thánh ánh sáng chiếu qua là một người khác trong nơi tăm tối trên thế giới.
Vì ánh sáng chiếu qua các thánh quá sáng chói, chúng ta nhìn được tất cả hình các thánh đó để xét xem tất cả chúng ta có được chiếu sáng và được hy vọng. Nếu Thiên Chúa có thể chiếu ánh sang qua Đức Nữ Maria, thánh Giuse, thánh Đaminh, thánh Catherina Siena. Thánh Phanxicô, thánh Clara, thì Thiên Chúa cũng có thể làm như vậy cho chúng ta. Thiên Chúa có thể giúp chúng ta: có sức mạnh trong những lúc bị thử thách và do dự, có thể can trường khi bị thử thách, biết thông cảm khi bị đàn áp, biết khôn ngoan khi bị truy lùng, biết mạnh dạn lên tiếng khi người khác nín thinh, khi làm việc thiện vì thương yêu không cần ai biết đến, biết kiên nhẫn khi phải chiến đấu, biết bênh vực lẻ công chính khi thế giới bỏ qua hay áp bức những người ngoài lề xã hội, biết hiền từ và mạnh dạn trước những gì chống đối phúc âm.
Tôi để danh sách những đức tính thánh thiện nói trên ở đâu? Tôi nghĩ đó vẫn chưa đủ hết. Nhưng tôi nghĩ các đức tính đó trong lúc tôi suy niệm về đời sống các thánh tôi mến yêu như các thánh tôi kể trên. Họ là những thánh lớn. Nhưng tôi cũng nghĩ đến những thánh nhỏ mà tôi đã biết, yêu mến và ngưỡng mộ. Các thánh đó nhắc tôi nhớ đến những gì có thể xãy ra trong đời sống hằng ngày nhỏ mọn của tôi. Tôi chắc các bạn cũng có những vị thánh mến yêu và viết lên danh sách các vị đó ra, với những đức tính đã làm cho họ nên thánh. Khi bạn viết ra các đức tính đó bạn sẽ thấy nó tương đương với các điều Chúa Giêsu nêu ra trong Phúc âm hôm nay là các Mối Phúc.
Các Mối Phúc không phải là các điều răn mà chúng ta nên theo nếu chúng ta muốn sống theo Chúa Giêsu. Trái lại các Mối Phúc đó chỉ cho chúng ta sống khi nguồn sự sống của chúng ta là Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu mà chúng ta được "phúc". Đời sống chúng ta phản chiếu một sự thay đổi sâu đậm, là thành quả của ân sủng của Chúa Giêsu để giúp chúng ta có thể nên: người có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình v.v.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Gioan nói một cách khác. "... hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa". Lễ Các Thánh hôm nay là lễ về sự hiệp nhất giữa chúng ta và với số đông "chứng nhân" đã đi trước chúng ta. Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến tất cả những người đang chiêm ngưởng ánh tôn nhan của Thiên Chúa, và chúng ta hiệp với họ qua lời cầu nguyện và nhớ đến họ. Và vì đời sống của họ, chúng ta có hy vọng cho chúng ta.
Đứa cháu 4 tuổi vẽ tặng tôi một bức hình và nói "đây là ông cậu Jude. Hình này của ông". Hình vẽ bằng viết chì làm tôi có vẻ trông được, với khuôn mặt tròn, mắt mở ra, và với một nụ cười lớn, tai lắng nghe và hai tay giang ra. (Cháu còn vẽ thêm tóc che các chỗ sói trên đầu nữa). Một nhà tâm lý học có thể nói "đó là hình vẽ của một em bé khỏe mạnh và vững vàng. Tôi có thể nói thêm là cháu tôi vẽ tôi như Thiên Chúa đang nhìn tôi, có ơn Chúa và là thành quả của việc Thiên Chúa làm.
Lần sau, khi tôi được thơ "Các thánh thân mến" trên máy vi tính, đáng lẽ tôi lạ lùng, tôi sẽ nói "đúng đấy", vì ơn Thiên Chúa đã hoạt động trong tôi và Thiên Chúa không bỏ rơi tôi, đến khi tôi về đến chính nhà tôi. Và một ngày nào, ở nơi đó tôi sẽ gặp tất cả các thánh trên kính của cửa sổ nhà thờ thành sự thật, và tôi cũng sẽ gặp tất cả các người khác - không kém thánh thiện đâu như là "đám đông người mà không ai đếm được". Chúng ta đã là thánh của Thiên Chúa, không phải vì chúng ta được phần thưởng lớn lao, hay đã qua một đời sống không vương vấn tội lỗi. Nhưng vì lòng thương xót của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta". Khi thánh Phaolô ,trong các bức thơ gởi các tín hữu, gọi họ là các thánh, thánh Phaolô không phải chỉ nói về sự vinh hiển của họ trong tương lai, nhưng là ngay từ bây giờ.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
Feast of All Saints
Rev. 7: 2-4, 9-14; Psalm 24; I John 3:1-3; Matthew 5:1-12
There is a group of diligent lay Christians who minister to children with physical handicaps. They provide opportunities for summer camp, field trips, classes, periodic worship services and Masses. They have a newsletter which they e-mail to a list of benefactors and people interested in their ministry. It’s in the form of a letter and begins, “Dear Saints.” I squirm a bit whenever I receive that salutation from them. They may be saints; but me? It’s too soon!
But the title “saints” was used in the early church to describe those called and in covenant with God through Christ. The church has an elaborate and careful process to determine whom we officially call “Saints.” Many of these we incorporate into our liturgical calendar. But even as we venerate certain “acknowledged” Saints, let’s not dismiss our own identity and dignity received through, what the Book of Revelation describes as, “the Blood of the Lamb ” – the life, death and resurrection of Christ. His risen life blood flows in our veins and so we can truthfully call each other “saints.” In doing so we would not be claiming anything we have done or deserve for ourselves, but have received through the gift of grace. We have been called to holiness by God and are given the gifts we need to live holy, sainted lives.
If there is one biblical book even regular readers of the Scriptures tend to avoid, it is the Book of Revelation. Someone said, “It’s so bizarre! Who can understand those hallucinatory images and strange creatures?” Even today’s reading from Revelation has strange details that could confuse the modern reader’s need for literal exactness.
As a teenager at Mass on this feast I would be stopped dead in my tracks by what seemed an obvious absurdity. How could those wearing robes get them white by washing them “in the Blood of the Lamb?” Wouldn’t that turn them red? I couldn’t get my mind around that image and figured, I’d leave the interpretation to some Bible scholars. I should have reflected on this reading not as a high school student in a physics class, but as a reflective reader in English Literature 101, because the Book of Revelation is apocalyptic literature and has more in common with poetry than science.
Towards the end of the first century Christians were under the severe persecution of Domitian and were tempted to feel abandoned by God. In his poetic style the author tells them – “Quite the contrary.” This vision is a promise of future glory for those who remain faithful to the Lamb. Glory isn’t only a future reward, but even now we share in God’s holiness through Jesus Christ. “Dear Saints” might well be the perfect appellation for those of us gathered in worship today; so saints we are, because we are held “dear” by our God. Our baptismal robes are made white by the life force of Jesus, his blood, at work in our lives.
I like this grammar school story. A religion teacher asked her second-grade class, “What’s a saint?” A little girl, probably remembering the stained glass images in her parish church responded, “Saints are the people the light shines through.” The big or “public lights” are up there in the church windows. Their light shines through in a rainbow of colors. Their biographies tell us that no two were the same. You can say: there are no identical twins in God’s house. Each shone their unique light in one or many dark places in the world.
Because their light has been so brilliant, we raise them up for all to see so that the rest of us can be enlightened and have hope. If God could shine such light through Mary, Joseph, Dominic, Catherine of Siena, Francis and Clare, then God can do that even in us! Keep us: strong in times of trials and doubts; courageous when challenged; compassionate to the broken; wise for those who are searching; outspoken when others hold a fearful silence; anonymous in performing loving deeds; persevering when struggles will not just evaporate; defending justice when the world ignores or presses down those on the margins; gentle and strong in the face of what opposes the gospel.
Where did I get that list of saintly virtues? I grant that it is incomplete, but I came up with it when I reflected on the lives of my favorite Saints – like the ones I named above. They are the “Big S” – Saints. But I also reflected on the “little s” saints I have known and loved and frequently felt in awe of. They remind me what is possible in my small, particular, daily life. I am sure that you have your favorites and are able to draw up your own list of the virtues that make a saint. When you make your own list you will find it parallels what Jesus enumerated in today’s gospel – the Beatitudes.
The Beatitudes aren’t a list of commandments we have to live by if we want to follow Jesus. Instead, they show how we can live when the source of our life is Jesus. Because of him we are “Blessed,” our lives reflect a profound change in us, the result of his grace, which enables us to be: poor in spirit, gentle, merciful, peacemakers, etc.
In our second reading, John puts it another way “... we are God’s children now.” This feast is about Now; about our union with one another and the great “cloud of witnesses” who have preceded us. Today’s feast reminds us of those who are now gazing on God’s brilliance and that we are in communion with them through our prayers and memory. And, because of their lives, we can have hope for our own!
My four-year old grandniece gave me a drawing she made of me. “Here Uncle Jude, this is for you.” The simple pencil-stick work of art made me look good, with a round warm face, wide-open eyes, a huge smile, listening ears and outstretched arms. (She even filled in my bald spots!) A psychologist would say, “That’s a drawing of a healthy and secure child.” I would add that my little niece has a touching and wonderful view of who I am to her right now. I would also say, she’s drawing me as God sees me – graced – the fruit of God’s handiwork.
The next time I get that “Dear Saints” e-mail, instead of squirming, I’m going to say, “Right On!” – because God’s grace is already at work in me and God isn’t going to give up on me until I get to my proper home. There, someday, I’m going to meet all the stained glass Saints in the flesh. I’m also going to meet all the others – no-less-holy, saints, “the great multitude which no one can count.” We are already the saints of God, not because we have earned a great reward or have gone through life unblemished by sin, but because of the mercy of God manifested in Jesus. “Salvation comes from our God, who is seated on the throne and from the Lamb.” When Paul addressed the Christians as the saints in his epistles, he was not only talking about their future glory, but their present status.
Lễ các đẵng linh hồn
Lm Jude Siciliano OP
06:28 30/10/2017
Khôn Ngoan 3:1-9; Psalm 22; Rôma 5:5-11; Gioan 6:37-40
Cách đây vài năm khi Ba mẹ tôi qua đời, tôi được lời an ủi qua Kinh Thánh như những bài chọn đọc hôm nay. Sách Khôn Ngoan không nói gì thêm về ý diễn tả các linh hồn đã qua đời hiện giờ đang ở đâu. Nhưng có những lời an ủi cho chúng ta hy vọng "Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa" cũng giống như ý tôi nghĩ về Ba Mẹ tôi khi họ qua đời. Tôi có nói với người khác là tôi không biết cha mẹ tôi hiện giờ ở đâu, hay họ đang làm gì. Tôi chỉ tin là họ đang cự ngụ trong bàn tay của Thiên Chúa nhân từ. Người trong gia đình và bạn bè tưởng tượng mẹ tôi đang nấu bửa cơm ngày Chúa Nhật là luộc bún, còn các dì tôi và cha tôi đang chơi pinohcle với các ông dượng tôi. Thật là những hình ảnh đẹp đẽ, và tôi chắc đó là những hỉnh ảnh an ủi cha mẹ tôi nơi ngôi mộ ấm cúng. Nhưng với tôi thì tôi chỉ nghĩ đến bàn tay nhân từ của Thiên Chúa đã tạo dựng ba mẹ tôi và đã gìn giữ các ngài trong đức tin trung thành qua những ngày sóng gió, rồi đến cơn bệnh cuối cùng cho đến nay. Thiên Chúa tỏ lòng thương xót họ. Và như sách Khôn Ngoan nói "Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa".
Sách Khôn Ngoan nói về những linh hồn đặc biệt. Những ai có người qua đời nghĩ là đó là một buồn phiền, và họ đã chịu "thử thách" trong đời sống. Người ta thường nghĩ là Thiên Chúa đã bỏ họ khi họ gặp những khó khăn trong đời sống. Theo sách Khôn Ngoan những khó khăn chúng ta chịu là những khó khăn chúng ta đặt trên bàn thờ Thiên Chúa. Với lý do lúc chúng ta được Rửa tội là được nên thừa tác viên của Chúa, Chúng ta là linh mục phổ quát để dâng việc phục vụ và những khó khăn trong đời sống chúng ta cho Thiên Chúa. Chúng ta hy vọng như sách Khôn Ngoan nói với chúng ta "những ai trung thành, sẽ được Thiên Chúa yêu thương, và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn". Và đó là lời chúng ta đã nghe khi ba mẹ tôi qua đời "Linh hồn công chính ở trong tay nhân từ của Thiên Chúa" Đó là tất cả những điều chúng ta biết chắc bây giờ - và đó cũng là những điều đủ cho những ai hy vọng vào Thiên Chúa.
Đó cũng là những điều thánh Phaolô chú trọng đến hôm nay là hy vọng. Hy vọng này dựa trên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thánh Phaolô nói là lòng yêu thương của Thiên Chúa đã hiện diện cụ thể rõ ràng qua sự việc Chúa Giêsu chấp nhận chịu chết thay cho cho chúng ta. Chúng ta không đáng được hưởng tình yêu thương này. Đó là một hồng phúc ban cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ tội lỗi "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi". Chúng ta không cần phải sợ sự chết, không như một số người trong chúng ta sợ, nếu chúng ta tin là chúng ta ở trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Tội lỗi không làm cho Thiên Chúa không tỏ tình yêu thương cho chúng ta qua Chúa Giêsu, và vì Chúa Giêsu, tội lỗi không thể tách rời chúng ta ra khỏi Thiên Chúa trong đời sống này và đời sống ngày sau. Thiên Chúa đã hòa giải với chúng ta "nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa."
Trong đời sống hiện nay và đời sống ngày sau chúng ta đã được hòa giải với Thiên Chúa qua đức tin vào sự chết của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài. Khi chúng ta do dự trong đức tin đó, như khi chúng ta do dự khi một người thân thương qua đời sau một cơn bệnh lâu dài, hay khi chúng ta nghĩ đến sự chết của chúng ta, Chúa Thánh Thần tiếp tục ban ơn cho tâm hồn chúng ta nhận được sự cam đoan là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Không có điều gì ngay cả tội lỗi hay sự chết có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu thương nồng hậu - của Thiên Chúa. Bởi thế, không phải chỉ sự chết mới cho chúng ta rơi vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa - nhưng qua Chúa Giêsu chúng ta đã ở trong bàn tay của Thiên Chúa. Và bàn tay Thiên Chúa giúp chúng ta ngày càng trở nên con cái luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói một cách gọn gàng "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, qua Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta."
Phúc âm tiếp tục tin này là chúng ta được an toàn trong bàn tay của Thiên Chúa yêu thương, trong đời sống này và đời sống ngày sau. Tôi còn nhớ những hình ảnh lúc tôi còn nhỏ về Thiên Chúa đến với tôi khi tôi nghĩ Thiên Chúa làm sao đối với tội lỗi. Những hình ảnh ấy cho tôi thấy Thiên Chúa rất giận dử ra mặt chống người tội lỗi một cách công chính - ngoại trừ khi Chúa Giêsu, con yêu mến của Ngài can thiệp đứng giữa chúng ta và cánh tay thịnh nộ của Thiên Chúa. Lúc trước đám tang không giúp gì chúng ta tránh những hình ảnh đó về Thiên Chúa. Linh mục mặc áo màu đen và các bài ca đượm lời buồn bả nói về ngày phán xét, là một bài thời trung cổ nói về Thiên Chúa xử án người chết. Thật là điều khó nghĩ để biết ai sẽ có lời nói cuối cùng về linh hồn người chết: Thiên Chúa của sự phán xét cuối cùng hay Chúa Giêsu với lòng thương xót.
Thời đó, có thể chúng ta cần đọc Kinh Thánh nhiều hơn, như Phúc âm hôm nay. Thánh Gioan cho chúng ta thấy là Thiên Chúa không có hai bản tính: bản tính giận dử làm quan tòa công chính cho tất cả loài người, và bản tính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và tha thứ. Trái lại, thánh Gioan nói là qua Chúa Giêsu Thiên Chúa tự Ngài đến gần chúng ta. Sự cam đoan trong sách Khôn Ngoan nói về người chết ở "trong bàn tay của Thiên Chúa" được nhắc lại trong Phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu là bàn tay yêu thương của Thiên Chúa nắm lấy một cách vững chắc đời sống người có đức tin trong hiện tại và không buông rơi họ trong đời sau.
Thánh Gioan nói: Chúa Giêsu đến để ban cho chúng ta sự sống đời đời ngay từ bây giờ. Sự sống đời đời không phải là vì qua Chúa Kitô, nhưng là chúng ta đã được sống mật thiết với Thiên Chúa, và sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta. Mối liên hệ mật thiết này bắt đầu ngay từ bây giờ và không bị phá hủy bởi sự chết, vì Chúa Kitô nói Ngài sẽ "cho họ sống lại trong ngày sau hết". Vậy chúng ta có chấp nhận đời sống Chúa Kitô mời gọi chúng ta ngay bây giờ và đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa vào trong đời sống chúng ta hay không?
Chúng ta đã được quà tặng sự sống từ Thiên Chúa ban cho chúng ta, những khi chúng ta họp nhau mỗi ngày Chúa Nhật để nhớ lại điều đó, để tăng thêm năng lực cho đời sống đó. Điều đó xãy ra như thế nào? Dấu chỉ của một cộng đoàn tín hữu họp nhau hôm nay nâng đở chúng ta: Nghe Lời Chúa làm Thiên Chúa nên hoạt động và ban ơn tạo dựng trong chúng ta. Thánh Thể chúng ta lãnh nhận là lương thực nuôi dưởng niềm hy vọng trong chúng ta bây giờ và trong đời sau. Và bàn tay Thiên Chúa không buông rơi chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu cam đoan với chúng ta "ai đến với tôi, tôi sẽ không loại người đó ra ngoài". Ý nghĩ của Chúa Giêsu rất rõ ràng là Ngài sống mật thiết với chúng ta vì "ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai."
Ngày lễ hôm nay và những ngày kế tiếp, cộng đoàn Mẽ Tây Cơ mừng "ngày người chết". Gia đình và bạn bè đi thăm viếng mộ những người thân thương và đem theo các thức ăn người chết thích khi họ còn sống để ăn nơi mộ. Ở đó gia đình, bạn bè, trẻ con ăn uống ngoài trời và nói chuyện vói nhau về người đã quá cố. Đó là một cách diễn tả tình liên hệ giữa người chết và người sống. Họ cũng tin là linh hồn các người quá cố còn sống một cách nào đó và đang còn ở giữa gia đình và bạn bè.
Chúng ta không cần phải là người Mễ Tây Cơ để mừng sự sống của nhũng người thân thương đã quá cố trong gia đình và bạn bè. Chúng ta không cần phải làm như anh em Mễ Tây Cơ, chúng ta cùng nhau dự tiệc Thánh Thể hôm nay phải không? Chúng ta cùng nhau chia sẻ câu chuyện trong Kinh Thánh, câu chuyện trong gia đình. Rồi khi chúng ta đã ăn "lương thực" mà người quá cố đã lãnh nhận là bánh và rượu của bí tích Thánh Thể đã nuôi dưởng họ trong sự sống và sự chết. Và lương thực đó đã cho chúng ta hy vọng là một ngày nào chúng ta sẽ cùng với họ dự bủa tiệc với nhau và với Chúa Phục Sinh.
Lúc này là lúc đi thăm nghĩa trang và cùng nhau chia sẻ câu chuyện của người quá cố với các con cháu. Chúng ta có thể nhắc đến đời sống của người thân thương quá cố và nói về việc họ đã làm sao truyền lại đức tin của họ cho chúng ta. Chúng ta có thể mở sách hình ảnh của các người quá cố cho con cháu xem và chúng ta có thể thêm lời cầu nguyện cho họ như chúng ta làm với con cháu trước khi đi ngủ.
Lúc này ở miền bắc là mùa thu và cảnh vật như "tàn úa" xung quanh chúng ta. Nhưng chúng ta hy vọng vững vàng là sau một mùa thu và đông, lá vàng rơi hết và trái đất sẽ sống xanh tươi trở lại. Chúng ta cũng hy vọng vững vàng dựa bào lời hứa của Chúa Giêsu với chúng ta là Ngài đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và cùng với Ngài và với tất cả chúng ta, chúng ta sẽ sống lại "trong ngày sau hết".
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
COMMEMORATION OF ALL THE FAITHFUL DEPARTED (A)
Wisdom 3:1-9; Psalm 23; Romans 5:5-11; John 6:37-40
When my parents died a some years ago I was comforted by scriptural verses like those selected for today’s celebration. The Book of Wisdom doesn’t go out of its way to describe where the souls of the dead are right now. But it does offer consoling words we are invited to place our hope in: The souls of the just are in the hand of God. ”Which is similar to what I held on to when my parents died. I’ve told people that I don’t know where they are, or what they are doing right now; I just believe that they have fallen into the hands of a merciful God. Family and friends pictured mom in heaven cooking up her Sunday pasta with her sisters and dad playing pinochle with his brothers-in-law. What wonderful images they are and I am sure they offered comfort to my family at the gravesides. But all I hung on to were those merciful hands of God who created my parents, sustained them in a simple and trusting faith through hard times and final illnesses and now, is showering mercy and love on them. As Wisdom puts it, “The souls of the just are in the hand of God.”
Wisdom has some particular souls in mind; those whose “passing away was thought an affliction” and who were “tried” during their lifetime. People are tempted to give up on God when life offers struggles. Wisdom’s view of our hardships is that they are like offerings placed on the altar to God. By reason of our baptismal priesthood, we are priests who offer our life’s service and struggles to God, We have the hope that the Book of Wisdom gives us, “the faithful shall abide with God in love, because grace and mercy are with God’s holy ones.” There, we hear it again, a variation on what I was hearing at the time of my parents’ deaths, “they have fallen into the hands of a merciful God.” That is all we can know for sure now – and it is enough for people whose hope is in God.
That is also the focus of Paul’s words to us today – Hope. This hope is based on God’s love for us. Paul tells us that God’s love has shown itself very concretely in Jesus’ acceptance of death on our behalf. We didn’t earn or deserve this love; it was given to us while we were sinners. “But God proves God’s love for us in that while we were still sinners Christ died for us.” We need not fear death, not as much as some of us do, if we believe that we are falling into the loving hands of God. Jesus is the sure sign of God’s love for us. Sin did not prevent God from showing us love in Jesus and, because of Jesus, sin need not keep us separated from God in this life or the next. God is offering us reconciliation: “we were reconciled to God through the death of [God’s] Son.”
In this life and in the next, we are reconciled to God by our faith in Jesus’ death and resurrection. When we waver in that faith, as we might do facing the death of a loved one after a long and painful illness, or when we consider our own death, it is the Holy Spirit who continually pours into our hearts the reassurance that God loves us. Nothing, not even sin and death, can separate us from the love of God. So, it isn’t only in death that we fall into the hands of a loving God – through Jesus we are already in God’s hands and those hands are molding us more and more into trusting children of God. Paul says it succinctly: “Hope does not disappoint, because the love of God has been poured into our hearts through the Holy Spirit that has been given to us.”
The Gospel continues the message: we are secure in the hands of a loving God, both in this life and the next. Some of my childhood images of God keep sneaking up on me when I think of how God deals with sin. Those images presented a very angry God who meted out a stern justice and was ready to strike down sinners – except for the intervention of Jesus, the beloved Son, who got between us and God’s raised fist. Funerals at that time weren’t much help in dispelling those images of God. The vestments were black and the hymns dour, especially the “Dies Irae,” (“Day of Wrath”), a medieval hymn which depicted God’s stern judgement on the dead. (Some classical composers have incorporated that melody in their pieces to convey an atmosphere of dread and foreboding.) It was hard to determine who would have the last word over our souls: the God of our last judgment, or the compassionate judge Jesus.
We should have read more scripture in those days – for example, today’s gospel. John shows that God does not have a split personality: the angry and exacting Judge of all humankind and the forgiving and loving Christ. Rather, John tells us that in Jesus, God has drawn close to us. Wisdom’s reassurance that the dead are in the “hand of God” is echoed in today’s gospel. Jesus is the visible manifestation of God’s loving hand which holds the faithful securely in this life and will not let us go in the next.
John puts it this way: Jesus has come to give us eternal life – beginning now. Eternal life is now because, in Christ, we are already in an intimate relationship with God and God’s life is in us. This relationship starts now and is not broken by death, for Christ says he will raise us up “on the last day.” Shall we accept the life Christ is offering us now and receive the loving God into our lives?
We already have the gift of God’s life in us, but we gather each Sunday to be reminded and strengthened in that life. How does it happen? The sign of the believing community gathered with us today encourages us. Hearing the Word of God makes God’s active and creative power present to us. The Eucharist we receive is the food that sustains our hope. Now and into the next life, God’s hands will never let us go.
Jesus assures us today, “I will not reject anyone who comes to me.” He is very clear that it is his intention to enter into a permanent relationship with us, for it is also, “the will of the one who sent me,” not to lose anyone God put into Jesus’ care.
On this feast and the days which surround it, the Mexican community celebrates “the Day of the Dead.” Family members visit the graves of their deceased and take the dead person’s favorite foods. At the grave family and friends, adults and children, have a picnic: they tell stories of their dead and share the food they brought. It is an expression of the undying bonds of love that unite them to their family members who have passed to the other side. They also believe that the spirits of their loved ones are alive and, in some way, still with them.
We don’t have to be of Mexican descent to celebrate the lives of our deceased family and friends. Aren’t we doing something similar to what our Mexican brothers and sisters do when we gather at Eucharist on this day? We share stories from the scriptures, the family stories we have in common. We then eat the “favorite foods” that nourished our deceased brothers and sisters: the Eucharistic bread and wine that sustained them in their living and dying and that gives us hope that someday we will again eat at a banquet table with one another and the risen Lord.
This is a time to go to visit the cemetery and share stories of the dead with our children. We could recall their lives, how they lived their faith and passed that faith on to us. We might open family albums for our little ones and, like a storybook reading in the evening, tell them the stories of their deceased grandparents, uncles, aunts, and our friends. We could include prayers for them as we pray bedtime prayers with the little ones.
In our part of the globe it is Autumn and nature seems to be “passing away” around us. But we have firm hope that, after a season of rest and bareness, the earth will come alive again. We also have a secure hope, based on Jesus’ promise to us, that he has given us eternal life and that, with him and one another, we shall rise “on the last day.”
Cách đây vài năm khi Ba mẹ tôi qua đời, tôi được lời an ủi qua Kinh Thánh như những bài chọn đọc hôm nay. Sách Khôn Ngoan không nói gì thêm về ý diễn tả các linh hồn đã qua đời hiện giờ đang ở đâu. Nhưng có những lời an ủi cho chúng ta hy vọng "Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa" cũng giống như ý tôi nghĩ về Ba Mẹ tôi khi họ qua đời. Tôi có nói với người khác là tôi không biết cha mẹ tôi hiện giờ ở đâu, hay họ đang làm gì. Tôi chỉ tin là họ đang cự ngụ trong bàn tay của Thiên Chúa nhân từ. Người trong gia đình và bạn bè tưởng tượng mẹ tôi đang nấu bửa cơm ngày Chúa Nhật là luộc bún, còn các dì tôi và cha tôi đang chơi pinohcle với các ông dượng tôi. Thật là những hình ảnh đẹp đẽ, và tôi chắc đó là những hỉnh ảnh an ủi cha mẹ tôi nơi ngôi mộ ấm cúng. Nhưng với tôi thì tôi chỉ nghĩ đến bàn tay nhân từ của Thiên Chúa đã tạo dựng ba mẹ tôi và đã gìn giữ các ngài trong đức tin trung thành qua những ngày sóng gió, rồi đến cơn bệnh cuối cùng cho đến nay. Thiên Chúa tỏ lòng thương xót họ. Và như sách Khôn Ngoan nói "Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa".
Sách Khôn Ngoan nói về những linh hồn đặc biệt. Những ai có người qua đời nghĩ là đó là một buồn phiền, và họ đã chịu "thử thách" trong đời sống. Người ta thường nghĩ là Thiên Chúa đã bỏ họ khi họ gặp những khó khăn trong đời sống. Theo sách Khôn Ngoan những khó khăn chúng ta chịu là những khó khăn chúng ta đặt trên bàn thờ Thiên Chúa. Với lý do lúc chúng ta được Rửa tội là được nên thừa tác viên của Chúa, Chúng ta là linh mục phổ quát để dâng việc phục vụ và những khó khăn trong đời sống chúng ta cho Thiên Chúa. Chúng ta hy vọng như sách Khôn Ngoan nói với chúng ta "những ai trung thành, sẽ được Thiên Chúa yêu thương, và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn". Và đó là lời chúng ta đã nghe khi ba mẹ tôi qua đời "Linh hồn công chính ở trong tay nhân từ của Thiên Chúa" Đó là tất cả những điều chúng ta biết chắc bây giờ - và đó cũng là những điều đủ cho những ai hy vọng vào Thiên Chúa.
Đó cũng là những điều thánh Phaolô chú trọng đến hôm nay là hy vọng. Hy vọng này dựa trên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thánh Phaolô nói là lòng yêu thương của Thiên Chúa đã hiện diện cụ thể rõ ràng qua sự việc Chúa Giêsu chấp nhận chịu chết thay cho cho chúng ta. Chúng ta không đáng được hưởng tình yêu thương này. Đó là một hồng phúc ban cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ tội lỗi "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi". Chúng ta không cần phải sợ sự chết, không như một số người trong chúng ta sợ, nếu chúng ta tin là chúng ta ở trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Tội lỗi không làm cho Thiên Chúa không tỏ tình yêu thương cho chúng ta qua Chúa Giêsu, và vì Chúa Giêsu, tội lỗi không thể tách rời chúng ta ra khỏi Thiên Chúa trong đời sống này và đời sống ngày sau. Thiên Chúa đã hòa giải với chúng ta "nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa."
Trong đời sống hiện nay và đời sống ngày sau chúng ta đã được hòa giải với Thiên Chúa qua đức tin vào sự chết của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài. Khi chúng ta do dự trong đức tin đó, như khi chúng ta do dự khi một người thân thương qua đời sau một cơn bệnh lâu dài, hay khi chúng ta nghĩ đến sự chết của chúng ta, Chúa Thánh Thần tiếp tục ban ơn cho tâm hồn chúng ta nhận được sự cam đoan là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Không có điều gì ngay cả tội lỗi hay sự chết có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu thương nồng hậu - của Thiên Chúa. Bởi thế, không phải chỉ sự chết mới cho chúng ta rơi vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa - nhưng qua Chúa Giêsu chúng ta đã ở trong bàn tay của Thiên Chúa. Và bàn tay Thiên Chúa giúp chúng ta ngày càng trở nên con cái luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói một cách gọn gàng "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, qua Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta."
Phúc âm tiếp tục tin này là chúng ta được an toàn trong bàn tay của Thiên Chúa yêu thương, trong đời sống này và đời sống ngày sau. Tôi còn nhớ những hình ảnh lúc tôi còn nhỏ về Thiên Chúa đến với tôi khi tôi nghĩ Thiên Chúa làm sao đối với tội lỗi. Những hình ảnh ấy cho tôi thấy Thiên Chúa rất giận dử ra mặt chống người tội lỗi một cách công chính - ngoại trừ khi Chúa Giêsu, con yêu mến của Ngài can thiệp đứng giữa chúng ta và cánh tay thịnh nộ của Thiên Chúa. Lúc trước đám tang không giúp gì chúng ta tránh những hình ảnh đó về Thiên Chúa. Linh mục mặc áo màu đen và các bài ca đượm lời buồn bả nói về ngày phán xét, là một bài thời trung cổ nói về Thiên Chúa xử án người chết. Thật là điều khó nghĩ để biết ai sẽ có lời nói cuối cùng về linh hồn người chết: Thiên Chúa của sự phán xét cuối cùng hay Chúa Giêsu với lòng thương xót.
Thời đó, có thể chúng ta cần đọc Kinh Thánh nhiều hơn, như Phúc âm hôm nay. Thánh Gioan cho chúng ta thấy là Thiên Chúa không có hai bản tính: bản tính giận dử làm quan tòa công chính cho tất cả loài người, và bản tính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và tha thứ. Trái lại, thánh Gioan nói là qua Chúa Giêsu Thiên Chúa tự Ngài đến gần chúng ta. Sự cam đoan trong sách Khôn Ngoan nói về người chết ở "trong bàn tay của Thiên Chúa" được nhắc lại trong Phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu là bàn tay yêu thương của Thiên Chúa nắm lấy một cách vững chắc đời sống người có đức tin trong hiện tại và không buông rơi họ trong đời sau.
Thánh Gioan nói: Chúa Giêsu đến để ban cho chúng ta sự sống đời đời ngay từ bây giờ. Sự sống đời đời không phải là vì qua Chúa Kitô, nhưng là chúng ta đã được sống mật thiết với Thiên Chúa, và sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta. Mối liên hệ mật thiết này bắt đầu ngay từ bây giờ và không bị phá hủy bởi sự chết, vì Chúa Kitô nói Ngài sẽ "cho họ sống lại trong ngày sau hết". Vậy chúng ta có chấp nhận đời sống Chúa Kitô mời gọi chúng ta ngay bây giờ và đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa vào trong đời sống chúng ta hay không?
Chúng ta đã được quà tặng sự sống từ Thiên Chúa ban cho chúng ta, những khi chúng ta họp nhau mỗi ngày Chúa Nhật để nhớ lại điều đó, để tăng thêm năng lực cho đời sống đó. Điều đó xãy ra như thế nào? Dấu chỉ của một cộng đoàn tín hữu họp nhau hôm nay nâng đở chúng ta: Nghe Lời Chúa làm Thiên Chúa nên hoạt động và ban ơn tạo dựng trong chúng ta. Thánh Thể chúng ta lãnh nhận là lương thực nuôi dưởng niềm hy vọng trong chúng ta bây giờ và trong đời sau. Và bàn tay Thiên Chúa không buông rơi chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu cam đoan với chúng ta "ai đến với tôi, tôi sẽ không loại người đó ra ngoài". Ý nghĩ của Chúa Giêsu rất rõ ràng là Ngài sống mật thiết với chúng ta vì "ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai."
Ngày lễ hôm nay và những ngày kế tiếp, cộng đoàn Mẽ Tây Cơ mừng "ngày người chết". Gia đình và bạn bè đi thăm viếng mộ những người thân thương và đem theo các thức ăn người chết thích khi họ còn sống để ăn nơi mộ. Ở đó gia đình, bạn bè, trẻ con ăn uống ngoài trời và nói chuyện vói nhau về người đã quá cố. Đó là một cách diễn tả tình liên hệ giữa người chết và người sống. Họ cũng tin là linh hồn các người quá cố còn sống một cách nào đó và đang còn ở giữa gia đình và bạn bè.
Chúng ta không cần phải là người Mễ Tây Cơ để mừng sự sống của nhũng người thân thương đã quá cố trong gia đình và bạn bè. Chúng ta không cần phải làm như anh em Mễ Tây Cơ, chúng ta cùng nhau dự tiệc Thánh Thể hôm nay phải không? Chúng ta cùng nhau chia sẻ câu chuyện trong Kinh Thánh, câu chuyện trong gia đình. Rồi khi chúng ta đã ăn "lương thực" mà người quá cố đã lãnh nhận là bánh và rượu của bí tích Thánh Thể đã nuôi dưởng họ trong sự sống và sự chết. Và lương thực đó đã cho chúng ta hy vọng là một ngày nào chúng ta sẽ cùng với họ dự bủa tiệc với nhau và với Chúa Phục Sinh.
Lúc này là lúc đi thăm nghĩa trang và cùng nhau chia sẻ câu chuyện của người quá cố với các con cháu. Chúng ta có thể nhắc đến đời sống của người thân thương quá cố và nói về việc họ đã làm sao truyền lại đức tin của họ cho chúng ta. Chúng ta có thể mở sách hình ảnh của các người quá cố cho con cháu xem và chúng ta có thể thêm lời cầu nguyện cho họ như chúng ta làm với con cháu trước khi đi ngủ.
Lúc này ở miền bắc là mùa thu và cảnh vật như "tàn úa" xung quanh chúng ta. Nhưng chúng ta hy vọng vững vàng là sau một mùa thu và đông, lá vàng rơi hết và trái đất sẽ sống xanh tươi trở lại. Chúng ta cũng hy vọng vững vàng dựa bào lời hứa của Chúa Giêsu với chúng ta là Ngài đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và cùng với Ngài và với tất cả chúng ta, chúng ta sẽ sống lại "trong ngày sau hết".
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
COMMEMORATION OF ALL THE FAITHFUL DEPARTED (A)
Wisdom 3:1-9; Psalm 23; Romans 5:5-11; John 6:37-40
When my parents died a some years ago I was comforted by scriptural verses like those selected for today’s celebration. The Book of Wisdom doesn’t go out of its way to describe where the souls of the dead are right now. But it does offer consoling words we are invited to place our hope in: The souls of the just are in the hand of God. ”Which is similar to what I held on to when my parents died. I’ve told people that I don’t know where they are, or what they are doing right now; I just believe that they have fallen into the hands of a merciful God. Family and friends pictured mom in heaven cooking up her Sunday pasta with her sisters and dad playing pinochle with his brothers-in-law. What wonderful images they are and I am sure they offered comfort to my family at the gravesides. But all I hung on to were those merciful hands of God who created my parents, sustained them in a simple and trusting faith through hard times and final illnesses and now, is showering mercy and love on them. As Wisdom puts it, “The souls of the just are in the hand of God.”
Wisdom has some particular souls in mind; those whose “passing away was thought an affliction” and who were “tried” during their lifetime. People are tempted to give up on God when life offers struggles. Wisdom’s view of our hardships is that they are like offerings placed on the altar to God. By reason of our baptismal priesthood, we are priests who offer our life’s service and struggles to God, We have the hope that the Book of Wisdom gives us, “the faithful shall abide with God in love, because grace and mercy are with God’s holy ones.” There, we hear it again, a variation on what I was hearing at the time of my parents’ deaths, “they have fallen into the hands of a merciful God.” That is all we can know for sure now – and it is enough for people whose hope is in God.
That is also the focus of Paul’s words to us today – Hope. This hope is based on God’s love for us. Paul tells us that God’s love has shown itself very concretely in Jesus’ acceptance of death on our behalf. We didn’t earn or deserve this love; it was given to us while we were sinners. “But God proves God’s love for us in that while we were still sinners Christ died for us.” We need not fear death, not as much as some of us do, if we believe that we are falling into the loving hands of God. Jesus is the sure sign of God’s love for us. Sin did not prevent God from showing us love in Jesus and, because of Jesus, sin need not keep us separated from God in this life or the next. God is offering us reconciliation: “we were reconciled to God through the death of [God’s] Son.”
In this life and in the next, we are reconciled to God by our faith in Jesus’ death and resurrection. When we waver in that faith, as we might do facing the death of a loved one after a long and painful illness, or when we consider our own death, it is the Holy Spirit who continually pours into our hearts the reassurance that God loves us. Nothing, not even sin and death, can separate us from the love of God. So, it isn’t only in death that we fall into the hands of a loving God – through Jesus we are already in God’s hands and those hands are molding us more and more into trusting children of God. Paul says it succinctly: “Hope does not disappoint, because the love of God has been poured into our hearts through the Holy Spirit that has been given to us.”
The Gospel continues the message: we are secure in the hands of a loving God, both in this life and the next. Some of my childhood images of God keep sneaking up on me when I think of how God deals with sin. Those images presented a very angry God who meted out a stern justice and was ready to strike down sinners – except for the intervention of Jesus, the beloved Son, who got between us and God’s raised fist. Funerals at that time weren’t much help in dispelling those images of God. The vestments were black and the hymns dour, especially the “Dies Irae,” (“Day of Wrath”), a medieval hymn which depicted God’s stern judgement on the dead. (Some classical composers have incorporated that melody in their pieces to convey an atmosphere of dread and foreboding.) It was hard to determine who would have the last word over our souls: the God of our last judgment, or the compassionate judge Jesus.
We should have read more scripture in those days – for example, today’s gospel. John shows that God does not have a split personality: the angry and exacting Judge of all humankind and the forgiving and loving Christ. Rather, John tells us that in Jesus, God has drawn close to us. Wisdom’s reassurance that the dead are in the “hand of God” is echoed in today’s gospel. Jesus is the visible manifestation of God’s loving hand which holds the faithful securely in this life and will not let us go in the next.
John puts it this way: Jesus has come to give us eternal life – beginning now. Eternal life is now because, in Christ, we are already in an intimate relationship with God and God’s life is in us. This relationship starts now and is not broken by death, for Christ says he will raise us up “on the last day.” Shall we accept the life Christ is offering us now and receive the loving God into our lives?
We already have the gift of God’s life in us, but we gather each Sunday to be reminded and strengthened in that life. How does it happen? The sign of the believing community gathered with us today encourages us. Hearing the Word of God makes God’s active and creative power present to us. The Eucharist we receive is the food that sustains our hope. Now and into the next life, God’s hands will never let us go.
Jesus assures us today, “I will not reject anyone who comes to me.” He is very clear that it is his intention to enter into a permanent relationship with us, for it is also, “the will of the one who sent me,” not to lose anyone God put into Jesus’ care.
On this feast and the days which surround it, the Mexican community celebrates “the Day of the Dead.” Family members visit the graves of their deceased and take the dead person’s favorite foods. At the grave family and friends, adults and children, have a picnic: they tell stories of their dead and share the food they brought. It is an expression of the undying bonds of love that unite them to their family members who have passed to the other side. They also believe that the spirits of their loved ones are alive and, in some way, still with them.
We don’t have to be of Mexican descent to celebrate the lives of our deceased family and friends. Aren’t we doing something similar to what our Mexican brothers and sisters do when we gather at Eucharist on this day? We share stories from the scriptures, the family stories we have in common. We then eat the “favorite foods” that nourished our deceased brothers and sisters: the Eucharistic bread and wine that sustained them in their living and dying and that gives us hope that someday we will again eat at a banquet table with one another and the risen Lord.
This is a time to go to visit the cemetery and share stories of the dead with our children. We could recall their lives, how they lived their faith and passed that faith on to us. We might open family albums for our little ones and, like a storybook reading in the evening, tell them the stories of their deceased grandparents, uncles, aunts, and our friends. We could include prayers for them as we pray bedtime prayers with the little ones.
In our part of the globe it is Autumn and nature seems to be “passing away” around us. But we have firm hope that, after a season of rest and bareness, the earth will come alive again. We also have a secure hope, based on Jesus’ promise to us, that he has given us eternal life and that, with him and one another, we shall rise “on the last day.”
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:29 30/10/2017
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1, 16). Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là một loạt các từ "phúc", chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là "những người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là "thánh" rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống" Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta "cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: " Phúc cho những ai…" (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Nên Thánh Vì Ta Là Đấng Thánh
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng thành Giê-su-sa-lem thiên quốc là Mẹ chúng ta. Nơi đó, có Đức Maria và anh chị em chúng ta là toàn thể các thánh muôn đời ca tụng Chúa, và chúng ta là lữ khách được đức tin soi dẫn đang vội vã tiến về và ước ao trở nên như thế.
Trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, thánh Bernarđô đã bắt đầu bài giảng nổi tiếng với câu hỏi như sau : "Có ích gì hay không lời chúc tụng của chúng ta dành cho các vị thánh, có ích gì hay không lời tôn vinh của chúng ta, có ích gì hay không việc chúng ta cử hành long trọng như thế này?" Ðây cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay. Câu trả lời của thánh Bernardô thật thú vị và cũng rất thời sự: "Những vị thánh của chúng ta không cần đến những danh dự chúng ta dành cho các ngài, và việc phụng tự chúng ta dành cho các ngài cũng không mang lại cho các ngài điều gì thêm. Phần tôi, tôi cần thú nhận rằng, khi tôi nghĩ đến các vị thánh, tôi cảm thấy bừng cháy lên những ước muốn to lớn".
Ước muốn to lớn mà thánh Bernarđô nói ở trên là ước muốn nên thánh. Cho dù việc chúng ta mừng kính chẳng thêm ích gì cho Các Thánh, nhưng điều đó lại thúc dục chúng ta trở nên thánh. Ai trong chúng ta lại không mơ ước trở nên tốt lành. Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Chúa, giống như Chúa (x.St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1, 16).
Đầu mỗi câu Tin Mừng hôm nay bằng từ "phúc". Chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những thánh nhân, phúc nhân. Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Quả thật, chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, hiền lành, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, và trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng hoạt động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính, nhưng Chúa muốn chúng ta noi theo.
Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: "Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng" (Mt 5,10). Trong số chúng ta đã có những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, nghĩa là sự thánh thiện. Với sự thôi thúc của ơn thánh Chúa, các ngài không bằng lòng với sự kém cỏi; các ngài không bằng lòng với những biện pháp nửa vời, bằng mọi cách phấn đấu để nên thánh. Các ngài “đã giặt áo mình trong máu Con Chiên”, và “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế.
Tuy nhiên lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: "Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? ". Chúng ta hãy noi gương các Thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân đã đi trước chúng ta và giờ đây đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách : "hãy cố lên! " Ai trong chúng ta cũng phải cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9) nên chúng ta hy vọng chắc mình sẽ làm thánh nếu ta thực hành Lời Chúa dạy.
Thôi, chúng ta phải nên thánh thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài : "Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh" (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Tám Mối, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo hội mừng kinh hôm nay.
Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Các Thánh là ai vậy?
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Chúng ta hôm nay mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng của mọi thành phần con cái trong đại gia đình Hội Thánh. Mừng kính Các Thánh, là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ?
Thưa : Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại, chỉ có hòa thuận và thương yêu, Các Thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố : “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi nên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là "những người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là "thánh" rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống" Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta "cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: " Phúc cho những ai…" (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Nên Thánh Vì Ta Là Đấng Thánh
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng thành Giê-su-sa-lem thiên quốc là Mẹ chúng ta. Nơi đó, có Đức Maria và anh chị em chúng ta là toàn thể các thánh muôn đời ca tụng Chúa, và chúng ta là lữ khách được đức tin soi dẫn đang vội vã tiến về và ước ao trở nên như thế.
Trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, thánh Bernarđô đã bắt đầu bài giảng nổi tiếng với câu hỏi như sau : "Có ích gì hay không lời chúc tụng của chúng ta dành cho các vị thánh, có ích gì hay không lời tôn vinh của chúng ta, có ích gì hay không việc chúng ta cử hành long trọng như thế này?" Ðây cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay. Câu trả lời của thánh Bernardô thật thú vị và cũng rất thời sự: "Những vị thánh của chúng ta không cần đến những danh dự chúng ta dành cho các ngài, và việc phụng tự chúng ta dành cho các ngài cũng không mang lại cho các ngài điều gì thêm. Phần tôi, tôi cần thú nhận rằng, khi tôi nghĩ đến các vị thánh, tôi cảm thấy bừng cháy lên những ước muốn to lớn".
Ước muốn to lớn mà thánh Bernarđô nói ở trên là ước muốn nên thánh. Cho dù việc chúng ta mừng kính chẳng thêm ích gì cho Các Thánh, nhưng điều đó lại thúc dục chúng ta trở nên thánh. Ai trong chúng ta lại không mơ ước trở nên tốt lành. Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Chúa, giống như Chúa (x.St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1, 16).
Đầu mỗi câu Tin Mừng hôm nay bằng từ "phúc". Chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những thánh nhân, phúc nhân. Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Quả thật, chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, hiền lành, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, và trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng hoạt động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính, nhưng Chúa muốn chúng ta noi theo.
Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: "Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng" (Mt 5,10). Trong số chúng ta đã có những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, nghĩa là sự thánh thiện. Với sự thôi thúc của ơn thánh Chúa, các ngài không bằng lòng với sự kém cỏi; các ngài không bằng lòng với những biện pháp nửa vời, bằng mọi cách phấn đấu để nên thánh. Các ngài “đã giặt áo mình trong máu Con Chiên”, và “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế.
Tuy nhiên lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: "Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? ". Chúng ta hãy noi gương các Thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân đã đi trước chúng ta và giờ đây đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách : "hãy cố lên! " Ai trong chúng ta cũng phải cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9) nên chúng ta hy vọng chắc mình sẽ làm thánh nếu ta thực hành Lời Chúa dạy.
Thôi, chúng ta phải nên thánh thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài : "Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh" (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Tám Mối, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo hội mừng kinh hôm nay.
Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Các Thánh là ai vậy?
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Chúng ta hôm nay mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng của mọi thành phần con cái trong đại gia đình Hội Thánh. Mừng kính Các Thánh, là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ?
Thưa : Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại, chỉ có hòa thuận và thương yêu, Các Thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố : “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi nên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm Lễ Các Linh Hồn
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:31 30/10/2017
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy. Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế, ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh là một câu hỏi lớn ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : "Là Bánh Hằng Sống … ai ăn … sẽ được sống đời đời" (Ga 6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : "Là Bánh Hằng Sống … ai ăn … sẽ được sống đời đời" (Ga 6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm Lễ Các Thánh Nam Nữ 2017
Lm. Anthony Trung Thành
09:33 30/10/2017
Trong mầu nhiệm các thánh thông công, có ba thành phần sau đây: Một là các kitô hữu còn sống ở thế gian, gọi là thành phần chiến đấu; Hai là các linh hồn đang thanh luyện trong luyện ngục, gọi là thành phần đau khổ; Ba là tất cả các thánh ở trên trời, gọi là thành phần chiến thắng. Cả ba thành phần này liên kết mật thiết với nhau: Các thánh trên Thiên đàng bầu cử cho các kitô hữu còn sống; Các kitô hữu còn sống cầu nguyện, dâng hy sinh, làm việc lành chỉ cho các linh hồn trong luyện ngục; Các linh hồn trong luyện ngục khi đã được lên Thiên đàng sẽ bầu cử cho các kitô hữu. Thánh lễ hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các Thánh trên Thiên đàng, tức là thành phần chiến thắng, xin được gợi ý suy niệm một số điểm sau đây:
1. Trước hết, chúng ta nên nhớ rằng, Thiên Chúa mong muốn mọi người được nên thánh:
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (x. St 1,26-27). Sau khi sa ngã phạm tội, Nguyên tổ mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, tức là mất đi ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người, trái lại, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu con người (x. St 3,15). Đến thời gian tới hồi viên mãn, lời hứa đó được thực hiện bởi biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1,26-38). Sau biến cố Truyền tin, Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Ngài sống ẩn dật với Đức Mẹ và Thánh Giuse ở Nazarét suốt 30 năm. Để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó là giúp mọi người được lãnh nhận ơn cứu độ, trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã tuyển chọn các Tông đồ, thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, sau cùng Ngài chịu chết, sống lại và lên trời. Trước khi về trời, Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 4,1-2). Như vậy, những gì Thiên Chúa đã làm đều tạo điều kiện và mong muốn mọi người được nên thánh, được ở trên Thiên đàng với Ngài.
2. Nên thánh là bổn phận của mỗi người chúng ta:
Từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mời gọi dân Do thái rằng: “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 20,26). Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã lặp lại lời mời gọi đó: “Các Con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5,48). Sau này, tôi tớ đáng kính của Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng đã cho biết: “Ai phải nên Thánh? Tất cả mọi người không có luật trừ. Khởi sự từ chính mình con, vì Chúa mời gọi tất cả.” (Đường Hy Vọng số 92). Như vậy, nên thánh là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta.
3. Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể nên thánh?
Để nên thánh thì cần phải muốn: Tục ngữ Tây phương có câu: “Vouloir c’est pouvoir” (muốn là có thể): Muốn làm giáo viên thì có thể trở thành giáo viên; Muốn làm bác sĩ thì có thể trở thành bác sĩ; Muốn làm kỷ sư thì có thể trở thành kỷ sư; muốn làm tu sĩ, linh mục thì có thể trở thành tu sĩ, linh mục...Nhưng động từ “muốn” đó diễn tả một quá trình phấn đấu, học tập, trau dồi những gì cần thiết cho “chức vụ” của mình. Chẳng hạn, muốn làm kỷ sư thì phải vào trường đào tạo nghề kỷ sư, muốn làm linh mục thì phải trải qua thời gian đào tạo của Giáo hội. Từ đó chúng ta có thể nói: Muốn nên thánh thì có thể nên thánh được. Thật vậy, khi nghe tin phong thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Thánh Phanxicô Salê (Francois de Sales) liền nói: - Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn. Qủa thực, ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ bốn. Thánh Augustinô thì nói: “Ông nọ bà kia làm được sao tôi không” và Ngài đã nên thánh. Cho nên, muốn là có thể. Tôi muốn nên thánh thì tôi có thể nên thánh, với điều kiện tôi phải thực hành những gì cần thiết mà Chúa và Giáo hội đòi buộc để nên thánh.
Để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội: Giữ mình sạch tội là tuân giữ 10 điều răn Thiên Chúa, các điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu. Vì tội đối nghịch với sự thánh thiện như bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Thánh vịnh 24,4 của bài đáp ca hôm nay cho biết, các thánh là những “người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.” Phúc thứ sáu trong tám mối phúc thật cũng cho biết rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Vì thế, để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội.
Để nên thánh cần phải có lòng sám hối: Nếu giữ được mình sạch tội thì quá tốt, vì đã nên thánh. Nhưng trong suốt hành trình dương thế ít người giữ được tâm hồn trong sạch, vô tội. Vì thế, ai phạm tội thì phải có lòng sám hối ăn năn và nhận lãnh ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích Giao hòa. Thánh Phaolô nói rằng: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4,22-24). Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.” (1Ga 2,1-2).
Trong hạnh các thánh, rất nhiều vị có quá khứ tội lỗi nhưng nhờ có lòng sám hối mà đã nên thánh: Thánh Mathêu, thánh Augustinô, thánh Phêrô, thánh Maria Madalêna...Nếu chúng ta có tội, nhất là tội nặng nhưng biết sám hối kịp thời chúng ta cũng có thể nên thánh.
Để nên thánh cần phải chu toàn bổn phận: Rất nhiều vị thánh đã nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta không thể bắt chước được. Nhưng có một cách nên thánh chung mà ai cũng có thể làm được, đó là nên thánh bằng cách chu toàn bổn phận: Bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ, con cái, linh mục, tu sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, công nhân... Tôi tớ đáng kính, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nói: “Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các Ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận” (ĐHV số 25). Đối với Ngài, “Bổn phận chính là Thánh Ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV Số 17). Vì thế, Ngài cho biết: “Thợ nên thánh ở công xưởng, lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận” (ĐHV 24). Và Ngài kết luận: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27). Như vậy, chu toàn bổn phận thì đã nên thánh rồi. Nên thánh bằng cách này thì hết sức dễ dàng, ai cũng có thể làm được.
Ngày kia, cha Dan nói chuyện với một người thợ sắp chữ in. Cha đặt câu hỏi: “Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không?”
Người thợ đơn sơ trả lời: “Thưa cha, khó quá vì từ mai đến tối, con phải sắp chữ để in, không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.”
Cha Dan động viên: “Nên thánh không khó gì đâu. Nên thánh không cần phải làm điều chi lạ. Khi con sắp chữ, con sắp vì Chúa, con làm vì lòng kính mến Chúa.”
Người thợ thuận lời: “Dạ, để con thử.”
Vài ngày sau, người thợ đến tìm cha Dan và nói: “Thưa cha, nên thánh không khó như con đã tưởng.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chu toàn bổn phận là hoàn tất ý định của Chúa Cha trao phó, xin giúp chúng con cũng biết chu toàn bổn phận hằng ngày của mình với lòng yêu mến Chúa. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
1. Trước hết, chúng ta nên nhớ rằng, Thiên Chúa mong muốn mọi người được nên thánh:
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (x. St 1,26-27). Sau khi sa ngã phạm tội, Nguyên tổ mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, tức là mất đi ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người, trái lại, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu con người (x. St 3,15). Đến thời gian tới hồi viên mãn, lời hứa đó được thực hiện bởi biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1,26-38). Sau biến cố Truyền tin, Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Ngài sống ẩn dật với Đức Mẹ và Thánh Giuse ở Nazarét suốt 30 năm. Để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó là giúp mọi người được lãnh nhận ơn cứu độ, trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã tuyển chọn các Tông đồ, thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, sau cùng Ngài chịu chết, sống lại và lên trời. Trước khi về trời, Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 4,1-2). Như vậy, những gì Thiên Chúa đã làm đều tạo điều kiện và mong muốn mọi người được nên thánh, được ở trên Thiên đàng với Ngài.
2. Nên thánh là bổn phận của mỗi người chúng ta:
Từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mời gọi dân Do thái rằng: “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 20,26). Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã lặp lại lời mời gọi đó: “Các Con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5,48). Sau này, tôi tớ đáng kính của Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng đã cho biết: “Ai phải nên Thánh? Tất cả mọi người không có luật trừ. Khởi sự từ chính mình con, vì Chúa mời gọi tất cả.” (Đường Hy Vọng số 92). Như vậy, nên thánh là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta.
3. Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể nên thánh?
Để nên thánh thì cần phải muốn: Tục ngữ Tây phương có câu: “Vouloir c’est pouvoir” (muốn là có thể): Muốn làm giáo viên thì có thể trở thành giáo viên; Muốn làm bác sĩ thì có thể trở thành bác sĩ; Muốn làm kỷ sư thì có thể trở thành kỷ sư; muốn làm tu sĩ, linh mục thì có thể trở thành tu sĩ, linh mục...Nhưng động từ “muốn” đó diễn tả một quá trình phấn đấu, học tập, trau dồi những gì cần thiết cho “chức vụ” của mình. Chẳng hạn, muốn làm kỷ sư thì phải vào trường đào tạo nghề kỷ sư, muốn làm linh mục thì phải trải qua thời gian đào tạo của Giáo hội. Từ đó chúng ta có thể nói: Muốn nên thánh thì có thể nên thánh được. Thật vậy, khi nghe tin phong thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Thánh Phanxicô Salê (Francois de Sales) liền nói: - Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn. Qủa thực, ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ bốn. Thánh Augustinô thì nói: “Ông nọ bà kia làm được sao tôi không” và Ngài đã nên thánh. Cho nên, muốn là có thể. Tôi muốn nên thánh thì tôi có thể nên thánh, với điều kiện tôi phải thực hành những gì cần thiết mà Chúa và Giáo hội đòi buộc để nên thánh.
Để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội: Giữ mình sạch tội là tuân giữ 10 điều răn Thiên Chúa, các điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu. Vì tội đối nghịch với sự thánh thiện như bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Thánh vịnh 24,4 của bài đáp ca hôm nay cho biết, các thánh là những “người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.” Phúc thứ sáu trong tám mối phúc thật cũng cho biết rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Vì thế, để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội.
Để nên thánh cần phải có lòng sám hối: Nếu giữ được mình sạch tội thì quá tốt, vì đã nên thánh. Nhưng trong suốt hành trình dương thế ít người giữ được tâm hồn trong sạch, vô tội. Vì thế, ai phạm tội thì phải có lòng sám hối ăn năn và nhận lãnh ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích Giao hòa. Thánh Phaolô nói rằng: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4,22-24). Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.” (1Ga 2,1-2).
Trong hạnh các thánh, rất nhiều vị có quá khứ tội lỗi nhưng nhờ có lòng sám hối mà đã nên thánh: Thánh Mathêu, thánh Augustinô, thánh Phêrô, thánh Maria Madalêna...Nếu chúng ta có tội, nhất là tội nặng nhưng biết sám hối kịp thời chúng ta cũng có thể nên thánh.
Để nên thánh cần phải chu toàn bổn phận: Rất nhiều vị thánh đã nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta không thể bắt chước được. Nhưng có một cách nên thánh chung mà ai cũng có thể làm được, đó là nên thánh bằng cách chu toàn bổn phận: Bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ, con cái, linh mục, tu sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, công nhân... Tôi tớ đáng kính, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nói: “Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các Ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận” (ĐHV số 25). Đối với Ngài, “Bổn phận chính là Thánh Ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV Số 17). Vì thế, Ngài cho biết: “Thợ nên thánh ở công xưởng, lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận” (ĐHV 24). Và Ngài kết luận: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27). Như vậy, chu toàn bổn phận thì đã nên thánh rồi. Nên thánh bằng cách này thì hết sức dễ dàng, ai cũng có thể làm được.
Ngày kia, cha Dan nói chuyện với một người thợ sắp chữ in. Cha đặt câu hỏi: “Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không?”
Người thợ đơn sơ trả lời: “Thưa cha, khó quá vì từ mai đến tối, con phải sắp chữ để in, không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.”
Cha Dan động viên: “Nên thánh không khó gì đâu. Nên thánh không cần phải làm điều chi lạ. Khi con sắp chữ, con sắp vì Chúa, con làm vì lòng kính mến Chúa.”
Người thợ thuận lời: “Dạ, để con thử.”
Vài ngày sau, người thợ đến tìm cha Dan và nói: “Thưa cha, nên thánh không khó như con đã tưởng.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chu toàn bổn phận là hoàn tất ý định của Chúa Cha trao phó, xin giúp chúng con cũng biết chu toàn bổn phận hằng ngày của mình với lòng yêu mến Chúa. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH Phanxicô nói rằng trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta nhận được ơn sủng để yêu.
Giuse Thẩm Nguyễn
17:20 30/10/2017
(EWTN News/CNA) Vào hôm Chúa Nhật, trước khi đọc kinh Truyền Tin với khoảng 30,000 khách hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô, ĐGH Phanxicô đã chia sẻ tóm tắt đoạn Phúc Âm của Thánh Matthew về việc Chúa Giêsu đòi hỏi phải yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người lân cận như chính bản thân mình rằng chính trong phép Thánh Thể chúng ta nhận được ân sủng để thực hiện tình yêu ấy.
“Thiên Chúa là Tình Yêu đã dựng lên chúng ta và cho chúng ta trở thành một phần đời sống của ngài, để được yêu và để yêu Ngài và để yêu tất cả mọi người với Ngài. Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó chúng ta cần ân sủng của Chúa để có khả năng yêu, một tình yêu đến từ Thiên Chúa.”
Vì vậy “Chúa Giêsu đã hiến mình cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể...Nơi đây chúng ta nhận Mình và Máu Thánh Chúa, nghĩa là chúng ta đón nhận Chúa Giesu thể hiện tình yêu của Ngài rõ ràng nhất khi Ngài tự dâng hiến mình cho Chúa Cha để cứu chuộc chúng ta.”
Trong đoạn Phúc Âm, một người biệt phái hỏi Chúa Giêsu rằng trong 600 điều luật Do Thái thì điều nào quan trọng nhất. Chúa Giêsu, không một chút ngập ngừng, trả lời: “Hãy yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu người lân cận như chính mình.”
ĐGH đã chỉ ra rằng giao ước giữa Thiên Chúa và dân của ngài là Mười Điều Răn được Thiên Chúa trực tiếp truyền lại cho ông Mose, và trong câu trả lời “Chúa Giêsu muốn làm rõ điều này là nếu không có tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho người lân cận thì sẽ không có lòng trung thành thật sự trong giao ước với Thiên Chúa.”
Câu trả lời của Chúa Giêsu nhằm giúp cho người biệt phái hiểu được thứ tự ưu tiên và sự quan trọng của nhiều việc, cũng như những luật lệ khác phụ thuộc vào hai điều luật này.
“Điều mà Chúa Giêsu đề cập đến trong đoạn Phúc Âm này là một lý tưởng tuyệt vời tương xứng với lòng mong ước sâu xa chân thực nhất của trái tim chúng ta. Thực ra, chúng ta được dựng lên để yêu và để được yêu.”
ĐGH Phanxicô nhấn mạnh rằng chúng ta có thể làm nhiều điều tốt lành theo luật, nhưng nếu chúng ta không có tình yêu thì chỉ là vô ích. Đây cũng là cách mà Chúa Giêsu đã sống một đời : để rao giảng và thực hành những công việc thiết yếu, đó là tình yêu.
“Tình yêu đem động lực và phong phú cho cuộc đời và cho hành trình đức tin: nếu không có tình yêu, cả đời sống lẫn đức tin sẽ khô cằn.”
ĐGH kết luận rằng thực ra, nếu chúng ta biết những giới luật để yêu này ngay từ khi còn nhỏ thì chúng ta đã cố gắng tuân giữ luật này và áp dụng nó trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta gặp.
Khi chúng ta không sống trong luật yêu thương, chúng ta có thể chạy đến Đức Trinh Nữ Maria để xin ngài giúp đỡ vì Đức Thánh Trinh Nữ luôn giúp chúng ta “chào mừng luật vĩ đại của Tình Yêu Chúa và Yêu người “vào cuộc đời của chúng ta.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Tin Giáo Hội Việt Nam
Emmaus VII: Hội ngộ và Đồng hành
Lm. Tam Biên
07:32 30/10/2017
Emmaus VII: Hội ngộ và Đồng hành
San José thuộc một vùng đất mang tên Việt thơ mộng “Thung lũng Hoa vàng” hoặc danh xưng lừng lẫy “Silicon Valley,” nhưng không phải là nơi du khách lũ lượt tìm đến. Tại đây không có những thắng cảnh kỳ quan, cũng chẳng là chốn phồn hoa đô hội.
Nhưng trên 160 linh mục người Việt từ nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, và từ một số các quốc gia như Canada, Đài Loan, Thái Lan, đã kéo về San José trong ít ngày vào tháng Mười 2017. Họ về đây tham dự đại hội linh mục Việt Nam toàn quốc lần VII, mang tên Hành trình Emmaus, với chủ đề “Đây là Mẹ con.” Emmaus III vào năm 2009 cũng diễn ra trong vùng, tại hai thành phố phụ cận Santa Clara và Oakland.
Họ đại diện cho khoảng 1,000 linh mục người Việt tại Hoa Kỳ, đã về hưu hoặc còn đang phục vụ ở các giáo phận thuộc 8 vùng từ bờ biển Thái Bình qua bờ Đại Tây Dương. Họ cũng thay mặt cho các dòng tu với trách nhiệm ở nhiều nơi tại Mỹ và hải ngoại. Trong số các linh mục còn có những vị là tuyên uý cho các binh chủng Hoa Kỳ ở nhiều căn cứ trên thế giới, hoặc tuyên uý cho dân tới lui các hải cảng từ nhiều quốc gia.
Họ về San José không như những du khách, nhưng về đây để tay bắt mặt mừng và hội ngộ với những người anh em lâu ngày không gặp, để làm quen và gặp gỡ với các vị chưa có cơ hội biết mặt. Hàng ngũ các linh mục vốn đa dạng – do những khác biệt về thế hệ, địa phương, đào tạo, dòng hoặc triều (*) – nhưng tất cả cùng chia sẻ sứ mạng của Hội thánh, từ những cha đã hưu dưỡng, những vị còn mang nhiều trách nhiệm, cho đến những linh mục bắt đầu phục vụ không lâu. Họ về đây để suy tư theo gợi ý của các diễn giả, để trao đổi kinh nghiệm với nhau, để cùng cầu nguyện trong phụng vụ thánh, để ngồi cùng bàn chia sẻ của ăn cũng như những câu chuyện mà nhiều lúc mang lại những tiếng cười giòn giã.
Đồng hành với dân Chúa
Hình ảnh quen thuộc của vị linh mục dưới con mắt người tín hữu là một tư tế dâng lễ hoặc một người ban các bí tích (thánh hoá), tuy trách nhiệm của các vị trước hết là phục vụ Lời Chúa (rao giảng), và còn phải đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đoàn (cai quản). Cộng đoàn có thể là xứ đạo, hoặc nhà tù, trường học, hải cảng, căn cứ quân sự, v.v. Đối với một số linh mục, cộng đoàn hoặc vườn nho, đồng lúa của họ trải dài đến độ “cò bay gẫy cánh.” Có vị từng ở một giáo phận vùng Tây-Bắc Hoa Kỳ, phụ trách nhiều nhà thờ cách xa nhau vài chục dặm. Mỗi Chúa Nhật, cha đi dâng lễ ở nhiều nơi, và khi về nhà thì đã gần nửa đêm. Lại có các linh mục tuyên uý đi theo các chiến binh tại bất cứ nơi nào trong “họ đạo:” lều ở sa mạc, trại lính, hàng không mẫu hạm, vùng hoả tuyến, quân y viện, v.v.
Linh mục Nguyễn Khắc Hy, thuộc hội linh mục Xuân-bích chuyên việc đào tạo nơi các chủng viện, đã cùng anh em tại Emmaus VII duyệt qua những vai trò của linh mục, đã bắt nguồn và diễn biến thế nào, từ việc chăm lo cho cộng đoàn đức tin như vị mục tử đến việc rao giảng, và cử hành các bí tích. Cũng có những cái nhìn khác nhau liên hệ đến chính căn tính: linh mục là một Đức Kitô khác (alter Christus) hay chỉ là một tôi tớ nhân danh Đức Kitô là Đầu và thay mặt Hội thánh (in persona Christi Capitis, in persona Ecclesiae).
Dù hiểu như thế nào về căn tính và vai trò của mình, linh mục trong thời đại hôm nay cần ý thức hơn về liên hệ chặt chẽ giữa mình với cộng đoàn, và quan tâm hơn đến hoàn cảnh cũng như nhu cầu của tín hữu, để đồng hành với họ. Một cha 77 tuổi tại đại hội đã được đánh động do lời nhận xét của một linh mục trẻ về hai hạng mục tử: một số lo lắng tìm chiên lạc, và một số tìm cách lợi dụng đàn chiên.
Trong mọi tình huống, linh mục được kêu gọi sống vui tươi, trở thành thừa tác viên của niềm vui, theo lời nhấn mạnh của cha Đinh Văn Nghị, dòng Đa-minh, đến từ Bangkok, Thái Lan. Đây không phải là sự vui vẻ hời hợt, mà là hoa quả của một cuộc sống tiếp cận với Tin Mừng, với Thiên Chúa, “Đấng làm hoan lạc tuổi xuân tôi” (Tv 43:4). Họ cần học hỏi nơi Trinh nữ Maria, luôn rộng mở cho Thiên Chúa và bước đi trên con đường của Người. Các bạn trẻ và thiếu nhi, theo một thăm dò ý kiến, cũng mong mỏi các linh mục vui tươi phấn khởi hơn.
Sinh trưởng trong một môi trường và thời đại với nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, các em quen thuộc với các phương tiện liên lạc và truyền thông quá tân tiến, như điện thoại tinh khôn và social media, là những thứ thu hút người già cũng như trẻ em. Nhưng theo những nghiên cứu được cha Trần Công Nghị, giám đốc VietCatholic, trình bày tại đại hội, những tiến bộ này như con dao hai lưỡi, vừa giúp con người tiếp cận kiến thức, dễ dàng liên kết với nhau, lại vừa giảm bớt tiếp xúc diện đối diện với người khác và gia tăng sự thờ ơ trước nhu cầu của người chung quanh, v.v.. Điều này đặc biệt gây hậu quả sâu đậm nơi giới trẻ.
Các em lại sống trong một thời đại với rất nhiều áp lực và đòi hỏi, khiến nhiều em bị căng thẳng, khủng hoảng. Hơn thế, theo trình bày của nữ bác sĩ Nguyễn Thanh Tâm, cố vấn của phong trào Thiếu nhi Thánh thể VN tại Hoa Kỳ, các em còn bị ảnh hưởng do những xáo trộn chưa từng có về luân lý sinh học, trong đó có những biến chuyển trong việc thụ thai – với “three-parent embryo” hay là phôi thai từ 3 cha mẹ, việc đổi giới tính và những phân loại chưa từng có: giới tính đứng giữa (intersex), giới tính không cố định (gender fluid), v.v. Giữa những thử thách đa dạng của mình, giới trẻ cần đến sự đồng hành, hỗ trợ của các linh mục, dù không có câu trả lời cho mọi vấn đề.
Đồng hành với nhau và Đấng Phục Sinh
Hội ngộ Emmaus, được tổ chức hai năm một lần, là cơ hội cho anh em linh mục người Việt tại Mỹ củng cố liên hệ với nhau như những người bạn đồng hành, dù ở cách xa nhau. Tại đây, họ ý thức mình không cô độc trên cuộc lữ hành, mà chia sẻ cùng một sứ mạng, một niềm tin, một niềm hy vọng, tuy mang những lo âu khác biệt hoặc giống nhau. Khi ngồi cùng bàn ăn, sum họp bên bàn tiệc thánh, cùng nhau cất vang những bài thánh vịnh thánh ca, họ như cảm nghiệm phần nào lời thánh vịnh 133: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” Điều này lại càng đúng cho những linh mục đến hội ngộ Emmaus từ các vùng hẻo lánh, như các mission trong khu vực dành cho dân da đỏ, thiếu những cơ hội gặp gỡ anh em cùng chí hướng.
Giữa khung cảnh ấm cúng của Emmaus VII, một cha già không quên các linh mục đang sống trong tăm tối, không còn tiếp tục vai trò mục tử của mình, và đã kêu gọi tập thể linh mục làm một điều gì cho họ. Trong số các linh mục tham dự đại hội, lại có vài vị thuộc dòng Tôi tớ Đấng Phù Trợ, là cộng đoàn chuyên nâng đỡ những linh mục bị khủng hoảng. Các linh mục biết mình cần sự hỗ trợ của nhau, và trên hết là của Đấng Phục Sinh, Đấng cảm thông với những yếu hèn của con người. Như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ mất niềm tin trên đường đi Emmaus, sưởi ấm cõi lòng và mở mắt họ, Đấng Phục Sinh tiếp tục bước đi bên các môn đệ hôm nay.
Khi nhận biết Chúa đồng hành với mình, người môn đệ thời thế kỷ XXI có thể như Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII nói với Chúa sau một ngày dài với nhiều mệt mỏi: “Lạy Chúa, đây là Giáo hội của Chúa. Con đi ngủ đây!” Họ có thể an tâm tín nhiệm vào Chúa trong những thử thách của đời phục vụ, dù xem ra Chúa đang ngủ trên thuyền trong cơn bão tố (xem Mc 4:37-38).
Là con người, họ không tránh được những lúc xao xuyến, và có thể như các môn đệ thời xưa, muốn đánh thức Chúa mà than vãn: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4:38). Nhưng rốt cuộc họ biết mình không cô độc, và nghe lời Đức Maria, họ tín nhiệm vào Chúa, đến độ “Người bảo gì thì làm theo như vậy” (xem Ga 2:5). Dần dần, họ học theo gương tổ phụ Abraham, “không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa” (Rm 4:18 – bài đọc I tại lễ khai mạc Emmaus VII).
Cuối cùng, những ngày hội ngộ Emmaus cũng trôi qua và đã đến lúc chia tay, rời Thung lũng Thánh Clara để trở về nhiệm sở, tiếp tục làm vườn nho, gặt lúa, hoặc đánh cá người. Tuy mỗi người một nẻo, anh em linh mục biết mình không đi một mình. Họ có nhau, và nhất là có Chúa. Lời cầu tại lễ bế mạc đại hội như làm ấm áp cõi lòng họ: “Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con và tiếp tục nâng đỡ mỗi người trên cuộc lữ hành đức tin. Chớ gì lòng chúng con được Đức Kitô hâm nóng và mắt chúng con được mở ra như hai môn đệ đi làng Emmaus” (Lời cầu kết thúc phần lời nguyện tín hữu).
(*) “Linh mục triều” là từ ngữ trong tiếng Việt, nhưng trong nhiều ngôn ngữ khác, đó là linh mục giữa đời, giữa lòng thế giới (secular priests, prêtres séculiers), đối lại với các linh mục dòng (religious priests, prêtres réguliers) thuộc về một cộng đoàn tu sĩ. Trong tiếng Việt, “secular priest” được gọi là “linh mục triều” hoặc cổ xưa hơn thì gọi là “thầy cả quan triều.” Đó là vì thời xưa, linh mục thuộc loại trí thức cao trong xã hội, có quyền bính, được trọng như một ông quan. Từ đó, người ta dùng các từ ngữ như “đỗ cụ” để chỉ sự thành đạt của người làm linh mục (như “đỗ quan”); gọi cha mẹ linh mục là “ông bà cố” (như cha mẹ của ông quan); gọi anh, em linh mục là “quan bác,”“quan chú”(như anh, em của quan). Bên Âu châu thời xưa, hàng giáo sĩ được gọi là “princes of the Church” (các ông hoàng của Giáo hội). Thời nay thỉnh thoảng báo chí gọi các vị Hồng Y là các “ông hoàng của Giáo hội,” nhưng đã là lối nói quá lỗi thời. Phải chăng đã đến lúc chúng ta nên gọi các linh mục triều là “linh mục giữa đời” bên cạnh các “linh mục tu dòng”?
San José thuộc một vùng đất mang tên Việt thơ mộng “Thung lũng Hoa vàng” hoặc danh xưng lừng lẫy “Silicon Valley,” nhưng không phải là nơi du khách lũ lượt tìm đến. Tại đây không có những thắng cảnh kỳ quan, cũng chẳng là chốn phồn hoa đô hội.
Nhưng trên 160 linh mục người Việt từ nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, và từ một số các quốc gia như Canada, Đài Loan, Thái Lan, đã kéo về San José trong ít ngày vào tháng Mười 2017. Họ về đây tham dự đại hội linh mục Việt Nam toàn quốc lần VII, mang tên Hành trình Emmaus, với chủ đề “Đây là Mẹ con.” Emmaus III vào năm 2009 cũng diễn ra trong vùng, tại hai thành phố phụ cận Santa Clara và Oakland.
Họ đại diện cho khoảng 1,000 linh mục người Việt tại Hoa Kỳ, đã về hưu hoặc còn đang phục vụ ở các giáo phận thuộc 8 vùng từ bờ biển Thái Bình qua bờ Đại Tây Dương. Họ cũng thay mặt cho các dòng tu với trách nhiệm ở nhiều nơi tại Mỹ và hải ngoại. Trong số các linh mục còn có những vị là tuyên uý cho các binh chủng Hoa Kỳ ở nhiều căn cứ trên thế giới, hoặc tuyên uý cho dân tới lui các hải cảng từ nhiều quốc gia.
Họ về San José không như những du khách, nhưng về đây để tay bắt mặt mừng và hội ngộ với những người anh em lâu ngày không gặp, để làm quen và gặp gỡ với các vị chưa có cơ hội biết mặt. Hàng ngũ các linh mục vốn đa dạng – do những khác biệt về thế hệ, địa phương, đào tạo, dòng hoặc triều (*) – nhưng tất cả cùng chia sẻ sứ mạng của Hội thánh, từ những cha đã hưu dưỡng, những vị còn mang nhiều trách nhiệm, cho đến những linh mục bắt đầu phục vụ không lâu. Họ về đây để suy tư theo gợi ý của các diễn giả, để trao đổi kinh nghiệm với nhau, để cùng cầu nguyện trong phụng vụ thánh, để ngồi cùng bàn chia sẻ của ăn cũng như những câu chuyện mà nhiều lúc mang lại những tiếng cười giòn giã.
Đồng hành với dân Chúa
Hình ảnh quen thuộc của vị linh mục dưới con mắt người tín hữu là một tư tế dâng lễ hoặc một người ban các bí tích (thánh hoá), tuy trách nhiệm của các vị trước hết là phục vụ Lời Chúa (rao giảng), và còn phải đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đoàn (cai quản). Cộng đoàn có thể là xứ đạo, hoặc nhà tù, trường học, hải cảng, căn cứ quân sự, v.v. Đối với một số linh mục, cộng đoàn hoặc vườn nho, đồng lúa của họ trải dài đến độ “cò bay gẫy cánh.” Có vị từng ở một giáo phận vùng Tây-Bắc Hoa Kỳ, phụ trách nhiều nhà thờ cách xa nhau vài chục dặm. Mỗi Chúa Nhật, cha đi dâng lễ ở nhiều nơi, và khi về nhà thì đã gần nửa đêm. Lại có các linh mục tuyên uý đi theo các chiến binh tại bất cứ nơi nào trong “họ đạo:” lều ở sa mạc, trại lính, hàng không mẫu hạm, vùng hoả tuyến, quân y viện, v.v.
Linh mục Nguyễn Khắc Hy, thuộc hội linh mục Xuân-bích chuyên việc đào tạo nơi các chủng viện, đã cùng anh em tại Emmaus VII duyệt qua những vai trò của linh mục, đã bắt nguồn và diễn biến thế nào, từ việc chăm lo cho cộng đoàn đức tin như vị mục tử đến việc rao giảng, và cử hành các bí tích. Cũng có những cái nhìn khác nhau liên hệ đến chính căn tính: linh mục là một Đức Kitô khác (alter Christus) hay chỉ là một tôi tớ nhân danh Đức Kitô là Đầu và thay mặt Hội thánh (in persona Christi Capitis, in persona Ecclesiae).
Dù hiểu như thế nào về căn tính và vai trò của mình, linh mục trong thời đại hôm nay cần ý thức hơn về liên hệ chặt chẽ giữa mình với cộng đoàn, và quan tâm hơn đến hoàn cảnh cũng như nhu cầu của tín hữu, để đồng hành với họ. Một cha 77 tuổi tại đại hội đã được đánh động do lời nhận xét của một linh mục trẻ về hai hạng mục tử: một số lo lắng tìm chiên lạc, và một số tìm cách lợi dụng đàn chiên.
Trong mọi tình huống, linh mục được kêu gọi sống vui tươi, trở thành thừa tác viên của niềm vui, theo lời nhấn mạnh của cha Đinh Văn Nghị, dòng Đa-minh, đến từ Bangkok, Thái Lan. Đây không phải là sự vui vẻ hời hợt, mà là hoa quả của một cuộc sống tiếp cận với Tin Mừng, với Thiên Chúa, “Đấng làm hoan lạc tuổi xuân tôi” (Tv 43:4). Họ cần học hỏi nơi Trinh nữ Maria, luôn rộng mở cho Thiên Chúa và bước đi trên con đường của Người. Các bạn trẻ và thiếu nhi, theo một thăm dò ý kiến, cũng mong mỏi các linh mục vui tươi phấn khởi hơn.
Sinh trưởng trong một môi trường và thời đại với nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, các em quen thuộc với các phương tiện liên lạc và truyền thông quá tân tiến, như điện thoại tinh khôn và social media, là những thứ thu hút người già cũng như trẻ em. Nhưng theo những nghiên cứu được cha Trần Công Nghị, giám đốc VietCatholic, trình bày tại đại hội, những tiến bộ này như con dao hai lưỡi, vừa giúp con người tiếp cận kiến thức, dễ dàng liên kết với nhau, lại vừa giảm bớt tiếp xúc diện đối diện với người khác và gia tăng sự thờ ơ trước nhu cầu của người chung quanh, v.v.. Điều này đặc biệt gây hậu quả sâu đậm nơi giới trẻ.
Các em lại sống trong một thời đại với rất nhiều áp lực và đòi hỏi, khiến nhiều em bị căng thẳng, khủng hoảng. Hơn thế, theo trình bày của nữ bác sĩ Nguyễn Thanh Tâm, cố vấn của phong trào Thiếu nhi Thánh thể VN tại Hoa Kỳ, các em còn bị ảnh hưởng do những xáo trộn chưa từng có về luân lý sinh học, trong đó có những biến chuyển trong việc thụ thai – với “three-parent embryo” hay là phôi thai từ 3 cha mẹ, việc đổi giới tính và những phân loại chưa từng có: giới tính đứng giữa (intersex), giới tính không cố định (gender fluid), v.v. Giữa những thử thách đa dạng của mình, giới trẻ cần đến sự đồng hành, hỗ trợ của các linh mục, dù không có câu trả lời cho mọi vấn đề.
Đồng hành với nhau và Đấng Phục Sinh
Hội ngộ Emmaus, được tổ chức hai năm một lần, là cơ hội cho anh em linh mục người Việt tại Mỹ củng cố liên hệ với nhau như những người bạn đồng hành, dù ở cách xa nhau. Tại đây, họ ý thức mình không cô độc trên cuộc lữ hành, mà chia sẻ cùng một sứ mạng, một niềm tin, một niềm hy vọng, tuy mang những lo âu khác biệt hoặc giống nhau. Khi ngồi cùng bàn ăn, sum họp bên bàn tiệc thánh, cùng nhau cất vang những bài thánh vịnh thánh ca, họ như cảm nghiệm phần nào lời thánh vịnh 133: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” Điều này lại càng đúng cho những linh mục đến hội ngộ Emmaus từ các vùng hẻo lánh, như các mission trong khu vực dành cho dân da đỏ, thiếu những cơ hội gặp gỡ anh em cùng chí hướng.
Giữa khung cảnh ấm cúng của Emmaus VII, một cha già không quên các linh mục đang sống trong tăm tối, không còn tiếp tục vai trò mục tử của mình, và đã kêu gọi tập thể linh mục làm một điều gì cho họ. Trong số các linh mục tham dự đại hội, lại có vài vị thuộc dòng Tôi tớ Đấng Phù Trợ, là cộng đoàn chuyên nâng đỡ những linh mục bị khủng hoảng. Các linh mục biết mình cần sự hỗ trợ của nhau, và trên hết là của Đấng Phục Sinh, Đấng cảm thông với những yếu hèn của con người. Như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ mất niềm tin trên đường đi Emmaus, sưởi ấm cõi lòng và mở mắt họ, Đấng Phục Sinh tiếp tục bước đi bên các môn đệ hôm nay.
Khi nhận biết Chúa đồng hành với mình, người môn đệ thời thế kỷ XXI có thể như Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII nói với Chúa sau một ngày dài với nhiều mệt mỏi: “Lạy Chúa, đây là Giáo hội của Chúa. Con đi ngủ đây!” Họ có thể an tâm tín nhiệm vào Chúa trong những thử thách của đời phục vụ, dù xem ra Chúa đang ngủ trên thuyền trong cơn bão tố (xem Mc 4:37-38).
Là con người, họ không tránh được những lúc xao xuyến, và có thể như các môn đệ thời xưa, muốn đánh thức Chúa mà than vãn: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4:38). Nhưng rốt cuộc họ biết mình không cô độc, và nghe lời Đức Maria, họ tín nhiệm vào Chúa, đến độ “Người bảo gì thì làm theo như vậy” (xem Ga 2:5). Dần dần, họ học theo gương tổ phụ Abraham, “không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa” (Rm 4:18 – bài đọc I tại lễ khai mạc Emmaus VII).
Cuối cùng, những ngày hội ngộ Emmaus cũng trôi qua và đã đến lúc chia tay, rời Thung lũng Thánh Clara để trở về nhiệm sở, tiếp tục làm vườn nho, gặt lúa, hoặc đánh cá người. Tuy mỗi người một nẻo, anh em linh mục biết mình không đi một mình. Họ có nhau, và nhất là có Chúa. Lời cầu tại lễ bế mạc đại hội như làm ấm áp cõi lòng họ: “Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con và tiếp tục nâng đỡ mỗi người trên cuộc lữ hành đức tin. Chớ gì lòng chúng con được Đức Kitô hâm nóng và mắt chúng con được mở ra như hai môn đệ đi làng Emmaus” (Lời cầu kết thúc phần lời nguyện tín hữu).
(*) “Linh mục triều” là từ ngữ trong tiếng Việt, nhưng trong nhiều ngôn ngữ khác, đó là linh mục giữa đời, giữa lòng thế giới (secular priests, prêtres séculiers), đối lại với các linh mục dòng (religious priests, prêtres réguliers) thuộc về một cộng đoàn tu sĩ. Trong tiếng Việt, “secular priest” được gọi là “linh mục triều” hoặc cổ xưa hơn thì gọi là “thầy cả quan triều.” Đó là vì thời xưa, linh mục thuộc loại trí thức cao trong xã hội, có quyền bính, được trọng như một ông quan. Từ đó, người ta dùng các từ ngữ như “đỗ cụ” để chỉ sự thành đạt của người làm linh mục (như “đỗ quan”); gọi cha mẹ linh mục là “ông bà cố” (như cha mẹ của ông quan); gọi anh, em linh mục là “quan bác,”“quan chú”(như anh, em của quan). Bên Âu châu thời xưa, hàng giáo sĩ được gọi là “princes of the Church” (các ông hoàng của Giáo hội). Thời nay thỉnh thoảng báo chí gọi các vị Hồng Y là các “ông hoàng của Giáo hội,” nhưng đã là lối nói quá lỗi thời. Phải chăng đã đến lúc chúng ta nên gọi các linh mục triều là “linh mục giữa đời” bên cạnh các “linh mục tu dòng”?
Liên xứ miền Sàigòn tổ chức khóa học”Kỹ năng Mục vụ Chăm sóc Bệnh nhân
Phương Nga
08:28 30/10/2017
Với mong muốn nâng cao hiểu biết về linh đạo Chăm sóc bệnh nhân,trình độ chuyên môn và phát triển thêm hội viên mới trong phục vụ các cộng đoàn và giáo xứ.Dòng Trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa đã kết hợp với Liên xứ miền Sài Gòn tổ chức khóa học”Kỹ năng Mục vụ Chăm sóc Bệnh nhân” cho 250 anh chị em đến từ các giáo xứ và dòng tu trong Tổng giáo phận Sài Gòn tại giáo xứ Bùi Môn-Hạt Hốc Môn trong 3 ngày từ 8g00 ngày 24-10-2017 đến 16g30 ngày 26-10-2017.
Xem Hình
Ban cố vấn do Cha Phêrô Nguyễn Ngọc Vượng hạt Trưởng hạt Hốc Môn(Chánh xứ Bùi Môn)Cha Phanxico Assisi Nguyễn Văn Dinh Hạt phó(Chánh xứ Bạch Đằng)quý Cha Phó và Hội đồng Mục vụ giáo xứ Bùi Môn cùng Ban điều hành gia đình Chăm sóc Bệnh nhân Liên xứ miền Sài Gòn phụ trách.Ban giảng huấn do các Y bác sĩ thuộc Dòng Trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa(Biên Hòa-Đồng Nai) gồm:
Cha Antôn Nguyễn Chân Hồng(Linh hướng Gia đình Chăm sóc Bệnh nhân Liên xứ miền Sài Gòn)Thày Giuse Thợ Trần Văn Thông (Nguyên Giám Tỉnh Dòng) Thày Đaminh Trần Ngọc Nam và Thày Anton Nguyễn Ngọc Hoàng.
Học viên có linh mục Phêrô Nguyễn Văn Bắc(Chánh xứ Tân Hiệp) Quý sơ dòng Trinh Vương (Bùi Môn) và anh chị em đến từ 5 giáo hạt và 13 giáo xứ về theo học trong đó gần nhất là Bùi Môn và xa nhất là Ba Thôn(Quận 12 )và Bình Đông(Quận 8)
Trong buổi khai giảng Cha Phanxico Assisi Nguyễn Văn Dinh hạt Phó hạt Hốc Môn (Chánh xứ Bạch Đằng)ban huấn từ
Chăm sóc bệnh nhân là một việc rất cần thiết trong mục vụ tông đồ,nhưng để cho đúng tinh thần thì phải được huấn luyện.Cám ơn Cha Antôn và Quý Thày trong Ban giảng huấn;chúc các học viên tiếp thu bài tốt và mở rộng kiến thức để giúp các bệnh nhân khỏe mạnh cả thể chất và tinh thần.Cha tuyên bố chính thức khai giảng khóa học hôm nay.
Anh Đaminh Thuyết,Trưởng ban Điều hành Liên xứ thay mặt anh chị em cảm ơn nhiều Cha Phêrô hạt Trưởng đã tạo điều kiện tốt nhất cho khóa học,cha Hạt phó đã đến dự lễ Khai giảng,Hội đồng Mục vụ xứ Bùi Môn là ông Chủ tịch Giuse Trịnh Đình Vũ và Ông Phó CT Phanxico Nguyễn Đức Hùng đã đồng hành,cám ơn Cha Antôn và Quý Thày đã nhận lời về giảng huấn cho khóa học,nhất là Thày Giuse Thợ Trần Văn Thông (Nguyên Bề trên Giám tỉnh) đã không ngại đường xa về đây giúp đỡ cho các học viên.Anh kính chúc Quý Cha,Quý Thày,Quý Sơ và Quý học viên luôn dồi dào ơn Chúa.
Trước mỗi buổi học là giờ cầu nguyện hát Kinh Chúa Thánh Thần“Xin Ngôi Ba Thiên Chúa ngự xuống trên chúng con..” hay “Cầu xin Chúa Thánh Thần,Người thương thăm viếng hồn con. .” và sau mỗi buổi học cả lớp đọc kinh Sáng Danh.
Phần văn nghệ đầu giờ do Thày Giuse Phạm Công Thành Trưởng ban Caritas giáo xứ Bùi Môn và Thày Antôn Nguyễn Ngọc Hoàng Oh cùng làm quản trò với những bài hát tập thể vui nhộn như”Bốn phương trời ta về đây sống vui..” “Đoàn ta cất bước theo Chúa đi vào đời..”vv
Về đời sống,Cha hạt Trưởng đã chọn một chủ dịch vụ nấu đám đến phục vụ cho học viên,với những món ăn bổ dưỡng và phong phú 3 miền,bữa ăn xế do Hội đồng Mục vụ và Quý Cha Phó tài trợ,vào các giờ nghỉ học viên có thể nghỉ ở lớp học,hoa viên hay khu vực nhà thờ vv miễn sao bảo đảm được giấc ngủ trưa để chiều lại học tiếp.Trong ngày thứ hai của khóa học có giờ họp theo Nhóm,với 3 giảng viên và thực tập Nghe mạch,đo Huyết áp,nghe Nhịp thở,đo Nhiệt độ. .bầu không khí học tập luôn sôi nổi bởi sự khôi hài và nhiệt tình của các giảng viên và sự tích cực tham gia của học viên cũng như những tràng cười giòn giã làm cho hội trường luôn nóng đến nỗi Cha Hạt trưởng lâu lâu phải đi ngang qua lớp học để chung vui.Nhìn chung,khóa học đã diễn ra nghiêm túc và tích cực với những nội dung phong phú và hết sức cơ bản như:
Mục vụ chăm sóc những nhu cầu thiết yếu của con người theo tinh thần Kitô giáo giúp mỗi học viên mang lấy tinh thần của Đức Kitô khi đến viếng thăm người bệnh Mục vụ chăm sóc bệnh nhân theo tinh thần Gioan Thiên Chúa giúp mỗi học viên nắm bắt tinh thần thánhGioan Thiên Chúa trong cung cách phục vụ của thánh nhân.Chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối, hấp hối và tử vong giúp các học viên nhận biết được những dấu hiệu về tâm sinh lý của từng giai đoạn trước khi bệnh nhân qua đời. để nhờ sự nhận biết đó, các học viên có những cách thức để can thiệp, chăm sóc.Tiến trình thăm viếng bệnh nhân hay theo dõi dấu hiệu sinh tồn,…đều giúp cho các học viên có những kỹ năng căn bản trong sứ vụ chăm sóc những chi thể đau khổ của Đức Kitô.
Tóm lại, những nội dung trên có thể giúp các học viên nhận biết được những nhu cầu cơ bản của người bệnh và đặc tính của người làm công việc chăm sóc phải thực hiện những gì để có thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản cho người bệnh qua các đề tài như:
Khái niệm về Chăm sóc những Nhu cầu cơ bản của bệnh nhân.Theo dõi các Chức năng Sinh lý.Dự phòng săn sóc và Điều trị mảng mục do năm lâu (Người liệt bị lở loét)Các tư thế nghỉ ngơi và Trị liệu thông thường.Chăm sóc bệnh nhân Giai đoạn cuối hấp hối và Bệnh nhân Tử vong.Khái niệm về bệnh Truyền nhiễm và cách Phòng ngừa.
Quan trọng nhất là học viên phải lưu ý khi Chăm sóc Mục vụ Bệnh nhân là khác với Y tế thông thường bởi chăm sóc không chỉ đơn thuần là một công việc mà còn là một “ơn Gọi”.
Ai mang thân phận con người cũng đều phải bước qua những giai đoạn:Sinh,Lão,bệnh và Tử;Chúa Giêsu khi xuống trần gian cũng phải đón nhận cái Chết,nhưng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài đã sống lại.Chúa Giêsu cũng không diệt khổ vì Ngài muốn bước qua đau khổ để đến vinh quang;những thành viên Chăm sóc Bệnh nhân đóng vai các Thiên Thần vì phải tranh giành với Ma quỷ lôi kéo các linh hồn về với Chúa,chúng ta đang đóng vai trò của Chúa cần cho các bệnh nhân ý thức rằng,Chúa không dùng bệnh tật tai nạn để phạt chúng ta,nhưng đó là cơ hội để chúng ta nhớ đến Chúa và thật lòng hoán cải.
Ngày thứ 3 của chương trình có phần đặc biệt hơn vì buổi sáng các học viên làm bài Thu hoạch theo phương pháp trắc nghiệm;tuy ngày thường học viên thân mật nhưng khi làm bài đa số rất nghiêm túc và tôn trọng nội quy nên kết quả khá chính xác đã có 47% học viên Giỏi,45% Xuất sắc,6.7% Khá,và 1.3% Trung bình.Buổi chiều cuối cùng là Lễ bế giảng,vì thời gian làm bài hơi nhanh nên bữa trưa đến sớm,do đó ai cũng được một giấc trưa khá dài và đầy đủ để lấy lại sinh lực.
Đúng 13g30 học viên tập trung với lời cầu nguyện đầu giờ và một số bài hát sinh hoạt do Thày Thành điều khiển,sau ít phút Cha hạt Trưởng hiện diện,chương trình tiến hành với các phần quan trọng: Anh Đaminh Thuyết đại diện lớp học dâng lời tri ân lên:
Cha hạt Trưởng Phêrô với lòng yêu mến chân thành nhất vì Cha đã gợi ý tổ chức khóa học,đón nhận các giảng viên và học viên,chăm lo đời sống tinh thần thể chất và cả vật chất trong suốt 3 ngày lớp học diễn ra,mỗi lần đi mục vụ về,Cha lại đi ngang qua lớp để quan sát và theo dõi tình hình học tập,bữa cơm nào Cha cũng hiện diện để làm phép của ăn và cùng chung vui chia sẻ và hôm nay Cha đến để ban huấn từ quan trọng trước khi sai các thành viên đi phục vụ.
Cha hạt Phó Phanxico Assisi đã thay Cha Hạt trưởng trong buổi khai giảng,ban những lời khích lệ cho lớp học để đạt kết quả tốt và đã chúc lành cho lớp học.
Quý cha Phó của giáo xứ đã chăm lo về địa điểm,chỗ ăn nghỉ của mọi người;dù bữa ăn trưa đã tràn đầy năng lượng,nhưng sau một giờ học chiều Cha Giuse Nguyễn Minh Đức lại mua món ăn xế cho học viên đỡ buồn ngủ như: Yaour,các loại trái cây vvv
Quý Hội đồng mục vụ giáo xứ Bùi Môn đã đồng hành cùng lớp học suốt 3 ngày,ngồi trên lớp nghe giảng và tham gia ý kiến,có những học viên thiếu tập,bút các anh đã vội giúp đỡ vì sợ không biết chỗ mua.
Đặc biệt,Quý Cha và Thày Dòng Trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa(Biên Hòa-Đồng Nai) là những Y Bác sĩ giảng viên đã phải vượt hàng chục cây số đến lớp học trong tình trạng kẹt xe nặng nề và luôn đi rất sớm cho kịp giờ lên lớp,với kinh nghiệm mục vụ Chăm sóc Bệnh nhân rất lâu năm nên dày dạn cả về tín lý,y đức và chuyên môn nên giảng dạy bằng phương pháp sư phạm hiện đại và những hình ảnh minh họa được sưu tầm công phu,giúp hầu hết học viên hiểu bài và hứng thú,nhất là cách diễn giải khôi hài xúc tích gây cười cho lớp trong khi đa số học viên trung niên và ít thành thạo về máy móc,bốn chị đại diện lớp đã dâng lên 4 bó hoa tươi thắm lên Cha hạt trưởng và 3 giảng viên.
Cha Hạt trưởng Phêrô đáp từ:
Tôi xin cám ơn Cha giáo và Quý Thày đã vì lòng yêu mến Chúa và quan tâm đến các bệnh nhân nên mới tổ chức khóa học;đối với bệnh nhân sắp chết đó là điều cần thiết cám ơn Ban điều hành Liên xứ miền Sài Gòn cũng đã cùng với Quý Cha,Quý Thày dòng Thánh Gioan Thiên Chúa tổ chức khóa học này;tôi ngồi bên phòng lâu lâu lại nghe anh chị em cười rộ lên,chứng tỏ là rât vui.
Điều cần thiết làm sao việc làm chúng ta được sinh hoa kết quả? Vì khi chúng ta giúp cho một bệnh nhân ra đi trong bình an là chúng ta vui lắm!nhưng nhớ là phải nhẹ nhàng cho bệnh nhân được nghỉ ngơi và đừng làm ồn và có những cử chỉ bị hiểu lầm là mê tín.
Nhiều người xót xa khi thấy các Linh mục phải thức dậy giữa đêm khuya,đến các bệnh viện thật xa để Xức dầu cho bệnh nhân,nhưng chúng tôi lại có niềm hạnh phúc khi phục vụ cho họ;đặc biệt mong anh chị em về giáo xứ thành lập một Nhóm sẽ rất quý;mặc dù giáo xứ nào cũng có vài vị chăm lo nhưng sợ khi họ bận thì không ai thay thế.Nếu đây là lớp căn bản,thì khi có lớp nâng cao,xin cứ liên lạc để chúng tôi sắp xếp.Kế tiếp là ý kiến của Sơ Lê Thị Cư dòng Trinh Vương:
Con xin chân thành cảm ơn trái tim Mục tử đã nghĩ đến những con chiên đau khổ.vì ai cũng phải chết và gia đình nào cũng phải chứng kiến cảnh biệt ly,và phải giúp cho họ về với Chúa.Cám ơn Quý Cha Phó,Ban hành giáo đã hỗ trợ,cám ơn nhiều Ban giảng huấn đã chia sẻ hết cho chúng con những kiến thức và kinh nghiệm,tuy rằng chúng con hiểu biết chưa sâu,chưa dài nhưng đủ để chúng con tự tin mà thực hiện.Cám ơn Cha Chánh xứ Tân Hiệp đã cùng học chung để lớp học thêm sinh động. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria và Thánh cả Giuse đặc biệt Thánh Gioan Thiên Chúa giúp chúng con có thể phục vụ bệnh nhân tốt hơn nữa.
Thày Đaminh Trần Đức Nam tiếp lời:
Cám ơn Cha xứ,Hội đồng Mục vụ và các đầu bếp nấu ăn rất ngon,mỗi người chúng ta sẽ chu toàn sứ vụ của mình để trở thành con ngoan của Chúa,của Ban kẻ liệt và của Thánh Gioan Thiên Chúa.chắc chắn Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động và chúng ta sẽ đem lửa mến đến cho mọi người.Xin cầu nguyện cho Nhà dòng chăm sóc 500 kẻ liệt mỗi ngày và các phần ăn,để làm sao cho những bệnh nhân được an ủi và họ ra đi bình an.
Để tạ ơn Chúa,vào lúc 15g,tất cả cùng đến nhà thờ để dự giờ Chầu do Cha Phêrô hạt Trưởng chủ sự.Hát kinh Chúa Thánh Thần.Kinh Tin Cậy Mến.Hát Quỳ bên Cung thánh.Cha đọc Tin Mừng theo Thánh Marco Cha cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,xin cho chúng con đến với những người ốm đau bệnh tật để họ cảm thấy không bị bỏ rơi.Xin cho chúng con tận tình đến với bệnh nhân để họ nhận thấy tình yêu Chúa qua chúng con để họ quảng đại dâng những đau khổ của họ mà cầu cho hòa bình thế giới.Xin cho chúng con sẵn sàng đóng góp thực phẩm, thuốc men cho những bệnh nhân nghèo để họ nhận biết qua chúng con là những Kitô hữu.Xin cho chúng con được mạnh mẽ đến phục vụ và khiêm nhường khi ở bên những anh em yếu liệt.Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể là sức mạnh của chúng con,xin nâng đỡ chúng con Amen.
Cha kết thúc giờ chầu bằng bài hát “Năm xưa trên cây Sồi làng Fatima xa xôi,có Đức Mẹ Chúa trời hiện ra uy linh sáng chói. ..” Các học viên ra về lúc 16g30 cùng ngày trong niềm hy vọng sẽ thực thi điều Chúa dạy và hoàn thành sứ vụ Chúa trao phó.
Phương Nga
Truyền thông TGP Sài gòn
P/s: Trong bài có trích đoạn báo cáo của Nhà dòng.
Xem Hình
Ban cố vấn do Cha Phêrô Nguyễn Ngọc Vượng hạt Trưởng hạt Hốc Môn(Chánh xứ Bùi Môn)Cha Phanxico Assisi Nguyễn Văn Dinh Hạt phó(Chánh xứ Bạch Đằng)quý Cha Phó và Hội đồng Mục vụ giáo xứ Bùi Môn cùng Ban điều hành gia đình Chăm sóc Bệnh nhân Liên xứ miền Sài Gòn phụ trách.Ban giảng huấn do các Y bác sĩ thuộc Dòng Trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa(Biên Hòa-Đồng Nai) gồm:
Cha Antôn Nguyễn Chân Hồng(Linh hướng Gia đình Chăm sóc Bệnh nhân Liên xứ miền Sài Gòn)Thày Giuse Thợ Trần Văn Thông (Nguyên Giám Tỉnh Dòng) Thày Đaminh Trần Ngọc Nam và Thày Anton Nguyễn Ngọc Hoàng.
Học viên có linh mục Phêrô Nguyễn Văn Bắc(Chánh xứ Tân Hiệp) Quý sơ dòng Trinh Vương (Bùi Môn) và anh chị em đến từ 5 giáo hạt và 13 giáo xứ về theo học trong đó gần nhất là Bùi Môn và xa nhất là Ba Thôn(Quận 12 )và Bình Đông(Quận 8)
Trong buổi khai giảng Cha Phanxico Assisi Nguyễn Văn Dinh hạt Phó hạt Hốc Môn (Chánh xứ Bạch Đằng)ban huấn từ
Chăm sóc bệnh nhân là một việc rất cần thiết trong mục vụ tông đồ,nhưng để cho đúng tinh thần thì phải được huấn luyện.Cám ơn Cha Antôn và Quý Thày trong Ban giảng huấn;chúc các học viên tiếp thu bài tốt và mở rộng kiến thức để giúp các bệnh nhân khỏe mạnh cả thể chất và tinh thần.Cha tuyên bố chính thức khai giảng khóa học hôm nay.
Anh Đaminh Thuyết,Trưởng ban Điều hành Liên xứ thay mặt anh chị em cảm ơn nhiều Cha Phêrô hạt Trưởng đã tạo điều kiện tốt nhất cho khóa học,cha Hạt phó đã đến dự lễ Khai giảng,Hội đồng Mục vụ xứ Bùi Môn là ông Chủ tịch Giuse Trịnh Đình Vũ và Ông Phó CT Phanxico Nguyễn Đức Hùng đã đồng hành,cám ơn Cha Antôn và Quý Thày đã nhận lời về giảng huấn cho khóa học,nhất là Thày Giuse Thợ Trần Văn Thông (Nguyên Bề trên Giám tỉnh) đã không ngại đường xa về đây giúp đỡ cho các học viên.Anh kính chúc Quý Cha,Quý Thày,Quý Sơ và Quý học viên luôn dồi dào ơn Chúa.
Trước mỗi buổi học là giờ cầu nguyện hát Kinh Chúa Thánh Thần“Xin Ngôi Ba Thiên Chúa ngự xuống trên chúng con..” hay “Cầu xin Chúa Thánh Thần,Người thương thăm viếng hồn con. .” và sau mỗi buổi học cả lớp đọc kinh Sáng Danh.
Phần văn nghệ đầu giờ do Thày Giuse Phạm Công Thành Trưởng ban Caritas giáo xứ Bùi Môn và Thày Antôn Nguyễn Ngọc Hoàng Oh cùng làm quản trò với những bài hát tập thể vui nhộn như”Bốn phương trời ta về đây sống vui..” “Đoàn ta cất bước theo Chúa đi vào đời..”vv
Về đời sống,Cha hạt Trưởng đã chọn một chủ dịch vụ nấu đám đến phục vụ cho học viên,với những món ăn bổ dưỡng và phong phú 3 miền,bữa ăn xế do Hội đồng Mục vụ và Quý Cha Phó tài trợ,vào các giờ nghỉ học viên có thể nghỉ ở lớp học,hoa viên hay khu vực nhà thờ vv miễn sao bảo đảm được giấc ngủ trưa để chiều lại học tiếp.Trong ngày thứ hai của khóa học có giờ họp theo Nhóm,với 3 giảng viên và thực tập Nghe mạch,đo Huyết áp,nghe Nhịp thở,đo Nhiệt độ. .bầu không khí học tập luôn sôi nổi bởi sự khôi hài và nhiệt tình của các giảng viên và sự tích cực tham gia của học viên cũng như những tràng cười giòn giã làm cho hội trường luôn nóng đến nỗi Cha Hạt trưởng lâu lâu phải đi ngang qua lớp học để chung vui.Nhìn chung,khóa học đã diễn ra nghiêm túc và tích cực với những nội dung phong phú và hết sức cơ bản như:
Mục vụ chăm sóc những nhu cầu thiết yếu của con người theo tinh thần Kitô giáo giúp mỗi học viên mang lấy tinh thần của Đức Kitô khi đến viếng thăm người bệnh Mục vụ chăm sóc bệnh nhân theo tinh thần Gioan Thiên Chúa giúp mỗi học viên nắm bắt tinh thần thánhGioan Thiên Chúa trong cung cách phục vụ của thánh nhân.Chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối, hấp hối và tử vong giúp các học viên nhận biết được những dấu hiệu về tâm sinh lý của từng giai đoạn trước khi bệnh nhân qua đời. để nhờ sự nhận biết đó, các học viên có những cách thức để can thiệp, chăm sóc.Tiến trình thăm viếng bệnh nhân hay theo dõi dấu hiệu sinh tồn,…đều giúp cho các học viên có những kỹ năng căn bản trong sứ vụ chăm sóc những chi thể đau khổ của Đức Kitô.
Tóm lại, những nội dung trên có thể giúp các học viên nhận biết được những nhu cầu cơ bản của người bệnh và đặc tính của người làm công việc chăm sóc phải thực hiện những gì để có thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản cho người bệnh qua các đề tài như:
Khái niệm về Chăm sóc những Nhu cầu cơ bản của bệnh nhân.Theo dõi các Chức năng Sinh lý.Dự phòng săn sóc và Điều trị mảng mục do năm lâu (Người liệt bị lở loét)Các tư thế nghỉ ngơi và Trị liệu thông thường.Chăm sóc bệnh nhân Giai đoạn cuối hấp hối và Bệnh nhân Tử vong.Khái niệm về bệnh Truyền nhiễm và cách Phòng ngừa.
Quan trọng nhất là học viên phải lưu ý khi Chăm sóc Mục vụ Bệnh nhân là khác với Y tế thông thường bởi chăm sóc không chỉ đơn thuần là một công việc mà còn là một “ơn Gọi”.
Ai mang thân phận con người cũng đều phải bước qua những giai đoạn:Sinh,Lão,bệnh và Tử;Chúa Giêsu khi xuống trần gian cũng phải đón nhận cái Chết,nhưng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài đã sống lại.Chúa Giêsu cũng không diệt khổ vì Ngài muốn bước qua đau khổ để đến vinh quang;những thành viên Chăm sóc Bệnh nhân đóng vai các Thiên Thần vì phải tranh giành với Ma quỷ lôi kéo các linh hồn về với Chúa,chúng ta đang đóng vai trò của Chúa cần cho các bệnh nhân ý thức rằng,Chúa không dùng bệnh tật tai nạn để phạt chúng ta,nhưng đó là cơ hội để chúng ta nhớ đến Chúa và thật lòng hoán cải.
Ngày thứ 3 của chương trình có phần đặc biệt hơn vì buổi sáng các học viên làm bài Thu hoạch theo phương pháp trắc nghiệm;tuy ngày thường học viên thân mật nhưng khi làm bài đa số rất nghiêm túc và tôn trọng nội quy nên kết quả khá chính xác đã có 47% học viên Giỏi,45% Xuất sắc,6.7% Khá,và 1.3% Trung bình.Buổi chiều cuối cùng là Lễ bế giảng,vì thời gian làm bài hơi nhanh nên bữa trưa đến sớm,do đó ai cũng được một giấc trưa khá dài và đầy đủ để lấy lại sinh lực.
Đúng 13g30 học viên tập trung với lời cầu nguyện đầu giờ và một số bài hát sinh hoạt do Thày Thành điều khiển,sau ít phút Cha hạt Trưởng hiện diện,chương trình tiến hành với các phần quan trọng: Anh Đaminh Thuyết đại diện lớp học dâng lời tri ân lên:
Cha hạt Trưởng Phêrô với lòng yêu mến chân thành nhất vì Cha đã gợi ý tổ chức khóa học,đón nhận các giảng viên và học viên,chăm lo đời sống tinh thần thể chất và cả vật chất trong suốt 3 ngày lớp học diễn ra,mỗi lần đi mục vụ về,Cha lại đi ngang qua lớp để quan sát và theo dõi tình hình học tập,bữa cơm nào Cha cũng hiện diện để làm phép của ăn và cùng chung vui chia sẻ và hôm nay Cha đến để ban huấn từ quan trọng trước khi sai các thành viên đi phục vụ.
Cha hạt Phó Phanxico Assisi đã thay Cha Hạt trưởng trong buổi khai giảng,ban những lời khích lệ cho lớp học để đạt kết quả tốt và đã chúc lành cho lớp học.
Quý cha Phó của giáo xứ đã chăm lo về địa điểm,chỗ ăn nghỉ của mọi người;dù bữa ăn trưa đã tràn đầy năng lượng,nhưng sau một giờ học chiều Cha Giuse Nguyễn Minh Đức lại mua món ăn xế cho học viên đỡ buồn ngủ như: Yaour,các loại trái cây vvv
Quý Hội đồng mục vụ giáo xứ Bùi Môn đã đồng hành cùng lớp học suốt 3 ngày,ngồi trên lớp nghe giảng và tham gia ý kiến,có những học viên thiếu tập,bút các anh đã vội giúp đỡ vì sợ không biết chỗ mua.
Đặc biệt,Quý Cha và Thày Dòng Trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa(Biên Hòa-Đồng Nai) là những Y Bác sĩ giảng viên đã phải vượt hàng chục cây số đến lớp học trong tình trạng kẹt xe nặng nề và luôn đi rất sớm cho kịp giờ lên lớp,với kinh nghiệm mục vụ Chăm sóc Bệnh nhân rất lâu năm nên dày dạn cả về tín lý,y đức và chuyên môn nên giảng dạy bằng phương pháp sư phạm hiện đại và những hình ảnh minh họa được sưu tầm công phu,giúp hầu hết học viên hiểu bài và hứng thú,nhất là cách diễn giải khôi hài xúc tích gây cười cho lớp trong khi đa số học viên trung niên và ít thành thạo về máy móc,bốn chị đại diện lớp đã dâng lên 4 bó hoa tươi thắm lên Cha hạt trưởng và 3 giảng viên.
Cha Hạt trưởng Phêrô đáp từ:
Tôi xin cám ơn Cha giáo và Quý Thày đã vì lòng yêu mến Chúa và quan tâm đến các bệnh nhân nên mới tổ chức khóa học;đối với bệnh nhân sắp chết đó là điều cần thiết cám ơn Ban điều hành Liên xứ miền Sài Gòn cũng đã cùng với Quý Cha,Quý Thày dòng Thánh Gioan Thiên Chúa tổ chức khóa học này;tôi ngồi bên phòng lâu lâu lại nghe anh chị em cười rộ lên,chứng tỏ là rât vui.
Điều cần thiết làm sao việc làm chúng ta được sinh hoa kết quả? Vì khi chúng ta giúp cho một bệnh nhân ra đi trong bình an là chúng ta vui lắm!nhưng nhớ là phải nhẹ nhàng cho bệnh nhân được nghỉ ngơi và đừng làm ồn và có những cử chỉ bị hiểu lầm là mê tín.
Nhiều người xót xa khi thấy các Linh mục phải thức dậy giữa đêm khuya,đến các bệnh viện thật xa để Xức dầu cho bệnh nhân,nhưng chúng tôi lại có niềm hạnh phúc khi phục vụ cho họ;đặc biệt mong anh chị em về giáo xứ thành lập một Nhóm sẽ rất quý;mặc dù giáo xứ nào cũng có vài vị chăm lo nhưng sợ khi họ bận thì không ai thay thế.Nếu đây là lớp căn bản,thì khi có lớp nâng cao,xin cứ liên lạc để chúng tôi sắp xếp.Kế tiếp là ý kiến của Sơ Lê Thị Cư dòng Trinh Vương:
Con xin chân thành cảm ơn trái tim Mục tử đã nghĩ đến những con chiên đau khổ.vì ai cũng phải chết và gia đình nào cũng phải chứng kiến cảnh biệt ly,và phải giúp cho họ về với Chúa.Cám ơn Quý Cha Phó,Ban hành giáo đã hỗ trợ,cám ơn nhiều Ban giảng huấn đã chia sẻ hết cho chúng con những kiến thức và kinh nghiệm,tuy rằng chúng con hiểu biết chưa sâu,chưa dài nhưng đủ để chúng con tự tin mà thực hiện.Cám ơn Cha Chánh xứ Tân Hiệp đã cùng học chung để lớp học thêm sinh động. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria và Thánh cả Giuse đặc biệt Thánh Gioan Thiên Chúa giúp chúng con có thể phục vụ bệnh nhân tốt hơn nữa.
Thày Đaminh Trần Đức Nam tiếp lời:
Cám ơn Cha xứ,Hội đồng Mục vụ và các đầu bếp nấu ăn rất ngon,mỗi người chúng ta sẽ chu toàn sứ vụ của mình để trở thành con ngoan của Chúa,của Ban kẻ liệt và của Thánh Gioan Thiên Chúa.chắc chắn Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động và chúng ta sẽ đem lửa mến đến cho mọi người.Xin cầu nguyện cho Nhà dòng chăm sóc 500 kẻ liệt mỗi ngày và các phần ăn,để làm sao cho những bệnh nhân được an ủi và họ ra đi bình an.
Để tạ ơn Chúa,vào lúc 15g,tất cả cùng đến nhà thờ để dự giờ Chầu do Cha Phêrô hạt Trưởng chủ sự.Hát kinh Chúa Thánh Thần.Kinh Tin Cậy Mến.Hát Quỳ bên Cung thánh.Cha đọc Tin Mừng theo Thánh Marco Cha cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,xin cho chúng con đến với những người ốm đau bệnh tật để họ cảm thấy không bị bỏ rơi.Xin cho chúng con tận tình đến với bệnh nhân để họ nhận thấy tình yêu Chúa qua chúng con để họ quảng đại dâng những đau khổ của họ mà cầu cho hòa bình thế giới.Xin cho chúng con sẵn sàng đóng góp thực phẩm, thuốc men cho những bệnh nhân nghèo để họ nhận biết qua chúng con là những Kitô hữu.Xin cho chúng con được mạnh mẽ đến phục vụ và khiêm nhường khi ở bên những anh em yếu liệt.Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể là sức mạnh của chúng con,xin nâng đỡ chúng con Amen.
Cha kết thúc giờ chầu bằng bài hát “Năm xưa trên cây Sồi làng Fatima xa xôi,có Đức Mẹ Chúa trời hiện ra uy linh sáng chói. ..” Các học viên ra về lúc 16g30 cùng ngày trong niềm hy vọng sẽ thực thi điều Chúa dạy và hoàn thành sứ vụ Chúa trao phó.
Phương Nga
Truyền thông TGP Sài gòn
P/s: Trong bài có trích đoạn báo cáo của Nhà dòng.
Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I tại Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng
Ban truyền thông. GPLSCB
08:51 30/10/2017
Trong hai ngày 20 và 21 tháng 11 năm 2017, dịp Khánh nhật Truyền Giáo, Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng đã tổ chức Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I.
Đại hội diễn ra tại Tòa Giám mục Lạng Sơn với sự tham dự của Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Giáo phận, cùng với Linh mục đoàn, quý Phó tế, Chủng sinh, Ứng sinh, Tu sỹ, Đại diện Hội đồng mục vụ và Trưởng các hội đoàn của tất cả các xứ họ trong toàn Giáo phận.
Đại Hội khai mạc vào lúc 17 giờ chiều tại Hội trường Tòa Giám mục. Cộng đoàn sốt sắng nguyện xin ơn Đức Chúa Thánh Thần và lắng nghe bài Tin mừng của Khánh nhật Truyền Giáo.
Xem Hình
Đức cha Giuse phát biểu và công bố Khai mạc Đại Hội trong niềm hân hoan của toàn thể tham dự viên. Ngài chào mừng quý Cha, cùng mọi thành phần dân Chúa từ khắp các vùng miền xa gần của Giáo phận về tham dự Đại Hội. Ngài mong rằng qua Đại Hội lần này, Giáo phận sẽ hoạch định một đường hướng mục vụ cụ thể, chi tiết, như một chỉ nam mục vụ và truyền giáo cho những năm sắp tới.
Ngay sau khai mạc, các Giáo xứ lần lượt lên trình bày Tham luận của mình. Mỗi đại diện Giáo xứ đã khái quát về hiện tình đời sống sinh hoạt mục vụ cùng như nhấn mạnh đến những hoạt động truyền giáo đang thực hiện. Các bài tham luận cũng nói lên những thuận lợi và khó khăn trong việc sống và loan báo Tin Mừng tại chính những hoàn cảnh, môi trường sống của mình. Cuối cùng, các xứ đạo nói lên thao thức và mong muốn của mình để thúc đẩy công việc truyền giáo, đem Chúa đến cho mọi người. Một điều đáng ghi nhận là các tham luận đều cho thấy sự ý thức khá mạnh mẽ của mỗi thành phần dân Chúa đối với việc truyền giáo, đây là sứ vụ chung của mỗi thành viên trong Hội Thánh. Việc truyền giáo trong bối cảnh Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng luôn được coi là vấn đề bức thiết và trọng yếu.
Trong buổi tối Hội thảo, xen kẽ giữa các bài tham luận của các xứ đạo là các tiết mục văn nghệ do các Giáo xứ thuộc hạt Lạng Sơn thể hiện. Mỗi giáo xứ trình bày những tiểu phẩm, hoạt cảnh, những bài thánh ca… mang tinh thần truyền giáo, nhất là gắn với khung cảnh lịch sử truyền giáo của Giáo phận.
Buổi tối Hội thảo trong khuôn khổ Đại Hội kết thúc lúc 22 giờ với giờ Chầu Thánh Thể sốt sắng do cha Tổng Đại diện Giuse Trần Đức Hạnh chủ sự. Trước Thánh Thể Chúa, mỗi người hiện diện dâng lên những tâm tình tạ ơn Chúa vì muôn ơn lành Người thương ban trên Giáo phận, cùng dâng lên những nguyện ước, những niềm thao thức để thực thi sứ vụ truyền giáo, đem Tin Mừng đến cho muôn dân, trong cánh đồng truyền giáo Lạng Sơn Cao Bằng rộng lớn mà đầy thách đố này.
Ngày thứ hai của Đại Hội khởi đầu lúc 5 giờ 30 với Giờ Kinh Sáng. Sau đó là giờ nguyện gẫm. Vào hồi 7 giờ 30, các tham dự viên lắng nghe bài huấn từ mục vụ truyền giáo của Đức Giám Mục Giáo phận. Trước hết, ngài đưa ra những bản thống kê chi tiết về hiện tình của Giáo phận trong địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang. Con số tín hữu Công Giáo hiện nay vào khoảng 0,3%. Ngài nói rằng, Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hiện nay với số tín hữu quá ít ỏi, giữa một vùng đất rộng lớn, có thể ví như một “Giáo phận ngoại giáo”, do đó việc truyền giáo là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Ngài mời gọi mỗi người hiện diện ý thức sâu sắc về bổn phận và sứ vụ truyền giáo. Ngài cũng trình bày những đường hướng mục vụ của Giáo phận trong thời gian tới, trong đó có việc thuyên chuyển nhiệm sở của quý Cha, phân chia địa bàn mục vụ cho các xứ đạo trong toàn Giáo phận. Mỗi Giáo xứ đang hoạt động từ nay sẽ kiêm nhiệm thêm địa bàn của một vài huyện trong địa bàn Giáo phận mà chưa có nhà thờ. Đức cha nhấn mạnh: Từ nay ranh giới các giáo xứ không chỉ bó gọn trong nơi sinh hoạt hiện tại của mình, nhưng sẽ mở rộng ra rất nhiều, để tất cả các huyện trong ba tỉnh thuộc Giáo phận, đều được coi sóc mục vụ.
Theo tinh thần “Đi Ra Vùng Ngoại Biên” trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, sau khi thăm viếng, lắng nghe, xem xét và nghiên cứu những hoàn cảnh cụ thể và những nhu cầu mục vụ thường xuyên và cấp thiết trong Giáo phận, nhất là sau khi đã thảo luận với Ban Tư vấn Giáo phận cũng như trao đổi với Linh mục đoàn và Đại biểu các thành phần dân Chúa trong Giáo phận qua Đại hội Truyền giáo lần I lần này; trong sự hiệp thông và cầu nguyện với Cộng đoàn Giáo phận, Đức cha Giuse đã quyết định thành lập thêm Giáo hạt mới Hà Giang, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo vụ cho các Linh mục, và phân chia vùng mục vụ cho các Giáo xứ và Giáo họ trong Giáo phận.
Theo Đức cha Giuse, việc phân định địa giới phục vụ cho các Cha theo đơn vị Giáo xứ và Giáo họ hiện nay, nhằm mục đích để tất cả giáo dân Công Giáo đang định cư trong địa bàn Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng hoặc di dân đến để làm ăn thường xuyên hay thời vụ, đều được chăm sóc mục vụ theo tinh thần và ý muốn của Giáo Hội, cũng như quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo mà mọi công dân được Hiến pháp và Luật pháp bảo hộ. Đồng thời, theo vùng mục vụ, các Cha cũng có trách nhiệm cộng tác điều tra hôn phối khi được yêu cầu, trong trường hợp một người lương dân trong khu vực mục vụ của mình tiến hành hôn nhân với một người Công Giáo ở bất cứ nơi nào.
Cũng trong quyết định được Đức cha công bố, Linh mục thuộc các Dòng tu đang phục vụ trong Giáo phận, thay đổi hay không thay đổi giáo vụ, đều được bổ nhiệm lại, để xác định cụ thể vùng mục vụ thuộc các Giáo xứ hay Giáo họ mà các văn bản bổ nhiệm trước đây chưa đề cập đầy đủ. Dựa trên văn bản bổ nhiệm lần này, Tòa Giám mục sẽ xúc tiến việc thảo luận với các vị Bề trên hữu trách các Dòng tu để tiến tới một “hợp đồng mục vụ” theo Giáo luật sớm hết sức có thể.
Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I của Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng kết thúc với Thánh lễ cầu cho việc Loan báo Tin Mừng, trong Khánh nhật Truyền Giáo, tại Nhà thờ Chính Tòa Lạng Sơn. Cộng đoàn Phụng vụ hiệp cùng Đức cha chủ tế, quý cha trong linh mục đoàn đồng tế, sốt sắng nguyện xin ơn Chúa xuống trên mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận để hăng say lên đường loan báo Tin Mừng, sống tinh thần truyền giáo và xây dựng Nước Chúa.
Cuối Thánh lễ, Đức cha đã trao bài sai bổ nhiệm nhiệm sở mới cho quý Cha trong Giáo phận. Theo đó, các linh mục trong Giáo phận sẽ thuyên chuyển tới nhiệm sở mới từ ngày 12 tháng 11 sắp tới.
Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I khép lại với Phép lành trọng thể của Đức Giám Mục Giáo phận “nhờ lời chuyển cầu của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô”. Đại hội diễn ra trong hai ngày nhưng đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp, thôi thúc mỗi tham dự viên ý thức về sứ mạng của mình và hăng hái lên đường truyền giáo. Ước mong một giai đoạn mới sẽ mở ra với Giáo phận truyền giáo Lạng Sơn Cao Bằng, khi mỗi người trở nên những khí cụ đem Tin Mừng cho muôn dân, xây dựng Giáo hội ngày một thăng tiến và Nước Chúa được mở rộng khắp nơi.
Ban truyền thông. GPLSCB
Đại hội diễn ra tại Tòa Giám mục Lạng Sơn với sự tham dự của Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Giáo phận, cùng với Linh mục đoàn, quý Phó tế, Chủng sinh, Ứng sinh, Tu sỹ, Đại diện Hội đồng mục vụ và Trưởng các hội đoàn của tất cả các xứ họ trong toàn Giáo phận.
Đại Hội khai mạc vào lúc 17 giờ chiều tại Hội trường Tòa Giám mục. Cộng đoàn sốt sắng nguyện xin ơn Đức Chúa Thánh Thần và lắng nghe bài Tin mừng của Khánh nhật Truyền Giáo.
Xem Hình
Đức cha Giuse phát biểu và công bố Khai mạc Đại Hội trong niềm hân hoan của toàn thể tham dự viên. Ngài chào mừng quý Cha, cùng mọi thành phần dân Chúa từ khắp các vùng miền xa gần của Giáo phận về tham dự Đại Hội. Ngài mong rằng qua Đại Hội lần này, Giáo phận sẽ hoạch định một đường hướng mục vụ cụ thể, chi tiết, như một chỉ nam mục vụ và truyền giáo cho những năm sắp tới.
Ngay sau khai mạc, các Giáo xứ lần lượt lên trình bày Tham luận của mình. Mỗi đại diện Giáo xứ đã khái quát về hiện tình đời sống sinh hoạt mục vụ cùng như nhấn mạnh đến những hoạt động truyền giáo đang thực hiện. Các bài tham luận cũng nói lên những thuận lợi và khó khăn trong việc sống và loan báo Tin Mừng tại chính những hoàn cảnh, môi trường sống của mình. Cuối cùng, các xứ đạo nói lên thao thức và mong muốn của mình để thúc đẩy công việc truyền giáo, đem Chúa đến cho mọi người. Một điều đáng ghi nhận là các tham luận đều cho thấy sự ý thức khá mạnh mẽ của mỗi thành phần dân Chúa đối với việc truyền giáo, đây là sứ vụ chung của mỗi thành viên trong Hội Thánh. Việc truyền giáo trong bối cảnh Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng luôn được coi là vấn đề bức thiết và trọng yếu.
Trong buổi tối Hội thảo, xen kẽ giữa các bài tham luận của các xứ đạo là các tiết mục văn nghệ do các Giáo xứ thuộc hạt Lạng Sơn thể hiện. Mỗi giáo xứ trình bày những tiểu phẩm, hoạt cảnh, những bài thánh ca… mang tinh thần truyền giáo, nhất là gắn với khung cảnh lịch sử truyền giáo của Giáo phận.
Buổi tối Hội thảo trong khuôn khổ Đại Hội kết thúc lúc 22 giờ với giờ Chầu Thánh Thể sốt sắng do cha Tổng Đại diện Giuse Trần Đức Hạnh chủ sự. Trước Thánh Thể Chúa, mỗi người hiện diện dâng lên những tâm tình tạ ơn Chúa vì muôn ơn lành Người thương ban trên Giáo phận, cùng dâng lên những nguyện ước, những niềm thao thức để thực thi sứ vụ truyền giáo, đem Tin Mừng đến cho muôn dân, trong cánh đồng truyền giáo Lạng Sơn Cao Bằng rộng lớn mà đầy thách đố này.
Ngày thứ hai của Đại Hội khởi đầu lúc 5 giờ 30 với Giờ Kinh Sáng. Sau đó là giờ nguyện gẫm. Vào hồi 7 giờ 30, các tham dự viên lắng nghe bài huấn từ mục vụ truyền giáo của Đức Giám Mục Giáo phận. Trước hết, ngài đưa ra những bản thống kê chi tiết về hiện tình của Giáo phận trong địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang. Con số tín hữu Công Giáo hiện nay vào khoảng 0,3%. Ngài nói rằng, Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng hiện nay với số tín hữu quá ít ỏi, giữa một vùng đất rộng lớn, có thể ví như một “Giáo phận ngoại giáo”, do đó việc truyền giáo là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Ngài mời gọi mỗi người hiện diện ý thức sâu sắc về bổn phận và sứ vụ truyền giáo. Ngài cũng trình bày những đường hướng mục vụ của Giáo phận trong thời gian tới, trong đó có việc thuyên chuyển nhiệm sở của quý Cha, phân chia địa bàn mục vụ cho các xứ đạo trong toàn Giáo phận. Mỗi Giáo xứ đang hoạt động từ nay sẽ kiêm nhiệm thêm địa bàn của một vài huyện trong địa bàn Giáo phận mà chưa có nhà thờ. Đức cha nhấn mạnh: Từ nay ranh giới các giáo xứ không chỉ bó gọn trong nơi sinh hoạt hiện tại của mình, nhưng sẽ mở rộng ra rất nhiều, để tất cả các huyện trong ba tỉnh thuộc Giáo phận, đều được coi sóc mục vụ.
Theo tinh thần “Đi Ra Vùng Ngoại Biên” trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, sau khi thăm viếng, lắng nghe, xem xét và nghiên cứu những hoàn cảnh cụ thể và những nhu cầu mục vụ thường xuyên và cấp thiết trong Giáo phận, nhất là sau khi đã thảo luận với Ban Tư vấn Giáo phận cũng như trao đổi với Linh mục đoàn và Đại biểu các thành phần dân Chúa trong Giáo phận qua Đại hội Truyền giáo lần I lần này; trong sự hiệp thông và cầu nguyện với Cộng đoàn Giáo phận, Đức cha Giuse đã quyết định thành lập thêm Giáo hạt mới Hà Giang, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo vụ cho các Linh mục, và phân chia vùng mục vụ cho các Giáo xứ và Giáo họ trong Giáo phận.
Theo Đức cha Giuse, việc phân định địa giới phục vụ cho các Cha theo đơn vị Giáo xứ và Giáo họ hiện nay, nhằm mục đích để tất cả giáo dân Công Giáo đang định cư trong địa bàn Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng hoặc di dân đến để làm ăn thường xuyên hay thời vụ, đều được chăm sóc mục vụ theo tinh thần và ý muốn của Giáo Hội, cũng như quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo mà mọi công dân được Hiến pháp và Luật pháp bảo hộ. Đồng thời, theo vùng mục vụ, các Cha cũng có trách nhiệm cộng tác điều tra hôn phối khi được yêu cầu, trong trường hợp một người lương dân trong khu vực mục vụ của mình tiến hành hôn nhân với một người Công Giáo ở bất cứ nơi nào.
Cũng trong quyết định được Đức cha công bố, Linh mục thuộc các Dòng tu đang phục vụ trong Giáo phận, thay đổi hay không thay đổi giáo vụ, đều được bổ nhiệm lại, để xác định cụ thể vùng mục vụ thuộc các Giáo xứ hay Giáo họ mà các văn bản bổ nhiệm trước đây chưa đề cập đầy đủ. Dựa trên văn bản bổ nhiệm lần này, Tòa Giám mục sẽ xúc tiến việc thảo luận với các vị Bề trên hữu trách các Dòng tu để tiến tới một “hợp đồng mục vụ” theo Giáo luật sớm hết sức có thể.
Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I của Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng kết thúc với Thánh lễ cầu cho việc Loan báo Tin Mừng, trong Khánh nhật Truyền Giáo, tại Nhà thờ Chính Tòa Lạng Sơn. Cộng đoàn Phụng vụ hiệp cùng Đức cha chủ tế, quý cha trong linh mục đoàn đồng tế, sốt sắng nguyện xin ơn Chúa xuống trên mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận để hăng say lên đường loan báo Tin Mừng, sống tinh thần truyền giáo và xây dựng Nước Chúa.
Cuối Thánh lễ, Đức cha đã trao bài sai bổ nhiệm nhiệm sở mới cho quý Cha trong Giáo phận. Theo đó, các linh mục trong Giáo phận sẽ thuyên chuyển tới nhiệm sở mới từ ngày 12 tháng 11 sắp tới.
Đại Hội Truyền Giáo lần thứ I khép lại với Phép lành trọng thể của Đức Giám Mục Giáo phận “nhờ lời chuyển cầu của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô”. Đại hội diễn ra trong hai ngày nhưng đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp, thôi thúc mỗi tham dự viên ý thức về sứ mạng của mình và hăng hái lên đường truyền giáo. Ước mong một giai đoạn mới sẽ mở ra với Giáo phận truyền giáo Lạng Sơn Cao Bằng, khi mỗi người trở nên những khí cụ đem Tin Mừng cho muôn dân, xây dựng Giáo hội ngày một thăng tiến và Nước Chúa được mở rộng khắp nơi.
Ban truyền thông. GPLSCB
Tài Liệu - Sưu Khảo
Kitô hữu Việt Nam, chúng ta được mời nên thánh
Hà Minh Thảo
17:18 30/10/2017
Tháng 11, đối với tín hữu Công Giáo, mang nhiều ý nghĩa:
- ngày 1 là lễ Các Thánh Nam Nữ, người Công Giáo hướng nhìn các Thánh để nhớ đến ơn gọi nên thánh của mình.
- ngày 2 là lễ cầu cho các Tín Hữu đã qua đời cũng như suốt tháng 11, người Công Giáo thăm viếng mộ phần của những người thân yêu để cầu nguyện cho họ và cũng để nhắc nhớ đến thân phận cát bụi của mình.
- ngày 24, lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo, Bổn Mạng Giáo Hội Việt Nam để kính nhớ đến Tiền Nhân anh dũng của chúng ta, những Kitô hữu người Việt nguyện noi gương Chư Thánh vác Thánh Giá theo chân Thầy Chí Thánh, Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Nhưng giữa ơn gọi Nên Thánh và thân phận cát bụi con người, chúng ta phải sống và đồng hành với nhau trên đường lữ thứ trần gian. Chúng mình cần phải làm sao để có những mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân và với cuộc đời hầu làm nên vẻ đẹp cuộc đời như các Thánh.
I. SỰ THÁNH THIỆN TRONG GIÁO HỘI.
Trong Chương V Hiến chế ‘Ánh sáng muôn dân’ (Lumen Gentium) có tựa đề « Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong Giáo hội », các Nghị phụ tham dự Công đồng Vaticanô II xác tín Giáo hội có tính cách thánh thiện, bất khả khuyết. Thực vậy, Chúa Kitô Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là ‘Đấng thánh duy nhất’, đã yêu dấu Giáo hội như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Giáo hội (x. Eph 5,25-26). Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội đều được kêu gọi nên Thánh, như lời Thánh Tông đồ dạy: « Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa » (1Th 4,3; x. Eph 1,4); sự thánh thiện này của Giáo hội luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới Đức Ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Đặc biệt hơn, sự thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô hữu thực hành các lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo hội công nhận; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo hội.
1. Nên Thánh là tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa.
Từ gần 2000 năm nay, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thế làm người để chết trên thập tự giá để cứu chuộc chúng ta. Vì yêu thương, Đức Kitô tự ý đến với con người, gần gũi họ và ngỏ lời với họ, để họ có thể gặp gỡ, nhận biết và yêu mến Người, trở nên con cái Thiên Chúa mà được sống đời đời. « Sự sống đời đời đó là nhận biết Cha. Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô » (Ga 17,3). Tuy nhiên, để việc cứu chuộc được thực hiện, Thiên Chúa cần sự cộng tác của từng người chúng ta. Trong một cơ hội nào đó, chúng ta bắt đầu nhận biết ‘Thiên Chúa ẩn mình’ (Is 45,15), rồi tìm hiểu nhiều hơn Đạo Công Giáo qua việc học biết Giáo lý và, sau cùng, hoàn toàn tự do đáp lời tham gia tiến trình cứu chuộc khi lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích Đức Tin, để thực sự trở nên Kitô-hữu, con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh, tức vào nước Thiên đàng.
Như vậy, mặc khải là hành động yêu thương của Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người, để con người tự ý đón nhận và hiệp thông với Thiên Chúa, mà được cứu độ. Sự thánh thiện này là ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô theo ý định : « Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. » (Ep 1,10) Vì thế, Chúa Giêsu là tác giả, là Đấng hoàn thành sự thánh thiện trong Hội Thánh (LG 40). Chính Người đã lấy máu thánh mà chuộc tội cho chúng ta và ban Thánh Thần cho chúng ta.
2. Mọi người được kêu gọi sống thánh thiện.
Chúa Giêsu, Thầy dạy và Mẫu mực của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy cho chúng ta, bất luận ở hoàn cảnh nào, một đời sống thánh thiện mà chính Người vừa là Đấng ban phát vừa là Đấng hoàn tất: « Vậy các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời. » (Mt 5,48). Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (x. Mc 12,30), và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ (x. Gio 13,34; 15,12). Được Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các Kitô-hữu được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh. Cho nên với ơn Chúa họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận, sống ‘xứng đáng như những vị thánh’ (Eph 5,3). Nhưng vì chúng ta ai cũng có nhiều lầm lỗi (x. Giac 3,2), nên chúng ta luôn cần đến lòng nhân từ của Thiên Chúa và hằng ngày phải cầu nguyện ‘xin Chúa tha nợ chúng tôi’ (Mt 6,12).
Vì thế, tất cả các Kitô-hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức Ái. Ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng giúp người ta sống nhân đạo hơn. Để đạt được sự trọn lành đó, tín hữu phải xử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban nhiều ít tùy ý Người để trở nên giống Người khi theo vết chân Người, và khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng tìm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Như thế, sự thánh thiện của Dân Thiên Chúa sẽ sinh hoa trái dồi dào, như lịch sử Giáo Hội đã từng minh chứng rõ ràng qua đời sống của bao vị thánh.
3. Nhiều hình thức thực hành sự thánh thiện duy nhất.
Chúng ta được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha, thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý, noi gương Chúa Kitô nghèo khó, khiêm nhường và vác thập giá để xứng đáng dự phần vào vinh quang của Người; tất cả những người ấy đều theo đuổi cùng một sự thánh thiện tuy lối sống và nhiệm vụ của họ có khác nhau, cho nên mỗi người, tùy theo ân sủng và nhiệm vụ mình, phải nhất quyết tiến bước bằng con đường Đức Tin sống động, Đức Tin khơi động Đức Cậy và hoạt động nhờ Đức Ái.
Có nhiều cách thực hành các lời khuyên trong Phúc Âm và những lời khuyên đó không phải chỉ dành cho giáo sĩ, tu sĩ. Nhưng, người giáo dân cũng được chỉ định cho những cách thế riêng để nên thánh. Vợ chồng, người góa, người độc thân, người lao động, người đau ốm, tất cả đều có thể nên thánh theo hoàn cảnh và bậc sống của riêng mình. Do đó, Giáo Hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn mầu muôn sắc. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một, nhưng cách ‘họa lại’ mẫu mực ấy thì ‘thiên hình vạn trạng’.
4. Đường lối và phương tiện nên thánh.
‘Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa sống trong người ấy’ (1Gio 4,16), Thiên Chúa đã đổ tràn Đức Ái Ngài trong tâm hồn chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần Ngài đã ban cho chúng ta (x. Rm 5,5); cho nên ơn huệ thứ nhất và cần thiết nhất là bác ái. Đức Ái làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Ngài. Nhưng để Ðức Ái, tựa hạt giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và kết sinh hoa trái, mỗi một tín hữu phải sẵn lòng lo lắng nghe Lời Chúa, và với ơn Ngài thực hành thánh ý Ngài; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, năng tham dự vào các nghi lễ phụng vụ, chuyên cần cầu nguyện, từ bỏ mình, nhiệt thành phục vụ anh em và chuyên cần luyện tập các nhân đức. Thực thế, Đức Ái là mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Col 3,14; Rm 13,10), nên Ðức Ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt được cùng đích. Vì thế, Ðức Ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Kitô.
Việc noi theo và làm chứng Đức Ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các Kitô-hữu thực hiện không ngừng; nên Giáo hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Đấng Cứu Thế. Vì thế, mọi Kitô hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình.
II. CHƯƠNG TRÌNH THIÊN CHÚA CỨU RỔI NHÂN LOẠI
Sau khi tổ tiên chúng ta không vâng lời Thiên Chúa nên bị phạt phải rời vườn Ðia Ðàng. Vì Tình yêu vô biên đối với con người, thụ tao mang hình ảnh Ngài, Thiên Chúa đã có chương trình cứu chuộc nhân loại. Phần Thiên Chúa, Đức Chúa Cha đã sai Con Một Ngài xuống thế, mang thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta. Thiên Chúa Cha ‘Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một’ cho chúng ta (Ga 3,16).
Đức Giêsu Kitô là Đấng Chí Thánh. Một gương sống Thánh Thiện toàn hảo được ghi truyền lạ trong bốn sách Phúc Âm, còn được gọi là Tin Mừng.
Phần chúng ta, khi nhận lãnh Bí tích Rửa Tội, mỗi người trong chúng ta đã vui và sẳn lòng chọn theo Đức Giêsu Kitô và cùng hành trình trong Cộng đoàn để cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sống Đức Tin, chia xẽ những khó khăn, nâng đở nhau trên đường lữ thứ trần gian. Mọi Kitô-hữu đều biết chắc chắn là chúng ta, một lúc sớm muộn nào đó, phải từ giã cỏi đời nầy. Khi đó, chúng ta sẽ biết ngay là mình có đạt được mục đích mà mình đã tự do thuận nhận để trở thành người Công Giáo. Như vậy, sự sống Thánh thiện phải là mục tiêu chung của tất cả các Kytô-hữu. Sự Thánh thiện không dành riêng cho một lớp người nào và cũng không phải là độc quyền của những người được Chúa gọi tận hiến cách riêng trong đời sống linh mục hay tu dòng. Tuy cùng chung nhau tiến tới một mục tiêu: Nên Thánh, nhưng con đường sống nên thánh khác nhau mà mỗi người trong chúng ta có tự do lựa chọn, tùy theo môi trường sống của mình.
Sự sống Thánh Thiện hiện tại, ở đầu thiên niên thứ ba nầy thật là khó khăn. Bởi thế, Đức Thánh Cha mới đề nghị 1,1 tỷ Kitô-hữu trên thế giới cùng cầu nguyện với Người để Thiên Chúa ban sức mạnh cho chúng ta biết tự do đáp lời tham gia chương trình cứu rỗi nhân loại. Đó là đạt tới sự trọn lành của Đức Ái, mức độ cao nhất của lòng yêu mến của chúng ta dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Nói cách khác, đó là sống đạo theo Giáo lý đã được học ở Việt-Nam: ‘Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn’ và kết thúc: mười điều răn đó tóm về hai điều nầy, trước kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Hay ngắn gọn hơn là ‘kính Chúa, yêu người’. Bình thường, chúng ta hay bảo nhau: mọi sự nói thì dễ, nhưng làm thì không dễ.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong 25 đầu triều đại, đã tuyên phong 1327 Chân Phước và 477 Thánh, trong đó có những Vị sống cùng thời đại với chúng ta. Con số đó thật xa so với 827 Chân Phước và 296 Thánh được tôn phong từ năm 1588 khi Đức Giáo Hoàng Sixte-Quint thành lập Thánh Bộ Nghi Lễ, nay đã đổi tên : Thánh Bộ Phong Thánh. Việt-Nam hiện có 117 Thánh và 1 Chân Phước Tử Ðạo.
Chân Phước và Thánh là những người đã có một cuộc sống Thánh Thiện, noi gương Ðức Kitô Chí Thánh đã được Giáo hội điều tra qua các nhân chứng hay các phép lạ mà, nhờ sự can thiệp của các Vị đó, Thiên Chúa đã ban cho tha nhân. Trong thời gian qua, hai Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI và Phanxicô đã chấp thuận phong Chân Phước và Thánh khá nhiều nhưng tổng số cũng không vượt quá 3.000 Chân Phước và 1.500 Thánh.
Với chừng ấy số Chân Phước và Thánh, trong gần 2000 năm qua, thì kết quả của Chương trình Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại thật là quá ít.
Xin đừng bi quan. Cùng nhau, chúng ta hãy mở Sách Lễ ngày mừng Lễ Các Thánh Nam Nữ, Thánh Gioan viết trong sách Khải huyền: ’tôi đã thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên’.
Đoạn Sách Thánh nầy xác nhận số người lên Thiên đàng là hằng hằng lớp lớp. Chính vì thế Giáo hội đã dành ngày 01 tháng 11 hằng năm để Kính Trọng thể tất cả các Thánh Nam Nữ của Giáo Hội Công Giáo (từ các Thánh Anh Hài, người trộm lành cùng bị đóng đinh với Chúa, đến những người công chính vừa lìa trần gian). Trong đó, cần kể đến các tiền nhân trong Cộng đoàn, ông bà trong gia đình chúng ta đã được Chúa gọi về Nhà Cha.
III. LÀM SAO ÐỂ SỐNG NÊN THÁNH?
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã viết trong “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”, nơi chương 4, Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh độc nhất của tôi: Phép Thánh Thể.
... Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau, tôi được phép viết thơ về nhà để xin đồ cần dùng nhất như: áo quần, kem đánh răng, v.v.. Hàng đầu tiên, tôi viết : « Xin gửi cho tôi một ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột ». Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ ‘thuốc trị bịnh đường ruột’ và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi :
- Ông có bị bịnh đường ruột không ?
- Có.
- Đây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông !
Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó : từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng Thánh Lễ.
Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã thu xếp để năm anh em Công Giáo nằm quanh tôi. Đến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi ngươi phải nằm trong mùng muỗi cá nhân : tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt lấy giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh : Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống. « Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào » (Ga 10,10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Đất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).
Mỗi tuần, sáng thứ sáu có buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc xả hơi, các bạn Công Giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày…
IV. MỘT TRƯỜNG HỢP NÊN THÁNH.
Trong một lần nói chuyện với các giáo dân trẻ chuẩn bị nhận Bí tích Thêm Sức, Ðức cha André Collinin, cố Tổng Giám mục Toulouse, đã hỏi : « Ai sẽ sớm lên Thiên Ðàng ?’ Một bạn trẻ trả lời ‘Ðức cha’ và các bạn khác cười ‘đồng ý’. Người đáp ‘Chưa chắc. Nhưng là Ai làm trọn nhiệm vụ với chức năng của mình’.
Ðồng thời, Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô hôm nay được đọc theo Thánh Mátthêu : « … Người lên tiếng dạy họ rằng : "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.Phúc thay ai xây dựng hoà bình,vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. »
Là những tín hữu Tin vào Lời Chúa hứa, xin mời, chúng ta nhìn vào gương Tổng thống Ngô Đình Diệm, người bị thảm sát cách đây đúng 54 năm, ngày 02.11.1963, bởi những kẻ nhận tiền ngoại bang Mỹ để ra lịnh thuộc hạ giết ông.
Ngày 16.09.2013, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích ‘Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị’ và ‘Những nhà cầm quyền ‘phải yêu thương người dân của họ’ bởi vì ‘một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được’. Để chuẩn bị ‘tham gia vào chính trị’, từ thời niên thiếu đã học tập, khi làm quan đến lúc lãnh đạo Dân Việt luôn được soi sáng bởi những nhân đức chân lý, công bình và bác ái, ông Diệm đã hấp thụ những điều kiện phải có của một người ‘yêu thương người dân’. Ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho giáo và Thiên Chúa giáo. Thực vậy, chính Nho giáo đã hun đúc ông thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực và giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.
Ngày 08.07.2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện cuộc viếng thăm mục vụ tại đảo Lampedusa, cực nam Italia, để gặp gỡ những người di dân và cử hành Thánh Lễ tưởng niệm những thuyền nhân bỏ mình trên biển cả cùng thức tỉnh lương tâm nhiều người trên thế giới, đặc biệt là các giới hữu trách, về thảm trạng người di dân và tị nạn. Thãm trạng này là hậu quả sự thiếu tổ chức và bất lực của lãnh đạo các quốc gia trên thế giới. Hồi tưởng lại thời gian, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã hoàn tất tốt đẹp cuộc tiếp đón, tạm cư và định cư với công ăn, việc làm cho ngót một triệu đồng bào, bất phân biệt tôn giáo. Người đặc biệt lưu tâm đến việc giáo dục : các sinh viên được phi cơ đưa thẳng vào Sài gòn để kịp niên khóa đọc và, phòng học các trường trung và tiểu học trước đó dành cho hai nhóm trò, sáng và chiều, nay được tăng lên ba để các em vừa có dịp tương trợ lẫn nhau (sáng bắt đầu sớm hơn ; chiều về trể hơn) để cùng nhau đồng tiến.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người và Người giao cho con người cai quản vũ trụ để làm nơi sinh sống. Vâng lệnh Thiên Chúa và thương đồng bào đi tìm Tự do từ miền Bắc, chính phủ ông Diệm cung cấp phương tiện cơ giới để người di cư khai khẩn rừng hoang hầu xây cất nhà ở và được cấp quyền sở hữu (nhớ rằng : đây là ‘quyền sở hữu người dân’ chớ không là ‘quyền sở hữu toàn dân’). Sự thành công mỹ mãn của Tổng thống Ngô Đình Diệm là nhờ sự phù trợ của Thánh Odilon, Bổn mạng những người tị nạn, mà vị sáng lập nền Cộng hòa Việt Nam đã chọn cho mình khi tuyên khấn trong bậc oblat tại đan viện dòng Biển Đức Saint–André de Bruges (Vương quốc Bỉ) ngày 01.01.1954. Ngoài ra, Thánh Odilon còn là vị Linh mục đã bắt đầu cử hành Thánh Lễ Cầu cho các Linh hồn ngày 2 tháng 11 mỗi năm cũng chính là ngày ông Diệm qua đời năm 1963.
Nhân dịp Ngày Hoà Bình Thế Giới lần thứ 46 ngày 01.01.2013, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gởi đến chúng ta Sứ điệp có chủ đề ‘Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình’. Trong đó, Người viết : « Phẩm giá con người và các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục ‘ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người’ bằng phải có cái nhìn mới về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần, xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội… Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đang đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn,… Bên cạnh những khả năng tri thức và nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế nhân bản đích thực và sống động còn cần phải là nguyên tắc và ý nghĩa của quà tặng được biểu lộ như tình huynh đệ… trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người thiết lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung ».
Ý thức những điều đó, ngay từ khi nhậm chức, dù vừa phải chống giặc trong (các giáo phái võ trang, cộng phỉ) và đối phó với ngoại nhân (Pháp, Mỹ), Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu đã cấp tốc thiết lập xây dựng một nền Giáo dục nhân bản, dân tộc, và khai phóng giúp phát triển toàn diện cá nhân và tinh thần quốc gia. Đồng thời, chánh phủ tiêu diệt các tệ đoan cờ bạc, mãi dâm, hút á phiện để lành mạnh hóa xã hội. Chỉ trong thời gian hơn hai năm cầm quyền, Tổng thống Ngô Đình Diệm vừa thu hồi chủ quyền quốc gia từ tay người Pháp, độc lập và hòa bình cho Dân tộc, kinh tế tự túc và phát triển. Nền Cộng hòa được tuyên bố cho Việt Nam ngày 26.10.1955 và Hiến Pháp tự do, dân chủ và tiến bộ với tam quyền phân lập, Quân đội phi đảng phái được ban hành ngày 26.10.1956. Điểm đặc biệt, Tổng thống Diệm đã tiết kiệm chi tiêu Ngân sách tới mức tối đa, có thể không chính phủ nào có thể thực hiện được khi Phái đoàn Tổng thống chính thức viếng thăm Hoa kỳ vào tháng 05 năm 1960 chỉ gồm có 7 thành viên.
Đức Kitô là Đấng Chân Thật, Người hứa ‘Phúc cho ai xây dựng hòa bình’ thì ‘Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa’, nên người Công Giáo tốt Ngô Đình Diệm đã ‘xây dựng hòa bình’ qua việc tham gia vào chính trị xứng đáng ‘được gọi là con Thiên Chúa’. Do đó, ngày 02.11.1963, trước khi chấm dứt cuộc lữ thứ trần gian, người ‘con Thiên Chúa’ Ngô Đình Diệm, sau khi gặp Linh mục (là Đức Kitô thứ hai) để lãnh nhận những Bí tích cuối cùng và Của Ăn đi đường, xứng đáng được Ơn Chết Lành hầu Linh hồn Gioan Baotixita Nên Thánh được Ngôi Hai Thiên Chúa đón vào Thiên Đàng.
Nhận được hung tin hai cậu chết đau đớn như vậy, Linh mục P.X Nguyễn Văn Thuận liền đến gặp mẹ, bà Ngô Ðình Thị Hiệp. Bà an ủi con bằng những ngôn từ chính xác để đưa con về với thực tế. Bà dẫn con đến bàn làm việc, mở ngăn bàn và rút ra một tờ giấy. Bà lại đưa con vào nơi cầu nguyện của gia đình và nhẹ nhàng nói : « Bây giờ chính là lúc con đọc tờ này mà mẹ đã cất giữ một thời gian dài ». Cha Thuận đứng lại để đọc và nhận ra ngay đó là chữ viết của cậu Diệm… Ðây là văn kiện ghi những lời mà cậu đã hứa, như một ‘oblat’ ngày 01.01.1954 tại tu viện André ở Bruges (Vương quốc Bĩ, Dòng Thánh Benoit). Văn kiện ghi rõ tên dòng là Odilon. Hai tay Cha bắt đầu run vì cậu đã chọn tên của Thánh được mừng lễ ngày đầu tháng giêng. Một sự chọn lựa mang tính tiên tri vì Thánh Odilon là Thánh Bổn Mạng cho những người Tị nạn và cậu Diệm đã nổ lực để chu toàn sứ nhiệm trong tám năm (1954-1962) việc tiếp đón và an cư lạc nghiệp cho hơn 800 ngàn người tìm Tự Do từ Bắc vô Nam… Bà Hiệp nói khẻ với con : « Cậu của con hiến trọn đời cho Ðất Nước. Như vậy, không có điều bất thường khi cậu phải chết vì lý tưởng đó. Vì là ẩn sĩ, cậu cũng đã hiến đời sống cho Thiên Chúa. Do đó, cũng không gì quá đáng khi cậu phải ra đi khi Người gọi cậu về Nhà Cha ».
V. MỘT TIẾN TRÌNH PHONG THÁNH.
Lúc 18 giờ, ngày 16.09.2002, Ðức Hồng Y đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian. Ngay khi hay tin Người qua đời, Ðức cha Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư ký Hội đồng Giáo Hoàng Công lý và Hòa bình, đã tuyên bố với báo chí: ‘Một vị Thánh vừa qua đời’. Chiều ngày 20.09.2002, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từ Castel Gandolfo trở về Vatican, để chủ sự Thánh Lễ An táng Ðức cố Hồng Y. Vị Hồng Y quá cố đã được Giáo triều và 172 phái đoàn ngọai giao cạnh Tòa Thánh tiển biệt trong một Thánh Lễ trọng thể. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nói : “Trung thành cho tới chết, ngài giũ được sự bình thản và niềm vui cả trong lúc nằm lâu và phải đau đớn trong bệnh viện và Trong những ngày cuối, khi không còn nói được nữa, ngài nhìn chăm chú vào ảnh Thánh giá, ngài cầu nguyện trong thinh lặng, khi hy lễ tối cao của Ngài tới tuyệt đỉnh, hoàn thành cách vinh quang một cuộc đời đánh dấu bằng sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trên Thánh giá.”
và Đức Thánh Cha đã kết luận: “Giờ đây, ước gì cùng với Thánh Giuse và Mẹ Maria, Đức Hồng Y được đón nhận vào trong niềm vui của thiên đàng, chiêm ngắm tôn nhan rạng ngời của Chúa Kitô, Đấng trên trần thế đã nhiệt thành tìm kiếm như niềm Hy vọng duy nhất của mình. Amen!”
1. Mở Án Phong Thánh.
Năm năm sau ngày Người về Nhà Cha, Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đã tổ chức Thánh Lễ đồng tế do Ðức Hồng Y Renato Raffael Martino, đương kim Chủ tịch và là người kế vị Ðức Hồng Y Phanxicô Xavie, đã chủ sự lúc 11 giờ ngày Chúa Nhật 16.09.2007 tại Nhà thờ Ðức Mẹ Cầu Thang (Santa Maria della Scala, nhà thờ dành cho Ðức Hồng Y Thuận tại Rôma), để tưởng nhớ một chứng nhân Hòa bình và Hy vọng, đã chịu giam cầm 13 năm tại quê hương Người.
Tham gia sáng kiến mở án phong Thánh cho Ðức Hồng Y, ngoài Hội đồng Tòa thánh Công lý và Hòa bình còn có Quỹ Thánh Mathêu tưởng niệm Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Hội Quan sát Quốc tế Văn Thuận về Ðạo lý xã hội Công Giáo, thân nhân và bạn hữu của Ðức cố Hồng Y, cũng như cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Roma.
Nhân dịp này, một buổi triều yết đã diễn ra ngày thứ hai 17.09.2007 tại Dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo. Trong diễn văn, Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói: « Tôi vui mừng, nhân cơ hội này để, một lần nữa, nêu lên chứng tá Ðức Tin sáng ngời mà vị Mục Tử anh dũng này đã để lại cho chúng ta. Ðức cha Phanxicô Xavie đã được vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 đáng kính của tôi bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh Công lý và Hòa bình. Nguời đã hoàn thành ‘Toát yếu Giáo huấn Xã hội của Hội Thánh’. Làm sao quên được những nét nổi bật về sự đơn sơ và thân thiện của Người? …
2. Tôi tớ Chúa.
Ngày 16.01.2009, Án Lệnh của Tòa Giám quản Rôma do Ðức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản, ký về ‘Vụ án Phong Chân phước và Phong Thánh cho Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Hồng Y Giáo phận Rôma’ vào ngày 22.10.2010, Tòa Thánh sẽ chính thức mở hồ sơ đợt hai xét phong Chân phúc cho Người. Ngày 05.07.2013, tiến trình phong Thánh cho Vị Tôi Tớ Chúa đã hoàn thành ở Tổng Giáo phận Rôma.
3. Ðấng Ðáng Kính.
Ngày 04.05.2017, Bộ Phong Thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận Vị Tôi Tớ Chúa này đã thực hiện các nhân đức ‘đến mức độ anh hùng’. Trước đó, 9 cố vấn của Bộ Phong Thánh cứu xét tập Hồ sơ đúc kết (Positio) về cuộc sống và các nhân đức của Vị Tôi Tớ Chúa Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và đa số các vị đã bỏ phiếu thuận. Sau đó, trong cuộc họp của Hội đồng các Ðức Hồng Y và Ðức cha thành viên của Bộ đã đồng thanh bỏ phiếu chấp thuận. Việc công bố này đã được Ðức Thánh Cha Phanxicô cho phép trong buổi tiếp kiến cùng ngày dành cho Ðức Hồng Y Angelo Amato, SDB, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh. Do đó, từ nay Ðức Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận được mang danh xưng ‘Đấng Đáng Kính’ (Venerabile).
Hà Minh Thảo
Thông Báo
Cáo Phó: Cha Cố Gioan Baotixita Phạm Năng Trí qua đời tại Saigòn
Gia đình Linh tông
08:42 30/10/2017
Gia đình LM gốc Phát Diệm, Nhà Vãng Lai PD và Giáo xứ Phú Hải kính báo
Cha Cố Gioan Baotixita Phạm Năng Trí
Linh mục Sàigòn, gốc Giáo phận Phát Diệm.
Sinh ngày 17.12.1922 tại Xuân Hồi, Ninh Bình, thuộc Gx. Cách Tâm, Phát Diệm,
Đã an nghỉ trong Chúa lúc 1g47 sáng thứ sáu 20.10.2017
Hưởng thọ 95 tuổi với 67 năm Linh Mục.
Chương trình lễ tang :
Lễ nhập quan : 10g30 thứ sáu 20.10.2017 tại Nhà Vãng Lai Phát Diệm, 102 Chiến Thắng P.9 Q.Phú Nhuận, Saigòn.
Di quan đến Nhà thờ Phú Hải : 4g30 chiều thứ bảy 21.10.2017
Lễ An táng : 9g00 thứ hai 23.10.2017 tại Nhà thờ Phú Hải, 69 Cô Giang P.1 Q.Phú Nhuận, Saigòn.
Hoả táng tại Bình Hưng Hoà.
Tiểu sử của Cha cố Gioan Baotixita Phạm Năng Trí :
* 17.12.1922 : Sinh tại Xuân Hồi, Kim Sơn, Ninh Bình, thuộc Gx. Cách Tâm, Gp. Phát Diệm
* 15.08.1935 : Nhập Tiểu chủng viện Phúc Nhạc
* 07.09.1944 : Nhập Đại chủng viện Thượng Kiệm, Phát Diệm
* 02.12.1950 : Thụ phong Linh Mục tại Nhà thờ Chính toà Phát Diệm
* 01.01.1951 : Phó Xứ Giáo xứ Dưỡng Điềm
* 15.08.1951 : Giám thị tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc
* 30.06.1954 : Di cư vào nam cùng với Tiểu chủng viện
* 1954-1968 : Tiếp tục làm Giám thị rồi Giáo sư Pháp văn tại Tiểu chủng viện Phát Diệm Phú Nhuận
* 1962-1968 : Phụ trách thêm Xóm đạo Phú Hải (tức là Đội Có)
* 1968-2002 : Chính Xứ tiên khởi Giáo xứ Phú Hải, Giáo hạt Phú Nhuận
* 2002-2011 : Nghỉ hưu tại Nhà thờ Phú Hải
* 2011-2017: Nghỉ hưu tại Nhà Vãng Lai Phát Diệm Phú Nhuận.
Cộng đoàn Gx. Phú Hải, Nhà Vãng Lai và Gia đình LM gốc Phát Diệm cùng Họ Hàng Huyết tộc và Họ Hàng Linh tông kính báo.
Đại diện: LM Phạm Bá Lãm
Họ hàng Huyết tộc của Cha G.B. Phạm Năng Trí kính xin Quí Đức Cha, Qúi Cha và Nam Nữ Tu Sĩ, Anh Chị Em Họ Hàng tiếp tục
cầu nguyện cho linh hồn Cha Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Năng Trí là Cha Chú, Cha Bác, Cha Ông, Cha Ông Cố của chúng con / tôi:
Ðức Ông Trần Văn Khả, VN
Lm Trần Bình Trọng, Hoa Kì
Linh Mục Phạm Hữu Thiết, VN
Linh Mục Lưu Ðình Vinh, Hoa Kì
Linh Mục Trần Công Nghị, Hoa Kì
Linh Mục Trần Xuân Lãm, Gia Nã Đại
Linh Mục Nguyễn Văn Mạnh, VN
Linh Mục Trần Thanh Xuân, VN
Nữ Tu Phạm Thị Tám, VN
Nữ Tu Phạm Thị Dự, VN
Nữ Tu Phạm Thị Thục, Pháp quốc
Nữ Tu Trần Thị Thiên Hương, VN
Nữ Tu Nguyễn Thị Huê, VN
Nữ tu Hoàng Thị Lan, VN
Nữ tu Trần Thu Hà, Hoa Kì
Nữ tu Trần Thị Thu Hương, VN
Nữ tu Trần Thị Hường, Hoa Kì
Nữ tu Vũ Thị Bích Thảo, VN
Nữ tu Trần Thuỳ Trang, VN
Văn Hóa
Tháng Hoa Cúc
Lê Đình Thông
08:54 30/10/2017
Nhớ người thân dứt nợ trần hoàn
Lời thiêng cát bụi xoay vần
Quay về cát bụi nợ nần (1) mờ tan.
Lời kinh nguyện chuyên cần sớm tối
Chúa Chiên Lành xóa tội trần gian
Ngài còn xuống ngục lầm than (2)
Cứu người khốn khó sa chân chốn này.
‘‘Chốn tử vong còn ai nhớ Chúa
Nơi âm cung ai dựa ơn Ngài.’’ (3)
Chúa tôi cho nắng ban mai
Chiếu soi vào chốn tuyền đài âm u.
Hoa cúc vàng ngàn thu tiếc nhớ
Đức Kitô khai mở bờ đê
Nguồn ơn Thánh Đức tràn trề
Linh hồn côi cút sớm về Thiên cung.
Paris, tháng 11/2017
Lê Đình Thông
---
(1) ‘‘Ngươi là cát bụi, và sẽ trở về với cát bụi.’’ (St 3,19)
(2) ‘‘Xuống ngục tổ tông’’ (Descendit ad inferos)
(3) ‘‘Chốn tử vong ai nào nhớ Chúa
Nơi âm phủ ai ngợi khen ngài.’’ (Tv 6,6)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cờ Vàng Chào Mẹ Fatima
Dominic Đức Nguyễn
08:32 30/10/2017
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
(Hình chụp tại Fátima, Lisboa, Portugal)
Ôi , lạy Mẹ từ bi, xin cho Nước Việt Nam
Được yên bình thư thái
Người người còn thơ dại
Xin Mẹ cứu giúp cho
Để họ nhận ra tình Thiên Chúa bao la
Lạy Mẹ Maria, lời Mẹ nhủ thiết tha !
Xin cho đoàn dân Việt biết tỉnh thức thật thà.
(Trích thơ của P.Trần Đình Phan Tiến)
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 31/10/2017: Câu chuyện Cha Piô Năm Dấu Thánh và các linh hồn
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:49 30/10/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thay đổi đời sống, thay đổi cách sống; Ngài mời gọi chúng ta hoán cải. Thay đổi chính mình là một cuộc chiến đấu chống lại sự ác, cả sự ác ở trong trái tim chúng ta, một cuộc chiến không để cho chúng ta yên thân nhưng lại ban cho chúng ta sự bình an.” Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 26 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta.
Giải nghĩa đoạn Tin mừng theo thánh Luca đoạn 12, từ câu 49 đến câu 53, trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Ngài đã đến để ném lửa vào mặt đất, Đức Thánh Cha giải thích rằng loại lửa mà Chúa Giêsu ném xuống thế gian là loại lửa đòi hỏi chúng ta phải thay đổi. Chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ, thay đổi cách cảm nghĩ. Trước đây trái tim của chúng ta thuộc về thế gian, không thuộc về Thiên Chúa, nhưng bây giờ trái tim chúng ta đã trở thành trái tim của Kitô hữu với sức mạnh của Chúa Kitô. Đó là sự thay đổi và cũng có nghĩa là hoán cải.
Đức Thánh Cha nói:
Sự hoán cải này là một cuộc hoán cải toàn diện, bao gồm tất cả thân xác và linh hồn. Điều này là một sự hoán cải nội tâm, hoán cải thật sự như Đức Thánh Cha giải thích: “Đó là sự thay đổi nhưng không phải là sự thay đổi hình thức, bên ngoài, giả tạo, mà là sự thay đổi nội tâm, do Chúa Thánh Thần thực hiện và chúng ta phải cộng tác để Chúa Thánh Thần có thể hoạt động. Điều này có nghĩa là chúng ta phải chiến đấu, chiến đấu!” Chúng ta cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghĩa là đề cho Ngài đi vào tâm hồn chúng ta, Ngài giúp hoán cải chúng ta. Chấp nhận để Chúa Thánh Thần hoạt động là một cuộc chiến đấu chống lại sự ngủ yên, chống lại chọn lựa ở yên và không muốn thay đổi. Thay đổi đòi chúng ta phải chiến đấu vượt qua con người cũ với lối sống cũ, những suy nghĩ cũ và cách hành động cũ.
Trong lối sống cũ các Kitô hữu cảm thấy an tâm nhưng Đức Thánh Cha nhắc rằng là Kitô hữu chúng ta không thể “bình chân như vại”, cảm thấy yên hàn và không cần chiến đấu mỗi ngày và không phấn đấu chống lại sự dữ. Đó không phải là các Kitô hữu mà là những người dửng dưng, nửa nóng nửa lạnh. Đức Thánh Cha nói rằng người ta có thể tìm thấy sự an bình để ngủ ngon với một viên thuốc, nhưng không có những viên thuốc có thể đem lại sự bình an nội tâm. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban sự bình an của tâm hồn và bình an đó mang lại sức mạnh cho các Kitô hữu.
Để kết luận, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cộng tác với Chúa Thánh Thần bằng cách để khoảng trống cho Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình. Chúa Thánh Thần có vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống lại sự ác của Kitô hữu: “Chúa Thánh Thần giúp chúng ta rất nhiều trong việc kiểm điểm lương tâm, mọi ngày, giúp chúng ta chiến đấu chống lại các căn bệnh của tinh thần mà kẻ thù gieo vãi và là các căn bệnh của thế gian.”
2. Tâm điểm của cuộc đời tôi là gì?
Trung tâm của mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô là thế này: Chúa là Đấng yêu mến tôi và hy sinh mạng sống vì tôi. Để đi vào mầu nhiệm này, chúng ta cần suy niệm cuộc Thương Khó, cần cử hành việc đi đàng thánh giá. Để là người Kitô hữu tốt, chúng ta cần đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 24 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta
Trong bài đọc trích thư gửi giáo đoàn Roma, thánh Phaolô sử dụng những cặp từ ngữ tương phản: tội lỗi với ân sủng, bất tuân với tha thứ. Thánh nhân cố gắng giúp chúng ta hiểu điều gì đó. Ngài cảm thấy rất khó để diễn tả cho chúng ta điều ngài muốn nói. Đằng sau những giải thích ấy, là câu chuyện về ơn cứu độ. Khi không đủ ngôn từ để giải thích về Chúa Kitô, thánh Phaolô đẩy chúng ta, ném chúng ta vào trong mầu nhiệm của Chúa Kitô, một mầu nhiệm có đầy nghịch lý. Mầu nhiệm ấy rất khó hiểu, bởi lẽ đó là điều hết sức phong phú, bởi lẽ đó là điều không thể hiểu được nếu chỉ bằng những lý lẽ lập luận. Do đó, để có thể hiểu được rằng, Chúa Giêsu Kitô đã làm tất cả vì tôi vì chúng ta, chúng ta cần chìm sâu vào mầu nhiệm ấy.
Ở nơi khác, thánh Phaolô nhìn lên Chúa Giêsu Kitô mà nói: “Người yêu mến tôi và hy sinh mạng sống vì tôi. Cần lưu ý rằng, họa hiếm lắm mới có người dám chết thay cho một người công chính, ấy thế mà chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đi hy sinh tính mạng cho một kẻ tội lỗi như tôi”. Với những lời ấy, thánh Phaolô đã tìm thấy lối đi vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Điều ấy không hề dễ dàng, vì đây là một ơn. Không chỉ có các thánh trong Sổ Bộ các thánh của Giáo hội mới hiểu được mầu nhiệm ấy, mà còn có rất nhiều vị thánh trong đời sống thường ngày hiểu được mầu nhiệm của Chúa. Đó là những con người khiêm tốn đặt niềm hy vọng nơi Chúa, một Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Điều ấy dường như thật là điên rồ. Thế mà thánh Phaolô đã nói, nếu được tự hào về điều gì, thì thánh nhân chỉ tự hào về tội lỗi của bản thân và tự hào về Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Thánh nhân không hề tự hào vì được là học trò của bậc thầy lỗi lạc Gamaliele trong hội đường. Thánh nhân cũng chẳng tự hào về những điều gì khác. Điều thánh Phaolô nói quả là nghịch lý. Nghịch lý này dẫn chúng ta đến mầu nhiệm Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh. Nghịch lý này dẫn chúng ta đến cuộc đối thoại với những tội lỗi của bản thân.
Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đến trong Lời của Chúa. Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở Lời mà thôi, thì chưa đủ để đi vào mầu nhiệm cao cả ấy. Để đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô cách sâu xa hơn, chúng ta cần đi vào vực thẳm của lòng thương xót, ở nơi đó không còn ngôn từ nào nữa, mà chỉ còn sự ấm áp của vòng tay ôm che chở của tình yêu mến. Vì yêu mến mà Chúa đã chết vì tôi. Chúng ta đi xưng tội vì chúng ta đã phạm tội. Đúng như thế. Chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, và chúng ta nói: Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. Sau đó, chúng ta ra đi và cảm thấy bình an hạnh phúc. Nếu chỉ làm như thế, chúng ta chưa đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Nếu tôi đi xưng tội, nếu tôi đến đó để gặp Chúa Giêsu Kitô, thì tôi mới bước vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, để đi vào vòng tay ôm tha thứ của Chúa như thánh Phaolô nói, đi vào ơn tha thứ nhưng không của Chúa.
Khi được hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại làm tất cả những điều ấy vì bạn? Có lẽ bạn sẽ trả lời: Vì Ngài là Con Thiên Chúa. Có lẽ bạn sẽ nói những điều liên quan đến giáo lý. Những điều ấy thì đúng, nhưng điểm trung tâm của mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô là thế này: Chúa yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi. Việc hiểu biết mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô không phải là vấn đề nghiên cứu, nhưng hoàn toàn là ơn sủng nhưng không.
Do đó, có bài tập để thực hành, đó là đi Đàng Thánh Giá. Đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu trên những nẻo đường. Ở nơi đó, chúng ta được dẫn vào vòng tay ôm tha thứ và hòa bình. Thật là đẹp biết bao khi thực hành Đàng Thánh Giá. Hãy làm điều ấy ngay cả trong gia đình. Hãy suy niệm từng giây phút của cuộc Thương Khó Chúa. Những vị thánh vĩ đại luôn khuyên rằng, để bắt đầu đời sống tâm linh, hãy đến với cuộc gặp gỡ trong mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Thánh Têrêsa khuyên các nữ tu rằng: để tiến tới trong việc cầu nguyện và chiêm niệm, ngay cả những bậc cầu nguyện cao nhất, thì hãy bắt đầu với việc suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa. Thánh Giá Chúa Kitô. Chúa Kitô trên thập giá. Hãy bắt đầy suy gẫm. Hãy làm như thế, để có thể hiểu được trong cõi lòng mình rằng: Đấng ấy đã yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi, Người đã yêu mến cho đến chết vì tôi.
Tôi là một Kitô hữu tốt. Tôi đi tham dự thánh lễ. Tôi làm các công việc bác ái từ bi thương xót. Tôi cầu nguyện siêng năng. Tôi giáo dục con cái tử tế. Những điều ấy rất tốt, nhưng tôi có thể tự hỏi mình rằng: “Này bạn, bạn đã làm tất cả những điều ấy, nhưng bạn có ở trong mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô không?” Điều ấy có lẽ bạn không để ý.
Để kết luận, Đức Thánh Cha nói:
Chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh Phaolô, thánh nhân là nhân chứng đích thật về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy cầu nguyện với thánh nhân, để cùng với ngài, chúng ta nhận được ơn đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu mến tôi và hy sinh mạng sống vì tôi, vì chúng ta. Đấng đã làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Đấng đã tha thứ cho chúng ta tất cả tội lỗi, ngay cả những mối tội đầu, những nết xấu. Chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa, là biểu tượng của mầu nhiệm vĩ đại nhất trong công trình sáng tạo. Chúa Kitô chịu đóng đinh là trung tâm của lịch sử, là tâm điểm của cuộc đời tôi.
3. Câu chuyện Cha Piô Năm Dấu Thánh và các linh hồn
Các linh hồn bị người đời quên lãng thì lại có một chỗ đứng quan trọng trong đời của cha Pio. Hàng ngày, ngài luôn cầu nguyện và dâng Thánh lễ với những ý chỉ dành cho các linh hồn.
Trong một buổi nói chuyện với các tu sĩ về tầm quan trọng của các lời cầu nguyện, cha Pio nói:
“Rất nhiều các linh hồn người chết đang ở luyện ngục và họ thường leo lên núi này để dự thánh lễ mà tôi dâng và họ xin lời cầu nguyện của tôi. Số người chết này đến còn đông hơn là số người còn sống đến dự lễ.”
Câu nói này của cha Pio làm cho nhiều người rợn tóc gáy. Trong suốt 52 năm ngài sống ở vùng San Giovanni Rotondo, hàng triệu người đến viếng ngài. Vậy mà ngài nói rằng linh hồn người chết đến thăm ngài còn nhiều hơn người sống.
Cha thánh Pio cũng đã kể câu chuyện sau đây.
Một buổi tối lúc cầu nguyện một mình nơi nhà nguyện bỗng tôi trông thấy một thầy trẻ tuổi đứng nơi bàn thờ chính. Thầy có vẻ như đang lau chùi các chân nến và sửa lại các bình hoa. Lúc ấy là giờ ăn tối. Tôi đinh ninh người lo bàn thánh chính là thầy Leone nên tôi tiến lại gần và nói:
- Thầy Leone à, đang giờ ăn tối, thầy xuống phòng ăn đi, chứ đâu phải giờ lau bụi và sửa soạn bàn thánh!
Nhưng một giọng nói - không phải của thầy Leone - trả lời:
- Con không phải thầy Leone!
Tôi hỏi lại:
- Vậy thầy là ai?
- Con là tu sĩ cùng dòng với Cha và từng là tập sinh sống ở Tu Viện này. Đức vâng lời dạy con phải luôn luôn giữ gìn bàn thánh thật sạch và thật ngăn nắp. Đáng tiếc, con thường bê trễ trong bổn phận và thiếu lòng tôn kính đối Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Chính vì tội thiếu tôn thờ cách trầm trọng này mà cho đến nay con vẫn còn bị hình phạt trong Lửa Luyện Hình. Nhưng giờ đây Thiên Chúa Từ Nhân, trong lòng thương xót vô biên của Ngài, cho phép con hiện về với Cha. Chính Cha là người có thể thu ngắn thời gian con phải chịu giam cầm trong Lửa Luyện Ngục. Xin Cha vui lòng giúp con.
Tôi nghĩ mình quả thật quảng đại đối với Linh Hồn đang đau khổ nơi Lửa Luyện Tội khi nhanh nhẹn hứa rằng: “Anh sẽ chỉ còn ở trong Lửa Luyện Tội cho đến sáng mai lúc tôi dâng Thánh Lễ”. Nào ngờ Linh Hồn này thét lên: “Thật là tàn nhẫn!”. Thét xong câu đó Linh Hồn biến đi. Tiếng than khóc kinh khiếp của Linh Hồn như lưỡi gươm đâm xuyên trái tim. Tôi thật đau đớn và mãi mãi như nghe tiếng thét vang vọng bên tai. Tôi, nhờ sự ủy quyền đặc biệt của Thiên Chúa, có thể giúp Linh Hồn đi thẳng về Trời, trái lại, tôi đã kết án giam giữ Linh Hồn ở lại trong Lửa Luyện Ngục thêm một đêm nữa cho tới sáng mai!
4. Thiên đàng là mục tiêu niềm hy vọng Kitô giáo.
Trong buổi tiếp kiến chung 40 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 25-10, Đức Thánh Cha đã trình bày về thiên đàng như mục tiêu niềm hy vọng Kitô giáo.
Mở đầu buổi tiếp kiến, mọi người nghe đọc bài Tin mừng theo thánh Luca tường thuật cho chúng ta cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và một trong hai người tội phạm cùng bị đóng đinh với Ngài mà truyền thống thường gọi là người “trộm lành”, người đã hoán cải trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi nhé!”
Rồi có tiếng đáp lại của Chúa Giêsu, nhanh chóng và như một lời thì thầm: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên nước Thiên Đàng”
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói về đề tài “Thiên đàng, mục tiêu niềm hy vọng của chúng ta”. Đây là bài thứ 38 và cũng là bài cuối cùng trong loạt bài giáo lý về Đức Hy vọng Kitô giáo. Ngài nói:
“Đây là bài giáo lý cuối cùng về đề tài niềm hy vọng Kitô giáo, đề tài này đã đồng hành với chúng ta từ đầu năm phụng vụ này. Và tôi kết luận qua việc nói với anh chị em về đề tài Thiên đàng, như mục tiêu niềm hy vọng của chúng ta.
'Thiên đàng' là một trong những lời cuối cùng được Chúa Giêsu nói lên trên thập giá, khi ngài ngỏ lời với người trộm lành. Chúng ta hãy dừng lại một lát nói về cảnh tượng ấy. Trên thập giá, Chúa Giêsu không cô độc. Cạnh Ngài, bên phải và bên trái, có hai kẻ bất lương. Có lẽ khi đi ngang qua 3 cây thập giá được dựng lên trên đồi Golgota, có người thở phào nhẹ nhõm, nghĩ rằng công lý đã được thực thi khi kết án tử cho những người như thế.
Cạnh Chúa Giêsu có một tội nhân đã thú nhận tội ác của mình: nhìn nhận mình đáng chịu khổ hình như thế. Chúng ta gọi anh ta là “người trộm lành”, anh ta chống lại người kia và nói: “Chúng ta lãnh nhận điều chúng ta đáng chịu vì những hành động của chúng ta” (Xc Lc 23,41)
Trên đồi Canvê, trong ngày thứ sáu bi thảm và thánh thiêng ấy, Chúa Giêsu đi tới tột cùng cuộc nhập thể của Ngài, liên đới với chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chính tại đó đã ứng nghiệm điều mà ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Tớ đau khổ: “Người bị liệt vào số những kẻ gian ác” (53,12; xc Lc 22,37).
Tại đó, trên đồi Canvê, Chúa Giêsu đã có một cuộc hẹn cuối cùng với một tội nhân, để cũng mở toang cánh cửa Nước Ngài cho anh ta. Đó là lần duy nhất từ “thiên đàng” xuất hiện trong các sách Tin Mừng. Chúa Giêsu đề nghị thiên đàng cho một “kẻ khốn nạn” trên thập giá đã có can đảm ngỏ với Ngài lời khiêm tốn nhất: “Xin Ngài nhớ đến tôi khi vào trong Nước của Ngài” (Lc 23,42). Anh ta chẳng có những công việc lành để biểu dương, chẳng có gì cả, nhưng anh tín thác vào Chúa Giêsu, mà anh nhìn nhận là người vô tội, tốt lành, rất khác biệt với anh (v.41). Chỉ cần một lời khiêm tốn thống ấy ấy cũng đủ đánh động tâm hồn Chúa Giêsu.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng:
“Người trộm lành nhắc nhở chúng ta về thân phận của ta trước Thiên Chúa: chúng ta là con cái của Ngài, Ngài cảm thương chúng ta, Ngài động lòng mỗi khi chúng ta biểu lộ sự nhớ nhung đối với tình thương của Ngài. Trong các phòng của bao nhiêu nhà thương hoặc các phòng ở nhà tù, phép lạ này tái diễn vô số lần: dù đã sống gian ác thế nào đi nữa, không có người nào chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng, ơn thánh không bị ngăn cản đối với một ai.
Trước Thiên Chúa chúng ta đến trình diện với đôi bàn tay không, phần nào giống như người thu thuế trong dụ ngôn, ông ta dừng lại cầu nguyện ở cuối đền thờ (Xc Lc 18,13). Và mỗi lần có một người, khi xét mình lần chót về cuộc sống của họ, khám phá thấy những điều gian ác của mình vượt xa những điều thiện họ làm, họ không nên thất vọng nản chí, nhưng hãy tín thác nơi lòng thương xót của Chúa.
Thiên Chúa là Cha, và Ngài chờ đợi sự trở về của chúng ta cho đến cùng. Và với người con trai hoang đàng trở về, bắt đầu xưng thú các lỗi lầm của mình, người cha bịt miệng anh ta bằng vòng tay ôm (Xc Lc 15,20).
Thiên đàng không phải là một nơi của chuyện huyền thoại, và cũng chẳng phải là vườn thần tiên. Thiên đàng là vòng tay ôm với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu vô biên, và chúng ta vào thiên đàng nhờ Chúa Giêsu, Người đã chết trên thập giá vì chúng ta. Nơi nào có Chúa Giêsu, nơi ấy có lòng thương xót và hạnh phúc; không có Chúa thì chỉ có lạnh lẽo và tối tăm. Trong giờ chết, Kitô hữu lập lại với Chúa Giêsu: “Xin Chúa nhớ đến con”. Và cho dù không còn ai nhớ đến chúng ta, Chúa Giêsu vẫn ở đó cạnh chúng ta. Ngài muốn đưa chúng ta vào nơi đẹp đẽ nhất. Ngài muốn đưa vào đó với ít nhiều điều thiện trong cuộc sống chúng ta, để không điều gì bị mất đi khỏi những gì Ngài đã cứu chuộc. Và trong nhà Cha, Ngài cũng mang tất cả những gì ở trong chúng ta cần được cứu chuộc: những thiếu sót và những sai lầm trong trọn cuộc sống. Đó là mục đích cuộc sống của chúng ta: tất cả được hoàn thành, được biến đối trong tình thương.
Để kết luận, Đức Thánh Cha nói:
Nếu chúng ta tin điều đó, thì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi nữa và chúng ta cũng có thể hy vọng rời khỏi thế giới này một cách thanh thản, với bao nhiêu lòng tín thác. Ai đã biết Chúa Giêsu, thì không còn sợ hãi gì nữa. Và chúng ta cũng có thể lập lại những lời của cụ già Simeon, cụ cũng đã được phúc gặp gỡ Chúa Kitô, sau trọn cuộc đời chờ đợi: “Giờ đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, theo lời Ngài, vì mắt con đã thấy ơn cứu độ của Chúa” (Lc 2,29-30).
Sau cùng, chính trong lúc ấy, chúng ta sẽ không còn cần gì nữa, không còn nhìn thấy mờ mờ. Không còn khóc than vô ích, vì tất cả đã qua đi; cả những lời tiên tri, cả những kiến thức. Nhưng tình yêu không qua đi, nó tồn tại. Vì “đức ái không bao giờ chấm dứt”
5. Thần tiền đã để nhiều trẻ em bị chết đói
Trong thời đại ngày nay, các phương tiện truyền thông cho chúng ta biết tin về rất nhiều thiên tai, rất nhiều bất công, đặc biệt liên quan đến các trẻ em. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện nài xin lên Thiên Chúa, để Ngài hoán cải lòng người, để con người biết tôn thờ Thiên Chúa chứ không đi thờ thần tiền. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Hai 23 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta.
Đức Thánh Cha nói:
Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay kể cho chúng ta nghe câu chuyện về người phú hộ giàu có tiền của. Tiền bạc dễ dẫn chúng ta tới chỗ nương tựa vào chúng, nương tựa vào những thứ phù vân, nương tựa vào của cải thế gian. Trong khi đó, mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa mới là kho báu đích thực.
Đứng trước sự bội thu của hoa lợi, người phú hộ không dừng lại tại đó. Ông không ngừng suy nghĩ về việc mở rộng các cửa hàng, mở rộng các nhà kho. Ông tưởng tưởng về một cuộc sống dài lâu. Điều ấy có nghĩa là của cải nhiều đến mức thừa mứa, mà ông không biết được đâu mới thực sự là an ninh là đảm bảo. Ông ở trong cái vòng xoáy của chủ nghĩa tiêu thụ tràn lan.
Thế nên Thiên Chúa đặt ra hạn định cho những kẻ chỉ ham kiếm tiền, cho những kẻ trở thành nô lệ của tiền bạc. Chúa mắng rằng: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để cho ai?”. Đây không phải là truyện cổ tích, nhưng là thực tế. Thực tế là nhiều người vẫn tiếp tục tôn thờ thần tiền. Nhiều người tiếp tục sống cho điều này, sống trong cuộc đời vô nghĩa. Chúa đã mắng những người ấy, là kẻ chỉ biết tích trữ của cải cho mình, mà không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Ở Buenos Aires, có doanh nhân giàu có nọ, khi biết mình bị bệnh nặng, thế mà vẫn ngoan cố đi mua một căn biệt thự. Ông ta chỉ nghĩ trước mắt, mà không biết đi làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Ngày nay cũng thế, có biết bao người khao khát tiền bạc của cải, trong khi họ không nhìn thấy trước mặt mình có biết bao trẻ em bị đói, không thuốc men, không được giáo dục, biết bao con người bị bỏ rơi. Thế đó, thần tiền đã giết chết lòng hy sinh cống hiến của con người.
Thần tiền đã làm cho nhiều người chết đói. Chúng ta thử nghĩ tới 200 ngàn trẻ em người Rohingya trong các trại tị nạn. Ở đó có 800 ngàn người, và 200 ngàn là các trẻ em. Các em không có gì để ăn. Các em bị suy dinh dưỡng. Các em không có thuốc men. Điều ấy vẫn đang xảy ra. Những điều Chúa nói không phải chỉ cho ngày xưa, mà là cho ngày hôm nay. Ngay hôm nay! Chúng ta cần mạnh mẽ nguyện xin: Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn của những kẻ thờ thần tiền. Xin Chúa cũng biến đổi tâm hồn con, để con không bị sa ngã vào những cám dỗ mà con đã thấy.
Thần tiền cũng gây ra chiến tranh, ngay cả ở giữa các gia đình. Tất cả chúng ta đều biết, điều gì sẽ xảy ra khi tài sản, khi gia sản bị đe dọa, bị phân chia. Khi ấy gia đình sẽ chia rẽ và rơi vào cảnh hận thù. Chính vì thế, mà Chúa đã nhấn mạnh khi nói rằng, những kẻ ấy không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Điều quan trọng không phải là giàu có, nhưng là Thiên Chúa. Ở đây không phải là coi thường coi khinh tiền bạc, không phải thế. Điều nhấn mạnh ở đây là đừng có tham lam, đừng gắn bó với tiền bạc đến nỗi tôn thờ thần tiền. Do đó, chúng ta cần cầu nguyện, cần mạnh mẽ kêu xin, để chúng ta biết kiếm tìm nơi Thiên Chúa nền tảng vững chắc cho cuộc đời chúng ta.
6. Giới răn trọng nhất
Trong buổi đọc kinh truyền tin trưa Chúa Nhật 29-10 với hơn 30 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu sống trọn giới răn mến Chúa yêu người.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu trong Chúa Nhật thứ 30 thường niên năm A, trong đó Chúa Giêsu trả lời câu hỏi do một người Biệt Phái nêu lên: đâu là giới luật quan trọng nhất.
Đức Thánh Cha nói:
“Chúa Nhật này, Phụng vụ trình bày cho chúng ta một đoạn ngắn của Tin Mừng, nhưng rất quan trọng (Xc Mt 22,34-40). Thánh Sử Matthêu kể lại rằng những người Biệt Phái họp nhau để thử thách Chúa Giêsu. Một người trong họ, tiến sĩ luật, nêu câu hỏi với Ngài: “Thưa Thầy, trong Luật, đâu là giới răn quan trọng nhất” (v. 36). Đó là một câu hỏi cạm bẫy, vì trong Luật Môisê có nói đến hơn 600 giới luật. Trong tất cả những luật đó, làm sao phân biệt giới răn quan trọng nhất. Nhưng Chúa Giêsu không chút do dự và trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết tâm trí ngươi” và ngài thêm: 'Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình” (v.37.39)”
“Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải là điều hiển nhiên mà có, vì trong nhiều giới răn của luật Do thái, quan trọng nhất là 10 giới răn, được Thiên Chúa trực tiếp thông truyền cho Môise, như những điều kiện của giao ước giữa Chúa với dân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho thấy rằng nếu không có lòng mến Chúa và yêu ngừơi, thì không có sự trung thành đích thực với giao ước với Thiên Chúa. Bạn có thể làm bao nhiêu điều tốt lành, thực thi các giới răn, nhưng nếu bạn không có tình yêu, thì việc làm ấy không hữu ích.
Một đoạn văn khác trong sách Xuất Hành, gọi là “Luật giao ước” đã xác nhận điều đó, trong phần này có nói rằng ta không thể ở trong Giao ước với Chúa mà lại ngược đãi những người được Chúa đặc biệt bảo vệ: đó là góa phụ, cô nhi và người ngoại quốc, người di dân, tức là những người cô độc và dễ bị tổn thương nhất (Xc Xh 22,20-21). Khi trả lời cho những người Biệt Phái chất vấn ngài, Chúa Giêsu cũng tìm cách giúp họ đặt thứ tự trong đời sống đạo của họ, tái lập điều thực sự quan trọng và điều kém quan trọng hơn. Ngài nói: “Toàn thể Luật và các Ngôn Sứ tùy thuộc hai giới răn này” (Mt 22,40). Đó là những giới răn quan trọng nhất, các giới răn khác tùy thuộc hai giới răn đó. Và Chúa Giêsu đã sống như thế: bằng cách rao giảng và thi hành những gì thực sự là quan trọng và thiết yếu, nghĩa là tình thương. Tình thương mang lại đà tiến và sự phong phú cho đời sống và hành trình đức tin: không có tình thương, thì cuộc sống cũng như đức tin sẽ trở nên khô cằn, son sẻ.
Điều mà Chúa Giêsu đề nghị trong trang Tin Mừng này là một lý tưởng tuyệt vời, đáp ứng ước mong chân thực nhất của tâm hồn chúng ta. Thực vậy, chúng ta được dựng nên để yêu mến và được mến yêu. Thiên Chúa là Tình Thương, đã tạo dựng chúng ta để cho chúng ta được tham dự cuộc sống của Ngài, để được Ngài yêu mến và yêu mến Ngài, và cùng với Ngài yêu mến tất cả những người khác. Đó là “giấc mơ” của Thiên Chúa về con người. Và để thực hiện điều đó, chúng ta cần ơn thánh của Chúa, chúng ta cần nhận được nơi mình khả năng yêu mến đến từ chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu hiến mình cho chúng ta trong Thánh Thể chính vì điều đó. Trong Thánh Thể chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa, nghĩa là chúng ta đón nhận Chúa Giêu qua biểu hiện tột đỉnh tình thương của Chúa, khi Ngài hiến mình cho Chúa Cha để cứu độ chúng ta”.
Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Nguyện xin Đức Mẹ giúp chúng ta đón nhận vào trong cuộc sống của chúng ta “giới răn cao cả”, mến Chúa yêu người. Thực vậy, tuy chúng ta đã biết giới răn này từ khi còn nhỏ, nhưng không bao giờ chúng ta ngưng trở về với giới răn này và thực hành nó trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống chúng ta”