Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
07:44 22/11/2019
Vua Tình Yêu
Chỉ duy nhất một mình Chúa Kitô nắm quyền. Mọi quyền hành nằm trong tay Người. Người là Vua vĩnh cửu và tuyệt đối.
Nhưng dù Vương quyền của Chúa Kitô là Vương quyền không giới hạn, chỉ có một không hai trong cõi loài người. Chúa Kitô không bao giờ cai trị bằng quyền lực của mình. Ngược lại, Người cai trị bằng tình yêu.
Đúng hơn, nếu hiểu theo nghĩa của loài người, cai trị là thị uy, là bắt mọi người lụy phục mình, là “ăn trên ngồi trước”, thì nơi Chúa Kitô chẳng phải là cai trị. Nhưng Người là Nguồn yêu thương rót đầy nơi chúng ta và nơi cả thế giới này lòng yêu thương ấy.
Tình yêu thương ấy chảy tràn trề, chảy lai láng, bất cứ ai chân thành tìm gặp đều có thể bắt gặp và nương nhờ, để được triều mến và được ấp ủ.
Vương quyền dẫu lớn lao, tuyệt đối là thế, nhưng Chúa Kitô, trước sau vẫn chỉ có một đường lối duy nhất là yêu thương, săn sóc và cứu chữa mà thôi.
Chính vì tình yêu vời vợi như thế, Chúa Kitô đã chấp nhận chết cho thần dân của mình. Người hiến thân hy sinh cho cả Hội Thánh.
Như vậy, qua cuộc hiến tế của Chúa, chúng ta nhận ra, Vua Kitô không chỉ là Vua hiền lành, nhân từ, Người còn là vị Vua hạ mình đến tận cùng. Đến nỗi khi nhìn ngắm sự hạ mình của Người trong cuộc hiến tế thương đau, ta chỉ còn biết lặng người đi, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng mang ơn Người và trung thành theo Người đến trọn cuộc đời.
Bởi chỉ có thể là một vị Vua yêu thương tận cùng nên mới hạ mình đến tận cùng như thế.
Cũng bởi Chúa yêu thương như thế, nhiều anh chị em Kitô hữu nhiệt thành đã để Người chiếm trọn bản thân mình, và lấy làm hạnh phúc vì được sống trong chiếc nôi tình yêu của Vua Giêsu.
Cũng giống một người mẹ yêu thương con mình, hình ảnh của người mẹ ấy lấp đầy trong tâm hồn đứa con. Bằng lòng yêu thương không gì bằng, người mẹ đã chiếm trọn đứa con của mình. Tình yêu giữa Chúa Kitô và những ai khám phá ra tình yêu của Người, cũng sẽ được Người chiếm trọn vẹn như thế.
Vì thế, đối với tôi, tuyên xưng Chúa Kitô là Vua Tình yêu vẫn chưa có thể nói hết được nội dung của lòng yêu thương mà Chúa trao ban.
Chỉ có ai sống bằng một đời sống cầu nguyện thâm sâu và cảm nghiệm bằng tất cả nội tâm và lòng yêu mến của mình, mới hiểu được tròn đầy ba tiếng VUA TÌNH YÊU.
Bạn thân mến, bằng một vài suy niệm như thế trong lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta chân thành nhận ra rằng: trên thế giới hiện nay có khoảng năm trăm ngàn linh mục, khoảng một triệu năm trăm ngàn tu sĩ nam nữ và hơn một tỷ người Công Giáo. Chỉ cần bằng ấy số lượng người biết để Chúa làm Vua lòng mình thực thụ, thế giới đã có một khối lượng men và muối cho cuộc đời lớn không thể tả.
Nhưng thật nghịch lý và mâu thuẫn làm sao, khi trong chính cộng đoàn ấy, cộng đoàn của những con người nhìn nhận Vương quyền đích thực của Chúa Kitô, lại có bao nhiêu người để cho Chúa làm vua lòng mình hẳn hoi, bao nhiêu người miệng thì tuyên xưng Chúa là Vua Tình Yêu, nhưng lòng lại xua đuổi Chúa?
Chính vì thế, ngay trong cộng đoàn ấy, lẽ ra phải là một cộng đoàn chan chứa yêu thương như chính Vua Kitô yêu thương mình, thì lại cũng có quá nhiều những chia rẽ, mất bình an, mất tình huynh đệ, gây gương mù, thậm chí không thiếu thù hận và nuôi lòng thù hận thay vì tha thứ!
Chúng ta cầu nguyện cho thế giới được bình an, Hội Thánh được bình an, đó là điều hợp lý.
Chúng ta cầu xin cho ngày càng có nhiều người nhìn nhận Vương quyền của Chúa Kitô, đó lại càng là trách nhiệm phải làm.
Nhưng có một điều trước tiên ta phải thực hiện, thì mình lại hay quên, đó là để cho lòng mình bình an, hòa nhã, yêu thương và chấp nhận anh chị em xung quanh. Có như thế, ta mới có thể làm chứng tá cho Vương quyền của Chúa Kitô cách hữu hiệu.
Đàng khác, nếu mỗi cá nhân có bình an, thế giới sẽ bình an. Mỗi Kitô hữu có bình an, Giáo Hội mới bình an. Người với người theo đuổi ơn bình an, người với người thật sự bình an…
Vậy từ nay, bạn và tôi hãy để Chúa Kitô làm Vua lòng mình, để với Vương quyền của Người, ta sẽ sống cùng anh chị em xung quanh như Người đã sống.
Lạy Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, ước gì mỗi người Công Giáo chúng con chịu để Chúa chi phối đời mình, và tha thiết mang Chúa trong tâm hồn mình. Nhờ thế, chúng con sẽ dễ dàng, chứ không để một trở ngại nào cản lối mình đưa Chúa đến mọi nơi trên thế giới. Nhất là đưa Chúa đến những nơi đầy thác ghềnh, chông chênh, để với tình yêu của Chúa, chúng con đủ sức mang hòa bình biếu tặng thế giới và mỗi anh chị em.
Chỉ có như thế, vũ trụ này mới xứng đáng là vũ trụ của Chúa, chúng con mới xứng là những hoàng tử, công chúa của Vua Kitô!
Dân vi qúy
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:20 22/11/2019
DÂN VI QUÝ
Chúa Nhật XXXIV TN C - Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Cl 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, Giáo Hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.
Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người, trong khi các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền “có như vậy”. Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi được dựng nên “giống hình ảnh” của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Cl 1,15). Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà Giáo Hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.
Mối tương quan “cùng-với” này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó…, khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng “người rừng” đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại…là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.
Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quãng thời gian rao giảng Tin Mừng và đích điểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cv 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Một vị minh quân đúng nghĩa là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.
Dõng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: “Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Cl 1,20).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy… (Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27). Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi “ngự trên ngai vinh hiển của Người” sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em “bé mọn” (x.Mt 25,31-46).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột.
Chúa Nhật XXXIV TN C - Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Cl 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, Giáo Hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.
Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người, trong khi các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền “có như vậy”. Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi được dựng nên “giống hình ảnh” của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Cl 1,15). Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà Giáo Hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.
Mối tương quan “cùng-với” này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó…, khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng “người rừng” đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại…là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.
Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quãng thời gian rao giảng Tin Mừng và đích điểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cv 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Một vị minh quân đúng nghĩa là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.
Dõng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: “Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Cl 1,20).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy… (Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27). Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi “ngự trên ngai vinh hiển của Người” sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em “bé mọn” (x.Mt 25,31-46).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Phanxicô gặp gỡ các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên Thái Lan
Vũ Văn An
04:52 22/11/2019
Theo Vatican News, sáng thứ Sáu, 22 tháng 11, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp và nói chuyện với các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên Thái Lan tại nhà thờ giáo xứ Thánh Phêrô ở Bangkok, và chia sẻ với họ các chỉ dẫn phải làm sao đạt được tính hữu hiệu của việc tông đồ và ý nghĩa của việc làm Kitô hữu.
Đức Giáo Hoàng bắt đầu bằng cách tỏ lòng biết ơn “với mọi người thánh hiến, những người nhờ âm thầm chịu tử đạo vì lòng trung thành và dấn thân hằng ngày, đã sinh nhiều hoa trái lớn lao”. Ngài cũng tỏ lòng biết ơn “với mọi giáo lý viên và các người thánh hiến nam nữ trọng tuổi đã lôi kéo chúng ta đến gần tình yêu và tình bạn của Chúa Giêsu Kitô”.
Hãy biết ơn
Đức Giáo Hoàng nói rằng: Lịch sử từng mỗi ơn gọi của chúng ta “được đánh dấu bởi những người từng giúp chúng ta khám phá và biện phân được ngọn lửa của Thần Khí”, đây là lý do tại sao ta cần phải biết ơn. Ngài nói tiếp “Lòng biết ơn luôn là một vũ khí mạnh mẽ. Đứng trên vai họ, ước chi chúng ta cũng cảm thấy mình được kêu gọi trở thành những người nam nữ biết giúp một tay tạo nên cuộc sống mới mà Thiên Chúa vốn ban cho chúng ta”.
Hội nhập văn hóa Tin Mừng
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi những người có mặt “mau mắn ý thức được vẻ đẹp, có được cảm thức ngạc nhiên thán phục có khả năng mở ra những chân trời mới và nêu lên những câu hỏi mới”. Ngài nói rằng đời sống tận hiến nào “không có khả năng cởi mở trước những bất ngờ chỉ là một nửa cuộc đời. Giáo hội không phát triển bằng việc cải đạo mà bằng sự lôi cuốn". Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng những lời lẽ này của Đức Bênêđíctô XVI có tính tiên tri cho thời đại chúng ta. Ngài nói thêm, “chúng ta đừng ngại tiếp tục truyền bá Tin Mừng. Chúng ta cần tìm ra những cách thức mới để truyền tải Lời Chúa, Lời vốn có khả năng huy động và đánh thức lòng mong muốn được biết Chúa”.
Nói “tiếng địa phương”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô gợi ý rằng chúng ta nên tìm các cách “nói về đức tin 'theo tiếng địa phương’, giống như một bà mẹ hát những bài hát ru con mình”. Từ đó, ngài nói, với cùng sự thân mật đó, “chúng ta hãy cho đức tin một khuôn mặt và xác thịt Thái Lan, một điều liên quan nhiều hơn các việc dịch thuật”. Chúng ta cần để cho Tin mừng “hát” bằng âm nhạc bản địa của lãnh thổ này, và “truyền cảm hứng cho trái tim anh chị em của chúng ta với cùng một vẻ đẹp khiến trái tim chúng ta rực cháy”.
Tấm gương của Đức Maria
Quay sang Đức Maria như một tấm gương của chúng ta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ánh mắt của ngài “thúc đẩy chúng ta hướng mắt về ánh mắt kia và làm bất cứ điều gì Người nói với chúng ta”. Ánh mắt của Chúa Giêsu quyến rũ bởi vì nó thâm nhập và phá vỡ các vẻ bề ngoài: Đức Giáo Hoàng nói rằng, Nơi nhiều người chỉ thấy kẻ phạm thượng, người thu thuế, kẻ bất lương hay thậm chí kẻ phản bội, thì Chúa Giêsu có thể nhìn thấy các tông đồ”.
Làm Kitô hữu có nghĩa gì
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định rằng nhiều ơn gọi đã bắt đầu bằng cách ra đi “thăm viếng những người nghèo khổ, bị bỏ rơi và cả những người bị khinh miệt, những trẻ mồ côi và người già cao tuổi”. Đức Giáo Hoàng nói, nơi khuôn mặt của những người chúng ta gặp ở đường phố, “chúng ta có thể khám phá vẻ đẹp của việc có thể đối xử với nhau như anh chị em. Chúng ta không thấy họ như những trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, bị ruồng bỏ hay bị khinh miệt. Bây giờ mỗi người trong số họ có khuôn mặt của một người anh chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Là một Kitô hữu có nghĩa như thế!”
Thấy vẻ đẹp
Đức Giáo Hoàng hỏi: “Liệu có thể hiểu sự thánh thiện mà không cần phải thừa nhận cách sống động phẩm giá của mỗi con người hay không?” Ngài thừa nhận rằng nhiều người trong số những người có mặt “đang xoay sở để thấy vẻ đẹp ở nơi những người khác chỉ nhìn thấy sự khinh miệt, bị bỏ rơi hoặc một đối tượng để thỏa mãn tình dục. Ngài nói, nhờ cách này, anh chị em là dấu hiệu cụ thể của lòng Chúa thương xót, một lòng thương xót sống động và đang hành động, một dấu xức dầu của Đấng Thánh ở lãnh thổ này”.
Trung thành cầu nguyện
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau đó nói về tầm quan trọng của cầu nguyện: ngài nói “Việc tông đồ muốn sinh hoa trái phải được duy trì bằng lòng trung thành với việc cầu nguyện sâu sắc. Bao nhiêu người trong chúng ta đã nhận được đức tin từ ông bà của chúng ta, nhờ việc nhìn thấy các ngài làm việc nhà, tràng mân côi trong tay, thánh hóa trọn ngày sống của họ. Đức Giáo Hoàng nói, đó là chiêm niệm trong hành động, làm cho Thiên Chúa trở thành một phần của những điều nhỏ nhặt mỗi ngày. Không có cầu nguyện, cuộc sống và sứ mệnh của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, sức mạnh và lòng nhiệt thành”.
Một nơi yên tĩnh
“Chìm đắm trong vô vàn trách nhiệm, chúng ta luôn có thể muốn tìm được một nơi yên tĩnh để có thể, trong lúc cầu nguyễn, nhớ rằng Chúa đã cứu thế giới và chúng ta được yêu cầu, nhờ kết hợp với Người, làm cho ơn cứu rỗi này được mọi người cảm nhận”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã kết luận bằng cách mời gọi những người có mặt nghĩ về họ như "những công cụ nhỏ bé trong bàn tay sáng tạo của Chúa. Người sẽ dùng cuộc đời của anh chị em để viết lên những trang đẹp nhất trong lịch sử cứu độ ở lãnh thổ này”.
Đức Giáo Hoàng bắt đầu bằng cách tỏ lòng biết ơn “với mọi người thánh hiến, những người nhờ âm thầm chịu tử đạo vì lòng trung thành và dấn thân hằng ngày, đã sinh nhiều hoa trái lớn lao”. Ngài cũng tỏ lòng biết ơn “với mọi giáo lý viên và các người thánh hiến nam nữ trọng tuổi đã lôi kéo chúng ta đến gần tình yêu và tình bạn của Chúa Giêsu Kitô”.
Hãy biết ơn
Đức Giáo Hoàng nói rằng: Lịch sử từng mỗi ơn gọi của chúng ta “được đánh dấu bởi những người từng giúp chúng ta khám phá và biện phân được ngọn lửa của Thần Khí”, đây là lý do tại sao ta cần phải biết ơn. Ngài nói tiếp “Lòng biết ơn luôn là một vũ khí mạnh mẽ. Đứng trên vai họ, ước chi chúng ta cũng cảm thấy mình được kêu gọi trở thành những người nam nữ biết giúp một tay tạo nên cuộc sống mới mà Thiên Chúa vốn ban cho chúng ta”.
Hội nhập văn hóa Tin Mừng
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi những người có mặt “mau mắn ý thức được vẻ đẹp, có được cảm thức ngạc nhiên thán phục có khả năng mở ra những chân trời mới và nêu lên những câu hỏi mới”. Ngài nói rằng đời sống tận hiến nào “không có khả năng cởi mở trước những bất ngờ chỉ là một nửa cuộc đời. Giáo hội không phát triển bằng việc cải đạo mà bằng sự lôi cuốn". Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng những lời lẽ này của Đức Bênêđíctô XVI có tính tiên tri cho thời đại chúng ta. Ngài nói thêm, “chúng ta đừng ngại tiếp tục truyền bá Tin Mừng. Chúng ta cần tìm ra những cách thức mới để truyền tải Lời Chúa, Lời vốn có khả năng huy động và đánh thức lòng mong muốn được biết Chúa”.
Nói “tiếng địa phương”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô gợi ý rằng chúng ta nên tìm các cách “nói về đức tin 'theo tiếng địa phương’, giống như một bà mẹ hát những bài hát ru con mình”. Từ đó, ngài nói, với cùng sự thân mật đó, “chúng ta hãy cho đức tin một khuôn mặt và xác thịt Thái Lan, một điều liên quan nhiều hơn các việc dịch thuật”. Chúng ta cần để cho Tin mừng “hát” bằng âm nhạc bản địa của lãnh thổ này, và “truyền cảm hứng cho trái tim anh chị em của chúng ta với cùng một vẻ đẹp khiến trái tim chúng ta rực cháy”.
Tấm gương của Đức Maria
Quay sang Đức Maria như một tấm gương của chúng ta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ánh mắt của ngài “thúc đẩy chúng ta hướng mắt về ánh mắt kia và làm bất cứ điều gì Người nói với chúng ta”. Ánh mắt của Chúa Giêsu quyến rũ bởi vì nó thâm nhập và phá vỡ các vẻ bề ngoài: Đức Giáo Hoàng nói rằng, Nơi nhiều người chỉ thấy kẻ phạm thượng, người thu thuế, kẻ bất lương hay thậm chí kẻ phản bội, thì Chúa Giêsu có thể nhìn thấy các tông đồ”.
Làm Kitô hữu có nghĩa gì
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định rằng nhiều ơn gọi đã bắt đầu bằng cách ra đi “thăm viếng những người nghèo khổ, bị bỏ rơi và cả những người bị khinh miệt, những trẻ mồ côi và người già cao tuổi”. Đức Giáo Hoàng nói, nơi khuôn mặt của những người chúng ta gặp ở đường phố, “chúng ta có thể khám phá vẻ đẹp của việc có thể đối xử với nhau như anh chị em. Chúng ta không thấy họ như những trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, bị ruồng bỏ hay bị khinh miệt. Bây giờ mỗi người trong số họ có khuôn mặt của một người anh chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Là một Kitô hữu có nghĩa như thế!”
Thấy vẻ đẹp
Đức Giáo Hoàng hỏi: “Liệu có thể hiểu sự thánh thiện mà không cần phải thừa nhận cách sống động phẩm giá của mỗi con người hay không?” Ngài thừa nhận rằng nhiều người trong số những người có mặt “đang xoay sở để thấy vẻ đẹp ở nơi những người khác chỉ nhìn thấy sự khinh miệt, bị bỏ rơi hoặc một đối tượng để thỏa mãn tình dục. Ngài nói, nhờ cách này, anh chị em là dấu hiệu cụ thể của lòng Chúa thương xót, một lòng thương xót sống động và đang hành động, một dấu xức dầu của Đấng Thánh ở lãnh thổ này”.
Trung thành cầu nguyện
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau đó nói về tầm quan trọng của cầu nguyện: ngài nói “Việc tông đồ muốn sinh hoa trái phải được duy trì bằng lòng trung thành với việc cầu nguyện sâu sắc. Bao nhiêu người trong chúng ta đã nhận được đức tin từ ông bà của chúng ta, nhờ việc nhìn thấy các ngài làm việc nhà, tràng mân côi trong tay, thánh hóa trọn ngày sống của họ. Đức Giáo Hoàng nói, đó là chiêm niệm trong hành động, làm cho Thiên Chúa trở thành một phần của những điều nhỏ nhặt mỗi ngày. Không có cầu nguyện, cuộc sống và sứ mệnh của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, sức mạnh và lòng nhiệt thành”.
Một nơi yên tĩnh
“Chìm đắm trong vô vàn trách nhiệm, chúng ta luôn có thể muốn tìm được một nơi yên tĩnh để có thể, trong lúc cầu nguyễn, nhớ rằng Chúa đã cứu thế giới và chúng ta được yêu cầu, nhờ kết hợp với Người, làm cho ơn cứu rỗi này được mọi người cảm nhận”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã kết luận bằng cách mời gọi những người có mặt nghĩ về họ như "những công cụ nhỏ bé trong bàn tay sáng tạo của Chúa. Người sẽ dùng cuộc đời của anh chị em để viết lên những trang đẹp nhất trong lịch sử cứu độ ở lãnh thổ này”.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Bangkok
J.B. Đặng Minh An dịch
10:26 22/11/2019
Lúc 10g sáng Thứ Sáu, 22 tháng 11, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên tại giáo xứ Thánh Phêrô
Kế đến, lúc 11g, ngài có cuộc gặp gỡ với các Giám mục Thái Lan và các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Đền thờ Chân phước Nicholas Boonkerd Kitbamrung.
Sinh hoạt tiếp theo của Đức Thánh Cha là cuộc gặp riêng với các thành viên của Dòng Tên trong một hội trường của Đền thờ này vào lúc 11g50.
Sau khi nghỉ trưa tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, ban chiều Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo các hệ phái Kitô và các tôn giáo bạn tại Đại học Chulalongkorn vào lúc 3g20.
Sinh hoạt cuối cùng trong ngày là thánh lễ với những người trẻ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào lúc 5g chiều.
Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô, Đấng đang ngự đến ! Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe mời gọi chúng ta tiến bước và nhìn về tương lai ngõ hầu gặp được điều đẹp nhất mà Người muốn trao ban cho chúng ta: đó là sự quang lâm chung cuộc của Chúa Kitô trong cuộc sống và trong thế giới của chúng ta. Chúng ta hãy chào đón Người với niềm vui và tình yêu to lớn, mà chỉ có những người trẻ mới làm được! Ngay cả trước khi đi tìm Người, chúng ta biết rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta, rằng Người đang đến gặp chúng ta và mời gọi chúng ta qua những thăng trầm của một lịch sử sẽ được xây dựng, hoạch định và tạo ra. Chúng ta hãy tiếp tục với niềm vui vì chúng ta biết rằng Người đang đợi chúng ta.
Chúa biết rằng qua các con, những người trẻ, tương lai đến với đất nước này và thế giới. Và Người trông cậy vào các con để thực hiện sứ mệnh của Người ngày hôm nay (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit, số 174). Như Chúa có kế hoạch cho dân được chọn, Người cũng có kế hoạch cho mỗi người trong các con. Chúa là người đầu tiên mơ ước có thể mời tất cả chúng ta tham dự một bàn tiệc mà Chúa và chúng ta, như một cộng đoàn, phải cùng nhau chuẩn bị: đó là bàn tiệc Thiên quốc của Người trong đó không ai có thể bị loại trừ.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về mười cô gái trẻ được mời gọi hướng nhìn về tương lai và tham dự vào bàn tiệc của Chúa. Vấn đề là một số trong họ đã không sẵn sàng để đón bữa tiệc ấy; không phải vì họ đã ngủ say, nhưng vì lượng dầu cần thiết, là nhiên liệu bên trong để giữ cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy, đã khiến họ thất bại. Họ bị thúc đẩy bởi lòng khát khao và một động lực to lớn, họ muốn đáp lại lời mời gọi, trước lời mời của Thầy, nhưng theo thời gian, họ dần trở nên buồn ngủ, sức mạnh và ao ước của họ đã cạn kiệt và họ đến muộn. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn về những gì có thể xảy ra với tất cả các Kitô hữu mà từng nơi từng lúc, với đầy nhiệt huyết, chúng ta nghe thấy tiếng gọi của Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ Vương quốc và niềm vui của Người với những người khác. Nhưng điều thường xảy ra là, khi phải đối mặt với những vấn đề và trở ngại rất nhiều và thường gặp, như tất cả mọi người trong các con đều biết rất rõ, trước sự đau khổ của những người chúng ta yêu thương hoặc trước sự bất lực trong những tình huống mà chúng ta dường như tuyệt vọng, hoang mang và cay đắng dâng lên và âm thầm thâm nhập vào giấc mơ của chúng ta, làm nguội lạnh con tim của chúng ta, làm cho chúng ta mất đi niềm vui và khiến chúng ta đến muộn.
Đó là lý do tại sao cha muốn hỏi các con: các con có muốn giữ cho ngọn lửa có khả năng thắp sáng các con giữa đêm đen và giữa chập chùng những khó khăn không? Các con có muốn chuẩn bị để đáp lại tiếng Chúa gọi không? Các con đã sẵn sàng để làm theo thánh ý Ngài không?
Làm thế nào để có được dầu giúp các con di chuyển và thúc đẩy các con tìm kiếm Chúa trong mọi tình huống ?
Các con là người thừa kế của một câu chuyện đẹp về truyền giáo đã được truyền lại cho các con như một báu vật thiêng liêng. Nhà thờ đẹp này là một nhân chứng cho đức tin vào Chúa Giêsu Kitô mà tổ tiên của các con đã thủ đắc: chính lòng trung thành sâu sắc của họ đã khiến họ làm những việc lành phúc đức, để xây dựng nên một ngôi đền khác, thậm chí còn đẹp hơn, được kiến tạo bởi những tảng đá sống động, khi đem tình yêu thương xót của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người trong thời của họ. Họ đã làm điều này bởi vì họ đã bị thuyết phục về những gì Tiên tri Hô-sê tuyên bố trong bài đọc đầu tiên ngày hôm nay: Thiên Chúa đã nói với họ một cách dịu dàng, lập với họ một hôn ước vĩnh cửu (x. Hs 2, 16,21).
Các các con thân mến, để giữ cho ngọn lửa của Chúa Thánh Thần không bị dập tắt và các con có thể giữ cho đôi mắt và con tim của mình sống động, các con phải đâm rễ sâu trong đức tin của những người lớn tuổi trong chúng ta: là cha mẹ, ông bà và các thầy giáo. Không phải vì chúng ta là những tù nhân của quá khứ, nhưng là vì chúng ta muốn học cách để can đảm ứng phó với các tình huống mới trong lịch sử. Trong cuộc đời, họ đã vượt qua nhiều thử thách và đau khổ. Nhưng trên đường đi, họ phát hiện ra rằng bí mật của một tâm hồn hạnh phúc là sự an toàn mà chúng ta tìm thấy khi chúng ta neo đậu, và bắt nguồn nơi Chúa Giêsu: từ cuộc đời của Chúa Giêsu, Lời Chúa, cái chết và sự phục sinh của Người.
“Thỉnh thoảng tôi thấy những chồi non, đẹp đẽ, luôn tìm cách vươn những nhánh cây lên trời cao giống như một bài hát hy vọng. Rồi, sau một cơn bão, tôi thấy chúng rơi xuống, vô hồn. Đó là vì chúng không có nhiều rễ. Chúng đã lan rộng các nhánh của mình nhưng không tự cắm rễ sâu trên mặt đất và chúng đã chịu thua trước thiên nhiên. Đây là lý do tại sao tôi buồn khi thấy một số người cho rằng những người trẻ tuổi xây dựng một tương lai không có gốc rễ, như thể thế giới mới là đang bắt đầu. Bởi vì không ai có thể lớn lên nếu người ấy không có rễ mạnh giúp mình đứng thẳng và bén rễ trên mặt đất. [Các bạn trẻ thân mến:] Rất dễ bị phân tán, khi một người không có nơi nào để gắn kết chính mình, không có nơi nào để định vị chính mình” (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, số 179).
Nếu không có ý thức mạnh mẽ về căn cội này, chúng ta có thể bị bối rối trước những “tiếng nói” của thế giới này đang tranh giành sự chú ý của chúng ta. Rất nhiều trong số những tiếng nói này là những đề xuất hấp dẫn, được ngụy trang, nhìn thật đẹp và sâu sắc lúc đầu, nhưng theo thời gian, cuối cùng chúng chỉ dẫn đến sự trống rỗng, cô đơn, lẻ loi và thờ ơ (xem th.d., 142), và dần dần dập tắt đi tia lửa của cuộc sống mà Chúa đã từng thắp lên trong lòng mọi người.
Các bạn trẻ thân mến, các con là một thế hệ mới, với những hy vọng mới, ước mơ mới và những câu hỏi mới; các con cũng nghi ngờ, nhưng cha mời các con tiếp tục sống niềm vui và, bắt nguồn từ Chúa Kitô, đừng ngại nhìn về tương lai một cách tự tin. Hãy bắt nguồn từ Chúa Kitô, hãy có một cái nhìn tràn đầy niềm vui và tự tin. Điều này được sinh ra từ xác tín rằng chúng ta được Chúa tìm kiếm, gặp gỡ và yêu thương vô hạn. Tình bạn được vun đắp với Chúa Giêsu Kitô là dầu cần thiết để thắp sáng con đường, con đường của các con, nhưng cũng là con đường của tất cả những người xung quanh các con: bạn bè, chòm xóm, những bạn học và đồng nghiệp, và cả con đường của những người mà các con hoàn toàn không đồng ý.
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô là Đấng đang ngự đến ! Đừng sợ tương lai và đừng để mình bị giao động. Trái lại, hãy biết rằng Chúa đang chờ đợi các con ở đó, để chuẩn bị và tham dự bàn tiệc Nước Trời.
* * *
Cuối Thánh lễ, Đức Hồng Y Kriengsak Kovitvanit, là Tổng Giám Mục Bangkok, và cũng là chủ tịch Hội đồng Giám mục Thái Lan, đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha. Ngài nói rằng những người trẻ luôn ở trong tim của vị Giáo Hoàng. Họ là hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội, và đồng thời là “thời khắc hiện tại” của Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Thái tin rằng các bạn trẻ có vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Do đó, Giáo hội dấn thân đào luyện họ trở thành những nhà lãnh đạo, cho họ tham gia vào đời sống và giúp họ phân định giữa những thách đố xã hội có ảnh hưởng đến tôn giáo.
Đức Hồng Y cũng cám ơn Đức Thánh Cha về những ngày tuyệt vời và tốt đẹp trong chuyến tông du của ngài trên đất Thái. Ngài cầu mong dịp đại phúc này sẽ biến thành hành động và cuộc sống để tạ ơn Thiên Chúa và cám ơn Đức Thánh Cha. Giáo hội Thái từ bây giờ, từng bước, ngày từng ngày, sẽ trở thành cộng đoàn chứng nhân của một nhân loại huynh đệ.
Đức Thánh Cha ngỏ lời cám ơn
Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng cảm ơn những người đã giúp cho chuyến viếng thăm của ngài có thể thực hiện được, đặc biệt những người cộng tác cách này cách khác cho việc tổ chức. Ngài cám ơn quốc vương Rama thứ 10 và chính quyền đã đón tiếp ngài nồng nhiệt. Đức Thánh Cha chân thành cám ơn các Giám mục, đặc biệt Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, Tổng Giám Mục Bangkok, các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân và đặc biệt các bạn trẻ yêu quý!
Đức Thánh Cha không quên cám ơn các tình nguyện viên đã quảng đại cộng tác cho việc tổ chức chuyến viếng thăm; và ngài cám ơn những người đã đồng hành với ngài bằng lời cầu nguyện và những hy sinh của họ, cách đặc biệt là các bệnh nhân và các tù nhân.
Đức Thánh Cha xin Chúa trả công cho mọi người và ban cho họ niềm an ủi và bình an mà chỉ có Chúa mới có thể ban. Và ngài xin họ thực hiện một điều: đó là xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Source: Libreria Editrice Vaticana
Nguyên văn bài nói chuyện của Đức Phanxicô với hàng Giám Mục Thái Lan và Á Châu
Vũ Văn An
18:37 22/11/2019
Theo tin Zenit, ngày 22 tháng 11, tại Đền Thờ Chân phúc Nicholas Bunkerd Kitbamrung, Đức Phanxicô đã gặp gỡ các Giám Mục Thái Lan và Á Châu, để nói với các ngài rằng Giáo Hội đang đối diện với nhiều thách đố nhưng gương sáng các nhà truyền giáo tiên khởi của Thái Lan và Châu Á có thể mang đến cho chúng ta niềm hy vọng và sức mạnh. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Francis Xavier Kriengsak Kovithavanij vì những lời giới thiệu và chào mừng tốt đẹp của ngài. Tôi rất vui khi được ở bên các hiền huynh và chia sẻ, dù ngắn gọn, những niềm vui và hy vọng của các hiền huynh, những dự án và ước mơ của các hiền huynh, nhưng cũng là những thách thức mà các hiền huynh phải đối mặt với tư cách là mục tử của dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa. Cảm ơn các hiền huynh vì cuộc nghinh đón huynh đệ của các hiền huynh.
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay diễn ra tại Đền thờ Chân phúc Nicholas Bunkerd Kitbamrung, người đã hiến cả cuộc đời của ngài để truyền giảng tin mừng và dạy giáo lý, đào tạo các môn đệ của Chúa, chủ yếu ở đây tại Thái Lan và cũng là một phần của Việt Nam và dọc biên giới với Lào, và đã đội triều thiên cho việc làm chứng cho Chúa Kitô của mình bằng phúc tử đạo. Chúng ta hãy đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta dưới ánh mắt quan tâm của ngài, để tấm gương của ngài truyền cảm hứng cho chúng ta với lòng nhiệt thành tuyệt vời cho công việc truyền giảng tin mừng trong mọi Giáo hội địa phương của Châu Á, để chúng ta ngày càng trở thành các môn đệ truyền giáo của Chúa, giúp Tin mừng của Người lan rộng như dầu thơm tỏa khắp lục địa vĩ đại và xinh đẹp này.
Tôi nhận ra rằng các hiền huynh đang lên kế hoạch cho Đại hội đồng Liên đoàn các Giám mục Châu Á năm 2020, một đại hội sẽ đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm thành lập. Đây là một dịp thích hợp để viếng thăm lại “những ngôi đền” đó, nơi những gốc rễ truyền giáo, vốn để lại dấu ấn của chúng trên những vùng đất này, đã được bảo tồn, một dịp để được Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo các bước chân của tình yêu ban đầu của chúng ta, và là một dịp để chào đón một cách can đảm, một cách dũng cảm, một tương lai mà chính các hiền huynh phải giúp khai triển và tạo ra. Nhờ cách này, cả Giáo hội lẫn xã hội ở Châu Á sẽ được hưởng lợi ích từ việc nối vòng tay lớn truyền giáo đổi mới và chia sẻ. Trong tình yêu với Chúa Kitô và khả năng đem người khác đến chung chia cùng một tình yêu đó.
Các hiền huynh đang sống giữa một lục địa đa văn hóa và đa tôn giáo, với vẻ đẹp và sự phong phú tuyệt vời, nhưng đồng thời cũng gặp khó khăn bởi nghèo đói và bóc lột ở nhiều bình diện khác nhau. Những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng có thể mở ra những khả thể to lớn giúp cuộc sống dễ dàng hơn nhưng có thể dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tiêu thụ và duy vật chất, nhất là nơi giới trẻ. Các hiền huynh đã tự mang vào mình các mối quan tâm của dân tộc: tai họa của ma túy và buôn bán người, chăm sóc số lượng lớn các di dân và người tị nạn, điều kiện làm việc tồi tệ và sự bóc lột nơi nhiều người lao động, cũng như sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa người giàu và người nghèo.
Giữa những căng thẳng này là người mục tử biết tranh đấu và làm môi giới với nhân dân và cho nhân dân mình. Ký ức về các nhà truyền giáo đầu tiên từng đi trước chúng ta một cách can đảm, hân hoan và sức chịu đựng phi thường có thể giúp chúng ta nắm vững tình hình và nhiệm vụ hiện tại của chúng ta từ một quan điểm có tính biến đổi rộng lớn hơn nhiều. Đầu tiên, ký ức đó giải phóng chúng ta khỏi niềm tin cho rằng thời đã qua luôn thuận lợi hoặc tốt hơn cho việc loan báo Tin Mừng. Nó cũng giúp chúng ta tránh việc núp phía sau những cuộc thảo luận vô bổ và những cách suy nghĩ cuối cùng khiến chúng ta tự quay vào chính mình, làm tê liệt bất cứ loại hành động nào. “Chúng ta hãy học hỏi từ các vị thánh đã đi trước chúng ta, những vị đã đương đầu với các khó khăn trong thời của các ngài” (Evangelii Gaudium, 263). Chúng ta hãy gạt sang một bên tất cả những thứ gì “bám chặt” vào chúng ta trên đường đi và làm chúng ta khó tiến về phía trước. Chúng ta biết rằng một số cơ cấu và não trạng giáo hội có thể cản trở các nỗ lực truyền giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả các cơ cấu tốt lành cũng chỉ hữu ích khi có một cuộc sống liên tục thúc đẩy, duy trì và đánh giá cao chúng. Cuối cùng, nếu không có cuộc sống mới và tinh thần Tin Mừng, không có lòng “trung thành của Giáo hội với ơn gọi riêng của mình, bất cứ cơ cấu mới nào cũng sẽ sớm chứng tỏ là không hữu hiệu (x. Ibid., 26) và làm ta sao lãng thừa tác vụ quan trọng là cầu nguyện và cầu bầu của chúng ta. Đôi khi điều này có thể giúp chúng ta một quan điểm khi xử lý các phương pháp năng nổ mặc dù không khôn ngoan bề ngoài có vẻ thành công đấy, nhưng cung cấp rất ít về cách sống.
Khi chúng ta suy ngẫm về sự tiến bộ truyền giáo ở những vùng đất này, một trong những bài học đầu tiên chúng ta học được là tin vào việc biết rằng chính Chúa Thánh Thần đi trước chúng ta và tập hợp chúng ta lại với nhau. Chúa Thánh Thần là người đầu tiên mời Giáo hội đi đến tất cả những nơi hình thành ra những câu chuyện và mô hình mới, đem lời của Chúa Giêsu vào tận đáy linh hồn các thành phố và nền văn hóa của chúng ta (x. Evangelii Gaudium, 74). Chúng ta đừng quên rằng Chúa Thánh Thần đến trước các nhà truyền giáo và ở lại với họ. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ và thúc đẩy các Tông đồ và vô số nhà truyền giáo không coi thường bất cứ vùng đất, con người, nền văn hóa hay tình huống nào. Họ không tìm những nơi “bảo đảm thành công”; ngược lại, “bảo đảm” của họ hệ ở việc chắc chắn rằng không ai hay nền văn hóa nào là tiên thiên không thể nhận được hạt giống của sự sống, của hạnh phúc và trên hết của tình bạn, mà Chúa muốn gieo nơi họ. Họ không mong đợi một nền văn hóa xa lạ để dễ dàng tiếp nhận Tin Mừng; đúng hơn, họ lao đầu vào những thực tại mới mẻ này, tin chắc vào vẻ đẹp mà họ là người mang theo. Mọi sự sống đều có giá trị trong tầm mắt của Thầy Chí Thánh. Họ đã táo bạo và can đảm vì họ biết rằng đầu tiên, Tin Mừng là một quà phúc để chia sẻ với mọi người: chia sẻ giữa mọi người, các luật sĩ, các tội nhân, người thu thuế, gái mãi dâm. Với và cho mọi tội nhân, lúc đó và bây giờ. Tôi thích nhận xét rằng, ngay cả trước khi sự việc cần được làm hoặc dự án cần được thực hiện, truyền giáo đòi hỏi phải trau dồi ánh mắt và khứu giác. Truyền giáo kêu gọi phải có mối quan tâm của người cha và người mẹ bởi vì con chiên chỉ bị mất khi người chăn để mặc nó bị mất, chứ không trước đó. Ba tháng trước đây, tôi có tiếp một nhà truyền giáo người Pháp tới thăm; vị này đã làm việc bốn mươi năm ở phía bắc Thái Lan, giữa các bộ lạc. Ngài đi cùng một nhóm gồm hai mươi hoặc hai mươi lăm người, tất cả đều là các bà mẹ, và ông bố, những người trẻ, không quá hai mươi lăm tuổi. Chính ngài đã rửa tội cho họ, thế hệ đầu tiên, và bây giờ ngài rửa tội cho con cái của họ. Người ta có thể nghĩ: ông đã hiến cuộc sống của ông cho năm mươi hoặc một trăm người. Nhưng đó là hạt giống, và Thiên Chúa ban cho ngài niềm an ủi được rửa tội cho con cái của những người đầu tiên ngài rửa tội. Nói một cách đơn giản, ngài cảm nghiệm những người bản địa từ phía bắc Thái Lan ấy như một nguồn của cải để truyền giảng Tin Mừng. Ngài không bỏ cuộc đối với những con chiên đó; ngài nhận họ vào trách nhiệm của ngài.
Một trong những khía cạnh tuyệt vời nhất của việc truyền giảng Tin Mừng là chúng ta nhận ra rằng sứ mạng được Giáo hội giao phó cho chúng ta không chỉ hệ ở việc loan báo Tin Mừng mà còn ở việc học cách tin vào Tin Mừng. Có bao nhiêu người - đôi khi chúng ta công bố, trong những giờ phút bị cám dỗ - công bố Tin Mừng, nhưng chúng ta không tin Tin Mừng, không để cho mình được nó nắm giữ và biến đổi. Điều này có nghĩa phải sống và bước đi trong ánh sáng của lời Chúa, lời mà chúng ta có trách nhiệm công bố. Chúng ta nên ghi nhớ lời lẽ của Thánh Phaolô VI: “Giáo Hội là một nhà truyền giảng Tin Mừng, nhưng Giáo Hội bắt đầu bằng việc tự truyền giảng Tin Mừng cho mình. Giáo Hội là cộng đồng của những người tin, cộng đồng của niềm hy vọng được sống và được truyền đạt, cộng đồng của tình yêu anh em, và Giáo Hội cần lắng nghe không ngừng những gì Giáo Hội phải tin, các lý do khiến Giáo Hội hy vọng, điều răn mới phải yêu thương” (Evangelii Nuntiandi, 15). Nhờ cách này, Giáo hội đi vào cuộc hoán cải - công bố đầy năng động đòi hỏi nơi từng môn đệ. Được Chúa thanh tẩy, Giáo Hội trở nên nhân chứng do ơn gọi. Một Giáo hội lên đường, không ngại ra đường phố và giáp mặt với cuộc sống của những người được giao phó cho mình chăm sóc, là một Giáo hội có thể mở lòng ra với Chúa một cách khiêm nhường. Với Chúa, Giáo Hội có thể cảm nghiệm sự kỳ diệu, sự lạ lùng, của cuộc phiêu lưu truyền giáo mà không cần, có ý thức hay vô thức, trước nhất tìm kiếm hoặc chiếm giữ bất cứ vị trí ưu tú nào có thể. Chúng tôi đã có thể học hỏi đến bao nhiêu từ các hiền huynh, những người chỉ là thiểu số ở nhiều quốc gia hoặc khu vực của các hiền huynh, và đôi khi bị làm ngơ hoặc bị cản trở hoặc bị bách hại, nhưng vẫn không để mình bị cuốn hút hoặc sa đọa bởi mặc cảm tự ti hoặc phàn nàn rằng các hiền huynh không được nhìn nhận thích đáng! Hãy tiến lên phía trước: hãy công bố, gieo hạt, cầu nguyện và chờ đợi. Và các hiền huynh sẽ không đánh mất niềm vui của các hiền huynh!
Các hiền huynh thân mến, “trong hợp nhất với Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm những gì Người tìm kiếm và chúng ta yêu những gì Người yêu thương” (Evangelii Gaudium, 267). Chúng ta đừng ngại biến các ưu tiên của Người thành ưu tiên của chúng ta. Các hiền huynh nhận thức rõ rằng Giáo Hội của các hiền huynh là một Giáo hội nhỏ bé về số lượng và tài nguyên, nhưng đầy nhiệt huyết và háo hức muốn trở thành khí cụ sống động cho mối quan tâm yêu thương của Chúa đối với tất cả người dân trong thị trấn và thành phố của các hiền huynh (x. Lumen Gentium, 1). Cam kết của các hiền huynh để thúc đẩy tính sinh hoa trái của Tin Mừng bằng cách công bố sơ truyền (kerygma) bằng việc làm và lời nói trong các lĩnh vực khác nhau nơi các Kitô hữu có mặt là một hình thức làm chứng nổi bật.
Một Giáo hội truyền giáo biết rằng thông điệp tốt nhất của nó là sự sẵn sàng để được biến đổi bởi lời ban sự sống, làm cho việc phục vụ trở thành dấu ấn của nó. Chúng ta không phải là những người điều khiển việc truyền giáo, và càng không phải là những người làm chủ các kế hoạch và chiến lược của chúng ta. Chúa Thánh Thần là nhân vật chủ đạo thực sự; Người thúc đẩy chúng ta, như những tội nhân đã được tha thứ; Người liên tục sai chúng ta ra đi để chia sẻ kho báu đựng trong các bình bằng đất (xem 2 Cr 4: 7). Chúng ta đã được Chúa Thánh Thần biến đổi để biến đổi bất cứ nơi nào chúng ta được đặt vào. Phúc tử đạo của cam kết hàng ngày và thường im lặng sẽ mang lại những hoa trái mà dân tộc các hiền huynh đang cần.
Điều này thúc đẩy chúng ta khai triển một nền linh đạo chuyên biệt. Mục tử là người, trước nhất, yêu thương dân mình cách sâu sắc và biết những phong cách riêng, điểm yếu và điểm mạnh của họ. Truyền giáo vừa là một niềm đam mê đối với Chúa Giêsu Kitô vừa là một niềm đam mê đối với dân tộc của mình. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu của tình yêu của Người, một tình yêu nâng cao và nâng đỡ chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng ánh mắt của Chúa Giêsu, bừng cháy yêu thương, mở rộng để ôm lấy toàn thể Dân Người (x. Evangelii Gaudium, 268).
Chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta cũng là một phần của dân này; chúng ta không phải là chủ nhân ông, chúng ta là một phần của dân; chúng ta được chọn làm người đầy tớ, không phải là chủ nhân ông hay quản trị viên. Điều này có nghĩa chúng ta phải đồng hành với những người chúng ta phục vụ một cách kiên nhẫn và nhân từ, lắng nghe họ, tôn trọng phẩm giá của họ, luôn cổ vũ và qúy giá các sáng kiến tông đồ của họ. Chúng ta đừng quên sự kiện này nhiều vùng đất của các hiền huynh đã được truyền giảng tin mừng bởi các tín hữu giáo dân.
Chúng ta đừng giáo sĩ hóa việc truyền giáo của chúng ta, xin vui lòng đừng, và càng không nên giáo sĩ hóa hàng ngũ giáo dân. Những giáo dân này đã có thể nói được thổ ngữ của dân tộc họ, một việc thực thi đơn giản và trực tiếp việc hội nhập văn hóa, không phải là lý thuyết hay ý thức hệ, mà là kết quả của lòng nhiệt thành muốn chia sẻ Chúa Kitô của họ. Dân thánh và trung thành của Thiên Chúa sở hữu việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, điều mà chúng ta được mời gọi phải nhìn nhận, quý trọng và mở rộng. Chúng ta đừng bao giờ đánh mất ân sủng biết nhìn thấy Chúa đang làm việc giữa dân của Người, như Người đã làm trong quá khứ, cũng như Người đang làm bây giờ và còn tiếp tục làm như thế mãi. Một hình ảnh xuất hiện trong đầu không có trong chương trình của chúng ta, nhưng...: cậu bé Samuel thức dậy vào ban đêm. Chúa kính trọng vị linh mục cao tuổi, có tính nết hơi yếu đuối, Người để cụ tiếp tục nhiệm vụ, nhưng Người không nói chuyện với cụ. Người nói chuyện với một cậu bé, một người trong dân.
Một cách đặc biệt, tôi khuyến khích chư huynh luôn mở rộng cửa cho các linh mục của chư huynh. Cánh cửa và trái tim. Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng người hàng xóm gần nhất của giám mục là linh mục. Hãy gần gũi với các linh mục của chư huynh, lắng nghe họ và tìm cách đồng hành với họ trong mọi tình huống, nhất là khi chư huynh thấy họ nản lòng hoặc tờ ơ, vốn là điều tồi tệ nhất trong những cám dỗ của ma quỷ. Sự thờ ơ, tuyệt vọng. Hãy làm như vậy không phải với tư cách phán quan mà như những người cha, không như những quản trị viên triển khai họ, mà như những người anh em lớn tuổi thực thụ. Hãy tạo bầu không khí tin cậy để đối thoại trung thực, đối thoại cởi mở; hãy tìm kiếm và cầu xin ân sủng để tỏ bầy cùng một lòng kiên nhẫn với họ mà Chúa, người có lòng kiên nhẫn rất lớn, đã tỏ bầy với mỗi chúng ta, và đó là mộtviệc tuyệt vời, rất tuyệt vời.
Các chư huynh thân mến, tôi biết rằng có nhiều vấn đề chư huynh phải đối diện trong cộng đồng của chư huynh, cả hàng ngày lẫn khi chư huynh nhìn về tương lai. Xin cho chúng ta không bao giờ quên sự kiện này trong một tương lai thường không chắc chắn đó, chính Chúa là Đấng sẽ tới mang theo sức mạnh phục sinh để biến mọi vết thương thành một suối nguồn sự sống. Chúng ta hãy nhìn về tương lai với sự tin chắc rằng chúng ta không cô đơn, chúng ta không hành trình một mình; Chúa ở đó, chờ đợi chúng ta và mời gọi chúng ta nhận ra Người trên hết trong việc bẻ bánh.
Chúng ta hãy xin sự bầu cử của Chân phước Nicholas và của tất cả các vị thánh truyền giáo, để dân chúng ta có thể được đổi mới với cùng một sự xức dầu đó.
Vì sự hiện diện của nhiều Giám mục từ Châu Á, tôi mượn cơ hội này để mở rộng phước lành và tình âu yếm của tôi đến tất cả các cộng đồng của chư huynh và, một cách đặc biệt, đến người bệnh và tất cả những ai đang gặp khó khăn. Cầu xin Chúa ban phước, chăm sóc và luôn đồng hành cùng anh chị em. Và chư huynh, xin Người nắm tay chư huynh; và xin chư huynh để cho mình được Chúa nắm tay, và đừng tìm kiếm những bàn tay khác.
Và xin vui lòng, đừng quên cầu nguyện cho tôi và yêu cầu các cộng đồng của chư huynh cũng làm như vậy, vì mọi điều tôi nói với chư huynh, tôi cũng cần nói với chính mình.
Cảm ơn chư huynh ơn nhiều.
Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Francis Xavier Kriengsak Kovithavanij vì những lời giới thiệu và chào mừng tốt đẹp của ngài. Tôi rất vui khi được ở bên các hiền huynh và chia sẻ, dù ngắn gọn, những niềm vui và hy vọng của các hiền huynh, những dự án và ước mơ của các hiền huynh, nhưng cũng là những thách thức mà các hiền huynh phải đối mặt với tư cách là mục tử của dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa. Cảm ơn các hiền huynh vì cuộc nghinh đón huynh đệ của các hiền huynh.
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay diễn ra tại Đền thờ Chân phúc Nicholas Bunkerd Kitbamrung, người đã hiến cả cuộc đời của ngài để truyền giảng tin mừng và dạy giáo lý, đào tạo các môn đệ của Chúa, chủ yếu ở đây tại Thái Lan và cũng là một phần của Việt Nam và dọc biên giới với Lào, và đã đội triều thiên cho việc làm chứng cho Chúa Kitô của mình bằng phúc tử đạo. Chúng ta hãy đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta dưới ánh mắt quan tâm của ngài, để tấm gương của ngài truyền cảm hứng cho chúng ta với lòng nhiệt thành tuyệt vời cho công việc truyền giảng tin mừng trong mọi Giáo hội địa phương của Châu Á, để chúng ta ngày càng trở thành các môn đệ truyền giáo của Chúa, giúp Tin mừng của Người lan rộng như dầu thơm tỏa khắp lục địa vĩ đại và xinh đẹp này.
Tôi nhận ra rằng các hiền huynh đang lên kế hoạch cho Đại hội đồng Liên đoàn các Giám mục Châu Á năm 2020, một đại hội sẽ đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm thành lập. Đây là một dịp thích hợp để viếng thăm lại “những ngôi đền” đó, nơi những gốc rễ truyền giáo, vốn để lại dấu ấn của chúng trên những vùng đất này, đã được bảo tồn, một dịp để được Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo các bước chân của tình yêu ban đầu của chúng ta, và là một dịp để chào đón một cách can đảm, một cách dũng cảm, một tương lai mà chính các hiền huynh phải giúp khai triển và tạo ra. Nhờ cách này, cả Giáo hội lẫn xã hội ở Châu Á sẽ được hưởng lợi ích từ việc nối vòng tay lớn truyền giáo đổi mới và chia sẻ. Trong tình yêu với Chúa Kitô và khả năng đem người khác đến chung chia cùng một tình yêu đó.
Các hiền huynh đang sống giữa một lục địa đa văn hóa và đa tôn giáo, với vẻ đẹp và sự phong phú tuyệt vời, nhưng đồng thời cũng gặp khó khăn bởi nghèo đói và bóc lột ở nhiều bình diện khác nhau. Những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng có thể mở ra những khả thể to lớn giúp cuộc sống dễ dàng hơn nhưng có thể dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tiêu thụ và duy vật chất, nhất là nơi giới trẻ. Các hiền huynh đã tự mang vào mình các mối quan tâm của dân tộc: tai họa của ma túy và buôn bán người, chăm sóc số lượng lớn các di dân và người tị nạn, điều kiện làm việc tồi tệ và sự bóc lột nơi nhiều người lao động, cũng như sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa người giàu và người nghèo.
Giữa những căng thẳng này là người mục tử biết tranh đấu và làm môi giới với nhân dân và cho nhân dân mình. Ký ức về các nhà truyền giáo đầu tiên từng đi trước chúng ta một cách can đảm, hân hoan và sức chịu đựng phi thường có thể giúp chúng ta nắm vững tình hình và nhiệm vụ hiện tại của chúng ta từ một quan điểm có tính biến đổi rộng lớn hơn nhiều. Đầu tiên, ký ức đó giải phóng chúng ta khỏi niềm tin cho rằng thời đã qua luôn thuận lợi hoặc tốt hơn cho việc loan báo Tin Mừng. Nó cũng giúp chúng ta tránh việc núp phía sau những cuộc thảo luận vô bổ và những cách suy nghĩ cuối cùng khiến chúng ta tự quay vào chính mình, làm tê liệt bất cứ loại hành động nào. “Chúng ta hãy học hỏi từ các vị thánh đã đi trước chúng ta, những vị đã đương đầu với các khó khăn trong thời của các ngài” (Evangelii Gaudium, 263). Chúng ta hãy gạt sang một bên tất cả những thứ gì “bám chặt” vào chúng ta trên đường đi và làm chúng ta khó tiến về phía trước. Chúng ta biết rằng một số cơ cấu và não trạng giáo hội có thể cản trở các nỗ lực truyền giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả các cơ cấu tốt lành cũng chỉ hữu ích khi có một cuộc sống liên tục thúc đẩy, duy trì và đánh giá cao chúng. Cuối cùng, nếu không có cuộc sống mới và tinh thần Tin Mừng, không có lòng “trung thành của Giáo hội với ơn gọi riêng của mình, bất cứ cơ cấu mới nào cũng sẽ sớm chứng tỏ là không hữu hiệu (x. Ibid., 26) và làm ta sao lãng thừa tác vụ quan trọng là cầu nguyện và cầu bầu của chúng ta. Đôi khi điều này có thể giúp chúng ta một quan điểm khi xử lý các phương pháp năng nổ mặc dù không khôn ngoan bề ngoài có vẻ thành công đấy, nhưng cung cấp rất ít về cách sống.
Khi chúng ta suy ngẫm về sự tiến bộ truyền giáo ở những vùng đất này, một trong những bài học đầu tiên chúng ta học được là tin vào việc biết rằng chính Chúa Thánh Thần đi trước chúng ta và tập hợp chúng ta lại với nhau. Chúa Thánh Thần là người đầu tiên mời Giáo hội đi đến tất cả những nơi hình thành ra những câu chuyện và mô hình mới, đem lời của Chúa Giêsu vào tận đáy linh hồn các thành phố và nền văn hóa của chúng ta (x. Evangelii Gaudium, 74). Chúng ta đừng quên rằng Chúa Thánh Thần đến trước các nhà truyền giáo và ở lại với họ. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ và thúc đẩy các Tông đồ và vô số nhà truyền giáo không coi thường bất cứ vùng đất, con người, nền văn hóa hay tình huống nào. Họ không tìm những nơi “bảo đảm thành công”; ngược lại, “bảo đảm” của họ hệ ở việc chắc chắn rằng không ai hay nền văn hóa nào là tiên thiên không thể nhận được hạt giống của sự sống, của hạnh phúc và trên hết của tình bạn, mà Chúa muốn gieo nơi họ. Họ không mong đợi một nền văn hóa xa lạ để dễ dàng tiếp nhận Tin Mừng; đúng hơn, họ lao đầu vào những thực tại mới mẻ này, tin chắc vào vẻ đẹp mà họ là người mang theo. Mọi sự sống đều có giá trị trong tầm mắt của Thầy Chí Thánh. Họ đã táo bạo và can đảm vì họ biết rằng đầu tiên, Tin Mừng là một quà phúc để chia sẻ với mọi người: chia sẻ giữa mọi người, các luật sĩ, các tội nhân, người thu thuế, gái mãi dâm. Với và cho mọi tội nhân, lúc đó và bây giờ. Tôi thích nhận xét rằng, ngay cả trước khi sự việc cần được làm hoặc dự án cần được thực hiện, truyền giáo đòi hỏi phải trau dồi ánh mắt và khứu giác. Truyền giáo kêu gọi phải có mối quan tâm của người cha và người mẹ bởi vì con chiên chỉ bị mất khi người chăn để mặc nó bị mất, chứ không trước đó. Ba tháng trước đây, tôi có tiếp một nhà truyền giáo người Pháp tới thăm; vị này đã làm việc bốn mươi năm ở phía bắc Thái Lan, giữa các bộ lạc. Ngài đi cùng một nhóm gồm hai mươi hoặc hai mươi lăm người, tất cả đều là các bà mẹ, và ông bố, những người trẻ, không quá hai mươi lăm tuổi. Chính ngài đã rửa tội cho họ, thế hệ đầu tiên, và bây giờ ngài rửa tội cho con cái của họ. Người ta có thể nghĩ: ông đã hiến cuộc sống của ông cho năm mươi hoặc một trăm người. Nhưng đó là hạt giống, và Thiên Chúa ban cho ngài niềm an ủi được rửa tội cho con cái của những người đầu tiên ngài rửa tội. Nói một cách đơn giản, ngài cảm nghiệm những người bản địa từ phía bắc Thái Lan ấy như một nguồn của cải để truyền giảng Tin Mừng. Ngài không bỏ cuộc đối với những con chiên đó; ngài nhận họ vào trách nhiệm của ngài.
Một trong những khía cạnh tuyệt vời nhất của việc truyền giảng Tin Mừng là chúng ta nhận ra rằng sứ mạng được Giáo hội giao phó cho chúng ta không chỉ hệ ở việc loan báo Tin Mừng mà còn ở việc học cách tin vào Tin Mừng. Có bao nhiêu người - đôi khi chúng ta công bố, trong những giờ phút bị cám dỗ - công bố Tin Mừng, nhưng chúng ta không tin Tin Mừng, không để cho mình được nó nắm giữ và biến đổi. Điều này có nghĩa phải sống và bước đi trong ánh sáng của lời Chúa, lời mà chúng ta có trách nhiệm công bố. Chúng ta nên ghi nhớ lời lẽ của Thánh Phaolô VI: “Giáo Hội là một nhà truyền giảng Tin Mừng, nhưng Giáo Hội bắt đầu bằng việc tự truyền giảng Tin Mừng cho mình. Giáo Hội là cộng đồng của những người tin, cộng đồng của niềm hy vọng được sống và được truyền đạt, cộng đồng của tình yêu anh em, và Giáo Hội cần lắng nghe không ngừng những gì Giáo Hội phải tin, các lý do khiến Giáo Hội hy vọng, điều răn mới phải yêu thương” (Evangelii Nuntiandi, 15). Nhờ cách này, Giáo hội đi vào cuộc hoán cải - công bố đầy năng động đòi hỏi nơi từng môn đệ. Được Chúa thanh tẩy, Giáo Hội trở nên nhân chứng do ơn gọi. Một Giáo hội lên đường, không ngại ra đường phố và giáp mặt với cuộc sống của những người được giao phó cho mình chăm sóc, là một Giáo hội có thể mở lòng ra với Chúa một cách khiêm nhường. Với Chúa, Giáo Hội có thể cảm nghiệm sự kỳ diệu, sự lạ lùng, của cuộc phiêu lưu truyền giáo mà không cần, có ý thức hay vô thức, trước nhất tìm kiếm hoặc chiếm giữ bất cứ vị trí ưu tú nào có thể. Chúng tôi đã có thể học hỏi đến bao nhiêu từ các hiền huynh, những người chỉ là thiểu số ở nhiều quốc gia hoặc khu vực của các hiền huynh, và đôi khi bị làm ngơ hoặc bị cản trở hoặc bị bách hại, nhưng vẫn không để mình bị cuốn hút hoặc sa đọa bởi mặc cảm tự ti hoặc phàn nàn rằng các hiền huynh không được nhìn nhận thích đáng! Hãy tiến lên phía trước: hãy công bố, gieo hạt, cầu nguyện và chờ đợi. Và các hiền huynh sẽ không đánh mất niềm vui của các hiền huynh!
Các hiền huynh thân mến, “trong hợp nhất với Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm những gì Người tìm kiếm và chúng ta yêu những gì Người yêu thương” (Evangelii Gaudium, 267). Chúng ta đừng ngại biến các ưu tiên của Người thành ưu tiên của chúng ta. Các hiền huynh nhận thức rõ rằng Giáo Hội của các hiền huynh là một Giáo hội nhỏ bé về số lượng và tài nguyên, nhưng đầy nhiệt huyết và háo hức muốn trở thành khí cụ sống động cho mối quan tâm yêu thương của Chúa đối với tất cả người dân trong thị trấn và thành phố của các hiền huynh (x. Lumen Gentium, 1). Cam kết của các hiền huynh để thúc đẩy tính sinh hoa trái của Tin Mừng bằng cách công bố sơ truyền (kerygma) bằng việc làm và lời nói trong các lĩnh vực khác nhau nơi các Kitô hữu có mặt là một hình thức làm chứng nổi bật.
Một Giáo hội truyền giáo biết rằng thông điệp tốt nhất của nó là sự sẵn sàng để được biến đổi bởi lời ban sự sống, làm cho việc phục vụ trở thành dấu ấn của nó. Chúng ta không phải là những người điều khiển việc truyền giáo, và càng không phải là những người làm chủ các kế hoạch và chiến lược của chúng ta. Chúa Thánh Thần là nhân vật chủ đạo thực sự; Người thúc đẩy chúng ta, như những tội nhân đã được tha thứ; Người liên tục sai chúng ta ra đi để chia sẻ kho báu đựng trong các bình bằng đất (xem 2 Cr 4: 7). Chúng ta đã được Chúa Thánh Thần biến đổi để biến đổi bất cứ nơi nào chúng ta được đặt vào. Phúc tử đạo của cam kết hàng ngày và thường im lặng sẽ mang lại những hoa trái mà dân tộc các hiền huynh đang cần.
Điều này thúc đẩy chúng ta khai triển một nền linh đạo chuyên biệt. Mục tử là người, trước nhất, yêu thương dân mình cách sâu sắc và biết những phong cách riêng, điểm yếu và điểm mạnh của họ. Truyền giáo vừa là một niềm đam mê đối với Chúa Giêsu Kitô vừa là một niềm đam mê đối với dân tộc của mình. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu của tình yêu của Người, một tình yêu nâng cao và nâng đỡ chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng ánh mắt của Chúa Giêsu, bừng cháy yêu thương, mở rộng để ôm lấy toàn thể Dân Người (x. Evangelii Gaudium, 268).
Chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta cũng là một phần của dân này; chúng ta không phải là chủ nhân ông, chúng ta là một phần của dân; chúng ta được chọn làm người đầy tớ, không phải là chủ nhân ông hay quản trị viên. Điều này có nghĩa chúng ta phải đồng hành với những người chúng ta phục vụ một cách kiên nhẫn và nhân từ, lắng nghe họ, tôn trọng phẩm giá của họ, luôn cổ vũ và qúy giá các sáng kiến tông đồ của họ. Chúng ta đừng quên sự kiện này nhiều vùng đất của các hiền huynh đã được truyền giảng tin mừng bởi các tín hữu giáo dân.
Chúng ta đừng giáo sĩ hóa việc truyền giáo của chúng ta, xin vui lòng đừng, và càng không nên giáo sĩ hóa hàng ngũ giáo dân. Những giáo dân này đã có thể nói được thổ ngữ của dân tộc họ, một việc thực thi đơn giản và trực tiếp việc hội nhập văn hóa, không phải là lý thuyết hay ý thức hệ, mà là kết quả của lòng nhiệt thành muốn chia sẻ Chúa Kitô của họ. Dân thánh và trung thành của Thiên Chúa sở hữu việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, điều mà chúng ta được mời gọi phải nhìn nhận, quý trọng và mở rộng. Chúng ta đừng bao giờ đánh mất ân sủng biết nhìn thấy Chúa đang làm việc giữa dân của Người, như Người đã làm trong quá khứ, cũng như Người đang làm bây giờ và còn tiếp tục làm như thế mãi. Một hình ảnh xuất hiện trong đầu không có trong chương trình của chúng ta, nhưng...: cậu bé Samuel thức dậy vào ban đêm. Chúa kính trọng vị linh mục cao tuổi, có tính nết hơi yếu đuối, Người để cụ tiếp tục nhiệm vụ, nhưng Người không nói chuyện với cụ. Người nói chuyện với một cậu bé, một người trong dân.
Một cách đặc biệt, tôi khuyến khích chư huynh luôn mở rộng cửa cho các linh mục của chư huynh. Cánh cửa và trái tim. Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng người hàng xóm gần nhất của giám mục là linh mục. Hãy gần gũi với các linh mục của chư huynh, lắng nghe họ và tìm cách đồng hành với họ trong mọi tình huống, nhất là khi chư huynh thấy họ nản lòng hoặc tờ ơ, vốn là điều tồi tệ nhất trong những cám dỗ của ma quỷ. Sự thờ ơ, tuyệt vọng. Hãy làm như vậy không phải với tư cách phán quan mà như những người cha, không như những quản trị viên triển khai họ, mà như những người anh em lớn tuổi thực thụ. Hãy tạo bầu không khí tin cậy để đối thoại trung thực, đối thoại cởi mở; hãy tìm kiếm và cầu xin ân sủng để tỏ bầy cùng một lòng kiên nhẫn với họ mà Chúa, người có lòng kiên nhẫn rất lớn, đã tỏ bầy với mỗi chúng ta, và đó là mộtviệc tuyệt vời, rất tuyệt vời.
Các chư huynh thân mến, tôi biết rằng có nhiều vấn đề chư huynh phải đối diện trong cộng đồng của chư huynh, cả hàng ngày lẫn khi chư huynh nhìn về tương lai. Xin cho chúng ta không bao giờ quên sự kiện này trong một tương lai thường không chắc chắn đó, chính Chúa là Đấng sẽ tới mang theo sức mạnh phục sinh để biến mọi vết thương thành một suối nguồn sự sống. Chúng ta hãy nhìn về tương lai với sự tin chắc rằng chúng ta không cô đơn, chúng ta không hành trình một mình; Chúa ở đó, chờ đợi chúng ta và mời gọi chúng ta nhận ra Người trên hết trong việc bẻ bánh.
Chúng ta hãy xin sự bầu cử của Chân phước Nicholas và của tất cả các vị thánh truyền giáo, để dân chúng ta có thể được đổi mới với cùng một sự xức dầu đó.
Vì sự hiện diện của nhiều Giám mục từ Châu Á, tôi mượn cơ hội này để mở rộng phước lành và tình âu yếm của tôi đến tất cả các cộng đồng của chư huynh và, một cách đặc biệt, đến người bệnh và tất cả những ai đang gặp khó khăn. Cầu xin Chúa ban phước, chăm sóc và luôn đồng hành cùng anh chị em. Và chư huynh, xin Người nắm tay chư huynh; và xin chư huynh để cho mình được Chúa nắm tay, và đừng tìm kiếm những bàn tay khác.
Và xin vui lòng, đừng quên cầu nguyện cho tôi và yêu cầu các cộng đồng của chư huynh cũng làm như vậy, vì mọi điều tôi nói với chư huynh, tôi cũng cần nói với chính mình.
Cảm ơn chư huynh ơn nhiều.
Hội Đồng Giám Mục Nhật Bản công bố bài hát chủ đề trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Nhật Bản.
Ánh Tuyết
21:35 22/11/2019
Hội Đồng Giám Mục Nhật Bản đã công bố bài hát chủ đề “Bảo vệ mọi cuộc sống” trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Nhật Bản.
Lời bài hát dịch ra tiếng Việt như sau:
Vượt trên tất cả những nẻo đường ngang dọc của chúng ta
Điều đáng kể là chúng ta có thể để lại điều gì cho tương lai?
Nếu có ai đó đau khổ, liệu chúng ta có giúp đỡ và ủi an
Hãy để tiếng kêu của bạn vang lên cho một phép lạ mang chúng ta lại với nhau và làm cho tất cả mọi tiếng nói được lắng nghe.
Tất cả chúng ta đều phải tiến bước trên một con đường chông gai và cô đơn khi đối mặt với những thử thách bất tận trên đường đời.
Ngay cả khi thất bại đã gần kề, một ánh sáng sẽ luôn soi lối dẫn đường
Trong cuộc sống này, lời cầu nguyện của tôi được cất lên cho các bạn. Những bàn tay đan chặt vào nhau sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn.
Chúng ta bảo vệ mọi sự sống
Chúng ta bảo vệ mọi sự sống
Bảo vệ thế giới này vì chúng ta là một.
Bảo vệ mọi sự sống với sức mạnh của tình yêu
Lời bài hát dịch ra tiếng Việt như sau:
Vượt trên tất cả những nẻo đường ngang dọc của chúng ta
Điều đáng kể là chúng ta có thể để lại điều gì cho tương lai?
Nếu có ai đó đau khổ, liệu chúng ta có giúp đỡ và ủi an
Hãy để tiếng kêu của bạn vang lên cho một phép lạ mang chúng ta lại với nhau và làm cho tất cả mọi tiếng nói được lắng nghe.
Tất cả chúng ta đều phải tiến bước trên một con đường chông gai và cô đơn khi đối mặt với những thử thách bất tận trên đường đời.
Ngay cả khi thất bại đã gần kề, một ánh sáng sẽ luôn soi lối dẫn đường
Trong cuộc sống này, lời cầu nguyện của tôi được cất lên cho các bạn. Những bàn tay đan chặt vào nhau sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn.
Chúng ta bảo vệ mọi sự sống
Chúng ta bảo vệ mọi sự sống
Bảo vệ thế giới này vì chúng ta là một.
Bảo vệ mọi sự sống với sức mạnh của tình yêu
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ truyền chứ Phó Tế tại giáo phận Ban Mê Thuột
Vũ Đình Bình
09:35 22/11/2019
Kết thúc Tuần Tĩnh Tâm Linh Mục Giáo phận Ban Mê Thuột, vào lúc 08g00 sáng thứ Sáu ngày 22.11.2019, tại Nhà thờ Chính Tòa, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận, long trọng cử hành Thánh lễ truyền chức Phó tế cho 11 tiến chức. Đồng tế với ngài, có Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước -Giám mục Giáo phận Phú Cường, Quý Cha Đại chủng viện Sao Biển Nha Trang, cùng toàn thể Linh mục trong Giáo phận Ban Mê Thuột.
Xem Hình
Về hiện diện tham dự Thánh lễ, hiệp thông, chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tiến chức trong ngày đặc biệt này, có quý Tu sĩ nam nữ, các thân nhân, ân nhân của các tiến chức và đông đảo cộng đoàn dân Chúa.
Đúng 8g00, trong tiếng kèn rộn vang, trong tiếng ca thanh thoát, 11 tiến chức và đoàn đồng tế tiến lên lễ đài, cùng với Đức Giám Mục long trọng cử hành Thánh lễ.
Khởi đầu, Đức Giám Mục giới thiệu với cộng đoàn về Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước, Giám mục Giáo phận Phú Cường. Ngài đã nhận lời mời hướng dẫn thiêng liêng cho các linh mục trong Tuần Tĩnh Tâm vừa qua và hôm nay cũng đồng tế trong Thánh lễ trọng đại này. Đức Cha Vinh Sơn bày tỏ niềm vui khi gia đình Giáo Phận Ban Mê Thuột hân hoan tiếp nhận 11 chủng sinh lãnh nhận chức phó tế, gia nhập hàng giáo sĩ của Giáo phận, trở nên khí cụ và những thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo vùng Tây Nguyên này. Đức Cha cũng mời gọi cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho các tiến chức được xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa và nhất là có đủ nghị lực siêu nhiên để chu toàn bổn phận Chúa giao phó.
Sau phần Phụng vụ Lời Chúa, Cha Giuse Nguyễn Quang Diệu -Chánh văn phòng Tòa Giám mục- xướng tên và mời các tiến chức tiến lên lễ đài trước Giám mục và cộng đoàn. Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu -Tổng Đại diện- kính trình lên Đức Giám Mục Giáo phận lời khẩn nguyện phong chức phó tế cho các tiến chức.
Danh sách 11 tiến chức, gồm 10 chủng sinh khóa XII thuộc Đại Chủng viện Sao Biển, Nha Trang và 1 chủng sinh tu học tại Đại Chủng viện Thánh Giá ở Roma:
Tên Thánh - Họ và Tên Giáo Xứ Thực Tập Mục Vụ
- Phêrô LÊ MINH ANH Châu Sơn Quảng Nhiêu
- Phaolô NGUYỄN QUANG HẢI Thánh Tâm Nhơn Hòa
- Giuse NGUYỄN VĂN HIẾU Tân Hưng Phúc Thành
- Phaolô NGUYỄN TÙNG LÂM Châu Sơn Kon H'ring
- GB. HỒ ANH PHI Nhơn Hòa Phước Vĩnh
- Gioan NGUYỄN HOÀNG TÂM Phước Bình Đức Hạnh (Đăk Mil)
- Phêrô VƯƠNG ĐÌNH THẮNG Vinh Hòa Đăk Nhau
- Ambrôsiô TRẦN ĐỨC TRẠNG Châu Sơn Thiên Phước
- Giuse NGUYỄN VĂN TRIỀU Đăk Nhau Kim Mai
- Phaolô NGUYỄN VĂN YẾN Vinh Đức Giang Sơn
- Giuse VŨ VĂN TIỆP Bù Đăng Vinh Đức
Sau khi Đức Giám Mục thẩm vấn các tiến chức về đời sống đức tin, tinh thần phục vụ, luật sống độc thân, và lời hứa vâng phục, cộng đoàn phụng vụ cùng sốt sắng cầu xin Chúa gia tăng ơn thiêng trên các tôi tớ Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn lên chức phó tế qua Kinh cầu các thánh.
Các tiến chức bày tỏ lòng kính trọng và vâng phục Đức Giám Mục
Các tiến chức phủ phục khẩn cầu các thánh trợ lực giúp sức
Trong nghi thức phong chức phó tế, Đức Giám Mục long trọng đọc lời nguyện phong chức “Lạy Cha, chúng con nài xin Cha đoái thương nhìn đến các tôi tớ cha đây mà chúng con khiêm tốn phong lên chức vụ phó tế, để họ phục vụ bàn thánh Cha. Chúng con xin Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các thầy, để nhờ Người, các thầy được bảy ơn Cha thêm sức, sẽ trung thành thi hành thừa tác phục vụ.”
Hai nghi thức diễn nghĩa (trao Phúc Âm và hôn chúc bình an) được tiến hành tiếp theo, đề cao sứ vụ phục vụ Lời Chúa và Bàn Thánh của các thầy Phó Tế với lời căn dặn của Hội Thánh: “Con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng; và con hãy biết là phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con rao giảng.”
Hai tân Phó tế tiến lên bàn thờ cùng với Đức Giám Mục chuẩn bị lễ vật và hiệp dâng Thánh lễ. Phần Phụng vụ Thánh Thể tiếp diễn trang trọng, sốt sắng.
Cuối lễ, 11 tân chức dâng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, cảm tạ Đức Giám Mục Giáo phận, Đức Cha Giuse, Cha Tổng Đại diện, Quý Cha giáo Chủng viện Lê Bảo Tịnh, Đại chủng viện Sao Biển, Quý Cha Quản xứ, Quý Cha đồng tế, Quý Ân nhân, thân nhân, đặc biệt là Cha Mẹ -những người đã sinh thành dưỡng dục và toàn thể cộng đoàn dân Chúa. (Mời nghe Bài cảm ơn)
Trước khi ban phép lành trọng thể kết thúc Thánh lễ, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận, ngỏ ý mời Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước có đôi lời với cộng đoàn dân Chúa Giáo phận Ban Mê Thuột.
Đức Cha Giuse chúc mừng, chia vui với Đức Giám Mục và cộng đoàn Giáo phận Ban Mê Thuột vì những thành quả tốt đẹp hồng ân Chúa ban. Ngài cũng chúc mừng 11 tân phó tế trong ngày hồng phúc được đón nhận chức thánh. Cầu chúc các Thầy tiếp tục sống xứng đáng là quà tặng Chúa ban cho con người, và trở nên lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cách tốt đẹp.
Qua Thánh lễ truyền chức hôm nay, giáo phận Ban Mê Thuột có thêm những thợ gặt tràn đầy nhiệt huyết và hăng say trong cánh đồng truyền giáo của Giáo hội. Chúng ta tiếp tục dâng lời cầu nguyện cho các Tân Chức luôn trung thành phục vụ, trở nên chứng nhân Tin Mừng cho muôn người, để xứng đáng tiến tới thánh chức linh mục trong tương lai.
Xem Hình
Về hiện diện tham dự Thánh lễ, hiệp thông, chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tiến chức trong ngày đặc biệt này, có quý Tu sĩ nam nữ, các thân nhân, ân nhân của các tiến chức và đông đảo cộng đoàn dân Chúa.
Đúng 8g00, trong tiếng kèn rộn vang, trong tiếng ca thanh thoát, 11 tiến chức và đoàn đồng tế tiến lên lễ đài, cùng với Đức Giám Mục long trọng cử hành Thánh lễ.
Sau phần Phụng vụ Lời Chúa, Cha Giuse Nguyễn Quang Diệu -Chánh văn phòng Tòa Giám mục- xướng tên và mời các tiến chức tiến lên lễ đài trước Giám mục và cộng đoàn. Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu -Tổng Đại diện- kính trình lên Đức Giám Mục Giáo phận lời khẩn nguyện phong chức phó tế cho các tiến chức.
Danh sách 11 tiến chức, gồm 10 chủng sinh khóa XII thuộc Đại Chủng viện Sao Biển, Nha Trang và 1 chủng sinh tu học tại Đại Chủng viện Thánh Giá ở Roma:
Tên Thánh - Họ và Tên Giáo Xứ Thực Tập Mục Vụ
- Phêrô LÊ MINH ANH Châu Sơn Quảng Nhiêu
- Phaolô NGUYỄN QUANG HẢI Thánh Tâm Nhơn Hòa
- Giuse NGUYỄN VĂN HIẾU Tân Hưng Phúc Thành
- Phaolô NGUYỄN TÙNG LÂM Châu Sơn Kon H'ring
- GB. HỒ ANH PHI Nhơn Hòa Phước Vĩnh
- Gioan NGUYỄN HOÀNG TÂM Phước Bình Đức Hạnh (Đăk Mil)
- Phêrô VƯƠNG ĐÌNH THẮNG Vinh Hòa Đăk Nhau
- Ambrôsiô TRẦN ĐỨC TRẠNG Châu Sơn Thiên Phước
- Giuse NGUYỄN VĂN TRIỀU Đăk Nhau Kim Mai
- Phaolô NGUYỄN VĂN YẾN Vinh Đức Giang Sơn
- Giuse VŨ VĂN TIỆP Bù Đăng Vinh Đức
Sau khi Đức Giám Mục thẩm vấn các tiến chức về đời sống đức tin, tinh thần phục vụ, luật sống độc thân, và lời hứa vâng phục, cộng đoàn phụng vụ cùng sốt sắng cầu xin Chúa gia tăng ơn thiêng trên các tôi tớ Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn lên chức phó tế qua Kinh cầu các thánh.
Các tiến chức bày tỏ lòng kính trọng và vâng phục Đức Giám Mục
Các tiến chức phủ phục khẩn cầu các thánh trợ lực giúp sức
Trong nghi thức phong chức phó tế, Đức Giám Mục long trọng đọc lời nguyện phong chức “Lạy Cha, chúng con nài xin Cha đoái thương nhìn đến các tôi tớ cha đây mà chúng con khiêm tốn phong lên chức vụ phó tế, để họ phục vụ bàn thánh Cha. Chúng con xin Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các thầy, để nhờ Người, các thầy được bảy ơn Cha thêm sức, sẽ trung thành thi hành thừa tác phục vụ.”
Hai nghi thức diễn nghĩa (trao Phúc Âm và hôn chúc bình an) được tiến hành tiếp theo, đề cao sứ vụ phục vụ Lời Chúa và Bàn Thánh của các thầy Phó Tế với lời căn dặn của Hội Thánh: “Con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng; và con hãy biết là phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con rao giảng.”
Hai tân Phó tế tiến lên bàn thờ cùng với Đức Giám Mục chuẩn bị lễ vật và hiệp dâng Thánh lễ. Phần Phụng vụ Thánh Thể tiếp diễn trang trọng, sốt sắng.
Cuối lễ, 11 tân chức dâng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, cảm tạ Đức Giám Mục Giáo phận, Đức Cha Giuse, Cha Tổng Đại diện, Quý Cha giáo Chủng viện Lê Bảo Tịnh, Đại chủng viện Sao Biển, Quý Cha Quản xứ, Quý Cha đồng tế, Quý Ân nhân, thân nhân, đặc biệt là Cha Mẹ -những người đã sinh thành dưỡng dục và toàn thể cộng đoàn dân Chúa. (Mời nghe Bài cảm ơn)
Trước khi ban phép lành trọng thể kết thúc Thánh lễ, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận, ngỏ ý mời Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước có đôi lời với cộng đoàn dân Chúa Giáo phận Ban Mê Thuột.
Đức Cha Giuse chúc mừng, chia vui với Đức Giám Mục và cộng đoàn Giáo phận Ban Mê Thuột vì những thành quả tốt đẹp hồng ân Chúa ban. Ngài cũng chúc mừng 11 tân phó tế trong ngày hồng phúc được đón nhận chức thánh. Cầu chúc các Thầy tiếp tục sống xứng đáng là quà tặng Chúa ban cho con người, và trở nên lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cách tốt đẹp.
Qua Thánh lễ truyền chức hôm nay, giáo phận Ban Mê Thuột có thêm những thợ gặt tràn đầy nhiệt huyết và hăng say trong cánh đồng truyền giáo của Giáo hội. Chúng ta tiếp tục dâng lời cầu nguyện cho các Tân Chức luôn trung thành phục vụ, trở nên chứng nhân Tin Mừng cho muôn người, để xứng đáng tiến tới thánh chức linh mục trong tương lai.
Thấy Đức Giáo Hoàng, giáo dân Việt khóc nức trên khán đài ở Thái Lan
BBC
09:55 22/11/2019
Thấy Đức Giáo Hoàng, giáo dân Việt khóc nức trên khán đài ở Thái Lan
Áo dài Việt Nam phủ kín khán đài sân vận động quốc gia tại Bangkok trong Thánh Lễ 21/11
Trong Thánh Lễ tối 21/11 do Giáo Hoàng Francis làm chủ tế, giáo dân Công Giáo Việt gần chiếm trọn một sân vận động.
Mặc dù không có con số chính thức từ ban tổ chức, nhưng bóng áo dài Việt Nam phủ kín gần hết các khán đài của sân vận động Thephasadin, một trong hai sân vận động chính tại Bangkok nơi diễn ra Thánh Lễ do Giáo Hoàng Francis cử hành tối 21/11.
Xem Hình
Thephasadin là sân phụ, nhỏ hơn, dành riêng cho giáo dân nước ngoài. Suphachalasai là sân chính, dành riêng cho giáo dân Thái - theo thông tin ban đầu từ ban tổ chức.
Theo ghi nhận của Phóng viên BBC News Tiếng Việt tại sân Thephasadin, bóng áo dài và áo đồng phục của các đoàn từ Việt Nam phủ gần kín các khán đài. Chỉ có một số lượng nhỏ người tham dự đến từ Myanmar cùng một số nước khác.
Giáo Hoàng Francis cử hành Thánh Lễ trong khoảng 1 tiếng, bắt đầu từ 18:00 tối 21/11, nhưng từ 12:00 sân vận động đã mở cửa cho các tín đồ và báo chí, với nhiều hoạt động ca múa, âm nhạc, chủ yếu phát đi trên các màn hình lớn.
Riêng sân Suphachalasai được thiết kế thêm thảm đỏ hình thánh giá ở chính giữa sân dẫn tới bục là nơi Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ.
Không khí như sôi lên khi chiếc xe màu trắng chở Giáo Hoàng Francis tiến vào sân vận động. Các tín đồ hò reo, vẫy cờ, nhiều người cầu nguyện và rơi nước mắt.
Anh Trần Hữu làm việc ở Thái Lan đã 10 năm, vừa về VN đón vợ con sang Bangkok để gặp Giáo Hoàng
Xúc động vì được nhìn thấy Giáo Hoàng khi xe của Ngài đi qua sân vận động, bà Phạm Thị Thúy, giáo dân Hải Phòng, rơi nước mắt nói với BBC rằng đây là lần đầu trong đời chị được nhìn thấy Đức Thánh Cha. "Tôi không thể nói nên lời... Mong một lần Đức Thánh Cha tới Việt Nam," bà Thúy nghẹn ngào.
Bà Nguyễn Thị Đãi, quê Ninh Bình, địa phận Phát Diệm nói với BBC Tiếng Việt rằng từ nhỏ tới nay chưa từng được nhìn thấy ngài trực tiếp, nên bà sang Thái để thực hiện ý nguyện này, vừa là để đi du lịch.
"Đức Giáo Hoàng là vị tối cao, là Đức Thánh Cha chung của người Công Giáo, tôi thật sự rất cảm kích. Đây là lần đầu tôi đến Thái Lan. Tôi đã phải chuẩn bị hơn một tháng nay cho sự kiện này."
Cùng đến từ địa phận Phát Diệm, bà Đà Nguyễn nói với tôi bà làm kinh doanh ở Việt Nam và đã cố gắng thu xếp công việc trong vài tháng trước để qua Thái Lan gặp Giáo Hoàng.
"Toàn bộ có 64 số xe chở giáo dân Việt Nam. Chúng tôi được chính phủ và người Thái chào đón rất nồng hậu, được an ở, đi lại trong điều kiện thuận lợi. Tham dự Thánh Lễ, chúng tôi mang theo các nét đẹp truyền thống của Việt Nam như áo dài, nón lá," bà nói.
Cả bà Đãi và bà Nguyễn đều mong Giáo Hoàng sang Việt Nam để những giáo dân khác có dịp diện kiến Ngài. Cả hai đều mặc áo dài đỏ, và nói may mắn vì nằm trong số 40 giáo dân ở Ninh Bình được tới Thái Lan dịp này.
Trong khi đó, điều đặc biệt với giáo dân Trần Thị Môn, đến từ nhà thờ Vinh Sơn, Giáo hạt Chí Hòa, Sài Gòn, là đây là lần thứ hai bà được trực tiếp nhìn thấy Giáo Hoàng.
"Kỳ Giáo Hoàng sang đi Myanmar năm 2017 tôi đã sang đó một lần để gặp Ngài. Đợt này Ngài đến Thái Lan, tôi nghe được chuyến đi vậy thì lòng nôn nao lắm, gia đình tôi có tổng cộng 10 người đi. Giáo Hoàng sang Thái Lan là vinh dự cho Thái Lan, mong Ngài đến thăm Việt Nam."
Anh Trần Hữu, giáo xứ Tân Lâm, giáo hạt Văn Hạnh, Hà Tĩnh thì cho BBC hay rằng anh làm ở Thái Lan 10 năm và vừa bay về Việt Nam đưa vợ sang Thái gặp Giáo hoàng.
Vợ anh, chị Trần Thị Liên nói chị đã lê kế hoạch sắp xếp công việc gần một tháng để đi gặp Thánh Cha. Bế con nhỏ trên tay, anh Hữu nói: "Nếu Đức Giáo Hoàng sang Việt Nam thì Ngài đi đâu gia đình tôi sẽ đến đó."
Chiều 22/11, Giáo Hoàng Francis tiếp tục cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ thuộc trường trung học Công Giáo Assumption, nơi có sự tham gia của khoảng 7000 bạn trẻ, trong đó có nhiều bạn trẻ đến từ các giáo phận tại Việt Nam.
Khi chiếc xe chở Đức Giáo Hoàng lướt qua, hàng ngàn bạn trẻ hò reo, chìa tay ra mong được chạm vào Ngài. Trong đó, Phạm Đức Hương Tuyền, 14 tuổi, không ngờ cô là một trong số hiếm hoi được Giáo Hoàng bắt tay.
Nhảy lên vì vui mừng và xúc động, Tuyền nói với BBC rằng cô là người Lào gốc Việt. Cô sang Thái Lan cùng các bạn Lào để mong gặp Đức Giáo Hoàng.
Phạm Đức Hương Tuyền, 14 tuổi, cầu nguyện trong xúc động sau khi là một trong những người hiếm hoi được Giáo Hoàng bắt tay
"Tôi không thể nào tin được. Hiện giờ tôi vẫn còn run rẩy. Được Giáo Hoàng bắt tay là niềm động viên lớn, là ơn phước với tôi. Sau này dù có gặp khó khăn gì thì tôi sẽ nhớ tới giây phút này để bước tiếp," Tuyền nói.
Hòa vào không khí náo nhiệt cùng khoảng 7000 bạn trẻ Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Đinh Thị Thu Huyền, 22 tuổi, từ Thanh Hóa, Nguyễn Cao Định, 25 tuổi, giáo phận Sài Gòn, Võ Hoàng Duy, 23 tuổi, giáo phận Mỹ Tho, cho hay họ là ba trong số ít ỏi 40 bạn trẻ trong đoàn từ Việt Nam tham dự sự kiện này và "không dấu nổi tự hào, hạnh phúc".
Nguyễn Cao Định nói với BBC rằng "Đức Giáo Hoàng là vị Chủ chăn đứng đầu hội thánh, là động lực lớn để tôi tiếp tục dấn thân và tiếp tục có nhiều hoạt động cho giáo phận của mình."
Hôm trước, khi phát biểu tại Thái Lan, Đức Giáo Hoàng Francis đã nhắc đến 39 nạn nhân Việt Nam chết ở Anh trong thông điệp gửi giới trẻ Công Giáo Việt Nam.
Ngài kết thúc bài phát biểu với lời nhắn gửi:
"Trước khi kết thúc, cha muốn cùng với các con, dâng lên Chúa, Cha giàu lòng thương xót, 39 nạn nhân Việt Nam di cư đã qua đời tại Anh trong tháng vừa qua. Thật rất đau lòng. Tất cả chúng ta cầu nguyện cho họ."
Sinh năm 1936 ở Argentina, và có tên khai sinh là Jorge Mario Bergoglio, ngài là vị giáo hoàng thứ 266 của Công Giáo La Mã, lên ngôi từ 2013.
Áo dài Việt Nam phủ kín khán đài sân vận động quốc gia tại Bangkok trong Thánh Lễ 21/11
Trong Thánh Lễ tối 21/11 do Giáo Hoàng Francis làm chủ tế, giáo dân Công Giáo Việt gần chiếm trọn một sân vận động.
Mặc dù không có con số chính thức từ ban tổ chức, nhưng bóng áo dài Việt Nam phủ kín gần hết các khán đài của sân vận động Thephasadin, một trong hai sân vận động chính tại Bangkok nơi diễn ra Thánh Lễ do Giáo Hoàng Francis cử hành tối 21/11.
Xem Hình
Thephasadin là sân phụ, nhỏ hơn, dành riêng cho giáo dân nước ngoài. Suphachalasai là sân chính, dành riêng cho giáo dân Thái - theo thông tin ban đầu từ ban tổ chức.
Theo ghi nhận của Phóng viên BBC News Tiếng Việt tại sân Thephasadin, bóng áo dài và áo đồng phục của các đoàn từ Việt Nam phủ gần kín các khán đài. Chỉ có một số lượng nhỏ người tham dự đến từ Myanmar cùng một số nước khác.
Giáo Hoàng Francis cử hành Thánh Lễ trong khoảng 1 tiếng, bắt đầu từ 18:00 tối 21/11, nhưng từ 12:00 sân vận động đã mở cửa cho các tín đồ và báo chí, với nhiều hoạt động ca múa, âm nhạc, chủ yếu phát đi trên các màn hình lớn.
Riêng sân Suphachalasai được thiết kế thêm thảm đỏ hình thánh giá ở chính giữa sân dẫn tới bục là nơi Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ.
Không khí như sôi lên khi chiếc xe màu trắng chở Giáo Hoàng Francis tiến vào sân vận động. Các tín đồ hò reo, vẫy cờ, nhiều người cầu nguyện và rơi nước mắt.
Anh Trần Hữu làm việc ở Thái Lan đã 10 năm, vừa về VN đón vợ con sang Bangkok để gặp Giáo Hoàng
Xúc động vì được nhìn thấy Giáo Hoàng khi xe của Ngài đi qua sân vận động, bà Phạm Thị Thúy, giáo dân Hải Phòng, rơi nước mắt nói với BBC rằng đây là lần đầu trong đời chị được nhìn thấy Đức Thánh Cha. "Tôi không thể nói nên lời... Mong một lần Đức Thánh Cha tới Việt Nam," bà Thúy nghẹn ngào.
Bà Nguyễn Thị Đãi, quê Ninh Bình, địa phận Phát Diệm nói với BBC Tiếng Việt rằng từ nhỏ tới nay chưa từng được nhìn thấy ngài trực tiếp, nên bà sang Thái để thực hiện ý nguyện này, vừa là để đi du lịch.
"Đức Giáo Hoàng là vị tối cao, là Đức Thánh Cha chung của người Công Giáo, tôi thật sự rất cảm kích. Đây là lần đầu tôi đến Thái Lan. Tôi đã phải chuẩn bị hơn một tháng nay cho sự kiện này."
Cùng đến từ địa phận Phát Diệm, bà Đà Nguyễn nói với tôi bà làm kinh doanh ở Việt Nam và đã cố gắng thu xếp công việc trong vài tháng trước để qua Thái Lan gặp Giáo Hoàng.
"Toàn bộ có 64 số xe chở giáo dân Việt Nam. Chúng tôi được chính phủ và người Thái chào đón rất nồng hậu, được an ở, đi lại trong điều kiện thuận lợi. Tham dự Thánh Lễ, chúng tôi mang theo các nét đẹp truyền thống của Việt Nam như áo dài, nón lá," bà nói.
Cả bà Đãi và bà Nguyễn đều mong Giáo Hoàng sang Việt Nam để những giáo dân khác có dịp diện kiến Ngài. Cả hai đều mặc áo dài đỏ, và nói may mắn vì nằm trong số 40 giáo dân ở Ninh Bình được tới Thái Lan dịp này.
Trong khi đó, điều đặc biệt với giáo dân Trần Thị Môn, đến từ nhà thờ Vinh Sơn, Giáo hạt Chí Hòa, Sài Gòn, là đây là lần thứ hai bà được trực tiếp nhìn thấy Giáo Hoàng.
"Kỳ Giáo Hoàng sang đi Myanmar năm 2017 tôi đã sang đó một lần để gặp Ngài. Đợt này Ngài đến Thái Lan, tôi nghe được chuyến đi vậy thì lòng nôn nao lắm, gia đình tôi có tổng cộng 10 người đi. Giáo Hoàng sang Thái Lan là vinh dự cho Thái Lan, mong Ngài đến thăm Việt Nam."
Anh Trần Hữu, giáo xứ Tân Lâm, giáo hạt Văn Hạnh, Hà Tĩnh thì cho BBC hay rằng anh làm ở Thái Lan 10 năm và vừa bay về Việt Nam đưa vợ sang Thái gặp Giáo hoàng.
Vợ anh, chị Trần Thị Liên nói chị đã lê kế hoạch sắp xếp công việc gần một tháng để đi gặp Thánh Cha. Bế con nhỏ trên tay, anh Hữu nói: "Nếu Đức Giáo Hoàng sang Việt Nam thì Ngài đi đâu gia đình tôi sẽ đến đó."
Chiều 22/11, Giáo Hoàng Francis tiếp tục cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ thuộc trường trung học Công Giáo Assumption, nơi có sự tham gia của khoảng 7000 bạn trẻ, trong đó có nhiều bạn trẻ đến từ các giáo phận tại Việt Nam.
Khi chiếc xe chở Đức Giáo Hoàng lướt qua, hàng ngàn bạn trẻ hò reo, chìa tay ra mong được chạm vào Ngài. Trong đó, Phạm Đức Hương Tuyền, 14 tuổi, không ngờ cô là một trong số hiếm hoi được Giáo Hoàng bắt tay.
Nhảy lên vì vui mừng và xúc động, Tuyền nói với BBC rằng cô là người Lào gốc Việt. Cô sang Thái Lan cùng các bạn Lào để mong gặp Đức Giáo Hoàng.
Phạm Đức Hương Tuyền 14 tuổi được ĐGH bắt tay |
"Tôi không thể nào tin được. Hiện giờ tôi vẫn còn run rẩy. Được Giáo Hoàng bắt tay là niềm động viên lớn, là ơn phước với tôi. Sau này dù có gặp khó khăn gì thì tôi sẽ nhớ tới giây phút này để bước tiếp," Tuyền nói.
Hòa vào không khí náo nhiệt cùng khoảng 7000 bạn trẻ Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Đinh Thị Thu Huyền, 22 tuổi, từ Thanh Hóa, Nguyễn Cao Định, 25 tuổi, giáo phận Sài Gòn, Võ Hoàng Duy, 23 tuổi, giáo phận Mỹ Tho, cho hay họ là ba trong số ít ỏi 40 bạn trẻ trong đoàn từ Việt Nam tham dự sự kiện này và "không dấu nổi tự hào, hạnh phúc".
Nguyễn Cao Định nói với BBC rằng "Đức Giáo Hoàng là vị Chủ chăn đứng đầu hội thánh, là động lực lớn để tôi tiếp tục dấn thân và tiếp tục có nhiều hoạt động cho giáo phận của mình."
Hôm trước, khi phát biểu tại Thái Lan, Đức Giáo Hoàng Francis đã nhắc đến 39 nạn nhân Việt Nam chết ở Anh trong thông điệp gửi giới trẻ Công Giáo Việt Nam.
Ngài kết thúc bài phát biểu với lời nhắn gửi:
"Trước khi kết thúc, cha muốn cùng với các con, dâng lên Chúa, Cha giàu lòng thương xót, 39 nạn nhân Việt Nam di cư đã qua đời tại Anh trong tháng vừa qua. Thật rất đau lòng. Tất cả chúng ta cầu nguyện cho họ."
Sinh năm 1936 ở Argentina, và có tên khai sinh là Jorge Mario Bergoglio, ngài là vị giáo hoàng thứ 266 của Công Giáo La Mã, lên ngôi từ 2013.
Dư âm và chuyện bên lề của đoàn hành hương VN đón ĐGH tại Thái Lan
Maria Vũ Loan
23:22 22/11/2019
Sau ngày 21/11/2019, hầu như các đoàn hành hương người Việt Nam đều rời Thái Lan để về Việt Nam hoặc một số rất ít tiếp tục sang nhật Bản để tham dự một hành trình tiếp theo cùng Đức Thánh Cha. Xin được ghi nhận lại dư âm của chuyến đi và những chuyện bên lề trong hành trình tại Thái Lan rất thú vị này.
Xem Hình
Đã nhiều lần chúng tôi xem hình ảnh hoặc theo dõi trực tiếp các Đức Giáo Hoàng tông du, nhưng hôm nay, chúng tôi được là “người trong đám đông” vẫy cờ chào đón vị cha chung của Giáo Hội toàn cầu. Thế nên, vào buổi chiều ngày 21 tháng 11, đoàn chúng tôi cũng như nhiều đoàn của quốc gia khác đi đến khu vực sân vận động quốc gia tại Bangkok. Thật là vui khi đường phố tấp nập những bước chân với những sắc màu khác nhau.
Kìa là đoàn Ấn Độ áo khoác màu nâu, tiếp theo là đoàn các nữ tu mang tu phục như Mẹ Teresa Calcutta, các nữ tu mặc trang phục Thái ở Chiang Mai, Bắc Thái Lan, một số ít bạn trẻ mang đồng phục Trung Quốc. Những nữ nhân viên y tế đến làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe. Những giáo dân người Thái đến rất sớm đang che dù, ngồi bên cánh trái sân vận động “phụ” (gọi là sân vận động “phụ” vì ở bên cạnh sân vận động chính, có màn hình để bốn phía để các giáo dân theo dõi trực tiếp); đông nhất vẫn là đoàn Việt Nam, nổi bật với đồng phục áo dài, nón lá và bảng tên. Các linh mục Việt Nam trước khi được vào sân vận động chính cũng vui vẻ chụp hình. Sân vận động chính dành cho cộng đồng dân Chúa Thái Lan và linh mục, tu sĩ các nơi đến tham dự. Các nữ tu Mến Thánh Giá ban đầu ngồi ở khán đài giáo dân, sau đó được sang sân vận động chính; các chị có vẻ khiêm tốn, vô tư “ngồi đâu cũng được!”. Cờ để ở góc sân sẽ được phát cho người tham dự để vẫy cháo đón Đức Thánh Cha.
18g00 Đức Thánh Cha mới hiệp dâng thánh lễ nhưng từ 14g00 đến 17g00 người tham dự đã dần phủ kín chỗ ngồi với cái nắng chói chang. Cũng phải nao lòng quí mến khi nhân viên an ninh Thái đi rảo quanh sân, có cả chó nghiệp vụ, trong số họ có người phải đứng tại chỗ khá lâu trước khi thay ca. Thẻ vào sân vận động rất đẹp, khâu kiểm tra chặt chẽ mà nhẹ nhàng. Mọi người trật tự theo dõi chương trình có nội dung phong phú trước thánh lễ.
Ai cũng háo hức, tất cả đều dồn vào lòng mến vị đại diện Chúa Kitô nơi trần gian, cho đến khi thời khắc xe Đức Giáo Hoàng đi vòng quanh sân với tiếng reo hò, cờ phất cao thì tâm trạng mọi người khó diễn tả. Chúng tôi chỉ chụp hình Ngài được một tấm hình duy nhất. Chúng tôi nhìn rõ nước da trắng, phảng phất một chút xanh nhạt với vài đốm đồi mồi trên khuôn mặt vị cha chung có số tuổi cao và lịch làm việc dày đặc; và hẳn là sức chịu đựng của Ngài đáng khâm phục. Chị em chúng tôi, một người tuổi trên 60 và một người dưới 60 cảm thấy đuối sức với hành trình này, thì càng ngưỡng mộ Đức Thánh Cha, chúng tôi còn cảm thông với các vị Hồng Y, giám mục và những người có trọng trách trong Giáo Hội, phải có tinh thần trách nhiệm cao và lòng mến trọn vẹn mới có thể chu toàn nhiệm vụ.
Một chị trong đoàn đuối sức, nằm phía sau lưng chúng tôi thế mà nhân viên y tế cũng phát hiện và đem xe lăn đến tận nơi, đưa vào phòng lạnh y tế, tiếp nước, một lát sau thì tỉnh lại; có chín người trong đoàn Việt Nam bị như thế. Chu đáo là vậy, nhưng cũng có một vài thiếu sót khi đường phố Thái Lan quá nhiều xe hơi, người tham dự quá đông. Một linh mục trong nhóm chúng tôi là cha Nguyễn Văn Triết, giáo phận Vĩnh Long, tuổi đã 72, đã bị “lạc nhóm” lúc ra về khiến cho ba hướng dẫn viên trong đoàn chúng tôi chạy tìm, thở hổn hển, trong khi cả xe phải chờ gần một giờ đồng hồ. Thế mà trên máy bay lúc về, chúng tôi phỏng vấn nhẹ, cha vẫn vui vẻ cho biết: “Tôi rất hạnh phúc vì được đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha và hiểu biết về đất nước Thái Lan trong chuyến đi này”. Còn cha Lê Trọng Bình, Dòng Thừa Sai Việt Nam, tuy “gian khổ” ngồi chờ đợi cha bị lạc nhóm nhưng vẫn mang hết bánh lại kẹo ra ăn vô tư, hát hò suốt chuyến đi, thế mới buồi cười và vui!
Về đến khách sạn gần là 22g30, bữa tối nhà hàng chuẩn bị rất ngon nhưng ai cũng chỉ ăn một chút rồi làm dấu thánh giá cuối bữa, nhanh chân đi lên phòng. Chúng tôi cũng không phàn nàn gì vì suốt chuyến đi toàn hát và nói chuyện “tếu táo”, cười giòn tan, cầu nguyện trên xe “vừa mức” nên cũng dễ chịu!
Sáng ngày cuối cùng tại Thái Lan, chúng tôi được mua sắm, ăn uống trong siêu thị, mua hành miễn thuế và choáng ngợp trước hàng hóa, cửa hàng trưng bày đẹp tại trung tâm thương mại trong sân bay Suvarnabhumi của Bangkok, miền trung Thái Lan.
Về đến Sài Gòn, đoàn hành hương Việt Nam chia tay nhau vẻ luyến tiếc, xúc động. Làm sao có thể nói hết, kể hết những gì đọng lại trong lòng chúng tôi khi được nhìn thấy Đức Thánh Cha bằng xương bằng thịt và thở chung một bầu khí với Ngài trong một niềm tin yêu sống mãi với Đức Giêsu Kitô.
Maria Vũ Loan
Xem Hình
Đã nhiều lần chúng tôi xem hình ảnh hoặc theo dõi trực tiếp các Đức Giáo Hoàng tông du, nhưng hôm nay, chúng tôi được là “người trong đám đông” vẫy cờ chào đón vị cha chung của Giáo Hội toàn cầu. Thế nên, vào buổi chiều ngày 21 tháng 11, đoàn chúng tôi cũng như nhiều đoàn của quốc gia khác đi đến khu vực sân vận động quốc gia tại Bangkok. Thật là vui khi đường phố tấp nập những bước chân với những sắc màu khác nhau.
18g00 Đức Thánh Cha mới hiệp dâng thánh lễ nhưng từ 14g00 đến 17g00 người tham dự đã dần phủ kín chỗ ngồi với cái nắng chói chang. Cũng phải nao lòng quí mến khi nhân viên an ninh Thái đi rảo quanh sân, có cả chó nghiệp vụ, trong số họ có người phải đứng tại chỗ khá lâu trước khi thay ca. Thẻ vào sân vận động rất đẹp, khâu kiểm tra chặt chẽ mà nhẹ nhàng. Mọi người trật tự theo dõi chương trình có nội dung phong phú trước thánh lễ.
Ai cũng háo hức, tất cả đều dồn vào lòng mến vị đại diện Chúa Kitô nơi trần gian, cho đến khi thời khắc xe Đức Giáo Hoàng đi vòng quanh sân với tiếng reo hò, cờ phất cao thì tâm trạng mọi người khó diễn tả. Chúng tôi chỉ chụp hình Ngài được một tấm hình duy nhất. Chúng tôi nhìn rõ nước da trắng, phảng phất một chút xanh nhạt với vài đốm đồi mồi trên khuôn mặt vị cha chung có số tuổi cao và lịch làm việc dày đặc; và hẳn là sức chịu đựng của Ngài đáng khâm phục. Chị em chúng tôi, một người tuổi trên 60 và một người dưới 60 cảm thấy đuối sức với hành trình này, thì càng ngưỡng mộ Đức Thánh Cha, chúng tôi còn cảm thông với các vị Hồng Y, giám mục và những người có trọng trách trong Giáo Hội, phải có tinh thần trách nhiệm cao và lòng mến trọn vẹn mới có thể chu toàn nhiệm vụ.
Một chị trong đoàn đuối sức, nằm phía sau lưng chúng tôi thế mà nhân viên y tế cũng phát hiện và đem xe lăn đến tận nơi, đưa vào phòng lạnh y tế, tiếp nước, một lát sau thì tỉnh lại; có chín người trong đoàn Việt Nam bị như thế. Chu đáo là vậy, nhưng cũng có một vài thiếu sót khi đường phố Thái Lan quá nhiều xe hơi, người tham dự quá đông. Một linh mục trong nhóm chúng tôi là cha Nguyễn Văn Triết, giáo phận Vĩnh Long, tuổi đã 72, đã bị “lạc nhóm” lúc ra về khiến cho ba hướng dẫn viên trong đoàn chúng tôi chạy tìm, thở hổn hển, trong khi cả xe phải chờ gần một giờ đồng hồ. Thế mà trên máy bay lúc về, chúng tôi phỏng vấn nhẹ, cha vẫn vui vẻ cho biết: “Tôi rất hạnh phúc vì được đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha và hiểu biết về đất nước Thái Lan trong chuyến đi này”. Còn cha Lê Trọng Bình, Dòng Thừa Sai Việt Nam, tuy “gian khổ” ngồi chờ đợi cha bị lạc nhóm nhưng vẫn mang hết bánh lại kẹo ra ăn vô tư, hát hò suốt chuyến đi, thế mới buồi cười và vui!
Về đến khách sạn gần là 22g30, bữa tối nhà hàng chuẩn bị rất ngon nhưng ai cũng chỉ ăn một chút rồi làm dấu thánh giá cuối bữa, nhanh chân đi lên phòng. Chúng tôi cũng không phàn nàn gì vì suốt chuyến đi toàn hát và nói chuyện “tếu táo”, cười giòn tan, cầu nguyện trên xe “vừa mức” nên cũng dễ chịu!
Sáng ngày cuối cùng tại Thái Lan, chúng tôi được mua sắm, ăn uống trong siêu thị, mua hành miễn thuế và choáng ngợp trước hàng hóa, cửa hàng trưng bày đẹp tại trung tâm thương mại trong sân bay Suvarnabhumi của Bangkok, miền trung Thái Lan.
Về đến Sài Gòn, đoàn hành hương Việt Nam chia tay nhau vẻ luyến tiếc, xúc động. Làm sao có thể nói hết, kể hết những gì đọng lại trong lòng chúng tôi khi được nhìn thấy Đức Thánh Cha bằng xương bằng thịt và thở chung một bầu khí với Ngài trong một niềm tin yêu sống mãi với Đức Giêsu Kitô.
Maria Vũ Loan
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giesu Nazareth Vua Dân Do Thái
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
10:44 22/11/2019
„ Giesu Nazareth Vua Dân Do Thái“.( Ga 19, 19)
Đây là tấm bảng Tổng trấn Pilatus đã cho viết đóng gắn trên đầu thập giá Chúa Giêsu năm xưa cách đây hai ngàn năm ở đồi Golgotha ngoại thành Jerusalem., nơi cây thập giá đó Chúa Giesu bị lên án đóng đinh vào cho tới chết.
Như vậy đó là bản án sỉ nhục cho người bị hình phạt lên án, hay là một cung cách danh xưng tước hiệu cho Chúa Giêsu?
Tổng trấn Pilatus đã vì áp lực của đám đông dân chúng và các Thầy cả để Chúa Giesu bị lên án chịu hình phạt đóng đinh vào thập gía ( Ga 19, 4-16). Nhưng để phần nào nói lên có lẽ là điều Pilatus suy nghĩ dằn vặt về Chúa Giêsu. Nên ông đã cho viết bảng đó vừa là cách nói lên bản án xử người này chỉ vì thế, và cũng vừa là cung cách nói lên niềm tin tưởng của mình về Chúa Giêsu là Vua: „ Ta viết sao, cứ để vậy!“ ( Ga 19, 22 ).
Đâu là những biểu hiệu của một vị Vua?
Xưa nay nói đến vị Vua, người ta nghĩ đến sự sang trọng lộng lẫy, uy quyền sức mạnh cao cả gần như vô đối.
Hình ảnh một vị Vua đi đâu thường cỡi ngựa hay xe có những đoàn ngựa kéo xe mạ vàng.
Vua đi đâu có đoàn quân lính đông đảo dẫn đầu cùng đi sau bảo vệ. Vua nước nào càng có nhiều quân lính, vị đó càng có nhiều sức mạnh uy quyền, có cờ quạt đội quân nhạc thổi vang trời tung hô vạn tuế, cùng được dân chúng đứng vẫy cờ đón chào.
Vua ở trong cung điện to lớn nguy nga lộng lẫy, có ghế ngai vàng qúi giá cùng đoàn người phục dịch.
Quần áo nhà vua mặc cũng là những hàng tơ lụa qúi kim thêu dệt lộng lẫy sang trọng, mà dân gian gọi là cẩm bào., cùng có triều thiên vương miện trên đầu và trên tay còn có gậy chỉ huy nói lên uy quyền của vua.
Còn Vua Giêsu thì như thế nào?
Vua Giêsu của con người thì không như thế. Vua Giêsu không có uy quyền sức mạnh trị vì vô đối, như một vị vua trần gian xưa nay.
Vua Giêsu không có những đoàn kỵ binh lính, không xe ngựa. Trái lại Ngài cỡi con lừa còn non vào thành Jerusalem, ngài không có vương miện triều thiên . Vì Vua Giêsu không muốn biểu dương sức mạnh uy quyền, nhưng muốn là một người bạn gần gũi với con người.
Vua Giesu không có cây gậy chỉ huy quyền lực trên tay. Ngài không muốn truyền ra mệnh lệnh cho ai. Nhưng nói chuyện vui vẻ tình thân ái với con người. Ngài lắng nghe nhu cầu của con người.
Vua Giêsu cũng không có quần áo cẩm bào gấm vóc sang trọng, không có nhà cửa cung điện. Những gì Ngài có, Ngài cùng chia sẻ với mọi người, cùng đồng bàn ăn uống với mọi người. Ngài muốn trở thành một người như mọi người.
Vua Giêsu không ngồi trên ngai cao sang trị vì, nhưng tập họp sống giữa dân chúng, như trên núi Tám mối phúc thật ngày xưa, và để cho mọi người cảm nhận được tình yêu thương của ngài lan tỏa ra cho con người.
Chúng ta, những người tin theo Chúa Giêsu Kitô, chân nhận Chúa Giêsu là Vua không theo cung cách mộy vị vua trị vì với quyền hành sức mạnh, nhưng tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Vua của tình yêu thương, của ơn cứu chuộc cho phần rỗi linh hồn con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đây là tấm bảng Tổng trấn Pilatus đã cho viết đóng gắn trên đầu thập giá Chúa Giêsu năm xưa cách đây hai ngàn năm ở đồi Golgotha ngoại thành Jerusalem., nơi cây thập giá đó Chúa Giesu bị lên án đóng đinh vào cho tới chết.
Như vậy đó là bản án sỉ nhục cho người bị hình phạt lên án, hay là một cung cách danh xưng tước hiệu cho Chúa Giêsu?
Tổng trấn Pilatus đã vì áp lực của đám đông dân chúng và các Thầy cả để Chúa Giesu bị lên án chịu hình phạt đóng đinh vào thập gía ( Ga 19, 4-16). Nhưng để phần nào nói lên có lẽ là điều Pilatus suy nghĩ dằn vặt về Chúa Giêsu. Nên ông đã cho viết bảng đó vừa là cách nói lên bản án xử người này chỉ vì thế, và cũng vừa là cung cách nói lên niềm tin tưởng của mình về Chúa Giêsu là Vua: „ Ta viết sao, cứ để vậy!“ ( Ga 19, 22 ).
Đâu là những biểu hiệu của một vị Vua?
Xưa nay nói đến vị Vua, người ta nghĩ đến sự sang trọng lộng lẫy, uy quyền sức mạnh cao cả gần như vô đối.
Hình ảnh một vị Vua đi đâu thường cỡi ngựa hay xe có những đoàn ngựa kéo xe mạ vàng.
Vua đi đâu có đoàn quân lính đông đảo dẫn đầu cùng đi sau bảo vệ. Vua nước nào càng có nhiều quân lính, vị đó càng có nhiều sức mạnh uy quyền, có cờ quạt đội quân nhạc thổi vang trời tung hô vạn tuế, cùng được dân chúng đứng vẫy cờ đón chào.
Vua ở trong cung điện to lớn nguy nga lộng lẫy, có ghế ngai vàng qúi giá cùng đoàn người phục dịch.
Quần áo nhà vua mặc cũng là những hàng tơ lụa qúi kim thêu dệt lộng lẫy sang trọng, mà dân gian gọi là cẩm bào., cùng có triều thiên vương miện trên đầu và trên tay còn có gậy chỉ huy nói lên uy quyền của vua.
Còn Vua Giêsu thì như thế nào?
Vua Giêsu của con người thì không như thế. Vua Giêsu không có uy quyền sức mạnh trị vì vô đối, như một vị vua trần gian xưa nay.
Vua Giêsu không có những đoàn kỵ binh lính, không xe ngựa. Trái lại Ngài cỡi con lừa còn non vào thành Jerusalem, ngài không có vương miện triều thiên . Vì Vua Giêsu không muốn biểu dương sức mạnh uy quyền, nhưng muốn là một người bạn gần gũi với con người.
Vua Giesu không có cây gậy chỉ huy quyền lực trên tay. Ngài không muốn truyền ra mệnh lệnh cho ai. Nhưng nói chuyện vui vẻ tình thân ái với con người. Ngài lắng nghe nhu cầu của con người.
Vua Giêsu cũng không có quần áo cẩm bào gấm vóc sang trọng, không có nhà cửa cung điện. Những gì Ngài có, Ngài cùng chia sẻ với mọi người, cùng đồng bàn ăn uống với mọi người. Ngài muốn trở thành một người như mọi người.
Vua Giêsu không ngồi trên ngai cao sang trị vì, nhưng tập họp sống giữa dân chúng, như trên núi Tám mối phúc thật ngày xưa, và để cho mọi người cảm nhận được tình yêu thương của ngài lan tỏa ra cho con người.
Chúng ta, những người tin theo Chúa Giêsu Kitô, chân nhận Chúa Giêsu là Vua không theo cung cách mộy vị vua trị vì với quyền hành sức mạnh, nhưng tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Vua của tình yêu thương, của ơn cứu chuộc cho phần rỗi linh hồn con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ngư Nương Tân Thời
Thérésa Nguyễn
23:10 22/11/2019
NGƯ NƯƠNG TÂN THỜI
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Ngư nương cổ tích dịu dàng
Ngư nương thời mới huy hoàng thời trang.
(tn)
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Ngư nương cổ tích dịu dàng
Ngư nương thời mới huy hoàng thời trang.
(tn)
VietCatholic TV
LIVE : Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
03:37 22/11/2019
Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Bangkok, hy vọng của Đức Thánh Cha nơi giới trẻ Thái Lan và Á Châu
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:57 22/11/2019
Lúc 10g sáng Thứ Sáu, 22 tháng 11, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên tại giáo xứ Thánh Phêrô
Kế đến, lúc 11g, ngài có cuộc gặp gỡ với các Giám mục Thái Lan và các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Đền thờ Chân phước Nicholas Boonkerd Kitbamrung.
Sinh hoạt tiếp theo của Đức Thánh Cha là cuộc gặp riêng với các thành viên của Dòng Tên trong một hội trường của Đền thờ này vào lúc 11g50.
Sau khi nghỉ trưa tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, ban chiều Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo các hệ phái Kitô và các tôn giáo bạn tại Đại học Chulalongkorn vào lúc 3g20.
Sinh hoạt cuối cùng trong ngày là thánh lễ với những người trẻ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào lúc 5g chiều.
Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô, Đấng đang ngự đến ! Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe mời gọi chúng ta tiến bước và nhìn về tương lai ngõ hầu gặp được điều đẹp nhất mà Người muốn trao ban cho chúng ta: đó là sự quang lâm chung cuộc của Chúa Kitô trong cuộc sống và trong thế giới của chúng ta. Chúng ta hãy chào đón Người với niềm vui và tình yêu to lớn, mà chỉ có những người trẻ mới làm được! Ngay cả trước khi đi tìm Người, chúng ta biết rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta, rằng Người đang đến gặp chúng ta và mời gọi chúng ta qua những thăng trầm của một lịch sử sẽ được xây dựng, hoạch định và tạo ra. Chúng ta hãy tiếp tục với niềm vui vì chúng ta biết rằng Người đang đợi chúng ta.
Chúa biết rằng qua các con, những người trẻ, tương lai đến với đất nước này và thế giới. Và Người trông cậy vào các con để thực hiện sứ mệnh của Người ngày hôm nay (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit, số 174). Như Chúa có kế hoạch cho dân được chọn, Người cũng có kế hoạch cho mỗi người trong các con. Chúa là người đầu tiên mơ ước có thể mời tất cả chúng ta tham dự một bàn tiệc mà Chúa và chúng ta, như một cộng đoàn, phải cùng nhau chuẩn bị: đó là bàn tiệc Thiên quốc của Người trong đó không ai có thể bị loại trừ.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về mười cô gái trẻ được mời gọi hướng nhìn về tương lai và tham dự vào bàn tiệc của Chúa. Vấn đề là một số trong họ đã không sẵn sàng để đón bữa tiệc ấy; không phải vì họ đã ngủ say, nhưng vì lượng dầu cần thiết, là nhiên liệu bên trong để giữ cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy, đã khiến họ thất bại. Họ bị thúc đẩy bởi lòng khát khao và một động lực to lớn, họ muốn đáp lại lời mời gọi, trước lời mời của Thầy, nhưng theo thời gian, họ dần trở nên buồn ngủ, sức mạnh và ao ước của họ đã cạn kiệt và họ đến muộn. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn về những gì có thể xảy ra với tất cả các Kitô hữu mà từng nơi từng lúc, với đầy nhiệt huyết, chúng ta nghe thấy tiếng gọi của Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ Vương quốc và niềm vui của Người với những người khác. Nhưng điều thường xảy ra là, khi phải đối mặt với những vấn đề và trở ngại rất nhiều và thường gặp, như tất cả mọi người trong các con đều biết rất rõ, trước sự đau khổ của những người chúng ta yêu thương hoặc trước sự bất lực trong những tình huống mà chúng ta dường như tuyệt vọng, hoang mang và cay đắng dâng lên và âm thầm thâm nhập vào giấc mơ của chúng ta, làm nguội lạnh con tim của chúng ta, làm cho chúng ta mất đi niềm vui và khiến chúng ta đến muộn.
Đó là lý do tại sao cha muốn hỏi các con: các con có muốn giữ cho ngọn lửa có khả năng thắp sáng các con giữa đêm đen và giữa chập chùng những khó khăn không? Các con có muốn chuẩn bị để đáp lại tiếng Chúa gọi không? Các con đã sẵn sàng để làm theo thánh ý Ngài không?
Làm thế nào để có được dầu giúp các con di chuyển và thúc đẩy các con tìm kiếm Chúa trong mọi tình huống ?
Các con là người thừa kế của một câu chuyện đẹp về truyền giáo đã được truyền lại cho các con như một báu vật thiêng liêng. Nhà thờ đẹp này là một nhân chứng cho đức tin vào Chúa Giêsu Kitô mà tổ tiên của các con đã thủ đắc: chính lòng trung thành sâu sắc của họ đã khiến họ làm những việc lành phúc đức, để xây dựng nên một ngôi đền khác, thậm chí còn đẹp hơn, được kiến tạo bởi những tảng đá sống động, khi đem tình yêu thương xót của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người trong thời của họ. Họ đã làm điều này bởi vì họ đã bị thuyết phục về những gì Tiên tri Hô-sê tuyên bố trong bài đọc đầu tiên ngày hôm nay: Thiên Chúa đã nói với họ một cách dịu dàng, lập với họ một hôn ước vĩnh cửu (x. Hs 2, 16,21).
Các các con thân mến, để giữ cho ngọn lửa của Chúa Thánh Thần không bị dập tắt và các con có thể giữ cho đôi mắt và con tim của mình sống động, các con phải đâm rễ sâu trong đức tin của những người lớn tuổi trong chúng ta: là cha mẹ, ông bà và các thầy giáo. Không phải vì chúng ta là những tù nhân của quá khứ, nhưng là vì chúng ta muốn học cách để can đảm ứng phó với các tình huống mới trong lịch sử. Trong cuộc đời, họ đã vượt qua nhiều thử thách và đau khổ. Nhưng trên đường đi, họ phát hiện ra rằng bí mật của một tâm hồn hạnh phúc là sự an toàn mà chúng ta tìm thấy khi chúng ta neo đậu, và bắt nguồn nơi Chúa Giêsu: từ cuộc đời của Chúa Giêsu, Lời Chúa, cái chết và sự phục sinh của Người.
“Thỉnh thoảng tôi thấy những chồi non, đẹp đẽ, luôn tìm cách vươn những nhánh cây lên trời cao giống như một bài hát hy vọng. Rồi, sau một cơn bão, tôi thấy chúng rơi xuống, vô hồn. Đó là vì chúng không có nhiều rễ. Chúng đã lan rộng các nhánh của mình nhưng không tự cắm rễ sâu trên mặt đất và chúng đã chịu thua trước thiên nhiên. Đây là lý do tại sao tôi buồn khi thấy một số người cho rằng những người trẻ tuổi xây dựng một tương lai không có gốc rễ, như thể thế giới mới là đang bắt đầu. Bởi vì không ai có thể lớn lên nếu người ấy không có rễ mạnh giúp mình đứng thẳng và bén rễ trên mặt đất. [Các bạn trẻ thân mến:] Rất dễ bị phân tán, khi một người không có nơi nào để gắn kết chính mình, không có nơi nào để định vị chính mình” (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, số 179).
Nếu không có ý thức mạnh mẽ về căn cội này, chúng ta có thể bị bối rối trước những “tiếng nói” của thế giới này đang tranh giành sự chú ý của chúng ta. Rất nhiều trong số những tiếng nói này là những đề xuất hấp dẫn, được ngụy trang, nhìn thật đẹp và sâu sắc lúc đầu, nhưng theo thời gian, cuối cùng chúng chỉ dẫn đến sự trống rỗng, cô đơn, lẻ loi và thờ ơ (xem th.d., 142), và dần dần dập tắt đi tia lửa của cuộc sống mà Chúa đã từng thắp lên trong lòng mọi người.
Các bạn trẻ thân mến, các con là một thế hệ mới, với những hy vọng mới, ước mơ mới và những câu hỏi mới; các con cũng nghi ngờ, nhưng cha mời các con tiếp tục sống niềm vui và, bắt nguồn từ Chúa Kitô, đừng ngại nhìn về tương lai một cách tự tin. Hãy bắt nguồn từ Chúa Kitô, hãy có một cái nhìn tràn đầy niềm vui và tự tin. Điều này được sinh ra từ xác tín rằng chúng ta được Chúa tìm kiếm, gặp gỡ và yêu thương vô hạn. Tình bạn được vun đắp với Chúa Giêsu Kitô là dầu cần thiết để thắp sáng con đường, con đường của các con, nhưng cũng là con đường của tất cả những người xung quanh các con: bạn bè, chòm xóm, những bạn học và đồng nghiệp, và cả con đường của những người mà các con hoàn toàn không đồng ý.
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô là Đấng đang ngự đến ! Đừng sợ tương lai và đừng để mình bị giao động. Trái lại, hãy biết rằng Chúa đang chờ đợi các con ở đó, để chuẩn bị và tham dự bàn tiệc Nước Trời.
* * *
Cuối Thánh lễ, Đức Hồng Y Kriengsak Kovitvanit, là Tổng Giám Mục Bangkok, và cũng là chủ tịch Hội đồng Giám mục Thái Lan, đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha. Ngài nói rằng những người trẻ luôn ở trong tim của vị Giáo Hoàng. Họ là hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội, và đồng thời là “thời khắc hiện tại” của Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Thái tin rằng các bạn trẻ có vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Do đó, Giáo hội dấn thân đào luyện họ trở thành những nhà lãnh đạo, cho họ tham gia vào đời sống và giúp họ phân định giữa những thách đố xã hội có ảnh hưởng đến tôn giáo.
Đức Hồng Y cũng cám ơn Đức Thánh Cha về những ngày tuyệt vời và tốt đẹp trong chuyến tông du của ngài trên đất Thái. Ngài cầu mong dịp đại phúc này sẽ biến thành hành động và cuộc sống để tạ ơn Thiên Chúa và cám ơn Đức Thánh Cha. Giáo hội Thái từ bây giờ, từng bước, ngày từng ngày, sẽ trở thành cộng đoàn chứng nhân của một nhân loại huynh đệ.
Đức Thánh Cha ngỏ lời cám ơn
Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng cảm ơn những người đã giúp cho chuyến viếng thăm của ngài có thể thực hiện được, đặc biệt những người cộng tác cách này cách khác cho việc tổ chức. Ngài cám ơn quốc vương Rama thứ 10 và chính quyền đã đón tiếp ngài nồng nhiệt. Đức Thánh Cha chân thành cám ơn các Giám mục, đặc biệt Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, Tổng Giám Mục Bangkok, các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân và đặc biệt các bạn trẻ yêu quý!
Đức Thánh Cha không quên cám ơn các tình nguyện viên đã quảng đại cộng tác cho việc tổ chức chuyến viếng thăm; và ngài cám ơn những người đã đồng hành với ngài bằng lời cầu nguyện và những hy sinh của họ, cách đặc biệt là các bệnh nhân và các tù nhân.
Đức Thánh Cha xin Chúa trả công cho mọi người và ban cho họ niềm an ủi và bình an mà chỉ có Chúa mới có thể ban. Và ngài xin họ thực hiện một điều: đó là xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Source: Libreria Editrice VaticanaMESSE AVEC LES JEUNES HOMÉLIE DU SAINT-PÈRE Cathédrale de l'Assomption (Bangkok) Vendredi 22 novembre 2019
Kế đến, lúc 11g, ngài có cuộc gặp gỡ với các Giám mục Thái Lan và các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Đền thờ Chân phước Nicholas Boonkerd Kitbamrung.
Sinh hoạt tiếp theo của Đức Thánh Cha là cuộc gặp riêng với các thành viên của Dòng Tên trong một hội trường của Đền thờ này vào lúc 11g50.
Sau khi nghỉ trưa tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, ban chiều Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo các hệ phái Kitô và các tôn giáo bạn tại Đại học Chulalongkorn vào lúc 3g20.
Sinh hoạt cuối cùng trong ngày là thánh lễ với những người trẻ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào lúc 5g chiều.
Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô, Đấng đang ngự đến ! Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe mời gọi chúng ta tiến bước và nhìn về tương lai ngõ hầu gặp được điều đẹp nhất mà Người muốn trao ban cho chúng ta: đó là sự quang lâm chung cuộc của Chúa Kitô trong cuộc sống và trong thế giới của chúng ta. Chúng ta hãy chào đón Người với niềm vui và tình yêu to lớn, mà chỉ có những người trẻ mới làm được! Ngay cả trước khi đi tìm Người, chúng ta biết rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta, rằng Người đang đến gặp chúng ta và mời gọi chúng ta qua những thăng trầm của một lịch sử sẽ được xây dựng, hoạch định và tạo ra. Chúng ta hãy tiếp tục với niềm vui vì chúng ta biết rằng Người đang đợi chúng ta.
Chúa biết rằng qua các con, những người trẻ, tương lai đến với đất nước này và thế giới. Và Người trông cậy vào các con để thực hiện sứ mệnh của Người ngày hôm nay (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit, số 174). Như Chúa có kế hoạch cho dân được chọn, Người cũng có kế hoạch cho mỗi người trong các con. Chúa là người đầu tiên mơ ước có thể mời tất cả chúng ta tham dự một bàn tiệc mà Chúa và chúng ta, như một cộng đoàn, phải cùng nhau chuẩn bị: đó là bàn tiệc Thiên quốc của Người trong đó không ai có thể bị loại trừ.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về mười cô gái trẻ được mời gọi hướng nhìn về tương lai và tham dự vào bàn tiệc của Chúa. Vấn đề là một số trong họ đã không sẵn sàng để đón bữa tiệc ấy; không phải vì họ đã ngủ say, nhưng vì lượng dầu cần thiết, là nhiên liệu bên trong để giữ cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy, đã khiến họ thất bại. Họ bị thúc đẩy bởi lòng khát khao và một động lực to lớn, họ muốn đáp lại lời mời gọi, trước lời mời của Thầy, nhưng theo thời gian, họ dần trở nên buồn ngủ, sức mạnh và ao ước của họ đã cạn kiệt và họ đến muộn. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn về những gì có thể xảy ra với tất cả các Kitô hữu mà từng nơi từng lúc, với đầy nhiệt huyết, chúng ta nghe thấy tiếng gọi của Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ Vương quốc và niềm vui của Người với những người khác. Nhưng điều thường xảy ra là, khi phải đối mặt với những vấn đề và trở ngại rất nhiều và thường gặp, như tất cả mọi người trong các con đều biết rất rõ, trước sự đau khổ của những người chúng ta yêu thương hoặc trước sự bất lực trong những tình huống mà chúng ta dường như tuyệt vọng, hoang mang và cay đắng dâng lên và âm thầm thâm nhập vào giấc mơ của chúng ta, làm nguội lạnh con tim của chúng ta, làm cho chúng ta mất đi niềm vui và khiến chúng ta đến muộn.
Đó là lý do tại sao cha muốn hỏi các con: các con có muốn giữ cho ngọn lửa có khả năng thắp sáng các con giữa đêm đen và giữa chập chùng những khó khăn không? Các con có muốn chuẩn bị để đáp lại tiếng Chúa gọi không? Các con đã sẵn sàng để làm theo thánh ý Ngài không?
Làm thế nào để có được dầu giúp các con di chuyển và thúc đẩy các con tìm kiếm Chúa trong mọi tình huống ?
Các con là người thừa kế của một câu chuyện đẹp về truyền giáo đã được truyền lại cho các con như một báu vật thiêng liêng. Nhà thờ đẹp này là một nhân chứng cho đức tin vào Chúa Giêsu Kitô mà tổ tiên của các con đã thủ đắc: chính lòng trung thành sâu sắc của họ đã khiến họ làm những việc lành phúc đức, để xây dựng nên một ngôi đền khác, thậm chí còn đẹp hơn, được kiến tạo bởi những tảng đá sống động, khi đem tình yêu thương xót của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người trong thời của họ. Họ đã làm điều này bởi vì họ đã bị thuyết phục về những gì Tiên tri Hô-sê tuyên bố trong bài đọc đầu tiên ngày hôm nay: Thiên Chúa đã nói với họ một cách dịu dàng, lập với họ một hôn ước vĩnh cửu (x. Hs 2, 16,21).
Các các con thân mến, để giữ cho ngọn lửa của Chúa Thánh Thần không bị dập tắt và các con có thể giữ cho đôi mắt và con tim của mình sống động, các con phải đâm rễ sâu trong đức tin của những người lớn tuổi trong chúng ta: là cha mẹ, ông bà và các thầy giáo. Không phải vì chúng ta là những tù nhân của quá khứ, nhưng là vì chúng ta muốn học cách để can đảm ứng phó với các tình huống mới trong lịch sử. Trong cuộc đời, họ đã vượt qua nhiều thử thách và đau khổ. Nhưng trên đường đi, họ phát hiện ra rằng bí mật của một tâm hồn hạnh phúc là sự an toàn mà chúng ta tìm thấy khi chúng ta neo đậu, và bắt nguồn nơi Chúa Giêsu: từ cuộc đời của Chúa Giêsu, Lời Chúa, cái chết và sự phục sinh của Người.
“Thỉnh thoảng tôi thấy những chồi non, đẹp đẽ, luôn tìm cách vươn những nhánh cây lên trời cao giống như một bài hát hy vọng. Rồi, sau một cơn bão, tôi thấy chúng rơi xuống, vô hồn. Đó là vì chúng không có nhiều rễ. Chúng đã lan rộng các nhánh của mình nhưng không tự cắm rễ sâu trên mặt đất và chúng đã chịu thua trước thiên nhiên. Đây là lý do tại sao tôi buồn khi thấy một số người cho rằng những người trẻ tuổi xây dựng một tương lai không có gốc rễ, như thể thế giới mới là đang bắt đầu. Bởi vì không ai có thể lớn lên nếu người ấy không có rễ mạnh giúp mình đứng thẳng và bén rễ trên mặt đất. [Các bạn trẻ thân mến:] Rất dễ bị phân tán, khi một người không có nơi nào để gắn kết chính mình, không có nơi nào để định vị chính mình” (x. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, số 179).
Nếu không có ý thức mạnh mẽ về căn cội này, chúng ta có thể bị bối rối trước những “tiếng nói” của thế giới này đang tranh giành sự chú ý của chúng ta. Rất nhiều trong số những tiếng nói này là những đề xuất hấp dẫn, được ngụy trang, nhìn thật đẹp và sâu sắc lúc đầu, nhưng theo thời gian, cuối cùng chúng chỉ dẫn đến sự trống rỗng, cô đơn, lẻ loi và thờ ơ (xem th.d., 142), và dần dần dập tắt đi tia lửa của cuộc sống mà Chúa đã từng thắp lên trong lòng mọi người.
Các bạn trẻ thân mến, các con là một thế hệ mới, với những hy vọng mới, ước mơ mới và những câu hỏi mới; các con cũng nghi ngờ, nhưng cha mời các con tiếp tục sống niềm vui và, bắt nguồn từ Chúa Kitô, đừng ngại nhìn về tương lai một cách tự tin. Hãy bắt nguồn từ Chúa Kitô, hãy có một cái nhìn tràn đầy niềm vui và tự tin. Điều này được sinh ra từ xác tín rằng chúng ta được Chúa tìm kiếm, gặp gỡ và yêu thương vô hạn. Tình bạn được vun đắp với Chúa Giêsu Kitô là dầu cần thiết để thắp sáng con đường, con đường của các con, nhưng cũng là con đường của tất cả những người xung quanh các con: bạn bè, chòm xóm, những bạn học và đồng nghiệp, và cả con đường của những người mà các con hoàn toàn không đồng ý.
Chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô là Đấng đang ngự đến ! Đừng sợ tương lai và đừng để mình bị giao động. Trái lại, hãy biết rằng Chúa đang chờ đợi các con ở đó, để chuẩn bị và tham dự bàn tiệc Nước Trời.
* * *
Cuối Thánh lễ, Đức Hồng Y Kriengsak Kovitvanit, là Tổng Giám Mục Bangkok, và cũng là chủ tịch Hội đồng Giám mục Thái Lan, đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha. Ngài nói rằng những người trẻ luôn ở trong tim của vị Giáo Hoàng. Họ là hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội, và đồng thời là “thời khắc hiện tại” của Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Thái tin rằng các bạn trẻ có vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Do đó, Giáo hội dấn thân đào luyện họ trở thành những nhà lãnh đạo, cho họ tham gia vào đời sống và giúp họ phân định giữa những thách đố xã hội có ảnh hưởng đến tôn giáo.
Đức Hồng Y cũng cám ơn Đức Thánh Cha về những ngày tuyệt vời và tốt đẹp trong chuyến tông du của ngài trên đất Thái. Ngài cầu mong dịp đại phúc này sẽ biến thành hành động và cuộc sống để tạ ơn Thiên Chúa và cám ơn Đức Thánh Cha. Giáo hội Thái từ bây giờ, từng bước, ngày từng ngày, sẽ trở thành cộng đoàn chứng nhân của một nhân loại huynh đệ.
Đức Thánh Cha ngỏ lời cám ơn
Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng cảm ơn những người đã giúp cho chuyến viếng thăm của ngài có thể thực hiện được, đặc biệt những người cộng tác cách này cách khác cho việc tổ chức. Ngài cám ơn quốc vương Rama thứ 10 và chính quyền đã đón tiếp ngài nồng nhiệt. Đức Thánh Cha chân thành cám ơn các Giám mục, đặc biệt Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, Tổng Giám Mục Bangkok, các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân và đặc biệt các bạn trẻ yêu quý!
Đức Thánh Cha không quên cám ơn các tình nguyện viên đã quảng đại cộng tác cho việc tổ chức chuyến viếng thăm; và ngài cám ơn những người đã đồng hành với ngài bằng lời cầu nguyện và những hy sinh của họ, cách đặc biệt là các bệnh nhân và các tù nhân.
Đức Thánh Cha xin Chúa trả công cho mọi người và ban cho họ niềm an ủi và bình an mà chỉ có Chúa mới có thể ban. Và ngài xin họ thực hiện một điều: đó là xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Source: Libreria Editrice Vaticana
LIVE: Đức Thánh Cha kết thúc chuyến tông du Thái Lan, lên đường sang Nhật Bản
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:59 22/11/2019
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gởi cho người dân Nhật trước khi ngài đến
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:17 22/11/2019
Trước chuyến tông du đến Nhật, của Đức Thánh Cha, Ngài đã gởi 1 sứ điệp cho người dân Nhật.
Mở đầu sứ điệp, Đức Thánh Cha nói, "Đề tài được chọn cho chuyến viếng thăm của tôi là ‘Bảo vệ mọi sự sống’. Đó là Bản năng manh mẽ, vang dội trong tâm hồn chúng ta. Bảo vệ giá trị và phẩm giá của mọi người, có tầm quan trọng đặc biệt trước các đe dọa đối với sự chung sống hòa bình mà ngày nay thế giới phải đương đầu, đặc biệt trong các cuộc xung đột vũ trang.
Đất nước của anh chị em đã trải nghiệm những đau khổ do chiến tranh gây nên. Cùng với anh chị em, tôi cầu nguyện để sức mạnh tàn phá của các loại vũ khí hạt nhân không bao giờ còn gây thiệt hại trong lịch sử nhân loại nữa. Sử dụng vũ khí hạt nhân là điều vô luân. Anh chị em cũng biết rằng, đối thoại, tình huynh đệ, đặc biệt giữa các truyền thống tôn giáo là điều quan trọng; các truyền thống tôn giáo đó có thể giúp thắng vượt sự chia rẽ, cổ võ sự tôn trọng nhân phẩm và tiến bước trong sự phát triển toàn diện các dân tộc.
Tôi hy vọng rằng, chuyến viếng thăm của tôi khích lệ anh chị em trên hành trình tôn trọng lẫn nhau và gặp gỡ, dẫn đến một nền hòa bình chắc chắn và lâu bền. Hòa bình thực sự thì là không thụt lùi, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ hòa bình.
Tôi cũng sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước anh chị em, là nét đặc trưng quốc gia mình, và có cơ hội bày tỏ mong ước chung là thăng tiến, củng cố việc bảo vệ sự sống, bao gồm cả trái đất, căn nhà chung của chúng ta; nền văn hóa của anh chị em tượng trưng điều này, theo cách thức rất tốt đẹp, qua những mùa hoa anh đào đang tươi nở.
Tôi biết rằng nhiều người đang làm việc để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm. Tôi chân thành cám ơn anh chị em về những nỗ lực này. Và với niềm hy vọng rằng trong những ngày này, khi chúng ta ở cùng nhau, là những ngày tràn đầy ân sủng và niềm vui, tôi không ngừng cầu nguyện cho tất cả và từng người trong anh chị em. Và tôi xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi. Xin chân thành cảm ơn anh chị em.
Mở đầu sứ điệp, Đức Thánh Cha nói, "Đề tài được chọn cho chuyến viếng thăm của tôi là ‘Bảo vệ mọi sự sống’. Đó là Bản năng manh mẽ, vang dội trong tâm hồn chúng ta. Bảo vệ giá trị và phẩm giá của mọi người, có tầm quan trọng đặc biệt trước các đe dọa đối với sự chung sống hòa bình mà ngày nay thế giới phải đương đầu, đặc biệt trong các cuộc xung đột vũ trang.
Đất nước của anh chị em đã trải nghiệm những đau khổ do chiến tranh gây nên. Cùng với anh chị em, tôi cầu nguyện để sức mạnh tàn phá của các loại vũ khí hạt nhân không bao giờ còn gây thiệt hại trong lịch sử nhân loại nữa. Sử dụng vũ khí hạt nhân là điều vô luân. Anh chị em cũng biết rằng, đối thoại, tình huynh đệ, đặc biệt giữa các truyền thống tôn giáo là điều quan trọng; các truyền thống tôn giáo đó có thể giúp thắng vượt sự chia rẽ, cổ võ sự tôn trọng nhân phẩm và tiến bước trong sự phát triển toàn diện các dân tộc.
Tôi hy vọng rằng, chuyến viếng thăm của tôi khích lệ anh chị em trên hành trình tôn trọng lẫn nhau và gặp gỡ, dẫn đến một nền hòa bình chắc chắn và lâu bền. Hòa bình thực sự thì là không thụt lùi, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ hòa bình.
Tôi cũng sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước anh chị em, là nét đặc trưng quốc gia mình, và có cơ hội bày tỏ mong ước chung là thăng tiến, củng cố việc bảo vệ sự sống, bao gồm cả trái đất, căn nhà chung của chúng ta; nền văn hóa của anh chị em tượng trưng điều này, theo cách thức rất tốt đẹp, qua những mùa hoa anh đào đang tươi nở.
Tôi biết rằng nhiều người đang làm việc để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm. Tôi chân thành cám ơn anh chị em về những nỗ lực này. Và với niềm hy vọng rằng trong những ngày này, khi chúng ta ở cùng nhau, là những ngày tràn đầy ân sủng và niềm vui, tôi không ngừng cầu nguyện cho tất cả và từng người trong anh chị em. Và tôi xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi. Xin chân thành cảm ơn anh chị em.