Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy “học trường” Thánh Giuse
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
00:37 15/12/2010
Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng, Năm A
Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse:“Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21.24).
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quãng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Chúa. Ngài đã cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Thánh Giuse đặt tên cho Hài Nhi, nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý. Từ nay Thánh Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Ngôn sứ Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện: Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ Chúa Giêsu. Thánh Giuse đựơc vinh dự tham gia vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thánh Giuse đã gặp một cú sốc quá lớn. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Giuse có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử Maria bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Giuse âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình, dự định “tẩu vi thượng sách”. Dự tính lặng lẽ ra đi không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình nên toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ (mầu nhiệm), quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan Tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì vậy, ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Ngài không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào.Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Thánh Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người. Ngài sống đức tin đích thực bằng việc lắng nghe và thi hành ý Chúa.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ ngoại bang. Sứ thần xác nhận “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà “hãy đưa Maria về với mình”, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người.
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).
- Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 ).
- Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).
Sống tỉnh thức nên Thánh Giuse trở thành một vị thánh lớn. Ngài đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khiêm tốn rao giảng rằng: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ). Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời nào. Tiếng “xin vâng” của Mẹ Maria ở Nadarét và tiếng “xin vâng” của Chúa Giêsu ở vườn Ghếtsêmani đã được hòa âm trong trọn vẹn cả cuộc đời Thánh Giuse.
Thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng. Chiêm niệm, thao thức lắng nghe tiếng Chúa, đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.
Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse:“Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21.24).
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quãng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Chúa. Ngài đã cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Thánh Giuse đặt tên cho Hài Nhi, nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý. Từ nay Thánh Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Ngôn sứ Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện: Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ Chúa Giêsu. Thánh Giuse đựơc vinh dự tham gia vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thánh Giuse đã gặp một cú sốc quá lớn. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Giuse có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử Maria bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Giuse âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình, dự định “tẩu vi thượng sách”. Dự tính lặng lẽ ra đi không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình nên toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ (mầu nhiệm), quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan Tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì vậy, ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Ngài không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào.Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Thánh Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người. Ngài sống đức tin đích thực bằng việc lắng nghe và thi hành ý Chúa.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ ngoại bang. Sứ thần xác nhận “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà “hãy đưa Maria về với mình”, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người.
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).
- Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 ).
- Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).
Sống tỉnh thức nên Thánh Giuse trở thành một vị thánh lớn. Ngài đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khiêm tốn rao giảng rằng: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ). Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời nào. Tiếng “xin vâng” của Mẹ Maria ở Nadarét và tiếng “xin vâng” của Chúa Giêsu ở vườn Ghếtsêmani đã được hòa âm trong trọn vẹn cả cuộc đời Thánh Giuse.
Thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng. Chiêm niệm, thao thức lắng nghe tiếng Chúa, đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.
Mỗi Ngày Môt Câu Kinh Thánh - Từ 16 đến 31 tháng 12 năm 2010
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
01:45 15/12/2010
MỖI NGÀY MỘT CÂU KINH THÁNH
Từ ngày 16 đến 31-12-2010
Ngày 16-12-10: Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. (Kh 3, 4) * Áo ngày chịu phép rửa tội, người Tín hữu đã sống vững đức tin, trung thành với Chúa. Tôi có bổn phận trung tín và kiên trì sống đạo trong mọi hoàn cảnh đang xảy đến hiện nay.
Ngày 17-12-10: Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta…(Kh 3, 5) * Vì theo Chúa, nên tôi được gọi tên là Kitô hữu, tôi sẽ được vào Nước Trời, nếu sống thực hành Lời Đức Kitô.
Ngày 18-12-10: Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với Hội Thánh. (Kh 3, 6) * Tôi cần nghe Lời Chúa bằng cái tai tâm hồn bởi Chúa Thánh thần nhắc bảo qua mọi người, mọi dấu chỉ và Giáo hội.
Ngày 19-12-10: Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. (Mt 5, 28) * Chúa muốn dạy tôi phải có hành động quyết liệt với con mắt để sửa chữa nó, vì nó làm tôi phạm tội ngoại tình với Chúa và giữa vợ chồng. Bạn cần cầu nguyện nhiều và quyết tâm hướng về Chúa.
Ngày 20-12-10: Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mấp một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. (Mt 5, 29) * Vì mắt là cửa sổ của tâm hồn, dù đi tu hay có gia đình, tôi cần có hành động thật tích cực, chiến đấu liên lỉ.
Ngày 21-12-10: Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục. (Mt 5, 30) * Việc móc mắt và chặt tay là nói đến tôi phải quyết tâm xa lánh mọi dịp tội hàng ngày, để vào Nước Trời.
Ngày 22-12-10: Người đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi. Nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ, vì họ đông đảo và đã đi theo Người. (Mc 2, 15) * Đức Giêsu cùng ngồi ăn uống với đủ loại người. Tôi cần theo gương Chúa để sống gần mọi người.
Ngày 23-12-10: Những kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi.!?” (Mc 2, 16) * Bạn cũng thường có những câu hỏi như vậy với những người trong Giáo hội. Tôi cần bỏ những khép kín, hẹp hòi và mở rộng tâm hồn quảng đại, tha thứ cho những ai lỡ bước lầm đường.
Ngày 24-12-10: Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói với họ: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người…, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17) * Đức Giêsu có ý ám chỉ các kinh sư và người Pha-ri-sêu, và có thể là bạn và tôi, đã tự khoe mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác.
Ngày 25-12-10: Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. (Mc 3, 10) * Hôm nay tôi cần bỏ ngay mọi tật xấu, để không còn làm nô lệ cho tội, và hoàn toàn tự do đến gặp Người chữa bệnh thể xác và tâm hồn cho tôi.
Ngày 26-12-10: Hàng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. (Lc 2, 41) * Theo luật Do thái mỗi năm phải hành hương ba lần phỏng theo sách 1 Samuel 1, 3.7. Tôi noi gương Thánh Gia dâng con cho Chúa để Ngài giữ gìn thánh hoá.
Ngày 27-12-10: Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. (Lc 2, 42) * Đây là tuổi mà người Do thái cho là tuổi trưởng thành về mặt tôn giáo. Tôi cần săn sóc con tuổi này vì chúng có nhiều thay đổi, gặp gỡ khuyên bảo, làm gương sáng.
Ngày 28-12-10: Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. (Lc 2, 43) * Việc theo dõi mọi hành động của con ở tuổi này rất cần thiêt, cha mẹ đừng mải mê làm ăn mà quên con. Tôi quyết dành nhiều thì giờ để gần con.
Ngày 29-12-10: Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. (Mc 3, 13) * Chúa lên núi là đi cầu nguyện, gặp gỡ Cha của Người để quyết định chọn các môn đệ. Tôi hãy noi gương Đức Giêsu dành nhiều thì giờ bàn hỏi, cầu nguyện với Chúa, trước khi làm bất cứ công việc nào.
Ngày 30-12-10: Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc 3, 14) * Bạn đã được Chúa gọi làm môn đệ, và sai đi rao giảng Tin Mừng. Tôi hãy trung thành với ơn gọi hiện tại và sống làm chứng cho Chúa bằng việc làm.
Ngày 31-12-10: Đức Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. (Mc 3, 20) * Các thân nhân của Đức Giêsu sợ sự hoạt động thành công của Người ảnh hưởng đến gia đình họ. Hôm nay tôi nhiệt thành phục vụ Chúa đôi khi cũng bị gia đình chống đối, chê bai.
Phó tế: JB. Maria Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
Từ ngày 16 đến 31-12-2010
Ngày 16-12-10: Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. (Kh 3, 4) * Áo ngày chịu phép rửa tội, người Tín hữu đã sống vững đức tin, trung thành với Chúa. Tôi có bổn phận trung tín và kiên trì sống đạo trong mọi hoàn cảnh đang xảy đến hiện nay.
Ngày 17-12-10: Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta…(Kh 3, 5) * Vì theo Chúa, nên tôi được gọi tên là Kitô hữu, tôi sẽ được vào Nước Trời, nếu sống thực hành Lời Đức Kitô.
Ngày 18-12-10: Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với Hội Thánh. (Kh 3, 6) * Tôi cần nghe Lời Chúa bằng cái tai tâm hồn bởi Chúa Thánh thần nhắc bảo qua mọi người, mọi dấu chỉ và Giáo hội.
Ngày 19-12-10: Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. (Mt 5, 28) * Chúa muốn dạy tôi phải có hành động quyết liệt với con mắt để sửa chữa nó, vì nó làm tôi phạm tội ngoại tình với Chúa và giữa vợ chồng. Bạn cần cầu nguyện nhiều và quyết tâm hướng về Chúa.
Ngày 20-12-10: Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mấp một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. (Mt 5, 29) * Vì mắt là cửa sổ của tâm hồn, dù đi tu hay có gia đình, tôi cần có hành động thật tích cực, chiến đấu liên lỉ.
Ngày 21-12-10: Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục. (Mt 5, 30) * Việc móc mắt và chặt tay là nói đến tôi phải quyết tâm xa lánh mọi dịp tội hàng ngày, để vào Nước Trời.
Ngày 22-12-10: Người đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi. Nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ, vì họ đông đảo và đã đi theo Người. (Mc 2, 15) * Đức Giêsu cùng ngồi ăn uống với đủ loại người. Tôi cần theo gương Chúa để sống gần mọi người.
Ngày 23-12-10: Những kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi.!?” (Mc 2, 16) * Bạn cũng thường có những câu hỏi như vậy với những người trong Giáo hội. Tôi cần bỏ những khép kín, hẹp hòi và mở rộng tâm hồn quảng đại, tha thứ cho những ai lỡ bước lầm đường.
Ngày 24-12-10: Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói với họ: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người…, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17) * Đức Giêsu có ý ám chỉ các kinh sư và người Pha-ri-sêu, và có thể là bạn và tôi, đã tự khoe mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác.
Ngày 25-12-10: Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. (Mc 3, 10) * Hôm nay tôi cần bỏ ngay mọi tật xấu, để không còn làm nô lệ cho tội, và hoàn toàn tự do đến gặp Người chữa bệnh thể xác và tâm hồn cho tôi.
Ngày 26-12-10: Hàng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. (Lc 2, 41) * Theo luật Do thái mỗi năm phải hành hương ba lần phỏng theo sách 1 Samuel 1, 3.7. Tôi noi gương Thánh Gia dâng con cho Chúa để Ngài giữ gìn thánh hoá.
Ngày 27-12-10: Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. (Lc 2, 42) * Đây là tuổi mà người Do thái cho là tuổi trưởng thành về mặt tôn giáo. Tôi cần săn sóc con tuổi này vì chúng có nhiều thay đổi, gặp gỡ khuyên bảo, làm gương sáng.
Ngày 28-12-10: Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. (Lc 2, 43) * Việc theo dõi mọi hành động của con ở tuổi này rất cần thiêt, cha mẹ đừng mải mê làm ăn mà quên con. Tôi quyết dành nhiều thì giờ để gần con.
Ngày 29-12-10: Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. (Mc 3, 13) * Chúa lên núi là đi cầu nguyện, gặp gỡ Cha của Người để quyết định chọn các môn đệ. Tôi hãy noi gương Đức Giêsu dành nhiều thì giờ bàn hỏi, cầu nguyện với Chúa, trước khi làm bất cứ công việc nào.
Ngày 30-12-10: Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc 3, 14) * Bạn đã được Chúa gọi làm môn đệ, và sai đi rao giảng Tin Mừng. Tôi hãy trung thành với ơn gọi hiện tại và sống làm chứng cho Chúa bằng việc làm.
Ngày 31-12-10: Đức Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. (Mc 3, 20) * Các thân nhân của Đức Giêsu sợ sự hoạt động thành công của Người ảnh hưởng đến gia đình họ. Hôm nay tôi nhiệt thành phục vụ Chúa đôi khi cũng bị gia đình chống đối, chê bai.
Phó tế: JB. Maria Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
Tâm Sự Với Chúa Mỗi Ngày - Tuần Thứ IV Mùa Vọng
Lm Jos Tạ Duy Tuyến
04:05 15/12/2010
Ngày 17.12
Mt 1,1-17
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con tin rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng con. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con qua hình bánh đơn sơ bé mọn. Chúa lưu lại trong chúng con bằng ơn thánh qua bí tích Thánh Thể. Chúng con thật hạnh phúc vì được đón nhận quà tặng vô giá là chính Chúa ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúng con xin tri ân và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, chúng con thật hạnh phúc được sinh ra trong đức tin của Hội Thánh. Đức tin đó được chính Chúa nuôi dưỡng và củng cố qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Nhưng Chúa ơi, đức tin của chúng con cũng có lúc tăm tối như Abraham và cũng trải qua biết bao thử thách như Mô-sê. Cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió, thử thách, gian nan, lận đận vẫn cuốn vào kiếp người chúng con. Có những lúc chúng con muốn buông trôi theo dòng đời. Có những lúc chúng con hụt hẫng mất niềm tin vào sự quan phòng của Chúa. Xin tha thứ cho những lầm lỗi của chúng con. Xin ban cho chúng con đức tin kiên vững để vượt qua những thử thách gian nguy. Xin cho chúng con một lòng trung tín vào Chúa cho dẫu giòng đời có xô đẩy bởi biết bao khốn khó tư bề.
Lạy Chúa, Chúa luôn có chương trình cho từng cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con luôn tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa. Xin giúp chúng con luôn đọc ra ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời chúng con. Amen.
Ngày 18.12
Mt 1,18-24
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Qua việc nhập thể làm người Chúa đã mang ơn thánh hóa đến cho nhân trần chúng con. Chúa làm người cho con người làm con Thiên Chúa. Đây là ân huệ vô cùng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con. Chúng con xin hết lòng tri ân cảm tạ Chúa. Tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con. Tạ ơn Chúa đã mang thân phận con người để nâng loài người chúng con lên làm con Thiên Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết mở rộng lòng đón rước Chúa mỗi ngày, để Chúa ở cùng chúng con sẽ mang lại cho chúng con niềm vui và sự hoan lạc tràn ngập tâm hồn.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, có Chúa ở cùng chúng con là một hồng ân vô giá mà Chúa dành cho chúng con. Quả thực, đâu còn gì hạnh phúc hơn khi được chính Chúa cùng chia sẻ vui buồn trong những thăng trầm của cuộc đời chúng con. Sự hiện diện của Chúa như người cha luôn mang lại cho con cái niềm tin, nghị lực, sức phấn đấu và sự ủi an. Xin giúp chúng con biết học nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, cầu nguyện để nhận ra ý Chúa trong từng biến cố của cuộc đời. Xin giúp chúng con luôn quảng đại dấn thân cho ý Chúa được thực hiện như thánh Giuse đã quảng đại đón nhận Mẹ Maria về làm bạn của mình. Xin giúp chúng con cũng biết đón nhận ý Chúa bằng hai tiếng xin vâng với trọn lòng yêu mến như Mẹ Maria.
Lạy Chúa, xin dùng chúng con như khí cụ của Chúa để công việc và thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời hôm nay. Amen
Ngày 19.12
Lc 1,5-25
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa đã đến lần thứ nhất, đã nhập thế làm người và qua đó trao ban cho chúng con niềm vui ơn cứu độ. Chúng con thực sự vui mừng vì có Chúa ở cùng chúng con. Chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Chúng con xin hết lòng cảm tạ, tri ân tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Vâng, lạy Chúa, tình yêu đó hôm nay Chúa đã dành cho gia đình Giacaria. Chúa đã viếng thăm gia đình ông. Chúa đã tỏ lòng thương xót gia đình ông qua món quá vô giá là đứa con được sinh ra trong lòng thương xót của Chúa. Xin cho các gia đình trẻ hôm nay biết yêu mến sự sống là quà tặng của Chúa. Xin cho họ biết quảng đại đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban. Xin đừng để tính ích kỷ, thói hưởng thụ khiến họ loại trừ mầm sống nơi các thai nhi vô tội. Xin cho các quốc gia trên toàn thế giới biết tôn trọng sự sống của con người để luôn dùng luật pháp mà bảo vệ sự sống chứ không bóp chết sự sống như một số quốc gia vẫn làm.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn bình an, thân xác khỏe mạnh. Xin bồi bổ tâm hồn chúng con bằng ân sủng và tình thương của Chúa. Amen
Ngày 20.12
Lc 1,26-38
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể
Người ta thường nói rằng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: Niềm vui Giáng sinh không hệ tại ở ngoại cảnh, nhưng nằm ở trong chính tâm hồn chúng con. Từ đó, chúng con luôn sẵn sàng đổi mới tâm hồn mình luôn mau mắn giao hòa cùng Chúa và anh em.
Lạy Chúa Giê-su, Trời mỗi ngày thêm lạnh hơn, không khí Noel có vẻ như tưng bừng nhộn nhịp lên. Nơi nơi tiếng hát mừng sinh nhật Chúa được vang xa bao trùm khắp không gian. Những cánh thiệp mừng sinh nhật Chúa được trao tặng nhau trong tình thương mến nồng nàn. Không gian và thời gian như đang hòa điệu với nhau để mang lại vẻ tươi vui nhộn nhịp cho ngày đại lễ. Lòng người cũng rộn lên niềm vui. Con người cũng muốn hòa chung niềm vui cùng vạn vật bằng sự sửa soạn từ tâm hồn đến thể xác những điều cần thiết cho niềm vui được trọn vẹn và bền vững. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Đức mẹ, biết kiên trì lắng nghe, cầu nguyện và suy niệm lời Chúa, để lời Chúa thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của chúng con. Xin cho chúng con cũng biết đón nhận ý Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, bằng hai tiếng xin vâng với trọn niềm phó thác tin yêu. Xin cho mọi người đều nhận ra Chúa chính là hoàng tử bình an, là niềm vui đích thực để nhân loại cùng chung niềm vui mừng sinh nhật của Chúa, không chỉ bằng những nhộn nhịp bên ngoài, nhưng bằng một sự hoán cải nội tâm, ngõ hầu niềm vui và sự bình an của Chúa ngự trị nơi mọi tâm hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết xin vâng như Mẹ. Xin vâng trong mọi hoàn cảnh. Xin vâng theo thánh ý Chúa để tâm hồn chúng con luôn bình an trong Chúa. Amen
Ngày 21. 12
Lc 1,39-45
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Giờ đây ở trước tôn nhan Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của lòng trí chúng con. Chúa làm chủ thời gian. Chúa biết rõ cuộc sống chúng con. Xin soi sáng hướng dẫn chúng con đi trong đường lối của Chúa. Xin giúp chúng con biết tôn vinh danh Chúa qua đời sống bác ái yêu thương. Xin giúp chúng con luôn quảng đại dấn thân vì hạnh phúc của tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, năm xưa Chúa đã cùng với Mẹ Maria mang niềm vui của chia sẻ, của yêu thương phục vụ đến cho gia đình Giacaira. Xin Chúa cùng đồng hành với chúng con trong cuộc sống hôm nay. Xin cho từng bước chân chúng con đi luôn để lại những dấu ấn của yêu thương, của tình người cảm thông và chia sẻ. Xin cho chúng con một tâm hồn vui tươi và quảng đại như Mẹ Maria để có thể mang niềm vui của phục vụ đến cho tha nhân. Xin giúp chúng con biết yêu thương và phục vụ khởi đi từ gia đình, làng xóm, xứ đạo chúng con. Xin đừng để một ai sống với chúng con mà cảm thấy bị bỏ rơi vì đời sống thiếu yêu thương của chúng con.
Lạy Chúa, xin cho niềm vui có Chúa ở cùng luôn mang lại cho chúng con tinh thần hăng say và nhiệt tình sống phục vụ tha nhân. Amen
Ngày 22.12
Lc 1,46-56
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Thật hạnh phúc cho chúng con khi được Chúa viếng thăm. Chúa là Thiên Chúa cao cả nhưng lại đến cư ngụ giữa những người phàm hèn chúng con. Chúa là Thiên Chúa chí thánh nhưng lại ngự vào tâm hồn yếu đuối của chúng con. Chúng con xin được chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, ở đời rất cần hai tiếng cám ơn. Cám ơn Chúa, cám ơn đời vì biết bao quà tặng của cuộc sống mang đến cho chúng con. Nhưng Chúa ơi, con mắt kiêu căng đã khiến chúng con không nhận ra ân huệ Chúa ban. Chúng con còn tự cao tự đại nên càng không nhận ra những hy sinh mà anh em đã dành cho chúng con. Chúng con còn thiếu khiêm tốn để có thể nói lời cám ơn. Xin tha thứ cho chúng con. Xin mặc cho chúng con tâm tình như Mẹ Maria để chúng con biết ca tụng Chúa, cám ơn đời vì biết bao niềm vui mà cuộc đời ban tặng.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tâm hồn đơn sơ luôn biết ngỡ ngàng trước ân ban của Chúa, để có thể cất lên lời tạ ơn Chúa, tạ ơn đời trong mỗi ngày sống của cuộc đời chúng con. Amen
Ngày 23.12
Lc 1,57-66
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Noel đã gần kề. Niềm vui Chúa giáng sinh đang rộn rã trong tâm hồn chúng con. Chúng con muốn hòa với vạn vật, với không gian để hát khen mừng Chúa đã viếng thăm nhân trần. Chúa đã viếng thăm và lưu lại nơi trái đất này để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Chúa còn viếng thăm và ở lại từng tâm hồn chúng con để trở nên đồng hình đồng dạng với chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã viếng thăm và ban ơn cho gia đình Giacaria. Chúa đã ban cho họ niềm vui qua việc đón nhận người con mới sinh là dấu chỉ đầy tình yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con luôn nghiệm thấy tình thương của Chúa để không ngớt lời ngợi khen và cảm tạ Chúa. Cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng con giống hình ảnh Chúa. Cám ơn Chúa đã cho chúng con nên nghĩa tử của Chúa. Cám ơn Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, mỗi người chúng con đều là một tác phẩm đầy yêu thương của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống một đời tri ân và cảm tạ Chúa luôn. Amen
Ngày 24.12
Lc 1,67-79
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là Đấng thành tín và đầy yêu thương. Chúa luôn trung thành với tình yêu của mình. Chúa đã tỏ lòng yêu thương vô bờ bến cho nhân trần chúng con qua việc giáng thế cứu đời. Chúa luôn thành tín trong mọi lời Chúa phán: Chúa sẽ cứu thoát chúng con khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con biết chuẩn bị lòng mình cho xứng đáng đón mừng Chúa đến viếng thăm.
Lạy Chúa, nếu không gian đã được trang hoàng bởi những cây thông, những hang đá, những đèn sao lấp lánh, thì tâm hồn chúng con cũng cần được dọn dẹp cho xứng đáng để đón mừng Chúa viếng thăm. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria, biết kiên trì lắng nghe, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, để lời Chúa thực sự trở thành kim chỉ nam cho đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận ý Chúa trong mọi biến cố cuộc đời bằng hai tiếng xin vâng với trọn niềm phó thác tin yêu.
Lạy Chúa, Chúa là hoàng tử bình an, xin cho chúng con biết thành tâm thiện chí tìm đến với Chúa để được bình an trong tâm hồn giữa những khó khăn trong cuộc đời hôm nay. Amen
Ngày 25.12
LỄ GIÁNG SINH
Lạy Chúa Giêsu mến yêu !
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giáng sinh làm người. Chúng con xin dâng lời cảm tạ tình thương ưu ái mà Chúa đã dành cho nhân loại chúng con. Tình thương đó thể hiện qua việc từ bỏ của Chúa. Chúa từ bỏ ngai trời để xuống cư ngụ giữa chốn dương gian. Chúa từ bỏ ngôi vị Thiên Chúa mà mặc lấy xác thân phàm nhân. Ba mươi ba năm tại thế của Chúa, là bấy nhiêu năm Chúa ghi dấu tình yêu trên trần gian. Ba mươi ba năm là thời gian qúa ngắn của một đời người. Thế mà Chúa đã làm biết bao điều cao cả. Thập tự giá của Chúa đã trở thành biểu tượng cho mọi tình yêu trên trái đất. Yêu thương đến quên cả chính mình và dám chết cho người mình yêu. Cuộc sống của Chúa đã trở nên gương mẫu cho con người sống với nhau. “Nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Sự Phục sinh và lên trời của Chúa đã khai mở cho nhân loại một mùa xuân hy vọng và lạc quan. “Thầy đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”
Vì vậy, mà hơn hai ngàn năm trôi qua, nhân loại vẫn không ngừng nói về những công việc của Chúa. Dù kẻ có niềm tin hay không, cũng không thể chối bỏ gía trị cuộc sống gương mẫu của Chúa. Càng không thể gạt ra ngoài những lời dậy dỗ đầy tình bác ái yêu thương. “Hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Lời nói thật chí tình được kèm theo cả hành vi thấm đượm tình người của Chúa đã đi vào trong tâm khảm từng người chúng con. Biến đổi thế giới đầy hoang mạc khô cằn tình người, thành một mùa xuân nở rộ hoa bác bái yêu thương. Chính cách sống của Chúa đã giúp cho con người biết sống cho nhau và vì nhau, để đến hôm nay, cả nhân loại đều mừng lễ Noel, mừng ngày Chúa giáng trần và ở cùng chúng con. Bất luận người lương hay giáo, lời cầu chúc Noel đã luôn sẵn sàng phát ra trên đôi môi mỗi người, và chúc nhau mừng lễ Noel, nghiã là mừng chúc nhau có Chúa ở cùng. Có lẽ đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất mà con người đã trao tặng nhau. Lời cầu chúc này gởi gắm cả một sứ điệp yêu thương và bình an. Vì Chúa chính là hoàng tử bình an, là Đức vua thái bình, là Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến và ở giữa chúng ta.
Xin cho chúng con không chỉ trao gởi cho nhau những lời cầu chúc, mà còn nỗ lực giúp nhau đón nhận Chúa. Xây dựng niềm tin cho nhau bằng chính cuộc sống chứng tá tin mừng của mình. Xin cho chúng con biết từ bỏ như Chúa, để xóa đi những thành kiến, đố kỵ, ghen tương, những hận thù chia rẽ đã ngăn cách chúng con đến với nhau. Xin cho chúng con biết sống chân thành với nhau. Người người biết tôn trọng sự thật, tôn trọng sự sống của nhau. Sẵn lòng hy sinh những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất và yêu thương. Xin cho mỗi người chúng con cũng là một ánh sao để thắp sáng niềm tin và hy vọng cho thế giới, và dẫn lối anh chị em đến với Chúa, ngõ hầu danh Chúa được tán dương trên khắp hoàn cầu. Amen
Ngày 26.12
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúng con thật hạnh phúc vì được rước Chúa vào lòng. Chúng con tin rằng mỗi lần rước Chúa là một lần chúng con nhận lãnh sự sống phục sinh của Chúa. Chúng con được nuôi dưỡng bằng chính Thánh Thể Chúa trên hành trình tiến về quê hương trên trời. Điều đó cho chúng con một niềm hy vọng mai sau sẽ được chung hưởng sự sống vĩnh cửu trong hạnh phúc viên mãn với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Ước gì chúng con luôn yêu mến và hằng tôn sùng Thánh Thể Chúa như cứu cánh và mục đích cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, khi nhập thể làm người, Chúa đã đón nhận thân xác hữu hạn như chúng con. Chúa đã sinh ra trong thời gian. Lớn lên theo năm tháng như bao người khác. Chúa đã nêu gương cho chúng con về cách dùng thời giờ đời này để chuẩn bị cho hành trình mai sau. Chúa đã luôn chu toàn tốt bổn phận hằng ngày của mình. Khi con nhỏ Chúa hằng vâng phục cha mẹ mình. Khi lớn lên Chúa hằng sống hy sinh phục vụ anh em đồng loại. Chúa hằng cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha, và khi đã hiểu ra thiên ý Chúa Cha, Chúa vui lòng đón nhận, dẫu phải trả giá bằng đớn đau khổ hình. Chúa vẫn sẵn lòng để ý Chúa Cha được nên trọn. Chính sự vâng phục đó đã khai mở một mùa xuân mới cho nhân loại. Sự chết đã bị đánh bại bởi sự vâng phục của Chúa. Chúa đã được Chúa Cha ban tặng vinh hiển trên trời. Chúa cũng nói với chúng con, “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”.
Lạy Chúa, Chúa đã nhập thể để khai mở cho chúng con một con đường về trời. Xin cho chúng con biết phấn đấu đi vào con đường hẹp trong hy sinh từ bỏ để vào Nước trời. Xin ban ơn can đảm để chúng con nói không với tội lỗi và trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen
Ngày 27.12 – Thánh Gioan
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con xin được cùng với thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu: “tựa sát vào lòng Chúa” để được nghe nhịp đập yêu thương của Chúa. Chúng con muốn được kề bên Chúa để được hun nóng tình yêu đối với tha nhân. Chúng con muốn được vào học nơi trường đào tạo yêu thương của Chúa để có thể sống quên mình mà phục vụ tha nhân.
Vâng lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại mà Chúa đã đến cư ngụ giữa loài người chúng con. Chúa thực sự hòa nhập vào lịch sử nhân loại để dẫn dắt chúng con đi trong chân lý vẹn toàn. Chúa trở nên đồng hình đồng dạng với con người hầu kết hợp chúng con nên một trong gia đình của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận ra nhau là anh em để biết sống liên đới và chia sẻ với nhau. Xin giúp chúng con biết nhận ra Chúa đang giáng sinh trong cuộc đời chúng con qua những mảnh đời bất hạnh, yếu đau, tù đày đang cần chúng con chăm sóc. Xin giúp chúng con luôn quảng đại nhập thế giúp đời như Chúa để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Xin cho chúng con biết họa lại tình yêu của Chúa cho thế giới hôm nay. Xin cho nhịp đập con tim của chúng con cùng chung nhịp với Chúa để hòa lên khúc hát yêu thương cho nhân thế hôm nay. Amen
Ngày 28.12
Lạy Chúa Giê-su mến yêu.
Chúa là Đấng Emmanuel đã đến và ở cùng chúng con. Chúa đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần sự chăm sóc chở che. Chúa đang cần một chiếc nôi. Chúa cần một hơi ấm tình người. Chúa cần một gia đình để đón nhận Chúa. Chúa cần một nhu cầu cuộc sống thật bình thường như bao trẻ thơ khác, thế mà dòng đời luôn khắc nghiệt, luôn đòi lấy đi tất cả những gì thiết yếu của cuộc sống. Dòng đời muốn loại trừ Chúa. Con người chỉ vì một chút bổng lộc mà đang tâm loại trừ Thiên Chúa.
Và cho đến hôm nay, dòng đời vẫn còn đó những trẻ thơ bị khước từ, bị bỏ rơi và lợi dụng. Dòng đời vẫn còn đó những trẻ thơ không một mái nhà, không một chiếc nôi và chẳng bao giờ được hưởng hơi ấm tình người. Xin Chúa là Đấng Emmanuel ở cùng chúng con luôn gìn giữ các trẻ thơ trong tình thương quan phòng của Chúa. Xin cho các bậc làm cha mẹ biết bỏ đi tính ích kỷ, thói hưởng thụ của mình để sống vì con cái và có trách nhiệm với tuổi thơ mà Thiên Chúa trao gởi. Xin đừng vì sự thiếu trách nhiệm của mình mà đẩy tuổi thơ vào cảnh đời khốn khổ lầm than.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu quý tuổi thơ, xin Chúa hãy chúc lành cho tuổi thơ giáo xứ chúng con. Xin cho mọi trẻ thơ đều được lớn lên trong tình thương chăm sóc của cha của mẹ. Xin Chúa hài đồng mang lại niềm vui, nụ cười cho tuổi thơ giáo xứ chúng con. Amen
Ngày 29.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Với niềm vui được đón rước Chúa vào lòng, xin cho chúng con cũng tràn đầy niềm vui như cụ già Si-mê-on năm xưa để có thể thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin để tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ”. Thật, chẳng có vinh dự nào cao quý hơn vinh dự được chính Thiên Chúa viếng thăm. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con. Chúa lưu lại nơi mảnh đất tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết biến niềm vui thành một đời sống hân hoan ca tụng Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, dân tộc Do Thái đã từng hãnh diện vì được Chúa ở giữa họ qua hòm bia giao ước. Nhưng đáng tiếc là họ không đủ đức tin để nhận ra Chúa đang hiện diện qua thân phận con người một hài nhi nhỏ bé. Họ lại càng không nhận ra Chúa qua thân phận một Giê-su đang miệt mài gieo vãi yêu thương vào cho nhân thế. Xin ban thêm đức tin để chúng con có thể nhận ra Chúa vẫn đang nhập thể từng ngày nơi những hài nhi đang cần sự chăm sóc chở che. Xin giúp chúng con nhận ra Chúa đang nhập thế cứu đời nơi những con người biết sống quên mình phục vụ tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa đã mang lấy thân phận con người để ở cùng chúng con. Xin cho chúng con biết vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương chân thành. Xin giúp chúng con đừng vì tính ích kỷ, thói tự cao tự đại mà xa lánh nhau. Amen
Ngày 30.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh thể,
Chúa đã đến trần gian trong âm thầm lặng lẽ. Chúa không đến để thay đổi nhịp sống của con người. Chúa không làm đảo lộn cuộc sống bằng những việc phi thường. Nhưng một cách nhẹ nhàng Chúa đi vào dòng đời trong thân phận một hài nhi nhỏ bé. Chúa lớn lên trong một thôn làng bình thường như bao trẻ thơ khác. Chúa cũng từng bước: học ăn, học nói, học gói, học mở như bao trẻ thơ khác, nhưng điều quan yếu là Chúa luôn được ơn nghĩa cùng Chúa Cha.
Lạy Chúa Giê-su hài đồng mến yêu, xin cho chúng con đôi mắt đức tin như bà Anna để có thể nói với Chúa và nói về Chúa cho anh em. Bà Anna đã mãn nguyện khi được bồng ẵm Đấng mà bà tôn thờ nơi hài nhi bé nhỏ. Bà được diễm phúc nhận ra Chúa trong khung cảnh rất đời thường. Xin cho chúng con được diễm phúc nhận ra Chúa đang hiện diện với chúng con qua Thánh Thể, qua các bí tích và qua tha nhân đang đồng hành với chúng con. Xin giúp chúng con biết vui với phận mình và đón nhận thập giá của bổn phận với niềm yêu mến Chúa sắt son. Xin giúp chúng con biết tận dụng khả năng, hoàn cảnh của mình để nói về Chúa cho anh em.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa. Xin cho chúng con luôn được sống trong ân sủng và tình thương của Chúa. Amen
Ngày 31.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là ánh sáng cho trần gian. Chúa đã hóa thánh “nhục thể và cư ngụ giữa chúng con”. Chúa đã mang lại cho chúng con niềm hy vọng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau những đau khổ chồng chất là chân trời hạnh phúc. Chúa đã soi sáng cho nhân loại chúng con biết đâu là thiện, là ác. Chúa soi lối cho chúng con bước đi trên con đường tìm về chân thiện mỹ vẹn tuyền.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, thế là 365 ngày đã trôi qua. Một năm trôi qua với biết bao thăng trầm của đời người. Buồn vui cứ đan quyện vào từng cuộc đời chúng con. Điều hạnh phúc cho chúng con đó chính là sự đồng hành của Chúa ở cùng chúng con. Chúa cùng chia vui sẻ buồn với chúng con. Chúa luôn là chỗ dựa, lả điểm tựa an bình cho từng cuộc đời chúng con. Chúng con xin dâng lời cảm tạ tình thương Chúa. Tình thương Chúa đã giúp chúng con vượt thắng những khó khăn, những thử thách của giòng đời. Tình thương Chúa đã cho chúng con những phút giây bình an, những tháng ngày hạnh phúc.
Lạy Chúa, mọi sự rồi sẽ qua đi. Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì. Xin cho chúng con biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Xin giúp chúng con biết xây dựng ngôi nhà tâm hồn chúng con luôn thanh thoát khỏi những bợn nhơ tội lỗi, luôn quy hướng về sự thiện toàn mỹ. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con. Amen
LỄ THÁNH GIA LC (2,22-40)
“Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ dầy khôn ngoan và vâng phục”
Lạy Chúa Giêsu thánh thể!
Tâm hồn chúng con tràn đầy niềm vui và hạnh phúc vì được kết hiệp với Chúa. Qua hình bánh đơn sơ, Chúa hòa nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa trở người bạn luôn gần gũi, để hướng dẫn và nâng đỡ chúng con. Chúa ơi! Giờ đây chúng con tưởng nhớ về mái ấm gia đình Nagiaret xưa. Nơi Chúa đã bập bẹ những tiếng nói đầu tiên và chập chững những bước đi đầu đời trong vòng tay của Cha thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa là Chúa muôn loài, nhưng để làm người như chúng con, Chúa đã chấp nhận làm người của một gia đình nghèo khó.
Lạy Chúa, cây có cội-nước có nguồn. Công cha nghĩa mẹ thật bao la như trời biển. Nhờ gương sống của Chúa, đã giúp chúng con hiểu rằng: chúng con chỉ sống đẹp lòng Chúa, nếu chúng con chỉ sống đẹp lòng Chúa, nếu chúng con biết vâng lời và hiếu thảo với mẹ cha. Chúng con nguyện sẽ mãi mãi sống đẹp lòng Chúa qua việc ăn ở thảo kính với cha mẹ. Trong giây phút linh thiêng này, chúng con cầu xin Chúa cho những bạn thiếu nhi đang sống cảnh gia đình li tán, cha mẹ bất hòa. Xin cho gia đình họ sớm quay về đoàn tụ và yêu thương nhau. Hầu con cái được hưởng đầy đủ hơi ấm của tình thương gia đình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Nếu có lần nào chúng con lỡ lầm về lời nói, cữ chỉ hay có thái độ bất hiếu với cha mẹ. Và nếu có lần nào chúng con gây bất hòa trong gia đình. Giờ đây chúng con thành tâm thống hối ăn năn quyết tâm chừa sửa. Cầu Chúa dủ lòng thương tha thứ, để gia đình chúng con luôn sống yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau. Amen.
Ngày 01.01.2010 Lễ Mẹ Thiên Chúa
Lạy Chúa Hài đồng Giê-su,
Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen
Ngày 02.01
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con thật hạnh phúc vì được Chúa hiện diện giữa chúng con. Chúa đang đi vào trong cuộc đời chúng con. Chúa cùng đồng hành với chúng con qua những thăng trầm của giòng đời. Chúng con tạ ơn Chúa đã bao lần nâng đỡ, chở che, giúp chúng con vượt qua những gian truân thử thách trong cuộc đời. Tạ ơn Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con trước sóng gió ba đào. Chúng con xin tri ân cảm tạ tình yêu cao sâu của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống trong ân nghĩa cùng Chúa, biết phụng sự Chúa trên hết mọi sự.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, xin giúp chúng con biết bắt chước thánh Gioan, luôn khiêm nhu chân thành để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con luôn ý thức rằng mình chỉ là hạt cát giữa sa mạc mênh mông, là giọt nước góp nên biển cả, một phận người nhỏ bé trong muôn tạo vật mà Chúa đã tạo dựng nên. Xin loại trừ nơi chúng con bản tính tự cao, tự đại để sống khiêm nhu trước mặt Chúa và với anh em.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ, xin giúp chúng con biết tin tưởng, phó thác vào Chúa như em thơ phó thác nơi cha mẹ mình. Amen
Ngày 03.01 - LỄ HIỂN LINH
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Nếu như Ba vua đã được ánh sao soi lối để gặp nhau nơi máng cỏ Be lem, giờ đây chúng con cũng được chính Chúa quy tụ chúng con quanh bàn tiệc Thánh Thể của Chúa. Chúng con xin được như ba vua nghiêng mình thờ lạy và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa, Chúa chính là ánh sáng trần gian. Chúa đã đến để mang ánh sáng tin yêu, hy vọng vào nơi thế gian. Giữa đêm đen của cuộc đời đầy bất công thù hận, chiến tranh và chia rẽ, Chúa đã khai mở một mùa xuân yêu thương và hiệp nhất bằng chính tình yêu hiến thân quên mình của Chúa. Nơi bí tích Thánh Thể Chúa đã nối kết tình người bằng của ăn là chính Chúa trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng con. Ước gì qua sự chia sẻ bữa ăn yêu thương này, tình người mỗi ngày thêm gắn bó và yêu thương nhau hơn. Ước gì sự hiệp nhất chia sẻ này được khởi đi từ bàn ăn gia đình chúng con. Chúng con mong sao nơi gia đình chúng con luôn chan hòa tình yêu thương của cha mẹ và đậm đà tình huynh đệ của anh em một nhà. Xin Chúa mãi là ánh sao luôn phù hộ và che chở gia đình chúng con trong tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng con nhận ra dấu chỉ sự hiện diện yêu thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời. Cho dù phải vượt qua những đêm dài của mò mẫm trong đức tin, hay những năm tháng dài vất vả trên hành trình dương thế. Chúa muốn chúng con phải theo chân ba vua, can đảm vượt qua những chán nản, thất vọng. Chúa mời gọi chúng con phải chiến thắng với chính bản thân mình, phải vượt qua sự uể oải, lười biếng để tìm gặp và đến với Chúa mỗi ngày. Đến với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể, đến với Chúa qua người anh em, đến với Chúa qua những người nghèo hèn và tật nguyền khốn khó.
Lạy Chúa, cùng với lòng yêu mến sắt son như vàng của ba vua dâng tiến Chúa. Và lời cầu nguyện chân thành đơn sơ như nhũ hương lan tỏa trước thánh nhan Chúa. Chúng con nguyện sẽ tiến bước cùng ba vua lên đường đi tìm gặp Chúa trong những người anh em mà Chúa đang kêu gọi chúng con quảng đại yêu thương họ. Chúa chẳng cần chi lễ vật cao sang, Chúa chỉ đòi hỏi nơi chúng con tình yêu và sự hy sinh cao thượng đối với anh em đồng loại. Tình yêu đó thể hiện qua thái độ cảm thông, chia sẻ, và sự quảng đại giúp đỡ mà không mong đền đáp. Xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa qua việc siêng năng học hỏi giáo lý, cùng suy niệm lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống thường ngày. Ngõ hầu qua những lời nói và việc làm của chúng con, người ta sẽ nhận biết tôn thờ và ngợi khen Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ nhân loại. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Mt 1,1-17
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con tin rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng con. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con qua hình bánh đơn sơ bé mọn. Chúa lưu lại trong chúng con bằng ơn thánh qua bí tích Thánh Thể. Chúng con thật hạnh phúc vì được đón nhận quà tặng vô giá là chính Chúa ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúng con xin tri ân và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, chúng con thật hạnh phúc được sinh ra trong đức tin của Hội Thánh. Đức tin đó được chính Chúa nuôi dưỡng và củng cố qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Nhưng Chúa ơi, đức tin của chúng con cũng có lúc tăm tối như Abraham và cũng trải qua biết bao thử thách như Mô-sê. Cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió, thử thách, gian nan, lận đận vẫn cuốn vào kiếp người chúng con. Có những lúc chúng con muốn buông trôi theo dòng đời. Có những lúc chúng con hụt hẫng mất niềm tin vào sự quan phòng của Chúa. Xin tha thứ cho những lầm lỗi của chúng con. Xin ban cho chúng con đức tin kiên vững để vượt qua những thử thách gian nguy. Xin cho chúng con một lòng trung tín vào Chúa cho dẫu giòng đời có xô đẩy bởi biết bao khốn khó tư bề.
Lạy Chúa, Chúa luôn có chương trình cho từng cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con luôn tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa. Xin giúp chúng con luôn đọc ra ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời chúng con. Amen.
Ngày 18.12
Mt 1,18-24
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Qua việc nhập thể làm người Chúa đã mang ơn thánh hóa đến cho nhân trần chúng con. Chúa làm người cho con người làm con Thiên Chúa. Đây là ân huệ vô cùng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con. Chúng con xin hết lòng tri ân cảm tạ Chúa. Tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con. Tạ ơn Chúa đã mang thân phận con người để nâng loài người chúng con lên làm con Thiên Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết mở rộng lòng đón rước Chúa mỗi ngày, để Chúa ở cùng chúng con sẽ mang lại cho chúng con niềm vui và sự hoan lạc tràn ngập tâm hồn.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, có Chúa ở cùng chúng con là một hồng ân vô giá mà Chúa dành cho chúng con. Quả thực, đâu còn gì hạnh phúc hơn khi được chính Chúa cùng chia sẻ vui buồn trong những thăng trầm của cuộc đời chúng con. Sự hiện diện của Chúa như người cha luôn mang lại cho con cái niềm tin, nghị lực, sức phấn đấu và sự ủi an. Xin giúp chúng con biết học nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, cầu nguyện để nhận ra ý Chúa trong từng biến cố của cuộc đời. Xin giúp chúng con luôn quảng đại dấn thân cho ý Chúa được thực hiện như thánh Giuse đã quảng đại đón nhận Mẹ Maria về làm bạn của mình. Xin giúp chúng con cũng biết đón nhận ý Chúa bằng hai tiếng xin vâng với trọn lòng yêu mến như Mẹ Maria.
Lạy Chúa, xin dùng chúng con như khí cụ của Chúa để công việc và thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời hôm nay. Amen
Ngày 19.12
Lc 1,5-25
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa đã đến lần thứ nhất, đã nhập thế làm người và qua đó trao ban cho chúng con niềm vui ơn cứu độ. Chúng con thực sự vui mừng vì có Chúa ở cùng chúng con. Chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Chúng con xin hết lòng cảm tạ, tri ân tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Vâng, lạy Chúa, tình yêu đó hôm nay Chúa đã dành cho gia đình Giacaria. Chúa đã viếng thăm gia đình ông. Chúa đã tỏ lòng thương xót gia đình ông qua món quá vô giá là đứa con được sinh ra trong lòng thương xót của Chúa. Xin cho các gia đình trẻ hôm nay biết yêu mến sự sống là quà tặng của Chúa. Xin cho họ biết quảng đại đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban. Xin đừng để tính ích kỷ, thói hưởng thụ khiến họ loại trừ mầm sống nơi các thai nhi vô tội. Xin cho các quốc gia trên toàn thế giới biết tôn trọng sự sống của con người để luôn dùng luật pháp mà bảo vệ sự sống chứ không bóp chết sự sống như một số quốc gia vẫn làm.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn bình an, thân xác khỏe mạnh. Xin bồi bổ tâm hồn chúng con bằng ân sủng và tình thương của Chúa. Amen
Ngày 20.12
Lc 1,26-38
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể
Người ta thường nói rằng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: Niềm vui Giáng sinh không hệ tại ở ngoại cảnh, nhưng nằm ở trong chính tâm hồn chúng con. Từ đó, chúng con luôn sẵn sàng đổi mới tâm hồn mình luôn mau mắn giao hòa cùng Chúa và anh em.
Lạy Chúa Giê-su, Trời mỗi ngày thêm lạnh hơn, không khí Noel có vẻ như tưng bừng nhộn nhịp lên. Nơi nơi tiếng hát mừng sinh nhật Chúa được vang xa bao trùm khắp không gian. Những cánh thiệp mừng sinh nhật Chúa được trao tặng nhau trong tình thương mến nồng nàn. Không gian và thời gian như đang hòa điệu với nhau để mang lại vẻ tươi vui nhộn nhịp cho ngày đại lễ. Lòng người cũng rộn lên niềm vui. Con người cũng muốn hòa chung niềm vui cùng vạn vật bằng sự sửa soạn từ tâm hồn đến thể xác những điều cần thiết cho niềm vui được trọn vẹn và bền vững. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Đức mẹ, biết kiên trì lắng nghe, cầu nguyện và suy niệm lời Chúa, để lời Chúa thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của chúng con. Xin cho chúng con cũng biết đón nhận ý Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, bằng hai tiếng xin vâng với trọn niềm phó thác tin yêu. Xin cho mọi người đều nhận ra Chúa chính là hoàng tử bình an, là niềm vui đích thực để nhân loại cùng chung niềm vui mừng sinh nhật của Chúa, không chỉ bằng những nhộn nhịp bên ngoài, nhưng bằng một sự hoán cải nội tâm, ngõ hầu niềm vui và sự bình an của Chúa ngự trị nơi mọi tâm hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết xin vâng như Mẹ. Xin vâng trong mọi hoàn cảnh. Xin vâng theo thánh ý Chúa để tâm hồn chúng con luôn bình an trong Chúa. Amen
Ngày 21. 12
Lc 1,39-45
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Giờ đây ở trước tôn nhan Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của lòng trí chúng con. Chúa làm chủ thời gian. Chúa biết rõ cuộc sống chúng con. Xin soi sáng hướng dẫn chúng con đi trong đường lối của Chúa. Xin giúp chúng con biết tôn vinh danh Chúa qua đời sống bác ái yêu thương. Xin giúp chúng con luôn quảng đại dấn thân vì hạnh phúc của tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, năm xưa Chúa đã cùng với Mẹ Maria mang niềm vui của chia sẻ, của yêu thương phục vụ đến cho gia đình Giacaira. Xin Chúa cùng đồng hành với chúng con trong cuộc sống hôm nay. Xin cho từng bước chân chúng con đi luôn để lại những dấu ấn của yêu thương, của tình người cảm thông và chia sẻ. Xin cho chúng con một tâm hồn vui tươi và quảng đại như Mẹ Maria để có thể mang niềm vui của phục vụ đến cho tha nhân. Xin giúp chúng con biết yêu thương và phục vụ khởi đi từ gia đình, làng xóm, xứ đạo chúng con. Xin đừng để một ai sống với chúng con mà cảm thấy bị bỏ rơi vì đời sống thiếu yêu thương của chúng con.
Lạy Chúa, xin cho niềm vui có Chúa ở cùng luôn mang lại cho chúng con tinh thần hăng say và nhiệt tình sống phục vụ tha nhân. Amen
Ngày 22.12
Lc 1,46-56
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Thật hạnh phúc cho chúng con khi được Chúa viếng thăm. Chúa là Thiên Chúa cao cả nhưng lại đến cư ngụ giữa những người phàm hèn chúng con. Chúa là Thiên Chúa chí thánh nhưng lại ngự vào tâm hồn yếu đuối của chúng con. Chúng con xin được chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, ở đời rất cần hai tiếng cám ơn. Cám ơn Chúa, cám ơn đời vì biết bao quà tặng của cuộc sống mang đến cho chúng con. Nhưng Chúa ơi, con mắt kiêu căng đã khiến chúng con không nhận ra ân huệ Chúa ban. Chúng con còn tự cao tự đại nên càng không nhận ra những hy sinh mà anh em đã dành cho chúng con. Chúng con còn thiếu khiêm tốn để có thể nói lời cám ơn. Xin tha thứ cho chúng con. Xin mặc cho chúng con tâm tình như Mẹ Maria để chúng con biết ca tụng Chúa, cám ơn đời vì biết bao niềm vui mà cuộc đời ban tặng.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tâm hồn đơn sơ luôn biết ngỡ ngàng trước ân ban của Chúa, để có thể cất lên lời tạ ơn Chúa, tạ ơn đời trong mỗi ngày sống của cuộc đời chúng con. Amen
Ngày 23.12
Lc 1,57-66
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Noel đã gần kề. Niềm vui Chúa giáng sinh đang rộn rã trong tâm hồn chúng con. Chúng con muốn hòa với vạn vật, với không gian để hát khen mừng Chúa đã viếng thăm nhân trần. Chúa đã viếng thăm và lưu lại nơi trái đất này để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Chúa còn viếng thăm và ở lại từng tâm hồn chúng con để trở nên đồng hình đồng dạng với chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã viếng thăm và ban ơn cho gia đình Giacaria. Chúa đã ban cho họ niềm vui qua việc đón nhận người con mới sinh là dấu chỉ đầy tình yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con luôn nghiệm thấy tình thương của Chúa để không ngớt lời ngợi khen và cảm tạ Chúa. Cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng con giống hình ảnh Chúa. Cám ơn Chúa đã cho chúng con nên nghĩa tử của Chúa. Cám ơn Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, mỗi người chúng con đều là một tác phẩm đầy yêu thương của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống một đời tri ân và cảm tạ Chúa luôn. Amen
Ngày 24.12
Lc 1,67-79
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là Đấng thành tín và đầy yêu thương. Chúa luôn trung thành với tình yêu của mình. Chúa đã tỏ lòng yêu thương vô bờ bến cho nhân trần chúng con qua việc giáng thế cứu đời. Chúa luôn thành tín trong mọi lời Chúa phán: Chúa sẽ cứu thoát chúng con khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con biết chuẩn bị lòng mình cho xứng đáng đón mừng Chúa đến viếng thăm.
Lạy Chúa, nếu không gian đã được trang hoàng bởi những cây thông, những hang đá, những đèn sao lấp lánh, thì tâm hồn chúng con cũng cần được dọn dẹp cho xứng đáng để đón mừng Chúa viếng thăm. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria, biết kiên trì lắng nghe, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, để lời Chúa thực sự trở thành kim chỉ nam cho đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận ý Chúa trong mọi biến cố cuộc đời bằng hai tiếng xin vâng với trọn niềm phó thác tin yêu.
Lạy Chúa, Chúa là hoàng tử bình an, xin cho chúng con biết thành tâm thiện chí tìm đến với Chúa để được bình an trong tâm hồn giữa những khó khăn trong cuộc đời hôm nay. Amen
Ngày 25.12
LỄ GIÁNG SINH
Lạy Chúa Giêsu mến yêu !
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giáng sinh làm người. Chúng con xin dâng lời cảm tạ tình thương ưu ái mà Chúa đã dành cho nhân loại chúng con. Tình thương đó thể hiện qua việc từ bỏ của Chúa. Chúa từ bỏ ngai trời để xuống cư ngụ giữa chốn dương gian. Chúa từ bỏ ngôi vị Thiên Chúa mà mặc lấy xác thân phàm nhân. Ba mươi ba năm tại thế của Chúa, là bấy nhiêu năm Chúa ghi dấu tình yêu trên trần gian. Ba mươi ba năm là thời gian qúa ngắn của một đời người. Thế mà Chúa đã làm biết bao điều cao cả. Thập tự giá của Chúa đã trở thành biểu tượng cho mọi tình yêu trên trái đất. Yêu thương đến quên cả chính mình và dám chết cho người mình yêu. Cuộc sống của Chúa đã trở nên gương mẫu cho con người sống với nhau. “Nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Sự Phục sinh và lên trời của Chúa đã khai mở cho nhân loại một mùa xuân hy vọng và lạc quan. “Thầy đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”
Vì vậy, mà hơn hai ngàn năm trôi qua, nhân loại vẫn không ngừng nói về những công việc của Chúa. Dù kẻ có niềm tin hay không, cũng không thể chối bỏ gía trị cuộc sống gương mẫu của Chúa. Càng không thể gạt ra ngoài những lời dậy dỗ đầy tình bác ái yêu thương. “Hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Lời nói thật chí tình được kèm theo cả hành vi thấm đượm tình người của Chúa đã đi vào trong tâm khảm từng người chúng con. Biến đổi thế giới đầy hoang mạc khô cằn tình người, thành một mùa xuân nở rộ hoa bác bái yêu thương. Chính cách sống của Chúa đã giúp cho con người biết sống cho nhau và vì nhau, để đến hôm nay, cả nhân loại đều mừng lễ Noel, mừng ngày Chúa giáng trần và ở cùng chúng con. Bất luận người lương hay giáo, lời cầu chúc Noel đã luôn sẵn sàng phát ra trên đôi môi mỗi người, và chúc nhau mừng lễ Noel, nghiã là mừng chúc nhau có Chúa ở cùng. Có lẽ đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất mà con người đã trao tặng nhau. Lời cầu chúc này gởi gắm cả một sứ điệp yêu thương và bình an. Vì Chúa chính là hoàng tử bình an, là Đức vua thái bình, là Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến và ở giữa chúng ta.
Xin cho chúng con không chỉ trao gởi cho nhau những lời cầu chúc, mà còn nỗ lực giúp nhau đón nhận Chúa. Xây dựng niềm tin cho nhau bằng chính cuộc sống chứng tá tin mừng của mình. Xin cho chúng con biết từ bỏ như Chúa, để xóa đi những thành kiến, đố kỵ, ghen tương, những hận thù chia rẽ đã ngăn cách chúng con đến với nhau. Xin cho chúng con biết sống chân thành với nhau. Người người biết tôn trọng sự thật, tôn trọng sự sống của nhau. Sẵn lòng hy sinh những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất và yêu thương. Xin cho mỗi người chúng con cũng là một ánh sao để thắp sáng niềm tin và hy vọng cho thế giới, và dẫn lối anh chị em đến với Chúa, ngõ hầu danh Chúa được tán dương trên khắp hoàn cầu. Amen
Ngày 26.12
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúng con thật hạnh phúc vì được rước Chúa vào lòng. Chúng con tin rằng mỗi lần rước Chúa là một lần chúng con nhận lãnh sự sống phục sinh của Chúa. Chúng con được nuôi dưỡng bằng chính Thánh Thể Chúa trên hành trình tiến về quê hương trên trời. Điều đó cho chúng con một niềm hy vọng mai sau sẽ được chung hưởng sự sống vĩnh cửu trong hạnh phúc viên mãn với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Ước gì chúng con luôn yêu mến và hằng tôn sùng Thánh Thể Chúa như cứu cánh và mục đích cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, khi nhập thể làm người, Chúa đã đón nhận thân xác hữu hạn như chúng con. Chúa đã sinh ra trong thời gian. Lớn lên theo năm tháng như bao người khác. Chúa đã nêu gương cho chúng con về cách dùng thời giờ đời này để chuẩn bị cho hành trình mai sau. Chúa đã luôn chu toàn tốt bổn phận hằng ngày của mình. Khi con nhỏ Chúa hằng vâng phục cha mẹ mình. Khi lớn lên Chúa hằng sống hy sinh phục vụ anh em đồng loại. Chúa hằng cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha, và khi đã hiểu ra thiên ý Chúa Cha, Chúa vui lòng đón nhận, dẫu phải trả giá bằng đớn đau khổ hình. Chúa vẫn sẵn lòng để ý Chúa Cha được nên trọn. Chính sự vâng phục đó đã khai mở một mùa xuân mới cho nhân loại. Sự chết đã bị đánh bại bởi sự vâng phục của Chúa. Chúa đã được Chúa Cha ban tặng vinh hiển trên trời. Chúa cũng nói với chúng con, “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”.
Lạy Chúa, Chúa đã nhập thể để khai mở cho chúng con một con đường về trời. Xin cho chúng con biết phấn đấu đi vào con đường hẹp trong hy sinh từ bỏ để vào Nước trời. Xin ban ơn can đảm để chúng con nói không với tội lỗi và trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen
Ngày 27.12 – Thánh Gioan
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con xin được cùng với thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu: “tựa sát vào lòng Chúa” để được nghe nhịp đập yêu thương của Chúa. Chúng con muốn được kề bên Chúa để được hun nóng tình yêu đối với tha nhân. Chúng con muốn được vào học nơi trường đào tạo yêu thương của Chúa để có thể sống quên mình mà phục vụ tha nhân.
Vâng lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại mà Chúa đã đến cư ngụ giữa loài người chúng con. Chúa thực sự hòa nhập vào lịch sử nhân loại để dẫn dắt chúng con đi trong chân lý vẹn toàn. Chúa trở nên đồng hình đồng dạng với con người hầu kết hợp chúng con nên một trong gia đình của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận ra nhau là anh em để biết sống liên đới và chia sẻ với nhau. Xin giúp chúng con biết nhận ra Chúa đang giáng sinh trong cuộc đời chúng con qua những mảnh đời bất hạnh, yếu đau, tù đày đang cần chúng con chăm sóc. Xin giúp chúng con luôn quảng đại nhập thế giúp đời như Chúa để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Xin cho chúng con biết họa lại tình yêu của Chúa cho thế giới hôm nay. Xin cho nhịp đập con tim của chúng con cùng chung nhịp với Chúa để hòa lên khúc hát yêu thương cho nhân thế hôm nay. Amen
Ngày 28.12
Lạy Chúa Giê-su mến yêu.
Chúa là Đấng Emmanuel đã đến và ở cùng chúng con. Chúa đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần sự chăm sóc chở che. Chúa đang cần một chiếc nôi. Chúa cần một hơi ấm tình người. Chúa cần một gia đình để đón nhận Chúa. Chúa cần một nhu cầu cuộc sống thật bình thường như bao trẻ thơ khác, thế mà dòng đời luôn khắc nghiệt, luôn đòi lấy đi tất cả những gì thiết yếu của cuộc sống. Dòng đời muốn loại trừ Chúa. Con người chỉ vì một chút bổng lộc mà đang tâm loại trừ Thiên Chúa.
Và cho đến hôm nay, dòng đời vẫn còn đó những trẻ thơ bị khước từ, bị bỏ rơi và lợi dụng. Dòng đời vẫn còn đó những trẻ thơ không một mái nhà, không một chiếc nôi và chẳng bao giờ được hưởng hơi ấm tình người. Xin Chúa là Đấng Emmanuel ở cùng chúng con luôn gìn giữ các trẻ thơ trong tình thương quan phòng của Chúa. Xin cho các bậc làm cha mẹ biết bỏ đi tính ích kỷ, thói hưởng thụ của mình để sống vì con cái và có trách nhiệm với tuổi thơ mà Thiên Chúa trao gởi. Xin đừng vì sự thiếu trách nhiệm của mình mà đẩy tuổi thơ vào cảnh đời khốn khổ lầm than.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu quý tuổi thơ, xin Chúa hãy chúc lành cho tuổi thơ giáo xứ chúng con. Xin cho mọi trẻ thơ đều được lớn lên trong tình thương chăm sóc của cha của mẹ. Xin Chúa hài đồng mang lại niềm vui, nụ cười cho tuổi thơ giáo xứ chúng con. Amen
Ngày 29.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Với niềm vui được đón rước Chúa vào lòng, xin cho chúng con cũng tràn đầy niềm vui như cụ già Si-mê-on năm xưa để có thể thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin để tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ”. Thật, chẳng có vinh dự nào cao quý hơn vinh dự được chính Thiên Chúa viếng thăm. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con. Chúa lưu lại nơi mảnh đất tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết biến niềm vui thành một đời sống hân hoan ca tụng Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, dân tộc Do Thái đã từng hãnh diện vì được Chúa ở giữa họ qua hòm bia giao ước. Nhưng đáng tiếc là họ không đủ đức tin để nhận ra Chúa đang hiện diện qua thân phận con người một hài nhi nhỏ bé. Họ lại càng không nhận ra Chúa qua thân phận một Giê-su đang miệt mài gieo vãi yêu thương vào cho nhân thế. Xin ban thêm đức tin để chúng con có thể nhận ra Chúa vẫn đang nhập thể từng ngày nơi những hài nhi đang cần sự chăm sóc chở che. Xin giúp chúng con nhận ra Chúa đang nhập thế cứu đời nơi những con người biết sống quên mình phục vụ tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa đã mang lấy thân phận con người để ở cùng chúng con. Xin cho chúng con biết vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương chân thành. Xin giúp chúng con đừng vì tính ích kỷ, thói tự cao tự đại mà xa lánh nhau. Amen
Ngày 30.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh thể,
Chúa đã đến trần gian trong âm thầm lặng lẽ. Chúa không đến để thay đổi nhịp sống của con người. Chúa không làm đảo lộn cuộc sống bằng những việc phi thường. Nhưng một cách nhẹ nhàng Chúa đi vào dòng đời trong thân phận một hài nhi nhỏ bé. Chúa lớn lên trong một thôn làng bình thường như bao trẻ thơ khác. Chúa cũng từng bước: học ăn, học nói, học gói, học mở như bao trẻ thơ khác, nhưng điều quan yếu là Chúa luôn được ơn nghĩa cùng Chúa Cha.
Lạy Chúa Giê-su hài đồng mến yêu, xin cho chúng con đôi mắt đức tin như bà Anna để có thể nói với Chúa và nói về Chúa cho anh em. Bà Anna đã mãn nguyện khi được bồng ẵm Đấng mà bà tôn thờ nơi hài nhi bé nhỏ. Bà được diễm phúc nhận ra Chúa trong khung cảnh rất đời thường. Xin cho chúng con được diễm phúc nhận ra Chúa đang hiện diện với chúng con qua Thánh Thể, qua các bí tích và qua tha nhân đang đồng hành với chúng con. Xin giúp chúng con biết vui với phận mình và đón nhận thập giá của bổn phận với niềm yêu mến Chúa sắt son. Xin giúp chúng con biết tận dụng khả năng, hoàn cảnh của mình để nói về Chúa cho anh em.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa. Xin cho chúng con luôn được sống trong ân sủng và tình thương của Chúa. Amen
Ngày 31.12
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa là ánh sáng cho trần gian. Chúa đã hóa thánh “nhục thể và cư ngụ giữa chúng con”. Chúa đã mang lại cho chúng con niềm hy vọng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau những đau khổ chồng chất là chân trời hạnh phúc. Chúa đã soi sáng cho nhân loại chúng con biết đâu là thiện, là ác. Chúa soi lối cho chúng con bước đi trên con đường tìm về chân thiện mỹ vẹn tuyền.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, thế là 365 ngày đã trôi qua. Một năm trôi qua với biết bao thăng trầm của đời người. Buồn vui cứ đan quyện vào từng cuộc đời chúng con. Điều hạnh phúc cho chúng con đó chính là sự đồng hành của Chúa ở cùng chúng con. Chúa cùng chia vui sẻ buồn với chúng con. Chúa luôn là chỗ dựa, lả điểm tựa an bình cho từng cuộc đời chúng con. Chúng con xin dâng lời cảm tạ tình thương Chúa. Tình thương Chúa đã giúp chúng con vượt thắng những khó khăn, những thử thách của giòng đời. Tình thương Chúa đã cho chúng con những phút giây bình an, những tháng ngày hạnh phúc.
Lạy Chúa, mọi sự rồi sẽ qua đi. Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì. Xin cho chúng con biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Xin giúp chúng con biết xây dựng ngôi nhà tâm hồn chúng con luôn thanh thoát khỏi những bợn nhơ tội lỗi, luôn quy hướng về sự thiện toàn mỹ. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con. Amen
LỄ THÁNH GIA LC (2,22-40)
“Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ dầy khôn ngoan và vâng phục”
Lạy Chúa Giêsu thánh thể!
Tâm hồn chúng con tràn đầy niềm vui và hạnh phúc vì được kết hiệp với Chúa. Qua hình bánh đơn sơ, Chúa hòa nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa trở người bạn luôn gần gũi, để hướng dẫn và nâng đỡ chúng con. Chúa ơi! Giờ đây chúng con tưởng nhớ về mái ấm gia đình Nagiaret xưa. Nơi Chúa đã bập bẹ những tiếng nói đầu tiên và chập chững những bước đi đầu đời trong vòng tay của Cha thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa là Chúa muôn loài, nhưng để làm người như chúng con, Chúa đã chấp nhận làm người của một gia đình nghèo khó.
Lạy Chúa, cây có cội-nước có nguồn. Công cha nghĩa mẹ thật bao la như trời biển. Nhờ gương sống của Chúa, đã giúp chúng con hiểu rằng: chúng con chỉ sống đẹp lòng Chúa, nếu chúng con chỉ sống đẹp lòng Chúa, nếu chúng con biết vâng lời và hiếu thảo với mẹ cha. Chúng con nguyện sẽ mãi mãi sống đẹp lòng Chúa qua việc ăn ở thảo kính với cha mẹ. Trong giây phút linh thiêng này, chúng con cầu xin Chúa cho những bạn thiếu nhi đang sống cảnh gia đình li tán, cha mẹ bất hòa. Xin cho gia đình họ sớm quay về đoàn tụ và yêu thương nhau. Hầu con cái được hưởng đầy đủ hơi ấm của tình thương gia đình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Nếu có lần nào chúng con lỡ lầm về lời nói, cữ chỉ hay có thái độ bất hiếu với cha mẹ. Và nếu có lần nào chúng con gây bất hòa trong gia đình. Giờ đây chúng con thành tâm thống hối ăn năn quyết tâm chừa sửa. Cầu Chúa dủ lòng thương tha thứ, để gia đình chúng con luôn sống yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau. Amen.
Ngày 01.01.2010 Lễ Mẹ Thiên Chúa
Lạy Chúa Hài đồng Giê-su,
Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen
Ngày 02.01
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúng con thật hạnh phúc vì được Chúa hiện diện giữa chúng con. Chúa đang đi vào trong cuộc đời chúng con. Chúa cùng đồng hành với chúng con qua những thăng trầm của giòng đời. Chúng con tạ ơn Chúa đã bao lần nâng đỡ, chở che, giúp chúng con vượt qua những gian truân thử thách trong cuộc đời. Tạ ơn Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con trước sóng gió ba đào. Chúng con xin tri ân cảm tạ tình yêu cao sâu của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống trong ân nghĩa cùng Chúa, biết phụng sự Chúa trên hết mọi sự.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, xin giúp chúng con biết bắt chước thánh Gioan, luôn khiêm nhu chân thành để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con luôn ý thức rằng mình chỉ là hạt cát giữa sa mạc mênh mông, là giọt nước góp nên biển cả, một phận người nhỏ bé trong muôn tạo vật mà Chúa đã tạo dựng nên. Xin loại trừ nơi chúng con bản tính tự cao, tự đại để sống khiêm nhu trước mặt Chúa và với anh em.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ, xin giúp chúng con biết tin tưởng, phó thác vào Chúa như em thơ phó thác nơi cha mẹ mình. Amen
Ngày 03.01 - LỄ HIỂN LINH
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Nếu như Ba vua đã được ánh sao soi lối để gặp nhau nơi máng cỏ Be lem, giờ đây chúng con cũng được chính Chúa quy tụ chúng con quanh bàn tiệc Thánh Thể của Chúa. Chúng con xin được như ba vua nghiêng mình thờ lạy và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa, Chúa chính là ánh sáng trần gian. Chúa đã đến để mang ánh sáng tin yêu, hy vọng vào nơi thế gian. Giữa đêm đen của cuộc đời đầy bất công thù hận, chiến tranh và chia rẽ, Chúa đã khai mở một mùa xuân yêu thương và hiệp nhất bằng chính tình yêu hiến thân quên mình của Chúa. Nơi bí tích Thánh Thể Chúa đã nối kết tình người bằng của ăn là chính Chúa trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng con. Ước gì qua sự chia sẻ bữa ăn yêu thương này, tình người mỗi ngày thêm gắn bó và yêu thương nhau hơn. Ước gì sự hiệp nhất chia sẻ này được khởi đi từ bàn ăn gia đình chúng con. Chúng con mong sao nơi gia đình chúng con luôn chan hòa tình yêu thương của cha mẹ và đậm đà tình huynh đệ của anh em một nhà. Xin Chúa mãi là ánh sao luôn phù hộ và che chở gia đình chúng con trong tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng con nhận ra dấu chỉ sự hiện diện yêu thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời. Cho dù phải vượt qua những đêm dài của mò mẫm trong đức tin, hay những năm tháng dài vất vả trên hành trình dương thế. Chúa muốn chúng con phải theo chân ba vua, can đảm vượt qua những chán nản, thất vọng. Chúa mời gọi chúng con phải chiến thắng với chính bản thân mình, phải vượt qua sự uể oải, lười biếng để tìm gặp và đến với Chúa mỗi ngày. Đến với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể, đến với Chúa qua người anh em, đến với Chúa qua những người nghèo hèn và tật nguyền khốn khó.
Lạy Chúa, cùng với lòng yêu mến sắt son như vàng của ba vua dâng tiến Chúa. Và lời cầu nguyện chân thành đơn sơ như nhũ hương lan tỏa trước thánh nhan Chúa. Chúng con nguyện sẽ tiến bước cùng ba vua lên đường đi tìm gặp Chúa trong những người anh em mà Chúa đang kêu gọi chúng con quảng đại yêu thương họ. Chúa chẳng cần chi lễ vật cao sang, Chúa chỉ đòi hỏi nơi chúng con tình yêu và sự hy sinh cao thượng đối với anh em đồng loại. Tình yêu đó thể hiện qua thái độ cảm thông, chia sẻ, và sự quảng đại giúp đỡ mà không mong đền đáp. Xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa qua việc siêng năng học hỏi giáo lý, cùng suy niệm lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống thường ngày. Ngõ hầu qua những lời nói và việc làm của chúng con, người ta sẽ nhận biết tôn thờ và ngợi khen Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ nhân loại. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Phanxicô Xaviê
06:31 15/12/2010
Cô đơn là đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:23 15/12/2010
Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng, Năm A
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha”. Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: “Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng “đầy ân sủng”. Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được “rợp bóng” Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn “hướng tha”. Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm “tu trì” ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
1. “Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. “Thương cả đuờng đi” thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn “tiếp nhận bạn mình”. Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật “khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền” (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. “Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu”(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá “hất cẳng anh” thành một người đã “gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa” và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy” (x.Ga 5,17). “Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời” (x.Ga 4,34). “Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm” (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: “Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người”. Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: “Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta”.
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha”. Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: “Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng “đầy ân sủng”. Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được “rợp bóng” Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn “hướng tha”. Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm “tu trì” ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
1. “Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. “Thương cả đuờng đi” thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn “tiếp nhận bạn mình”. Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật “khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền” (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. “Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu”(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá “hất cẳng anh” thành một người đã “gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa” và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy” (x.Ga 5,17). “Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời” (x.Ga 4,34). “Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm” (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: “Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người”. Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: “Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta”.
Thay đổi
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
15:11 15/12/2010
"Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt. 18,3).
Sufi Bayazid tâm sự rằng: Tôi là nhà canh tân, khi tôi còn trẻ và lời cầu nguyện của tôi với Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi cả thế giới. Thế rồi, đã qúa nửa đời người trôi qua, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời của tôi đã qua mà chẳng thay đổi được một linh hồn nào. Tôi thay đổi lời cầu xin với Chúa: Lạy Chúa, xin ban cho con ân sủng để con có thể thay đổi tất cả những người liên hệ với con. Họ là tất cả các thành viên trong gia đình, bạn bè và con sẽ được thỏa mãn. Giờ đây, con đã già, tháng ngày còn lại vắn vỏi, cho con cầu xin một lần nữa: Lạy Chúa, xin ban ân sủng để con thay đổi chính mình con. Nếu con biết cầu nguyện cho điều này ngay từ lúc khởi đầu, con đã không uổng phí cuộc đời.
1. Tự Biết Mình
Ai trong chúng ta cũng muốn điều tốt, sự hoàn hảo và sống vui hạnh phúc. Sống hạnh phúc là khi chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh sống. Chúng ta thường có khuynh hướng muốn thay đổi người khác và hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình cần giúp nhau hoàn thiện cá nhân của mình. Nhìn tấm gương của Mẹ Maria và thánh Giuse, trong hoàn cảnh khó khăn nhất xảy đến khi Maria thụ thai Ngôi Hai bởi phép Chúa Thánh Thần, thánh Giuse âm thầm lặng lẽ, không muốn sự việc ồn ào và định tâm rời xa cách kín đáo. Mẹ Maria không lên tiếng giải thích hay bào chữa mà chỉ âm thầm cầu nguyện và suy niệm Mầu Nhiệm Nhập Thể trong lòng.
Chúng ta biết rằng đời sống hôn nhân gia đình là một tổ ấm của tình yêu. Tình yêu liên kết vợ chồng con cái lại với nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Những ai đang được ngụp lặn trong tình yêu gia đình hãy biết trân quý và bảo toàn. Chúng ta biết rằng sự khác biệt tâm lý và sinh lý giữa nhau là để bổ túc cho nhau nên hoàn hảo. Biết rằng khi nhập gia phải tùy tục nhưng không phải vì thế mà chúng ta tự đánh mất mình. Muốn nên hoàn hảo, trước hết hãy tự thay đổi chính mình. Chúng ta đừng bắt ép người khác phải thay đổi theo sở thích của riêng ta. Đôi khi chúng ta muốn người khác thay đổi và trở nên hoàn hảo trong khi chúng ta cứ tự do thoải mái sống theo sở thích riêng tư. Điều này khó có thể thuyết phục người khác.
2. Phê Bình
Ông Tổng Thống Obama của Hoa Kỳ đã thắng cử vì đã khéo léo đưa ra một tiêu đề ‘Thay Đổi’. Nhiều người háo hức và phấn khởi dồn phiếu cho một ứng cử viên Đảng Dân Chủ rất trẻ. Ai cũng mong muốn có sự thay đổi kinh tế giúp cho cuộc sống cho tốt hơn. Mọi người đã đặt nhiều hy vọng vào sự thay đổi của vị tân cử. Nhưng rồi 2 năm trôi qua thật nhanh, nhiều người đã không còn kiên nhẫn đợi chờ thay đổi. Trong đợt bầu cử giữa nhiệm kỳ, nhiều người lại quay sang Đảng Cộng Hòa tìm lối thoát. Xã hội và con người thay đổi, đổi thay là thế! Xem ra ai cũng thích thú và mong muốn có sự thay đổi.
Trong cuộc sống, hầu như mọi người đều bị rơi vào những bất cập của thiên kiến. Thí dụ: Khi chúng ta ngồi nghe các ca sĩ hát và nghệ sĩ diễn tuồng, chúng ta có thể chê bai họ hát và diễn dở. Chúng ta có thể bực mình la hét vì các cầu thủ thất bại trên sân đấu. Chúng ta có thể dề môi bỉu miệng vì một đầu bếp nấu nướng không ngon miệng. Chúng ta có thể phê bình thầy này hay cha kia giảng dài, giảng dai và giảng dở. Chúng ta cũng có thể lên án gắt gao những bậc thày, cha mẹ, người lãnh đạo và các bề trên đã không chu toàn bổn phận. Dĩ nhiên, ai cũng có quyền lên tiếng, góp ý, phê bình và chia sẻ ý kiến. Tuy rằng chúng ta không có khả năng làm tốt hơn, nhưng ít nhất chúng ta cũng có ý hướng, ước mong và có tấm lòng về điều tốt, điều hay và điều thiện hảo. Thế đó, ước muốn có sự tốt lành, hoàn hảo và thánh thiện thì bao la, nhưng nhìn lại con người cụ thể của mình thì còn biết bao thiếu xót, thói hư, tật xấu và lỗi lầm cần được sửa đổi và khắc phục.
Năm 2002, quân đội Hoa Kỳ đã tấn công quân Taliban và đánh chiếm Afghanistan. Tôi nhớ câu truyện về người đàn ông bản xứ thường để râu quai sàm rậm rạp. Vì sợ bị ghép tội là quân Tabiban nội loạn, nhiều người đã đến tiệm hớt tóc để xuống chòm râu. Người thợ hớt tóc vui mừng vì có rất nhiều người đã đến để xuống tóc và cạo râu. Ông thợ miệt mài làm việc giờ này qua giờ khác và ngày này qua ngày nọ. Người thợ hớt tóc lo lắng xuống tóc cạo râu cho mọi người nhưng ông lại quên chính bộ râu rậm rạp của mình. Sau nhiều tuần bận bịu với công việc, một hôm khi soi gương, ông giật mình và lo sợ, vì ông vẫn còn dáng dấp của người lính Taliban.
3. Chữ Tôi
Trong chữ ‘tôi’, tiếng Việt Nam có thể đổi dấu chữ tôi thành chữ tồi, chữ tối và chữ tội. Nếu chúng ta bỏ đi được cái tôi, chúng ta sẽ dễ hòa đồng và mưu ích chung. Môt môn đệ nói: Tôi đến để phục vụ thầy. Sư phụ đáp: Nếu con bỏ chữ tôi, sự phục vụ sẽ tự động theo sau. Chữ tôi là chủ từ. Tôi sống, tôi làm và tôi ăn. Cái tôi chịu trách nhiệm cho tất cả những gì mình làm. Từ đó cái tôi có thể trở nên tốt hoặc xấu. Cái Tôi có thể trở thành ‘tồi’, khi tôi sống bê tha, đồi trụy và đánh mất phẩm giá của con người. Có nhiều người thích sống trong bóng tối và làm những việc mờ ám. Tôi cũng có thể trở thành ‘tội’ nhân. Tôi cũng có thể trở nên ‘tối tăm’, sống trong sự mù quáng và sa đọa. Chúng ta có thể phạm tội nơi bản thân, tội bất tín nơi gia đình và xã hội. Thường thì tôi phạm tội trong bóng tối và tôi trở thành người tồi.
Vậy sự thay đổi cần thiết là thay đổi cái ‘tôi’kiêu căng, cái ‘tôi’ tự ái. Tôi phải chịu trách nhiệm về hành động và cách sống của tôi. Khi tôi làm sai, tôi phải sửa đổi. Khi tôi phạm lỗi, tôi phải xin lỗi. Khi tôi phạm tội, tôi phải xin ơn tha thứ. Chúng ta đừng trốn tránh hay đổ trách nhiệm cho nhau. Hãy tự đứng trên chân của mình. Hãy tự xét mình hằng ngày vì chỉ có tôi mới biết chính tôi một cách rõ ràng hơn hết. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan. Biết mình thì trăm trận trăm thắng. Muốn biết mình là phải đi trở lại mình, có nghĩa là đi vào đời sống nội tâm. Muốn biết được mình, chúng ta cần phải đi vào nơi thanh tịnh vắng vẻ mà hồi tâm. Mỗi người chỉ có thể tìm thấy mình khi soi mình qua tiếng nói lương tâm. Tiếng nói lương tâm trong sáng sẽ không lừa dối chúng ta. Chỉ cần chúng ta thành thật với chính mình và muốn thay đổi cho tốt hơn, chúng ta có thể làm được.
4. Thay Đổi
Những ai cần canh tân và thay đổi cuộc sống? Chúng ta hãy tự hỏi mình trước khi đòi hỏi người khác. Thay đổi một thế giới chung chung thì dễ dàng hơn thay đổi tâm hồn một con người. Tìm thay đổi người khác thì thoải mái và vui hơn là thay đổi chính mình. Trước khi muốn thay đổi người khác, chúng ta phải tu thân tích đức. Tự rèn luyện để có nội lực thâm hậu và đời sống nội tâm vững chãi. Vì thay đổi là để trở nên tốt hơn và hoàn thiện hơn. Cứ tự nhiên, chúng ta ngại thay đổi và cũng có thể chúng ta không muốn thay đổi vì ngựa quen đường cũ. Sự thay đổi làm mất đi những thói quen và cách sống cũ thoải mái. Thói quen và tập tục hằng ngày có thể trở nên những pháo đài kiên cố xây dựng cái tôi của mình. Muốn thay đổi, chúng ta không chỉ thay đổi nơi ăn chốn ở, thay đổi hình thức bề ngoài mà là thay đổi cách sống và cuộc sống. Cuộc thay đổi nội tâm là một cuộc đổi đời. Thay đổi quan niệm và nhận thức về Thiên Chúa và con người. Chúng ta cần sống đời phó thác cầu nguyện trong niềm tin và xin ơn Chúa giúp.
Trong những ngày còn lại của Mùa Vọng, mỗi tín hữu chúng ta cũng mong có sự gì thay đổi trong cuộc sống. Hôm nay, hầu như chúng ta đã chuẩn bị xong những thứ lỉnh kỉnh bên ngoài như là trang trí đèn đóm, ngôi sao, cây thông, làm hang đá, mua qùa, gởi qùa, gởi thiệp chúc và chuẩn bị tiệc mừng Giáng Sinh. Này đây, tất cả những chuẩn bị bề ngoài xem ra đã sẵn sang, nhưng xem ra hình ảnh Chúa Kitô còn xa lạ. Chúng ta cần một thay đổi rất quan trọng trong đời sống nội tâm. Thay đổi, sửa đường Chúa cho ngay thẳng và tỉnh thức đón chờ Chúa đến. Chúng ta có nghĩ rằng, mình đang chuẩn bị tâm hồn để đón một vị thượng khách. Ngài là Chúa Các Chúa, Vua Các Vua, Ngài là Con Thiên Chúa và là Hoàng Tử Bình An.
Chúng ta đang cầm giữ chìa khóa của tâm hồn mình. Hãy mở cửa chờ đón Chúa ghé thăm. Mỗi người chúng ta hãy tự chuẩn bị cho mình một máng cỏ đơn sơ, thanh sạch và ấm cúng để đón mừng Chúa ngự vào tâm hồn. Lạy Chúa, xin hãy đến cứu độ và đem bình an cho chúng con.
Sufi Bayazid tâm sự rằng: Tôi là nhà canh tân, khi tôi còn trẻ và lời cầu nguyện của tôi với Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi cả thế giới. Thế rồi, đã qúa nửa đời người trôi qua, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời của tôi đã qua mà chẳng thay đổi được một linh hồn nào. Tôi thay đổi lời cầu xin với Chúa: Lạy Chúa, xin ban cho con ân sủng để con có thể thay đổi tất cả những người liên hệ với con. Họ là tất cả các thành viên trong gia đình, bạn bè và con sẽ được thỏa mãn. Giờ đây, con đã già, tháng ngày còn lại vắn vỏi, cho con cầu xin một lần nữa: Lạy Chúa, xin ban ân sủng để con thay đổi chính mình con. Nếu con biết cầu nguyện cho điều này ngay từ lúc khởi đầu, con đã không uổng phí cuộc đời.
1. Tự Biết Mình
Ai trong chúng ta cũng muốn điều tốt, sự hoàn hảo và sống vui hạnh phúc. Sống hạnh phúc là khi chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh sống. Chúng ta thường có khuynh hướng muốn thay đổi người khác và hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình cần giúp nhau hoàn thiện cá nhân của mình. Nhìn tấm gương của Mẹ Maria và thánh Giuse, trong hoàn cảnh khó khăn nhất xảy đến khi Maria thụ thai Ngôi Hai bởi phép Chúa Thánh Thần, thánh Giuse âm thầm lặng lẽ, không muốn sự việc ồn ào và định tâm rời xa cách kín đáo. Mẹ Maria không lên tiếng giải thích hay bào chữa mà chỉ âm thầm cầu nguyện và suy niệm Mầu Nhiệm Nhập Thể trong lòng.
Chúng ta biết rằng đời sống hôn nhân gia đình là một tổ ấm của tình yêu. Tình yêu liên kết vợ chồng con cái lại với nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Những ai đang được ngụp lặn trong tình yêu gia đình hãy biết trân quý và bảo toàn. Chúng ta biết rằng sự khác biệt tâm lý và sinh lý giữa nhau là để bổ túc cho nhau nên hoàn hảo. Biết rằng khi nhập gia phải tùy tục nhưng không phải vì thế mà chúng ta tự đánh mất mình. Muốn nên hoàn hảo, trước hết hãy tự thay đổi chính mình. Chúng ta đừng bắt ép người khác phải thay đổi theo sở thích của riêng ta. Đôi khi chúng ta muốn người khác thay đổi và trở nên hoàn hảo trong khi chúng ta cứ tự do thoải mái sống theo sở thích riêng tư. Điều này khó có thể thuyết phục người khác.
2. Phê Bình
Ông Tổng Thống Obama của Hoa Kỳ đã thắng cử vì đã khéo léo đưa ra một tiêu đề ‘Thay Đổi’. Nhiều người háo hức và phấn khởi dồn phiếu cho một ứng cử viên Đảng Dân Chủ rất trẻ. Ai cũng mong muốn có sự thay đổi kinh tế giúp cho cuộc sống cho tốt hơn. Mọi người đã đặt nhiều hy vọng vào sự thay đổi của vị tân cử. Nhưng rồi 2 năm trôi qua thật nhanh, nhiều người đã không còn kiên nhẫn đợi chờ thay đổi. Trong đợt bầu cử giữa nhiệm kỳ, nhiều người lại quay sang Đảng Cộng Hòa tìm lối thoát. Xã hội và con người thay đổi, đổi thay là thế! Xem ra ai cũng thích thú và mong muốn có sự thay đổi.
Trong cuộc sống, hầu như mọi người đều bị rơi vào những bất cập của thiên kiến. Thí dụ: Khi chúng ta ngồi nghe các ca sĩ hát và nghệ sĩ diễn tuồng, chúng ta có thể chê bai họ hát và diễn dở. Chúng ta có thể bực mình la hét vì các cầu thủ thất bại trên sân đấu. Chúng ta có thể dề môi bỉu miệng vì một đầu bếp nấu nướng không ngon miệng. Chúng ta có thể phê bình thầy này hay cha kia giảng dài, giảng dai và giảng dở. Chúng ta cũng có thể lên án gắt gao những bậc thày, cha mẹ, người lãnh đạo và các bề trên đã không chu toàn bổn phận. Dĩ nhiên, ai cũng có quyền lên tiếng, góp ý, phê bình và chia sẻ ý kiến. Tuy rằng chúng ta không có khả năng làm tốt hơn, nhưng ít nhất chúng ta cũng có ý hướng, ước mong và có tấm lòng về điều tốt, điều hay và điều thiện hảo. Thế đó, ước muốn có sự tốt lành, hoàn hảo và thánh thiện thì bao la, nhưng nhìn lại con người cụ thể của mình thì còn biết bao thiếu xót, thói hư, tật xấu và lỗi lầm cần được sửa đổi và khắc phục.
Năm 2002, quân đội Hoa Kỳ đã tấn công quân Taliban và đánh chiếm Afghanistan. Tôi nhớ câu truyện về người đàn ông bản xứ thường để râu quai sàm rậm rạp. Vì sợ bị ghép tội là quân Tabiban nội loạn, nhiều người đã đến tiệm hớt tóc để xuống chòm râu. Người thợ hớt tóc vui mừng vì có rất nhiều người đã đến để xuống tóc và cạo râu. Ông thợ miệt mài làm việc giờ này qua giờ khác và ngày này qua ngày nọ. Người thợ hớt tóc lo lắng xuống tóc cạo râu cho mọi người nhưng ông lại quên chính bộ râu rậm rạp của mình. Sau nhiều tuần bận bịu với công việc, một hôm khi soi gương, ông giật mình và lo sợ, vì ông vẫn còn dáng dấp của người lính Taliban.
3. Chữ Tôi
Trong chữ ‘tôi’, tiếng Việt Nam có thể đổi dấu chữ tôi thành chữ tồi, chữ tối và chữ tội. Nếu chúng ta bỏ đi được cái tôi, chúng ta sẽ dễ hòa đồng và mưu ích chung. Môt môn đệ nói: Tôi đến để phục vụ thầy. Sư phụ đáp: Nếu con bỏ chữ tôi, sự phục vụ sẽ tự động theo sau. Chữ tôi là chủ từ. Tôi sống, tôi làm và tôi ăn. Cái tôi chịu trách nhiệm cho tất cả những gì mình làm. Từ đó cái tôi có thể trở nên tốt hoặc xấu. Cái Tôi có thể trở thành ‘tồi’, khi tôi sống bê tha, đồi trụy và đánh mất phẩm giá của con người. Có nhiều người thích sống trong bóng tối và làm những việc mờ ám. Tôi cũng có thể trở thành ‘tội’ nhân. Tôi cũng có thể trở nên ‘tối tăm’, sống trong sự mù quáng và sa đọa. Chúng ta có thể phạm tội nơi bản thân, tội bất tín nơi gia đình và xã hội. Thường thì tôi phạm tội trong bóng tối và tôi trở thành người tồi.
Vậy sự thay đổi cần thiết là thay đổi cái ‘tôi’kiêu căng, cái ‘tôi’ tự ái. Tôi phải chịu trách nhiệm về hành động và cách sống của tôi. Khi tôi làm sai, tôi phải sửa đổi. Khi tôi phạm lỗi, tôi phải xin lỗi. Khi tôi phạm tội, tôi phải xin ơn tha thứ. Chúng ta đừng trốn tránh hay đổ trách nhiệm cho nhau. Hãy tự đứng trên chân của mình. Hãy tự xét mình hằng ngày vì chỉ có tôi mới biết chính tôi một cách rõ ràng hơn hết. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan. Biết mình thì trăm trận trăm thắng. Muốn biết mình là phải đi trở lại mình, có nghĩa là đi vào đời sống nội tâm. Muốn biết được mình, chúng ta cần phải đi vào nơi thanh tịnh vắng vẻ mà hồi tâm. Mỗi người chỉ có thể tìm thấy mình khi soi mình qua tiếng nói lương tâm. Tiếng nói lương tâm trong sáng sẽ không lừa dối chúng ta. Chỉ cần chúng ta thành thật với chính mình và muốn thay đổi cho tốt hơn, chúng ta có thể làm được.
4. Thay Đổi
Những ai cần canh tân và thay đổi cuộc sống? Chúng ta hãy tự hỏi mình trước khi đòi hỏi người khác. Thay đổi một thế giới chung chung thì dễ dàng hơn thay đổi tâm hồn một con người. Tìm thay đổi người khác thì thoải mái và vui hơn là thay đổi chính mình. Trước khi muốn thay đổi người khác, chúng ta phải tu thân tích đức. Tự rèn luyện để có nội lực thâm hậu và đời sống nội tâm vững chãi. Vì thay đổi là để trở nên tốt hơn và hoàn thiện hơn. Cứ tự nhiên, chúng ta ngại thay đổi và cũng có thể chúng ta không muốn thay đổi vì ngựa quen đường cũ. Sự thay đổi làm mất đi những thói quen và cách sống cũ thoải mái. Thói quen và tập tục hằng ngày có thể trở nên những pháo đài kiên cố xây dựng cái tôi của mình. Muốn thay đổi, chúng ta không chỉ thay đổi nơi ăn chốn ở, thay đổi hình thức bề ngoài mà là thay đổi cách sống và cuộc sống. Cuộc thay đổi nội tâm là một cuộc đổi đời. Thay đổi quan niệm và nhận thức về Thiên Chúa và con người. Chúng ta cần sống đời phó thác cầu nguyện trong niềm tin và xin ơn Chúa giúp.
Trong những ngày còn lại của Mùa Vọng, mỗi tín hữu chúng ta cũng mong có sự gì thay đổi trong cuộc sống. Hôm nay, hầu như chúng ta đã chuẩn bị xong những thứ lỉnh kỉnh bên ngoài như là trang trí đèn đóm, ngôi sao, cây thông, làm hang đá, mua qùa, gởi qùa, gởi thiệp chúc và chuẩn bị tiệc mừng Giáng Sinh. Này đây, tất cả những chuẩn bị bề ngoài xem ra đã sẵn sang, nhưng xem ra hình ảnh Chúa Kitô còn xa lạ. Chúng ta cần một thay đổi rất quan trọng trong đời sống nội tâm. Thay đổi, sửa đường Chúa cho ngay thẳng và tỉnh thức đón chờ Chúa đến. Chúng ta có nghĩ rằng, mình đang chuẩn bị tâm hồn để đón một vị thượng khách. Ngài là Chúa Các Chúa, Vua Các Vua, Ngài là Con Thiên Chúa và là Hoàng Tử Bình An.
Chúng ta đang cầm giữ chìa khóa của tâm hồn mình. Hãy mở cửa chờ đón Chúa ghé thăm. Mỗi người chúng ta hãy tự chuẩn bị cho mình một máng cỏ đơn sơ, thanh sạch và ấm cúng để đón mừng Chúa ngự vào tâm hồn. Lạy Chúa, xin hãy đến cứu độ và đem bình an cho chúng con.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:37 15/12/2010
NGỌA HỔ
Thời Đông Hán, huyện lịnh Lạc Dương là Đổng Tuyên một người chấp pháp nghiêm minh, ông ta cho rằng hoàng thân quốc thích mà phạm pháp thì cũng theo đó mà trị tội.
Bởi vì ông ta xử tội chết tên đầy tớ của công chúa Hồ Dương nên đắc tội với công chúa. Công chúa bèn một mực cáo trạng trước mặt vua Quang Võ đế, Quang Võ đế bèn bắt Đổng Tuyên phải quỳ lạy tạ lỗi với công chúa, Đổng Tuyên cho rằng công chúa buông thả cho tên đầy tớ giết người, mà vốn là không nên làm như thế, cho nên ông ta thà bị chém đầu chứ không xin lỗi. Kết quả, Quang Võ đế không những không bắt tội Đổng Tuyên, mà lại còn ban thưởng cho ông ta ba mươi vạn quan tiền và khen ngợi ông ta chấp pháp nghiêm minh.
Đổng Tuyên sau khi về đến quan phủ thì tiếp tục đánh đến các nhà quyền quý không chấp hành pháp luật. Các quý tộc ở huyện Lạc Dương khi nghe đến danh của ông ta thì sợ phát run, lại còn gán cho ông ta biệt hiệu là “ngọa hổ”.
(Hậu Hán thư, Đổng Tuyên truyện)
Suy tư:
Luật pháp là như cái thắng của chiếc xe (xe hơi, xe máy, xe đạp), khi xe chạy nhanh thì thắng dừng lại hoặc chạy chậm lại, bảo đảm an toàn tính mạng cho mọi người. Luật pháp làm cho con người sống công bằng, trật tự và tôn trọng lẫn nhau hơn, khi con người vì tham sân si mà có lối sống đi quá trớn quá đà trên phương diện luân lý, đức tin, phong hóa, thì pháp luật sẽ “phanh” họ lại, làm cho hơn đi đúng đường và an toàn hơn.
Chúa Giê-su Ki-tô nói: “Ách của Ta thì êm ái, gánh của ta thì nhẹ nhàng”. Ách và gánh của Chúa Giê-su Ki-tô chính là luật yêu thương của Ngài, luật yêu thương này không làm cho con người ta sợ hãi, nhưng làm cho họ vui vẻ, bình an và thăng tiến đời họ, bởi vì ai tuân giữ giới luật của Ngài thì cũng đều được hạnh phúc không những đời này mà còn ở đời sau nữa.
“Pháp bất vị thân” cho nên dù là vua, là tổng thống, là chủ tịch, là bộ trưởng, là người tu hành.v.v...thì cũng đều không được miễn chuẩn, hể làm sai pháp luật thì sẽ bị pháp luật trừng trị, bởi vì pháp luật chính là kim chỉ nam để hướng dẫn con người đi đúng đường hơn, đó chính là hạnh phúc vậy.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Thời Đông Hán, huyện lịnh Lạc Dương là Đổng Tuyên một người chấp pháp nghiêm minh, ông ta cho rằng hoàng thân quốc thích mà phạm pháp thì cũng theo đó mà trị tội.
Bởi vì ông ta xử tội chết tên đầy tớ của công chúa Hồ Dương nên đắc tội với công chúa. Công chúa bèn một mực cáo trạng trước mặt vua Quang Võ đế, Quang Võ đế bèn bắt Đổng Tuyên phải quỳ lạy tạ lỗi với công chúa, Đổng Tuyên cho rằng công chúa buông thả cho tên đầy tớ giết người, mà vốn là không nên làm như thế, cho nên ông ta thà bị chém đầu chứ không xin lỗi. Kết quả, Quang Võ đế không những không bắt tội Đổng Tuyên, mà lại còn ban thưởng cho ông ta ba mươi vạn quan tiền và khen ngợi ông ta chấp pháp nghiêm minh.
Đổng Tuyên sau khi về đến quan phủ thì tiếp tục đánh đến các nhà quyền quý không chấp hành pháp luật. Các quý tộc ở huyện Lạc Dương khi nghe đến danh của ông ta thì sợ phát run, lại còn gán cho ông ta biệt hiệu là “ngọa hổ”.
(Hậu Hán thư, Đổng Tuyên truyện)
Suy tư:
Luật pháp là như cái thắng của chiếc xe (xe hơi, xe máy, xe đạp), khi xe chạy nhanh thì thắng dừng lại hoặc chạy chậm lại, bảo đảm an toàn tính mạng cho mọi người. Luật pháp làm cho con người sống công bằng, trật tự và tôn trọng lẫn nhau hơn, khi con người vì tham sân si mà có lối sống đi quá trớn quá đà trên phương diện luân lý, đức tin, phong hóa, thì pháp luật sẽ “phanh” họ lại, làm cho hơn đi đúng đường và an toàn hơn.
Chúa Giê-su Ki-tô nói: “Ách của Ta thì êm ái, gánh của ta thì nhẹ nhàng”. Ách và gánh của Chúa Giê-su Ki-tô chính là luật yêu thương của Ngài, luật yêu thương này không làm cho con người ta sợ hãi, nhưng làm cho họ vui vẻ, bình an và thăng tiến đời họ, bởi vì ai tuân giữ giới luật của Ngài thì cũng đều được hạnh phúc không những đời này mà còn ở đời sau nữa.
“Pháp bất vị thân” cho nên dù là vua, là tổng thống, là chủ tịch, là bộ trưởng, là người tu hành.v.v...thì cũng đều không được miễn chuẩn, hể làm sai pháp luật thì sẽ bị pháp luật trừng trị, bởi vì pháp luật chính là kim chỉ nam để hướng dẫn con người đi đúng đường hơn, đó chính là hạnh phúc vậy.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:38 15/12/2010
N2T |
3. Lấy việc xét mình cầu nguyện để tu sửa hoàn toàn các đức hạnh, giữ gìn sự thanh sạch của lương tâm, là phương pháp hữu hiệu nhất.
(Thánh Dorothy)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Pakistan: Số mạng của bà Asia Bibi vẫn như chỉ mành treo chuông
Nguyễn Việt Nam
06:45 15/12/2010
Cuộc tranh luận về luật Phạm Thượng vẫn còn đang tiếp diễn trong khi tòa Thượng Thẩm của thành phố Lahore vẫn chưa định ngày xử phúc thẩm bà Asia Bibi, một người Công Giáo đã bị xử tử hình vì bị cáo buộc xúc xiểm Muhammad.
Luật Phạm Thượng của Pakistan đã làm cho hình ảnh nước này trở nên dã man trước con mắt của thế giới. Tổng thống Pakistan, ông Zardari tiết lộ với một thành viên quốc hội là ông đồng ý với việc phải nhanh chóng tu chính luật này. Trong khi đó, nhiều nhà chính trị và các nhà hoạt động xã hội tại Pakistan đã lên án luật này và việc lạm dụng luật này trong các tranh chấp dân sự tại Pakistan.
Trong khi vụ bà Asia Bibi chưa ngã ngũ ra sao thì lại đến lượt một bác sĩ tại Hyderabad, ông Naushad Ahmed Valiyani bị cáo buộc oan uổng là xúc xiểm Muhammad. Ông Valiyani đã bị đánh một trận đòn nhừ tử, thừa sống thiếu chết.
Hôm thứ Sáu 10/12, một người quảng cáo dược phẩm tên là Muhammad Faizan đến gặp bác sĩ Valiyani để chào hàng. Ông Valiyani, một người Hồi Giáo thứ thiệt theo giáo phái Shiite, trong một lúc tức giận đã quăng tấm danh thiếp của tên Muhammad Faizan vào sọt rác. Tên này lập tức báo cảnh sát đến bắt bác sĩ Valiyani về tội dám xúc xiểm đến tiên tri Muhammad vì trong danh thiếp của hắn có chữ Muhammad.
Sau cuộc thẩm vấn, cảnh sát Pakistan đã thả bác sĩ Valiyani vì thấy cáo buộc của tên Muhammad Faizan quá vô lý. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hồi Giáo tại địa phương đã nằng nặc không chịu và áp lực cảnh sát địa phương bắt lại ông Valiyani và đánh cho một trận rất tàn bạo gây ra một tâm lý khiếp sợ trong dân chúng tại vùng Ismaili.
Asia Bibi, một phụ nữ Kitô giáo 45 tuổi, mẹ của năm đứa con, đã bị kết án tử hình vì tội phỉ báng tôn giáo ngày 07 tháng 11 vừa qua. Một tòa án ở Punjab đã ra phán quyết rằng người phụ nữ nông dân này đã xúc phạm đến Đấng tiên tri Mohammed. Nhưng trong thực tế, Asia Bibi đã bị xỉ nhục trước khi bị gọi là "không tinh khiết" (chỉ vì bà không theo Hồi giáo), sau đó buộc phải bảo vệ đức tin Kitô giáo của mình khi đối mặt với áp lực từ người lao động Hồi giáo khác. Chồng của một trong số những người này cũng là một tư tế địa phương, đã quyết định đưa ra lời cáo buộc và tố giác người phụ nữ này, khiến bà bị đánh đập, sau đó bị bỏ tù và cuối cùng bị kết án tử hình một năm sau đó.
Asia Bibi và chồng là anh Ashiq Masih đã quyết định kháng cáo mong đảo ngược phán quyết của tòa án. Trong khi đó, người mẹ này bây giờ phải hứng chịu nhiều tháng tù đày, số phận nằm trong tay cai tù hoặc những kẻ cuồng tín, người có thể giết bà với niềm tin sai lầm rằng họ làm thế để vinh danh đấng Allah.
Cho đến nay, luật định về tội phỉ báng tôn giáo chưa hề dẫn đến một án tử hình dành cho bất cứ ai bị kết án hoặc cáo buộc. Nhưng 33 người bị buộc tội phỉ báng tôn giáo đã bị giết bởi các cai tù, hoặc (bị giết) ngay trong khu vực lân cận của tòa án. Mới nhất như trường hợp liên quan đến hai Kitô hữu Tin Lành, Mục sư Emmanuel và anh trai của ông Rashid Sajjad, đã bị bắn ở cự ly gần khi họ rời tòa án ở Faisalabad hôm 19 tháng Bảy. Tuy nhiên chúng ta có thể xếp loại những cái chết này tương đương với những người thiệt mạng trong vụ thảm sát tại các làng mạc trong vùng Gojra, Korian, Kasur, Sangla Hill, nơi hàng trăm ngôi nhà của các anh em Kitô hữu đã bị đốt cháy, phụ nữ và trẻ em đã bị giết hoặc bị thiêu sống chỉ vì một thành viên của làng đã bị buộc tội phỉ báng tôn giáo.
Sự việc ngày càng trở nên rõ ràng rằng điều luật này đã trở thành một công cụ trong tay của những người Hồi giáo chính thống muốn gài cho người đạo Hồi chống lại người Kitô hữu để đo lường mức độ quyền lực của họ trong xã hội Pakistan. Một điều cũng trở nên rõ ràng là hầu như tất cả các cáo buộc về tội phạm thánh đều được nảy sinh từ ý tưởng ghen tị, trả thù, cạnh tranh, và việc bắt giữ người bị cáo buộc chỉ là bước đầu tiên để cho phép việc chiếm hữu đất đai, cướp bóc và trộm cắp.
Theo yêu cầu của độc giả, AsiaNews đã quyết định gởi ra một thỉnh nguyện thơ quốc tế gởi đến Tổng thống Asif Zardari để xin cứu mạng châu Á Bibi, người đã bị kết án treo cổ vì tội phỉ báng tôn giáo. AsiaNews cũng yêu cầu Tổng thống Zardari hủy bỏ hoặc thay đổi luật phỉ báng tôn giáo bất công đã giết chết nhiều nạn nhân vô tội và phá hủy sự sống chung hòa bình trên đất nước này. Chúng tôi yêu cầu quý vị hỗ trợ bước khởi động này bằng cách gởi một thông điệp tới các email sau đây: saveasiabibi@asianews.it
Hoặc quý vị có thể gởi tin nhắn trực tiếp cho Tổng thống Pakistan: publicmail@president.gov.pk
Bà Asia Bibi |
Trong khi vụ bà Asia Bibi chưa ngã ngũ ra sao thì lại đến lượt một bác sĩ tại Hyderabad, ông Naushad Ahmed Valiyani bị cáo buộc oan uổng là xúc xiểm Muhammad. Ông Valiyani đã bị đánh một trận đòn nhừ tử, thừa sống thiếu chết.
Hôm thứ Sáu 10/12, một người quảng cáo dược phẩm tên là Muhammad Faizan đến gặp bác sĩ Valiyani để chào hàng. Ông Valiyani, một người Hồi Giáo thứ thiệt theo giáo phái Shiite, trong một lúc tức giận đã quăng tấm danh thiếp của tên Muhammad Faizan vào sọt rác. Tên này lập tức báo cảnh sát đến bắt bác sĩ Valiyani về tội dám xúc xiểm đến tiên tri Muhammad vì trong danh thiếp của hắn có chữ Muhammad.
Sau cuộc thẩm vấn, cảnh sát Pakistan đã thả bác sĩ Valiyani vì thấy cáo buộc của tên Muhammad Faizan quá vô lý. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hồi Giáo tại địa phương đã nằng nặc không chịu và áp lực cảnh sát địa phương bắt lại ông Valiyani và đánh cho một trận rất tàn bạo gây ra một tâm lý khiếp sợ trong dân chúng tại vùng Ismaili.
Asia Bibi, một phụ nữ Kitô giáo 45 tuổi, mẹ của năm đứa con, đã bị kết án tử hình vì tội phỉ báng tôn giáo ngày 07 tháng 11 vừa qua. Một tòa án ở Punjab đã ra phán quyết rằng người phụ nữ nông dân này đã xúc phạm đến Đấng tiên tri Mohammed. Nhưng trong thực tế, Asia Bibi đã bị xỉ nhục trước khi bị gọi là "không tinh khiết" (chỉ vì bà không theo Hồi giáo), sau đó buộc phải bảo vệ đức tin Kitô giáo của mình khi đối mặt với áp lực từ người lao động Hồi giáo khác. Chồng của một trong số những người này cũng là một tư tế địa phương, đã quyết định đưa ra lời cáo buộc và tố giác người phụ nữ này, khiến bà bị đánh đập, sau đó bị bỏ tù và cuối cùng bị kết án tử hình một năm sau đó.
Asia Bibi và chồng là anh Ashiq Masih đã quyết định kháng cáo mong đảo ngược phán quyết của tòa án. Trong khi đó, người mẹ này bây giờ phải hứng chịu nhiều tháng tù đày, số phận nằm trong tay cai tù hoặc những kẻ cuồng tín, người có thể giết bà với niềm tin sai lầm rằng họ làm thế để vinh danh đấng Allah.
Cho đến nay, luật định về tội phỉ báng tôn giáo chưa hề dẫn đến một án tử hình dành cho bất cứ ai bị kết án hoặc cáo buộc. Nhưng 33 người bị buộc tội phỉ báng tôn giáo đã bị giết bởi các cai tù, hoặc (bị giết) ngay trong khu vực lân cận của tòa án. Mới nhất như trường hợp liên quan đến hai Kitô hữu Tin Lành, Mục sư Emmanuel và anh trai của ông Rashid Sajjad, đã bị bắn ở cự ly gần khi họ rời tòa án ở Faisalabad hôm 19 tháng Bảy. Tuy nhiên chúng ta có thể xếp loại những cái chết này tương đương với những người thiệt mạng trong vụ thảm sát tại các làng mạc trong vùng Gojra, Korian, Kasur, Sangla Hill, nơi hàng trăm ngôi nhà của các anh em Kitô hữu đã bị đốt cháy, phụ nữ và trẻ em đã bị giết hoặc bị thiêu sống chỉ vì một thành viên của làng đã bị buộc tội phỉ báng tôn giáo.
Sự việc ngày càng trở nên rõ ràng rằng điều luật này đã trở thành một công cụ trong tay của những người Hồi giáo chính thống muốn gài cho người đạo Hồi chống lại người Kitô hữu để đo lường mức độ quyền lực của họ trong xã hội Pakistan. Một điều cũng trở nên rõ ràng là hầu như tất cả các cáo buộc về tội phạm thánh đều được nảy sinh từ ý tưởng ghen tị, trả thù, cạnh tranh, và việc bắt giữ người bị cáo buộc chỉ là bước đầu tiên để cho phép việc chiếm hữu đất đai, cướp bóc và trộm cắp.
Theo yêu cầu của độc giả, AsiaNews đã quyết định gởi ra một thỉnh nguyện thơ quốc tế gởi đến Tổng thống Asif Zardari để xin cứu mạng châu Á Bibi, người đã bị kết án treo cổ vì tội phỉ báng tôn giáo. AsiaNews cũng yêu cầu Tổng thống Zardari hủy bỏ hoặc thay đổi luật phỉ báng tôn giáo bất công đã giết chết nhiều nạn nhân vô tội và phá hủy sự sống chung hòa bình trên đất nước này. Chúng tôi yêu cầu quý vị hỗ trợ bước khởi động này bằng cách gởi một thông điệp tới các email sau đây: saveasiabibi@asianews.it
Hoặc quý vị có thể gởi tin nhắn trực tiếp cho Tổng thống Pakistan: publicmail@president.gov.pk
Đức quốc: Hội đồng Giám mục xác nhận chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng vào năm 2011.
Tiền Hô
07:27 15/12/2010
VATICAN, 14 Tháng Mười Hai 2010 (ZENIT) - Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đến nước Đức vào Tháng Chín năm sau đã được Đức Tổng Giám Mục Robert Zollitsch - tổng giám mục Freiburg im Breisgau - chính thức xác nhận.
Trong một tuyên bố, Đức Tổng Giám Mục này nói rằng, Đức Giáo Hoàng sẽ đến nước Đức từ ngày 22 đến 25 Tháng Chín, và đây là một chuyến thăm cấp nhà nước. Đức Giáo Hoàng đã nhận được lời mời từ cả Tổng thống Christian Wulff và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức.
Dự kiến, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô sẽ đến thăm ba thành phố là Bá Linh, Freiburg và Erhfurt, tuy nhiên, tuyên bố của tổng giáo phận lưu ý rằng, chưa có lịch trình chính thức được vạch ra và chưa thể bắt đầu ngay được.
Đức Tổng Giám Mục Zollitsch cho biết là lịch trình mà toàn thể Hội đồng Giám mục Đức đưa ra vào đầu Tháng Mười tại Fulda sẽ được chuyển sang ngày khác, chưa được xác nhận là ngày nào.
Ngoài chuyến thăm quê hương lần này, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dự kiến sẽ còn có ba chuyến đi quốc tế trong năm 2011: đó là Croatia (ngày 4-5 Tháng Sáu), Tây Ban Nha (ngày 18-21 Tháng Tám) và Benin (ngày 18-20 Tháng Mười Một). Ngài cũng sẽ có bốn chuyến thăm mục vụ nước Ý: tại Venice (ngày 7-8 Tháng Năm), San Marino (19 Tháng Sáu), Ancona (11 Tháng Chín) và Lamezia Terme (9 Tháng Mười).
Trong một tuyên bố, Đức Tổng Giám Mục này nói rằng, Đức Giáo Hoàng sẽ đến nước Đức từ ngày 22 đến 25 Tháng Chín, và đây là một chuyến thăm cấp nhà nước. Đức Giáo Hoàng đã nhận được lời mời từ cả Tổng thống Christian Wulff và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức.
Dự kiến, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô sẽ đến thăm ba thành phố là Bá Linh, Freiburg và Erhfurt, tuy nhiên, tuyên bố của tổng giáo phận lưu ý rằng, chưa có lịch trình chính thức được vạch ra và chưa thể bắt đầu ngay được.
Đức Tổng Giám Mục Zollitsch cho biết là lịch trình mà toàn thể Hội đồng Giám mục Đức đưa ra vào đầu Tháng Mười tại Fulda sẽ được chuyển sang ngày khác, chưa được xác nhận là ngày nào.
Ngoài chuyến thăm quê hương lần này, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dự kiến sẽ còn có ba chuyến đi quốc tế trong năm 2011: đó là Croatia (ngày 4-5 Tháng Sáu), Tây Ban Nha (ngày 18-21 Tháng Tám) và Benin (ngày 18-20 Tháng Mười Một). Ngài cũng sẽ có bốn chuyến thăm mục vụ nước Ý: tại Venice (ngày 7-8 Tháng Năm), San Marino (19 Tháng Sáu), Ancona (11 Tháng Chín) và Lamezia Terme (9 Tháng Mười).
Á Căn Đình: Tổng Giám Mục khuyến cáo: đừng nhầm lẫn về Ông Già Noel
Tiền Hô
07:27 15/12/2010
Buenos Aires (Á Căn Đình), 15 Tháng Mười Hai (AFP) - Một Tổng Giám Mục Công giáo tỏ ra bất bình khi giáo dân của mình nói với trẻ con những điều không trung thực về Ông Già Noel, và chỉ trích đó là một biểu tượng thương mại hóa của Lễ Giáng Sinh.
Trong một Thánh Lễ, Đức Tổng Giám Mục Fabriciano Sigampa của Resistencia nói với mọi người rằng "Đó không phải là Lễ Giáng sinh", cách riêng với trẻ em, ngài nhấn mạnh là đừng nhầm lẫn việc kỷ niệm sự ra đời của Chúa Kitô với "một người đàn ông to béo mặc quần áo màu đỏ".
Sự bất bình của Đức Tổng Giám Mục Sigampa bắt đầu khi có một kế hoạch cho tuyết bao phủ một ngôi nhà tại quảng trường chính của thành phố, nơi đó sẽ có hình một Ông Già Noel đứng nghe những điều ước của trẻ em và tiếp nhận đồ chơi của chúng tặng cho trẻ em nghèo.
"Chắc chắn, trong những ngày tới sẽ tràn ngập quảng cáo sau khi cái nhà này khai trương, nơi có một người đàn ông to béo mặc bộ quần áo màu đỏ. Và chúng ta không nên nhầm lẫn, chúng ta không nên nhầm lẫn giữa Lễ Giáng Sinh với điều đó". Ngài nói với trẻ em, "chúng con nên biết rằng, thực tế là những món quà mà các con nhận được đều đến từ những nỗ lực của cha mẹ và với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu".
Sau khi Đức Tổng Giám Mục tuyên bố lời phản đối của mình, những nhà tổ chức đã bỏ kế hoạch về Ông Già Noel và đổi tên ngôi nhà này thành "Ngôi nhà của Lễ Giáng sinh".
Trong một Thánh Lễ, Đức Tổng Giám Mục Fabriciano Sigampa của Resistencia nói với mọi người rằng "Đó không phải là Lễ Giáng sinh", cách riêng với trẻ em, ngài nhấn mạnh là đừng nhầm lẫn việc kỷ niệm sự ra đời của Chúa Kitô với "một người đàn ông to béo mặc quần áo màu đỏ".
Sự bất bình của Đức Tổng Giám Mục Sigampa bắt đầu khi có một kế hoạch cho tuyết bao phủ một ngôi nhà tại quảng trường chính của thành phố, nơi đó sẽ có hình một Ông Già Noel đứng nghe những điều ước của trẻ em và tiếp nhận đồ chơi của chúng tặng cho trẻ em nghèo.
"Chắc chắn, trong những ngày tới sẽ tràn ngập quảng cáo sau khi cái nhà này khai trương, nơi có một người đàn ông to béo mặc bộ quần áo màu đỏ. Và chúng ta không nên nhầm lẫn, chúng ta không nên nhầm lẫn giữa Lễ Giáng Sinh với điều đó". Ngài nói với trẻ em, "chúng con nên biết rằng, thực tế là những món quà mà các con nhận được đều đến từ những nỗ lực của cha mẹ và với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu".
Sau khi Đức Tổng Giám Mục tuyên bố lời phản đối của mình, những nhà tổ chức đã bỏ kế hoạch về Ông Già Noel và đổi tên ngôi nhà này thành "Ngôi nhà của Lễ Giáng sinh".
Các nhà truyền thông cần thinh lặng trong mùa Vọng
Nguyễn Hoàng Thương
09:10 15/12/2010
Các nhà truyền thông cần thinh lặng trong mùa Vọng
Vatican City (Zenit.org) - Chủ tịch Hội đồng truyền thông của Tòa Thánh Vatican mời gọi các nhà truyền thông dùng thời gian này của Mùa Vọng để được tĩnh lặng. Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội đề cập đến điều này trong một bức thư gửi các nhà truyền thông Mỹ Châu Latin nhân dịp lễ trọng kính Đức Mẹ Guadalupe vào Chúa Nhật vừa qua.
Ngài lưu ý cách mà các giáo hội đang cổ vũ cho sứ mạng của lục địa: "cần nhớ rằng làm môn đệ nghĩa là sống một cuộc gặp gỡ chân thật với Đức Kitô, để có kinh nghiệm về lòng nhân từ, tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài trong lịch sử cá nhân của chúng ta".
Đức Tổng Giám Mục cho hay: "Kinh nghiệm này ghi dấu và biến đổi đời sống một cách vĩnh viễn, và đó là lý do tại sao chúng ta muốn thông truyền cho tha nhân, vì thế biến đổi bản thân chúng ta trở thành những người Nam, người Nữ truyền giáo".
Đức Tổng Giám Mục Celli đề nghị một cuộc gặp gỡ Chúa về nhiều mặt, cả trên phương diện cá nhân và cộng đoàn, nảy sinh cả ở nơi tĩnh mịch, trong phụng vụ và trong gia đình. "Nó được nuôi dưỡng bằng sự đối thoại và cộng đoàn cầu nguyện, được diễn tả trong bài hát, trong giáo lý và kết thúc trong hành động và sự phục vụ. Đó là lý do tại sao, vào dịp lễ trọng kính Đức Mẹ Guadalupe này, tôi muốn mời gọi anh chị em, chính xác là các nhà truyền thông, nam cũng như nữ, một lần nữa có được kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô".
"Tôi mời gọi anh chị em sống những giây phút thinh lặng trong những ngày Mùa Vọng để nghe tiếng Chúa Giêsu nói với con tim chúng ta. Nắm tay Đức Maria, chúng ta gặp gỡ Chúa mà không cần vội vã, như Ngài luôn chờ đợi chúng ta!"
Viên chức Tòa Thánh Vatican đề nghị cần thinh lặng trước "sự tràn ngập những ưu tư và huyên náo vốn thường không ngừng lôi kéo chúng ta". Ngài cho hay: "Im lặng giống như một màn hình trống mà trên đó chúng ta có thể chiếu bộ phim đời sống thường nhật của mình để thấy nó một cách rõ ràng. Nếu chúng ta chiếu nó trên một bức tường đầy những hình ảnh, sách vở và các đối tượng, với một hậu cảnh ồn ào, chúng ta sẽ chỉ hiểu được chút ít [...] Trong thinh lặng, chúng ta nghe thấy tiếng Chúa. Bằng cách này, chúng ta sẽ có thể là những người gánh vác chân thật Lời Chúa như Mẹ Maria, người ‘ghi nhớ những điều ấy trong lòng’".
Đức Tổng Giám Mục Celli thừa nhận rằng lời cổ vũ của ngài thật khó khăn trong thời điểm của "oanh tạc tin tức, những nhu cầu mục vụ, của những vội vàng nơi gia đình, nơi các phương tiện truyền thông của chúng ta và nơi các giáo xứ, chưa nói đến mua sắm, quà tặng, các buổi tiệc và các hoạt động kỷ niệm".
Đức Tổng Giám Mục kết luận: "Tuy nhiên, nếu chúng ta dành thời gian để lựa chọn các thành phần và để chuẩn bị bữa ăn tối cùng các bữa ăn, chúng ta sẽ chia sẻ qua những ngày nghỉ, chúng ta cũng không chuẩn bị, và thậm chí còn hơn thế nữa, chúng ta sẽ thông truyền những gì qua radio, báo chí, các chương trình truyền hình và các trang Web? Chúng ta có thể đưa ra những gì đáng kể, nếu đời sống chúng ta chứa đầy những lời nói lặp đi lặp lại, với rất ít chiều sâu và nội dung? Chúng ta hãy dành thời gian cho Chúa, Đấng đang chờ đợi chúng ta trong Mùa Vọng này".
Vatican City (Zenit.org) - Chủ tịch Hội đồng truyền thông của Tòa Thánh Vatican mời gọi các nhà truyền thông dùng thời gian này của Mùa Vọng để được tĩnh lặng. Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội đề cập đến điều này trong một bức thư gửi các nhà truyền thông Mỹ Châu Latin nhân dịp lễ trọng kính Đức Mẹ Guadalupe vào Chúa Nhật vừa qua.
Ngài lưu ý cách mà các giáo hội đang cổ vũ cho sứ mạng của lục địa: "cần nhớ rằng làm môn đệ nghĩa là sống một cuộc gặp gỡ chân thật với Đức Kitô, để có kinh nghiệm về lòng nhân từ, tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài trong lịch sử cá nhân của chúng ta".
Đức Tổng Giám Mục cho hay: "Kinh nghiệm này ghi dấu và biến đổi đời sống một cách vĩnh viễn, và đó là lý do tại sao chúng ta muốn thông truyền cho tha nhân, vì thế biến đổi bản thân chúng ta trở thành những người Nam, người Nữ truyền giáo".
Đức Tổng Giám Mục Celli đề nghị một cuộc gặp gỡ Chúa về nhiều mặt, cả trên phương diện cá nhân và cộng đoàn, nảy sinh cả ở nơi tĩnh mịch, trong phụng vụ và trong gia đình. "Nó được nuôi dưỡng bằng sự đối thoại và cộng đoàn cầu nguyện, được diễn tả trong bài hát, trong giáo lý và kết thúc trong hành động và sự phục vụ. Đó là lý do tại sao, vào dịp lễ trọng kính Đức Mẹ Guadalupe này, tôi muốn mời gọi anh chị em, chính xác là các nhà truyền thông, nam cũng như nữ, một lần nữa có được kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô".
"Tôi mời gọi anh chị em sống những giây phút thinh lặng trong những ngày Mùa Vọng để nghe tiếng Chúa Giêsu nói với con tim chúng ta. Nắm tay Đức Maria, chúng ta gặp gỡ Chúa mà không cần vội vã, như Ngài luôn chờ đợi chúng ta!"
Viên chức Tòa Thánh Vatican đề nghị cần thinh lặng trước "sự tràn ngập những ưu tư và huyên náo vốn thường không ngừng lôi kéo chúng ta". Ngài cho hay: "Im lặng giống như một màn hình trống mà trên đó chúng ta có thể chiếu bộ phim đời sống thường nhật của mình để thấy nó một cách rõ ràng. Nếu chúng ta chiếu nó trên một bức tường đầy những hình ảnh, sách vở và các đối tượng, với một hậu cảnh ồn ào, chúng ta sẽ chỉ hiểu được chút ít [...] Trong thinh lặng, chúng ta nghe thấy tiếng Chúa. Bằng cách này, chúng ta sẽ có thể là những người gánh vác chân thật Lời Chúa như Mẹ Maria, người ‘ghi nhớ những điều ấy trong lòng’".
Đức Tổng Giám Mục Celli thừa nhận rằng lời cổ vũ của ngài thật khó khăn trong thời điểm của "oanh tạc tin tức, những nhu cầu mục vụ, của những vội vàng nơi gia đình, nơi các phương tiện truyền thông của chúng ta và nơi các giáo xứ, chưa nói đến mua sắm, quà tặng, các buổi tiệc và các hoạt động kỷ niệm".
Đức Tổng Giám Mục kết luận: "Tuy nhiên, nếu chúng ta dành thời gian để lựa chọn các thành phần và để chuẩn bị bữa ăn tối cùng các bữa ăn, chúng ta sẽ chia sẻ qua những ngày nghỉ, chúng ta cũng không chuẩn bị, và thậm chí còn hơn thế nữa, chúng ta sẽ thông truyền những gì qua radio, báo chí, các chương trình truyền hình và các trang Web? Chúng ta có thể đưa ra những gì đáng kể, nếu đời sống chúng ta chứa đầy những lời nói lặp đi lặp lại, với rất ít chiều sâu và nội dung? Chúng ta hãy dành thời gian cho Chúa, Đấng đang chờ đợi chúng ta trong Mùa Vọng này".
Căng thẳng tôn giáo gia tăng tại Indonesia
VOA
10:18 15/12/2010
Căng thẳng tôn giáo gia tăng tại Indonesia
Một nhóm các tín đồ Cơ đốc giáo ở Indonesia nhận được ít quan tâm của chính phủ về yêu cầu bảo vệ họ sau khi hàng trăm tín đồ Hồi giáo theo đường lối cứng rắn buộc họ phải ra khỏi nhà ở ngoại ô Jakarta. Vụ việc đã khiến người ta chú ý tới lòng khoan dung tôn giáo tại một nước mà Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama gần đây ca ngợi là một xã hội đa dạng về tôn giáo. Thông tín viên VOA Sara Schonhardt có bài tường thuật từ Jakarta sau đây.
Các thành viên của Giáo hội Tin lành Batak phải tìm một nơi thờ phượng mới, sau khi những người biểu tình là các tín đồ Hồi giáo theo đường lối cứng rắn buộc họ phải rời khỏi 7 địa điểm trong số các nơi họ từng cử hành các buổi thánh lễ. Những người biểu tình cho rằng các tín đồ Cơ đốc giáo tham gia hoạt động tôn giáo bất hợp pháp.
Những người biểu tình hôm Chủ Nhật bao gồm các ủng hộ viên của Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo, một nhóm Hồi giáo quá khích được nhiều người biết tới với hình thức phản đối theo kiểu đối đầu, cũng như các thành viên của một số phong trào Hồi giáo khác.
Theo luật Indonesia, nhà dân không thể được sử dụng để làm nơi cử hành lễ cầu nguyện tôn giáo. Tuy nhiên, các tín đồ Tin lành cho rằng họ phải sử dụng nhà để làm nơi thờ tự vì chính phủ không cho phép họ xây dựng nhà thờ.
Một nghị định được bộ trưởng ký hồi năm 2006 yêu cầu các nhóm tôn giáo với hơn 90 thành viên trở lên phải nhận được sự ủng hộ của 60 người dân địa phương trước khi họ có thể xây một nơi thờ tự. Họ cũng cần phải nhận được sự chấp thuận của đa số thành viên trong một ủy ban gồm các nhà lãnh đạo tôn giáo cấp quận và tỉnh.
Các tổ chức nhân quyền cho rằng qui định này đã được sử dụng như là một cái cớ cho các cuộc tấn công gia tăng khắp Jakarta trong những tháng gần đây. Một số nhà lập pháp yêu cầu ban hành một điều luật mới để bảo đảm sự hòa hợp tôn giáo.
Ông Andreas Harsono thuộc tổ chức Human Rights Watch cho rằng điều luật này quá khắc khe.
Ông Andreas cho biết: "Nghị định về nơi cầu nguyện về cơ bản chỉ được thi hành khi người ta định xây nhà thờ, nhưng không được thi hành khi người ta muốn xây đền thờ. Nên xét về một khía cạnh nào đó, nghị định này phân biệt đối xử đối với những thành phần thiểu số tại Indonesia."
Tổ chức Human Rights Watch đã kêu gọi chính phủ Indonesia tuân thủ cam kết trong hiến pháp về tự do tôn giáo bằng cách duyệt xét lại nghị định về nơi thờ tự.
Nhưng các giới chức của Bộ Tôn giáo cho rằng nghị định này là cần thiết để ngăn chặn xung đột giáo phái trong các cộng đồng có cư dân thuộc nhiều tôn giáo khác nhau.
Họ cũng nói rằng các vấn đề nội bộ, như việc xây dựng một nơi cầu nguyện hay xác định xem điều gì là cấm kỵ theo đạo Hồi, vượt quá thẩm quyền của họ.
Ông Nasaruddin Umar là người đứng đầu cơ quan hướng dẫn thi hành đạo Hồi tại Bộ Tôn giáo.
Ông Umar cho biết chính phủ chỉ quản lý các quan hệ giữa các tôn giáo khác nhau để không dẫn tới xung đột, và chính quyền không can thiệp vào vấn đề tín ngưỡng hay công việc của các tôn giáo. Indonesia là nước có số tín đồ Hồi giáo lớn nhất thế giới, nhưng chính phủ lại theo đường lối thế tục, và công nhận quyền hành đạo của một trong sáu tôn giáo được nhà nước công nhận, trong đó có Cơ đốc giáo.
Các tổ chức nhân quyền đã lên tiếng chỉ trích Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono đã không làm gì để chống lại những phần tử cực đoan gây bạo lực. Họ cho rằng việc đốt phá cũng như buộc các nhà thờ đóng cửa cho thấy tình trạng không khoan dung về tôn giáo đang ngày càng gia tăng tại nước này.
Các tổ chức thúc đẩy đa dạng tôn giáo cho rằng chính phủ có trách nhiệm phải bảo vệ quyền thờ tự của người dân bằng cách trấn áp những ai vi phạm hiến pháp, ngay cả trong trường hợp sự vi phạm không dẫn tới xung đột.
Các cuộc đối đầu giữa các tín đồ Tin lành và Hồi giáo tại các khu vực ngoại ô của Jakarta đã gia tăng trong những tháng gần đây. Cho dù vụ việc xảy ra hôm Chủ Nhật không dẫn tới bạo lực, một số các nhân vật lãnh đạo hội thánh đã bị đâm và bị đánh trong một lần đụng độ ở Bekasi hồi tháng Chín.
Ông Bonar Tigor Naipospos, người đứng đầu Viện Đa dạng Tôn giáo Setara, cho rằng xã hội Indonesia vốn rất bao dung và không quá khích về tôn giáo. Tuy nhiên, các cuộc thăm dò ý kiến về quan hệ giữa các nhóm tôn giáo khác nhau cho thấy việc các nhóm thiểu số khác nhau sống chung với nhau khắp Jakarta đã gây ra căng thẳng mới.
Ông Bonar nói: "Đây là một hiện tượng tại đô thị, đặc biệt là tại những nơi có các tổ chức quá khích. Thế nên, các cuộc thăm dò ý kiến do chúng tôi tiến hành cho thấy, phần lớn các mối đe dọa tự do tôn giáo là ở Jakarta và Tây Java, nơi các tổ chức cực đoan hoạt động mạnh."
Một nhóm các phần tử cực đoan được biết tới với tên gọi Jemaah Islamiya đã đứng ra nhận trách nhiệm về một loạt các vụ đánh bom tại nước này trong thập kỷ qua, làm hơn 220 người thiệt mạng. Họ chủ yếu nhắm mục tiêu vào các quán bar, nhà hàng và khách sạn có nhiều người nước ngoài lui tới. Chính phủ Indonesia đã bắt giữ, xét xử và kết án một số các thành viên JI, và nhóm này nhận được ít sự ủng hộ của công chúng.
Tuy nhiên, gần tới lễ Giáng sinh, chính phủ đã yêu cầu lực lượng cảnh sát cảnh giác trước các cuộc tấn công khủng bố nhắm vào các tín đồ Cơ đốc giáo. Năm 2000, những kẻ khủng bố đã tấn công một loạt các nhà thờ ở Jakarta vào Đêm Giáng sinh. Và trong các cuộc tấn công gần đây, cảnh sát đã phát hiện một số quả bom chưa nổ bên ngoài các nhà thờ ở tỉnh Trung Java.
Các thành viên của Giáo hội Tin lành Batak phải tìm một nơi thờ phượng mới, sau khi những người biểu tình là các tín đồ Hồi giáo theo đường lối cứng rắn buộc họ phải rời khỏi 7 địa điểm trong số các nơi họ từng cử hành các buổi thánh lễ. Những người biểu tình cho rằng các tín đồ Cơ đốc giáo tham gia hoạt động tôn giáo bất hợp pháp.
Những người biểu tình hôm Chủ Nhật bao gồm các ủng hộ viên của Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo, một nhóm Hồi giáo quá khích được nhiều người biết tới với hình thức phản đối theo kiểu đối đầu, cũng như các thành viên của một số phong trào Hồi giáo khác.
Theo luật Indonesia, nhà dân không thể được sử dụng để làm nơi cử hành lễ cầu nguyện tôn giáo. Tuy nhiên, các tín đồ Tin lành cho rằng họ phải sử dụng nhà để làm nơi thờ tự vì chính phủ không cho phép họ xây dựng nhà thờ.
Một nghị định được bộ trưởng ký hồi năm 2006 yêu cầu các nhóm tôn giáo với hơn 90 thành viên trở lên phải nhận được sự ủng hộ của 60 người dân địa phương trước khi họ có thể xây một nơi thờ tự. Họ cũng cần phải nhận được sự chấp thuận của đa số thành viên trong một ủy ban gồm các nhà lãnh đạo tôn giáo cấp quận và tỉnh.
Các tổ chức nhân quyền cho rằng qui định này đã được sử dụng như là một cái cớ cho các cuộc tấn công gia tăng khắp Jakarta trong những tháng gần đây. Một số nhà lập pháp yêu cầu ban hành một điều luật mới để bảo đảm sự hòa hợp tôn giáo.
Ông Andreas Harsono thuộc tổ chức Human Rights Watch cho rằng điều luật này quá khắc khe.
Ông Andreas cho biết: "Nghị định về nơi cầu nguyện về cơ bản chỉ được thi hành khi người ta định xây nhà thờ, nhưng không được thi hành khi người ta muốn xây đền thờ. Nên xét về một khía cạnh nào đó, nghị định này phân biệt đối xử đối với những thành phần thiểu số tại Indonesia."
Tổ chức Human Rights Watch đã kêu gọi chính phủ Indonesia tuân thủ cam kết trong hiến pháp về tự do tôn giáo bằng cách duyệt xét lại nghị định về nơi thờ tự.
Nhưng các giới chức của Bộ Tôn giáo cho rằng nghị định này là cần thiết để ngăn chặn xung đột giáo phái trong các cộng đồng có cư dân thuộc nhiều tôn giáo khác nhau.
Họ cũng nói rằng các vấn đề nội bộ, như việc xây dựng một nơi cầu nguyện hay xác định xem điều gì là cấm kỵ theo đạo Hồi, vượt quá thẩm quyền của họ.
Ông Nasaruddin Umar là người đứng đầu cơ quan hướng dẫn thi hành đạo Hồi tại Bộ Tôn giáo.
Ông Umar cho biết chính phủ chỉ quản lý các quan hệ giữa các tôn giáo khác nhau để không dẫn tới xung đột, và chính quyền không can thiệp vào vấn đề tín ngưỡng hay công việc của các tôn giáo. Indonesia là nước có số tín đồ Hồi giáo lớn nhất thế giới, nhưng chính phủ lại theo đường lối thế tục, và công nhận quyền hành đạo của một trong sáu tôn giáo được nhà nước công nhận, trong đó có Cơ đốc giáo.
Các tổ chức nhân quyền đã lên tiếng chỉ trích Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono đã không làm gì để chống lại những phần tử cực đoan gây bạo lực. Họ cho rằng việc đốt phá cũng như buộc các nhà thờ đóng cửa cho thấy tình trạng không khoan dung về tôn giáo đang ngày càng gia tăng tại nước này.
Các tổ chức thúc đẩy đa dạng tôn giáo cho rằng chính phủ có trách nhiệm phải bảo vệ quyền thờ tự của người dân bằng cách trấn áp những ai vi phạm hiến pháp, ngay cả trong trường hợp sự vi phạm không dẫn tới xung đột.
Các cuộc đối đầu giữa các tín đồ Tin lành và Hồi giáo tại các khu vực ngoại ô của Jakarta đã gia tăng trong những tháng gần đây. Cho dù vụ việc xảy ra hôm Chủ Nhật không dẫn tới bạo lực, một số các nhân vật lãnh đạo hội thánh đã bị đâm và bị đánh trong một lần đụng độ ở Bekasi hồi tháng Chín.
Ông Bonar Tigor Naipospos, người đứng đầu Viện Đa dạng Tôn giáo Setara, cho rằng xã hội Indonesia vốn rất bao dung và không quá khích về tôn giáo. Tuy nhiên, các cuộc thăm dò ý kiến về quan hệ giữa các nhóm tôn giáo khác nhau cho thấy việc các nhóm thiểu số khác nhau sống chung với nhau khắp Jakarta đã gây ra căng thẳng mới.
Ông Bonar nói: "Đây là một hiện tượng tại đô thị, đặc biệt là tại những nơi có các tổ chức quá khích. Thế nên, các cuộc thăm dò ý kiến do chúng tôi tiến hành cho thấy, phần lớn các mối đe dọa tự do tôn giáo là ở Jakarta và Tây Java, nơi các tổ chức cực đoan hoạt động mạnh."
Một nhóm các phần tử cực đoan được biết tới với tên gọi Jemaah Islamiya đã đứng ra nhận trách nhiệm về một loạt các vụ đánh bom tại nước này trong thập kỷ qua, làm hơn 220 người thiệt mạng. Họ chủ yếu nhắm mục tiêu vào các quán bar, nhà hàng và khách sạn có nhiều người nước ngoài lui tới. Chính phủ Indonesia đã bắt giữ, xét xử và kết án một số các thành viên JI, và nhóm này nhận được ít sự ủng hộ của công chúng.
Tuy nhiên, gần tới lễ Giáng sinh, chính phủ đã yêu cầu lực lượng cảnh sát cảnh giác trước các cuộc tấn công khủng bố nhắm vào các tín đồ Cơ đốc giáo. Năm 2000, những kẻ khủng bố đã tấn công một loạt các nhà thờ ở Jakarta vào Đêm Giáng sinh. Và trong các cuộc tấn công gần đây, cảnh sát đã phát hiện một số quả bom chưa nổ bên ngoài các nhà thờ ở tỉnh Trung Java.
Giúp các nạn nhân nô lệ tình dục
Trầm Thiên Thu
19:42 15/12/2010
Với tổ chức mới của mình, Sarah Symons đang xoa dịu vết thương lòng và tạo niềm hy vọng cho các nạn nhân bị bán làm nô lệ tình dục.
Bảy năm trước, trên chuyến đi công tác tời New York, Sarah Symons xem bộ phim khiến thay đổi cuộc đời chị. Đó là phim tài liệu The Day My God Died (Ngày Thượng Đế Chết), phim thuật lại chuyện đời của những cô gái (thậm chí có em chỉ mới 7 tuổi) được cứu khỏi tay những kẻ buôn bán phụ nữ qua biên giới. Có những người đã liều mạng để cứu thoát người khác. Chị xem phim và xúc động. Sarah Symons 45 tuổi, ở Massachusetts, có 2 con. Chị nói: “Trước khi xem phim, tôi hầu như không biết gì về việc buôn người. Thực sự tôi không hiểu về nô lệ tình dục đã gây tổn thương cho hàng triệu người. Khi tôi xem phim về những cô gái can đảm như vậy, tôi nghĩ về cuộc đời mình và cuộc đời con gái mình. Thật không thể chịu nổi. Nếu những người thoát khỏi có thể hành động nhiều để giúp đỡ người khác thì tôi chắc rằng tôi cũng có thể làm được”.
Sarah quá mủi lòng và quyết định hợp tác với một tổ chức thiện nguyện ở Hoa kỳ, đó là tổ chức Friends of Maiti Nepal, để đến Nepal và thăm nơi ở của các cô gái đã được cứu như phim đã chiếu. Chị nói: “Thật ngạc nhiên khi gặp các cô gái mới được cứu. Nhìn các em như những con thú bị thương – thân thể biến dạng, đầy vết bầm tím, vết thương, hoặc sắp chết vì bị AIDS. Nhưng người ta có thể nhìn thấy nỗi vui mừng ở các em được cứu 6 tháng trước. Các em múa hát và vui đùa ngoài sân. Niềm vui đó lớn hơn những gì các em đã phải chịu”.
Khi thăm các em, Sarah tấy một căn phòng đầy những túi vải, nữ trang và những đồ thủ công mà các em đã làm. Chị nói: “Tôi mua nhiều món đồ hết số tiền tôi có trong ví”. Chị muốn bán các món đồ này cho thân nhân và bạn bè, rồi trao tiền tặng lại các em.
Trở về Massachusetts, chị mau mắn biến ý định thành hành động. Chị đã cho 30 người bạn xem phim The Day My God Died. Chị cũng kể về những món đồ thủ công mà các em làm, mỗi món đều kèm tấm giấy ghi lại câu chuyện và người làm ra sản phẩm đó dùng tiền để làm lại cuộc đời như thế nào: Khi ra khỏi trung tâm sẽ đi học và tái hòa nhập cộng đồng. Sarah đã gây quỹ được 1.600 USD và gởi hết về trung tâm Maiti Nepal.
Thành công đó làm khai sinh Emancipation Network, một tổ chức phi lợi nhuận mà Sarah thành lập để khuyến khích các phụ nữ hoạt động từ thiện. Cứ 30 phụ nữ lại mở một Shop for Freedom riêng, và số tiền cứ vậy được nhân lên. Tổ chức này lan rộng khắp nước sau khi chương trình Lifetime Television nói về việc buôn người qua biên giới và tạo sự nối kết với tổ chức Emancipation Network trên website kêu gọi các nhà hảo tâm giúp đỡ các nạn nhân được cứu khỏi cảnh nô lệ tình dục.
Ngày nay, tổ chức của Sarah đã thành lập được 18 nhà mở cho các nạn nhân đến trú ngụ ở 9 quốc gia, kể cả 1 nhà ở New York, và bán sản phẩm của họ trên website madebysurvivors.com – có nhiều sản phẩm như đồ trang sức, đồ trang trí, ví, sản phẩm bằng giấy,… Mỗi năm Sarah đến các nhà mở 4 lần, chị nói: “Đôi khi tôi thấy lo, vì cuộc sống của các em tùy thuộc vào tôi. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ so với sự mãn nguyện mà tôi cảm thấy khi nhìn thấy cuộc sống của các em được cải thiện”. Nhiều em được Sarah giúp đỡ đã có căn hộ riêng, các em khác đang đi học, một số khác làm chương trình truyền thanh để giáo dục cộng đồng về việc buôn người. Sarah nói thêm: “Khi nhìn thấy tinh thần các em thay đổi, tôi rất vui”.
(Chuyển ngữ từ Redbookmag.com)
Sarah Symons (áo vàng, trái)
Bảy năm trước, trên chuyến đi công tác tời New York, Sarah Symons xem bộ phim khiến thay đổi cuộc đời chị. Đó là phim tài liệu The Day My God Died (Ngày Thượng Đế Chết), phim thuật lại chuyện đời của những cô gái (thậm chí có em chỉ mới 7 tuổi) được cứu khỏi tay những kẻ buôn bán phụ nữ qua biên giới. Có những người đã liều mạng để cứu thoát người khác. Chị xem phim và xúc động. Sarah Symons 45 tuổi, ở Massachusetts, có 2 con. Chị nói: “Trước khi xem phim, tôi hầu như không biết gì về việc buôn người. Thực sự tôi không hiểu về nô lệ tình dục đã gây tổn thương cho hàng triệu người. Khi tôi xem phim về những cô gái can đảm như vậy, tôi nghĩ về cuộc đời mình và cuộc đời con gái mình. Thật không thể chịu nổi. Nếu những người thoát khỏi có thể hành động nhiều để giúp đỡ người khác thì tôi chắc rằng tôi cũng có thể làm được”.
Sarah quá mủi lòng và quyết định hợp tác với một tổ chức thiện nguyện ở Hoa kỳ, đó là tổ chức Friends of Maiti Nepal, để đến Nepal và thăm nơi ở của các cô gái đã được cứu như phim đã chiếu. Chị nói: “Thật ngạc nhiên khi gặp các cô gái mới được cứu. Nhìn các em như những con thú bị thương – thân thể biến dạng, đầy vết bầm tím, vết thương, hoặc sắp chết vì bị AIDS. Nhưng người ta có thể nhìn thấy nỗi vui mừng ở các em được cứu 6 tháng trước. Các em múa hát và vui đùa ngoài sân. Niềm vui đó lớn hơn những gì các em đã phải chịu”.
Khi thăm các em, Sarah tấy một căn phòng đầy những túi vải, nữ trang và những đồ thủ công mà các em đã làm. Chị nói: “Tôi mua nhiều món đồ hết số tiền tôi có trong ví”. Chị muốn bán các món đồ này cho thân nhân và bạn bè, rồi trao tiền tặng lại các em.
Trở về Massachusetts, chị mau mắn biến ý định thành hành động. Chị đã cho 30 người bạn xem phim The Day My God Died. Chị cũng kể về những món đồ thủ công mà các em làm, mỗi món đều kèm tấm giấy ghi lại câu chuyện và người làm ra sản phẩm đó dùng tiền để làm lại cuộc đời như thế nào: Khi ra khỏi trung tâm sẽ đi học và tái hòa nhập cộng đồng. Sarah đã gây quỹ được 1.600 USD và gởi hết về trung tâm Maiti Nepal.
Sarah Symons (áo vàng, trái) |
Ngày nay, tổ chức của Sarah đã thành lập được 18 nhà mở cho các nạn nhân đến trú ngụ ở 9 quốc gia, kể cả 1 nhà ở New York, và bán sản phẩm của họ trên website madebysurvivors.com – có nhiều sản phẩm như đồ trang sức, đồ trang trí, ví, sản phẩm bằng giấy,… Mỗi năm Sarah đến các nhà mở 4 lần, chị nói: “Đôi khi tôi thấy lo, vì cuộc sống của các em tùy thuộc vào tôi. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ so với sự mãn nguyện mà tôi cảm thấy khi nhìn thấy cuộc sống của các em được cải thiện”. Nhiều em được Sarah giúp đỡ đã có căn hộ riêng, các em khác đang đi học, một số khác làm chương trình truyền thanh để giáo dục cộng đồng về việc buôn người. Sarah nói thêm: “Khi nhìn thấy tinh thần các em thay đổi, tôi rất vui”.
(Chuyển ngữ từ Redbookmag.com)
Sarah Symons (áo vàng, trái)
Đẻ thuê
Trầm Thiên Thu
20:07 15/12/2010
Một ngày nắng gay gắt bên ngoài Bệnh viện Vô sinh Akanksha, thuộc thành phố nhỏ Anand. Dưới bóng cây gần cổng có một con bò và một gia đình người hành khất. Bên trong bệnh viện, phòng chờ chật những phụ nữ quấn sari đi chân đất. Các y tá loay hoay quanh họ, gọi tên và đưa thuốc. Không khí nồng nặc mùi mồ hôi và mùi xi-măng. Trên tường treo những hình em bé và những bài cắt từ báo. Một bài có tiêu đề “Cái nôi của thế giới”.
Trong trường hợp này, ẩn dụ cũng là nghĩa đen. Bệnh viện Akanksha là hàng đầu về kinh doanh phát đạt của Ấn độ, gọi là “du lịch sinh sản” – người ngoại quốc đến nước này để chữa vô sinh và thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, nỗ lực chính của bệnh viện là thành công trong việc dùng phụ nữ để sinh con cho người ngoại quốc. Mang thai dùm ở Ấn độ giá khoảng 12.000 USD, bao gồm chi phí y tế và tiền đẻ thuê. Ở Mỹ, chi phí có thể lên đến 70.000 USD.
Tại sao việc đẻ thuê phổ biến ở vùng Anand khan hiếm nước với dân số 150.000 người thuộc Gujarat của Ấn độ? Đó là câu chuyện dài nhưng câu trả lời ngắn gọn thôi. BS Nayna Patel, 47 tuổi, giám đốc bênh viện, một phụ nữ có sức quyến rũ với mái tóc dài, đã đặt Anand lên hàng đầu từ năm 2003, khi bà sắp xếp việc mang thai dùm cho một phụ nữ địa phương muốn “cho mượn” tử cung. Phụ nữ này đã sinh đôi bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tên tuổi BS Patel nổi như cồn khắp thế giới, bà nhận nhiều đơn đặt hàng, hiên nay bà có 45 phụ nữ muốn mang thai dùm, đa số là phụ nữ nghèo ở các làng gần đó. 27 người trong số họ hiện đang mang thai, mỗi người được trả 5.000–7.000 USD (tương đương tiền lương 10 năm đối với dân quê Ấn độ). Hơn 50 đứa trẻ đã được sinh ra tại bệnh viện này trong 3 năm qua, ½ là sinh dùm người Tây phương hoặc Ấn kiều sống ở ngoại quốc.
Một ví dụ khác về việc lạm dụng thế giới thứ ba? Toàn cầu hóa là khùng điên? Hệ thống này chắc chắn tự phê phán mình rằng phụ nữ ngoại quốc không đồng ý hoặc không thể trả phí cao để lợi dụng các phụ nữ nghèo ở mức 1/10 giá cả so với trong nước họ. Hệ thống này cũng tránh thói quan liêu hợp pháp và tạo bộ mặt xấu cho phụ nữ ở Mỹ. (Đừng nói rằng Ấn độ, khác với một số nước phát triển, có hệ thống y tế khá tiến bộ và các BS đều nói tiếng Anh). Hoặc đó có là mối quan hệ lợi ích hỗ tương? Ở mức đánh giá nào đó, việc mang thai dùm ở Ấn độ là việc kinh doanh trị giá 445 triệu USD/năm.
Jessica Ordenes là chủ một trường nhỏ dạy yoga ở New Jersey. Nóng bức, vô định, uể oải và riêng lẻ. Chồng chị là David cũng tham gia với chị suốt tuần. Chị ngồi ở một phòng vắng khách của một bác sĩ ở bệnh viện Akanksha, uống nước dừa tươi và chờ tiêm hormone mỗi ngày. Chị là một phụ nữ nhỏ nhắn, nữ tính, tóc dài và cột đuôi gà. Chị mặc áo sơ-mi xanh lá và môi son bóng. Chị phải đến Anand vì chị đã 40 tuổi, gần hết tuổi sinh sản. Chị không mang thai nhưng vẫn thấy kinh nguyệt, chị đã mất nhiều năm chạy chữa ở Mỹ để có con mà không được. chị nói: “Tôi sắp hết trứng, sắp hết hy vọng, và sắp hết kiên nhẫn để chữa trị ở Mỹ. Tôi đọc thấy bệnh viện này trên mạng, tôi cảm thấy Ấn độ là cơ hội cuối cùng của tôi”.
Ordenes đến vài ngày trước, ở khách sạn gần bệnh viện để tiện đi lại. Chị được tiêm hormone kích thích buồng trứng. Khoảng 10 ngày, trứng sản sinh sẽ được trích ra và cho kết hợp với tinh trùng của chồng. Hai ngày sau đó, nếu “xuôi chèo mát mái”, một số phôi thai sẽ được cấy vào Najima Vohra (30 tuổi, có 2 con, người mang thai dùm Ordenes). Ordenes biết rất ít về người phụ nữ mamg thai dùm. Ordenes mới gặp chị ta 1 lần khi mới đến chữa trị.
Ordenes không phải không có con. Chị đã có 1 con gái 20 tuổi với chồng trước, nhưng tử cung chị nhiễm trùng sau khi sinh mổ nên phải cắt tử cung. Hôn nhân tan vỡ sau đó. Ba năm sau chị gặp David, và họ kết hôn. Chị ray rứt vì không thể có con với David. Chị nói: “Tôi xuất thân từ một gia đình lớn, tôi luôn muốn có nhiều con”. Chị hy vọng ít nhất cũng có 1 con với David để làm cho hôn nhân trọn vẹn.
Bang New Jersey có luật là những người sinh ra do “thuê đẻ” thì không được trợ cấp. Ordenes cảm thấy mệt mỏi đi tìm người đẻ dùm. Chị nói: “Đó là kinh nghiệm làm nản lòng nhất đời tôi”.
Ordenes đang ngồi trong phòng bác sĩ thì một người đàn ông Ấn độ trẻ tuổi bước vào. Không nói gì, anh ta chích kim vào cánh tay chị và hút máu. Chị không hiểu gì, mà cũng chẳng biết anh ta là ai. Anh ta đi ra, chị nhìn vết đỏ xám trên tay và nhún vai: “Dù sao thì nhiều năm đã qua. Mình đang ở Ấn độ mà”.
Najima Vohra đến bệnh viện một giờ trước để gặp Ordenes và để 2 người làm quen trước khi mọi chuyện được tiến hành. Cũng như các phụ nữ khác đến đây bí mật nhận mang thai dùm, Vohra thấy không thoải mái. Vohra mảnh mai, tóc dài và cột lại phía sau. Chị nói: “Tôi không thể đợi lâu. Tôi rất vui khi BS Patel chọn tôi mang thai dùm, tôi nôn nao đến mất ngủ. Tôi không mắc cở, nhưng dân địa phương đây theo truyền thống và không hiểu biết. Họ nghĩ vậy là sai, vô đạo đức. Họ không tin có thể mang thai mà không sinh hoạt tình dục. Nếu họ biết thì sẽ xa tránh gia đình tôi”.
Vohra sống ở một làng cách Anand 20 dặm, nhưng vợ chồng chị tạm thời đến ở trong thành phố cùng con gái 12 tuổi và con trai 7 tuổi để không ai biết chuyện. Chị nói: “Chúng tôi nói với hàng xóm là chúng tôi đi làm ăn xa. Như vậy không hẳn là nói dối”. Chị không có nghề, chỉ phụ chồng làm sắt vụn, mỗi ngày kiếm được chừng 50–60 rupi (khoảng 1,5 USD). Nếu chị mang thai thành công, chị có 5.500 USD “để lo tương lai cho các con”.
Từ nhỏ tới lớn, Vohra chỉ trồng lúa mì, học hành rất ít. Cha mẹ gả chồng cho chị lúc chị 16 tuổi, vợ chồng chị ở nhà tranh vách đất, năm nào cũng bị xói mòn vì gió mùa. Chị mang thai dùm để có tiền làm 3 việc: mua nhà gạch, lấy vốn cho chồng làm, và cho con ăn học. Chị nói: “Con gái tôi muốn làm cô giáo. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để con gái có cơ hội. Tôi vẫn khỏe mạnh. Tôi đã sinh 2 lần rồi”. Bệnh viện quy định những người mang thai dùm phải là những người đã làm mẹ để hiểu những gì liên quan về thể lý và ít có thể gắn chặt tình cảm với những đứa trẻ mà họ sinh ra dùm.
Dĩ nhiên Vohra không thể hiểu mình sẽ cảm thấy thế nào sau khi sinh. Đây là vấn đề khó khăn đã gây tranh cãi nhiều. Những người mẹ đẻ dùm tại bệnh viện này đều phải làm bản cam kết giao đứa trẻ – tái khẳng định cha mẹ tương lai, nhưng cũng gây tranh cãi về việc phụ nữ (nhiều người không biết chữ) đang bị lợi dụng. Ở Mỹ, chỉ một số bang coi hợp đồng thuê đẻ là hợp pháp. Các bang khác, người mang thai dùm có ít cơ hội đòi quyền làm mẹ.
Vohra lặng ngồi một lúc và xem lại những móng tay nứt của mình. Chị nói: “Nếu tôi cảm thấy buồn sau khi sinh, tôi cũng không tỏ ra. Tôi có thể hiểu Jessica cần con như thế nào. Ở Ấn độ, vô sinh là bị nguyền rủa”.
Ordenes đến lúc 10 giờ sáng. Chị bước đến ôm Vohra dù phụ nữ nghèo ở Ấn độ bị khinh miệt. Vohra mỉm cười. Ordenes thuê thông dịch viên vì Vohra không biết tiếng Anh. Lúc đó, Ordenes đã sản sinh được 6 trứng nhưng cần thêm thời gian để trứng chín. Chị siết tay Vohra và hứa chăm sóc Vohra trong thời gian mang thai. Ordenes nói: “Chị là thiên thần của tôi”.
Phòng làm việc của Patel tối tăm, chật hẹp, có chiếc máy tính và máy siêu âm. Giữa phòng có chiếc bàn lớn với những chồng hồ sơ. Khách đến nườm nượp. Lên xuống cầu thang nhiều lần để khám cho các bà mẹ mang thai dùm, Patel có khoảng 150 cặp vợ chồng ngoại quốc chờ đến lượt, mỗi tuần có 3 phụ nữ đến xin mang thai dùm. Mỗi ngày Patel làm việc 14 giờ. Chị nói: “Tôi nhận những người có vấn đề về sinh sản. Có một số phụ nữ nhờ người mang thai dùm vì họ không thể bỏ công việc để mang thai”. Chị cũng công nhận có nguy hiểm nếu việc mang thai dùm tiếp tục phát triển ở Ấn độ. Chị nói: “Có ít quy chế của Hội đồng Y tế Ấn độ về các hoạt động như vậy. Luật phải chặt chẽ hơn để bảo đảm phụ nữ không bị lợi dụng”.
Là khách mời phát biểu tại nhiều hội nghị quốc tế về vô sinh, Patel không bị “quấy rầy” bởi người ngoại quốc – kể cả khách hàng đến từ Đài loan, Nhật bản, Hoa kỳ, Âu châu và Úc châu. Nhưng chị từ chối điều trị cho các vợ chồng đồng tính, chứng tỏ nền tảng văn hóa “bảo thủ” của chị. Chị cho biết: “Tôi nhận nhiều email của những người đồng tính nam và nữ, một số người này viết rất hay nhưng tôi cảm thấy không thể giúp họ”. Những người chị cảm thấy đúng khi giúp đỡ là dân địa phương (những người mang thai dùm). Chị bày tỏ: “Tôi phải chắc chắn phụ nữ đó đã quyết định đúng. Nếu nghi ngờ, tôi không giúp”.
Patel cũng giúp họ kiểm soát chi phí. Chẳng hạn, nếu họ muốn mua nhà thì chị giữ tiền hộ đến khi họ mua nhà. Nếu họ muốn dành tiền cho con cái thì chị đưa họ đến ngân hàng làm thủ tục mở tài khoản với tên của họ. Chị nói: “Tôi thấy vui khi mọi chuyện xuôi xắn cho họ”.
RubinaMondal (trái) kiểm tra RaziaVohra với thai ky 10 tuần |
Đẻ thuê
Ngày nay Ấn độ có thêm nhiều dịch vụ. Vậy sao không mang thai? Nhiều phụ nữ Ấn độ sẵn sàng mang thai dùm nguời khác.
Một ngày nắng gay gắt bên ngoài Bệnh viện Vô sinh Akanksha, thuộc thành phố nhỏ Anand. Dưới bóng cây gần cổng có một con bò và một gia đình người hành khất. Bên trong bệnh viện, phòng chờ chật những phụ nữ quấn sari đi chân đất. Các y tá loay hoay quanh họ, gọi tên và đưa thuốc. Không khí nồng nặc mùi mồ hôi và mùi xi-măng. Trên tường treo những hình em bé và những bài cắt từ báo. Một bài có tiêu đề “Cái nôi của thế giới”.
Trong trường hợp này, ẩn dụ cũng là nghĩa đen. Bệnh viện Akanksha là hàng đầu về kinh doanh phát đạt của Ấn độ, gọi là “du lịch sinh sản” – người ngoại quốc đến nước này để chữa vô sinh và thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, nỗ lực chính của bệnh viện là thành công trong việc dùng phụ nữ để sinh con cho người ngoại quốc. Mang thai dùm ở Ấn độ giá khoảng 12.000 USD, bao gồm chi phí y tế và tiền đẻ thuê. Ở Mỹ, chi phí có thể lên đến 70.000 USD.
Tại sao việc đẻ thuê phổ biến ở vùng Anand khan hiếm nước với dân số 150.000 người thuộc Gujarat của Ấn độ? Đó là câu chuyện dài nhưng câu trả lời ngắn gọn thôi. BS Nayna Patel, 47 tuổi, giám đốc bênh viện, một phụ nữ có sức quyến rũ với mái tóc dài, đã đặt Anand lên hàng đầu từ năm 2003, khi bà sắp xếp việc mang thai dùm cho một phụ nữ địa phương muốn “cho mượn” tử cung. Phụ nữ này đã sinh đôi bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tên tuổi BS Patel nổi như cồn khắp thế giới, bà nhận nhiều đơn đặt hàng, hiên nay bà có 45 phụ nữ muốn mang thai dùm, đa số là phụ nữ nghèo ở các làng gần đó. 27 người trong số họ hiện đang mang thai, mỗi người được trả 5.000–7.000 USD (tương đương tiền lương 10 năm đối với dân quê Ấn độ). Hơn 50 đứa trẻ đã được sinh ra tại bệnh viện này trong 3 năm qua, ½ là sinh dùm người Tây phương hoặc Ấn kiều sống ở ngoại quốc.
Một ví dụ khác về việc lạm dụng thế giới thứ ba? Toàn cầu hóa là khùng điên? Hệ thống này chắc chắn tự phê phán mình rằng phụ nữ ngoại quốc không đồng ý hoặc không thể trả phí cao để lợi dụng các phụ nữ nghèo ở mức 1/10 giá cả so với trong nước họ. Hệ thống này cũng tránh thói quan liêu hợp pháp và tạo bộ mặt xấu cho phụ nữ ở Mỹ. (Đừng nói rằng Ấn độ, khác với một số nước phát triển, có hệ thống y tế khá tiến bộ và các BS đều nói tiếng Anh). Hoặc đó có là mối quan hệ lợi ích hỗ tương? Ở mức đánh giá nào đó, việc mang thai dùm ở Ấn độ là việc kinh doanh trị giá 445 triệu USD/năm.
Jessica Ordenes là chủ một trường nhỏ dạy yoga ở New Jersey. Nóng bức, vô định, uể oải và riêng lẻ. Chồng chị là David cũng tham gia với chị suốt tuần. Chị ngồi ở một phòng vắng khách của một bác sĩ ở bệnh viện Akanksha, uống nước dừa tươi và chờ tiêm hormone mỗi ngày. Chị là một phụ nữ nhỏ nhắn, nữ tính, tóc dài và cột đuôi gà. Chị mặc áo sơ-mi xanh lá và môi son bóng. Chị phải đến Anand vì chị đã 40 tuổi, gần hết tuổi sinh sản. Chị không mang thai nhưng vẫn thấy kinh nguyệt, chị đã mất nhiều năm chạy chữa ở Mỹ để có con mà không được. chị nói: “Tôi sắp hết trứng, sắp hết hy vọng, và sắp hết kiên nhẫn để chữa trị ở Mỹ. Tôi đọc thấy bệnh viện này trên mạng, tôi cảm thấy Ấn độ là cơ hội cuối cùng của tôi”.
Ordenes đến vài ngày trước, ở khách sạn gần bệnh viện để tiện đi lại. Chị được tiêm hormone kích thích buồng trứng. Khoảng 10 ngày, trứng sản sinh sẽ được trích ra và cho kết hợp với tinh trùng của chồng. Hai ngày sau đó, nếu “xuôi chèo mát mái”, một số phôi thai sẽ được cấy vào Najima Vohra (30 tuổi, có 2 con, người mang thai dùm Ordenes). Ordenes biết rất ít về người phụ nữ mamg thai dùm. Ordenes mới gặp chị ta 1 lần khi mới đến chữa trị.
Ordenes không phải không có con. Chị đã có 1 con gái 20 tuổi với chồng trước, nhưng tử cung chị nhiễm trùng sau khi sinh mổ nên phải cắt tử cung. Hôn nhân tan vỡ sau đó. Ba năm sau chị gặp David, và họ kết hôn. Chị ray rứt vì không thể có con với David. Chị nói: “Tôi xuất thân từ một gia đình lớn, tôi luôn muốn có nhiều con”. Chị hy vọng ít nhất cũng có 1 con với David để làm cho hôn nhân trọn vẹn.
Bang New Jersey có luật là những người sinh ra do “thuê đẻ” thì không được trợ cấp. Ordenes cảm thấy mệt mỏi đi tìm người đẻ dùm. Chị nói: “Đó là kinh nghiệm làm nản lòng nhất đời tôi”.
Ordenes đang ngồi trong phòng bác sĩ thì một người đàn ông Ấn độ trẻ tuổi bước vào. Không nói gì, anh ta chích kim vào cánh tay chị và hút máu. Chị không hiểu gì, mà cũng chẳng biết anh ta là ai. Anh ta đi ra, chị nhìn vết đỏ xám trên tay và nhún vai: “Dù sao thì nhiều năm đã qua. Mình đang ở Ấn độ mà”.
Najima Vohra đến bệnh viện một giờ trước để gặp Ordenes và để 2 người làm quen trước khi mọi chuyện được tiến hành. Cũng như các phụ nữ khác đến đây bí mật nhận mang thai dùm, Vohra thấy không thoải mái. Vohra mảnh mai, tóc dài và cột lại phía sau. Chị nói: “Tôi không thể đợi lâu. Tôi rất vui khi BS Patel chọn tôi mang thai dùm, tôi nôn nao đến mất ngủ. Tôi không mắc cở, nhưng dân địa phương đây theo truyền thống và không hiểu biết. Họ nghĩ vậy là sai, vô đạo đức. Họ không tin có thể mang thai mà không sinh hoạt tình dục. Nếu họ biết thì sẽ xa tránh gia đình tôi”.
Vohra sống ở một làng cách Anand 20 dặm, nhưng vợ chồng chị tạm thời đến ở trong thành phố cùng con gái 12 tuổi và con trai 7 tuổi để không ai biết chuyện. Chị nói: “Chúng tôi nói với hàng xóm là chúng tôi đi làm ăn xa. Như vậy không hẳn là nói dối”. Chị không có nghề, chỉ phụ chồng làm sắt vụn, mỗi ngày kiếm được chừng 50–60 rupi (khoảng 1,5 USD). Nếu chị mang thai thành công, chị có 5.500 USD “để lo tương lai cho các con”.
Từ nhỏ tới lớn, Vohra chỉ trồng lúa mì, học hành rất ít. Cha mẹ gả chồng cho chị lúc chị 16 tuổi, vợ chồng chị ở nhà tranh vách đất, năm nào cũng bị xói mòn vì gió mùa. Chị mang thai dùm để có tiền làm 3 việc: mua nhà gạch, lấy vốn cho chồng làm, và cho con ăn học. Chị nói: “Con gái tôi muốn làm cô giáo. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để con gái có cơ hội. Tôi vẫn khỏe mạnh. Tôi đã sinh 2 lần rồi”. Bệnh viện quy định những người mang thai dùm phải là những người đã làm mẹ để hiểu những gì liên quan về thể lý và ít có thể gắn chặt tình cảm với những đứa trẻ mà họ sinh ra dùm.
Dĩ nhiên Vohra không thể hiểu mình sẽ cảm thấy thế nào sau khi sinh. Đây là vấn đề khó khăn đã gây tranh cãi nhiều. Những người mẹ đẻ dùm tại bệnh viện này đều phải làm bản cam kết giao đứa trẻ – tái khẳng định cha mẹ tương lai, nhưng cũng gây tranh cãi về việc phụ nữ (nhiều người không biết chữ) đang bị lợi dụng. Ở Mỹ, chỉ một số bang coi hợp đồng thuê đẻ là hợp pháp. Các bang khác, người mang thai dùm có ít cơ hội đòi quyền làm mẹ.
Vohra lặng ngồi một lúc và xem lại những móng tay nứt của mình. Chị nói: “Nếu tôi cảm thấy buồn sau khi sinh, tôi cũng không tỏ ra. Tôi có thể hiểu Jessica cần con như thế nào. Ở Ấn độ, vô sinh là bị nguyền rủa”.
Ordenes đến lúc 10 giờ sáng. Chị bước đến ôm Vohra dù phụ nữ nghèo ở Ấn độ bị khinh miệt. Vohra mỉm cười. Ordenes thuê thông dịch viên vì Vohra không biết tiếng Anh. Lúc đó, Ordenes đã sản sinh được 6 trứng nhưng cần thêm thời gian để trứng chín. Chị siết tay Vohra và hứa chăm sóc Vohra trong thời gian mang thai. Ordenes nói: “Chị là thiên thần của tôi”.
Phòng làm việc của Patel tối tăm, chật hẹp, có chiếc máy tính và máy siêu âm. Giữa phòng có chiếc bàn lớn với những chồng hồ sơ. Khách đến nườm nượp. Lên xuống cầu thang nhiều lần để khám cho các bà mẹ mang thai dùm, Patel có khoảng 150 cặp vợ chồng ngoại quốc chờ đến lượt, mỗi tuần có 3 phụ nữ đến xin mang thai dùm. Mỗi ngày Patel làm việc 14 giờ. Chị nói: “Tôi nhận những người có vấn đề về sinh sản. Có một số phụ nữ nhờ người mang thai dùm vì họ không thể bỏ công việc để mang thai”. Chị cũng công nhận có nguy hiểm nếu việc mang thai dùm tiếp tục phát triển ở Ấn độ. Chị nói: “Có ít quy chế của Hội đồng Y tế Ấn độ về các hoạt động như vậy. Luật phải chặt chẽ hơn để bảo đảm phụ nữ không bị lợi dụng”.
Là khách mời phát biểu tại nhiều hội nghị quốc tế về vô sinh, Patel không bị “quấy rầy” bởi người ngoại quốc – kể cả khách hàng đến từ Đài loan, Nhật bản, Hoa kỳ, Âu châu và Úc châu. Nhưng chị từ chối điều trị cho các vợ chồng đồng tính, chứng tỏ nền tảng văn hóa “bảo thủ” của chị. Chị cho biết: “Tôi nhận nhiều email của những người đồng tính nam và nữ, một số người này viết rất hay nhưng tôi cảm thấy không thể giúp họ”. Những người chị cảm thấy đúng khi giúp đỡ là dân địa phương (những người mang thai dùm). Chị bày tỏ: “Tôi phải chắc chắn phụ nữ đó đã quyết định đúng. Nếu nghi ngờ, tôi không giúp”.
Patel cũng giúp họ kiểm soát chi phí. Chẳng hạn, nếu họ muốn mua nhà thì chị giữ tiền hộ đến khi họ mua nhà. Nếu họ muốn dành tiền cho con cái thì chị đưa họ đến ngân hàng làm thủ tục mở tài khoản với tên của họ. Chị nói: “Tôi thấy vui khi mọi chuyện xuôi xắn cho họ”.
Trong số đó có Rubina Mondal, 30 tuổi, là nhân viên ngân hàng, chị này vừa sinh một bé trai kháu khỉnh hồi tháng Hai cho một cặp vợ chồng người Mỹ ở California. Mondal đã biết đến Patel trong một chương trình truyền hình và đã đến gặp Patel. Mondal ở Kolkata, Đông Ấn, con trai 8 tuổi của chị bị hở van tim, chị muốn mang thai dùm để có tiền chữa bệnh cho con.
(Theo Marie Claire)
Đức Thánh Cha nói với giới trẻ: “Các con hãy đón Chúa Giêsu vì Người đến để cứu chuộc chúng ta.”
Bùi Hữu Thư
21:44 15/12/2010
Giới Trẻ Công Giáo Tiến Hành vào buổi triều kiến chung
ROME, Thứ Tư 15 tháng 12, 2010 (Le Monde vu de Rome) - Đức Thánh Cha nói với giới trẻ: “Các con hãy đón tiếp Chúa Giêsu vì Người đến để cứu chuộc chúng ta.”
Vào cuối buổi triều kiến chung ngày Thứ Tư, như thường lệ, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã chào đón giới trẻ, các bệnh nhân và các cặp vợ chồng mới cưới.
“Các bạn trẻ thân mến, cha chúc chúng con – đặc biệt là các giới trẻ thuộc phong trào Công Giáo Tiến Hành – biết mở lòng để đón Chúa Giêsu, vì Người đến để cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng của tình yêu của Người.”
Đức Thánh Cha tiếp: “Các bệnh nhân thân mến, các bạn đang cùng chia sẻ với Chúa Kitô gánh nặng của Thánh Giá, qua kinh nghiêm của bệnh tật của các bạn, chớ gì dịp lễ Giáng Sinh sẽ mang lại cho các bạn sự bình an và niềm an ủi.”
Ngài đã kết luận: “Cha chào mừng các cặp vợ chồng mới cưới, các bạn vừa mới xây dựng gia đình trẻ, chúc cho các bạn tiếp tục tăng trưởng luôn mãi trong tình yêu Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi Người Giáng Sinh.”
ROME, Thứ Tư 15 tháng 12, 2010 (Le Monde vu de Rome) - Đức Thánh Cha nói với giới trẻ: “Các con hãy đón tiếp Chúa Giêsu vì Người đến để cứu chuộc chúng ta.”
Vào cuối buổi triều kiến chung ngày Thứ Tư, như thường lệ, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã chào đón giới trẻ, các bệnh nhân và các cặp vợ chồng mới cưới.
“Các bạn trẻ thân mến, cha chúc chúng con – đặc biệt là các giới trẻ thuộc phong trào Công Giáo Tiến Hành – biết mở lòng để đón Chúa Giêsu, vì Người đến để cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng của tình yêu của Người.”
Đức Thánh Cha tiếp: “Các bệnh nhân thân mến, các bạn đang cùng chia sẻ với Chúa Kitô gánh nặng của Thánh Giá, qua kinh nghiêm của bệnh tật của các bạn, chớ gì dịp lễ Giáng Sinh sẽ mang lại cho các bạn sự bình an và niềm an ủi.”
Ngài đã kết luận: “Cha chào mừng các cặp vợ chồng mới cưới, các bạn vừa mới xây dựng gia đình trẻ, chúc cho các bạn tiếp tục tăng trưởng luôn mãi trong tình yêu Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi Người Giáng Sinh.”
Top Stories
Nuove minacce e incursioni della autorità contro i redentoristi vietnamiti
Asia-News
05:47 15/12/2010
Funzionari ordinano ai religiosi della chiesa di Nostra Signora del perpetuo soccorso di Ho Chi Minh City di togliere dal loro bollettino articoli definiti “anti-governativi”. I testi ricordano controversie sui beni religiosi e attacchi contro i cattolici. Il superiore costretto a una “sessione di lavoro”.
Ho Chi Minh City (AsiaNews) – L’approssimarsi del congresso del Partito comunista, previsto per l’inizio del prossimo anno, sta suscitando in Vietnam un’ondata di repressione contro i dissenzienti, avvocati, intellettuali e attivisti in genere, che sta coinvolgendo anche i redentoristi. Le autorità locali di Ho Chi Minh City, infatti, nei giorni scorsi hanno organizzato due incursioni nella chiesa di Nostra Signora del perpetuo soccorso (nella foto), ordinando ai religiosi che se ne occupano di togliere dal loro bollettino articoli definiti “anti-governativi”.
A quanto riferisce padre Joseph Dinh Huu Thoai, responsabile del Segretariato della Provincia dei redentoristi in Vietnam, in una lettera datata 13 dicembre, per due giorni, l’8 e il 9 di questo mese, funzionari locali si sono presentati nella chiesa, la seconda, per grandezza, della città. Il giorno successivo, le autorità del terzo distretto della città hanno convocato il superiore provinciale, padre Vincent Pham Trung Thanh, per una “sessione di lavoro”.
In tale occasione, riferisce il religioso, rappresentanti dell’amministrazione statale per gli affari religiosi e funzionari locali hanno rivolto accuse contro i redentoristi di essere “istigatori di disordini”. Nella stessa occasione, al superiore provinciale è stato detto che era imputabile per “omelie dei redentoristi e articoli pubblicati nel bollettino riguardanti controversie per le proprietà della ex-delegazione apostolica e Thai Ha, atti di persecuzione a Tam Toa, Con Dau, Dong Chiem e il progetto governativo per le miniere di bauxite negli Altopiani centrali”. Dal punto di vista governativo, si tratta di “questioni non religiose”, delle quali i preti non hanno il permesso di parlare. Ogni violazione può essere imputata come condotta anti-governativa.
Padre Pham ha respinto tutte le accuse, divendo che il suo ordine religioso ha sempre lavorato per il bene di tutto il popolo, pregando e vivendo nel servizio del Vangelo e invitando alla riconciliazione tra le parti sociali e per il rispetto della giustizia e dela verità.
In risposta alle parole del religioso, la presidente del Comitato del distretto popolare ha annunciato “nuove incursioni” nella chiesa nei prossimi giorni.
A quanto riferisce padre Joseph Dinh Huu Thoai, responsabile del Segretariato della Provincia dei redentoristi in Vietnam, in una lettera datata 13 dicembre, per due giorni, l’8 e il 9 di questo mese, funzionari locali si sono presentati nella chiesa, la seconda, per grandezza, della città. Il giorno successivo, le autorità del terzo distretto della città hanno convocato il superiore provinciale, padre Vincent Pham Trung Thanh, per una “sessione di lavoro”.
In tale occasione, riferisce il religioso, rappresentanti dell’amministrazione statale per gli affari religiosi e funzionari locali hanno rivolto accuse contro i redentoristi di essere “istigatori di disordini”. Nella stessa occasione, al superiore provinciale è stato detto che era imputabile per “omelie dei redentoristi e articoli pubblicati nel bollettino riguardanti controversie per le proprietà della ex-delegazione apostolica e Thai Ha, atti di persecuzione a Tam Toa, Con Dau, Dong Chiem e il progetto governativo per le miniere di bauxite negli Altopiani centrali”. Dal punto di vista governativo, si tratta di “questioni non religiose”, delle quali i preti non hanno il permesso di parlare. Ogni violazione può essere imputata come condotta anti-governativa.
Padre Pham ha respinto tutte le accuse, divendo che il suo ordine religioso ha sempre lavorato per il bene di tutto il popolo, pregando e vivendo nel servizio del Vangelo e invitando alla riconciliazione tra le parti sociali e per il rispetto della giustizia e dela verità.
In risposta alle parole del religioso, la presidente del Comitato del distretto popolare ha annunciato “nuove incursioni” nella chiesa nei prossimi giorni.
Le gouvernement cambodgien décide de fermer un centre de réfugiés accueillant des Montagnards des Hauts Plateaux du centre du Vietnam
Eglises d'Asie
06:28 15/12/2010
Le gouvernement cambodgien s’apprête à fermer un centre de réfugiés de nationalité vietnamienne. Placé sous la responsabilité du Haut Commissariat des Nations Unies pour les réfugiés, le centre se trouve dans le district de Sen Sok. Il abrite sans doute plus de 80 pensionnaires (le chiffre exact n’est pas connu) appartenant à diverses ethnies minoritaires des Hauts Plateaux du centre du Vietnam. Ceux-ci ont quitté leur pays à diverses époques...
... pour fuir les pressions et tracasseries policières après les soulèvements de 2001 et 2004. Beaucoup d’entre eux sont chrétiens, le plus souvent de confession protestante.
La presse cambodgienne du 14 décembre dernier (1) fait état d’une lettre du ministère cambodgien des Affaires étrangères adressée, le 29 novembre dernier, au Haut Commissariat aux réfugiés. Elle l’informe de la décision de fermer les portes du centre pour le 1er janvier 2011. Elle demande à l’organe des Nations Unies de hâter le processus d’installation dans un pays tiers des 62 réfugiés du camp déjà enregistrés comme réfugiés. La lettre ajoute qu’avant la fermeture du centre, le gouvernement souhaite rapatrier au Vietnam les demandeurs d’asile attendant encore l’examen de leur cas, ainsi que les éventuels nouveaux arrivants. Dans la journée du 14 décembre, deux communiqués, émanant respectivement des ministères des Affaires étrangères et de l’Intérieur, ont confirmé les indications données par la lettre et ont informé que la mesure de rapatriement toucherait plus d’une dizaine de demandeurs d’asile actuellement dans le centre.
Pour sa part, le Haut Commissariat a demandé au gouvernement de lui donner davantage de temps pour régler les problèmes posés par la fermeture du centre, en particulier l’installation en pays tiers des Montagnards déjà enregistrés comme réfugiés. Selon les déclarations du Haut Commissariat, les pensionnaires actuellement au centre sont les derniers de la vague de demandeurs d’asile venus des Hauts Plateaux du centre Vietnam pour se mettre sous la protection des Nations Unies au Cambodge. Depuis 2006, ils ont été 1 812 à venir demander l’asile. Grâce au Haut Commissariat, 999 d’entre eux sont allés s’installer dans un pays tiers, pour la plupart aux Etats-Unis, tandis que 751 ont été rapatriés au Vietnam.
Mais, en réalité, les chiffres sont beaucoup plus importants si l’on tient compte du fait que cette vague de réfugiés venant des Hauts Plateaux a débuté en 2001. Cette année-là, la répression et les procès qui suivirent le premier soulèvement montagnard entraînèrent un premier exode des militants les plus engagés vers le Cambodge. Un millier de ces premiers demandeurs d’asile avaient été ensuite admis dans un pays d’asile définitif, la plupart aux Etats-Unis. Trois ans plus tard, après le soulèvement du week-end pascal de 2004 et la violente répression qui suivit, le mouvement d’exode avait repris, moins massif mais durable, un mouvement aussi mal considéré par les autorités vietnamiennes que cambodgiennes. Les chiffres précis de la totalité des Montagnards des Hauts Plateaux ayant franchi la frontière depuis avril 2004 ne sont pas connus. En janvier 2005, des accords tripartites ont été signés entre le Haut Commissariat, le Vietnam et le Cambodge (2), prévoyant la possibilité pour les Montagnards de revenir volontairement dans leur pays. En 2OO6, 700 Montagnards du second exode avaient déjà choisi de s’établir dans un tiers pays, généralement aux Etats-Unis. Depuis les accords, des rapatriements ont eu lieu à de nombreuses reprises, touchant des Montagnards n’ayant pas obtenu du Haut Commissariat le statut de réfugié. D’autres arrêtés par la police cambodgienne avant de rencontrer les fonctionnaires du HCR ont été directement livrés à la police vietnamienne.
Par ailleurs, les accords tripartites de janvier 2005 donnent au Haut Commissariat aux réfugiés un droit de regard sur les conditions d’existence des Montagnards ayant choisi le retour dans leur pays. Des délégués du HCR sont venus rendre visite aux anciens réfugiés revenus au Vietnam. Certains des rapports publiés à l’issue de ces voyages ont été violemment critiqués par des associations humanitaires concernées par le problème, en particulier le groupe américain Human Rights Wacht.
(1) Voir The Phnom Penh Post du 14 décembre 2010, « Vietnamese refugees face deportation ». Voir également la dépêche d’Associated Press du 14 décembre 2010.
(2) Voir EDA 346,347, 349
(Source: Eglises d'Asie, 15 décembre 2010)
... pour fuir les pressions et tracasseries policières après les soulèvements de 2001 et 2004. Beaucoup d’entre eux sont chrétiens, le plus souvent de confession protestante.
La presse cambodgienne du 14 décembre dernier (1) fait état d’une lettre du ministère cambodgien des Affaires étrangères adressée, le 29 novembre dernier, au Haut Commissariat aux réfugiés. Elle l’informe de la décision de fermer les portes du centre pour le 1er janvier 2011. Elle demande à l’organe des Nations Unies de hâter le processus d’installation dans un pays tiers des 62 réfugiés du camp déjà enregistrés comme réfugiés. La lettre ajoute qu’avant la fermeture du centre, le gouvernement souhaite rapatrier au Vietnam les demandeurs d’asile attendant encore l’examen de leur cas, ainsi que les éventuels nouveaux arrivants. Dans la journée du 14 décembre, deux communiqués, émanant respectivement des ministères des Affaires étrangères et de l’Intérieur, ont confirmé les indications données par la lettre et ont informé que la mesure de rapatriement toucherait plus d’une dizaine de demandeurs d’asile actuellement dans le centre.
Pour sa part, le Haut Commissariat a demandé au gouvernement de lui donner davantage de temps pour régler les problèmes posés par la fermeture du centre, en particulier l’installation en pays tiers des Montagnards déjà enregistrés comme réfugiés. Selon les déclarations du Haut Commissariat, les pensionnaires actuellement au centre sont les derniers de la vague de demandeurs d’asile venus des Hauts Plateaux du centre Vietnam pour se mettre sous la protection des Nations Unies au Cambodge. Depuis 2006, ils ont été 1 812 à venir demander l’asile. Grâce au Haut Commissariat, 999 d’entre eux sont allés s’installer dans un pays tiers, pour la plupart aux Etats-Unis, tandis que 751 ont été rapatriés au Vietnam.
Mais, en réalité, les chiffres sont beaucoup plus importants si l’on tient compte du fait que cette vague de réfugiés venant des Hauts Plateaux a débuté en 2001. Cette année-là, la répression et les procès qui suivirent le premier soulèvement montagnard entraînèrent un premier exode des militants les plus engagés vers le Cambodge. Un millier de ces premiers demandeurs d’asile avaient été ensuite admis dans un pays d’asile définitif, la plupart aux Etats-Unis. Trois ans plus tard, après le soulèvement du week-end pascal de 2004 et la violente répression qui suivit, le mouvement d’exode avait repris, moins massif mais durable, un mouvement aussi mal considéré par les autorités vietnamiennes que cambodgiennes. Les chiffres précis de la totalité des Montagnards des Hauts Plateaux ayant franchi la frontière depuis avril 2004 ne sont pas connus. En janvier 2005, des accords tripartites ont été signés entre le Haut Commissariat, le Vietnam et le Cambodge (2), prévoyant la possibilité pour les Montagnards de revenir volontairement dans leur pays. En 2OO6, 700 Montagnards du second exode avaient déjà choisi de s’établir dans un tiers pays, généralement aux Etats-Unis. Depuis les accords, des rapatriements ont eu lieu à de nombreuses reprises, touchant des Montagnards n’ayant pas obtenu du Haut Commissariat le statut de réfugié. D’autres arrêtés par la police cambodgienne avant de rencontrer les fonctionnaires du HCR ont été directement livrés à la police vietnamienne.
Par ailleurs, les accords tripartites de janvier 2005 donnent au Haut Commissariat aux réfugiés un droit de regard sur les conditions d’existence des Montagnards ayant choisi le retour dans leur pays. Des délégués du HCR sont venus rendre visite aux anciens réfugiés revenus au Vietnam. Certains des rapports publiés à l’issue de ces voyages ont été violemment critiqués par des associations humanitaires concernées par le problème, en particulier le groupe américain Human Rights Wacht.
(1) Voir The Phnom Penh Post du 14 décembre 2010, « Vietnamese refugees face deportation ». Voir également la dépêche d’Associated Press du 14 décembre 2010.
(2) Voir EDA 346,347, 349
(Source: Eglises d'Asie, 15 décembre 2010)
Pope: nurturing love in our Christian life, keeping our gaze fixed on Heaven
Asia-News
09:08 15/12/2010
VATICAN - The life of St. Veronica Giuliani described today by Benedict XVI to eight thousand people in the Paul VI Hall for the general audience is an invitation to “nurture love in our Christian life, to "keep our gaze fixed on heaven where we will live the joy of divine love with so many brothers and sisters", because "death does not have the last word”.
A mystic not of the Middle Ages, but remembered by the Pope on the 350th anniversary of her birth the 27 December 1660, who is joyfully recalled by "Città di Castello, Urbino," the place that is deeply linked the life of the saint. Ursula Giuliani was born in Mercatello, near Urbino, the last of seven sisters, three of whom embraced monastic life. At the age 17, she entered the Poor Clare Sisters of Citta di Castello, taking the name Veronica at her religious profession. She became superior of the convent and remained there until her death in 1727.
Author of a diary covering 34 years of life, Veronica "became true image of Christ crucified" through "many penances, great suffering and some mystical experiences linked to Christ’s passion", "corroborating her prayers of intercession through the offering of herself”. "Christ to whom Veronica united herself is the Christ of the passion, death and resurrection" and Veronica "arrives at asking Jesus to be crucified with him”.
Hers is a “markedly Christ centered and spousal experience”. She lives the experience of being loved by Christ, faithful and sincere husband, and wanted to respond with passionate and enduring love". Veronica, who received the stigmata, has "an intense and suffering love for the Church," for which Veronica prays, as well as for the pope, his bishops, priests and all the souls in need, even in purgatory. "Compared to the preaching of the time, often focused on saving of the soul in individual terms, she shows a sense of solidarity with her brothers and sisters on the path to heaven."
Her figure, "invites us to grow in our Christian life, in union with the Lord, abandoning ourselves to His will with complete confidence and total union with the Church, the Bride of Christ; it invites us to share the suffered love of Jesus on the Cross for the salvation of all sinners, inviting us to keep our eyes fixed on Heaven, the goal of our earthly journey, where we will live together the joy of full communion with God with many brothers and sisters; she calls us to nourish ourselves daily with the Word of God, to warm our heart and directs our lives. " In statements like "nothing can separate me from God's will, not even death" and especially in her last words, the conclusion of the Pope, we can find "the summary of her passionate mystical experience: 'I found love, love revealed itself".
A mystic not of the Middle Ages, but remembered by the Pope on the 350th anniversary of her birth the 27 December 1660, who is joyfully recalled by "Città di Castello, Urbino," the place that is deeply linked the life of the saint. Ursula Giuliani was born in Mercatello, near Urbino, the last of seven sisters, three of whom embraced monastic life. At the age 17, she entered the Poor Clare Sisters of Citta di Castello, taking the name Veronica at her religious profession. She became superior of the convent and remained there until her death in 1727.
Author of a diary covering 34 years of life, Veronica "became true image of Christ crucified" through "many penances, great suffering and some mystical experiences linked to Christ’s passion", "corroborating her prayers of intercession through the offering of herself”. "Christ to whom Veronica united herself is the Christ of the passion, death and resurrection" and Veronica "arrives at asking Jesus to be crucified with him”.
Hers is a “markedly Christ centered and spousal experience”. She lives the experience of being loved by Christ, faithful and sincere husband, and wanted to respond with passionate and enduring love". Veronica, who received the stigmata, has "an intense and suffering love for the Church," for which Veronica prays, as well as for the pope, his bishops, priests and all the souls in need, even in purgatory. "Compared to the preaching of the time, often focused on saving of the soul in individual terms, she shows a sense of solidarity with her brothers and sisters on the path to heaven."
Her figure, "invites us to grow in our Christian life, in union with the Lord, abandoning ourselves to His will with complete confidence and total union with the Church, the Bride of Christ; it invites us to share the suffered love of Jesus on the Cross for the salvation of all sinners, inviting us to keep our eyes fixed on Heaven, the goal of our earthly journey, where we will live together the joy of full communion with God with many brothers and sisters; she calls us to nourish ourselves daily with the Word of God, to warm our heart and directs our lives. " In statements like "nothing can separate me from God's will, not even death" and especially in her last words, the conclusion of the Pope, we can find "the summary of her passionate mystical experience: 'I found love, love revealed itself".
New threats and attacks by authorities against the Redemptorists in Vietnam
Asia-News
16:26 15/12/2010
Officials order the religious men of the church of Our Lady of Perpetual Help in Ho Chi Minh City to remove articles, described as "anti-government", from their newsletter. The texts speak of religious property disputes and attacks against Catholics. The Superior forced to attend a "working session".
Ho Chi Minh City (AsiaNews) - The approach of the Communist Party Congress, scheduled for early next year, is attracting a wave of repression against dissidents, lawyers, intellectuals and activists in general in Vietnam, which is involving also the Redemptorists. Local authorities in Ho Chi Minh City, in fact, in recent days made two raids on the church of Our Lady of Perpetual Help (pictured), ordering the religious men who run it to remove articles, described as "anti-government", from their newsletter.
According to a a letter dated December 13 by Father Joseph Dinh Huu Thoai, head of the Secretariat of the Province of the Redemptorists in Vietnam, on two consecutive days, 8th and 9th of this month, local officials arrived at the church, the second, in size of the city. The next day, the authorities of the third district of the city called the provincial superior, Father Vincent Pham Trung Thanh, for a "working session".
On that occasion, reports the priest, representatives of state administration for religious affairs and local officials accused the Redemptorists of being "instigators of disorder." On the same occasion, the provincial superior was told the charge referred to "the Redemptorist Homilies and articles published in the Bulletin concerning disputes for the properties of the former nunciature and Thai Ha, acts of persecution in Tam Toa, Con Dau, and Dong Chiem as well as the government project for bauxite mines in the Central Highlands. " From the government point of view, these are "non-religious matters", of which priests are not allowed to speak. Any violation may be charged as anti-government behaviour.
Father Pham has rejected all accusations, claiming that his religious order has always worked for the good of the whole people, praying and living in the service of the Gospel and calling for reconciliation between the social partners and the respect for justice and truth.
In response to the priest’s words, the president of the district People's Committee announced "new raids" on the church in the coming days.
According to a a letter dated December 13 by Father Joseph Dinh Huu Thoai, head of the Secretariat of the Province of the Redemptorists in Vietnam, on two consecutive days, 8th and 9th of this month, local officials arrived at the church, the second, in size of the city. The next day, the authorities of the third district of the city called the provincial superior, Father Vincent Pham Trung Thanh, for a "working session".
On that occasion, reports the priest, representatives of state administration for religious affairs and local officials accused the Redemptorists of being "instigators of disorder." On the same occasion, the provincial superior was told the charge referred to "the Redemptorist Homilies and articles published in the Bulletin concerning disputes for the properties of the former nunciature and Thai Ha, acts of persecution in Tam Toa, Con Dau, and Dong Chiem as well as the government project for bauxite mines in the Central Highlands. " From the government point of view, these are "non-religious matters", of which priests are not allowed to speak. Any violation may be charged as anti-government behaviour.
Father Pham has rejected all accusations, claiming that his religious order has always worked for the good of the whole people, praying and living in the service of the Gospel and calling for reconciliation between the social partners and the respect for justice and truth.
In response to the priest’s words, the president of the district People's Committee announced "new raids" on the church in the coming days.
New wave of harassment against Redemptorists in Vietnam
Catholic World News
16:27 15/12/2010
Local authorities in Ho Chi Minh City (Saigon) have summoned a Redemptorist provincial superior after repeated raids on a monastery church.
The preparation for Christmas at the Church of Our Lady of Perpetual Help in Saigon has been repeatedly interrupted by raids by local officials who have been insisting that the Redemptorists who are in charge of the church must remove from their bulletin boards what the authorities had described as “anti-regime" articles, and stop delivering homilies calling for justice.
On December 8, local officials abruptly raided the church-- the second largest in Saigon-- interrupting scheduled liturgical celebrations. The next day, government officials backed by security police in plain clothes raided the church again, taking photos and filming activities with video cameras, Father Joseph Dinh Huu Thoai, chief of the secretariat of the local Redemptorist province, reported in a letter circulated among all the Redemptorists in Vietnam.
Father Joseph Dinh lamented that the harassment did not stop there; on next day, officials summoned Father Vincent Pham Trung Thanh, the provincial superior, to attend "working sessions" at a local government office. At the meeting, representatives of state administration for religious affairs and local officials took turns criticizing Redemptorists for allegedly “preaching anti-government sentiment, instigators of disorder, inciting riots, falsely accusing the government, disrespecting the nation, breaking and ridiculing the law, and instigating others to violate it.”
A the same "working session" the provincial was told that he would be held personally liable for homilies by other Redemptorist priests, and for articles posted on church bulletin boards regarding clashes between the government and Catholics demanding return of confiscated parish properties. From the government’s point of view, they are “non-religious issues” that priests are not allowed to mention. Any violation of the government rules, the provincial was warned, could result in charges of conducting anti-government activities.
Father Vincent Pham rejected the accusations against the Vietnamese Redemptories, and said that the members of his community were working for the welfare of the people and in service to the Gospel. In response, Nguyen Thi Le, who chairs the district “People’s Committee,” said that there would be more raids on the Redemptorist church in coming days.
The Redemptorist province in Vietnam is the largest religious community in Asia. Over the past twenty years, the province has grown in size from 179 professed members in 1983 to 278 today, including 168 priests who live in about 20 houses scattered throughout the country. There are also 222 postulants.
On December 8, local officials abruptly raided the church-- the second largest in Saigon-- interrupting scheduled liturgical celebrations. The next day, government officials backed by security police in plain clothes raided the church again, taking photos and filming activities with video cameras, Father Joseph Dinh Huu Thoai, chief of the secretariat of the local Redemptorist province, reported in a letter circulated among all the Redemptorists in Vietnam.
Father Joseph Dinh lamented that the harassment did not stop there; on next day, officials summoned Father Vincent Pham Trung Thanh, the provincial superior, to attend "working sessions" at a local government office. At the meeting, representatives of state administration for religious affairs and local officials took turns criticizing Redemptorists for allegedly “preaching anti-government sentiment, instigators of disorder, inciting riots, falsely accusing the government, disrespecting the nation, breaking and ridiculing the law, and instigating others to violate it.”
A the same "working session" the provincial was told that he would be held personally liable for homilies by other Redemptorist priests, and for articles posted on church bulletin boards regarding clashes between the government and Catholics demanding return of confiscated parish properties. From the government’s point of view, they are “non-religious issues” that priests are not allowed to mention. Any violation of the government rules, the provincial was warned, could result in charges of conducting anti-government activities.
Father Vincent Pham rejected the accusations against the Vietnamese Redemptories, and said that the members of his community were working for the welfare of the people and in service to the Gospel. In response, Nguyen Thi Le, who chairs the district “People’s Committee,” said that there would be more raids on the Redemptorist church in coming days.
The Redemptorist province in Vietnam is the largest religious community in Asia. Over the past twenty years, the province has grown in size from 179 professed members in 1983 to 278 today, including 168 priests who live in about 20 houses scattered throughout the country. There are also 222 postulants.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức Giám Mục Thái Bình làm phép nhà mồ nghiã trang Xứ Bồ Ngọc
Trường Giang
10:39 15/12/2010
14h30 chiều ngày 14/12/2010, Đức cha Phê rô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục giáo phận Thái Bình cắt băng khánh thành và làm phép nhà mồ, tại nghĩa trang giáo xứ Bồ Ngọc – Nơi đã thiêu sinh 50 hiền phúc Tử Đạo thời vua Tự Đức cấm đạo.
Dấu ấn lịch sử
Trong cuốn sử ký địa phận Trung năm 1916, trang 92 có ghi một địa điểm quý tại giáo xứ Bái: “Ở Bồ Trang có một nơi trong thời vua Tự Đức cấm đạo, thì các bổn đạo phải luận xử ở xứ đó”. Mảnh đất mang di tích lịch sử này, theo truyền tụng của bổn đạo cũng như lương dân nơi đây thường gọi là Đống 50. Nghĩa là, tại đây năm 1862 tổng đốc Nam Định đã xử 50 bổn đạo bằng án thiêu sinh. Đống 50 ngày nay chính là nghĩa trang, nơi an nghỉ của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em thôn Bái Trang (giáo xứ Bồ Ngọc), xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Ngày 20/07/2002 bề trên giáo phận cử cha Đaminh Nguyễn Trung Lương về coi sóc giáo xứ Bồ Ngọc. Từ đó đến nay cha sống hết mình với đoàn chiên, chăm lo cho đời sống tâm linh cho giáo dân, sửa chữa và nâng cấp các công trình Đức Tin như: xây nhà thờ mới, xây lăng mộ cho 15 tôi tớ Chúa quê hương Bồ Ngọc, sửa lại các công trình nhà xứ, xây nhà giáo lý, lắp đặt nhà máy nước sạch cung cấp cho 400 hộ gia đình cả lương lẫn giáo, thuộc hai xã Quỳnh Hoa và Quỳnh Minh với giá ưu đãi, lắp đặt máy nước lọc tinh khiết cung cấp cho người Công Giáo và cả lương dân cũng như các trường học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở xã Quỳnh Hoa, với giá cả hợp lý, ông trưởng ban hội đồng giáo xứ Bồ Ngọc cho biết.
Cắt băng khánh thành, làm phép nhà mồ
Sau thời cấm đạo thảm khốc, Đống 50 được dùng làm nghĩa trang an táng cho dân làng Bái Trang đến ngày nay. Để tưởng nhớ các tổ tiên đã anh dũng hi sinh vì đạo Chúa và ghi dấu mảnh đất quê hương Bồ Ngọc đã chứng kiến 50 tôi tớ Chúa chịu bao cực hình tra tấn đớn đau, giáo dân trong xứ hưởng ứng lời mời gọi của cha xứ, cũng như sự cộng tác quảng đại của bà con đồng hương và quý vị ân nhân, mà ngôi nhà mồ (diện tích 100m2) được dựng lên ngay giữa lòng đất nơi an nghỉ của các tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em xứ Bồ Ngọc. Công trình xây cất và tu tạo nghĩa trang rất ý nghĩa này hôm nay đã hoàn tất trùng vào dịp năm thánh Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cha xứ cùng với bà con giáo dân trong giáo xứ xin bề trên giáo phận về cắt băng khánh thành và làm phép ngôi nhà mồ.
Đúng 14h30, Đức cha giáo phận, cha Đaminh Nguyễn Trung Lương, chánh xứ Bồ Ngọc và cha Gioan Chu Văn Yên, thư ký Tòa giám mục cắt băng khánh thành ngôi nhà mồ, trong tiếng vỗ tay vui mừng của con dân Bồ Ngọc. Lớp cháu con Bồ Ngọc thật kiêu hãnh về một thời lịch sử oai hùng mà tổ tiên đã truyền lại. Tại chân cây Thánh Giá được tạc bằng đá đặt trên bàn thờ có ghi:
“Vào năm một tám sáu hai
Mồng sáu tháng sáu, nơi đây pháp trường
Năm mươi tử đạo kiên cường
Toàn thiêu hiến tế, lửa hồng vươn cao
Ngàn năm con cháu tự hào
Tạc ghi công đức nghìn sau lưu truyền”.
Làm phép tượng đài ba thánh Tử Đạo quê hương
Sau khi Đức giám mục cắt băng và làm phép ngôi nhà mồ xong, các hội kèn giáo xứ Tân Mỹ, họ Đông Châu, họ Giáo Thiện, đội trống họ Bái Đông và cộng đoàn giáo dân toàn xứ rước tượng ba thánh quê hương, đó là thánh Augustino Nguyễn Văn Mới, thánh Thomas Nguyễn Văn Đệ và thánh Stephano Nguyễn Văn Vinh (là 3 vị Tử Đạo trong 19 thánh Tử Đạo Thái Bình và trong số 117 Tử Đạo Việt Nam) về quảng trường nhà thờ giáo xứ. Tại đây, cha chánh xứ Đaminh Lương giới thiệu cùng Đức cha và cộng đoàn về tượng đài với ba pho tượng thánh Tử Đạo quê hương mới được dựng lên, nằm phía bên phải quảng trường nhà thờ, từ cuối nhà thờ nhìn lên. Bên trái một tượng đài họa lại toàn cảnh một vị thừa sai đang giảng đạo cho con dân làng khi mới đặt chân đến đất Kẻ Bái. Đức cha và các cha tiến đến làm phép tượng đài ba thánh Tử Đạo, đoạn các ngài xá hương, kết thúc nghi thức làm phép tượng đài.
Thánh lễ mừng kính ba thánh Tử Đạo quê hương
Đoàn đồng tế và cộng đoàn tiến vào thánh đường trong tiếng trống và tiếng kèn hùng tráng “Tiếng nhạc oai hùng vang trên khắp cõi trời Việt Nam…”. Mở đầu thánh lễ, Đức cha ca ngợi công lao và sự can đảm hi sinh vì Chúa Ki tô của ba thánh Tử Đạo quê hương Bồ Ngọc. Trong bài giảng Đức cha kêu mời lớp cháu con ba thánh quê hương Bồ Ngọc, hãy sống xứng đáng với niềm kiêu hãnh và tự hào mà cha ông, tổ tiên đã dày công gầy dựng và để lại. Đó là kho tàng Đức Tin vô cùng quý giá, đồng thời để lại cho hậu duệ một bài học về lòng can đảm, dám chấp nhận đánh đổi gia đình, vợ con và chính bản thân mình, để chọn Chúa và làm vinh danh Chúa. Sau lời nguyện giáo dân, đoàn dâng lễ vật đại diện con dân Bồ Ngọc dâng lên Thiên Chúa những hoa trái và lòng chân thành của con cháu các thánh Tử Đạo, cũng như những quyết tâm bảo vệ Đức Tin son sắt và những gia sản quý báu các bậc tổ tiên đã để lại.
Trước khi nhận phép lành trọng thể cuối thánh lễ, một vị đại diện cộng đoàn giáo xứ cám ơn Đức cha, quý cha và tất cả những ai đã góp phần làm cho thánh lễ được trang trọng, sốt sáng và kéo nhiều ơn Chúa xuống cho cộng đoàn tín hữu nơi đây.
Đức Giám MụcThái Bình làm phép
Trong cuốn sử ký địa phận Trung năm 1916, trang 92 có ghi một địa điểm quý tại giáo xứ Bái: “Ở Bồ Trang có một nơi trong thời vua Tự Đức cấm đạo, thì các bổn đạo phải luận xử ở xứ đó”. Mảnh đất mang di tích lịch sử này, theo truyền tụng của bổn đạo cũng như lương dân nơi đây thường gọi là Đống 50. Nghĩa là, tại đây năm 1862 tổng đốc Nam Định đã xử 50 bổn đạo bằng án thiêu sinh. Đống 50 ngày nay chính là nghĩa trang, nơi an nghỉ của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em thôn Bái Trang (giáo xứ Bồ Ngọc), xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Ngày 20/07/2002 bề trên giáo phận cử cha Đaminh Nguyễn Trung Lương về coi sóc giáo xứ Bồ Ngọc. Từ đó đến nay cha sống hết mình với đoàn chiên, chăm lo cho đời sống tâm linh cho giáo dân, sửa chữa và nâng cấp các công trình Đức Tin như: xây nhà thờ mới, xây lăng mộ cho 15 tôi tớ Chúa quê hương Bồ Ngọc, sửa lại các công trình nhà xứ, xây nhà giáo lý, lắp đặt nhà máy nước sạch cung cấp cho 400 hộ gia đình cả lương lẫn giáo, thuộc hai xã Quỳnh Hoa và Quỳnh Minh với giá ưu đãi, lắp đặt máy nước lọc tinh khiết cung cấp cho người Công Giáo và cả lương dân cũng như các trường học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở xã Quỳnh Hoa, với giá cả hợp lý, ông trưởng ban hội đồng giáo xứ Bồ Ngọc cho biết.
Cắt băng khánh thành, làm phép nhà mồ
Sau thời cấm đạo thảm khốc, Đống 50 được dùng làm nghĩa trang an táng cho dân làng Bái Trang đến ngày nay. Để tưởng nhớ các tổ tiên đã anh dũng hi sinh vì đạo Chúa và ghi dấu mảnh đất quê hương Bồ Ngọc đã chứng kiến 50 tôi tớ Chúa chịu bao cực hình tra tấn đớn đau, giáo dân trong xứ hưởng ứng lời mời gọi của cha xứ, cũng như sự cộng tác quảng đại của bà con đồng hương và quý vị ân nhân, mà ngôi nhà mồ (diện tích 100m2) được dựng lên ngay giữa lòng đất nơi an nghỉ của các tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em xứ Bồ Ngọc. Công trình xây cất và tu tạo nghĩa trang rất ý nghĩa này hôm nay đã hoàn tất trùng vào dịp năm thánh Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cha xứ cùng với bà con giáo dân trong giáo xứ xin bề trên giáo phận về cắt băng khánh thành và làm phép ngôi nhà mồ.
Đúng 14h30, Đức cha giáo phận, cha Đaminh Nguyễn Trung Lương, chánh xứ Bồ Ngọc và cha Gioan Chu Văn Yên, thư ký Tòa giám mục cắt băng khánh thành ngôi nhà mồ, trong tiếng vỗ tay vui mừng của con dân Bồ Ngọc. Lớp cháu con Bồ Ngọc thật kiêu hãnh về một thời lịch sử oai hùng mà tổ tiên đã truyền lại. Tại chân cây Thánh Giá được tạc bằng đá đặt trên bàn thờ có ghi:
“Vào năm một tám sáu hai
Mồng sáu tháng sáu, nơi đây pháp trường
Năm mươi tử đạo kiên cường
Toàn thiêu hiến tế, lửa hồng vươn cao
Ngàn năm con cháu tự hào
Tạc ghi công đức nghìn sau lưu truyền”.
Làm phép tượng đài ba thánh Tử Đạo quê hương
Sau khi Đức giám mục cắt băng và làm phép ngôi nhà mồ xong, các hội kèn giáo xứ Tân Mỹ, họ Đông Châu, họ Giáo Thiện, đội trống họ Bái Đông và cộng đoàn giáo dân toàn xứ rước tượng ba thánh quê hương, đó là thánh Augustino Nguyễn Văn Mới, thánh Thomas Nguyễn Văn Đệ và thánh Stephano Nguyễn Văn Vinh (là 3 vị Tử Đạo trong 19 thánh Tử Đạo Thái Bình và trong số 117 Tử Đạo Việt Nam) về quảng trường nhà thờ giáo xứ. Tại đây, cha chánh xứ Đaminh Lương giới thiệu cùng Đức cha và cộng đoàn về tượng đài với ba pho tượng thánh Tử Đạo quê hương mới được dựng lên, nằm phía bên phải quảng trường nhà thờ, từ cuối nhà thờ nhìn lên. Bên trái một tượng đài họa lại toàn cảnh một vị thừa sai đang giảng đạo cho con dân làng khi mới đặt chân đến đất Kẻ Bái. Đức cha và các cha tiến đến làm phép tượng đài ba thánh Tử Đạo, đoạn các ngài xá hương, kết thúc nghi thức làm phép tượng đài.
Thánh lễ mừng kính ba thánh Tử Đạo quê hương
Đoàn đồng tế và cộng đoàn tiến vào thánh đường trong tiếng trống và tiếng kèn hùng tráng “Tiếng nhạc oai hùng vang trên khắp cõi trời Việt Nam…”. Mở đầu thánh lễ, Đức cha ca ngợi công lao và sự can đảm hi sinh vì Chúa Ki tô của ba thánh Tử Đạo quê hương Bồ Ngọc. Trong bài giảng Đức cha kêu mời lớp cháu con ba thánh quê hương Bồ Ngọc, hãy sống xứng đáng với niềm kiêu hãnh và tự hào mà cha ông, tổ tiên đã dày công gầy dựng và để lại. Đó là kho tàng Đức Tin vô cùng quý giá, đồng thời để lại cho hậu duệ một bài học về lòng can đảm, dám chấp nhận đánh đổi gia đình, vợ con và chính bản thân mình, để chọn Chúa và làm vinh danh Chúa. Sau lời nguyện giáo dân, đoàn dâng lễ vật đại diện con dân Bồ Ngọc dâng lên Thiên Chúa những hoa trái và lòng chân thành của con cháu các thánh Tử Đạo, cũng như những quyết tâm bảo vệ Đức Tin son sắt và những gia sản quý báu các bậc tổ tiên đã để lại.
Trước khi nhận phép lành trọng thể cuối thánh lễ, một vị đại diện cộng đoàn giáo xứ cám ơn Đức cha, quý cha và tất cả những ai đã góp phần làm cho thánh lễ được trang trọng, sốt sáng và kéo nhiều ơn Chúa xuống cho cộng đoàn tín hữu nơi đây.
Đức Giám MụcThái Bình làm phép
Lễ Ngọc Khánh Linh Mục của cha giáo G.B. Phạm Năng Trí tại Nhà thờ Phú Hải
Lm. Jos. Phạm Bá Lãm
22:46 15/12/2010
Lễ Ngọc Khánh Linh Mục của cha giáo G.B. Phạm Năng Trí tại Nhà thờ Phú Hải Q.Phú Nhuận
Cách đây 10 năm cha giáo G.B. Phạm Năng Trí đã tổ chức lễ Kim Khánh Linh Mục tại Nhà thờ Phú Hải cùng Lm. nghĩa tử Phêrô Nguyễn Xuân Quýnh mừng Ngân Khánh Linh Mục. Đến hẹn lại lên, vàng nay đã lên ngọc, ngày thứ năm 2/12/2010 cũng tại nhà thờ Phú Hải, cha giáo G.B. Trí đã tổ chức lễ mừng Ngọc Khánh Linh Mục và Đại thọ 89 tuổi có phần long trọng hơn. Sự hiện diện đông đảo với những con số biết nói: ĐC Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám Mục Phụ tá Sàigòn, ĐC Tôma Vũ Đình Hiệu, Giám Mục Phụ tá Xuân Lộc, Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả, trên 70 cha đồng tế: các Linh mục gốc Phát Diệm, các Linh mục gốc Gp. khác từng học tại TCV Phú Nhuận, các Linh mục Phát Diệm trước đây là tu sinh từ bắc vào nam đã thụ huấn nơi cha giáo Trí, các Linh mục hạt Phú Nhuận… khá đông tu sĩ nam nữ, còn anh chị em giáo dân ngồi chật nhà thờ.
Xem hình
1. Phỏng vấn
Đầu lễ: cha chính xứ Phêrô Hoàng Đình Thành giới thiệu, chào mừng các thành phần tham dự và ca ngợi cha G.B. đã thành công trong hai lãnh vực: cha giáo và cha xứ. Cha Nguyễn Duy Diễm đã phỏng vấn và cha giáo Trí trả lời rất tỉnh táo:
- Về hành trình cuộc đời: lúc nhỏ ngài theo học với các Sư Huynh tại Phát Diệm, ước mơ sẽ là Sư Huynh. Nhưng cha Trần Công Hoán đã hướng dẫn ngài vào TCV Phúc Nhạc. Muốn làm thầy lại được làm cha: thật sung sướng. Nhiệm vụ cũng đơn giản: làm giám thị chăm sóc các chú nhỏ.
- Về những thuận lợi và khó khăn: xuất thân từ gia đình nhà nho (bác làm ông Cử đầu thế kỷ trước, bố đậu nhất khoá, được gọi là ông Nhất Nhiên), ngài được mẹ đã dìu dắt đi con đường của Chúa: làm Linh mục. Chăm sóc các chú nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn của thời Công giáo Cứu quốc, các chú nhỏ đau yếu và nhớ nhà.
- Về những trăn trở: lo cho các chú nhỏ hay đau yếu, ngài đã học một khoá y tá với các xơ ở Phát Diệm. Một kỷ niệm khó quên: một chú nhỏ hấp hối trên tay của ngài. Cuối cùng ngài ngỏ lời xin lỗi các trò cũ về những thiếu sót của mình trong khi làm giám thị và làm giáo sư Pháp văn.
2. Bài giảng của ĐC Nguyễn Văn Khảm
Đại Hội Dân Chúa tại Trung Tâm Mục Vụ, góp ý khá nhiều về Linh mục: công cuộc canh tân GH phải bắt đầu từ giới Linh mục. Không phải giỏi về quản trị mà phải thực sự là người của Chúa, phục vụ cho dân Chúa. Tạ ơn Chúa đã ban cho Phát Diệm và Sàigòn một Linh mục gương mẫu: cha G.B. Phạm Năng Trí. Thấy cha G.B. khoẻ mạnh, minh mẫn và nói năng rõ ràng, hỏi rằng đâu là bí quyết. Ngài trả lời đơn sơ: làm giám thị 11 năm, nên giữ luật và giữ điều độ. Hai bài học của cha G.B. dành cho chúng ta sau đây:
- Tinh thần kỷ luật: người ta không muốn chấp nhận vì sợ mất tự do. Nhưng muốn tiến xa, phải rèn luyện bền bỉ và chấp nhận kỷ luật như trong các lãnh vực: thể dục thể thao, nghệ thuật, khoa học… Theo nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: để có giây phút “bùng nổ sáng tạo” phải có rèn luyện và suy tư. Các TCV. ngày xưa thường dạy 2 câu: sống theo luật là sống theo Chúa và con giữ luật thì luật giữ con. Kỷ luật đưa đến tự chủ, đứng vững trước các nghịch cảnh. Không phải là con người không có khả năng giữ luật. Các cô gái kiêng ăn chẳng hạn, cũng biết giữ luật, vì có động lực: làm đẹp. Chúng ta phải có niềm khao khát mới giữ được nền nếp.
- Hiền hoà và khiêm nhường, nên sống bình thản dù giữa những thách đố. Đó là chìa khoá của sự thành công. Khi ngài về hưu, giáo dân yêu cầu với Toà TGM rằng khi cho cha xứ mới thì cũng phải giữ cha xứ cũ lại. Lý do là vì ngài sống hiền hoà, lại có công xây dựng nhà thờ và xây dựng cộng đoàn từ khởi đầu cho đến bây giờ.
Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một Lm. gương mẫu. Tổng Giáo phận Sàigòn phải cảm ơn ngài đã cống hiến thật nhiều cho Giáo Hội.
3. Chúc mừng: cuối lễ ông Chủ Tịch HĐMVGX lược lại cuộc hành trình và những đóng góp của cha G.B., bày tỏ lòng tri ân sâu xa, dâng lời chúc mừng tốt đẹp. Cha giáo G.B. vui vẻ đón nhận một bó hoa tươi thắm và một món quà kỷ niệm: một khánh vàng ghi ảnh nhà thờ Phú Hải và lời chúc.
4. Lời ngỏ của cha Phạm Bá Lãm, không những với tư cách là Đại Diện LM-TS gốc Phát Diệm còn mạn phép thay lời cho cựu môn sinh của các giáo phận khác để chào mừng và chúc mừng cha giáo G.B. Chỉ còn 4 cha giáo của TCV. Phú Nhuận, ngoại quốc có 2 cha: cha Antôn Nguyễn Ngọc Bảo ở Oklahoma City và cha giáo Antôn Trần Văn Kiệm ở Atlanta, trong nước có 2 cha: cha giáo G.B. mừng lễ hôm nay và cha giáo Louis Trần Phúc Vỵ đang ngồi ở bàn chủ toạ: đến năm 2013 kỷ niệm 65 năm LM và đến năm 2018 sẽ kỷ niệm 70 năm LM. Riêng cha giáo G.B. đã thành công trong cả 2 lãnh vực: cha giáo và cha xứ. Thành quả của việc đào tạo giáo sĩ: 2 Giám Mục: ĐC Tôma Vũ Đình Hiệu hiện diện, ĐC Phêrô Nguyễn Soạn, GM Quy Nhơn, 3 Đức Ông: Đ/ô F.B. Trần Văn Khả hiện diện, Đ/ô Phanxicô Phạm Văn Phương, Đ/ô Phêrô Trần Văn Phát và hàng trăm Linh mục môn sinh cùng các cựu chủng sinh. Thành quả Mục vụ 39 năm tại Giáo Xứ Phú Hải (tên cũ là Đội Có): xây dựng nhà thờ và cộng đoàn, 9 năm hưu trí an bình. Năm 2001 cha giáo về hưu, Nhà Vãng Lai Phát Diệm (TCV Phú Nhuận cũ) muốn cha giáo về chốn xưa, nhưng Cha Sở mới là cha Vũ Ngọc Long cùng giáo dân mời ngài ở lại. Năm ngoái nghe tin Cha Sở khác được điều về, Nhà Vãng Lai đã chuẩn bị phòng đón ngài, nhưng Cha Sở mới là cha Hoàng Đình Thành và giáo dân tha thiết níu ngài ở lại. Các trò cũ của cha giáo cảm ơn HĐMVGX. và giáo dân Phú Hải đã thay thế để phụng dưỡng cha giáo. ĐC Khảm nói: làm việc gì cũng phải có động lực. Nay chúng tôi mới ngộ ra lý do tại sao Cha Sở và giáo dân Phú Hải nhất định giữ cha giáo G.B. ở lại: nếu để cha giáo Trí đi khỏi, thì bị mang tiếng là Gx. Phú Hải “mất trí’, hỏng cho Cha Sở, hỏng cho giáo dân (mọi người cười ồ). Nên phải cố gắng giữ cha Trí ở lại, chớ đánh mất. Cuối cùng để mừng đại thọ của cha giáo G.B., xin bắt chước quảng cáo truyền hình: chúc cha giáo 89 năm chạy vẫn còn tốt (cười giòn và vỗ tay).
5. Lời cảm ơn : cha giáo G.B. ngỏ lời cảm ơn các Đức Cha, Đức Ông, các cha bạn, các cha học trò, các cha trong hạt Phú Nhuận, các tu sĩ nam nữ, linh tông huyết tộc, đồng hương, nhất là các thành cộng đoàn Gx. Phú Hải, đồng thời xin mọi người cầu nguyện cho ngài. Lời cảm ơn đầy đủ rõ ràng chứng tỏ thể xác mạnh khoẻ, tinh thần minh mẫn, hy vọng 10 năm nữa mừng lễ lớn hơn !
6. Tiệc mừng: sau lễ mọi người xuống Hội Trường chung vui. Một vị Thượng Toạ ở chùa gần đó chúc mừng với tràng hạt vòng vào cổ cha giáo Trí. Một đại diện chính quyền địa phương cũng trao quà mừng. Tiệc liên hoan thêm phần đậm đà hương vị với chương trình văn nghệ đầy mầu sắc.
7. Tiểu Sử của cha giáo G.B. Phạm Năng Trí:
* 17.12.1922: Sinh tại Xuân Hồi, Kim Sơn, Ninh Bình, thuộc Gx. Cách Tâm, Gp. Phát Diệm
* 15.08.1935: Nhập TCV. Phúc Nhạc
* 07.09.1944: Nhập ĐCV. Thượng Kiệm
* 02.12.1950: Thụ phong Linh Mục tại Nhà thờ Chính toà Phát Diệm
* 01.01.1951: Phó Xứ Gx. Dưỡng Điềm
* 15.08.1951: Giám thị tại TCV. Phúc Nhạc
* 30.06.1954: Di cư cùng với TCV. vào miền nam
* 1954-1968: Tiếp tục làm Giám thị rồi Giáo sư Pháp văn tại TCV. Phú Nhuận
* 1962-1968: Phụ trách thêm xóm đạo Phú Hải (tức là Đội Có)
* 1968-2001: Chính Xứ tiên khởi Gx. Phú Hải
* 2001-đến nay: Nghỉ hưu tại Nhà thờ Phú Hải.
8. Thông tin mới nhất:
- Bốn cựu giáo sư TCV Phú Nhuận còn lại phải gọi là “Tứ Quý”. Hôm nay chúng ta được mừng Quý I nơi Nhà thờ Phú Hải, anh em ở hải ngoại không tham dự được, may có Đ/ô Trần Văn Khả. Cha giáo Antôn Trần Văn Kiệm mừng Đại thọ 90 tuổi và 65 năm LM thứ bảy 1/1/2011 tại Atlanta: anh em hải ngoại sẽ kéo nhau đến mừng Quý II. Xin mở “ThiepChaKiem” và “TieusuChaKiem” (Bản dịch chưa kịp sửa và thiếu giai đoạn quan trọng: Giáo sư TCV Phú Nhuận và Trung Học Phát Diệm 1955-1973). Xin chúc mừng cha giáo Antôn quý mến. Còn mừng Quý III và IV: hãy đợi đấy!
- Linh mục cao tuổi nhất Phát Diệm: Cha Bênađô Phạm Văn Quy (sinh 24/1/1912) sẽ mừng Đại thọ Bách niên (100 tuổi) và 69 năm LM. tại Trụ Sở Phát Diệm lúc 9g00 thứ sáu 14/1/2011, với sự hiện diện của Đ/ô Khả là nghĩa tử (xem Thiệp Mời dưới đây). Mừng lớn, nhưng không quên ngày giỗ 4 năm của ĐC Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật: thứ hai 17/1.
Cách đây 10 năm cha giáo G.B. Phạm Năng Trí đã tổ chức lễ Kim Khánh Linh Mục tại Nhà thờ Phú Hải cùng Lm. nghĩa tử Phêrô Nguyễn Xuân Quýnh mừng Ngân Khánh Linh Mục. Đến hẹn lại lên, vàng nay đã lên ngọc, ngày thứ năm 2/12/2010 cũng tại nhà thờ Phú Hải, cha giáo G.B. Trí đã tổ chức lễ mừng Ngọc Khánh Linh Mục và Đại thọ 89 tuổi có phần long trọng hơn. Sự hiện diện đông đảo với những con số biết nói: ĐC Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám Mục Phụ tá Sàigòn, ĐC Tôma Vũ Đình Hiệu, Giám Mục Phụ tá Xuân Lộc, Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả, trên 70 cha đồng tế: các Linh mục gốc Phát Diệm, các Linh mục gốc Gp. khác từng học tại TCV Phú Nhuận, các Linh mục Phát Diệm trước đây là tu sinh từ bắc vào nam đã thụ huấn nơi cha giáo Trí, các Linh mục hạt Phú Nhuận… khá đông tu sĩ nam nữ, còn anh chị em giáo dân ngồi chật nhà thờ.
Xem hình
1. Phỏng vấn
Đầu lễ: cha chính xứ Phêrô Hoàng Đình Thành giới thiệu, chào mừng các thành phần tham dự và ca ngợi cha G.B. đã thành công trong hai lãnh vực: cha giáo và cha xứ. Cha Nguyễn Duy Diễm đã phỏng vấn và cha giáo Trí trả lời rất tỉnh táo:
- Về hành trình cuộc đời: lúc nhỏ ngài theo học với các Sư Huynh tại Phát Diệm, ước mơ sẽ là Sư Huynh. Nhưng cha Trần Công Hoán đã hướng dẫn ngài vào TCV Phúc Nhạc. Muốn làm thầy lại được làm cha: thật sung sướng. Nhiệm vụ cũng đơn giản: làm giám thị chăm sóc các chú nhỏ.
- Về những thuận lợi và khó khăn: xuất thân từ gia đình nhà nho (bác làm ông Cử đầu thế kỷ trước, bố đậu nhất khoá, được gọi là ông Nhất Nhiên), ngài được mẹ đã dìu dắt đi con đường của Chúa: làm Linh mục. Chăm sóc các chú nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn của thời Công giáo Cứu quốc, các chú nhỏ đau yếu và nhớ nhà.
- Về những trăn trở: lo cho các chú nhỏ hay đau yếu, ngài đã học một khoá y tá với các xơ ở Phát Diệm. Một kỷ niệm khó quên: một chú nhỏ hấp hối trên tay của ngài. Cuối cùng ngài ngỏ lời xin lỗi các trò cũ về những thiếu sót của mình trong khi làm giám thị và làm giáo sư Pháp văn.
2. Bài giảng của ĐC Nguyễn Văn Khảm
Đại Hội Dân Chúa tại Trung Tâm Mục Vụ, góp ý khá nhiều về Linh mục: công cuộc canh tân GH phải bắt đầu từ giới Linh mục. Không phải giỏi về quản trị mà phải thực sự là người của Chúa, phục vụ cho dân Chúa. Tạ ơn Chúa đã ban cho Phát Diệm và Sàigòn một Linh mục gương mẫu: cha G.B. Phạm Năng Trí. Thấy cha G.B. khoẻ mạnh, minh mẫn và nói năng rõ ràng, hỏi rằng đâu là bí quyết. Ngài trả lời đơn sơ: làm giám thị 11 năm, nên giữ luật và giữ điều độ. Hai bài học của cha G.B. dành cho chúng ta sau đây:
- Tinh thần kỷ luật: người ta không muốn chấp nhận vì sợ mất tự do. Nhưng muốn tiến xa, phải rèn luyện bền bỉ và chấp nhận kỷ luật như trong các lãnh vực: thể dục thể thao, nghệ thuật, khoa học… Theo nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: để có giây phút “bùng nổ sáng tạo” phải có rèn luyện và suy tư. Các TCV. ngày xưa thường dạy 2 câu: sống theo luật là sống theo Chúa và con giữ luật thì luật giữ con. Kỷ luật đưa đến tự chủ, đứng vững trước các nghịch cảnh. Không phải là con người không có khả năng giữ luật. Các cô gái kiêng ăn chẳng hạn, cũng biết giữ luật, vì có động lực: làm đẹp. Chúng ta phải có niềm khao khát mới giữ được nền nếp.
- Hiền hoà và khiêm nhường, nên sống bình thản dù giữa những thách đố. Đó là chìa khoá của sự thành công. Khi ngài về hưu, giáo dân yêu cầu với Toà TGM rằng khi cho cha xứ mới thì cũng phải giữ cha xứ cũ lại. Lý do là vì ngài sống hiền hoà, lại có công xây dựng nhà thờ và xây dựng cộng đoàn từ khởi đầu cho đến bây giờ.
Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một Lm. gương mẫu. Tổng Giáo phận Sàigòn phải cảm ơn ngài đã cống hiến thật nhiều cho Giáo Hội.
3. Chúc mừng: cuối lễ ông Chủ Tịch HĐMVGX lược lại cuộc hành trình và những đóng góp của cha G.B., bày tỏ lòng tri ân sâu xa, dâng lời chúc mừng tốt đẹp. Cha giáo G.B. vui vẻ đón nhận một bó hoa tươi thắm và một món quà kỷ niệm: một khánh vàng ghi ảnh nhà thờ Phú Hải và lời chúc.
4. Lời ngỏ của cha Phạm Bá Lãm, không những với tư cách là Đại Diện LM-TS gốc Phát Diệm còn mạn phép thay lời cho cựu môn sinh của các giáo phận khác để chào mừng và chúc mừng cha giáo G.B. Chỉ còn 4 cha giáo của TCV. Phú Nhuận, ngoại quốc có 2 cha: cha Antôn Nguyễn Ngọc Bảo ở Oklahoma City và cha giáo Antôn Trần Văn Kiệm ở Atlanta, trong nước có 2 cha: cha giáo G.B. mừng lễ hôm nay và cha giáo Louis Trần Phúc Vỵ đang ngồi ở bàn chủ toạ: đến năm 2013 kỷ niệm 65 năm LM và đến năm 2018 sẽ kỷ niệm 70 năm LM. Riêng cha giáo G.B. đã thành công trong cả 2 lãnh vực: cha giáo và cha xứ. Thành quả của việc đào tạo giáo sĩ: 2 Giám Mục: ĐC Tôma Vũ Đình Hiệu hiện diện, ĐC Phêrô Nguyễn Soạn, GM Quy Nhơn, 3 Đức Ông: Đ/ô F.B. Trần Văn Khả hiện diện, Đ/ô Phanxicô Phạm Văn Phương, Đ/ô Phêrô Trần Văn Phát và hàng trăm Linh mục môn sinh cùng các cựu chủng sinh. Thành quả Mục vụ 39 năm tại Giáo Xứ Phú Hải (tên cũ là Đội Có): xây dựng nhà thờ và cộng đoàn, 9 năm hưu trí an bình. Năm 2001 cha giáo về hưu, Nhà Vãng Lai Phát Diệm (TCV Phú Nhuận cũ) muốn cha giáo về chốn xưa, nhưng Cha Sở mới là cha Vũ Ngọc Long cùng giáo dân mời ngài ở lại. Năm ngoái nghe tin Cha Sở khác được điều về, Nhà Vãng Lai đã chuẩn bị phòng đón ngài, nhưng Cha Sở mới là cha Hoàng Đình Thành và giáo dân tha thiết níu ngài ở lại. Các trò cũ của cha giáo cảm ơn HĐMVGX. và giáo dân Phú Hải đã thay thế để phụng dưỡng cha giáo. ĐC Khảm nói: làm việc gì cũng phải có động lực. Nay chúng tôi mới ngộ ra lý do tại sao Cha Sở và giáo dân Phú Hải nhất định giữ cha giáo G.B. ở lại: nếu để cha giáo Trí đi khỏi, thì bị mang tiếng là Gx. Phú Hải “mất trí’, hỏng cho Cha Sở, hỏng cho giáo dân (mọi người cười ồ). Nên phải cố gắng giữ cha Trí ở lại, chớ đánh mất. Cuối cùng để mừng đại thọ của cha giáo G.B., xin bắt chước quảng cáo truyền hình: chúc cha giáo 89 năm chạy vẫn còn tốt (cười giòn và vỗ tay).
5. Lời cảm ơn : cha giáo G.B. ngỏ lời cảm ơn các Đức Cha, Đức Ông, các cha bạn, các cha học trò, các cha trong hạt Phú Nhuận, các tu sĩ nam nữ, linh tông huyết tộc, đồng hương, nhất là các thành cộng đoàn Gx. Phú Hải, đồng thời xin mọi người cầu nguyện cho ngài. Lời cảm ơn đầy đủ rõ ràng chứng tỏ thể xác mạnh khoẻ, tinh thần minh mẫn, hy vọng 10 năm nữa mừng lễ lớn hơn !
6. Tiệc mừng: sau lễ mọi người xuống Hội Trường chung vui. Một vị Thượng Toạ ở chùa gần đó chúc mừng với tràng hạt vòng vào cổ cha giáo Trí. Một đại diện chính quyền địa phương cũng trao quà mừng. Tiệc liên hoan thêm phần đậm đà hương vị với chương trình văn nghệ đầy mầu sắc.
7. Tiểu Sử của cha giáo G.B. Phạm Năng Trí:
* 17.12.1922: Sinh tại Xuân Hồi, Kim Sơn, Ninh Bình, thuộc Gx. Cách Tâm, Gp. Phát Diệm
* 15.08.1935: Nhập TCV. Phúc Nhạc
* 07.09.1944: Nhập ĐCV. Thượng Kiệm
* 02.12.1950: Thụ phong Linh Mục tại Nhà thờ Chính toà Phát Diệm
* 01.01.1951: Phó Xứ Gx. Dưỡng Điềm
* 15.08.1951: Giám thị tại TCV. Phúc Nhạc
* 30.06.1954: Di cư cùng với TCV. vào miền nam
* 1954-1968: Tiếp tục làm Giám thị rồi Giáo sư Pháp văn tại TCV. Phú Nhuận
* 1962-1968: Phụ trách thêm xóm đạo Phú Hải (tức là Đội Có)
* 1968-2001: Chính Xứ tiên khởi Gx. Phú Hải
* 2001-đến nay: Nghỉ hưu tại Nhà thờ Phú Hải.
8. Thông tin mới nhất:
- Bốn cựu giáo sư TCV Phú Nhuận còn lại phải gọi là “Tứ Quý”. Hôm nay chúng ta được mừng Quý I nơi Nhà thờ Phú Hải, anh em ở hải ngoại không tham dự được, may có Đ/ô Trần Văn Khả. Cha giáo Antôn Trần Văn Kiệm mừng Đại thọ 90 tuổi và 65 năm LM thứ bảy 1/1/2011 tại Atlanta: anh em hải ngoại sẽ kéo nhau đến mừng Quý II. Xin mở “ThiepChaKiem” và “TieusuChaKiem” (Bản dịch chưa kịp sửa và thiếu giai đoạn quan trọng: Giáo sư TCV Phú Nhuận và Trung Học Phát Diệm 1955-1973). Xin chúc mừng cha giáo Antôn quý mến. Còn mừng Quý III và IV: hãy đợi đấy!
- Linh mục cao tuổi nhất Phát Diệm: Cha Bênađô Phạm Văn Quy (sinh 24/1/1912) sẽ mừng Đại thọ Bách niên (100 tuổi) và 69 năm LM. tại Trụ Sở Phát Diệm lúc 9g00 thứ sáu 14/1/2011, với sự hiện diện của Đ/ô Khả là nghĩa tử (xem Thiệp Mời dưới đây). Mừng lớn, nhưng không quên ngày giỗ 4 năm của ĐC Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật: thứ hai 17/1.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
''Luật'' mới của UBND Q3
Mặc Lâm - RFA
06:08 15/12/2010
Mặc Lâm: Theo thông tin chúng tôi nhận được thì bà Nguyễn Thị Lệ, Chủ tịch UBND-Q3 trong cuộc họp với các vị Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) đã cáo buộc rằng các linh mục DCCT đã có hành động sai phạm mà bà gọi là "chống đối chế độ", xin Linh Mục cho biết ngài đã trả lời những cáo buộc đó như thế nào?
LM Phạm Trung Thành: Vâng, ngày 10 tháng 12 vừa qua, tôi theo giấy triệu tập của Ủy Ban Nhân Dân - Quận 3 và người tiếp tôi là bà Nguyễn Thị Lệ, Chủ tịch UBND-Q3, cùng với những nhân viên cùng làm việc với bà. Một trong những nội dung là cáo buộc chúng tôi có những sai phạm gọi là "chống đối chế độ".
Có một điểm cần phải nhận định thế này là ngay từ khởi đầu cuộc gặp gỡ thì ông Chánh văn phòng của UBND-Q3 đã đưa ra một cái luật là "không ai được nói, chỉ một mình tôi (tức LM Thành)", cho nên những người đi theo tôi, tức là LM Đinh Hữu Thoại là thư ký của tôi, cũng như là tu sĩ Phạm Công Thuận không được phép nói.
“... ngay từ khởi đầu cuộc gặp gỡ thì ông Chánh văn phòng của UBND-Q3 đã đưa ra một cái luật là "không ai được nói, chỉ một mình tôi (tức LM Thành)"...
LM Phạm Trung Thành:
Trước "đề nghị" đó của ông Chánh văn phòng thì tôi có trả lời với bà Lệ và mọi người rằng nếu mà không cho anh em tôi nói thì tôi cũng sẽ không nói, là bởi vì chúng tôi cùng có trách nhiệm ra để mà gặp gỡ UBND theo thư mời, đồng thời tôi cũng cần phải có anh em tôi, cần phải nghe anh em tôi chứ tôi không thể nghe một phía chính quyền được.
Tuy nhiên, sau đó thì có những cuộc trao đổi mà phía bên Ban tôn giáo cũng như bà Lệ gọi là "những cuộc trao đổi tâm tình riêng với tư cách là những sự tâm tình riêng và cá nhân", thì tôi có trả lời, tôi có nói với họ rằng khi nào mà tòa án có đủ bằng chứng để kết luận là những người anh em của chúng tôi phạm tội thì lúc đó mới có thể gọi là có hành động sai, còn bây giờ thì chúng tôi đề nghị phải suy đoán theo hướng vô tội.
Mặc Lâm: Bà Nguyễn Thị Lệ cũng cho rằng Dòng Chúa Cứu Thế đã thành lập trang web cũng như đưa những bài viết lên trang này là trái phép thì DCCT trả lời ra sao, thưa Linh Mục?
LM Phạm Trung Thành: Vẫn là trong giới hạn gọi là trao đổi cá nhân chứ không với tư cách là giám tỉnh, thì Cha Đinh Hữu Thoại - thư ký của tôi, Ngài đã trả lời với bà Lệ và những người làm việc cùng với bà, là "Chúng tôi không có đưa những bài viết nào gọi là trái phép cả".
Tuy nhiên, họ cáo buộc rằng là trang web này đã không đăng ký theo như thông báo của Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền, nhưng Cha Đinh Hữu Thoại cũng đã nói cho họ biết rằng trang web này không vi phạm điều đó bởi vì cái luật đó được áp dụng cho các trang web đặt tại lãnh thổ Việt Nam, trong khi đây là trang web không đặt tại lãnh thổ Việt Nam tức không chịu sự chi phối của quyết định đó.
Mặc Lâm: Trong cuộc họp đó thì ông Nguyễn Anh Xuân, cán bộ của UBND Quận, cáo buộc DCCT tổ chức cầu nguyện hiệp thông là vi phạm pháp luật. Cáo buộc này có vẻ rất là nghiêm trọng, xin Linh Mục cho biết ý kiến của ngài về việc này ạ.
LM Phạm Trung Thành: Với tư cách cá nhân tôi cũng đã trả lời ông Xuân rằng cầu nguyện là việc của chúng tôi không có gì là phạm pháp cả. Cái thứ hai nữa là chúng tôi cầu nguyện cho mọi người. Ông ta có đưa ra trường hợp 8 giáo dân ở Thái Hà, thì chúng tôi bảo là nếu mà họ sai thì chúng tôi cầu nguyện cho họ để họ biết họ sai, còn nếu họ đúng thì chúng tôi cầu nguyện để cho tòa án thấy rõ là họ đúng, thì cái đó không phải là sự sai phạm.
Ông Giang, phó Ban tôn giáo thành phố, cũng lấy Pháp lệnh tôn giáo ra định nghĩa "cầu nguyện". Ông ta nói là Pháp lệnh định nghĩa "cầu nguyện tức là vận động quần chúng làm tốt, xây dựng tốt xã hội", thì chúng tôi có lưu ý rằng đây thuộc phạm trù tôn giáo, chính quyền mà định nghĩa thì cũng như ông rằng bài thánh ca là không được hát. Tôi nói đây thuộc phạm trù tôn giáo, chúng ta không thể bước lấn sang một phạm trù khác.
Chính quyền có thể định nghĩa những việc của chính trị, của chính quyền, của quản trị, nhưng mà cầu nguyện là gì, hay là thánh ca là gì thì là thuộc lãnh vực tôn giáo của chúng tôi. Tôi còn có nói với bà Lệ rằng là tôi chỉ đơn giản một thí dụ là nếu mà người em ruột của bà ở một quận khác mà có một vấn đề gì đó, bị một tai nạn gì đó, hoặc là bị hàng xóm láng giềng gây gổ gì đó thì với tư cách bà là chị ruột thì bà có nâng đỡ người em của bà hay không, bà có đề nghị trợ giúp người em bà không?
Cho nên chuyện Thái Hà là chuyện của chúng tôi, anh em của chúng tôi khi ở ngoài đó gặp "quần chúng tự phát" một cách hết sức căng thẳng thì chúng tôi cầu nguyện cho anh em chứ. Chúng tôi thấy cái đó chẳng bao giờ trái pháp luật cả.
Có ý chống chính quyền?
Mặc Lâm: Bên phía nhà nước cũng cáo buộc DCCT khi giảng trong nhà thờ đã nhiều lần nói rằng: “chúng ta đang ở trong một xã hội đầy rẫy bất công và áp bức” - đó là nguyên văn của bài giảng - và câu này là có ý chống lại chính quyền, thưa Linh Mục, xin cho biết ngài đã trả lời các cáo buộc này như thế nào?
LM Phạm Trung Thành: Tôi thì cũng rất là đơn giản, tôi nói với ông Xuân - là người phát biểu câu này - sau đó là ông Giang:
"Tôi xin phép, nếu ông nói là trao đổi tâm tình thì tôi cũng xin hỏi ông là bây giờ ông trả lời thật đi, ông trả lời thật bằng trái tim của ông, bằng con người thật của ông là có bất công hay không? Xã hội mình đang có bất công hay không?
Mặc Lâm: Và khi Cha hỏi như vậy thì ông ấy trả lời ra sao ạ?
LM Phạm Trung Thành: Vâng, thì ông im lặng thôi. Tôi hỏi tiếp câu thứ hai là hôm nay ông đọc báo Tuổi Trẻ chưa? Vâng, trước khi tôi ra UBND-Q3 thì tôi đã đọc báo Tuổi Trẻ của ngày hôm đó, ngày mùng 10, thì báo Tuổi Trẻ đăng lại cuộc họp của UBND thành phố trong đó các nghị viên của thành phố đặt vấn đề, một nghị viên đặt vấn đề và báo Tuổi Trẻ đăng đàng hoàng là "ra đường gặp cảnh sát giao thông là phải lót tay", thì tôi hỏi ông là ông có đọc bài đó chưa, và cũng trong bài báo đó, tất cả bài báo nói rằng là phó giám đốc Sở công an thành phố xác nhận điều đó là có.
Vậy tôi hỏi ông là ông có đọc bài đó chưa? Nếu ông đọc rồi thì tôi hỏi ông có bất công hay không? Thì ông ngồi im tại vì chuyện đó là chuyện quá thật, chuyện quá thật. Nhưng mà sau đó bà Lệ có nói tôi là "nhưng mà phát biểu lúc nào và phát biểu ở đâu, chứ không phải là phát biểu ở nhà thờ như thế thì làm hoang mang quần chúng", thì tôi bảo rằng nếu mà anh em tôi có phát biểu ở nhà thờ thì một lễ chỉ có hai ngàn, ba ngàn người dự thôi, có khi một ngàn người dự
Nhưng mà tờ báo Tuổi Trẻ thì theo như tôi được biết và có ghi trong tờ báo là một ngày họ phát hành 300 ngàn số, tức là có thể trên 300 ngàn người đọc, vì gia đình có thể mua một tờ báo thôi, như thế thì tốc độ thông tin của tờ Tuổi Trẻ mạnh hơn nhiều chứ, nếu có bức xúc thì quần chúng sẽ bức xúc nhiều hơn.
Mặc Lâm: Xin Linh Mục cho biết cuối cùng thì thái độ của bà chủ tịch, tức là bên phía tống đạt giấy mời, thì như thế nào? Thái độ ấy có cởi mở, hay thật sự muốn tìm kiếm một con đường hòa giải giữa hai bên, thái độ mà bà Lệ gọi là tâm tình như bà ấy nói vào lúc ban đầu hay không?
“Ông trả lời thật bằng trái tim của ông, bằng con người thật của ông là xã hội mình đang có bất công hay không?
LM Phạm Trung Thành: Tôi cho rằng họ làm cái việc họ phải làm, tại vì cái bài gọi là kết án tôi và anh em tôi thì được viết sẵn trong một cuốn vở, tôi nghĩ rằng bà phải làm cái việc bà phải làm. Và tôi cũng phát biểu với bà là "Vâng, tôi hiểu, tôi hoàn toàn cảm thông với bà vì bà phải làm cái việc bà phải làm".
Sau đó thì đến khi bà kết luận thì bà cũng lại đọc y như vậy thì bà hỏi ý kiến tôi, tôi nói là bài mở đầu và bài kết luận của bà không có thay đổi gì cả, cho nên nãy giờ những gì tôi nói thì tôi thấy nó vô ích. Tôi có dùng cái câu là "(những gì nãy giờ tôi nói) nó không đi vào con tim của các ông các bà. Thôi, tôi cảm ơn các ông các bà, tôi đi về thôi." Tôi nghĩ rằng bà ấy làm cái việc bà phải làm.
Mặc Lâm: Xin cảm ơn Linh mục Giám tỉnh Phạm Trung Thành đã giúp chúng tôi hoàn thành cuộc phỏng vấn đặc biệt ngày hôm nay.
Audio:
LM Phạm Trung Thành: Vâng, ngày 10 tháng 12 vừa qua, tôi theo giấy triệu tập của Ủy Ban Nhân Dân - Quận 3 và người tiếp tôi là bà Nguyễn Thị Lệ, Chủ tịch UBND-Q3, cùng với những nhân viên cùng làm việc với bà. Một trong những nội dung là cáo buộc chúng tôi có những sai phạm gọi là "chống đối chế độ".
“... ngay từ khởi đầu cuộc gặp gỡ thì ông Chánh văn phòng của UBND-Q3 đã đưa ra một cái luật là "không ai được nói, chỉ một mình tôi (tức LM Thành)"...
LM Phạm Trung Thành:
Trước "đề nghị" đó của ông Chánh văn phòng thì tôi có trả lời với bà Lệ và mọi người rằng nếu mà không cho anh em tôi nói thì tôi cũng sẽ không nói, là bởi vì chúng tôi cùng có trách nhiệm ra để mà gặp gỡ UBND theo thư mời, đồng thời tôi cũng cần phải có anh em tôi, cần phải nghe anh em tôi chứ tôi không thể nghe một phía chính quyền được.
Tuy nhiên, sau đó thì có những cuộc trao đổi mà phía bên Ban tôn giáo cũng như bà Lệ gọi là "những cuộc trao đổi tâm tình riêng với tư cách là những sự tâm tình riêng và cá nhân", thì tôi có trả lời, tôi có nói với họ rằng khi nào mà tòa án có đủ bằng chứng để kết luận là những người anh em của chúng tôi phạm tội thì lúc đó mới có thể gọi là có hành động sai, còn bây giờ thì chúng tôi đề nghị phải suy đoán theo hướng vô tội.
Mặc Lâm: Bà Nguyễn Thị Lệ cũng cho rằng Dòng Chúa Cứu Thế đã thành lập trang web cũng như đưa những bài viết lên trang này là trái phép thì DCCT trả lời ra sao, thưa Linh Mục?
LM Phạm Trung Thành: Vẫn là trong giới hạn gọi là trao đổi cá nhân chứ không với tư cách là giám tỉnh, thì Cha Đinh Hữu Thoại - thư ký của tôi, Ngài đã trả lời với bà Lệ và những người làm việc cùng với bà, là "Chúng tôi không có đưa những bài viết nào gọi là trái phép cả".
Tuy nhiên, họ cáo buộc rằng là trang web này đã không đăng ký theo như thông báo của Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền, nhưng Cha Đinh Hữu Thoại cũng đã nói cho họ biết rằng trang web này không vi phạm điều đó bởi vì cái luật đó được áp dụng cho các trang web đặt tại lãnh thổ Việt Nam, trong khi đây là trang web không đặt tại lãnh thổ Việt Nam tức không chịu sự chi phối của quyết định đó.
Mặc Lâm: Trong cuộc họp đó thì ông Nguyễn Anh Xuân, cán bộ của UBND Quận, cáo buộc DCCT tổ chức cầu nguyện hiệp thông là vi phạm pháp luật. Cáo buộc này có vẻ rất là nghiêm trọng, xin Linh Mục cho biết ý kiến của ngài về việc này ạ.
LM Phạm Trung Thành: Với tư cách cá nhân tôi cũng đã trả lời ông Xuân rằng cầu nguyện là việc của chúng tôi không có gì là phạm pháp cả. Cái thứ hai nữa là chúng tôi cầu nguyện cho mọi người. Ông ta có đưa ra trường hợp 8 giáo dân ở Thái Hà, thì chúng tôi bảo là nếu mà họ sai thì chúng tôi cầu nguyện cho họ để họ biết họ sai, còn nếu họ đúng thì chúng tôi cầu nguyện để cho tòa án thấy rõ là họ đúng, thì cái đó không phải là sự sai phạm.
Ông Giang, phó Ban tôn giáo thành phố, cũng lấy Pháp lệnh tôn giáo ra định nghĩa "cầu nguyện". Ông ta nói là Pháp lệnh định nghĩa "cầu nguyện tức là vận động quần chúng làm tốt, xây dựng tốt xã hội", thì chúng tôi có lưu ý rằng đây thuộc phạm trù tôn giáo, chính quyền mà định nghĩa thì cũng như ông rằng bài thánh ca là không được hát. Tôi nói đây thuộc phạm trù tôn giáo, chúng ta không thể bước lấn sang một phạm trù khác.
Chính quyền có thể định nghĩa những việc của chính trị, của chính quyền, của quản trị, nhưng mà cầu nguyện là gì, hay là thánh ca là gì thì là thuộc lãnh vực tôn giáo của chúng tôi. Tôi còn có nói với bà Lệ rằng là tôi chỉ đơn giản một thí dụ là nếu mà người em ruột của bà ở một quận khác mà có một vấn đề gì đó, bị một tai nạn gì đó, hoặc là bị hàng xóm láng giềng gây gổ gì đó thì với tư cách bà là chị ruột thì bà có nâng đỡ người em của bà hay không, bà có đề nghị trợ giúp người em bà không?
Cho nên chuyện Thái Hà là chuyện của chúng tôi, anh em của chúng tôi khi ở ngoài đó gặp "quần chúng tự phát" một cách hết sức căng thẳng thì chúng tôi cầu nguyện cho anh em chứ. Chúng tôi thấy cái đó chẳng bao giờ trái pháp luật cả.
Có ý chống chính quyền?
Mặc Lâm: Bên phía nhà nước cũng cáo buộc DCCT khi giảng trong nhà thờ đã nhiều lần nói rằng: “chúng ta đang ở trong một xã hội đầy rẫy bất công và áp bức” - đó là nguyên văn của bài giảng - và câu này là có ý chống lại chính quyền, thưa Linh Mục, xin cho biết ngài đã trả lời các cáo buộc này như thế nào?
LM Phạm Trung Thành: Tôi thì cũng rất là đơn giản, tôi nói với ông Xuân - là người phát biểu câu này - sau đó là ông Giang:
"Tôi xin phép, nếu ông nói là trao đổi tâm tình thì tôi cũng xin hỏi ông là bây giờ ông trả lời thật đi, ông trả lời thật bằng trái tim của ông, bằng con người thật của ông là có bất công hay không? Xã hội mình đang có bất công hay không?
Mặc Lâm: Và khi Cha hỏi như vậy thì ông ấy trả lời ra sao ạ?
LM Phạm Trung Thành: Vâng, thì ông im lặng thôi. Tôi hỏi tiếp câu thứ hai là hôm nay ông đọc báo Tuổi Trẻ chưa? Vâng, trước khi tôi ra UBND-Q3 thì tôi đã đọc báo Tuổi Trẻ của ngày hôm đó, ngày mùng 10, thì báo Tuổi Trẻ đăng lại cuộc họp của UBND thành phố trong đó các nghị viên của thành phố đặt vấn đề, một nghị viên đặt vấn đề và báo Tuổi Trẻ đăng đàng hoàng là "ra đường gặp cảnh sát giao thông là phải lót tay", thì tôi hỏi ông là ông có đọc bài đó chưa, và cũng trong bài báo đó, tất cả bài báo nói rằng là phó giám đốc Sở công an thành phố xác nhận điều đó là có.
Vậy tôi hỏi ông là ông có đọc bài đó chưa? Nếu ông đọc rồi thì tôi hỏi ông có bất công hay không? Thì ông ngồi im tại vì chuyện đó là chuyện quá thật, chuyện quá thật. Nhưng mà sau đó bà Lệ có nói tôi là "nhưng mà phát biểu lúc nào và phát biểu ở đâu, chứ không phải là phát biểu ở nhà thờ như thế thì làm hoang mang quần chúng", thì tôi bảo rằng nếu mà anh em tôi có phát biểu ở nhà thờ thì một lễ chỉ có hai ngàn, ba ngàn người dự thôi, có khi một ngàn người dự
Nhưng mà tờ báo Tuổi Trẻ thì theo như tôi được biết và có ghi trong tờ báo là một ngày họ phát hành 300 ngàn số, tức là có thể trên 300 ngàn người đọc, vì gia đình có thể mua một tờ báo thôi, như thế thì tốc độ thông tin của tờ Tuổi Trẻ mạnh hơn nhiều chứ, nếu có bức xúc thì quần chúng sẽ bức xúc nhiều hơn.
Mặc Lâm: Xin Linh Mục cho biết cuối cùng thì thái độ của bà chủ tịch, tức là bên phía tống đạt giấy mời, thì như thế nào? Thái độ ấy có cởi mở, hay thật sự muốn tìm kiếm một con đường hòa giải giữa hai bên, thái độ mà bà Lệ gọi là tâm tình như bà ấy nói vào lúc ban đầu hay không?
“Ông trả lời thật bằng trái tim của ông, bằng con người thật của ông là xã hội mình đang có bất công hay không?
LM Phạm Trung Thành: Tôi cho rằng họ làm cái việc họ phải làm, tại vì cái bài gọi là kết án tôi và anh em tôi thì được viết sẵn trong một cuốn vở, tôi nghĩ rằng bà phải làm cái việc bà phải làm. Và tôi cũng phát biểu với bà là "Vâng, tôi hiểu, tôi hoàn toàn cảm thông với bà vì bà phải làm cái việc bà phải làm".
Sau đó thì đến khi bà kết luận thì bà cũng lại đọc y như vậy thì bà hỏi ý kiến tôi, tôi nói là bài mở đầu và bài kết luận của bà không có thay đổi gì cả, cho nên nãy giờ những gì tôi nói thì tôi thấy nó vô ích. Tôi có dùng cái câu là "(những gì nãy giờ tôi nói) nó không đi vào con tim của các ông các bà. Thôi, tôi cảm ơn các ông các bà, tôi đi về thôi." Tôi nghĩ rằng bà ấy làm cái việc bà phải làm.
Mặc Lâm: Xin cảm ơn Linh mục Giám tỉnh Phạm Trung Thành đã giúp chúng tôi hoàn thành cuộc phỏng vấn đặc biệt ngày hôm nay.
Audio:
Tài Liệu - Sưu Khảo
Mẹ Maria, Đấng duy nhất được lãnh nhận ơn Tiền Cứu Rỗi (1)
Lm Nguyễn Hữu Thy
14:36 15/12/2010
Mẹ Maria, Đấng duy nhất được lãnh nhận ơn Tiền Cứu Rỗi (1)
Lời giới thiệu: Trong những ngày này, khi toàn thể nhân loại đang sửa soạn cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh, vai trò quan trọng mang tính cách quyết định của Mẹ Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa luôn được nhắc tới và đề cao. Thật vậy, nhờ hai tiếng „xin vâng“ hoàn toàn tự nguyện của Mẹ trước lời loan báo của Thiên sứ Gabriel, Ngôi Hai Thiên Chúa mới có thể xuống thế và nhập thể trong cung lòng Mẹ để cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự tuyển chọn Mẹ Maria làm Mẹ Chúa Cứu Thế đã từ đời đời nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Và cũng vì thế, Mẹ Maria đã tuyệt đối được gìn giữ trước vết nhơ tội Nguyên tổ cũng như các tội riêng, và dĩ nhiên nhờ vào cuộc khổ nạn thập giá của Đức Kitô. Nói cách khác, Mẹ Maria đã được hưởng ơn tiền cứu độ của Đức Kitô. Sau đây chúng tôi xin mời quý bạn đọc cùng suy gẫm ơn cao trọng này của Mẹ Maria:
Tuy Mẹ Maria là một thành viên thực sự của Giáo Hội, nhưng vì do sự tiền định từ đời đời của Thiên Chúa muốn kén chọn Mẹ làm Mẹ Con Một Người khi xuống thế làm người, Mẹ Maria đã được hưởng ơn tiền cứu rỗi, nói cách khác, Mẹ đã được hưởng trước ơn cứu rỗi mà Đức Kitô sẽ mang tới cho nhân loại qua cuộc khổ nạn thập giá của Người, và chỉ một mình Mẹ được hưởng ơn ấy mà thôi. Điều đó muốn nói rằng, ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ Maria được cưu mang trong lòng mẹ mình, thì Mẹ đã được gìn giữ khỏi bị vướng mắc tội Tổ tông và tất cả mọi tội lỗi khác, vì: trước hết, đó là thánh ý của Chúa Cha và tình thương bao la khôn tả của Người dành cho Mẹ; và tiếp đến, nếu Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Thánh tuyệt đối, thì Đấng cưu mang Người là Mẹ Maria cũng phải hoàn toàn tinh tuyền thánh thiện, không thể vướng mắc vào bất cứ tì ố tội lỗi nào, dù là Nguyên tội hay tội riêng mình. Thật vậy, nếu Đức Kitô là Đấng Thánh và nắm trọn mọi quyền lực trong tay để tiêu diệt tội lỗi và giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi, thì tất nhiên Mẹ Người cũng không thể nằm dưới ách thống trị của tội lỗi được. Trái lại, chính Mẹ là Người Nữ đạp nát đầu con mãng xà xảo quyệt, tức ma quỷ (x. St 3,16).
Hơn nữa, Mẹ Maria không chỉ một mình được hưởng ơn tiền cứu rỗi như thế, nhưng Mẹ cũng được hưởng trọn vẹn ơn cứu rỗi do cuộc khổ nạn thập giá của Đức Kitô mang lại, ơn cứu rỗi mà mỗi Kitô hữu được lãnh nhận khi chịu Phép Rửa Tội.
1. Những ghi nhận về sự cứu rỗi của Mẹ Maria
Trong cuốn tiểu thuyết của bà với tựa đề „Gottesdiener“ – (Người tôi tớ của Thiên Chúa), bà Petra Morsbach kể lại tiểu sử của Linh mục Isidor Rattenhuber một cách hết sức cảm động. Trong tác phẩm, nữ tác giả đã diễn tả một cách rất ranh mãnh và tinh quái, nhưng đồng thời cũng rất đậm tình người. Bà viết: „Cái luận lý mơ hồ và luộm thuộm mà Linh mục Isidor đã phải sử dụng để bênh vực các giáo lý của Giáo Hội, những giáo lý mà chính ông lại không xác tín, chẳng hạn như sự vô nhiễm thai của Đức Trinh Nữ Maria.“(1) Phải chăng hiện tượng Lm Isidor Rattenhuber không còn xác tín vào những giáo huấn trọng yếu của Giáo Hội về Đức tin, chỉ là một trường hợp ngoại trừ? Hay ông là một đại diện cho nhiều người khác cùng quan điểm như thế trong Giáo Hội? Phải chăng điều đó thực sự có quan hệ đến các tín điều của Giáo Hội, nhất là những tín điều về Mẹ Maria, mà người ta có thể bênh vực bằng những „luận lý mơ hồ và luộm thuộm“? Nếu quả thực sự thật là như thế, thì các nhà thần học cũng như tất cả các tín hữu phải được báo động một cách hết sức khẩn cấp. Tuy nhiên, cả khi hoàn cảnh không đến nỗi trầm trọng như bà Petra Morsbach thêu dệt lên, thì người ta cũng cần thiết phải luôn nỗ lực tìm hiểu và đào sâu thêm các tín điều của Giáo Hội về Mẹ Maria.
Đức Hồng Y Lê-ô Scheffczyk đã hoàn toàn có lý khi cho rằng những giáo huấn về Mẹ Maria trước hết là nhằm mục đích làm phát huy và thắp sáng các chân lý về Đức Kitô. Đấy cũng là điều mà nhà thần học Karl Barth (1886-1968)(2) đã đề cập tới, nhưng dĩ nhiên bằng thái độ phê bình và phủ nhận. Nhà thần học Tin Lành này nhận thức được rằng „Môn thần học Công Giáo về Thánh Mẫu học được gắn liền với tổng thể nền thần học Công Giáo một cách bất khả phân ly“(3). Khi sự tương quan giữa Mẹ Thiên Chúa và mầu nhiệm Đức Kitô được xác định bởi ân sủng và ý chí tự do của con người, thì các mầu nhiệm khác cũng rực sáng lên nơi con người Mẹ Maria, đó là: Mầu nhiệm đồng trách nhiệm của con người trong công trình cứu chuộc, mầu nhiệm Giáo Hội được cưu mang trong tâm tình người Mẹ đồng trinh, mầu nhiệm cứu độ và ân sủng, mầu nhiệm sự cầu thay nguyện giúp của cộng đồng các Thánh hay cũng được gọi là mầu nhiệm các Thánh thông công, mầu nhiệm sự hoàn thiện, bao gồm cả thể xác nữa. Tất cả những chân lý đức tin này đều quy tụ lại trong con người Mẹ Maria „như trong một chóp đỉnh sống động“(4).
Qua mối quan hệ gắn bó chặt chẽ đặc biệt với Đức Kitô, Mẹ Maria đóng một vai trò vô cùng quan trọng và đặc thù trong lịch sử cứu độ. Bởi vậy, người ta không thể so sánh sứ mệnh của các Tông Đồ hay của bất cứ vị Thánh nào với sứ mệnh mang tính cách hoàn toàn riêng biệt của Mẹ Maria được. Với lý do là không một Thánh nhân nào đã nắm giữ một vai trò đầy thách đố và mang tính cách quyết định trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa như Mẹ Maria.
Bởi vậy, chiều kích Giáo Hội học về tất cả các mầu nhiệm về Mẹ Maria cũng đều nhấn mạnh một cách rõ ràng: Sự „Vô nhiễm thai“ của Mẹ Thiên Chúa là một hình ảnh thực tiễn nói lên sự thánh thiện chân chính của Giáo Hội, một sự thánh thiện mà cả tình trạng tội lỗi hay sự bất toàn của các thành phần của Giáo Hội cũng không thể ảnh hưởng hay liên hệ tới được. Giáo sư Joseph Ratzinger – hiện là ĐGH Bênêđíctô XVI – cũng đã tham chiếu trong thần học của ngài về các Giáo Phụ hình ảnh „Ecclesia Immaculata“ – Giáo Hội tinh tuyền (Ep 5,27) đã viết: „Giáo huấn về sự „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là … một phát biểu muốn nói lên một cách đầy tin tưởng chắc chắn rằng quả thực có một Giáo Hội thánh thiện – vì sự tinh tuyền thánh thiện của Mẹ Maria với tư cách Mẹ là một cá thể riêng, nhưng đồng thời Mẹ cũng là đại diện cho Giáo Hội. Vậy, trong nghĩa này, giáo huấn „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là một phát biểu hoàn toàn chắc chắn về sự thánh thiện của Giáo Hội“(5). Và giáo sư Ratzinger còn thêm. „Theo phạm vi sự hiểu biết của chúng tôi, thì sự tinh tuyền thánh thiện ấy được hiểu nơi Mẹ Maria và chỉ nơi Mẹ Maria mà thôi, một cách hoàn toàn và trọn vẹn, bởi vì Mẹ đại diện cho Giáo Hội, đối với Mẹ ơn được cứu độ sau cùng không còn chỉ là một lời hứa nữa, nhưng là một thực tại.“(6)
2. Chiều kích đại kết trong việc tôn sùng Mẹ Maria
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhìn thấy trong tinh thần đại kết của các Thánh chiều kích đại kết đầy thuyết phục nhất. Bởi vì, theo ngài, chính cộng đoàn hoàn toàn hiệp nhất của các Thánh, hay mầu nhiệm các Thánh thông công, là cả một tiếng nói còn hùng hồn và đầy xác quyết về sự hiệp nhất cần thiết giữa các Kitô hữu hơn những kẻ đã gây nên những cuộc ly khai và chia rẽ(7). Trong Thông điệp về đại kết của ngài „Ut unum sint“ - Để chúng nên một (1995), Đức Gioan Phaolô II đã khẩn cấp cho thấy rằng cộng đồng chưa trọn vẹn của các Giáo Hội và của các cộng đoàn các tín hữu được đặt nền tảng chắc chắn một cách vô hình „trên cộng đồng trọn vẹn của các Thánh, nghĩa là của những người đã luôn sống một cuộc sống trung thành với ân sủng trong sự kết hiệp mật thiết với Đức Kitô hiển vinh“(8).
Cả các Giám Mục và các nhà thần học thuộc các Giáo Hội và các cộng đoàn Kitô giáo khác cũng đã nhận thức được tầm quan trọng to lớn của các Thánh và của việc tôn sùng các Thánh trong những bước tiến của công cuộc đại kết. Cuộc đối thoại chân thành và cởi mở song phương giữa các đại diện Hội Đồng các Giám Mục Đức và các đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther Thống Nhất ở Đức vào năm 2000 đã mang đến một kết quả quan trọng ngoài sự mong đợi của mọi người, đó là tập tài liệu: „Communio Sanctorum – Die Kirche als Gemeinschaft der Heiligen: Các Thánh Thông Công – Giáo Hội là cộng đoàn của các Thánh“ (9). Một phần trong tập tài liệu quan trọng này (số: 253-268) được dành để đề cập tới sự tôn sùng Mẹ Maria với tựa đề: „Die Verehrung Maria, der Mutter des Herrn“ - Sự tôn sùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, tập tài liệu nói trên của hai Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành Lu-the-rô ở Đức cũng không quên cho rằng, đối với các tín hữu Tin Lành, không chỉ sự tôn sùng Đức Maria, nhưng kể cả sự phát triển các giáo huấn về Đức Maria của Giáo Hội Công Giáo „đã và đang đặt thành nghi vấn“ (số 257). Nhưng nhất là việc công bố tín điều về Đức Maria: „Sự Vô Nhiễm Thai“ (1854) và tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“ (1950) đã gây nên những thách đố đối với phía Tin Lành. Theo quan điểm của phía anh em Tin Lành thì hai tín điều ấy không hề được đề cập tới một cách rõ ràng trong Kinh Thánh. Mãi cho tới quá khứ gần đây nhất, người ta vẫn luôn cho rằng hai tín điều Vô Niễm Thai và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời đã gây nên một sự mâu thuẫn bất khả vượt qua được giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tin Lành, đến nỗi mãi tới nay khoa Thánh Mẫu học và sự tôn sùng Mẹ Maria ít khi trở thành đối tượng của những cuộc đối thoại đại kết. Thế nhưng trong những năm vừa qua cục diện của vấn đề đã hoàn toàn thay đổi.
Đối với quan điểm người Công Giáo, những tín điều về Đức Mẹ được công bố vào các thế kỷ XIX và XX là kết quả của những tìm hiểu và suy tư trong suốt hằng bao thế kỷ của Giáo Hội. Những tín điều ấy đã giải đáp cho vấn nạn: Thiên Chúa đã tác động thế nào trong cuộc sống Mẹ Maria, Đấng mà Người đã kén chọn một cách hoàn toàn đặc biệt để làm Mẹ Con Một Người? Tín điều „Vô Nhiễm Thai“ của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, được đặt cơ sở trên sự nhận thức đầy tin tưởng về sự trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho tất cả mọi sự trở nên thiện hảo nơi những người, mà theo sự an bài từ đời đời của Người, Người đã kêu gọi (Rm 8,28). Tín điều khẳng định rằng ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, Mẹ Maria đã được gìn giữ khỏi vết nhơ của tội Nguyên tổ, một tội mà tất cả mọi con cái loài người đều bị lây nhiễm.
Dĩ nhiên, việc Mẹ Maria được gìn giữ khỏi tội Nguyên tổ như thế ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ được thụ thai trong lòng mẹ mình, nói cách khác, việc Mẹ Maria được hưởng ơn tiền cứu độ mà Chúa Cứu Thế, Con Mẹ, sẽ mang đến cho nhân loại bằng cuộc khổ nạn thập giá của Người sau này, thì hoàn toàn là do ân sủng và tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha ban cho Mẹ, chứ không phải là do công trạng riêng của Mẹ. Thật vậy, cũng như tất cả mọi con cái loài người khác, Mẹ Maria cũng chỉ là một thụ tạo, và vì thế Mẹ cũng cần đến ân sủng của Chúa qua sự trung gian của Đức Kitô, Đấng là nhịp cầu duy nhất nối kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa Cha và con cái loài người. Do đó, „ngoài Đức Kitô không có sự cứu rỗi“ (thánh I-rê-nê), hay như chính Đức Giê-su đã khẳng định: „không có Thầy, các con không thể làm được gì cả“ (Ga 15,5).
Vậy, Mẹ Maria được cứu rỗi là nhờ ơn công chính hóa của Thiên Chúa ban cho Mẹ qua Đức Kitô. Mẹ Maria „được đầy ơn phúc“ (Lc 1,28) và hoàn toàn được gìn giữ khỏi mọi tội lỗi, tội nguyên tổ cũng như các tội riêng, là do Mẹ được kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su Kitô một cách đặc biệt, một sự kết hiệp mà không một ai trong con cái loài người có được. Bởi vì:
• Mẹ là Mẹ Đức Kitô,
• Mẹ đã cưu mang Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa trong cung lòng đồng trinh của Mẹ,
• Mẹ đã yêu mến và tin tưởng Con Mẹ hơn bất cứ ai khác,
• Mẹ là Đấng cộng tác hoàn toàn vào chương trình cứu độ của Chúa Cứu Thế hơn bất cứ ai khác,
• Vâng, Mẹ là Đấng Đồng Công đúng nghĩa và trọn vẹn trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Tất cả những điều ấy cũng muốn nói lên chân lý đức tin này: Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên tội ngay từ giây phút đầu tiên khi được thụ thai trong lòng mẹ, là duy nhất nhờ vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô qua cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá, trong khi các Kitô hữu khác chỉ được khỏi tội Nguyên tổ qua Bí tích Rửa tội.
Nhưng mục đích tiên quyết mà tín điều „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là nhằm đề cao và làm nổi bật quyền năng vô biên của ân sủng Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn tự do muốn kêu gọi ai và kêu gọi bằng cách thức nào là tùy thánh ý của Người quyết định.
Và tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“ cũng được bắt nguồn từ trong lời Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma, như sau: „Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.“ (Rm 8,30). Nói cách khác, nếu một khi Thiên Chúa muốn tuyển chọn và ban ân sủng cho một ai đó, và nếu người ấy biết đầy lòng tin tưởng phó thác đón nhận ân sủng của Người cũng như nỗ lực sống theo ân sủng ấy, thì Thiên Chúa sẽ ban tặng cho toàn diện thực thể của người ấy, tức cả hồn lẫn xác, ơn được diễm phúc thông hiệp trọn vẹn với Người. Điều mà chúng ta hằng tuyên tín trong câu cuối cùng của Kinh Tin Kính: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau“, là niềm hy vọng của tất cả mọi tín hữu và đồng thời đó cũng là điều mà tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“, được tuyên bố năm 1950, muốn minh chứng một cách hùng hồn và cụ thể. Nhưng điều mà Mẹ Maria đã đạt tới được, còn tất cả chúng ta thì đang trên đường tìm kiếm và mong đợi, đó là: Sự sống lại từ cõi chết và cuộc sống vĩnh cửu, hoa quả thực tiễn của ơn thánh hóa của Thiên Chúa.
Nói tóm lại, hai tín điều về Mẹ Maria là „Vô Nhiễm Thai“ hay „Vô Nhiễm Nguyên Tội“ và „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“, được công bố trong các thế kỷ XIX và XX, mà các nhà thần học Tin Lành vốn coi như là những cản trở khó vượt qua trên con đường đại kết, thì trên thực tế chỉ nhằm phụng sự vinh quang Thiên Chúa như là mục đích tối hậu mà thôi. Các tín điều ấy chứa đựng một chiều kích hết sức sâu xa trong việc tán tụng và ca ngợi Thiên Chúa, nghĩa là các tín điều ấy nhằm ca tụng và cảm tạ các ơn lành của Thiên Chúa như là mục đích tối hậu. Nếu các anh em Tin Lành biết khám phá và hiểu rõ được nội dung chính yếu của các tín điều về Mẹ Maria một cách đúng đắn như thế, chắc chắn họ sẽ nhận thức được rằng trên nguyên tắc, hai tín điều này thực sự được bắt nguồn trong mặc khải(10).
Sự tôn sùng Mẹ Maria luôn cần phải được định hướng theo Đức Kitô, hay nói cách khác, sự tôn sùng Mẹ Maria luôn luôn phải nhằm tôn vinh Đức Kitô như là mục đích tối hậu. Dựa theo những hướng dẫn của ĐTC Phaolô VI trong Tông thư thời danh của ngài về sự tôn sùng Mẹ Maria „Marialis cultus“ (11), thì sự tôn sùng Mẹ Maria phải được đặt nền tảng trên Kinh Thánh, phải được thể hiện trong Phụng Vụ, một cách phù hợp với khoa nhân chủng học và tinh thần đại kết ngày nay. Để củng cố sự hiệp nhất trong đức tin, các anh em Tin Lành Lu-the-rô cần đánh giá cao sự nỗ lực của các tín hữu Công Giáo trong việc thiết đặt vai trò Mẹ Maria trong Kitô học và Giáo Hội học. Đối với quan điểm Công Giáo, Mẹ Maria là hiện thân cho sự kiện được thánh hóa nhờ vào ân sủng và qua đức tin. Cả hai tín điều cuối cùng về Mẹ Maria như vừa đề cập ở trên, đều muốn làm nổi bật chân lý này là: nếu Thiên Chúa tuyển chọn một người nào đó theo sự an bài của Người, tương tự như trường hợp Mẹ Maria, thì quan điểm Kitô giáo luôn cho rằng sự kêu gọi đó liên hệ đến con người toàn diện của người ấy. Và sự kêu gọi đó bắt đầu trong giây phút đầu tiên của cuộc đời người ấy và luôn đồng hành với người ấy mãi, chứ không bao giờ từ bỏ người ấy nữa.
________________
1. B. Schwens-Harrant, Rez. Von: P. Morsbach, Gottesdiener, Frankfurt a. M. 2004, in: Die Presse (Wien) vom 21.8.2004, S. VI.- H.B. Wuermeling (trong: Die Tagespost Nr. 106/04.09.2004, 13) gọi cuốn Tiểu thuyết này một „áng văn chương hay“ (literarische Wohltat) và cho rằng việc đọc cuốn Tiểu thuyết „có thể tránh cho Giáo Hội được nhiều tường thuật thiếu thuật lợi của công ty McKinsey“. McKinsey là một công ty tư vấn và chuyên nghiên cứu dư luận, v.v…
2. Karl Barth là một nhà thần học Tin Lành nổi tiếng, người Thụy Sĩ. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình một giáo sư thần học ở tỉnh Basel, nằm trên biên giới Thụy Sĩ-Đức. Cho đến năm 1909, ông theo học thần học lần lượt tại các đại học Bern, Berlin, Tübingen và Marburg. Năm 1911 ông thừa hành chức Mục sư tại một Xứ đạo ở Thụy Sĩ. Sau trận thế chiến I, ông đề xướng một khuynh hướng thần học quan trọng và mới mẽ trong nội bộ Giáo Hội Tin Lành: Thần học biện chứng.
3. Karl Barth, Kirchliche Dogmatik I, 2, 157.
4. L. Scheffczyk, Katholische Glaubenswelt. Wahrheit und Gestalt, Aschaffenburg 2. Aufl. 1978, trang 270-277, câu này ở trang 272; xin xem tiếp: Die Mariengestalt im Gefüge der Theologie. Mariologische Beiträge, Regensburg 2000; W. Beinert, Die mariologischen Dogmen und ihre Entfaltung, in: ders./H. Petri (Hg.), Handbuch der Marienkunde, Regensburg 2. Aufl. 1996, trang 267-363.
5. Joseph Ratzinger, Die Tochter Sion. Betrachtungen über den Marienglauben der Kirche. (Kriterien 44) Einsiedeln 1977, trang 61-83, câu này ở trang 70.
6. như trên, trang 80. Xin xem thêm HY Joseph Ratzinger/Hans-Urs von Balthasar, Maria – Kirche im Ursprung, Einsiedeln 4. Erw. Aufl. 1997; H.U. von Balthasar, Maria für heute. (Kriterien, 98), Einsiedeln, Neuausgabe 1997, trang 36-49.
7. xem Tông thư „Tertio millennio adveniente“, số 37.
8. Thông điệp „Ut unum sint“, số 84.
9. xem Bilaterale Arbeitsgruppe der Deutschen Bischofskonferenz und der Kirchenleitung der Vereinigten Evangelisch-Lutherischen Kirche Deutschlands: „Communio Sanctorum – Die Kirche als Gemeinschaft der heiligen“, Paderborn-Frankfurt a.M. 2000.
10. H. Schmoll (Đúng như Luther đã mong muốn. Sự đánh giá của phân khoa thuộc đại học Erlagen và Tübingen về tập tài liệu „Communio Sanctorum“, trích trong nhật báo „Frankfurt allgemeine Zeitung“, số 86, ra ngày 13.4.2002, trang 12) trái lại cho rằng công trình nghiên cứu song phương giữa đại diện Công Giáo và Tin Lành chỉ muốn „làm cho người Tin Lành cảm nhận được sự thú vị trong việc tôn sùng các Thánh của người Công Giáo, không hơn không kém.“ Các giáo sư thuộc phân khoa thần học Tin Lành của đại học Tübingen đã xác định sự đánh giá của họ về tập tài liệu „Communio Sanctorum“ như sau: việc cho rằng, dựa theo nguyên tắc, hai tín điều về Đức Maria trong thời tân đại hoàn toàn phù hợp với mặc khải, là một điều không thể chấp nhận được.
11. Paul VI, Marialis cultus, 1974, Nr. 29-39.
(Còn tiếp)
Lời giới thiệu: Trong những ngày này, khi toàn thể nhân loại đang sửa soạn cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh, vai trò quan trọng mang tính cách quyết định của Mẹ Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa luôn được nhắc tới và đề cao. Thật vậy, nhờ hai tiếng „xin vâng“ hoàn toàn tự nguyện của Mẹ trước lời loan báo của Thiên sứ Gabriel, Ngôi Hai Thiên Chúa mới có thể xuống thế và nhập thể trong cung lòng Mẹ để cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự tuyển chọn Mẹ Maria làm Mẹ Chúa Cứu Thế đã từ đời đời nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Và cũng vì thế, Mẹ Maria đã tuyệt đối được gìn giữ trước vết nhơ tội Nguyên tổ cũng như các tội riêng, và dĩ nhiên nhờ vào cuộc khổ nạn thập giá của Đức Kitô. Nói cách khác, Mẹ Maria đã được hưởng ơn tiền cứu độ của Đức Kitô. Sau đây chúng tôi xin mời quý bạn đọc cùng suy gẫm ơn cao trọng này của Mẹ Maria:
Tuy Mẹ Maria là một thành viên thực sự của Giáo Hội, nhưng vì do sự tiền định từ đời đời của Thiên Chúa muốn kén chọn Mẹ làm Mẹ Con Một Người khi xuống thế làm người, Mẹ Maria đã được hưởng ơn tiền cứu rỗi, nói cách khác, Mẹ đã được hưởng trước ơn cứu rỗi mà Đức Kitô sẽ mang tới cho nhân loại qua cuộc khổ nạn thập giá của Người, và chỉ một mình Mẹ được hưởng ơn ấy mà thôi. Điều đó muốn nói rằng, ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ Maria được cưu mang trong lòng mẹ mình, thì Mẹ đã được gìn giữ khỏi bị vướng mắc tội Tổ tông và tất cả mọi tội lỗi khác, vì: trước hết, đó là thánh ý của Chúa Cha và tình thương bao la khôn tả của Người dành cho Mẹ; và tiếp đến, nếu Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Thánh tuyệt đối, thì Đấng cưu mang Người là Mẹ Maria cũng phải hoàn toàn tinh tuyền thánh thiện, không thể vướng mắc vào bất cứ tì ố tội lỗi nào, dù là Nguyên tội hay tội riêng mình. Thật vậy, nếu Đức Kitô là Đấng Thánh và nắm trọn mọi quyền lực trong tay để tiêu diệt tội lỗi và giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi, thì tất nhiên Mẹ Người cũng không thể nằm dưới ách thống trị của tội lỗi được. Trái lại, chính Mẹ là Người Nữ đạp nát đầu con mãng xà xảo quyệt, tức ma quỷ (x. St 3,16).
Hơn nữa, Mẹ Maria không chỉ một mình được hưởng ơn tiền cứu rỗi như thế, nhưng Mẹ cũng được hưởng trọn vẹn ơn cứu rỗi do cuộc khổ nạn thập giá của Đức Kitô mang lại, ơn cứu rỗi mà mỗi Kitô hữu được lãnh nhận khi chịu Phép Rửa Tội.
1. Những ghi nhận về sự cứu rỗi của Mẹ Maria
Trong cuốn tiểu thuyết của bà với tựa đề „Gottesdiener“ – (Người tôi tớ của Thiên Chúa), bà Petra Morsbach kể lại tiểu sử của Linh mục Isidor Rattenhuber một cách hết sức cảm động. Trong tác phẩm, nữ tác giả đã diễn tả một cách rất ranh mãnh và tinh quái, nhưng đồng thời cũng rất đậm tình người. Bà viết: „Cái luận lý mơ hồ và luộm thuộm mà Linh mục Isidor đã phải sử dụng để bênh vực các giáo lý của Giáo Hội, những giáo lý mà chính ông lại không xác tín, chẳng hạn như sự vô nhiễm thai của Đức Trinh Nữ Maria.“(1) Phải chăng hiện tượng Lm Isidor Rattenhuber không còn xác tín vào những giáo huấn trọng yếu của Giáo Hội về Đức tin, chỉ là một trường hợp ngoại trừ? Hay ông là một đại diện cho nhiều người khác cùng quan điểm như thế trong Giáo Hội? Phải chăng điều đó thực sự có quan hệ đến các tín điều của Giáo Hội, nhất là những tín điều về Mẹ Maria, mà người ta có thể bênh vực bằng những „luận lý mơ hồ và luộm thuộm“? Nếu quả thực sự thật là như thế, thì các nhà thần học cũng như tất cả các tín hữu phải được báo động một cách hết sức khẩn cấp. Tuy nhiên, cả khi hoàn cảnh không đến nỗi trầm trọng như bà Petra Morsbach thêu dệt lên, thì người ta cũng cần thiết phải luôn nỗ lực tìm hiểu và đào sâu thêm các tín điều của Giáo Hội về Mẹ Maria.
Đức Hồng Y Lê-ô Scheffczyk đã hoàn toàn có lý khi cho rằng những giáo huấn về Mẹ Maria trước hết là nhằm mục đích làm phát huy và thắp sáng các chân lý về Đức Kitô. Đấy cũng là điều mà nhà thần học Karl Barth (1886-1968)(2) đã đề cập tới, nhưng dĩ nhiên bằng thái độ phê bình và phủ nhận. Nhà thần học Tin Lành này nhận thức được rằng „Môn thần học Công Giáo về Thánh Mẫu học được gắn liền với tổng thể nền thần học Công Giáo một cách bất khả phân ly“(3). Khi sự tương quan giữa Mẹ Thiên Chúa và mầu nhiệm Đức Kitô được xác định bởi ân sủng và ý chí tự do của con người, thì các mầu nhiệm khác cũng rực sáng lên nơi con người Mẹ Maria, đó là: Mầu nhiệm đồng trách nhiệm của con người trong công trình cứu chuộc, mầu nhiệm Giáo Hội được cưu mang trong tâm tình người Mẹ đồng trinh, mầu nhiệm cứu độ và ân sủng, mầu nhiệm sự cầu thay nguyện giúp của cộng đồng các Thánh hay cũng được gọi là mầu nhiệm các Thánh thông công, mầu nhiệm sự hoàn thiện, bao gồm cả thể xác nữa. Tất cả những chân lý đức tin này đều quy tụ lại trong con người Mẹ Maria „như trong một chóp đỉnh sống động“(4).
Qua mối quan hệ gắn bó chặt chẽ đặc biệt với Đức Kitô, Mẹ Maria đóng một vai trò vô cùng quan trọng và đặc thù trong lịch sử cứu độ. Bởi vậy, người ta không thể so sánh sứ mệnh của các Tông Đồ hay của bất cứ vị Thánh nào với sứ mệnh mang tính cách hoàn toàn riêng biệt của Mẹ Maria được. Với lý do là không một Thánh nhân nào đã nắm giữ một vai trò đầy thách đố và mang tính cách quyết định trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa như Mẹ Maria.
Bởi vậy, chiều kích Giáo Hội học về tất cả các mầu nhiệm về Mẹ Maria cũng đều nhấn mạnh một cách rõ ràng: Sự „Vô nhiễm thai“ của Mẹ Thiên Chúa là một hình ảnh thực tiễn nói lên sự thánh thiện chân chính của Giáo Hội, một sự thánh thiện mà cả tình trạng tội lỗi hay sự bất toàn của các thành phần của Giáo Hội cũng không thể ảnh hưởng hay liên hệ tới được. Giáo sư Joseph Ratzinger – hiện là ĐGH Bênêđíctô XVI – cũng đã tham chiếu trong thần học của ngài về các Giáo Phụ hình ảnh „Ecclesia Immaculata“ – Giáo Hội tinh tuyền (Ep 5,27) đã viết: „Giáo huấn về sự „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là … một phát biểu muốn nói lên một cách đầy tin tưởng chắc chắn rằng quả thực có một Giáo Hội thánh thiện – vì sự tinh tuyền thánh thiện của Mẹ Maria với tư cách Mẹ là một cá thể riêng, nhưng đồng thời Mẹ cũng là đại diện cho Giáo Hội. Vậy, trong nghĩa này, giáo huấn „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là một phát biểu hoàn toàn chắc chắn về sự thánh thiện của Giáo Hội“(5). Và giáo sư Ratzinger còn thêm. „Theo phạm vi sự hiểu biết của chúng tôi, thì sự tinh tuyền thánh thiện ấy được hiểu nơi Mẹ Maria và chỉ nơi Mẹ Maria mà thôi, một cách hoàn toàn và trọn vẹn, bởi vì Mẹ đại diện cho Giáo Hội, đối với Mẹ ơn được cứu độ sau cùng không còn chỉ là một lời hứa nữa, nhưng là một thực tại.“(6)
2. Chiều kích đại kết trong việc tôn sùng Mẹ Maria
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhìn thấy trong tinh thần đại kết của các Thánh chiều kích đại kết đầy thuyết phục nhất. Bởi vì, theo ngài, chính cộng đoàn hoàn toàn hiệp nhất của các Thánh, hay mầu nhiệm các Thánh thông công, là cả một tiếng nói còn hùng hồn và đầy xác quyết về sự hiệp nhất cần thiết giữa các Kitô hữu hơn những kẻ đã gây nên những cuộc ly khai và chia rẽ(7). Trong Thông điệp về đại kết của ngài „Ut unum sint“ - Để chúng nên một (1995), Đức Gioan Phaolô II đã khẩn cấp cho thấy rằng cộng đồng chưa trọn vẹn của các Giáo Hội và của các cộng đoàn các tín hữu được đặt nền tảng chắc chắn một cách vô hình „trên cộng đồng trọn vẹn của các Thánh, nghĩa là của những người đã luôn sống một cuộc sống trung thành với ân sủng trong sự kết hiệp mật thiết với Đức Kitô hiển vinh“(8).
Cả các Giám Mục và các nhà thần học thuộc các Giáo Hội và các cộng đoàn Kitô giáo khác cũng đã nhận thức được tầm quan trọng to lớn của các Thánh và của việc tôn sùng các Thánh trong những bước tiến của công cuộc đại kết. Cuộc đối thoại chân thành và cởi mở song phương giữa các đại diện Hội Đồng các Giám Mục Đức và các đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther Thống Nhất ở Đức vào năm 2000 đã mang đến một kết quả quan trọng ngoài sự mong đợi của mọi người, đó là tập tài liệu: „Communio Sanctorum – Die Kirche als Gemeinschaft der Heiligen: Các Thánh Thông Công – Giáo Hội là cộng đoàn của các Thánh“ (9). Một phần trong tập tài liệu quan trọng này (số: 253-268) được dành để đề cập tới sự tôn sùng Mẹ Maria với tựa đề: „Die Verehrung Maria, der Mutter des Herrn“ - Sự tôn sùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, tập tài liệu nói trên của hai Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành Lu-the-rô ở Đức cũng không quên cho rằng, đối với các tín hữu Tin Lành, không chỉ sự tôn sùng Đức Maria, nhưng kể cả sự phát triển các giáo huấn về Đức Maria của Giáo Hội Công Giáo „đã và đang đặt thành nghi vấn“ (số 257). Nhưng nhất là việc công bố tín điều về Đức Maria: „Sự Vô Nhiễm Thai“ (1854) và tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“ (1950) đã gây nên những thách đố đối với phía Tin Lành. Theo quan điểm của phía anh em Tin Lành thì hai tín điều ấy không hề được đề cập tới một cách rõ ràng trong Kinh Thánh. Mãi cho tới quá khứ gần đây nhất, người ta vẫn luôn cho rằng hai tín điều Vô Niễm Thai và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời đã gây nên một sự mâu thuẫn bất khả vượt qua được giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tin Lành, đến nỗi mãi tới nay khoa Thánh Mẫu học và sự tôn sùng Mẹ Maria ít khi trở thành đối tượng của những cuộc đối thoại đại kết. Thế nhưng trong những năm vừa qua cục diện của vấn đề đã hoàn toàn thay đổi.
Đối với quan điểm người Công Giáo, những tín điều về Đức Mẹ được công bố vào các thế kỷ XIX và XX là kết quả của những tìm hiểu và suy tư trong suốt hằng bao thế kỷ của Giáo Hội. Những tín điều ấy đã giải đáp cho vấn nạn: Thiên Chúa đã tác động thế nào trong cuộc sống Mẹ Maria, Đấng mà Người đã kén chọn một cách hoàn toàn đặc biệt để làm Mẹ Con Một Người? Tín điều „Vô Nhiễm Thai“ của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, được đặt cơ sở trên sự nhận thức đầy tin tưởng về sự trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho tất cả mọi sự trở nên thiện hảo nơi những người, mà theo sự an bài từ đời đời của Người, Người đã kêu gọi (Rm 8,28). Tín điều khẳng định rằng ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, Mẹ Maria đã được gìn giữ khỏi vết nhơ của tội Nguyên tổ, một tội mà tất cả mọi con cái loài người đều bị lây nhiễm.
Dĩ nhiên, việc Mẹ Maria được gìn giữ khỏi tội Nguyên tổ như thế ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ được thụ thai trong lòng mẹ mình, nói cách khác, việc Mẹ Maria được hưởng ơn tiền cứu độ mà Chúa Cứu Thế, Con Mẹ, sẽ mang đến cho nhân loại bằng cuộc khổ nạn thập giá của Người sau này, thì hoàn toàn là do ân sủng và tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha ban cho Mẹ, chứ không phải là do công trạng riêng của Mẹ. Thật vậy, cũng như tất cả mọi con cái loài người khác, Mẹ Maria cũng chỉ là một thụ tạo, và vì thế Mẹ cũng cần đến ân sủng của Chúa qua sự trung gian của Đức Kitô, Đấng là nhịp cầu duy nhất nối kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa Cha và con cái loài người. Do đó, „ngoài Đức Kitô không có sự cứu rỗi“ (thánh I-rê-nê), hay như chính Đức Giê-su đã khẳng định: „không có Thầy, các con không thể làm được gì cả“ (Ga 15,5).
Vậy, Mẹ Maria được cứu rỗi là nhờ ơn công chính hóa của Thiên Chúa ban cho Mẹ qua Đức Kitô. Mẹ Maria „được đầy ơn phúc“ (Lc 1,28) và hoàn toàn được gìn giữ khỏi mọi tội lỗi, tội nguyên tổ cũng như các tội riêng, là do Mẹ được kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su Kitô một cách đặc biệt, một sự kết hiệp mà không một ai trong con cái loài người có được. Bởi vì:
• Mẹ là Mẹ Đức Kitô,
• Mẹ đã cưu mang Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa trong cung lòng đồng trinh của Mẹ,
• Mẹ đã yêu mến và tin tưởng Con Mẹ hơn bất cứ ai khác,
• Mẹ là Đấng cộng tác hoàn toàn vào chương trình cứu độ của Chúa Cứu Thế hơn bất cứ ai khác,
• Vâng, Mẹ là Đấng Đồng Công đúng nghĩa và trọn vẹn trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Tất cả những điều ấy cũng muốn nói lên chân lý đức tin này: Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên tội ngay từ giây phút đầu tiên khi được thụ thai trong lòng mẹ, là duy nhất nhờ vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô qua cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá, trong khi các Kitô hữu khác chỉ được khỏi tội Nguyên tổ qua Bí tích Rửa tội.
Nhưng mục đích tiên quyết mà tín điều „Vô Nhiễm Thai“ của Mẹ Maria là nhằm đề cao và làm nổi bật quyền năng vô biên của ân sủng Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn tự do muốn kêu gọi ai và kêu gọi bằng cách thức nào là tùy thánh ý của Người quyết định.
Và tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“ cũng được bắt nguồn từ trong lời Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma, như sau: „Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.“ (Rm 8,30). Nói cách khác, nếu một khi Thiên Chúa muốn tuyển chọn và ban ân sủng cho một ai đó, và nếu người ấy biết đầy lòng tin tưởng phó thác đón nhận ân sủng của Người cũng như nỗ lực sống theo ân sủng ấy, thì Thiên Chúa sẽ ban tặng cho toàn diện thực thể của người ấy, tức cả hồn lẫn xác, ơn được diễm phúc thông hiệp trọn vẹn với Người. Điều mà chúng ta hằng tuyên tín trong câu cuối cùng của Kinh Tin Kính: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau“, là niềm hy vọng của tất cả mọi tín hữu và đồng thời đó cũng là điều mà tín điều „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“, được tuyên bố năm 1950, muốn minh chứng một cách hùng hồn và cụ thể. Nhưng điều mà Mẹ Maria đã đạt tới được, còn tất cả chúng ta thì đang trên đường tìm kiếm và mong đợi, đó là: Sự sống lại từ cõi chết và cuộc sống vĩnh cửu, hoa quả thực tiễn của ơn thánh hóa của Thiên Chúa.
Nói tóm lại, hai tín điều về Mẹ Maria là „Vô Nhiễm Thai“ hay „Vô Nhiễm Nguyên Tội“ và „Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời“, được công bố trong các thế kỷ XIX và XX, mà các nhà thần học Tin Lành vốn coi như là những cản trở khó vượt qua trên con đường đại kết, thì trên thực tế chỉ nhằm phụng sự vinh quang Thiên Chúa như là mục đích tối hậu mà thôi. Các tín điều ấy chứa đựng một chiều kích hết sức sâu xa trong việc tán tụng và ca ngợi Thiên Chúa, nghĩa là các tín điều ấy nhằm ca tụng và cảm tạ các ơn lành của Thiên Chúa như là mục đích tối hậu. Nếu các anh em Tin Lành biết khám phá và hiểu rõ được nội dung chính yếu của các tín điều về Mẹ Maria một cách đúng đắn như thế, chắc chắn họ sẽ nhận thức được rằng trên nguyên tắc, hai tín điều này thực sự được bắt nguồn trong mặc khải(10).
Sự tôn sùng Mẹ Maria luôn cần phải được định hướng theo Đức Kitô, hay nói cách khác, sự tôn sùng Mẹ Maria luôn luôn phải nhằm tôn vinh Đức Kitô như là mục đích tối hậu. Dựa theo những hướng dẫn của ĐTC Phaolô VI trong Tông thư thời danh của ngài về sự tôn sùng Mẹ Maria „Marialis cultus“ (11), thì sự tôn sùng Mẹ Maria phải được đặt nền tảng trên Kinh Thánh, phải được thể hiện trong Phụng Vụ, một cách phù hợp với khoa nhân chủng học và tinh thần đại kết ngày nay. Để củng cố sự hiệp nhất trong đức tin, các anh em Tin Lành Lu-the-rô cần đánh giá cao sự nỗ lực của các tín hữu Công Giáo trong việc thiết đặt vai trò Mẹ Maria trong Kitô học và Giáo Hội học. Đối với quan điểm Công Giáo, Mẹ Maria là hiện thân cho sự kiện được thánh hóa nhờ vào ân sủng và qua đức tin. Cả hai tín điều cuối cùng về Mẹ Maria như vừa đề cập ở trên, đều muốn làm nổi bật chân lý này là: nếu Thiên Chúa tuyển chọn một người nào đó theo sự an bài của Người, tương tự như trường hợp Mẹ Maria, thì quan điểm Kitô giáo luôn cho rằng sự kêu gọi đó liên hệ đến con người toàn diện của người ấy. Và sự kêu gọi đó bắt đầu trong giây phút đầu tiên của cuộc đời người ấy và luôn đồng hành với người ấy mãi, chứ không bao giờ từ bỏ người ấy nữa.
________________
1. B. Schwens-Harrant, Rez. Von: P. Morsbach, Gottesdiener, Frankfurt a. M. 2004, in: Die Presse (Wien) vom 21.8.2004, S. VI.- H.B. Wuermeling (trong: Die Tagespost Nr. 106/04.09.2004, 13) gọi cuốn Tiểu thuyết này một „áng văn chương hay“ (literarische Wohltat) và cho rằng việc đọc cuốn Tiểu thuyết „có thể tránh cho Giáo Hội được nhiều tường thuật thiếu thuật lợi của công ty McKinsey“. McKinsey là một công ty tư vấn và chuyên nghiên cứu dư luận, v.v…
2. Karl Barth là một nhà thần học Tin Lành nổi tiếng, người Thụy Sĩ. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình một giáo sư thần học ở tỉnh Basel, nằm trên biên giới Thụy Sĩ-Đức. Cho đến năm 1909, ông theo học thần học lần lượt tại các đại học Bern, Berlin, Tübingen và Marburg. Năm 1911 ông thừa hành chức Mục sư tại một Xứ đạo ở Thụy Sĩ. Sau trận thế chiến I, ông đề xướng một khuynh hướng thần học quan trọng và mới mẽ trong nội bộ Giáo Hội Tin Lành: Thần học biện chứng.
3. Karl Barth, Kirchliche Dogmatik I, 2, 157.
4. L. Scheffczyk, Katholische Glaubenswelt. Wahrheit und Gestalt, Aschaffenburg 2. Aufl. 1978, trang 270-277, câu này ở trang 272; xin xem tiếp: Die Mariengestalt im Gefüge der Theologie. Mariologische Beiträge, Regensburg 2000; W. Beinert, Die mariologischen Dogmen und ihre Entfaltung, in: ders./H. Petri (Hg.), Handbuch der Marienkunde, Regensburg 2. Aufl. 1996, trang 267-363.
5. Joseph Ratzinger, Die Tochter Sion. Betrachtungen über den Marienglauben der Kirche. (Kriterien 44) Einsiedeln 1977, trang 61-83, câu này ở trang 70.
6. như trên, trang 80. Xin xem thêm HY Joseph Ratzinger/Hans-Urs von Balthasar, Maria – Kirche im Ursprung, Einsiedeln 4. Erw. Aufl. 1997; H.U. von Balthasar, Maria für heute. (Kriterien, 98), Einsiedeln, Neuausgabe 1997, trang 36-49.
7. xem Tông thư „Tertio millennio adveniente“, số 37.
8. Thông điệp „Ut unum sint“, số 84.
9. xem Bilaterale Arbeitsgruppe der Deutschen Bischofskonferenz und der Kirchenleitung der Vereinigten Evangelisch-Lutherischen Kirche Deutschlands: „Communio Sanctorum – Die Kirche als Gemeinschaft der heiligen“, Paderborn-Frankfurt a.M. 2000.
10. H. Schmoll (Đúng như Luther đã mong muốn. Sự đánh giá của phân khoa thuộc đại học Erlagen và Tübingen về tập tài liệu „Communio Sanctorum“, trích trong nhật báo „Frankfurt allgemeine Zeitung“, số 86, ra ngày 13.4.2002, trang 12) trái lại cho rằng công trình nghiên cứu song phương giữa đại diện Công Giáo và Tin Lành chỉ muốn „làm cho người Tin Lành cảm nhận được sự thú vị trong việc tôn sùng các Thánh của người Công Giáo, không hơn không kém.“ Các giáo sư thuộc phân khoa thần học Tin Lành của đại học Tübingen đã xác định sự đánh giá của họ về tập tài liệu „Communio Sanctorum“ như sau: việc cho rằng, dựa theo nguyên tắc, hai tín điều về Đức Maria trong thời tân đại hoàn toàn phù hợp với mặc khải, là một điều không thể chấp nhận được.
11. Paul VI, Marialis cultus, 1974, Nr. 29-39.
(Còn tiếp)
Cộng Sản và Nho Giáo
Vũ Văn An
16:59 15/12/2010
Tại Trung Hoa, với Cách Mạng Văn Hóa, người ta tưởng Cộng Sản và Nho Giáo không bao giờ đội trời chung. Nhưng rồi với những cuốn sách hồng và Vệ Binh Đỏ trải ra khắp xứ sở mênh mông mà vẫn không những không diệt được hình ảnh Đức Khổng Tử trong lòng dân chúng Trung Hoa, mà chính những cuốn sách hồng và Vệ Binh Đỏ kia cũng đã lui vào lịch sử. Thậm chí chính họ Mao và sự nghiệp tư duy vĩ đại của ông ta cũng đang được nhân dân Trung Hoa “rất hứng khởi” cho vào sọt rác lịch sử. Người kế vị ông không những đi hốt đôla lẻ của “phe tư bản” để làm giầu cho khối dân gần một tỉ rưỡi người mà còn đang toan tính phục hồi lại tư tưởng Đức Khổng làm một bàn đạp nâng mảnh đất ông từng có công “giải phóng” lên hàng lãnh tụ thế giới không những về kinh tế mà cả về tư tưởng nữa.
Có người còn đi xa hơn và cho rằng Cộng Sản Trung Hoa chưa bao giờ thực sự quên Đức Thánh Khổng. Vị Thánh này vốn chủ trương rằng nhà nước biết điều gì tốt nhất cho dân và điều tốt nhất ấy chính là nhân nghĩa lễ trí tín. Trong năm điều ấy, lễ giữ một vai trò quan yếu trong đời sống xã hội và chính trị. Mà lễ trong xã hội là để duy trì tôn ti trật tự. Không có tôn ti trật tự xã hội sẽ loạn. Người Trung Hoa vì thế luôn nhấn mạnh đến việc tạo ra và duy trì tôn ti trật tự trong xã hội. Trong gia đình thì nhất phụ nhì huynh. Ngoài xã hội thì nhất vua nhì thầy. Về nghề nghiệp thì nhất sĩ nhì nông tam công tứ (thương) mãi… Trong Luận Ngữ, Đức Khổng dạy: đặt người vào đúng chỗ của họ… họ sẽ có tôn ti trật tự và sống hoà hợp. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta phải giữ lễ dành cho địa vị của họ, từ việc phải ăn mặc ra sao, mầu sắc gì đến kích thước và hình thức xây nhà, chôn cất ra sao. Mầu vàng dành cho vua. Nhiều triều đại cho chém đầu bất cứ người dân nào dám mặc mầu này. Rồng cũng thế, là biểu hiệu của nhà vua, không ai được phép dùng biểu hiệu này. Ngoại trừ Khổng Tử. Đền của ngài tại Qufu, Shandong cao hơn một lầu so với đền vua ở Tử Cấm Thành. Chín cột đá của Đền được khắc hình rồng. Sở dĩ được làm như thế, vì Trời và Không Tử là hai “Đấng” mà hoàng đế, vốn là Con Trời, phải tôn kính.
Cái óc tôn ti trật tự ấy vốn ngự trị trong đầu óc các nhà lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa ở Trung Nam Hải: kích thước nhà ở dành cho các viên chức được ấn định tùy theo cấp bậc. Viên chức cấp bộ và cấp tỉnh được 200 thước vuông; viên chức cấp quận: 140 thước vuông. Viên chức cấp bộ được cấp công xa hiệu Audi 2.0 hay tương đương. Và chỉ họ mới được vé máy bay hạng nhất. Ngoài ra, còn có cả qui định ai được ăn bao nhiêu món trong các bữa tiệc khoản đãi chung! Thành thử, dù có thừa nhận hay không, xã hội Trung Hoa chủ yếu vẫn là một xã hội có phẩm trật. Quan niệm lễ của Khổng Tử, trong yếu tính chứ không hẳn trong hình thức của nó, vẫn được người Cộng Sản Trung Hoa sử dụng để duy trì trật tự Xã Hội.
Ngày nay, với việc mở cửa, đã có nhiều thay đổi. Chính quyền tỉnh Shanxi mô phỏng Thiên An Môn của Bắc Kinh cho tòa hành chính của mình. Nhiều viên chức địa phương có những căn hộ lớn hơn cấp bậc của mình nhiều và công xa của họ le lói hơn cả công xa của bộ trưởng tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, thẩm sâu trong ý thức, triết lý tôn ti trật tự của chữ lễ Khổng Tử vẫn chưa mất hẳn. Mới đây xẩy ra một tin thời sự làm xôn xao dư luận cả nước: Số là ông Wang Chunqiu, chủ tịch Đại Học Khoa Học và Kỹ Thuật của tỉnh Shandong đi thanh tra lớp huấn luyện quân sự cho các sinh viên năm đầu của Trường này. Ông vận bộ “complet” theo kiểu Tây Phương, tay mang găng trắng và được sĩ quan quân đội mặc đồng phục tháp tùng, đứng trên xe jeep mầu xanh của quân đội mang bảng số Yuebin (duyệt binh) – 001, vẫy tay phải chào mừng các sinh viên đang xếp hàng trên vận động trường. Cung cách và trang phục của ông giống hệt cựu chủ tịch Trung Hoa Jiang Zemin khi ông này thanh tra Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng tại Thiên An Môn năm 1984, trong tư cách chủ tịch Quân Ủy Trung Ương. Hình ảnh này, khi đăng tải trên liên mạng, đã gây phẫn nộ cả nước, dù việc này được Wang giải thích là để “nâng cao tinh thần cho các sinh viên”.
Người ta cũng còn nhớ vụ Li Xingmin, thành ủy Bozhu, để mừng ngày ông nhậm chức, đã tổ chức một cuộc diễn binh tốn tới 2 triệu nhân dân tệ, “vượt quá thẩm quyền” mình và do đó bị kết án và bỏ tù. Ông Wang thì chưa bị hình phạt nào.
Chấn chỉnh
Sau ba, bốn thập niên cải tổ và mở cửa, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa đã biến chủ nghĩa xã hội kiểu Staline do Mao xây dựng thành một chủ nghĩa tư bản “với đặc điểm Trung Quốc”. Các ý niệm chính thống của Cộng Sản, vì thế, đang bị rẫy bỏ, gây ra cả một khoảng trống ý thức hệ được các nhà xã hội học Trung Hoa coi như nguồn gốc chính tạo nên tình thế mơ hồ về luân lý tại lục địa Trung Hoa hiện nay. Đang có nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà chức trách Trung Hoa đang cố gắng phục hồi tư tưởng cổ truyền để lấp đầy khoảng trống kia. Bước đầu, chính là chính sách “Tám Điều Danh Dự và Tám Điều Xấu Hổ” được chủ tịch Hu Jintao trình bày tại Đại Hội Đảng lần thứ 17.
Daniel A. Bell, giáo sư môn triết lý chính trị tại Đại Học Tsinghua ở Bắc Kinh trong bài “Từ Chủ Nghĩa Cộng Sản tới Chủ Nghĩa Khổng Tử: Phương Thức Trung Hoa Cho Một Nền Dân Chủ Tự Do” nói rõ hơn, cho rằng Trung Hoa đã thay đổi hẳn thái độ đối với Khổng Tử. Trái với Mao trước đây từng tuyên bố sẽ triệt phá đền của Đức Khổng ở Qufu, chính phủ Trung Hoa mới đây cho phép dàn dựng một cuốn phim về Đức Khổng với Chow Yun-Fat thủ vai chính. Trong phim này, Đức Khổng được mô tả là một tư lệnh quân sự mưu lược và là một bậc thầy về các giá trị nhân ái và tiến bộ.
Mọi người hẳn cũng nhớ: tại Thế Vận Hội Bắc Kinh năm 2008, nhiều thể tài của Đức Khổng đã được nhấn mạnh, nhiều trích dẫn từ Luận Ngữ đã được sử dụng trong lễ khai mạc, và người ta tránh nhắc tới chủ nghĩa Cộng Sản. Các cán bộ tại một trường huấn luyện của Đảng ở Thượng Hải rất hãnh diện khoe với du khách rằng tòa nhà chính mô phỏng theo chiếc bàn của nhà học giả Nho Giáo. Tại ngoại quốc, chính phủ đã tượng trưng đề cao Khổng Giáo qua các chi nhánh của Viện Khổng Tử, các trung tâm văn hóa Trung Hoa tương tự như Alliance Française.
Mặt khác, càng ngày, người ta càng ngày càng nhấn mạnh hơn tới một nền cai trị dựa vào công trạng (meritocratic) và đề cao vai trò của các nhà chuyên môn, một triết lý căn bản vốn được nền chính trị Khổng Tử truyền dạy.
Vả lại, việc phục hồi Khổng Giáo không hẳn là sáng kiến của chính phủ. Đúng hơn, chính phủ chỉ họa theo phong trào từ bên ngoài. Trong các giới học thuật và trong xã hội dân sự nói chung, đang có sự quan tâm tới Khổng Giáo. Hàng ngàn cuộc thử nghiệm giáo dục khắp nước đang cổ vũ việc giảng dạy các sách cổ điển của Khổng Tử cho trẻ em. Các nhà tư tưởng Khổng Giáo còn mạnh dạn đưa ra đề nghị thay đổi hiến pháp nhằm nhân bản hóa hệ thống chính trị của Trung Hoa.
Trong mấy thập niên qua, các nhà trí thức Khổng Giáo đang đưa ra nhiều đề nghị chính trị nhằm phối hợp các ý niệm dân chủ của Tây Phương với các ý niệm cai trị dựa trên công trạng của Khổng Tử. Thay vì đặt các giá trị cũng như các định chế của Khổng Giáo dưới nền dân chủ (theo nghĩa bầu cử), họ chú trọng đến việc phân chia lao động, nhấn mạnh tới dân chủ ở một số phạm vi và ở một số phạm vi khác, họ thích nền cai trị dựa vào công trạng nhiều hơn. Nếu là tranh chấp đất đai tại vùng quê, nông dân sẽ có nhiều tiếng nói hơn. Nhưng nếu là tranh chấp về lương bổng và an toàn, công nhân sẽ có nhiều tiếng nói hơn. Trên thực tế, điều ấy có nghĩa sẽ có nhiều tự do ngôn luận và hiệp hội hơn và sẽ có nhiều đại biểu nông dân và công nhân hơn tại các viện dân chủ.
Còn các vấn đề như chính sách ngoại giao và bảo vệ môi trường, thì các vấn đề này ảnh hưởng đến quyền lợi của cả những người không đầu phiếu, và họ cũng cần có đại biểu. Chính trong các phạm vi này, các nhà tư tưởng Khổng Giáo đã đưa ra hình thức đại biểu dựa vào công trạng, nhằm dùng các cuộc khảo hạch tự do và có tính đua tranh để đề cử đại biểu chứ không dựa vào các cuộc bầu cử dân chủ. Đã đành những cuộc khảo hạch này khó mà chọn lựa được các đại biểu có đức hạnh Khổng Giáo nhưng rõ ràng các đại biểu chọn theo lối này có tầm nhìn xa rộng hơn các đại biểu được bầu cử.
Người ta có lý do để tin như vậy. Dựa vào nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng có tính thực nghiệm, Bryan Caplan đã viết ra cuốn “The Myth of the Rational Voter: Why Democracies Choose Bad Policies” (Huyền Thoại Cử Tri Thuận Lý: Tại Sao Các Nền Dân Chủ Chọn Các Chính Sách Tồi Tệ) để minh chứng rằng cử tri đôi khi rất phi lý và đề nghị nên có những cuộc khảo sát về năng lực của cử tri để sửa sai. Các cuộc khảo hạch nói ở đây sẽ sét tới chính sách kinh tế nền tảng nhưng không được quên các kiến thức đối với các sách cổ điển của Khổng Giáo.
Ý thức hệ Cộng Sản và Khổng Giáo
Trở lại buổi đầu của chủ nghĩa Cộng Sản trên đất Trung Hoa. Nó mới chỉ có trên đất nước này chưa được một trăm năm, trong khi tư tưởng Khổng Tử đã ngự trị ở đó hơn 2,500 năm nay. Dù có những dị biệt giữa hai hệ thống tư tưởng này, có người cho rằng sở dĩ chủ nghĩa Cộng Sản thành công một cách dễ dàng tại Trung Hoa vì giữa nó và Khổng Giáo vốn có nhiều điểm tương tự và do đó, dễ được người dân chấp nhận.
Trước nhất, Khổng Tử dạy rằng mọi người đều bình đẳng, nhưng sự bình đẳng này không đồng nghĩa với sự bình đẳng theo quan niệm Tây Phương, là quan niệm coi mọi người sinh ra đều có những quyền lợi như nhau trong tư cách con người, và do đó, đều có quyền hưởng các đặc quyền và cơ hội như nhau. Đối với Khổng Tử, bình đẳng được “phát biểu qua tính bổ túc và hoà hợp”. Khổng Tử tin rằng có một con đường luân lý khách quan (một cái Đạo) nội tại ngay trong bản chất sự vật. Điều ấy phải được coi là tiêu chuẩn cho tác phong con người. Sự dị biệt giữa con người với nhau là điều cần thiết để duy trì trật tự xã hội (tôn ti trật tự)… Xem ra Khổng Tử muốn nói tới một thứ Đạo tiềm ẩn trong chính con người, nhưng thực ra ngài không lưu ý tới tôn giáo, tới thần phật, ngài chỉ quan tâm tới tác phong đạo đức của người ta và dạy họ chung sống hòa hợp. Một trong các nguyên tắc nền tảng của Khổng Giáo là: bản tính con người vốn tốt từ căn bản và được hoàn thiện hóa nhờ đạo đức. Nguyên tắc khác cho rằng tu thân là việc tùy thuộc bản thân và cá nhân. Trái lại, người Cộng Sản thì cho rằng cải thiện là một cố gắng tập thể, phải được cả cộng đồng tham gia.
Và vì thế một điểm dị biệt quan trọng giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Cộng Sản là ý niệm phải cai trị dân chúng ra sao. Đối với Khổng Tử, pháp trị không phải là cách thích hợp để cai trị dân. Ngài thích lễ nghĩa khiến dân tôn kính. Ngài bảo: Nếu anh lãnh đạo dân bằng luật lệ và dùng hình phạt mà ra lệnh cho họ, họ sẽ trốn tránh các biện pháp ấy mà không hề xấu hổ. Nhưng nếu bạn lãnh đạo bằng đức hạnh và dùng lễ mà ra lệnh cho họ, họ sẽ xấu hổ và tự sửa mình. Còn với người Cộng Sản, ai cũng rõ họ thích dùng những luật lệ khắt khe để khống chế dân.
Ấy thế nhưng, đến đầu thập niên 1940, người Cộng Sản Trung Quốc bỗng nhận ra chính sách loại trừ các đảng viên cao cấp bị nghi có hành vi xấu xa không hữu hiệu. Vì như thế sẽ dần dần mất hết đảng viên. Họ nghĩ tới chính sách “sửa sai” bằng cách bắt các đảng viên này “học tập” các văn kiện của Đảng và hồi tâm sét lại quá khứ của mình, một hình thức tu thân vốn được Đức Khổng nhấn mạnh. Nhưng rồi Bước Nhẩy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa xẩy tới như vũ bão với chính sách diệt trừ 4 điều cổ hủ: phong tục cổ hủ, thói quen cổ hủ, tư tưởng cổ hủ và văn hóa cổ hủ. Thực tế là nhằm loại bỏ Khổng Giáo. Kết cục ra sao, thì trên đây đã có nhắc tới. Khổng Giáo ngày nay hiển hiện trong lối sống của người dân Trung Hoa khắp nơi. Đơn vị gia đình mạnh hơn bao giờ hết. Các giá trị của Khổng Giáo có tính co giãn hơn người ta tưởng và do đó đã vượt được mọi thử thách của lịch sử khắt khe để sống mãi với người Dân Trung Hoa. Không gì rõ rệt bằng biến cố Thiên An Môn năm 1993.
Trailokya Raj Aryal trong bài “Khổng Giáo Và Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Trung Hoa” quả quyết: Đảng Cộng Sản Trung Hoa ngày nay không theo chủ nghĩa Mác, cũng như chủ nghĩa Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông nữa mà là học lý của Khổng Tử, một học lý vốn ảnh hưởng tới xã hội Trung Hoa hơn hai thiên niên kỷ nay.
Ông cũng nhấn mạnh tới khía cạnh: biến cố Thiên An Môn không đòi chính phủ dân chủ hóa theo Tây Phương. Trái lại, sự can thiệp của Tây Phương vào biến cố này đã bị chỉ trích rất nặng nề. Và phản ứng này đã phát sinh ra chủ nghĩa quốc gia Trung Hoa. Những cuốn sách như Một Trung Hoa Có Thể Nói Không và sau đó Một Trung Hoa Vẫn Có Thể Nói Không kêu gọi toàn dân chống lại sự can thiệp của ngoại quốc, rất được tán thưởng. Nhiều ấn phẩm khác kêu gọi nhân dân Trung Hoa, hậu duệ của “Hoàng Đế”, một vị hoàng đế theo dã sử, hãy đoàn kết lại chống chính sách bắt nạt Trung Hoa của ngoại quốc. Chủ nghĩa quốc gia thực sự đã thay thế chủ nghĩa Cộng Sản. Khổng Giáo vì thế càng được chú trọng. Xét cho cùng, với việc nhấn mạnh tới tôn ti trật tự, tới bổn phận và trách nhiệm của một “tôn giáo” bản địa, người Cộng Sản Trung Hoa thấy nơi Khổng Giáo phương thức tốt nhất để vừa chứng tỏ thế mạnh cho người bên ngoài vừa cho người dân thấy mình tôn trọng truyền thống cha ông.
Một trong những cái lợi của giáo huấn Khổng Giáo là ai làm việc nấy, vua hãy làm vua, quan hãy làm quan, cha hãy làm cha, con hãy làm con. Điều này khiến người dân Trung Hoa bình thường chỉ biết chăm lo việc của mình, không bận tâm tới việc chính phủ bao lâu chính phủ không pha vào việc của mình. Nhờ thế, mà chính phủ khỏi bận tâm huy động cả một bộ máy công an khổng lồ nhằm theo dõi mọi thành phần công dân của mình như trước. Không giống thời Mao, ngày nay người dân được tự do nói tới các vấn nạn xẩy ra trong xã hội. Tuy nhiên họ vẫn chưa “được phép” đưa ra giải pháp vì đây là “việc của nhà nước”.
Theo Aryal, tương lai không biết ra sao, nhưng chắc một điều Trung Hoa sẽ tiến tới một văn minh chính trị khác với Tây Phương, một nền văn minh phối hợp truyền thống Khổng Giáo với ý thức hệ thị trường tự do và pháp trị, mà có người gọi là một nền dân chủ theo Khổng Giáo, mặc dù Khổng Giáo mang một mầm nguy hại cho chủ nghĩa Cộng Sản qua triết lý thiên mệnh, dành quyền lật đổ “bạo chúa” trong tay người khác không phải là Cộng Sản.
Có người còn đi xa hơn và cho rằng Cộng Sản Trung Hoa chưa bao giờ thực sự quên Đức Thánh Khổng. Vị Thánh này vốn chủ trương rằng nhà nước biết điều gì tốt nhất cho dân và điều tốt nhất ấy chính là nhân nghĩa lễ trí tín. Trong năm điều ấy, lễ giữ một vai trò quan yếu trong đời sống xã hội và chính trị. Mà lễ trong xã hội là để duy trì tôn ti trật tự. Không có tôn ti trật tự xã hội sẽ loạn. Người Trung Hoa vì thế luôn nhấn mạnh đến việc tạo ra và duy trì tôn ti trật tự trong xã hội. Trong gia đình thì nhất phụ nhì huynh. Ngoài xã hội thì nhất vua nhì thầy. Về nghề nghiệp thì nhất sĩ nhì nông tam công tứ (thương) mãi… Trong Luận Ngữ, Đức Khổng dạy: đặt người vào đúng chỗ của họ… họ sẽ có tôn ti trật tự và sống hoà hợp. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta phải giữ lễ dành cho địa vị của họ, từ việc phải ăn mặc ra sao, mầu sắc gì đến kích thước và hình thức xây nhà, chôn cất ra sao. Mầu vàng dành cho vua. Nhiều triều đại cho chém đầu bất cứ người dân nào dám mặc mầu này. Rồng cũng thế, là biểu hiệu của nhà vua, không ai được phép dùng biểu hiệu này. Ngoại trừ Khổng Tử. Đền của ngài tại Qufu, Shandong cao hơn một lầu so với đền vua ở Tử Cấm Thành. Chín cột đá của Đền được khắc hình rồng. Sở dĩ được làm như thế, vì Trời và Không Tử là hai “Đấng” mà hoàng đế, vốn là Con Trời, phải tôn kính.
Cái óc tôn ti trật tự ấy vốn ngự trị trong đầu óc các nhà lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa ở Trung Nam Hải: kích thước nhà ở dành cho các viên chức được ấn định tùy theo cấp bậc. Viên chức cấp bộ và cấp tỉnh được 200 thước vuông; viên chức cấp quận: 140 thước vuông. Viên chức cấp bộ được cấp công xa hiệu Audi 2.0 hay tương đương. Và chỉ họ mới được vé máy bay hạng nhất. Ngoài ra, còn có cả qui định ai được ăn bao nhiêu món trong các bữa tiệc khoản đãi chung! Thành thử, dù có thừa nhận hay không, xã hội Trung Hoa chủ yếu vẫn là một xã hội có phẩm trật. Quan niệm lễ của Khổng Tử, trong yếu tính chứ không hẳn trong hình thức của nó, vẫn được người Cộng Sản Trung Hoa sử dụng để duy trì trật tự Xã Hội.
Ngày nay, với việc mở cửa, đã có nhiều thay đổi. Chính quyền tỉnh Shanxi mô phỏng Thiên An Môn của Bắc Kinh cho tòa hành chính của mình. Nhiều viên chức địa phương có những căn hộ lớn hơn cấp bậc của mình nhiều và công xa của họ le lói hơn cả công xa của bộ trưởng tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, thẩm sâu trong ý thức, triết lý tôn ti trật tự của chữ lễ Khổng Tử vẫn chưa mất hẳn. Mới đây xẩy ra một tin thời sự làm xôn xao dư luận cả nước: Số là ông Wang Chunqiu, chủ tịch Đại Học Khoa Học và Kỹ Thuật của tỉnh Shandong đi thanh tra lớp huấn luyện quân sự cho các sinh viên năm đầu của Trường này. Ông vận bộ “complet” theo kiểu Tây Phương, tay mang găng trắng và được sĩ quan quân đội mặc đồng phục tháp tùng, đứng trên xe jeep mầu xanh của quân đội mang bảng số Yuebin (duyệt binh) – 001, vẫy tay phải chào mừng các sinh viên đang xếp hàng trên vận động trường. Cung cách và trang phục của ông giống hệt cựu chủ tịch Trung Hoa Jiang Zemin khi ông này thanh tra Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng tại Thiên An Môn năm 1984, trong tư cách chủ tịch Quân Ủy Trung Ương. Hình ảnh này, khi đăng tải trên liên mạng, đã gây phẫn nộ cả nước, dù việc này được Wang giải thích là để “nâng cao tinh thần cho các sinh viên”.
Người ta cũng còn nhớ vụ Li Xingmin, thành ủy Bozhu, để mừng ngày ông nhậm chức, đã tổ chức một cuộc diễn binh tốn tới 2 triệu nhân dân tệ, “vượt quá thẩm quyền” mình và do đó bị kết án và bỏ tù. Ông Wang thì chưa bị hình phạt nào.
Chấn chỉnh
Sau ba, bốn thập niên cải tổ và mở cửa, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa đã biến chủ nghĩa xã hội kiểu Staline do Mao xây dựng thành một chủ nghĩa tư bản “với đặc điểm Trung Quốc”. Các ý niệm chính thống của Cộng Sản, vì thế, đang bị rẫy bỏ, gây ra cả một khoảng trống ý thức hệ được các nhà xã hội học Trung Hoa coi như nguồn gốc chính tạo nên tình thế mơ hồ về luân lý tại lục địa Trung Hoa hiện nay. Đang có nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà chức trách Trung Hoa đang cố gắng phục hồi tư tưởng cổ truyền để lấp đầy khoảng trống kia. Bước đầu, chính là chính sách “Tám Điều Danh Dự và Tám Điều Xấu Hổ” được chủ tịch Hu Jintao trình bày tại Đại Hội Đảng lần thứ 17.
Daniel A. Bell, giáo sư môn triết lý chính trị tại Đại Học Tsinghua ở Bắc Kinh trong bài “Từ Chủ Nghĩa Cộng Sản tới Chủ Nghĩa Khổng Tử: Phương Thức Trung Hoa Cho Một Nền Dân Chủ Tự Do” nói rõ hơn, cho rằng Trung Hoa đã thay đổi hẳn thái độ đối với Khổng Tử. Trái với Mao trước đây từng tuyên bố sẽ triệt phá đền của Đức Khổng ở Qufu, chính phủ Trung Hoa mới đây cho phép dàn dựng một cuốn phim về Đức Khổng với Chow Yun-Fat thủ vai chính. Trong phim này, Đức Khổng được mô tả là một tư lệnh quân sự mưu lược và là một bậc thầy về các giá trị nhân ái và tiến bộ.
Mọi người hẳn cũng nhớ: tại Thế Vận Hội Bắc Kinh năm 2008, nhiều thể tài của Đức Khổng đã được nhấn mạnh, nhiều trích dẫn từ Luận Ngữ đã được sử dụng trong lễ khai mạc, và người ta tránh nhắc tới chủ nghĩa Cộng Sản. Các cán bộ tại một trường huấn luyện của Đảng ở Thượng Hải rất hãnh diện khoe với du khách rằng tòa nhà chính mô phỏng theo chiếc bàn của nhà học giả Nho Giáo. Tại ngoại quốc, chính phủ đã tượng trưng đề cao Khổng Giáo qua các chi nhánh của Viện Khổng Tử, các trung tâm văn hóa Trung Hoa tương tự như Alliance Française.
Mặt khác, càng ngày, người ta càng ngày càng nhấn mạnh hơn tới một nền cai trị dựa vào công trạng (meritocratic) và đề cao vai trò của các nhà chuyên môn, một triết lý căn bản vốn được nền chính trị Khổng Tử truyền dạy.
Vả lại, việc phục hồi Khổng Giáo không hẳn là sáng kiến của chính phủ. Đúng hơn, chính phủ chỉ họa theo phong trào từ bên ngoài. Trong các giới học thuật và trong xã hội dân sự nói chung, đang có sự quan tâm tới Khổng Giáo. Hàng ngàn cuộc thử nghiệm giáo dục khắp nước đang cổ vũ việc giảng dạy các sách cổ điển của Khổng Tử cho trẻ em. Các nhà tư tưởng Khổng Giáo còn mạnh dạn đưa ra đề nghị thay đổi hiến pháp nhằm nhân bản hóa hệ thống chính trị của Trung Hoa.
Trong mấy thập niên qua, các nhà trí thức Khổng Giáo đang đưa ra nhiều đề nghị chính trị nhằm phối hợp các ý niệm dân chủ của Tây Phương với các ý niệm cai trị dựa trên công trạng của Khổng Tử. Thay vì đặt các giá trị cũng như các định chế của Khổng Giáo dưới nền dân chủ (theo nghĩa bầu cử), họ chú trọng đến việc phân chia lao động, nhấn mạnh tới dân chủ ở một số phạm vi và ở một số phạm vi khác, họ thích nền cai trị dựa vào công trạng nhiều hơn. Nếu là tranh chấp đất đai tại vùng quê, nông dân sẽ có nhiều tiếng nói hơn. Nhưng nếu là tranh chấp về lương bổng và an toàn, công nhân sẽ có nhiều tiếng nói hơn. Trên thực tế, điều ấy có nghĩa sẽ có nhiều tự do ngôn luận và hiệp hội hơn và sẽ có nhiều đại biểu nông dân và công nhân hơn tại các viện dân chủ.
Còn các vấn đề như chính sách ngoại giao và bảo vệ môi trường, thì các vấn đề này ảnh hưởng đến quyền lợi của cả những người không đầu phiếu, và họ cũng cần có đại biểu. Chính trong các phạm vi này, các nhà tư tưởng Khổng Giáo đã đưa ra hình thức đại biểu dựa vào công trạng, nhằm dùng các cuộc khảo hạch tự do và có tính đua tranh để đề cử đại biểu chứ không dựa vào các cuộc bầu cử dân chủ. Đã đành những cuộc khảo hạch này khó mà chọn lựa được các đại biểu có đức hạnh Khổng Giáo nhưng rõ ràng các đại biểu chọn theo lối này có tầm nhìn xa rộng hơn các đại biểu được bầu cử.
Người ta có lý do để tin như vậy. Dựa vào nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng có tính thực nghiệm, Bryan Caplan đã viết ra cuốn “The Myth of the Rational Voter: Why Democracies Choose Bad Policies” (Huyền Thoại Cử Tri Thuận Lý: Tại Sao Các Nền Dân Chủ Chọn Các Chính Sách Tồi Tệ) để minh chứng rằng cử tri đôi khi rất phi lý và đề nghị nên có những cuộc khảo sát về năng lực của cử tri để sửa sai. Các cuộc khảo hạch nói ở đây sẽ sét tới chính sách kinh tế nền tảng nhưng không được quên các kiến thức đối với các sách cổ điển của Khổng Giáo.
Ý thức hệ Cộng Sản và Khổng Giáo
Trở lại buổi đầu của chủ nghĩa Cộng Sản trên đất Trung Hoa. Nó mới chỉ có trên đất nước này chưa được một trăm năm, trong khi tư tưởng Khổng Tử đã ngự trị ở đó hơn 2,500 năm nay. Dù có những dị biệt giữa hai hệ thống tư tưởng này, có người cho rằng sở dĩ chủ nghĩa Cộng Sản thành công một cách dễ dàng tại Trung Hoa vì giữa nó và Khổng Giáo vốn có nhiều điểm tương tự và do đó, dễ được người dân chấp nhận.
Trước nhất, Khổng Tử dạy rằng mọi người đều bình đẳng, nhưng sự bình đẳng này không đồng nghĩa với sự bình đẳng theo quan niệm Tây Phương, là quan niệm coi mọi người sinh ra đều có những quyền lợi như nhau trong tư cách con người, và do đó, đều có quyền hưởng các đặc quyền và cơ hội như nhau. Đối với Khổng Tử, bình đẳng được “phát biểu qua tính bổ túc và hoà hợp”. Khổng Tử tin rằng có một con đường luân lý khách quan (một cái Đạo) nội tại ngay trong bản chất sự vật. Điều ấy phải được coi là tiêu chuẩn cho tác phong con người. Sự dị biệt giữa con người với nhau là điều cần thiết để duy trì trật tự xã hội (tôn ti trật tự)… Xem ra Khổng Tử muốn nói tới một thứ Đạo tiềm ẩn trong chính con người, nhưng thực ra ngài không lưu ý tới tôn giáo, tới thần phật, ngài chỉ quan tâm tới tác phong đạo đức của người ta và dạy họ chung sống hòa hợp. Một trong các nguyên tắc nền tảng của Khổng Giáo là: bản tính con người vốn tốt từ căn bản và được hoàn thiện hóa nhờ đạo đức. Nguyên tắc khác cho rằng tu thân là việc tùy thuộc bản thân và cá nhân. Trái lại, người Cộng Sản thì cho rằng cải thiện là một cố gắng tập thể, phải được cả cộng đồng tham gia.
Và vì thế một điểm dị biệt quan trọng giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Cộng Sản là ý niệm phải cai trị dân chúng ra sao. Đối với Khổng Tử, pháp trị không phải là cách thích hợp để cai trị dân. Ngài thích lễ nghĩa khiến dân tôn kính. Ngài bảo: Nếu anh lãnh đạo dân bằng luật lệ và dùng hình phạt mà ra lệnh cho họ, họ sẽ trốn tránh các biện pháp ấy mà không hề xấu hổ. Nhưng nếu bạn lãnh đạo bằng đức hạnh và dùng lễ mà ra lệnh cho họ, họ sẽ xấu hổ và tự sửa mình. Còn với người Cộng Sản, ai cũng rõ họ thích dùng những luật lệ khắt khe để khống chế dân.
Ấy thế nhưng, đến đầu thập niên 1940, người Cộng Sản Trung Quốc bỗng nhận ra chính sách loại trừ các đảng viên cao cấp bị nghi có hành vi xấu xa không hữu hiệu. Vì như thế sẽ dần dần mất hết đảng viên. Họ nghĩ tới chính sách “sửa sai” bằng cách bắt các đảng viên này “học tập” các văn kiện của Đảng và hồi tâm sét lại quá khứ của mình, một hình thức tu thân vốn được Đức Khổng nhấn mạnh. Nhưng rồi Bước Nhẩy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa xẩy tới như vũ bão với chính sách diệt trừ 4 điều cổ hủ: phong tục cổ hủ, thói quen cổ hủ, tư tưởng cổ hủ và văn hóa cổ hủ. Thực tế là nhằm loại bỏ Khổng Giáo. Kết cục ra sao, thì trên đây đã có nhắc tới. Khổng Giáo ngày nay hiển hiện trong lối sống của người dân Trung Hoa khắp nơi. Đơn vị gia đình mạnh hơn bao giờ hết. Các giá trị của Khổng Giáo có tính co giãn hơn người ta tưởng và do đó đã vượt được mọi thử thách của lịch sử khắt khe để sống mãi với người Dân Trung Hoa. Không gì rõ rệt bằng biến cố Thiên An Môn năm 1993.
Trailokya Raj Aryal trong bài “Khổng Giáo Và Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Trung Hoa” quả quyết: Đảng Cộng Sản Trung Hoa ngày nay không theo chủ nghĩa Mác, cũng như chủ nghĩa Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông nữa mà là học lý của Khổng Tử, một học lý vốn ảnh hưởng tới xã hội Trung Hoa hơn hai thiên niên kỷ nay.
Ông cũng nhấn mạnh tới khía cạnh: biến cố Thiên An Môn không đòi chính phủ dân chủ hóa theo Tây Phương. Trái lại, sự can thiệp của Tây Phương vào biến cố này đã bị chỉ trích rất nặng nề. Và phản ứng này đã phát sinh ra chủ nghĩa quốc gia Trung Hoa. Những cuốn sách như Một Trung Hoa Có Thể Nói Không và sau đó Một Trung Hoa Vẫn Có Thể Nói Không kêu gọi toàn dân chống lại sự can thiệp của ngoại quốc, rất được tán thưởng. Nhiều ấn phẩm khác kêu gọi nhân dân Trung Hoa, hậu duệ của “Hoàng Đế”, một vị hoàng đế theo dã sử, hãy đoàn kết lại chống chính sách bắt nạt Trung Hoa của ngoại quốc. Chủ nghĩa quốc gia thực sự đã thay thế chủ nghĩa Cộng Sản. Khổng Giáo vì thế càng được chú trọng. Xét cho cùng, với việc nhấn mạnh tới tôn ti trật tự, tới bổn phận và trách nhiệm của một “tôn giáo” bản địa, người Cộng Sản Trung Hoa thấy nơi Khổng Giáo phương thức tốt nhất để vừa chứng tỏ thế mạnh cho người bên ngoài vừa cho người dân thấy mình tôn trọng truyền thống cha ông.
Một trong những cái lợi của giáo huấn Khổng Giáo là ai làm việc nấy, vua hãy làm vua, quan hãy làm quan, cha hãy làm cha, con hãy làm con. Điều này khiến người dân Trung Hoa bình thường chỉ biết chăm lo việc của mình, không bận tâm tới việc chính phủ bao lâu chính phủ không pha vào việc của mình. Nhờ thế, mà chính phủ khỏi bận tâm huy động cả một bộ máy công an khổng lồ nhằm theo dõi mọi thành phần công dân của mình như trước. Không giống thời Mao, ngày nay người dân được tự do nói tới các vấn nạn xẩy ra trong xã hội. Tuy nhiên họ vẫn chưa “được phép” đưa ra giải pháp vì đây là “việc của nhà nước”.
Theo Aryal, tương lai không biết ra sao, nhưng chắc một điều Trung Hoa sẽ tiến tới một văn minh chính trị khác với Tây Phương, một nền văn minh phối hợp truyền thống Khổng Giáo với ý thức hệ thị trường tự do và pháp trị, mà có người gọi là một nền dân chủ theo Khổng Giáo, mặc dù Khổng Giáo mang một mầm nguy hại cho chủ nghĩa Cộng Sản qua triết lý thiên mệnh, dành quyền lật đổ “bạo chúa” trong tay người khác không phải là Cộng Sản.
Cô bé nô lệ
Trầm Thiên Thu
19:46 15/12/2010
Bị cha mẹ bán sang Mỹ, một cô bé phải làm những công việc bẩn thỉu của gia đình trong nhiều năm ròng rã…
Tuổi thơ bất hạnh
Như những đứa trẻ khác, Shyima Hall quên dọn giường và cằn nhằn khi đến giờ phải làm là hút bụi nhà cửa và lau chùi hồ nuôi cá. Ở quận Cam (Orange County), California, Shyima sống với cha mẹ nuôi và 5 anh chị em khác. Cô bé có mái tóc đen và dài.
Shyima sinh ở Alexandria, Ai cập. Cha mẹ cô quá nghèo nên phải bán cô cho cặp vợ chồng giàu có ở Cairo. Khi họ chuyển sang Mỹ bất hợp pháp năm 2000, lúc đó Shyima 10 tuổi. Và cũng tại đây, cô bé phải làm việc quần quật suốt ngày đêm để phục vụ cho họ.
Theo Bộ Y tế và Nhân quyền Mỹ, buôn bán người là công nghệ tội phạm phát triển nhanh nhất. Mỗi năm có tới 800.000 người bị đưa qua biên giới quốc tế, và họ thường bị bán sang Mỹ. Mỗi năm có tới 17.500 người bị bán làm nô lệ tình dục hoặc lao động.
Shyima chưa bao giờ được đi học, tương lai mù mịt, nhưng cô bé vẫn không hết hy vọng. Cô bé nói: “Vẫn có hạnh phúc. Tôi được người ta chăm sóc”. Khi 8 tuổi, Shyima đến sống chung với ông Abdel-Nasser Youssef Ibrahim và vợ ông ta là Amal Ahmed Ewis-Abd Motelib, khi đó hai vợ chồng này mới ngoài 30 tuổi. Người chị lớn nhất của Shyima phải làm việc cực nhọc nhưng vẫn bị họ giết chết vì họ đổ tội cho nó là ăn cắp tiền. Thế là Shyima phải “thế chỗ”.
Hai năm sau, Ibrahim và Motelib quyết định sang Mỹ làm công việc xuất nhập khẩu. Shyima không muốn đi nhưng không thể cưỡng lại. Họ nói nếu Shyima chịu đi thì họ sẽ trả cho cha mẹ của cô 30 USD/tháng. Thế là Shyima đành phải theo họ sang Mỹ, không còn cách nào khác.
Mỗi sáng, Shyima dậy từ 6 giờ cùng với 2 con trai sinh đôi của họ. Shyima phải nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, dọn giường, giặt giũ, rửa chén, ủi quần áo, lau nhà,… Nói chung là làm mọi việc “không tên” từ A tới Z, làm không ngơi tay cho đến tận nửa đêm. Shyima kể về Motelib: “Có lần bà ấy nói tôi không được bỏ đồ của tôi vào giặt chung vì đồ của tôi bẩn hơn đồ của họ”. Rồi Shyima phải giặt riêng và phơi riêng.
Cả hai vợ chồng Ibrahim đều đều đánh đập và chửi rủa Shyima thậm tệ. Họ gọi Shyima là “đồ ngu xuẩn”, “đồ vô tích sự”. Shyima phải ăn riêng chỗ khác, không được đi học và không được ra khỏi nhà nếu không có Ibrahim hoặc Motelib đi theo. Họ cấm Shyima không được nói cho bất kỳ ai biết chuyện, họ hăm dọa là cảnh sát sẽ bắt vì Shyima nhập cư bất hợp pháp. Bị bệnh, Shyima cũng bị họ bỏ mặc, không được uống thuốc và vẫn phải làm việc nhà.
Đêm xuống, mệt mỏi và cô đơn, Shyima chỉ biết nhìn vào bóng đêm và khóc thầm…
Cuộc sống mới
Sáu tháng sau, sáng ngày 9/4/2002, nhà hoạt động xã hội Carole Chen, thuộc Tổ chức Bảo vệ Trẻ em Quận Cam, nhận cú điện thoại nặc danh (có lẽ từ người hàng xóm) trình báo một vụ lạm dụng trẻ em. Người đó nói rằng có một cô bé phải sống trong gara xe, làm việc như tôi mọi và không được đi học.
Chen và cảnh sát điều tra Tracy Jacobson đến gõ cửa nhà Ibrahim. Jacobson hỏi trong nhà có ai khác không, Ibrahim nói chỉ có vợ và 5 đứa con. Bị tra hỏi mãi, Ibrahim đành thú nhận có một bé gái 12 tuổi, và nói Shyima là người bà con xa. Jacobson bắt buộc Ibrahim cho gặp Shyima. Lúc đó, Shyima chạy ra, mặc quần áo rộng, chân tay thâm tím và thô ráp. Shyima được đưa đi để được bảo vệ. Vài giờ sau, cảnh sát đến nhà Ibrahim chụp hình làm chứng cớ. Vợ chồng Ibrahim thật là tàn nhẫn, Shyima bị đối xử không bằng một con vật. Và vợ chồng Ibrahim bị bắt giữ.
Shyima được quyền chọn lựa: Về lại Ai cập hoặc sống trong nhà ở Mỹ. Shyima gọi điện cho người cha ở Ai cập, vừa khóc vừa nói: “Con muốn ở lại đây”. Người cha giận dữ, nhưng Shyima vẫn quyết định ở lại Mỹ vì cô bé muốn bắt đầu cuộc sống mới tốt hơn và tự do hơn. Hai năm tiếp theo, Shyima học Anh ngữ và tái hòa nhập cộng đồng. Và rồi Shyima được vợ chồng Chuck và Jenny Hall nhận làm con nuôi, dù họ đã nuôi một đứa cháu 13 tuổi. Hồi đó, dù ở tuổi 15 nhưng Shyima đã nảy nở là một thiếu nữ. Trong 6 tháng đầu mới được tự do, Shyima khó ngủ và luôn âu lo vì ảnh huởng quá khứ đen tối. Cô bé phải điều trị bằng thuốc chống trầm cảm và liệu pháp tâm lý.
Tháng 10/2006, tòa án xử vợ chồng Ibrahim và Motelib mức án 22 tháng tù giam và bồi thường cho Shyima 76.137 USD, đồng thời bị trục xuất về Ai cập.
Jenny, vợ của Chuck, nói về Shyima: “Nó có ý chí mạnh mẽ và có tính tự lập. Nó biết những gì mình muốn”.
(Chuyển ngữ từo Reader’s Digest)
Tuổi thơ bất hạnh
Như những đứa trẻ khác, Shyima Hall quên dọn giường và cằn nhằn khi đến giờ phải làm là hút bụi nhà cửa và lau chùi hồ nuôi cá. Ở quận Cam (Orange County), California, Shyima sống với cha mẹ nuôi và 5 anh chị em khác. Cô bé có mái tóc đen và dài.
Shyima sinh ở Alexandria, Ai cập. Cha mẹ cô quá nghèo nên phải bán cô cho cặp vợ chồng giàu có ở Cairo. Khi họ chuyển sang Mỹ bất hợp pháp năm 2000, lúc đó Shyima 10 tuổi. Và cũng tại đây, cô bé phải làm việc quần quật suốt ngày đêm để phục vụ cho họ.
Theo Bộ Y tế và Nhân quyền Mỹ, buôn bán người là công nghệ tội phạm phát triển nhanh nhất. Mỗi năm có tới 800.000 người bị đưa qua biên giới quốc tế, và họ thường bị bán sang Mỹ. Mỗi năm có tới 17.500 người bị bán làm nô lệ tình dục hoặc lao động.
Shyima chưa bao giờ được đi học, tương lai mù mịt, nhưng cô bé vẫn không hết hy vọng. Cô bé nói: “Vẫn có hạnh phúc. Tôi được người ta chăm sóc”. Khi 8 tuổi, Shyima đến sống chung với ông Abdel-Nasser Youssef Ibrahim và vợ ông ta là Amal Ahmed Ewis-Abd Motelib, khi đó hai vợ chồng này mới ngoài 30 tuổi. Người chị lớn nhất của Shyima phải làm việc cực nhọc nhưng vẫn bị họ giết chết vì họ đổ tội cho nó là ăn cắp tiền. Thế là Shyima phải “thế chỗ”.
Hai năm sau, Ibrahim và Motelib quyết định sang Mỹ làm công việc xuất nhập khẩu. Shyima không muốn đi nhưng không thể cưỡng lại. Họ nói nếu Shyima chịu đi thì họ sẽ trả cho cha mẹ của cô 30 USD/tháng. Thế là Shyima đành phải theo họ sang Mỹ, không còn cách nào khác.
Mỗi sáng, Shyima dậy từ 6 giờ cùng với 2 con trai sinh đôi của họ. Shyima phải nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, dọn giường, giặt giũ, rửa chén, ủi quần áo, lau nhà,… Nói chung là làm mọi việc “không tên” từ A tới Z, làm không ngơi tay cho đến tận nửa đêm. Shyima kể về Motelib: “Có lần bà ấy nói tôi không được bỏ đồ của tôi vào giặt chung vì đồ của tôi bẩn hơn đồ của họ”. Rồi Shyima phải giặt riêng và phơi riêng.
Cả hai vợ chồng Ibrahim đều đều đánh đập và chửi rủa Shyima thậm tệ. Họ gọi Shyima là “đồ ngu xuẩn”, “đồ vô tích sự”. Shyima phải ăn riêng chỗ khác, không được đi học và không được ra khỏi nhà nếu không có Ibrahim hoặc Motelib đi theo. Họ cấm Shyima không được nói cho bất kỳ ai biết chuyện, họ hăm dọa là cảnh sát sẽ bắt vì Shyima nhập cư bất hợp pháp. Bị bệnh, Shyima cũng bị họ bỏ mặc, không được uống thuốc và vẫn phải làm việc nhà.
Đêm xuống, mệt mỏi và cô đơn, Shyima chỉ biết nhìn vào bóng đêm và khóc thầm…
Cuộc sống mới
Sáu tháng sau, sáng ngày 9/4/2002, nhà hoạt động xã hội Carole Chen, thuộc Tổ chức Bảo vệ Trẻ em Quận Cam, nhận cú điện thoại nặc danh (có lẽ từ người hàng xóm) trình báo một vụ lạm dụng trẻ em. Người đó nói rằng có một cô bé phải sống trong gara xe, làm việc như tôi mọi và không được đi học.
Chen và cảnh sát điều tra Tracy Jacobson đến gõ cửa nhà Ibrahim. Jacobson hỏi trong nhà có ai khác không, Ibrahim nói chỉ có vợ và 5 đứa con. Bị tra hỏi mãi, Ibrahim đành thú nhận có một bé gái 12 tuổi, và nói Shyima là người bà con xa. Jacobson bắt buộc Ibrahim cho gặp Shyima. Lúc đó, Shyima chạy ra, mặc quần áo rộng, chân tay thâm tím và thô ráp. Shyima được đưa đi để được bảo vệ. Vài giờ sau, cảnh sát đến nhà Ibrahim chụp hình làm chứng cớ. Vợ chồng Ibrahim thật là tàn nhẫn, Shyima bị đối xử không bằng một con vật. Và vợ chồng Ibrahim bị bắt giữ.
Shyima được quyền chọn lựa: Về lại Ai cập hoặc sống trong nhà ở Mỹ. Shyima gọi điện cho người cha ở Ai cập, vừa khóc vừa nói: “Con muốn ở lại đây”. Người cha giận dữ, nhưng Shyima vẫn quyết định ở lại Mỹ vì cô bé muốn bắt đầu cuộc sống mới tốt hơn và tự do hơn. Hai năm tiếp theo, Shyima học Anh ngữ và tái hòa nhập cộng đồng. Và rồi Shyima được vợ chồng Chuck và Jenny Hall nhận làm con nuôi, dù họ đã nuôi một đứa cháu 13 tuổi. Hồi đó, dù ở tuổi 15 nhưng Shyima đã nảy nở là một thiếu nữ. Trong 6 tháng đầu mới được tự do, Shyima khó ngủ và luôn âu lo vì ảnh huởng quá khứ đen tối. Cô bé phải điều trị bằng thuốc chống trầm cảm và liệu pháp tâm lý.
Tháng 10/2006, tòa án xử vợ chồng Ibrahim và Motelib mức án 22 tháng tù giam và bồi thường cho Shyima 76.137 USD, đồng thời bị trục xuất về Ai cập.
Jenny, vợ của Chuck, nói về Shyima: “Nó có ý chí mạnh mẽ và có tính tự lập. Nó biết những gì mình muốn”.
(Chuyển ngữ từo Reader’s Digest)
Ẩn ý trong bức họa Venus and Mars của danh họa Botticelli
Trầm Thiên Thu
19:50 15/12/2010
Bức họa Venus and Mars từ lâu được coi là bức họa tiêu biểu việc chinh phục và khai hóa mãnh lực tình yêu nhưng chứng cớ mới đây cho thấy nó có thể bao hàm một thông điệp “gây choáng” về việc sử dụng ma túy.
Một thần rừng (satyr, nửa người nửa dê, người cuồng dâm) với dáng vẻ tinh quái đang cầm một loại cây (ở góc hình bên dưới) được nhận dạng là cây Datura stramonium, loại cây gây cuồng loạn và khiến người ta thoát y.
Trong các bản văn Hy lạp cổ đại, trái của loại cây này không được coi là quan trọng cho đến khi David Bellingham – trưởng chương trình nghiên cứu tại Viện Nghệ thuật Sotheby – lưu ý tới nó. Ông đưa bức họa cho các chuyên gia trồng cây tại Kew Gardens để xác định. Loại cây Datura stramonium còn được gọi là Táo Gai (thorn-apple, Cà Độc Dược) hoặc Kèn Quỷ (devil’s trumpet).
Phòng triển lãm quốc gia ghi chú thích trên bức họa: “Cảnh này là quan hệ nam nữ bất chính, vì thần Venus là vợ của Vulcan (Hỏa thần), nhưng nó chứa đựng một thông điệp luân lý: chinh phục và khai hóa mãnh lực tình yêu”.
Điều mới lạ đã được phát hiện trên bức họa nhờ khám phá của Bellingham, điều đó có được khi ông nghiên cứu cách mô tả thần Venus trong nghệ thuật. Ông nói với tạp chí The Times: “Trái cây đó đang được trao cho người xem, vậy nó có ý nghĩa quan trọng. Botticelli dùng cây làm biểu tượng. Cây Datura stramonium được biết đến ở Mỹ như loại axít của người nghèo, và các biểu tượng của nó có vẻ ở nhân vật nam. Nó khiến người ta cảm thấy mất tự chủ và nóng ran, thế nên nó khiến người ta muốn lột bỏ quần áo. Nó cũng khiến người ta ngây ngất nữa”.
(Chuyển ngữ từ Telegraph.co.uk)
Chuyện lạ từ Bích họa Bữa Tiệc Ly và Danh họa Leonardo Da Vinci
Trầm Thiên Thu
19:58 15/12/2010
Leonardo Da Vinci
Danh họa Leonardo Da Vinci vẽ bích họa Bữa Tiệc Ly (The Last Supper) mất 3 năm liền – không là 7 hoặc 20 năm như một số người nghĩ. Ðó là bức tranh vẽ mô tả Chúa Giêsu và 12 môn đệ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị môn đệ Giuđa phản bội. Bữa Tiệc Ly vào chiều tối một ngày thứ Năm, thời điểm Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức Linh mục tư tế.
Leonardo đã tốn nhiều công phu đi tìm người mẫu. Giữa hàng ngàn thanh niên ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện, một tính cách thanh khiết tuyệt đối làm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt 6 tháng liền trước chàng trai để hình ảnh Chúa Giêsu có thể hiện ra trên bức họa.
Những năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 môn đệ, chỉ còn Giuđa – người môn đệ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Hoạ sĩ muốn tìm một người đàn ông có khuôn mặt hằn lên sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ thâm độc. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…
Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất, Vinci đều thấy vẫn chưa đủ để biểu lộ cái ác của Giuđa. Một hôm, Da Vinci được thông báo có một người mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Người đó đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử hình vì tội giết người và nhiều tội ác tày trời khác.
Da Vinci lập tức lên đường đi Rôma. Trước mặt ông là một gã đàn ông nước da đen sạm với mái tóc dài bẩn thỉu xoã xuống, một khuôn mặt xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Ðúng, đây là Giuđa!
Ðược phép đặc biệt của Đức Vua, người tù được đưa tới Milan, nơi bức tranh đang vẽ dang dở. Mỗi ngày tên tù ngồi trước Da Vinci và người hoạ sĩ thiên tài cần mẫn với công việc truyền tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.
Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Vinci quay sang bảo với lính gác: "Các anh đem người này đi đi…". Lính canh túm lấy kẻ tử tù nhưng hắn đột nhiên vùng ra, lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci và khóc nức lên: "Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn tôi! Ngài không nhận ra tôi sao?".
Da Vinci quan sát kẻ mà 6 tháng qua ông đã liên tục nhìn mặt, rồi ông đáp: "Không, tôi chưa từng nhìn thấy anh cho đến khi anh được đưa đến từ hầm ngục Rôma". Tên tử tù kêu lên: "Ngài Vinci, hãy nhìn kỹ tôi đi! Tôi chính là người mà ngài đã chọn làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu đây…".
Câu chuyện này có thật, như bích họa Bữa Tiệc Ly là có thật. Chàng trai từng được chọn làm hình mẫu vẽ Chúa Giêsu đã tự biến mình thành hình tượng của kẻ phản bội ghê gớm nhất trong lịch sử chỉ sau một thời gian ngắn!
Leonardo di ser Piero da Vinci sinh ngày 15/4/1452 tại Anchiano (Ý), mất ngày 2/5/1519 tại Amboise (Pháp). Ông là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và là một triết gia tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên thành phố Vinci, nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze 30 km về phía Tây, gần Empoli, cũng là họ của ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì Da Vinci có nghĩa là "đến từ Vinci", không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci có nghĩa là "Leonardo là con của Ser Piero, đến từ Vinci". Ông nổi tiếng với những bức hoạ cổ điển của mình như bức Mona Lisa, bức Bữa Tiệc Ly…
Ông là người có những ý tưởng đi trước thời đại của mình, đặc biệt là sự sáng chế máy bay trực thăng, xe tăng, cách sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép (double hull), cùng nhiều sáng chế khác, khó có thể liệt kê hết ở đây. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi ngay lúc ông còn sinh thời. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong lĩnh vực giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng (civil engineering), quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học, và bút ký.
Bức họa Bữa Tiệc Ly
Nghệ thuật: Trước Vinci đã có nhiều họa sĩ nổi tiếng đã vẽ đề tài này, tuy nhiên họ đều thất bại. Bích họa của Da Vinci nổi tiếng nhất vì hai lý do: Thứ nhất, lần đầu tiên buổi tiệc ly được vẽ với các nhân vật hết sức sống động như người thật. Mỗi môn đệ tỏ một thái độ khác nhau khi nghe Chúa báo tin có người phản bội. Người thì bàng hoàng, người thì muốn ngất xỉu (thánh Gioan, người ngồi bên phải Chúa), mấy người khác ngạc nhiên hỏi nhau. Thứ hai, khả năng thể hiện luật viễn cận của Da Vinci trong bức họa rất tuyệt vời, mọi điểm trên bức tranh đều tụ về một điểm chung là khuôn mặt của Chúa. Một trong những nguyên nhân gây thất bại ở các họa phẩm khác là chưa phản ánh chân thực về 12 môn đệ, đặc biệt là hoạt động tâm lý phức tạp của Giuđa. Tác phẩm của Da Vinci đã giải quyết mỹ mãn vấn đề này. Từ đó về sau, không hoạ sĩ nào vẽ lại đề tài này nữa bởi họ cho rằng không thể vượt qua tác phẩm của danh họa Da Vinci.
Để vẽ nên bức tranh này, Vinci đã gặp không ít khó khăn, nhất là phải xử lý nhân vật Giuđa. Để giải quyết khó khăn này, hàng ngày Vinci phải đi lang thang trong thành phố để quan sát cử chỉ, hành động của bọn tội phạm, lưu manh rồi vẽ đi vẽ lại hàng trăm bức họa Judas ở các tư thế khác nhau. Việc đi lang thang trong thành phố như vậy đã nảy sinh lòng nghi ngờ của bao người, trong đó có cả giáo sĩ. Sau đó, nhờ thị trưởng thành phố, Vinci đã giải quyết được hiểu lầm, và bức tranh ngày nay vẫn còn trên tường nhà thờ.
Thời gian: Có một địa điểm mà mọi du khách đến thành phố Milan (Ý) đều muốn được xem, đó là nơi có bích họa Bữa Tiệc Ly của danh họa Leonardo Da Vinci, được vẽ trên tường nhà thờ Santa Maria della Grazie từ thế kỷ XV (trong 3 năm, từ 1495–1498). Thời gian đó, danh họa làm việc ở Milan dưới sự bảo trợ của công tước Sforza, và chính Sforza đã đặt vẽ bức tranh này.
Do lượng khách muốn xem tranh rất đông, mà theo quy định thì mỗi lần chỉ có 25 người được vào xem trong 15 phút nên khách thường phải đặt mua vé trên Internet trước 2 tháng (giá 8 euro). Muốn xem sớm hơn thì có thể mua vé tại một số công ty du lịch với giá đắt hơn, khoảng 20 euro.
Du khách được nhân viên dẫn qua mấy lớp cửa bảo vệ để vào nhà thờ, nơi bức họa được Da Vinci vẽ trên bức tường cách đây 600 năm với kích thước 8,8m x 4,6m. Khi sáng tác bức họa, Da Vinci không theo kỹ thuật lúc bấy giờ là sử dụng thạch cao ướt mà dùng thạch cao khô. Vì vậy, bức tranh bị tàn phai nhanh chóng theo thời gian. Nhiều thế kỷ sau, người ta phải tu sửa rất nhiều lần và việc này cũng gây nhiều tranh cãi về độ chính xác của bức họa.
Khi Pháp chiếm Milan hồi thế kỷ XVIII, quân lính của Napoléon đã phá hoại không thương tiếc bằng cách ném đá lên bích họa này. Trước đó (thế kỷ XVII), một người vô ý thức ở nhà thờ còn nảy ra ý định đục một cánh cửa ra vào ở giữa bức tường, ngay vị trí chân của Chúa. Sau này, cánh cửa bị bít lại, nhưng phần chân Chúa phía dưới bàn (theo các bản vẽ ban đầu có tư thế bắt chéo như khi bị treo trên thánh giá) không được phục hồi lại. Lần bức họa bị phá hoại nặng nề nhất là thời Đệ nhị Thế Chiến, khi nhà thờ bị bỏ bom và hư hỏng nặng.
Cũng trong căn phòng này, đối diện với bức tranh Buổi tiệc ly là bức Thập Tự Giá của Giovanni Donato da Montorfano – một họa sĩ cùng thời với Da Vinci nhưng ít nổi danh hơn. Cho dù đã từng xem bức tranh nổi tiếng của Da Vinci trong sách, nhưng khi đứng trước tuyệt tác này, nhiều người mới khả dĩ cảm nhận được kích thước to lớn của nó và đặc biệt là nghệ thuật xử lý ánh sáng của danh họa, vì ánh sáng trong bức tranh được vẽ là hướng từ cửa sổ bên trái phía sau.
Phần bên phải của bức tranh được danh họa vẽ sáng hơn, màu sắc trang phục các nhân vật cũng được xử lý rất khéo: Cùng màu xanh, nhưng chiếc áo của những người ngồi bên phải khác với màu xanh chiếc áo của Chúa ở giữa và những người ngồi bên trái. Những điều này khó có thể cảm nhận được trên các bản sao, dù là hình hoặc phim ảnh.
(tổng hợp)
Leonardo Da Vinci
Bắt chước mù quáng gây sát nhân và tự sát?
Trầm Thiên Thu
20:10 15/12/2010
Khoa tâm lý có thuật ngữ Copycat Behavior, nghĩa là “bắt chước mù quáng”. Động thái này không chỉ ấu trĩ mà còn có thể gây nguy hiểm cho bản thân và cho người khác.
Ngày 30/3/2009, tại Santa Clara (California), một người đàn ông đã bắn chết 5 người, kể cả 3 đứa con, rồi tự sát. Ngày 4/3/2009, một tay súng nã đạn vào một trung tâm nhập cư ở Binghamton (New York), làm 13 người thiệt mạng rồi y tự sát. Ngày 20/4/2009, các nhân viên khách sạn Sheraton ở Maryland phát hiện thi thể hai vợ chồng và hai con gái, các nạn nhân là một vụ sát nhân và tự sát khác.
Chỉ có các tội phạm sát nhân tự sát mới đây ở Mỹ. Từ 10/3/2009, có ít nhất 43 người bị giết trong các vụ sát nhân tự sát, không biết tại sao các vụ này xảy ra liên tiếp mau chóng như vậy. Cũng không rõ những vụ vừa qua có phải là “leo thang” tội phạm sát nhân tự sát hay không. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố từ thời điểm trong năm (tự sát nhiều vào mùa xuân) đến vấn đề tài chính có thể ảnh hưởng tỷ lệ sát nhân và tự sát. Trong các vụ mới đây, động lực rõ ràng của những kẻ sát nhân là ghen tuông và thất vọng về tài chính.
Nhưng Steven Stack, GS khoa tâm thần và tội phạm tại ĐH Quốc gia Wayne, đưa ra cách giải thích khác: Hệ quả bắt chước mù quáng (copycat effect). Lý thuyết về việc bắt chước mù quáng lần đầu tiên được nhà tội phạm học khái quát năm 1912, sau khi một tờ báo ở London đưa tin về tội ác dã man của Jack the Ripper hồi cuối thập niên 1800, dẫn đến làn sóng hiếp dâm và sát nhân do bắt chước mù quáng ở khắp Anh quốc. Từ đó, có nhiều cuộc nghiên cứu về động thái này – nhất là tự sát bắt chước mù quáng, có vẻ rất phổ biến – nhưng người ta chưa có kết luận.
Năm 2005, xem lại 105 cuộc nghiên cứu đã được công bố, Stack thấy có khỏang 40% các cuộc nghiên cứu đề nghị kết hợp giữa việc đưa tin về các vụ sát nhân trên các thông tin đại chúng (nhất là vụ tự sát của những người nổi tiếng) và tỷ lệ tự sát ở nơi công cộng. Ông cũng thấy có hệ lụy phản ứng: Càng thấy nhiều vụ tự sát, càng nhiều cái chết bắt chước theo.
Nhưng theo nghiên cứu của Stack, 60% các cuộc nghiên cứu trước đây không thấy mối liên hệ như vậy. Ông giải thích rằng các cuộc nghiên cứu có thể tìm thấy mối liên hệ là các cuộc nghiên cứu muốn nói đến cái chết của người nổi tiếng hoặc tin tức ồ ạt trên các phương tiện truyền thông – ngạc nhiên là các yếu tố có chiều hướng “đồng diễn”. Stack nói: “Các câu chuyện rất có thể ảnh hưởng là các câu chuyện của các nhân vật chính trị và nghệ thuật. Các vụ tự tử này có thể gây hệ lụy bắt chước mù quáng gấp 5,2 lần so với các vụ tự tử của dân thường”. Chẳng hạn, trong tháng sau cái chết của Marilyn Monroe, tỷ lệ tự sát ở Mỹ tăng khỏang 12%.
Stack cũng hướng dẫn một cuộc nghiên cứu xem động thái sát nhân tự sát (khác với chỉ sát nhân) có liên quan tội phạm bắt chước mù quáng hay không. Nghiên cứu này, công bố 20 năm trước, đã phân tích ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đưa tin các vụ giết người hàng loạt và sát nhân tự sát trong những năm 1968 tới 1980. Nghiên cứu thấy rằng không có mối liên hệ về mức tăng tỷ lệ giết hại thân nhân, nhưng có mức tăng về sát nhân sau các vụ được công bố rộng rãi. Ông nói: “Có mức tăng đáng kể về tỷ lệ sát nhân hàng tháng trong nước. Đó là mối liên quan khá quan trong và không lệ thuộc biến số kiểm soát chủ yếu như tỷ lệ thất nghiệp.
Hiện nay, có vẻ như lý do phía sau các vụ sát nhân tự sát mới đây vẫn chưa rõ, nhưng dù do kinh tế, mùa, có sẵn súng hoặc việc bắt chước mù quáng, nhiệm vụ không đơn giản là tìm ra cách ngăn chặn các vụ sát nhân tự sát.
(Chuyển ngữ từ TIME)
Ngày 30/3/2009, tại Santa Clara (California), một người đàn ông đã bắn chết 5 người, kể cả 3 đứa con, rồi tự sát. Ngày 4/3/2009, một tay súng nã đạn vào một trung tâm nhập cư ở Binghamton (New York), làm 13 người thiệt mạng rồi y tự sát. Ngày 20/4/2009, các nhân viên khách sạn Sheraton ở Maryland phát hiện thi thể hai vợ chồng và hai con gái, các nạn nhân là một vụ sát nhân và tự sát khác.
Chỉ có các tội phạm sát nhân tự sát mới đây ở Mỹ. Từ 10/3/2009, có ít nhất 43 người bị giết trong các vụ sát nhân tự sát, không biết tại sao các vụ này xảy ra liên tiếp mau chóng như vậy. Cũng không rõ những vụ vừa qua có phải là “leo thang” tội phạm sát nhân tự sát hay không. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố từ thời điểm trong năm (tự sát nhiều vào mùa xuân) đến vấn đề tài chính có thể ảnh hưởng tỷ lệ sát nhân và tự sát. Trong các vụ mới đây, động lực rõ ràng của những kẻ sát nhân là ghen tuông và thất vọng về tài chính.
Nhưng Steven Stack, GS khoa tâm thần và tội phạm tại ĐH Quốc gia Wayne, đưa ra cách giải thích khác: Hệ quả bắt chước mù quáng (copycat effect). Lý thuyết về việc bắt chước mù quáng lần đầu tiên được nhà tội phạm học khái quát năm 1912, sau khi một tờ báo ở London đưa tin về tội ác dã man của Jack the Ripper hồi cuối thập niên 1800, dẫn đến làn sóng hiếp dâm và sát nhân do bắt chước mù quáng ở khắp Anh quốc. Từ đó, có nhiều cuộc nghiên cứu về động thái này – nhất là tự sát bắt chước mù quáng, có vẻ rất phổ biến – nhưng người ta chưa có kết luận.
Năm 2005, xem lại 105 cuộc nghiên cứu đã được công bố, Stack thấy có khỏang 40% các cuộc nghiên cứu đề nghị kết hợp giữa việc đưa tin về các vụ sát nhân trên các thông tin đại chúng (nhất là vụ tự sát của những người nổi tiếng) và tỷ lệ tự sát ở nơi công cộng. Ông cũng thấy có hệ lụy phản ứng: Càng thấy nhiều vụ tự sát, càng nhiều cái chết bắt chước theo.
Nhưng theo nghiên cứu của Stack, 60% các cuộc nghiên cứu trước đây không thấy mối liên hệ như vậy. Ông giải thích rằng các cuộc nghiên cứu có thể tìm thấy mối liên hệ là các cuộc nghiên cứu muốn nói đến cái chết của người nổi tiếng hoặc tin tức ồ ạt trên các phương tiện truyền thông – ngạc nhiên là các yếu tố có chiều hướng “đồng diễn”. Stack nói: “Các câu chuyện rất có thể ảnh hưởng là các câu chuyện của các nhân vật chính trị và nghệ thuật. Các vụ tự tử này có thể gây hệ lụy bắt chước mù quáng gấp 5,2 lần so với các vụ tự tử của dân thường”. Chẳng hạn, trong tháng sau cái chết của Marilyn Monroe, tỷ lệ tự sát ở Mỹ tăng khỏang 12%.
Stack cũng hướng dẫn một cuộc nghiên cứu xem động thái sát nhân tự sát (khác với chỉ sát nhân) có liên quan tội phạm bắt chước mù quáng hay không. Nghiên cứu này, công bố 20 năm trước, đã phân tích ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đưa tin các vụ giết người hàng loạt và sát nhân tự sát trong những năm 1968 tới 1980. Nghiên cứu thấy rằng không có mối liên hệ về mức tăng tỷ lệ giết hại thân nhân, nhưng có mức tăng về sát nhân sau các vụ được công bố rộng rãi. Ông nói: “Có mức tăng đáng kể về tỷ lệ sát nhân hàng tháng trong nước. Đó là mối liên quan khá quan trong và không lệ thuộc biến số kiểm soát chủ yếu như tỷ lệ thất nghiệp.
Hiện nay, có vẻ như lý do phía sau các vụ sát nhân tự sát mới đây vẫn chưa rõ, nhưng dù do kinh tế, mùa, có sẵn súng hoặc việc bắt chước mù quáng, nhiệm vụ không đơn giản là tìm ra cách ngăn chặn các vụ sát nhân tự sát.
(Chuyển ngữ từ TIME)
Văn Hóa
Nhạc Giáng Sinh: Noel Tình Đầu (sáng tác mới)
Hà Đăng Đàm
08:55 15/12/2010
Lá Thư Canada: Chuyện phiếm mùa Giáng Sinh: Mua Nước Thiên Đàng
Trà Lũ
18:43 15/12/2010
Lá Thư Canada: MUA NƯỚC THIÊN ĐÀNG
Tuần qua Toronto nơi tôi cư ngụ đã đón rước Ông Già Santa Claus vào thành phố để mở đầu Mùa Giáng Sinh. Đoàn rước dài 6 cây số, 31 xe hoa và 25 ban nhạc. Bao nhiêu người tham dự. Khắp nơi rộn rã tiếng trống tiếng kèn và tiếng reo hò. Trung tâm thành phố được ngăn lại dành chỗ cho người đi đón chào Ông Già. Vui nhất là các em bé. Các em tươi cười và mặt mũi phón phở trông đẹp như những thiên thần bé nhỏ, dễ thương hết sức. Không biết ai bảo mà các em bé ở Canada đều tin ông Santa Claus là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian để mang quà cho các em. Văn phòng của ông đặt tại Bắc Cực. Nhiều em đã viết thư cho ông, vừa kể lể chuyện gia đình vừa xin qùa. Bưu điện Canada có một cơ quan đặc biệt phụ trách nhận thư cho ông, cũng như phúc đáp cho ông. Thư chỉ cần đề ‘Kính gửi Ông Santa Claus ở Bắc Cực’ là tới. Báo chí kể rằng có một em bé viết thư như thế này: Thưa Santa Claus, ba má con chỉ đẻ ra mình con, con cô đơn lắm, xin Santa Claus cho con một đứa em’. Santa Claus đã trả lời: Ta rất sẵn lòng và rất sung sướng cho con một đứa em. Con hãy gửi mẹ con lên đây với ta một đêm’. Ha ha. Các cụ thấy chưa, Santa Claus cũng là người như chúng ta chứ bộ. Rõ ràng nha.
Đoàn diễn hành vừa kèn trống vừa hát vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc. Người đứng xem hai bên đường cũng vỗ tay hát theo. Nào bài I Wish You a Merrry Christmas, theo tài liệu thì bài này gốc từ bên Anh và có từ thế kỷ 16. Nào bài Silent Night gốc từ bên Áo, có từ năm 1818. Nào bài Gingle Bells gốc từ vùng Boston bên Hoa Kỳ, có từ năm 1856. Tôi mê những bài này qúa. Cũng như bài Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời của Hải Linh có từ năm 1945. Những bài ca này đã nhập vào máu của mọi người và trở thành một nét văn hóa không biên giới.
Sau lễ rước Santa Claus thì thành phố như chính thức bước vào hội mùa đông, mùa trưng bày hoa đèn và cây thông, mùa mua qùa tặng qùa, mùa dạ tiệc và mùa đi lễ nhà thờ.
Làng An Hạ của tôi cũng mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể. Chúng tôi đã trở thành người Canada 99%, lâu rồi mà. Cũng qùa bánh, cũng tiệc mừng, cũng hát chúc nhau ‘We Wish You a Merry Christmas. Mà nhắc đến tiệc mừng là tôi lại nhớ tới Guy de Maupassant.
Các cụ biết ông nhà văn lớn của Pháp thuộc thế kỷ 19 này chứ. Người Mỹ đọc Hemingway, người Nga đọc Dostoyevsky, người Tàu đọc Lỗ Tấn, người Pháp đọc Maupassant. Ông là nhà văn, nhà thơ, chuyện ngắn chuyện dài thứ gì cũng hay và cũng nổi tiếng hết. Tôi đã nhớ tới chuyện ngắn Đêm Giáng Sinh / Nuit de Noel của ông.
Hình như ngày xưa tôi có kể cho các cụ rồi thì phải. Năm nay hai cô Huế và bà cụ B.95 theo lời xúi của Chị Ba Biên Hòa đã bắt tôi kể lại. Đành vâng lời. Các bà phán là trời phán. Tôi vui vẻ thi hành lệnh truyền vì thực ra câu chuyện này vui lắm. Nó chép rõ ràng trong sách Tây, với nhân vật chính trong truyện là ông Tây Henri Tenylier. Ông ta tự kể như thế này:
… Cách đây 2 năm, tôi bận làm việc qúa nên tôi từ chối mọi lời mời ăn tiệc nửa đêm sau lễ nhà thờ. Tiếng Tây gọi là ăn réveillon. Tôi định sẽ ăn réveillon một mình rồi sẽ làm việc tiếp. Nhưng đến 10 giờ tối thì không khí tưng bừng của đêm Noel Paris huyên náo qúa, tự nhiên tôi thấy bồn chồn và không làm việc được nữa, tôi bèn quyết định ăn réveillon. Tôi liền gọi chị giúp việc Angela và bảo chị đi phố ngay và mua cho được sò huyết, chim đa đa, thịt nguội, bánh ngọt và hai chai champagne, đủ ăn cho 2 người. Chị đi ngay. Rồi tôi tự hỏi: mình cần có bạn cùng ăn thì mới vui mới có ý nghĩa, nhưng mời ai bây giờ? Bạn bè ai cũng có hẹn hò hết rồi. Qúa trễ mất rồi. Cuối cùng thì tôi nghĩ tới một việc từ thiện. Paris thiếu gì ngươì đẹp nghèo khổ. Đêm nay tôi sẽ đóng vai Thượng Đế ban phước cho một người đẹp xấu số. Thế là tôi xuống phố. Tôi đã gặp rất nhiều cô xinh đẹp, nhưng tính tôi xưa nay chỉ thích những cô gái mập mạp. Mãi rồi tôi mới tìm ra một cô mập, mặt khá xinh, khoác một tấm áo lớn. Tôi đưa nàng về nhà tôi. Nàng vui mừng và cảm động lắm. Nàng ăn réveillon với tôi, ăn rất tận tình. Cuối tiệc, khi tôi lui cui thu dọn bàn thì nàng kêu khó chịu và xin được lên giường nằm. Nàng đắp chăn. Rồi bỗng nàng kêu thét lên. Nàng đau thật. Hèn chi trong bữa ăn tôi thấy đôi lúc nàng nhăn mặt. Tôi tiến đến bên giường và lật chăn ra. Và trơi ơi, nàng là một thiếu nữ có bầu. Nàng trông mập là vì cái bầu lớn này. Nàng đang chuyển bụng đẻ. Tôi kêu cứu. Thiên hạ đổ xô đến nhà tôi, nhưng không ai biết đỡ đẻ. Tôi vội chạy đi kiếm bác sĩ. Lúc tôi và bác sĩ về tới nhà thì bà bán sữa đầu lối trao cho tôi một đứa bé đỏ hỏn và nói: Xin mừng ông, bà nhà sinh con gái.
Trời ơi, ai cũng tưởng tôi là cha đứa bé. Bác sĩ săn sóc cô gái và cho toa mua thuốc, cùng hứa sẽ gửi vú nuôi đến giúp. Chúa ơi, tôi làm phước phải họa. Chẳng lẽ tôi đuổi nàng đi trong những ngày băng giá đầu năm sao! Thế là tôi đã nuôi nàng 6 tuần lễ rồi mời nàng ra khỏi nhà. Còn đứa bé tôi phải nhờ người nuôi giúp. Cô gái tuy bị tôi đuổi nhưng nàng đâm ra yêu tôi thật. Nàng không đi xa. Nàng cứ rình rập tôi. Hễ tôi ra khỏi nhà là nàng xông tới ôm hôn tôi.
Tôi đã học được một bài học đắt giá là từ nay sẽ không bao giờ mời khách ăn réveillon đêm Giáng Sinh nữa.
Cả làng tôi vỗ tay khen truyện hay và cảm động. Nhà văn lớn Guy de Maupassant viết có khác. Và phe các bà cũng rút ra nhiều bài học từ chuyện này lắm. Nào là chớ bao giờ mời khách lạ tới ăn cơm. Nào là phải cẩn thận với những bà những cô mập. Nào là đàn ông lớn rồi phải lấy vợ, ở một mình thì chẳng tốt. Nào là đàn ông thì nên mời khách đàn ông. Nào là khi đến lễ Giáng Sinh thì phải nghỉ làm việc..
Mãi rồi làng tôi mới ngưng bàn chuyện ông Tây làm phưóc phải tội trên đây.
Trong khi làng uống trà thì anh John đưa một tin vui nóng hổi, cũng liên quan tới văn chương, cũng liên quan đến tiếng Pháp. Đó là tin một thuyển nhân tỵ nạn VN nay đã là dân Tây Canada vừa đoat giải văn chương Pháp Văn tại Quebec. Theo báo chí Canada thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nhà văn người Canada gốc Việt đoạt giải văn chương 2010 của Toàn Quyền Canada, The Governor’s Literacy Awards. Đây là một giải văn chương lâu đời và cao qúy nhất tại quốc gia này cho các tác phẩm viết bằng Anh Văn và Pháp văn. Đó là nhà văn nữ Lý Kim Thúy, với tác phẩm mang tên ‘RU’.
Tác giả Kim Thúy sinh năm 1968 tại Saigon. Khi mới 10 tuổi, Kim Thúy theo cha mẹ vượt biên trốn CS. Sau một thời gian sống ở trại tỵ nạn Mã lai, cô đưọc Canada nhận và cho định cư ở Quebec, miền nói tiếng Pháp. Kim Thuý vừa đi làm vừa đi học. Cô làm nhiều nghề: hái rau, thợ may, giữ két…Kim Thúy đã tồt nghiệp trường Luật và Trường Ngôn Ngữ ở Đại Học Montréal. Cô hành nghề luật sư. Cô mới cầm bút và tác phẩm đầu tay RU đã được giải thưởng ngay. Quả là thiên tài. RU đây không phải là tiếng Việt như ru em, ru ngủ, mà là tiếng Pháp, RU là con lạch nhỏ, con suối nhỏ. Trong tác phẩm, tác giả nói về chính cuộc đời mình, nhận xét tinh tế và sắc bén nhưng rất khiêm tốn. Tác phẩm được chào đón khắp nơi. Theo nhật báo bên Pháp, tờ Le Figaro, thì văn Kim Thúy đẹp như những vần thơ, chuyên chở đầy ý nghĩ thâm trầm, đầy sinh lực và bắt người đọc suy nghĩ. Sách đang được dịch sang tiếng Ý, tiếng Đức, Tây Ban Nha, Thụy Điển. Chưa nghe nói về việc dịch sang tiếng Việt.
Vui qúa chứ, phải không các cụ. Người Việt viết văn Pháp tài giỏi hơn người Pháp, lạ chứ và đáng nể chứ. Thật là tuyệt vời. Xin nhiệt liệt chúc mừng Nhà văn nữ Kim Thúy. Chị là niềm hãnh diện của người Việt Nam chúng tôi. Chị mang trong người hạt giống tốt của nói giống Tiên Rồng, hạt giống gặp đất tốt là nở bung ra ngay.
Chưa hết tin mừng. Cuối năm 2010 này cộng đồng VN ở đây còn có nhiều tin vui khác. Như trung tuần tháng Mười Một, tại Montréal, đất của nhà văn nữ Kim Thúy trên đây, đã có một ngày hội thảo ‘ Thế Hê Trẻ và Văn Hóa Việt’ khá sôi động và thành công. Có hai diễn giả chính là bà Jackie Bông từ Hoa Kỳ sang và Bà Hải Phong, phu nhân của GS Nguyễn Hải Bình từ Quebec xuống. Rất đông người tới tham dự. Đây là đất Montréal. Còn ở Toronto cũng có một sinh hoạt văn hóa khác rất đặc sắc. Đó là ngày Văn Hóa Á Châu do Trung Tâm Văn Hóa Nhật Bản tổ chức, với sự tham gia của nhiều sắc dân như Tây Tạng, Miến Điện, Phi Luật Tân, Thái Lan, Đài Loan, Lào, và Việt Nam. Con chim đầu đàn của đoàn Việt Nam là Anh Hoàng Mạnh Hùng. Đoàn đã tham dự với gian hàng thực phẩm, tiểu công nghệ, trình diễn múa hát và thời trang. Đoàn đã gặt hái được nhiều thành công.
Cụ B.95 ngồi nghe các tin vui thì thích lắm nhưng hình như chưa hả dạ. Cụ lên tiếng gọi: Hai người đẹp đất Thần Kinh đâu? Cô Cao Xuân cô Tôn Nữ đâu? xin góp chuyện vui đi coi. Hai cô Huế được kêu là ‘người đẹp’ có vẻ sướng trong bụng nhưng vẫn làm dáng e lệ không dám nhận. Cô Cao Xuân thưa: ‘Cháu mà đẹp cái gì!’. Cụ B.95 đáp ngay: các cô đất nhà vua mà không đẹp thì ai đẹp bây giờ? Cô Cao Xuân ngày xưa là hoa khôi trong trường mà. Cô lại học ban văn chương nên chũ nghĩa đầy trong bụng. Cô Huế đáp ngay:
- Miền Trung xứ dân nghèo, đất cầy lên sỏi đá, nên gái miền Trung không đẹp bằng các cô gái miền Nam của đất phù sa trù phú. Không cần phải tìm chứng từ gì đâu xa, cứ nghe bài vè bình dân này là thấy liền à. Cháu thuộc bài này từ hồi còn ở trung học:
Gái Cần Thơ Vĩnh Long
Đất gạo trắng nước trong
Người mơn mởn như xoài
Da trắng như bông bưởi
Mắt đen như hạt nhãn
Tóc thơm mùi hoa cau
...
Quý vị đã thấy các cô gái miền Nam đẹp chưa, nét đẹp không son phấn thành thị mà là sắc đẹp thiên nhiên đồng quê, như trái xoài, bông bưởi, hoa cau.
Cả làng ngồi nghe, trong bụng ai cũng khen cô Cao Xuân này giỏi qúa. Hình như ngày xưa ở Việt Nam cô là luật sư chứ phải chơi đâu. Thấy ai cũng vỗ tay, được hứng cô nói tiếp:
- Đấy là các cô Nam Kỳ. Các cô Bắc Kỳ đẹp cũng hãi lắm. Cứ nghe bài Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp là thấy rõ.
Vì chạm tới gái Bắc Kỳ nên cụ B.95 muốn nghe chi tiết. Cụ xin cô Cao Xuân hát bài Đi Chùa Hương cho cụ nghe. Cô liền lắc đầu xin chịu. Cô đáp:
- Cháu không biết hát. Xin đùng bắt cháu hát. Cháu mà hát thì đêm nay cụ và cả làng sẽ mất ngủ vì ác mộng. Để cháu tóm tắt cái đẹp của cô Bắc Kỳ, theo sách vở ngày xưa, như thế này:
. khăn vấn đuôi gà
. yếm thắm
. áo tứ thân ôm sát vòng eo
. nhai trầu hồng đôi má đôi môi
. mắt bồ câu
. da trứmg gà bóc
. bàn tay búp măng
. giọng oanh vàng thỏ thẻ
. dáng đi nhẹ nhàng như bước sen lãng đãng
...
Đấy là hình ảnh mấy cô ngày xưa, chắc là vào thời của Cụ đây. Hiện nay cháu có nhiều bạn Bắc Kỳ lắm. Cô Bắc Kỳ nào cũng đẹp hết.
Đến đây thì anh H.O. giơ tay xin nói:
- Chắc gái Bắc Kỳ phải đẹp nhất nước vì cứ xem các cuộc thi hoa hậu gần đây tại VN thì đủ rõ. Bao giờ hoa hậu cũng là cô gái Hà Nội.
Nghe đến đây thì cụ B.95 giơ tay xin thôi. Cụ bảo hoa hậu phải là người Bắc Kỳ vì là đất thủ đô của Đảng. Anh đang lái sang chuyện chính trị nhức đầu mất rồi. Xin ngưng nha. Rồi cụ quay vào anh John thần tượng của cụ:
- Nãy giờ chúng tôi toàn nghe chuyện người đẹp VN. Bây giờ đang mùa Giáng Sinh xin nói về đạo Chúa. Thế trong sách Thánh Kinh có đoạn nào tả về đàn bà đẹp không?
Chà, cụ chuyển đề nhanh qúa và khéo qúa. Chàng John của làng tôi qủa là thiên tài. Anh đáp ngay:
- Thưa có. Thánh Kinh không những tả đàn bà đẹp mà còn tả đàn ông đẹp nữa cơ.
Cả làng xưa nay chỉ nghe tả đàn bà đẹp, đây là lần đầu tiên làng nghe nói tới việc tả đàn ông đẹp.
Thấy lạ, ai cũng chú tâm nghe nhà kinh thánh John giảng bài.
- Tôi xin trich một đọan nói về người đẹp Judita trong sách Cựu Ước:
... Dân Do Thái bị quân ngoại vây hãm, các mạch suối dẫn nước vào thành đều bị cắt đứt. Dân hầu chết khát và bắt đầu kêu trách cấp chỉ huy. Bấy giờ Judita, một góa phụ trẻ, đẹp lộng lẫy và đạo đức, đã tình nguyện xin dùng mỹ nhân kế. Nàng ra khỏi thành, vào trại giặc xin gặp vị chỉ huy, đó là tướng Hôlôphê. Vừa nhìn thấy Judita, tướng Holôphê liền chết mê chết mệt. Tướng cho nàng mọi đặc ân, được ở lều riêng, muốn đi lại chỗ nào và lúc nào cũng được. Judita đã ở mấy ngày trong trại mà chưa cho Holôphê đụng tới nàng. Nàng cứ khất lần. Đến tối ngày thứ ba thì Hôlôphê cho mở đại tiệc thết người đẹp. Judita liền lập kế. Bữa đó nàng chuốc rượu cho Hôlôphê uống say ngất. Hôlôphê hồn chơi vơi nhìn nàng đắm đuối vì nghĩ trong bụng đêm nay ông sẽ chiếm được nàng. Cuối tiệc thì Hôlôphê say qúa lăn ra ngủ li bì. Mọi người ra về, mình Juđita ở lại trong lều. Ai cũng tưởng Judita sẽ săn sóc tận tình cho vị chủ tướng. Ai dè trong đêm khuya Judita đã chặt đầu Hôlôphê và bỏ vào túi xách vẫn đem theo. Rồi Judita tiến ra bờ suối như thường lệ nàng vẫn ra cấu nguyện. Quân canh không hề để ý. Judita đã băng qua suối và tiến về trại Do Thái. Nàng giơ đầu Hôlôphê lên cho mọi người xem. Toàn trại hân hoan vô cùng nhưng ra sức giữ kín. Sáng hôm sau Do Thái dẫn đại quân xuống núi. Lúc bấy giờ quân giặc mói đánh thức Hôlôphê, nhưng than ôi, tin sét đánh, Hôlôphê đã bị chặt đầu. Thế là hàng quân rung động và tan nát. Quân Do Thái toàn thắng.
Cụ B.95 nghe thì thích quá vì lần đầu nghe chuyện lạ. Cụ bảo cụ cứ tưởng chuyện Tàu mới có mỹ nhân kế, ai dè chuyện Tây cũng có nữa sao. Rôi cụ chợt nhớ là anh John còn nói trong Thánh Kinh cũng tả đàn ông đẹp nữa, cụ xin anh kể. Anh John kể ngay. Cái anh chàng John da trắng này giỏi thật, phải không các cụ? Tôi phục anh qúa chừng.
Anh John thủng thẳng đáp: Sách Thánh tả đàn ôn đẹp nhưng không tả dài dòng. Chỉ có chút xíu. Đó là phần nói về chàng Absalôm, con trai vua David. Sách tả như sau: ‘…Trong toàn dân Israel thât không có ai đẹp trai như Absalôm, mọi người hết lời ca ngợi. Từ bàn chân đến đỉnh đầu thât không có chỗ nào chê được’. Tiếc rằng Absalôm đã mưu toan chiếm ngôi cha, đã làm loạn và bị giết chết. Vua David đã ôm xác con mà khóc.
Cả làng ai cũng sung sướng vì bữa nay được nghe những chuyện hấp dẫn không ngờ có trong sách thánh.
Rồi làng nghỉ giải lao. Trong khi các bà rủ nhau đi nấu chè thì phe liền ông chúng tôi tụm lại để bàn các việc quốc sự. Anh John nhìn trước nhìn sau không thấy vợ đâu liền nói nhỏ:
- Lúc nãy tôi nói mấy chuyện vui trong Kinh Thánh, nhưng có một chuyện này vui nhất mà không dám kể. Đó là chuyện ông lão bộc của Abraham. Chúng ta biết rằng tổ phụ của Israel là cụ Abraham. Cụ có vợ là bà Sara. Khi cụ đã gìa rồi Chúa mới cho cụ có con. Đó là cậu Isaac. Khi cậu con trai này đã lớn thì Cụ Abraham nghĩ tới việc lấy vợ cho con. Nhìn chung quanh không thấy ai xứng đáng, cụ liền sai người lão bộc thân tín về quê nội kiếm vợ cho con. Lão bộc đã tìm ra nàng Rebecca và đem về cho Isaac. Điều đáng nói là trước khi lão bộc ra đi, cụ già Abraham đã bảo thế này:
- Vì đây là việc hệ trọng, ngươi hãy đặt tay dưới đùi ta mà thề rằng ngươi sẽ về tận quê nội của ta và tìm cho ra vợ cho con ta.
Lão bộc đã đặt tay mà thề.
Kể đến đây rồi anh John cười hề hề:
- ‘Đặt tay dưới đùi’ là đặt ở chỗ nào? Đó là cách dịch nhẹ nhàng chứ không đúng. Tôi đã đọc kỹ bản gốc và tìm xem các lời chú giải. Tôi đã phát giác ra việc này, là theo phong tục Do Thái, khi thề độc thì tay người thề phải sờ vào con chim của người kia!
Nghe đến đây thì phe đàn ông chúng tôi phá ra cười như sấm nổ, bò lăn bò càng.
Lúc này ông ODP mới lên tiếng. Kinh Thánh là sách thánh, sách thánh thì phải chép đúng sự thực. Chuyện nàng Judita thu hút tướng giặc Holôphê và chuyện Isaac lấy vợ, đó là những chuyện bình thường của loài người. Mà chẳng riêng gì loài người, loài vật cũng đực cái thu hút nhau. Sáng nay tôi mới đọc một cuốn sách kể các chuyện cổ nước Ba Tư ngày xưa, trong đó có chuyện vua Darius cũng lý thú lắm.
Rằng ngày xưa hồi thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, Ba Tư bị một bạo chúa cai trị rất độc ác, dân chúng hết sức lầm than. Rồi có 7 nhà cách mạng hợp lực lật đổ được bạo chúa. Lật xong, bảy anh hùng này họp lại để chọn một người lên làm vua. Ai cũng tài giỏi hết, vậy chọn ai bây giờ. Cuối cùng thất hiền đồng ý như thế này: sáng sớm mai, ai đua ngựa mà ngựa hí vang lên, thì sẽ làm vua. Tướng Darius lo lắng, đem chuyện này kể với người hầu cận. Anh hầu này bảo việc đó không khó gì. Anh ghé vào tai Darius nói nhỏ một câu. Hai bên cười hinh hích một chập rồi đi ngủ. Sáng sớm hôm sau có cuộc đua ngưa để chọn vua. Sáu tráng sĩ lên ngựa chạy hết mấy vòng mà không hề có con ngựa nào hí lên một tiếng. Đến lượt Darius. Người hùng Darius lên ngựa, vừa chạy chưa hết vòng thì con ngựa đã hí vang, hí vừa to vừa lâu. Thế là Darius lên làm vua nước Ba Tư và trờ thành một vị vua lỗi lạc.
Tại sao con ngựa của Darius hí ư? Theo bí sử kể lại thì người hầu cận Darius đã dẫn một con ngựa cái tới giấu gần đoạn đường Darius sẽ chạy qua. Con ngựa đực của Darius đã ngửi thấy mùi ngựa cái nên nó đã hí ầm lên là thế!
Các bạn thấy chưa. Đây là luật trời đất: âm dương thu hút nhau. Có âm dương, có vợ chồng, ông bà đã dạy từ ngàn xưa. Có hút nhau thì loài người và loài vật mới tồn tại chứ. Đúng y như cái câu đố mà ngày xưa ông thày văn chương đố học trò chúng tôi. Khi ông giảng về cách chấm câu, cách dùng dấu phẩy dấu phết, ông đố cả lớp như thế này:
- Các em hãy làm cho câu sau đây biến thành 2 câu có nghĩa đối nghịch nhau:
‘ Đàn bà không có đàn ông là man rợ’
Cả lớp nghĩ mãi mà không ra lời giải, ông thày bèn cười rồi đáp: Đó là sự quan trọng của dấu phết. Tôi đặt dấu phết vào hai chỗ khác nhau thì ta có 2 câu đối chọi sau đây:
- Đàn bà không có đàn ông, là mọi rợ.
- Đàn bà không có, đàn ông là mọi rợ
Qủa đúng như vậy, trái đất này nếu chỉ có một giống, hoặc chỉ đàn bà, hoặc chỉ đàn ông, thì sự gì sẽ xảy ra, thưa các triết gia?
Anh H.O. hiểu được cái thông điệp âm dương cần có nhau nên anh xin kể tiếp câu chuyện mấy tháng trước đã kể trong làng. Không biết các cụ còn nhớ câu chuyện Đèo Ngang không? Rằng có một nhà phong thủy và điạ lý nổi tiếng kia đi qua Đèo Ngang ở Miền Trung thấy dân chúng nghèo qúa nên thấy tội nghiệp. Ông đã đề nghị dân làng nên đổi tên đèo thì sẽ hết nghèo. Ông đề nghị đổi Đèo Ngang ra Đèo Nghếch. Ông dùng phép nói lái. Đèo Ngang là ‘đang nghèo’ nay đổi ra Đèo Nghếch là ‘đếch nghèo’. Đếch nghèo nghe như một lời xua đuổi con ma nghèo. Và quả thực từ khi có tên mới Đèo Nghếch thì dân chúng hết nghèo. Nhưng rồi ít lâu sau, vì trở nên giầu có, nhiều sâm nhung tẩm bổ, dân miền này tự nhiên đông con, có nạn nhân mãn. Làm sao hết nạn nhân mãn bây giờ? Dân làng lại chạy đến xin nhà phong thủy địa lý cứu. Ông suy nghĩ một chập rồi bảo: Muốn hết nhân mãn thì hãy tạm ngưng yêu nhau. Vậy hãy đổi tên một lần nữa. Bây giờ Đèo Nghếch’ phải đổi ra ‘ Đèo Đứng’.
Làng tôi xưa nay rất giỏi về cách ‘nói lái’. Nghe đến đây thì làng tôi hiểu ngay lập tức và phá ra cười, ai cũng cười chảy cả nước mắt nước mũi, các bà thì tái diễn trò cũ là vừa cười vừa đấm nhau thùm thụp.
Làng An Lạc của tôi vui thế đấy, các cụ a.
Xin ngưng chuyện âm dương Đèo Ngang Đèo Đứng để trình các cụ vài tin thời sự Canada còn nóng hổi. Chuyện nóng thứ nhất là các khoa học gia Canada ở Đại Học McMaster tại bang Ontario vừa tìm ra cách chế được máu từ da của bệnh nhân. Đây là một tin vui mừng cho các bệnh nhân. Tế bào gốc được lấy từ chính da của bệnh nhân, chứ không phải đi xin máu của người khác. Đây mới là bước đầu. Bước đầu này sẽ đẻ ra nhiều bước kế tiêp, và nhiều phép lạ về máu sẽ xảy ra sau này. Canada giỏi không các cụ?
Đấy là chuyện đời sống vật chất. Đời sống tinh thần cũng nhiều chuyện vui và cảm động lắm. Kỳ trước tôi kể chuyện nhà triệu phú Karl Rabeder bên Áo bán hết tài sản để giúp người nghèo, kỳ này tôi xin kể chuyện Ông bà Allen Violet Large ở bang Nova Scotia, miền đông Canada. Ông bà đã trúng số độc đắc 11 triệu hồi tháng Bảy, và cuối tháng 11 vừa qua ông bà mới cho báo chí được biết về nhưng chi tiêu số tiền lớn này. Ông bà chỉ giữ lại 2 phần trăm cho riêng mình, còn bao nhiêu thì phân phát cho các nhà thờ, bệnh viện, nghĩa trang, sở cứu hỏa và các cơ quan bác ái. Ông Allen năm nay đã 75 tuổi. Ông vừa cười vừa nói với mọi người: Trước khi trúng số chúng tôi có thiếu gì đâu. Nay trúng số tức là Chúa mượn tay chúng tôi để giao tiền cho những ai cần hơn chúng tôi.
Đáng kính phục qúa, phải không các cụ. Lời Ông Large làm tôi nhớ tới một bài nghiên cứu mới đây cho biết đại đa số người Canada vẫn tin có Thượng Đế và đời sau. Ông bà Large đang chuyển tiền về đời sau đấy, các cụ ạ. Theo Kinh Thánh thì tiền giúp đỡ những người đói khát nghèo khổ là đồng tiền mua được nước thiên đàng mai sau.
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, kính chúc các cụ mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ đầm ấm, và có sẵn tiền để chuyển về đời sau.
Tuần qua Toronto nơi tôi cư ngụ đã đón rước Ông Già Santa Claus vào thành phố để mở đầu Mùa Giáng Sinh. Đoàn rước dài 6 cây số, 31 xe hoa và 25 ban nhạc. Bao nhiêu người tham dự. Khắp nơi rộn rã tiếng trống tiếng kèn và tiếng reo hò. Trung tâm thành phố được ngăn lại dành chỗ cho người đi đón chào Ông Già. Vui nhất là các em bé. Các em tươi cười và mặt mũi phón phở trông đẹp như những thiên thần bé nhỏ, dễ thương hết sức. Không biết ai bảo mà các em bé ở Canada đều tin ông Santa Claus là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian để mang quà cho các em. Văn phòng của ông đặt tại Bắc Cực. Nhiều em đã viết thư cho ông, vừa kể lể chuyện gia đình vừa xin qùa. Bưu điện Canada có một cơ quan đặc biệt phụ trách nhận thư cho ông, cũng như phúc đáp cho ông. Thư chỉ cần đề ‘Kính gửi Ông Santa Claus ở Bắc Cực’ là tới. Báo chí kể rằng có một em bé viết thư như thế này: Thưa Santa Claus, ba má con chỉ đẻ ra mình con, con cô đơn lắm, xin Santa Claus cho con một đứa em’. Santa Claus đã trả lời: Ta rất sẵn lòng và rất sung sướng cho con một đứa em. Con hãy gửi mẹ con lên đây với ta một đêm’. Ha ha. Các cụ thấy chưa, Santa Claus cũng là người như chúng ta chứ bộ. Rõ ràng nha.
Đoàn diễn hành vừa kèn trống vừa hát vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc. Người đứng xem hai bên đường cũng vỗ tay hát theo. Nào bài I Wish You a Merrry Christmas, theo tài liệu thì bài này gốc từ bên Anh và có từ thế kỷ 16. Nào bài Silent Night gốc từ bên Áo, có từ năm 1818. Nào bài Gingle Bells gốc từ vùng Boston bên Hoa Kỳ, có từ năm 1856. Tôi mê những bài này qúa. Cũng như bài Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời của Hải Linh có từ năm 1945. Những bài ca này đã nhập vào máu của mọi người và trở thành một nét văn hóa không biên giới.
Sau lễ rước Santa Claus thì thành phố như chính thức bước vào hội mùa đông, mùa trưng bày hoa đèn và cây thông, mùa mua qùa tặng qùa, mùa dạ tiệc và mùa đi lễ nhà thờ.
Làng An Hạ của tôi cũng mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể. Chúng tôi đã trở thành người Canada 99%, lâu rồi mà. Cũng qùa bánh, cũng tiệc mừng, cũng hát chúc nhau ‘We Wish You a Merry Christmas. Mà nhắc đến tiệc mừng là tôi lại nhớ tới Guy de Maupassant.
Các cụ biết ông nhà văn lớn của Pháp thuộc thế kỷ 19 này chứ. Người Mỹ đọc Hemingway, người Nga đọc Dostoyevsky, người Tàu đọc Lỗ Tấn, người Pháp đọc Maupassant. Ông là nhà văn, nhà thơ, chuyện ngắn chuyện dài thứ gì cũng hay và cũng nổi tiếng hết. Tôi đã nhớ tới chuyện ngắn Đêm Giáng Sinh / Nuit de Noel của ông.
Hình như ngày xưa tôi có kể cho các cụ rồi thì phải. Năm nay hai cô Huế và bà cụ B.95 theo lời xúi của Chị Ba Biên Hòa đã bắt tôi kể lại. Đành vâng lời. Các bà phán là trời phán. Tôi vui vẻ thi hành lệnh truyền vì thực ra câu chuyện này vui lắm. Nó chép rõ ràng trong sách Tây, với nhân vật chính trong truyện là ông Tây Henri Tenylier. Ông ta tự kể như thế này:
… Cách đây 2 năm, tôi bận làm việc qúa nên tôi từ chối mọi lời mời ăn tiệc nửa đêm sau lễ nhà thờ. Tiếng Tây gọi là ăn réveillon. Tôi định sẽ ăn réveillon một mình rồi sẽ làm việc tiếp. Nhưng đến 10 giờ tối thì không khí tưng bừng của đêm Noel Paris huyên náo qúa, tự nhiên tôi thấy bồn chồn và không làm việc được nữa, tôi bèn quyết định ăn réveillon. Tôi liền gọi chị giúp việc Angela và bảo chị đi phố ngay và mua cho được sò huyết, chim đa đa, thịt nguội, bánh ngọt và hai chai champagne, đủ ăn cho 2 người. Chị đi ngay. Rồi tôi tự hỏi: mình cần có bạn cùng ăn thì mới vui mới có ý nghĩa, nhưng mời ai bây giờ? Bạn bè ai cũng có hẹn hò hết rồi. Qúa trễ mất rồi. Cuối cùng thì tôi nghĩ tới một việc từ thiện. Paris thiếu gì ngươì đẹp nghèo khổ. Đêm nay tôi sẽ đóng vai Thượng Đế ban phước cho một người đẹp xấu số. Thế là tôi xuống phố. Tôi đã gặp rất nhiều cô xinh đẹp, nhưng tính tôi xưa nay chỉ thích những cô gái mập mạp. Mãi rồi tôi mới tìm ra một cô mập, mặt khá xinh, khoác một tấm áo lớn. Tôi đưa nàng về nhà tôi. Nàng vui mừng và cảm động lắm. Nàng ăn réveillon với tôi, ăn rất tận tình. Cuối tiệc, khi tôi lui cui thu dọn bàn thì nàng kêu khó chịu và xin được lên giường nằm. Nàng đắp chăn. Rồi bỗng nàng kêu thét lên. Nàng đau thật. Hèn chi trong bữa ăn tôi thấy đôi lúc nàng nhăn mặt. Tôi tiến đến bên giường và lật chăn ra. Và trơi ơi, nàng là một thiếu nữ có bầu. Nàng trông mập là vì cái bầu lớn này. Nàng đang chuyển bụng đẻ. Tôi kêu cứu. Thiên hạ đổ xô đến nhà tôi, nhưng không ai biết đỡ đẻ. Tôi vội chạy đi kiếm bác sĩ. Lúc tôi và bác sĩ về tới nhà thì bà bán sữa đầu lối trao cho tôi một đứa bé đỏ hỏn và nói: Xin mừng ông, bà nhà sinh con gái.
Trời ơi, ai cũng tưởng tôi là cha đứa bé. Bác sĩ săn sóc cô gái và cho toa mua thuốc, cùng hứa sẽ gửi vú nuôi đến giúp. Chúa ơi, tôi làm phước phải họa. Chẳng lẽ tôi đuổi nàng đi trong những ngày băng giá đầu năm sao! Thế là tôi đã nuôi nàng 6 tuần lễ rồi mời nàng ra khỏi nhà. Còn đứa bé tôi phải nhờ người nuôi giúp. Cô gái tuy bị tôi đuổi nhưng nàng đâm ra yêu tôi thật. Nàng không đi xa. Nàng cứ rình rập tôi. Hễ tôi ra khỏi nhà là nàng xông tới ôm hôn tôi.
Tôi đã học được một bài học đắt giá là từ nay sẽ không bao giờ mời khách ăn réveillon đêm Giáng Sinh nữa.
Cả làng tôi vỗ tay khen truyện hay và cảm động. Nhà văn lớn Guy de Maupassant viết có khác. Và phe các bà cũng rút ra nhiều bài học từ chuyện này lắm. Nào là chớ bao giờ mời khách lạ tới ăn cơm. Nào là phải cẩn thận với những bà những cô mập. Nào là đàn ông lớn rồi phải lấy vợ, ở một mình thì chẳng tốt. Nào là đàn ông thì nên mời khách đàn ông. Nào là khi đến lễ Giáng Sinh thì phải nghỉ làm việc..
Mãi rồi làng tôi mới ngưng bàn chuyện ông Tây làm phưóc phải tội trên đây.
Trong khi làng uống trà thì anh John đưa một tin vui nóng hổi, cũng liên quan tới văn chương, cũng liên quan đến tiếng Pháp. Đó là tin một thuyển nhân tỵ nạn VN nay đã là dân Tây Canada vừa đoat giải văn chương Pháp Văn tại Quebec. Theo báo chí Canada thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nhà văn người Canada gốc Việt đoạt giải văn chương 2010 của Toàn Quyền Canada, The Governor’s Literacy Awards. Đây là một giải văn chương lâu đời và cao qúy nhất tại quốc gia này cho các tác phẩm viết bằng Anh Văn và Pháp văn. Đó là nhà văn nữ Lý Kim Thúy, với tác phẩm mang tên ‘RU’.
Tác giả Kim Thúy sinh năm 1968 tại Saigon. Khi mới 10 tuổi, Kim Thúy theo cha mẹ vượt biên trốn CS. Sau một thời gian sống ở trại tỵ nạn Mã lai, cô đưọc Canada nhận và cho định cư ở Quebec, miền nói tiếng Pháp. Kim Thuý vừa đi làm vừa đi học. Cô làm nhiều nghề: hái rau, thợ may, giữ két…Kim Thúy đã tồt nghiệp trường Luật và Trường Ngôn Ngữ ở Đại Học Montréal. Cô hành nghề luật sư. Cô mới cầm bút và tác phẩm đầu tay RU đã được giải thưởng ngay. Quả là thiên tài. RU đây không phải là tiếng Việt như ru em, ru ngủ, mà là tiếng Pháp, RU là con lạch nhỏ, con suối nhỏ. Trong tác phẩm, tác giả nói về chính cuộc đời mình, nhận xét tinh tế và sắc bén nhưng rất khiêm tốn. Tác phẩm được chào đón khắp nơi. Theo nhật báo bên Pháp, tờ Le Figaro, thì văn Kim Thúy đẹp như những vần thơ, chuyên chở đầy ý nghĩ thâm trầm, đầy sinh lực và bắt người đọc suy nghĩ. Sách đang được dịch sang tiếng Ý, tiếng Đức, Tây Ban Nha, Thụy Điển. Chưa nghe nói về việc dịch sang tiếng Việt.
Vui qúa chứ, phải không các cụ. Người Việt viết văn Pháp tài giỏi hơn người Pháp, lạ chứ và đáng nể chứ. Thật là tuyệt vời. Xin nhiệt liệt chúc mừng Nhà văn nữ Kim Thúy. Chị là niềm hãnh diện của người Việt Nam chúng tôi. Chị mang trong người hạt giống tốt của nói giống Tiên Rồng, hạt giống gặp đất tốt là nở bung ra ngay.
Chưa hết tin mừng. Cuối năm 2010 này cộng đồng VN ở đây còn có nhiều tin vui khác. Như trung tuần tháng Mười Một, tại Montréal, đất của nhà văn nữ Kim Thúy trên đây, đã có một ngày hội thảo ‘ Thế Hê Trẻ và Văn Hóa Việt’ khá sôi động và thành công. Có hai diễn giả chính là bà Jackie Bông từ Hoa Kỳ sang và Bà Hải Phong, phu nhân của GS Nguyễn Hải Bình từ Quebec xuống. Rất đông người tới tham dự. Đây là đất Montréal. Còn ở Toronto cũng có một sinh hoạt văn hóa khác rất đặc sắc. Đó là ngày Văn Hóa Á Châu do Trung Tâm Văn Hóa Nhật Bản tổ chức, với sự tham gia của nhiều sắc dân như Tây Tạng, Miến Điện, Phi Luật Tân, Thái Lan, Đài Loan, Lào, và Việt Nam. Con chim đầu đàn của đoàn Việt Nam là Anh Hoàng Mạnh Hùng. Đoàn đã tham dự với gian hàng thực phẩm, tiểu công nghệ, trình diễn múa hát và thời trang. Đoàn đã gặt hái được nhiều thành công.
Cụ B.95 ngồi nghe các tin vui thì thích lắm nhưng hình như chưa hả dạ. Cụ lên tiếng gọi: Hai người đẹp đất Thần Kinh đâu? Cô Cao Xuân cô Tôn Nữ đâu? xin góp chuyện vui đi coi. Hai cô Huế được kêu là ‘người đẹp’ có vẻ sướng trong bụng nhưng vẫn làm dáng e lệ không dám nhận. Cô Cao Xuân thưa: ‘Cháu mà đẹp cái gì!’. Cụ B.95 đáp ngay: các cô đất nhà vua mà không đẹp thì ai đẹp bây giờ? Cô Cao Xuân ngày xưa là hoa khôi trong trường mà. Cô lại học ban văn chương nên chũ nghĩa đầy trong bụng. Cô Huế đáp ngay:
- Miền Trung xứ dân nghèo, đất cầy lên sỏi đá, nên gái miền Trung không đẹp bằng các cô gái miền Nam của đất phù sa trù phú. Không cần phải tìm chứng từ gì đâu xa, cứ nghe bài vè bình dân này là thấy liền à. Cháu thuộc bài này từ hồi còn ở trung học:
Gái Cần Thơ Vĩnh Long
Đất gạo trắng nước trong
Người mơn mởn như xoài
Da trắng như bông bưởi
Mắt đen như hạt nhãn
Tóc thơm mùi hoa cau
...
Quý vị đã thấy các cô gái miền Nam đẹp chưa, nét đẹp không son phấn thành thị mà là sắc đẹp thiên nhiên đồng quê, như trái xoài, bông bưởi, hoa cau.
Cả làng ngồi nghe, trong bụng ai cũng khen cô Cao Xuân này giỏi qúa. Hình như ngày xưa ở Việt Nam cô là luật sư chứ phải chơi đâu. Thấy ai cũng vỗ tay, được hứng cô nói tiếp:
- Đấy là các cô Nam Kỳ. Các cô Bắc Kỳ đẹp cũng hãi lắm. Cứ nghe bài Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp là thấy rõ.
Vì chạm tới gái Bắc Kỳ nên cụ B.95 muốn nghe chi tiết. Cụ xin cô Cao Xuân hát bài Đi Chùa Hương cho cụ nghe. Cô liền lắc đầu xin chịu. Cô đáp:
- Cháu không biết hát. Xin đùng bắt cháu hát. Cháu mà hát thì đêm nay cụ và cả làng sẽ mất ngủ vì ác mộng. Để cháu tóm tắt cái đẹp của cô Bắc Kỳ, theo sách vở ngày xưa, như thế này:
. khăn vấn đuôi gà
. yếm thắm
. áo tứ thân ôm sát vòng eo
. nhai trầu hồng đôi má đôi môi
. mắt bồ câu
. da trứmg gà bóc
. bàn tay búp măng
. giọng oanh vàng thỏ thẻ
. dáng đi nhẹ nhàng như bước sen lãng đãng
...
Đấy là hình ảnh mấy cô ngày xưa, chắc là vào thời của Cụ đây. Hiện nay cháu có nhiều bạn Bắc Kỳ lắm. Cô Bắc Kỳ nào cũng đẹp hết.
Đến đây thì anh H.O. giơ tay xin nói:
- Chắc gái Bắc Kỳ phải đẹp nhất nước vì cứ xem các cuộc thi hoa hậu gần đây tại VN thì đủ rõ. Bao giờ hoa hậu cũng là cô gái Hà Nội.
Nghe đến đây thì cụ B.95 giơ tay xin thôi. Cụ bảo hoa hậu phải là người Bắc Kỳ vì là đất thủ đô của Đảng. Anh đang lái sang chuyện chính trị nhức đầu mất rồi. Xin ngưng nha. Rồi cụ quay vào anh John thần tượng của cụ:
- Nãy giờ chúng tôi toàn nghe chuyện người đẹp VN. Bây giờ đang mùa Giáng Sinh xin nói về đạo Chúa. Thế trong sách Thánh Kinh có đoạn nào tả về đàn bà đẹp không?
Chà, cụ chuyển đề nhanh qúa và khéo qúa. Chàng John của làng tôi qủa là thiên tài. Anh đáp ngay:
- Thưa có. Thánh Kinh không những tả đàn bà đẹp mà còn tả đàn ông đẹp nữa cơ.
Cả làng xưa nay chỉ nghe tả đàn bà đẹp, đây là lần đầu tiên làng nghe nói tới việc tả đàn ông đẹp.
Thấy lạ, ai cũng chú tâm nghe nhà kinh thánh John giảng bài.
- Tôi xin trich một đọan nói về người đẹp Judita trong sách Cựu Ước:
... Dân Do Thái bị quân ngoại vây hãm, các mạch suối dẫn nước vào thành đều bị cắt đứt. Dân hầu chết khát và bắt đầu kêu trách cấp chỉ huy. Bấy giờ Judita, một góa phụ trẻ, đẹp lộng lẫy và đạo đức, đã tình nguyện xin dùng mỹ nhân kế. Nàng ra khỏi thành, vào trại giặc xin gặp vị chỉ huy, đó là tướng Hôlôphê. Vừa nhìn thấy Judita, tướng Holôphê liền chết mê chết mệt. Tướng cho nàng mọi đặc ân, được ở lều riêng, muốn đi lại chỗ nào và lúc nào cũng được. Judita đã ở mấy ngày trong trại mà chưa cho Holôphê đụng tới nàng. Nàng cứ khất lần. Đến tối ngày thứ ba thì Hôlôphê cho mở đại tiệc thết người đẹp. Judita liền lập kế. Bữa đó nàng chuốc rượu cho Hôlôphê uống say ngất. Hôlôphê hồn chơi vơi nhìn nàng đắm đuối vì nghĩ trong bụng đêm nay ông sẽ chiếm được nàng. Cuối tiệc thì Hôlôphê say qúa lăn ra ngủ li bì. Mọi người ra về, mình Juđita ở lại trong lều. Ai cũng tưởng Judita sẽ săn sóc tận tình cho vị chủ tướng. Ai dè trong đêm khuya Judita đã chặt đầu Hôlôphê và bỏ vào túi xách vẫn đem theo. Rồi Judita tiến ra bờ suối như thường lệ nàng vẫn ra cấu nguyện. Quân canh không hề để ý. Judita đã băng qua suối và tiến về trại Do Thái. Nàng giơ đầu Hôlôphê lên cho mọi người xem. Toàn trại hân hoan vô cùng nhưng ra sức giữ kín. Sáng hôm sau Do Thái dẫn đại quân xuống núi. Lúc bấy giờ quân giặc mói đánh thức Hôlôphê, nhưng than ôi, tin sét đánh, Hôlôphê đã bị chặt đầu. Thế là hàng quân rung động và tan nát. Quân Do Thái toàn thắng.
Cụ B.95 nghe thì thích quá vì lần đầu nghe chuyện lạ. Cụ bảo cụ cứ tưởng chuyện Tàu mới có mỹ nhân kế, ai dè chuyện Tây cũng có nữa sao. Rôi cụ chợt nhớ là anh John còn nói trong Thánh Kinh cũng tả đàn ông đẹp nữa, cụ xin anh kể. Anh John kể ngay. Cái anh chàng John da trắng này giỏi thật, phải không các cụ? Tôi phục anh qúa chừng.
Anh John thủng thẳng đáp: Sách Thánh tả đàn ôn đẹp nhưng không tả dài dòng. Chỉ có chút xíu. Đó là phần nói về chàng Absalôm, con trai vua David. Sách tả như sau: ‘…Trong toàn dân Israel thât không có ai đẹp trai như Absalôm, mọi người hết lời ca ngợi. Từ bàn chân đến đỉnh đầu thât không có chỗ nào chê được’. Tiếc rằng Absalôm đã mưu toan chiếm ngôi cha, đã làm loạn và bị giết chết. Vua David đã ôm xác con mà khóc.
Cả làng ai cũng sung sướng vì bữa nay được nghe những chuyện hấp dẫn không ngờ có trong sách thánh.
Rồi làng nghỉ giải lao. Trong khi các bà rủ nhau đi nấu chè thì phe liền ông chúng tôi tụm lại để bàn các việc quốc sự. Anh John nhìn trước nhìn sau không thấy vợ đâu liền nói nhỏ:
- Lúc nãy tôi nói mấy chuyện vui trong Kinh Thánh, nhưng có một chuyện này vui nhất mà không dám kể. Đó là chuyện ông lão bộc của Abraham. Chúng ta biết rằng tổ phụ của Israel là cụ Abraham. Cụ có vợ là bà Sara. Khi cụ đã gìa rồi Chúa mới cho cụ có con. Đó là cậu Isaac. Khi cậu con trai này đã lớn thì Cụ Abraham nghĩ tới việc lấy vợ cho con. Nhìn chung quanh không thấy ai xứng đáng, cụ liền sai người lão bộc thân tín về quê nội kiếm vợ cho con. Lão bộc đã tìm ra nàng Rebecca và đem về cho Isaac. Điều đáng nói là trước khi lão bộc ra đi, cụ già Abraham đã bảo thế này:
- Vì đây là việc hệ trọng, ngươi hãy đặt tay dưới đùi ta mà thề rằng ngươi sẽ về tận quê nội của ta và tìm cho ra vợ cho con ta.
Lão bộc đã đặt tay mà thề.
Kể đến đây rồi anh John cười hề hề:
- ‘Đặt tay dưới đùi’ là đặt ở chỗ nào? Đó là cách dịch nhẹ nhàng chứ không đúng. Tôi đã đọc kỹ bản gốc và tìm xem các lời chú giải. Tôi đã phát giác ra việc này, là theo phong tục Do Thái, khi thề độc thì tay người thề phải sờ vào con chim của người kia!
Nghe đến đây thì phe đàn ông chúng tôi phá ra cười như sấm nổ, bò lăn bò càng.
Lúc này ông ODP mới lên tiếng. Kinh Thánh là sách thánh, sách thánh thì phải chép đúng sự thực. Chuyện nàng Judita thu hút tướng giặc Holôphê và chuyện Isaac lấy vợ, đó là những chuyện bình thường của loài người. Mà chẳng riêng gì loài người, loài vật cũng đực cái thu hút nhau. Sáng nay tôi mới đọc một cuốn sách kể các chuyện cổ nước Ba Tư ngày xưa, trong đó có chuyện vua Darius cũng lý thú lắm.
Rằng ngày xưa hồi thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, Ba Tư bị một bạo chúa cai trị rất độc ác, dân chúng hết sức lầm than. Rồi có 7 nhà cách mạng hợp lực lật đổ được bạo chúa. Lật xong, bảy anh hùng này họp lại để chọn một người lên làm vua. Ai cũng tài giỏi hết, vậy chọn ai bây giờ. Cuối cùng thất hiền đồng ý như thế này: sáng sớm mai, ai đua ngựa mà ngựa hí vang lên, thì sẽ làm vua. Tướng Darius lo lắng, đem chuyện này kể với người hầu cận. Anh hầu này bảo việc đó không khó gì. Anh ghé vào tai Darius nói nhỏ một câu. Hai bên cười hinh hích một chập rồi đi ngủ. Sáng sớm hôm sau có cuộc đua ngưa để chọn vua. Sáu tráng sĩ lên ngựa chạy hết mấy vòng mà không hề có con ngựa nào hí lên một tiếng. Đến lượt Darius. Người hùng Darius lên ngựa, vừa chạy chưa hết vòng thì con ngựa đã hí vang, hí vừa to vừa lâu. Thế là Darius lên làm vua nước Ba Tư và trờ thành một vị vua lỗi lạc.
Tại sao con ngựa của Darius hí ư? Theo bí sử kể lại thì người hầu cận Darius đã dẫn một con ngựa cái tới giấu gần đoạn đường Darius sẽ chạy qua. Con ngựa đực của Darius đã ngửi thấy mùi ngựa cái nên nó đã hí ầm lên là thế!
Các bạn thấy chưa. Đây là luật trời đất: âm dương thu hút nhau. Có âm dương, có vợ chồng, ông bà đã dạy từ ngàn xưa. Có hút nhau thì loài người và loài vật mới tồn tại chứ. Đúng y như cái câu đố mà ngày xưa ông thày văn chương đố học trò chúng tôi. Khi ông giảng về cách chấm câu, cách dùng dấu phẩy dấu phết, ông đố cả lớp như thế này:
- Các em hãy làm cho câu sau đây biến thành 2 câu có nghĩa đối nghịch nhau:
‘ Đàn bà không có đàn ông là man rợ’
Cả lớp nghĩ mãi mà không ra lời giải, ông thày bèn cười rồi đáp: Đó là sự quan trọng của dấu phết. Tôi đặt dấu phết vào hai chỗ khác nhau thì ta có 2 câu đối chọi sau đây:
- Đàn bà không có đàn ông, là mọi rợ.
- Đàn bà không có, đàn ông là mọi rợ
Qủa đúng như vậy, trái đất này nếu chỉ có một giống, hoặc chỉ đàn bà, hoặc chỉ đàn ông, thì sự gì sẽ xảy ra, thưa các triết gia?
Anh H.O. hiểu được cái thông điệp âm dương cần có nhau nên anh xin kể tiếp câu chuyện mấy tháng trước đã kể trong làng. Không biết các cụ còn nhớ câu chuyện Đèo Ngang không? Rằng có một nhà phong thủy và điạ lý nổi tiếng kia đi qua Đèo Ngang ở Miền Trung thấy dân chúng nghèo qúa nên thấy tội nghiệp. Ông đã đề nghị dân làng nên đổi tên đèo thì sẽ hết nghèo. Ông đề nghị đổi Đèo Ngang ra Đèo Nghếch. Ông dùng phép nói lái. Đèo Ngang là ‘đang nghèo’ nay đổi ra Đèo Nghếch là ‘đếch nghèo’. Đếch nghèo nghe như một lời xua đuổi con ma nghèo. Và quả thực từ khi có tên mới Đèo Nghếch thì dân chúng hết nghèo. Nhưng rồi ít lâu sau, vì trở nên giầu có, nhiều sâm nhung tẩm bổ, dân miền này tự nhiên đông con, có nạn nhân mãn. Làm sao hết nạn nhân mãn bây giờ? Dân làng lại chạy đến xin nhà phong thủy địa lý cứu. Ông suy nghĩ một chập rồi bảo: Muốn hết nhân mãn thì hãy tạm ngưng yêu nhau. Vậy hãy đổi tên một lần nữa. Bây giờ Đèo Nghếch’ phải đổi ra ‘ Đèo Đứng’.
Làng tôi xưa nay rất giỏi về cách ‘nói lái’. Nghe đến đây thì làng tôi hiểu ngay lập tức và phá ra cười, ai cũng cười chảy cả nước mắt nước mũi, các bà thì tái diễn trò cũ là vừa cười vừa đấm nhau thùm thụp.
Làng An Lạc của tôi vui thế đấy, các cụ a.
Xin ngưng chuyện âm dương Đèo Ngang Đèo Đứng để trình các cụ vài tin thời sự Canada còn nóng hổi. Chuyện nóng thứ nhất là các khoa học gia Canada ở Đại Học McMaster tại bang Ontario vừa tìm ra cách chế được máu từ da của bệnh nhân. Đây là một tin vui mừng cho các bệnh nhân. Tế bào gốc được lấy từ chính da của bệnh nhân, chứ không phải đi xin máu của người khác. Đây mới là bước đầu. Bước đầu này sẽ đẻ ra nhiều bước kế tiêp, và nhiều phép lạ về máu sẽ xảy ra sau này. Canada giỏi không các cụ?
Đấy là chuyện đời sống vật chất. Đời sống tinh thần cũng nhiều chuyện vui và cảm động lắm. Kỳ trước tôi kể chuyện nhà triệu phú Karl Rabeder bên Áo bán hết tài sản để giúp người nghèo, kỳ này tôi xin kể chuyện Ông bà Allen Violet Large ở bang Nova Scotia, miền đông Canada. Ông bà đã trúng số độc đắc 11 triệu hồi tháng Bảy, và cuối tháng 11 vừa qua ông bà mới cho báo chí được biết về nhưng chi tiêu số tiền lớn này. Ông bà chỉ giữ lại 2 phần trăm cho riêng mình, còn bao nhiêu thì phân phát cho các nhà thờ, bệnh viện, nghĩa trang, sở cứu hỏa và các cơ quan bác ái. Ông Allen năm nay đã 75 tuổi. Ông vừa cười vừa nói với mọi người: Trước khi trúng số chúng tôi có thiếu gì đâu. Nay trúng số tức là Chúa mượn tay chúng tôi để giao tiền cho những ai cần hơn chúng tôi.
Đáng kính phục qúa, phải không các cụ. Lời Ông Large làm tôi nhớ tới một bài nghiên cứu mới đây cho biết đại đa số người Canada vẫn tin có Thượng Đế và đời sau. Ông bà Large đang chuyển tiền về đời sau đấy, các cụ ạ. Theo Kinh Thánh thì tiền giúp đỡ những người đói khát nghèo khổ là đồng tiền mua được nước thiên đàng mai sau.
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, kính chúc các cụ mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ đầm ấm, và có sẵn tiền để chuyển về đời sau.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Người Đi Để Lại Lá Vàng...
Joseph Nguyễn Tro Bụi
22:15 15/12/2010
NGƯỜI ĐI ĐỂ LẠI LÁ VÀNG…
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Ai rung cho lá rụng đầy
Ai đi để lại nơi nầy quạnh hiu,
Chỗ ngồi lá rải buồn thiu…
(Joseph Nguyễn Tro Bụi)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Ai rung cho lá rụng đầy
Ai đi để lại nơi nầy quạnh hiu,
Chỗ ngồi lá rải buồn thiu…
(Joseph Nguyễn Tro Bụi)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền