Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:45 16/12/2019
13. Vì thế giới này mà gia tăng công đức, vì tương lai của thế giới này mà gia tăng thánh sủng, thì không có phương pháp nào tốt hơn bằng sự kiên nhẫn và đau khổ.
(Thánh Cyprianus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
--------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:50 16/12/2019
91. GIỎI PHÁ GIA SẢN
Đặng Hựu ở Thiều Châu là nhà cự phú, ruộng vườn vạn mẫu, nhưng ông ta từ trước đến nay không mời khách đến nhà ăn cơm.
Có một lần, đứa cháu giết con vịt trong nhà mời bạn bè ăn, Đặng Hựu lòng đau muốn chết, lấy lý do là “giỏi phá gia sản” nên đánh thằng cháu hai mươi roi !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 91:
Keo kiết đến như thế thì quả là hết nước nói, không như “người cha nhân hậu” của Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng của thánh Luca (Lc 15, 11-32) đã nói với con trai cả: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31).
Con người ta vì ích kỷ mà trở thành keo kiệt bủn xỉn, người keo kiết bủn xỉn vì họ không muốn sống Lời Chúa, họ không muốn sống Lời Chúa là vì họ rất ít đi nhà thờ dâng lễ đọc kinh, họ không đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ là vì họ ích kỷ với Thiên Chúa là Đấng đã ban cho họ sự giàu có, sức khoẻ và địa vị…
Chỉ vì đứa cháu làm thịt con vịt để đãi bạn bè mà ông nội ghép vào tội phá sản để đánh hai mươi roi, đúng là vì keo kiết mà trở thành ác nghiệt với cả con cháu của mình.
Đức Chúa Giê-su chưa hề nêu tội trạng “phá sản” của chúng ta, khi mà chúng ta hàng ngày vẫn “phá sản hồng ân” của Ngài ban cho trong những kiêu ngạo, ích kỷ bủn xỉn với tha nhân.
Thử hồi tâm suy nghĩ xem: tôi có keo kiệt bủn xỉn với anh em chị em không, khi mà Thiên Chúa đã ban cho tôi quá nhiều may mắn hơn họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Đặng Hựu ở Thiều Châu là nhà cự phú, ruộng vườn vạn mẫu, nhưng ông ta từ trước đến nay không mời khách đến nhà ăn cơm.
Có một lần, đứa cháu giết con vịt trong nhà mời bạn bè ăn, Đặng Hựu lòng đau muốn chết, lấy lý do là “giỏi phá gia sản” nên đánh thằng cháu hai mươi roi !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 91:
Keo kiết đến như thế thì quả là hết nước nói, không như “người cha nhân hậu” của Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng của thánh Luca (Lc 15, 11-32) đã nói với con trai cả: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31).
Con người ta vì ích kỷ mà trở thành keo kiệt bủn xỉn, người keo kiết bủn xỉn vì họ không muốn sống Lời Chúa, họ không muốn sống Lời Chúa là vì họ rất ít đi nhà thờ dâng lễ đọc kinh, họ không đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ là vì họ ích kỷ với Thiên Chúa là Đấng đã ban cho họ sự giàu có, sức khoẻ và địa vị…
Chỉ vì đứa cháu làm thịt con vịt để đãi bạn bè mà ông nội ghép vào tội phá sản để đánh hai mươi roi, đúng là vì keo kiết mà trở thành ác nghiệt với cả con cháu của mình.
Đức Chúa Giê-su chưa hề nêu tội trạng “phá sản” của chúng ta, khi mà chúng ta hàng ngày vẫn “phá sản hồng ân” của Ngài ban cho trong những kiêu ngạo, ích kỷ bủn xỉn với tha nhân.
Thử hồi tâm suy nghĩ xem: tôi có keo kiệt bủn xỉn với anh em chị em không, khi mà Thiên Chúa đã ban cho tôi quá nhiều may mắn hơn họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
250 nhà báo bị cầm tù trên toàn thế giới, 24 nhà báo bị giết trong năm 2019
Đặng Tự Do
03:31 16/12/2019
Ủy ban Bảo vệ Nhà báo công bố báo cáo năm 2019 về các nhà báo bị giam giữ trong các nhà tù của nhà nước. Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ đứng đầu danh sách các quốc gia giam cầm các nhà báo chỉ trích chính phủ hoặc tố cáo tham nhũng và các vi phạm nhân quyền.
Ủy ban Bảo vệ Nhà báo là một cơ quan độc lập có trụ sở tại New York. Cơ quan này được thành lập vào năm 1981 để thúc đẩy tự do báo chí và bảo vệ quyền của các chuyên gia thông tin công cộng trên toàn thế giới, cho dù phương tiện của họ là báo in, đài phát thanh, TV hoặc internet.
250 nhà báo bị cầm tù
Theo khảo sát toàn cầu hàng năm, 250 nhà báo đã bị cầm tù trong năm qua. Hầu hết trong số họ bị bắt vì xuất bản các bài báo chỉ trích chính phủ, hoặc các đảng phái chính trị, hoặc vì tiết lộ các vi phạm nhân quyền.
Đe dọa tự do báo chí
Các quốc gia đứng đầu trong việc bắt bớ các nhà báo là Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ với 48 và 47 ký giả bị bắt. Ả Rập Saudi và Ai Cập theo sau, kế đó là Eritrea, Việt Nam, Iran, Nga và Cameroon. Hai mươi trong số những người hiện đang bị giam giữ là phụ nữ. Hơn một nửa số nhà báo bị bắt là các phóng viên trực tuyến. Ba mươi người bị buộc tội phổ biến “tin giả”.
Các luật nghiêm ngặt nhằm kiềm chế tự do báo chí, cũng như chính sách đóng cửa các phương tiện truyền thông của các chính phủ, đã khiến hàng chục nhà báo bị mất việc, và buộc những người khác phải lưu vong. 98% các nhà báo bị bỏ tù trên toàn thế giới là các nhà truyền thông địa phương, tức là những người đưa các tin tức về đất nước họ.
24 nhà báo bị giết
Kể từ khi bắt đầu theo dõi số lượng nhà báo bị bách hại từ năm 1992, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo đã ghi nhận cái chết của 1362 nhà báo. Riêng trong năm qua đã có 24 nhà truyền thông bị giết trong khi làm nhiệm vụ thông tin.
Nhờ các hoạt động giám sát và hỗ trợ pháp lý, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo đã góp phần giải phóng sớm cho 80 nhà báo
Source:Vatican News250 journalists imprisoned worldwide during 2019
Ủy ban Bảo vệ Nhà báo là một cơ quan độc lập có trụ sở tại New York. Cơ quan này được thành lập vào năm 1981 để thúc đẩy tự do báo chí và bảo vệ quyền của các chuyên gia thông tin công cộng trên toàn thế giới, cho dù phương tiện của họ là báo in, đài phát thanh, TV hoặc internet.
250 nhà báo bị cầm tù
Theo khảo sát toàn cầu hàng năm, 250 nhà báo đã bị cầm tù trong năm qua. Hầu hết trong số họ bị bắt vì xuất bản các bài báo chỉ trích chính phủ, hoặc các đảng phái chính trị, hoặc vì tiết lộ các vi phạm nhân quyền.
Đe dọa tự do báo chí
Các quốc gia đứng đầu trong việc bắt bớ các nhà báo là Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ với 48 và 47 ký giả bị bắt. Ả Rập Saudi và Ai Cập theo sau, kế đó là Eritrea, Việt Nam, Iran, Nga và Cameroon. Hai mươi trong số những người hiện đang bị giam giữ là phụ nữ. Hơn một nửa số nhà báo bị bắt là các phóng viên trực tuyến. Ba mươi người bị buộc tội phổ biến “tin giả”.
Các luật nghiêm ngặt nhằm kiềm chế tự do báo chí, cũng như chính sách đóng cửa các phương tiện truyền thông của các chính phủ, đã khiến hàng chục nhà báo bị mất việc, và buộc những người khác phải lưu vong. 98% các nhà báo bị bỏ tù trên toàn thế giới là các nhà truyền thông địa phương, tức là những người đưa các tin tức về đất nước họ.
24 nhà báo bị giết
Kể từ khi bắt đầu theo dõi số lượng nhà báo bị bách hại từ năm 1992, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo đã ghi nhận cái chết của 1362 nhà báo. Riêng trong năm qua đã có 24 nhà truyền thông bị giết trong khi làm nhiệm vụ thông tin.
Nhờ các hoạt động giám sát và hỗ trợ pháp lý, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo đã góp phần giải phóng sớm cho 80 nhà báo
Source:Vatican News
Vì lòng thù hận đức tin một thanh niên đã đốt nhà thờ Franklin Lakes để phá hoại lễ Giáng Sinh
Đặng Tự Do
16:36 16/12/2019
Một thanh niên đã bị bắt sau khi đốt một nhà thờ Công Giáo ở Franklin Lakes. Khi bị bắt, nghi can đã nhanh chóng thừa nhận hành vi phá hoại của mình. Một bộ quần áo tìm được trong nhà đương sự nồng nặc mùi xăng dầu. Bên cạnh đó, lông mày và tóc của đương sự cũng bị ngọn lửa thiêu cháy một phần. Anh ta cũng bị bỏng ở tay, chân và cổ.
Hôm thứ Ba 10 tháng 12, Mayers, 26 tuổi và là một cư dân thành phố Franklin Lakes, đã mang xăng đến đốt nhà thờ với ý hướng phá hoại lễ Giáng Sinh của người Công Giáo. Trong lúc say mê đốt nhà thờ vì lòng thù hận đức tin, y không thể khống chế được ngọn lửa và vô ý để xăng dầu dính vào quần áo. Lửa táp vào người y gây ra các vết bỏng trên người.
Y cố thoát thân và chạy được về nhà. Các nhà điều tra đã đến Most Blessed Sacrament Church vào sáng hôm thứ Tư. Các hình ảnh thu được từ các camera trong vùng đã nhanh chóng dẫn đến việc bắt giữ Mayers. Y đang được điều trị tại Trung tâm y tế Saint Barnabas ở Livingston dưới sự canh gác nghiêm nhặt của cảnh sát.
Hôm thứ Sáu 13 tháng 12, y đã phải xuất hiện trong phòng xử án Hackensack để trả lời các cáo buộc về tội đốt phá và trộm cắp nghiêm trọng.
Tối thứ Năm, anh chị em giáo dân đã tập trung tại bãi đậu xe của nhà thờ để cầu nguyện tại bức tượng Đức Trinh Nữ Maria. Không ai trong số họ quen biết với Mayer.
Một cây thông Giáng Sinh trước đó được dựng ở lối vào nhà thờ, để anh chị em treo lên các gift cards làm quà cho người nghèo trong vùng, đã được kéo ra bên ngoài để làm giá đỡ các bó hoa do anh chị em giáo dân mang đến.
“Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nhà thờ sẽ được xây dựng lại,” Murphy, một giáo dân 35 tuổi của thành phố Franklin Lakes nói. “Tôi chỉ lo rằng sẽ mất thời gian và chúng tôi không muốn các thành viên giải tán trong lúc này.”
Cây thông Giáng Sinh bị cháy đen này được dựng cạnh bức tượng Đức Mẹ trước hàng rào sắt bảo vệ cho ngôi nhà thờ bị lửa thiêu rụi vào tối thứ ba.
Tổng giáo phận Newark chưa đưa ra kế hoạch nào cho việc tái xây dựng lại nhà thờ. Trong khi đó, anh chị em được thông báo rằng các Thánh lễ trong tuần và Thánh lễ 9 giờ sáng Thứ Bảy sẽ được tổ chức tại trung tâm cộng đồng của giáo xứ và các Thánh lễ cuối tuần khác tại phòng tập thể dục của ngôi trường kế bên.
Marie Longo đầy nước mắt cho biết: “Tôi sống ở ngay bên kia đường và chứng kiến toàn bộ sự việc. Tôi khóc rất nhiều.”
Longo cho biết cô đã tham dự thánh lễ đầu tiên tại trung tâm cộng đồng giáo xứ ngay sau trận hỏa hoạn. Cô cám ơn Cha John Job và Đức Giám Mục John Flesey đã an ủi anh chị em giáo dân, kéo tất cả họ ra khỏi nỗi buồn.
Thị trưởng Frank Bivona và vợ, là Maureen, cũng đến cầu nguyện với hoa và nến. Hai vợ chồng này là các thừa tác viên Thánh Thể trong giáo xứ.
Giáo xứ, phục vụ hơn 2,000 gia đình, được Tổng giáo phận Newark thành lập vào năm 1960. Năm 1981, giáo xứ đã xây dựng một cung thánh mới. Đó là nơi đám cháy hôm thứ Ba bắt đầu.
Hôm thứ Năm, thị trưởng Bivona, là một thành viên của giáo xứ trong hơn 25 năm qua, cho biết rằng các thánh lễ cuối tuần trong tương lai gần có thể được cử hành trong phòng tập thể dục của trường trung tiểu học Thánh Thể, một trường Công Giáo của giáo xứ. Nhà trường đã mở cửa trở lại từ hôm thứ Năm.
Source:North JerseySuspect in Franklin Lakes church arson found covered in gasoline, documents show
Hôm thứ Ba 10 tháng 12, Mayers, 26 tuổi và là một cư dân thành phố Franklin Lakes, đã mang xăng đến đốt nhà thờ với ý hướng phá hoại lễ Giáng Sinh của người Công Giáo. Trong lúc say mê đốt nhà thờ vì lòng thù hận đức tin, y không thể khống chế được ngọn lửa và vô ý để xăng dầu dính vào quần áo. Lửa táp vào người y gây ra các vết bỏng trên người.
Y cố thoát thân và chạy được về nhà. Các nhà điều tra đã đến Most Blessed Sacrament Church vào sáng hôm thứ Tư. Các hình ảnh thu được từ các camera trong vùng đã nhanh chóng dẫn đến việc bắt giữ Mayers. Y đang được điều trị tại Trung tâm y tế Saint Barnabas ở Livingston dưới sự canh gác nghiêm nhặt của cảnh sát.
Hôm thứ Sáu 13 tháng 12, y đã phải xuất hiện trong phòng xử án Hackensack để trả lời các cáo buộc về tội đốt phá và trộm cắp nghiêm trọng.
Tối thứ Năm, anh chị em giáo dân đã tập trung tại bãi đậu xe của nhà thờ để cầu nguyện tại bức tượng Đức Trinh Nữ Maria. Không ai trong số họ quen biết với Mayer.
Một cây thông Giáng Sinh trước đó được dựng ở lối vào nhà thờ, để anh chị em treo lên các gift cards làm quà cho người nghèo trong vùng, đã được kéo ra bên ngoài để làm giá đỡ các bó hoa do anh chị em giáo dân mang đến.
“Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nhà thờ sẽ được xây dựng lại,” Murphy, một giáo dân 35 tuổi của thành phố Franklin Lakes nói. “Tôi chỉ lo rằng sẽ mất thời gian và chúng tôi không muốn các thành viên giải tán trong lúc này.”
Cây thông Giáng Sinh bị cháy đen này được dựng cạnh bức tượng Đức Mẹ trước hàng rào sắt bảo vệ cho ngôi nhà thờ bị lửa thiêu rụi vào tối thứ ba.
Tổng giáo phận Newark chưa đưa ra kế hoạch nào cho việc tái xây dựng lại nhà thờ. Trong khi đó, anh chị em được thông báo rằng các Thánh lễ trong tuần và Thánh lễ 9 giờ sáng Thứ Bảy sẽ được tổ chức tại trung tâm cộng đồng của giáo xứ và các Thánh lễ cuối tuần khác tại phòng tập thể dục của ngôi trường kế bên.
Marie Longo đầy nước mắt cho biết: “Tôi sống ở ngay bên kia đường và chứng kiến toàn bộ sự việc. Tôi khóc rất nhiều.”
Longo cho biết cô đã tham dự thánh lễ đầu tiên tại trung tâm cộng đồng giáo xứ ngay sau trận hỏa hoạn. Cô cám ơn Cha John Job và Đức Giám Mục John Flesey đã an ủi anh chị em giáo dân, kéo tất cả họ ra khỏi nỗi buồn.
Thị trưởng Frank Bivona và vợ, là Maureen, cũng đến cầu nguyện với hoa và nến. Hai vợ chồng này là các thừa tác viên Thánh Thể trong giáo xứ.
Giáo xứ, phục vụ hơn 2,000 gia đình, được Tổng giáo phận Newark thành lập vào năm 1960. Năm 1981, giáo xứ đã xây dựng một cung thánh mới. Đó là nơi đám cháy hôm thứ Ba bắt đầu.
Hôm thứ Năm, thị trưởng Bivona, là một thành viên của giáo xứ trong hơn 25 năm qua, cho biết rằng các thánh lễ cuối tuần trong tương lai gần có thể được cử hành trong phòng tập thể dục của trường trung tiểu học Thánh Thể, một trường Công Giáo của giáo xứ. Nhà trường đã mở cửa trở lại từ hôm thứ Năm.
Source:North Jersey
Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh học hỏi về đề tài: Con người là gì?
Thanh Quảng sdb
17:28 16/12/2019
Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh học hỏi về đề tài: Con người là gì?
Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh vừa công bố một nghiên cứu có hệ thống mới về tầm nhìn nhân chủng học của Kinh thánh, được khảo cứu từ sách Sáng thế ký cho đến sách Khải huyền. Trong cuộc phỏng vấn của đài Vatican với linh mục Pietro Bovati, một linh mục dòng Tên, ngài cho hay các văn bản thánh đó chứa đựng các nguyên tắc phản ánh những vấn nạn lớn của thời đại chúng ta.
(Tin Vatican)
Đây là một nghiên cứu mới dầy công của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng xem xét xem Kinh thánh nói gì về con người. Con người có tên là gì? Một nghiên cứu nhân chủng học qua Kinh Thánh, tài liệu này không nhằm trả lời được mọi vấn nạn về con người, mà là cung cấp các nguyên tắc nền tảng cho một sự biện phân.
Theo cha Pietro Bovati SJ, thư ký của Ủy ban trong một cuộc phỏng vấn của đài Vatican và được ngài giải thích ý nghĩa của tài liệu này như sau: Ngài cho hay chủ đề này được khởi đi từ Kinh thánh, nó là nền tảng và trung tâm điểm của mặc khải Kitô giáo. Nền tảng của vấn đề này là vấn nạn: con người là gì? Câu hỏi này được trả lời xuyên suốt như một cuộc hành trình qua toàn bộ sách thánh.
Kinh thánh cung cấp các nguyên tắc cơ bản
Cha Bovati nhấn mạnh tới sự cần thiết được sách thánh hướng dẫn bộc lộ cho chúng ta hiểu về con người. Ngài giải thích phương pháp của nền thần học Kinh Thánh không nhằm đưa ra một câu trả lời cho mọi vấn đề cho bằng cung cấp các nguyên tắc nền tảng cho một nhận thức về con người trong lịch sử.
Bản nghiên cứu của Ủy ban gồm bốn chương, liên quan đến các chủ đề chính bao gồm con người được Thiên Chúa tạo thành ; con người trong mối tương quan với các loài thụ tạo khác; thực tế quan hệ của nhân chủng học (tập trung vào mối quan hệ yêu thương vợ chồng, thảo hiếu với cha mẹ và tình huynh đệ); cuối cùng là kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho loài người.
Giúp trả lời các vấn nạn thời đại
Đối với các câu hỏi cụ thể về con người (ví dụ, các câu hỏi liên quan đến giới tính), Cha Bovati nói rằng Ủy ban không đi xa hơn những gì Kinh thánh đề cập tới những vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi đồng thuận là giải thích các vấn đề mà Sách Thánh đã đề cập tới. Ngài nhìn nhận rằng tình trạng văn hóa Kitô giáo của chúng ta rất khác biệt với tình cảnh mà sách Kinh thánh được viết ra! Cho nên theo cha Bovati thì chúng ta không nhất thiết phải trả lời ngay lập tức và chính xác về các vấn đề của thời đại trước các vấn đề được Kinh thánh đề cập tới. Tuy nhiên, qua Kinh thánh, chúng ta có thể tìm ra các nguyên tắc, chỉ dẫn hữu ích cho những suy tư… điều này có thể giúp cho các nhà thần học, các nhà đạo đức học, linh mục tu sĩ Kitô giáo khi phải đối diện với các vấn nạn của thời đại.
Một công việc có hệ thống
Cha Bovati cho hay Ủy ban đã lượt qua toàn bộ truyền thống Kitô giáo, đồng thời muốn thực hiện một công việc phân tích khoa học cho thấy Kinh thánh đã nói gì về vấn đề này. Theo cha thì công việc này chưa bao giờ được thực hiện bởi vì các nhà thần học thường chỉ trích dẫn các văn bản cần thiết cho các lập luận mà họ đưa ra. Còn chúng tôi thì mong muốn thực hiện một công việc phân tích có hệ thống, để đưa ra một đường lối Kinh thánh đã nói về con người.
Theo cha Bovati thì công trình này là một trong những đóng góp cung cấp nhiều tài liệu mới. Chúng tôi không chỉ cố gắng làm sáng tỏ một số quan điểm, mà còn đưa ra những cách giải thích mới, phức tạp hơn thay vì chỉ dừng lại nơi các bản văn cố định của Kinh thánh. Ngài cho hay công trình này sẽ giúp và cống hiến cho các nhà thần học, cho những người rao truyền đức tin, một sự hiểu biết về nét đa dạng và phức tạp mà truyền thống Kinh Thánh đã đề cập tới con người.
Để trả lời cho vấn nạn con người là gì? Cha Bovati cho rằng Kinh Thánh chỉ đề ra một số điều rất cơ bản về người mà thôi.
Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh vừa công bố một nghiên cứu có hệ thống mới về tầm nhìn nhân chủng học của Kinh thánh, được khảo cứu từ sách Sáng thế ký cho đến sách Khải huyền. Trong cuộc phỏng vấn của đài Vatican với linh mục Pietro Bovati, một linh mục dòng Tên, ngài cho hay các văn bản thánh đó chứa đựng các nguyên tắc phản ánh những vấn nạn lớn của thời đại chúng ta.
(Tin Vatican)
Đây là một nghiên cứu mới dầy công của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng xem xét xem Kinh thánh nói gì về con người. Con người có tên là gì? Một nghiên cứu nhân chủng học qua Kinh Thánh, tài liệu này không nhằm trả lời được mọi vấn nạn về con người, mà là cung cấp các nguyên tắc nền tảng cho một sự biện phân.
Theo cha Pietro Bovati SJ, thư ký của Ủy ban trong một cuộc phỏng vấn của đài Vatican và được ngài giải thích ý nghĩa của tài liệu này như sau: Ngài cho hay chủ đề này được khởi đi từ Kinh thánh, nó là nền tảng và trung tâm điểm của mặc khải Kitô giáo. Nền tảng của vấn đề này là vấn nạn: con người là gì? Câu hỏi này được trả lời xuyên suốt như một cuộc hành trình qua toàn bộ sách thánh.
Kinh thánh cung cấp các nguyên tắc cơ bản
Cha Bovati nhấn mạnh tới sự cần thiết được sách thánh hướng dẫn bộc lộ cho chúng ta hiểu về con người. Ngài giải thích phương pháp của nền thần học Kinh Thánh không nhằm đưa ra một câu trả lời cho mọi vấn đề cho bằng cung cấp các nguyên tắc nền tảng cho một nhận thức về con người trong lịch sử.
Bản nghiên cứu của Ủy ban gồm bốn chương, liên quan đến các chủ đề chính bao gồm con người được Thiên Chúa tạo thành ; con người trong mối tương quan với các loài thụ tạo khác; thực tế quan hệ của nhân chủng học (tập trung vào mối quan hệ yêu thương vợ chồng, thảo hiếu với cha mẹ và tình huynh đệ); cuối cùng là kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho loài người.
Giúp trả lời các vấn nạn thời đại
Đối với các câu hỏi cụ thể về con người (ví dụ, các câu hỏi liên quan đến giới tính), Cha Bovati nói rằng Ủy ban không đi xa hơn những gì Kinh thánh đề cập tới những vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi đồng thuận là giải thích các vấn đề mà Sách Thánh đã đề cập tới. Ngài nhìn nhận rằng tình trạng văn hóa Kitô giáo của chúng ta rất khác biệt với tình cảnh mà sách Kinh thánh được viết ra! Cho nên theo cha Bovati thì chúng ta không nhất thiết phải trả lời ngay lập tức và chính xác về các vấn đề của thời đại trước các vấn đề được Kinh thánh đề cập tới. Tuy nhiên, qua Kinh thánh, chúng ta có thể tìm ra các nguyên tắc, chỉ dẫn hữu ích cho những suy tư… điều này có thể giúp cho các nhà thần học, các nhà đạo đức học, linh mục tu sĩ Kitô giáo khi phải đối diện với các vấn nạn của thời đại.
Một công việc có hệ thống
Cha Bovati cho hay Ủy ban đã lượt qua toàn bộ truyền thống Kitô giáo, đồng thời muốn thực hiện một công việc phân tích khoa học cho thấy Kinh thánh đã nói gì về vấn đề này. Theo cha thì công việc này chưa bao giờ được thực hiện bởi vì các nhà thần học thường chỉ trích dẫn các văn bản cần thiết cho các lập luận mà họ đưa ra. Còn chúng tôi thì mong muốn thực hiện một công việc phân tích có hệ thống, để đưa ra một đường lối Kinh thánh đã nói về con người.
Theo cha Bovati thì công trình này là một trong những đóng góp cung cấp nhiều tài liệu mới. Chúng tôi không chỉ cố gắng làm sáng tỏ một số quan điểm, mà còn đưa ra những cách giải thích mới, phức tạp hơn thay vì chỉ dừng lại nơi các bản văn cố định của Kinh thánh. Ngài cho hay công trình này sẽ giúp và cống hiến cho các nhà thần học, cho những người rao truyền đức tin, một sự hiểu biết về nét đa dạng và phức tạp mà truyền thống Kinh Thánh đã đề cập tới con người.
Để trả lời cho vấn nạn con người là gì? Cha Bovati cho rằng Kinh Thánh chỉ đề ra một số điều rất cơ bản về người mà thôi.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chuyến thăm mục vụ của Đức Cha Mark Edwards tại Cộng Đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Melbourne
Trần Văn Minh
20:13 16/12/2019
Đúng 10 giờ sáng Thứ Bảy ngày 14/12/2019. Như thông báo của Cộng đoàn, Đức Cha Mark Edwards, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo phận Melbourne, đã đến thăm mục vụ Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm trong 3 ngày: 14-15-16/12/2019.
Xem hình
Sau khi đến trung tâm, Đức cha đã vào văn phòng quản nhiệm chào hỏi linh mục Quản nhiêm Trần Ngọc Tân, tiếp theo Đức Cha Mark đã vào hội trường trung tâm để chào hỏi quý chức hiện diên gồm Ban cố vấn, Ban Mục vụ Cộng Đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm, Ban chấp hành các giáo khu thuộc cộng đoàn chào đón Đức cha phụ tá đến thăm.
Qua phần giới thiệu của ông Cao Minh Đức trưởng ban mục vụ cộng đoàn và chị Thanh Huyền thư ký, Đức cha đã hỏi han và chăm chú lắng nghe về mọi vấn đề sinh hoạt tôn giáo trong cộng đoàn, ghi lại những điều đáng lưu ý và trao đổi những điểm cần thiết. Có một số điều mà đức cha lưu ý mọi người là luật pháp Úc không cho phép giáo hội can thiệp, nhất là vào quyền tự do cá nhân của mỗi người với luôn cả người Công Giáo, như ép ai đó làm một việc gì, thậm chí muốn nhờ ai, cách nói cũng nhẹ nhàng không mang tính mệnh lệnh. Một buổi họp mặt mang tính chân tình cởi mở và gần gũi trong tình thân giữa mục tử và đoàn chiên.
Sau bữa cơm trưa, Đức Cha đã họp cùng ban tài chánh của cộng đoàn. Buổi chiều Đức cha dành thời gian để đón tiếp, chào hỏi quý thân phụ, mẫu của các linh mục tu sỹ đang sống và sinh hoạt tại cộng đoàn. Lắng nghe tâm tình của từng vị để tỏ lòng trân quý những người đã hy sinh những người con để phục vụ giáo hội.
Buổi tối, Đức Cha phụ tá đã dâng lễ chiều thứ Bảy cùng cộng đoàn, và sau đó được sự hướng dẫn của linh mục quản nhiệm đi thăm thiếu nhi và phụ huynh đang dự trại nhân kỳ nghỉ hè của các huynh trưởng và các em trong Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Xứ đoàn Vinh Sơn Liêm.
Sáng Chúa Nhật 15/12, Đức cha đến dâng lễ sáng 8 giờ 45 gặp gỡ giáo dân trong cộng đoàn về dâng lễ Chúa Nhật. Chào hỏi mọi người sau lễ và chụp hình chung trước Đài Đức Mẹ La Vang, và trong suốt buổi sáng Đức cha phụ tá luôn chào đón giáo dân nếu có điều gì muốn hỏi và Ngài luôn lắng nghe và giải đáp.
Hình lễ sáng của Ha Dang
Ba giờ chiều, Đức cha cũng tham dự cầu nguyện giờ Lòng Chúa Thương Xót với cộng đoàn như một giáo dân bình thường, và để cho mọi người bớt chia trí, Đức cha đã đến một góc khuất cuối nhà thờ và quỳ cầu nguyện.
Sau giờ chầu, một cuộc họp dành riêng cho các đoàn thể bao gồm Ban mục vụ, Hội Cao niên, Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, Ngành Nữ Tông Đồ, Các ca đoàn, Cursilo, Legio Mariae, Huynh đoàn Phan Sinh tại thế, Huynh đoàn Đa Minh, Hội phụ huynh Thiếu niên, Thiếu Nhi Thánh Thể, Ban phục vụ phòng thánh, Hội Mân Côi, Phong trào Lòng Chúa Thương Xót vv.
Đức Cha phụ tá đã ân cần hỏi han các đoàn thể về những sinh hoạt của từng đoàn thể, lắng nghe và ghi chép lại. Mọi người, mọi thành phần đã trình bày rằng họ đều rất vui để được phục vụ cho cộng đoàn, như một đóng góp nhỏ bé phần mình để phục vụ giáo hội, phục vụ Chúa và làm việc tông đồ. Sau hơn hai giờ họp Đức cha đã vui mừng ngỏ lời khen ngợi cộng đoàn, và nhờ cuộc viếng thăm mục vụ này, Đức cha đã cảm nhận về những sự hoạt động thật sinh động và sức sống sung mãn của cộng đoàn trong đời sống đức tin của người Việt Nam tại Cộng đoàn Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm, mà từ trước đến nay Đức cha chưa được biết rõ. Đức cha mong ước các cộng đoàn, giáo xứ đều phát huy được lòng đạo đức thật tốt trong việc loan báo tin mừng.
Ngày cuối cùng, Đức cha được sự hướng dẫn của linh mục quản nhiệm đi thăm viếng, xức dầu cho những người cao niên, đau yếu trong cộng đòan. Đức cha đã đến từng nhà cụ Hiến, bà Bái (GK Giuse.) Ông bà Đắc (GK Phanxico Xavie.) Ông bà Bảy (GK Gioan Bosco.) Bà cụ Tuân (GK Martino.) Và chấm dứt chuyến thăm mục vụ tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm sau khi chúc lành cho các anh chị em đang làm việc dọn dẹp và vệ sinh tại trung tâm, chụp hình chung với các anh chị em này.
Đức Cha Mark Edwards trước tượng Thánh Vinh Sơn Liêm |
Xem hình
Sau khi đến trung tâm, Đức cha đã vào văn phòng quản nhiệm chào hỏi linh mục Quản nhiêm Trần Ngọc Tân, tiếp theo Đức Cha Mark đã vào hội trường trung tâm để chào hỏi quý chức hiện diên gồm Ban cố vấn, Ban Mục vụ Cộng Đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm, Ban chấp hành các giáo khu thuộc cộng đoàn chào đón Đức cha phụ tá đến thăm.
Qua phần giới thiệu của ông Cao Minh Đức trưởng ban mục vụ cộng đoàn và chị Thanh Huyền thư ký, Đức cha đã hỏi han và chăm chú lắng nghe về mọi vấn đề sinh hoạt tôn giáo trong cộng đoàn, ghi lại những điều đáng lưu ý và trao đổi những điểm cần thiết. Có một số điều mà đức cha lưu ý mọi người là luật pháp Úc không cho phép giáo hội can thiệp, nhất là vào quyền tự do cá nhân của mỗi người với luôn cả người Công Giáo, như ép ai đó làm một việc gì, thậm chí muốn nhờ ai, cách nói cũng nhẹ nhàng không mang tính mệnh lệnh. Một buổi họp mặt mang tính chân tình cởi mở và gần gũi trong tình thân giữa mục tử và đoàn chiên.
Sau bữa cơm trưa, Đức Cha đã họp cùng ban tài chánh của cộng đoàn. Buổi chiều Đức cha dành thời gian để đón tiếp, chào hỏi quý thân phụ, mẫu của các linh mục tu sỹ đang sống và sinh hoạt tại cộng đoàn. Lắng nghe tâm tình của từng vị để tỏ lòng trân quý những người đã hy sinh những người con để phục vụ giáo hội.
Buổi tối, Đức Cha phụ tá đã dâng lễ chiều thứ Bảy cùng cộng đoàn, và sau đó được sự hướng dẫn của linh mục quản nhiệm đi thăm thiếu nhi và phụ huynh đang dự trại nhân kỳ nghỉ hè của các huynh trưởng và các em trong Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Xứ đoàn Vinh Sơn Liêm.
Sáng Chúa Nhật 15/12, Đức cha đến dâng lễ sáng 8 giờ 45 gặp gỡ giáo dân trong cộng đoàn về dâng lễ Chúa Nhật. Chào hỏi mọi người sau lễ và chụp hình chung trước Đài Đức Mẹ La Vang, và trong suốt buổi sáng Đức cha phụ tá luôn chào đón giáo dân nếu có điều gì muốn hỏi và Ngài luôn lắng nghe và giải đáp.
Hình lễ sáng của Ha Dang
Ba giờ chiều, Đức cha cũng tham dự cầu nguyện giờ Lòng Chúa Thương Xót với cộng đoàn như một giáo dân bình thường, và để cho mọi người bớt chia trí, Đức cha đã đến một góc khuất cuối nhà thờ và quỳ cầu nguyện.
Sau giờ chầu, một cuộc họp dành riêng cho các đoàn thể bao gồm Ban mục vụ, Hội Cao niên, Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, Ngành Nữ Tông Đồ, Các ca đoàn, Cursilo, Legio Mariae, Huynh đoàn Phan Sinh tại thế, Huynh đoàn Đa Minh, Hội phụ huynh Thiếu niên, Thiếu Nhi Thánh Thể, Ban phục vụ phòng thánh, Hội Mân Côi, Phong trào Lòng Chúa Thương Xót vv.
Đức Cha phụ tá đã ân cần hỏi han các đoàn thể về những sinh hoạt của từng đoàn thể, lắng nghe và ghi chép lại. Mọi người, mọi thành phần đã trình bày rằng họ đều rất vui để được phục vụ cho cộng đoàn, như một đóng góp nhỏ bé phần mình để phục vụ giáo hội, phục vụ Chúa và làm việc tông đồ. Sau hơn hai giờ họp Đức cha đã vui mừng ngỏ lời khen ngợi cộng đoàn, và nhờ cuộc viếng thăm mục vụ này, Đức cha đã cảm nhận về những sự hoạt động thật sinh động và sức sống sung mãn của cộng đoàn trong đời sống đức tin của người Việt Nam tại Cộng đoàn Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm, mà từ trước đến nay Đức cha chưa được biết rõ. Đức cha mong ước các cộng đoàn, giáo xứ đều phát huy được lòng đạo đức thật tốt trong việc loan báo tin mừng.
Ngày cuối cùng, Đức cha được sự hướng dẫn của linh mục quản nhiệm đi thăm viếng, xức dầu cho những người cao niên, đau yếu trong cộng đòan. Đức cha đã đến từng nhà cụ Hiến, bà Bái (GK Giuse.) Ông bà Đắc (GK Phanxico Xavie.) Ông bà Bảy (GK Gioan Bosco.) Bà cụ Tuân (GK Martino.) Và chấm dứt chuyến thăm mục vụ tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm sau khi chúc lành cho các anh chị em đang làm việc dọn dẹp và vệ sinh tại trung tâm, chụp hình chung với các anh chị em này.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Đức Bênêđíctô XVI và các bài giáo lý về Giáo Hội
Vũ Văn An
00:53 16/12/2019
Vừa lên ngôi giáo hoàng, Đức Bênêđíctô XVI đã chuyển hướng các bài giáo lý quen thuộc mà vị tiền nhiệm của ngài đã khởi xướng với thật nhiều thành quả rực rỡ qua các buổi triều yết chung. Hướng đó, chính là Giáo Hội, được định nghĩa như Dân Thánh Mới. Mà nói về Dân Thánh này, không gì cụ thể bằng đề cập thẳng tới những con người cụ thể, những con người mang trọn bản sắc nhân bản của mình mà dấn thân theo Chúa để phục vụ chị anh em. Đại biểu sáng chói nhất cho những con người này chính là các thánh và những nhân vật từng hiến trọn cuộc đời mình cho Giáo Hội và sứ mệnh công bố Lời Chúa cho muôn dân.
Nhưng trước khi đề cập đến các vị thánh cá thể, Đức Bênêđíctô XVI nói cách chung tới Giáo Hội và đặc tính tông truyền của Giáo Hội. Chúng tôi xin chuyển ngữ phần có thể được coi như dẫn nhập này của ngài.
I. Nguồn Gốc Giáo Hội
1.Trên Đá này ta sẽ xây Giáo Hội Ta
Trong cuộc triều yết chung ngày 22 tháng 2 năm 2006, nhân ngày kính Tòa Phêrô, Đức Bênêđíctô XVI đã khai triển các bài giáo lý của ngài theo chiều hướng mới nói trên bằng cách suy nghĩ tới chữ Toà (cathedra).
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, phụng vụ theo nghi lễ La Tinh cử hành Lễ Kính Tòa Phêrô. Đây là một truyền thống rất cổ xưa mà người ta đã chứng minh được là có từ thế kỷ thứ tư. Nhân ngày này, chúng ta cảm tạ Chúa vì sứ mệnh Người đã ủy thác cho Thánh Tông Đồ Phêrô và các vị kế nghiệp của ngài.
Theo nghĩa đen, “cathedra” có nghĩa là tòa đã được thiết lập cho một giám mục, được đặt tại nhà thờ mẹ của giáo phận. Chính vì thế, nhà thờ này được gọi là nhà thờ chính tòa; nó biểu tượng cho thẩm quyền của giám mục và nhất là “huấn quyền” của ngài, tức là quyền giảng dạy phúc âm mà với tư cách kế nghiệp các Tông Đồ, vị giám mục được kêu gọi gìn giữ và chuyển giao cho Cộng Đoàn Kitô Giáo.
Khi một giám mục tiếp nhận một Giáo Hội đặc thù mà ngài được ủy thác, ngài ngồi trên tòa, đầu đội mũ gầu (mitre), tay mang gậy mục tử. Từ tòa này, với tư cách thầy dạy và người chăn dắt, ngài hướng dẫn hành trình của tín hữu trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Vậy “tòa” của Thánh Phêrô là tòa gì? Được Chúa Kitô chọn làm “đá tảng” để xây dựng Giáo Hội trên đó (Xem Mt 16:18), Thánh Phêrô khởi đầu thừa tác vụ của ngài tại Giêrusalem, sau khi Chúa lên trời và Chúa Thánh Thần hiện xuống. “Tòa” đầu tiên của Giáo Hội vì thế là Thượng Lầu. Chắc chắn ở đấy có một chỗ đặc biệt dành cho Simon Phêrô. Cũng trong căn phòng đó, Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, đã cùng cầu nguyện với các môn đệ.
Sau đó, Tòa của Phêrô là Antiôkia, một thành phố tọa lạc cạnh Sông Oronte thuộc Syria, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Thành này lúc đó là đô thị lớn thứ ba của Đế Quốc Rôma, sau Rôma và Alexandria của Ai Cập. Thánh Phêrô là giám mục tiên khởi của thành này, một thành được phúc âm hóa bởi Barnabas và Thánh Phaolô. Tại đây, “lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu” (Cv 11:26), và do đó là nơi danh xưng “Kitô hữu” của chúng ta ra đời. Thực thế, trước khi có việc canh tân lịch, Sách Tử Đạo Rôma cũng đã cử hành đặc biệt Tòa Phêrô tại Antiôkia.
Từ đó, Chúa Quan Phòng đã đưa Thánh Phêrô qua Rôma. Bởi thế, ta có cuộc hành trình từ Giêrusalem, từ Giáo Hội sơ sinh, tới Antiôkia, trung tâm đầu hết của Giáo Hội, được hình thành từ các người ngoại giáo nhưng vẫn kết hợp với Giáo Hội xuất phát từ người Do Thái. Rồi Thánh Phêrô qua Rôma, trung tâm Đế Quốc, biểu tượng của “Orbis”, của địa cầu hay thế giới, nơi ngài hoàn tất cuộc đua phục vụ Phúc Âm bằng cái chết tử đạo.
Như thế ta thấy Tòa Rôma, một tòa được vinh dự cao cả nhất, cũng là tòa được Chúa Kitô ủy thác cho Phêrô làm người phục vụ mọi Giáo Hội đặc thù trong sứ mệnh giáo hóa và kết hợp toàn bộ dân Chúa.
Vì thế, sau các cuộc du hành của Thánh Phêrô, Tòa Rôma đã được nhìn nhận là Tòa của Người Kế Nghiệp Thánh Phêrô và “tòa” giám mục của nó được nhìn nhận là đại biểu cho sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác cho vị này trong việc chăn dắt toàn bộ đoàn chiên của Người.
Điều trên đã được các Giáo Phụ xưa nhất của Giáo Hội, như Thánh Irênê, Giám Mục Lyons chẳng hạn, minh chứng. Ngài vốn xuất thân từ Tiểu Á. Nhưng trong khảo luận Adversus Haereses (Chống Lạc Giáo), ngài mô tả Giáo Hội Rôma là Giáo Hội “vĩ đại và cổ xưa nhất, mà ai cũng biết… được sáng lập và thiết lập tại Rôma bởi hai vị Tông Đồ hiển vinh nhất là Phêrô và Phaolô”. Ngài còn thêm: “Giáo Hội hoàn vũ, nghĩa là các tín hữu khắp nơi, phải nhất trí với Giáo Hội này vì tính trổi vượt của nó” (III, 3, 2-3).
Sau đó không lâu, Tertullianô viết rằng: “Giáo Hội Rôma diễm phúc biết bao, vì trên Giáo Hội này các Tông Đồ đã tuôn đổ mọi học lý của các ngài cùng với cả dòng máu của các ngài nữa!” (De Praescriptione Hereticorum, 36).
Thành thử, Tòa của Giám Mục Rôma không những chỉ đại biểu cho việc ngài phục vụ cộng đồng Rôma mà thôi mà còn đại biểu cho cả sứ mệnh của ngài làm người hướng dẫn toàn bộ Dân Thiên Chúa.
Mừng kính “tòa” Phêrô, do đó, như chúng ta mừng kính ngày nay, là đem lại cho nó một ý nghĩa thiêng liêng mạnh mẽ hơn và nhìn nhận nó là dấu chỉ ưu tuyển của tình yêu Thiên Chúa, Đấng Chăn Chiên Đời Đời Nhân Hậu, hằng muốn tụ tập toàn thể Giáo Hội của Người và dẫn dắt Giáo Hội này trên đường cứu rỗi.
Trong số rất nhiều chứng tá Giáo Phụ, tôi muốn trưng dẫn chứng tá của Thánh Giêrônimô. Đây là trích đoạn từ một lá thư của ngài gửi cho Đức Giám Mục Rôma. Trích đoạn này lý thú một cách đặc biệt vì nó minh nhiên nói tới “Tòa” Phêrô, coi nó như bến cảng an lành của chân lý và hòa bình.
Thánh Giêrônimô viết như sau: “Con quyết định tham khảo Tòa Phêrô, nơi người ta thấy môi miệng một Tông Đồ đã hiển dương đức tin; giờ đây con đến xin của nuôi dưỡng linh hồn con tại đây, nơi con từng lãnh nhận y phục của Chúa Kitô. Con không theo thủ lĩnh nào ngoài Chúa Kitô, nên con xin hiệp thông với phúc lành của ngài, tức, hiệp thông với Tòa Phêrô, vì con biết đây là hòn đá trên đó Giáo Hội đã được xây cất” (Xem Le lettere I, 15, 1-2).
Anh chị em thân mến, như anh chị em biết, trong hậu cung Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có một đài kỷ niệm Ngai Tòa Thánh Tông Đồ, một công trình lớn của Bernini. Đài này mang hình một tòa lớn bằng đồng được tượng của 4 Tiến Sĩ Giáo Hội chống đỡ: hai vị xuất thân từ Tây Phương là Thánh Augustinô và Thánh Ambrôsiô, hai vị xuất thân từ Đông Phương là Thánh Gioan Kim Khẩu và Thánh Anathasiô.
Tôi mời anh chị em dừng chân trước công trình gợi hình này mà ngày nay ta có thể chiêm ngưỡng, một công trình được trang trí bằng vô số chân đèn, và xin anh chị em hãy cầu nguyện cho thừa tác vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi. Anh chị em hãy ngước mắt nhìn chiếc cửa sổ kính mầu làm bằng thạch cao tuyết hoa (alabaster) nằm ngay trên đầu Ngai Tòa và hãy khẩn cầu Chúa Thánh Thần để với ơn soi sáng và sức mạnh của Người, Người luôn hướng dẫn việc phục vụ hàng ngày của tôi đối với toàn thể Giáo Hội.
2. Chúa Kitô và Giáo Hội (Buổi triều yết chung ngày 15 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
…Tôi xin dành buổi triều yết hôm nay để nói về sự mầu nhiệm trong mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, dựa vào kinh nghiệm của các Tông Đồ, dưới ánh sáng nhiệm vụ đã được ủy thác cho các ngài.
Giáo hội đã được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ thành một cộng đồng đức tin, đức cậy và đức mến. Qua các Tông Đồ, ta đến thẳng với chính Chúa Giêsu. Giáo Hội được thành lập lúc một số ngư phủ vùng Galilê gặp gỡ Chúa Giêsu, bị cái nhìn, giọng nói, lời mời gọi nồng ấm và mạnh mẽ của Người chinh phục: “Hãy theo Ta, và Ta sẽ làm các con thành nhưữg kẻ chinh phục người ta” (Mc 1:17; Mt 4:19).
Ở đầu thiên niên kỷ thứ ba, vị Tiền Nhiệm yêu qúy của tôi là Đức Gioan Phaolô II từng mời gọi Giáo Hội chiêm ngắm Khuôn Mặt Chúa Kitô (xem Novo Millennio Ineunte, n. 16 ff.). Tiếp tục cùng một hướng ấy, tôi muốn trình bày điều này: ánh sáng Khuôn Mặt ấy đã được phản ảnh ra sao trên khuôn mặt Giáo Hội (Xem Lumen Gentium, n. 1), bất kể các giới hạn và bóng râm trong bản tính nhân loại mỏng dòn và tội lệ của ta.
Sau Đức Maria, Đấng đã phản chiếu toàn diện ánh sáng của Chúa Kitô, chính qua các Tông Đồ, qua lời nói và chứng tá của các ngài, mà ta tiếp nhận được chân lý của Chúa Kitô. Tuy nhiên, sứ mệnh của các ngài không cô lập, nhưng được đặt trong mầu nhiệm hiệp thông bao gồm toàn bộ dân Chúa và được thể hiện từng giai đoạn từ Cựu Ước qua Tân Ước.
Về phương diện này, cần phải nói rằng sứ điệp của Chúa Giêsu sẽ bị hiểu lầm hoàn toàn nếu nó bị tách biệt khỏi bối cảnh đức tin và đức cậy của dân Chúa Chọn: Giống Thánh Gioan Tây Giả, vị Tiền Hô của Người, Chúa Giêsu cũng đã nói trước hết với Dân Do Thái (xem Mt 15:24) ngõ hầu “tụ họp” họ lại với nhau vào thời cánh chung, một thời đã cùng xuất hiện với Người. Và giống như lời giảng của Thánh Gioan, lời giảng của Chúa Giêsu cũng là lời kêu gọi của ơn thánh và là dấu chỉ của mâu thuẫn và của công lý đối với toàn bộ dân Chúa.
Như thế, ngay từ giây phút đầu tiên trong hoạt động cứu rỗi của Người, Chúa Giêsu Nadarét đã cố gắng tụ họp dân Chúa lại với nhau. Dù lời giảng của Người luôn là lời mời gọi người ta phải hồi hướng bản thân, nhưng trên thực tế, Người luôn luôn nhắm tới việc xây dựng dân Chúa, một Dân mà chính Người đã đến để tụ tập, thanh tẩy và cứu vớt.
Chính vì thế, lối giải thích có tính cá nhân chủ nghĩa về việc Chúa Kitô công bố Nước Trời, một lối giải thích đặc trưng của nền thần học tự do, chỉ là một chiều và không có nền tảng. Nhà thần học tự do nổi tiếng, là Adolf von Harnack, từng tóm lược lối giải thích ấy như sau, trong giảng khóa năm 1900 của ông tựa là The essence of Christianity (Yếu tính Kitô Giáo): "Khi áp dụng vào các cá nhân đơn độc, Nước Thiên Chúa có khả năng đi vào linh hồn họ và được linh hồn họ chào đón. Đã đành, Nước Thiên Chúa là lãnh thổ thuộc quyền thống trị của Người, nhưng đó là lãnh thổ của Thiên Chúa chí thánh trong các trái tim cá thể” (Bài 3, tr.100 và tiếp theo).
Trên thực tế, chủ nghĩa cá nhân của nền thần học tự do này đang được thời nay nhấn mạnh một cách đặc biệt. Nhưng, theo cái nhìn của truyền thống Thánh Kinh và trong bối cảnh của Do Thái Giáo, nơi công trình của Chúa Giêsu diễn tiến, ai cũng rõ điều này: toàn bộ sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người có tính cộng đoàn. Người thực sự xuống thế để hợp nhất nhân loại đang tứ tán; Người thực sự đến để hợp nhất Dân Thiên Chúa.
Dấu chỉ hiển nhiên cho thấy ý định của Đấng xuất thân từ Nadarét muốn tụ họp cộng đồng Giao Ước lại với nhau để qua nó chứng tỏ sự nên trọn của các lời hứa đã được ngỏ cùng Các Tổ Phụ, những vị luôn luôn nhắc tới công hội, thống nhất, hợp nhất, là việc thiết lập nhóm Mười Hai. Ta nghe được việc thiết lập nhóm Mười Hai này lúc đọc Phúc Âm. Tôi xin đọc lại cho anh chị em đoạn chủ yếu sau đây: “Và Người lên đồi, rồi gọi những kẻ Người muốn đến với Người; và họ đã đến với Người. Người chỉ định 12 người ở với Người, để được sai đi rao giảng và được quyền trừ qủy. Tên của 12 Tông Đồ là…” (Mc 3:13-16; xem Mt 10:1-4; Lc 6:12-16).
Trên địa điểm mạc khải ấy, tức “gò cao”, với sáng kiến hòan toàn có ý thức và đầy cương quyết, Chúa Giêsu đã thiết lập nhóm Mười Hai, để họ, cùng với Người, làm chứng và loan báo việc xuất hiện của Nước Thiên Chúa.
Không còn hoài nghi gì nữa về tính lịch sử của việc kêu gọi này, không phải chỉ vì tính cổ xưa và tính số đông các chứng tá, nhưng còn vì lý do giản dị này nữa là có cả tên Giuđa nữa, tức người Tông Đồ sẽ phản bội Người, bất chấp các khó khăn do sự hiện diện này có thể gây ra cho cho cộng đồng tân lập.
Con số mười hai, một con số hiển nhiên có ý nhắc tới mười hai chi họ Israel, đủ để mạc khải cho ta ý nghĩa của hành động biểu tượng đầy tính tiên tri tiềm ẩn trong sáng kiến tái lập dân thánh. Vì hệ thống 12 chi họ đã lui vào bóng tối từ lâu, nên niềm hy vọng của Israel chờ đợi việc tái lập chúng phải được coi như dấu chỉ thời cánh chung (như đã được nhắc tới vào cuối Sách Êdêkien 37:15-19; 39:23-29; 40-48).
Khi chọn nhóm Mười Hai, để dẫn họ vào hiệp thông sự sống với Người cũng như cho họ tham dự vào sứ mệnh công bố Nước Trời của Người bằng lời nói và việc làm (xem Mc 6:7-13; Mt 10:5-8; Lc 9:1-6; 6:13), Chúa Giêsu muốn nói rằng thời ấn định đã tới để thiết lập Dân Mới của Thiên Chúa, không phải là dân của 12 chi họ, mà là dân phổ quát, tức Giáo Hội của Người.
Lời kêu gọi dân Israel
Từ chính sự hiện hữu của mình, nhóm Mười Hai, những người được kêu gọi từ nhiều hậu cảnh khác nhau, đã trở thành lời mời gọi toàn bộ Israel hồi tâm và tụ họp nhau lại thành giao ước mới, một giáo ước làm trọn giao ước cũ. Sự kiện Người ủy thác cho các Tông Đồ nhiệm vụ cử hành Lễ Vượt Qua của Người ngay trong Bữa Tiệc Ly, trước ngày Người chịu thống khổ, cho thấy Chúa Giêsu muốn chuyển giao cho toàn thể cộng đồng, qua con người các nhà lãnh đạo của nó, sứ mệnh trở thành dấu chỉ và dụng cụ trong lịch sử tụ họp có tính cánh chung mà chính Người đã khởi sự. Theo một nghĩa nào đó, ta có thể nói rằng Bữa Tiệc Ly chính là hành động đặt nền cho Giáo Hội, vì Người đã tự hiến mình và do đó đã tạo ra một cộng đồng mới, một cộng đồng hợp nhất trong hiệp thông với chính Người.
Dưới ánh sáng đó, ta hiểu được tại sao Đấng Sống Lại đã ban cho họ quyền tha tội sau khi ban Chúa Thánh Thần cho họ (xem Ga 20:23). Như thế, nhóm Mười Hai là dấu chỉ hiển nhiên nhất cho thấy ý muốn của Chúa Giêsu đối với sự hiện hữu và sứ mệnh của Giáo Hội và bảo đảm rằng giữa Chúa Kitô và Giáo Hội không hề có sự kình chống nào: bất chấp tội lỗi của các thành viên làm thành Giáo Hội, Chúa Kitô và Giáo Hội không thể tách biệt nhau.
Bởi thế, cái kiểu nói khá phổ thông cách nay không lâu cho rằng “Chúa Giêsu thì được, nhưng Giáo Hội thì không” là hoàn toàn không thể quan niệm được trong ý định của Chúa Kitô. Chúa Giêsu do chủ nghĩa cá nhân ấy chọn lựa chỉ là một Chúa Giêsu tưởng tượng.
Chúng ta không thể có Chúa Giêsu mà lại không có thực tại được Người tạo ra và tự tỏ mình trong đó. Giữa Thiên Chúa nhập hể và Giáo Hội của Người, có một sự liên tục sâu sắc, bền chặt và huyền nhiệm qua đó, Chúa Kitô hiện diện với con người thời nay. Người luôn luôn là người cùng thời với chúng ta, Người luôn luôn cùng thời với Giáo Hội, được xây trên nền các Tông Đồ và sống động trong các đấng kế vị các ngài. Sự hiện diện của Người nơi cộng đồng chính là lý do tạo ra niềm vui của chúng ta. Đúng thế, Chúa Kitô đang ở với chúng ta, Nước Thiên Chúa đang tới.
3. Các chứng nhân của Chúa Kitô (Buổi triều yết 22 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến
Thư gửi Tín Hữu Êphêsô trình bày cho ta hình ảnh Giáo Hội như một cấu trúc xây “trên nền các tông đồ và tiên tri, với Chúa Giêsu là viên đá góc” (Eph.2:20). Trong Sách Khải Huyền, vai trò của các Tông Đồ, nhất là của nhóm Mười Hai, đã được giải thích theo viễn tượng cánh chung về một Giêrusalem trên trời, được mô tả như một kinh thành với những bức tường “có mười hai nền, và trên những nền này, có 12 tên của Mười Hai Tông Đồ của Chiên Con” (21:14).
Các Phúc Âm nhất trí cho rằng việc kêu gọi các Tông Đồ đánh dấu các bước đầu tiên trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu, sau khi Người nhận phép rửa từ tay Gioan Tẩy Giả tại Sông Giođăng.
Theo trình thuật của Máccô (1:16-20) và của Mátthêu (4:18-22), khung cảnh của việc kêu gọi các Tông Đồ đầu tiên là Biển Galilê. Lúc vừa bắt đầu rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã để ý tới 2 nhóm anh em ruột: Simong và Andrê, Giacôbê và Gioan. Họ làm nghề đánh cá, đang bận bịu với công việc hằng ngày, thả và vá lưới.
Nhưng một hình thức đánh cá khác đang chờ đón họ. Người chủ ý kêu gọi họ và họ nhanh nhẹn đi theo Người: và sau đó, họ trở thành “những kẻ đánh cá người” (xem Mc 1:17; Mt 4:19). Cũng theo cùng một truyền thống này, nhưng Luca cho chúng ta một trình thuật đầy đủ hơn (5:1-11).
Trình thuật của Luca minh họa việc phát triển niềm tin của các môn đệ đầu tiên, bằng cách giải thích rằng lời Chúa Giêsu kêu gọi họ theo Người đã được đưa ra sau khi các ông được nghe lời giảng đầu tiên của Người và đã được thấy các dấu lạ đầu tiên Người làm. Riêng mẻ cá lạ còn là bối cảnh tức khắc, cho thấy tính biểu tượng trong sứ mệnh đánh cá người vừa được ủy thác cho các ông. Số phận những người mới “được gọi”, do đó, gắn bó chặt chẽ với số phận của Chúa Giêsu. Tông đồ là người được sai đi, nhưng trước đó, họ phải là các “chuyên viên” về Chúa Giêsu.
Khía cạnh trên được Phúc Âm Gioan nhấn mạnh từ chính cuộc gặp gỡ đầu tiên của Chúa Giêsu với các Tông Đồ tương lai. Ở đây, khung cảnh có khác. Cuộc gặp gỡ xẩy ra tại bờ Sông Giođăng. Sự hiện diện của các môn đệ tương lai, những người, giống Chúa Giêsu, cũng từ Galilê tới đó để chịu phép rửa của Gioan, giải thích cho ta rõ thế giới tâm linh của họ.
Họ là những người chờ đợi Nước Thiên Chúa, lo lắng được biết Đấng Được Xức Dầu mà người ta từng công bố là sắp sửa xuất hiện. Chỉ cần Gioan Tẩy Giả cho họ thấy Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa (xem Ga 1:36) cũng đủ khơi dậy trong lòng họ niềm khát khao được đích thân gặp gỡ Người.
Câu chuyện qua lại với hai tông đồ tương lai thứ nhất nói lên khá nhiều điều. Họ đáp lại câu Người hỏi: “các anh kiếm gì?”, bằng một câu hỏi khác: “Thưa thầy, thầy ở đâu?”. Câu Chúa Giêsu trả lời đúng là một lời mời: “Hãy đến mà xem” (xem Ga 1:38-39). Hãy đến, để các anh có khả năng thấy.
Cuộc phiêu lưu của các Tông Đồ đã diễn ra như thế đấy, như một cuộc trùng phùng giữa những con người sẵn sàng mở cửa đón chào nhau. Đối với các môn đệ, buổi hừng đông của cuộc hành trình trực tiếp làm quen với Thầy chính là ở chỗ thấy nơi Thầy cư ngụ và bắt đầu quen biết Người. Đúng vậy, các ông sẽ không rao giảng một ý niệm mà là làm chứng cho một con người.
Trước khi được sai đi rao giảng, họ phải “hiện hữu” với Chúa Giêsu (xem Mc 3:14), thiết lập mối quan hệ thân thương với Người. Trên căn bản ấy, việc phúc âm hóa không còn là gì khác hơn lời công bố điều chính họ cảm nghiệm và là lời mời gọi bước vào sự hiệp thông huyền nhiệm với Chúa Kitô (xem 1Ga 1:1-3).
Các Tông Đồ đã được sai đến với những ai? Trong Phúc Âm, hình như Chúa Giêsu muốn giới hạn sứ mệnh của Người nơi một mình dân Do Thái. Người nói: “Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel mà thôi” (Mt 15:24). Tương tự như thế, hình như Người cũng giới hạn sứ mệnh ủy thác cho nhóm Mười Hai: “Khi sai nhóm Mười Hai đi, Người dặn họ “Đừng đi tới Dân Ngoại, đừng vào nhà người Samaria, nhưng đúng hơn hãy tới với những con chiên lạc của nhà Israel” (Mt 10:5ff).
Một số các nhà bình luận hiện đại đầy óc suy lý cho rằng những lời lẽ trên cho thấy Vị Tiên Tri người Nadarét này rõ ràng không hề có một ý thức phổ quát. Nhưng thực ra, lời lẽ trên phải được hiểu dưới ánh sáng mối liên hệ đặc biệt của Người với Israel, tức cộng đồng Giao Ước, một cộng đồng luôn luôn diễn tiến trong lịch sử cứu rỗi.
Nói về lòng mong chờ Đấng Được Xức Dầu, lời hứa của Thiên Chúa, một lời hứa được trực tiếp ngỏ cùng Israel, sẽ được nên trọn khi Thiên Chúa tụ tập Dân của Người qua Đấng Người Đã Chọn làm mục tử với nhiệm vụ tụ tập đó: “Ta sẽ cứu đàn chiên Ta, chúng sẽ không còn là miếng mồi nữa… Ta sẽ đặt trên chúng một mục tử, là tôi trung Đavít của ta, và mục tử này sẽ chăn nuôi chúng và trở thành mục tử của chúng. Và Ta, Chúa Tể, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn tôi tớ Đavít của Ta sẽ là hoàng tử giữa chúng” (Ed 34:22-24).
Chúa Giêsu là mục tử cánh chung, Đấng sẽ tụ tập các chiên lạc của nhà Israel. Người sẽ đi tìm chúng vì Người biết rõ và rất yêu thương chúng (xem Lc 15:4-7, Mt 18:12-14; cũng nên xem hình ảnh người Chăn Chiên Lành trong Ga 10:11ff). Nhờ sự “tụ tập” này, Nước Thiên Chúa được công bố cho mọi người: “Ta sẽ thiết lập vinh quang Ta giữa các dân tộc; và mọi dân tộc sẽ thấy sự phán xử của Ta, sự phán xử mà Ta sẽ thi hành, cùng sẽ thấy bàn tay Ta, một bàn tay đang giáng trên chúng” (Ed 39:21). Chúa Giêsu đã theo sát lời tiên tri ấy. Bước đầu tiên của Người, vì thế, là “tụ tập” dân Israel, để mọi dân tộc, khi được mời gọi tụ họp trong hiệp thông với Chúa, được thấy và tin.
Chính vì vậy, nhóm Mười Hai, được mời gọi chia sẻ cùng một sứ mệnh như Chúa Giêsu, cùng hợp tác với vị Mục Tử của thời sau hết, cũng đã đi tìm các chiên lạc của nhà Israel, nghĩa là nói với dân giao ước rằng sự trở về đoàn tụ của họ là dấu chỉ của ơn cứu độ dành cho mọi dân tộc, là khởi đầu của việc phổ quát hóa Giao Ước.
Thay vì làm sai lạc tính cởi mở phổ quát trong hành động Thiên Sai của Chúa Giêsu, việc giới hạn vào dân Israel trong sứ mạng của Người cũng như của nhóm Mười Hai càng là một dấu chỉ tiên tri hữu hiệu. Sau cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, dấu chỉ ấy sẽ trở nên rõ ràng: đặc tính phổ quát trong sứ mệnh của các Tông Đồ sẽ trở nên minh nhiên hơn. Lúc ấy, Chúa Kitô sẽ sai các ông tới “mọi tạo vật” (Mc 16:15), “mọi dân tộc” (Mt 28:19; Lc 24:47), “tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Sứ mạng ấy nay vẫn còn được tiếp nối. Lệnh Chúa truyền phải tụ tập mọi người trong hợp nhất yêu thương vẫn tiếp tục. Hy vọng và nhiệm vụ của ta là: đóng góp vào tính phổ quát này, vào sự hợp nhất chân thực này trong mọi nền văn hóa, trong niềm hiệp thông với Chúa thật của ta là Chúa Giêsu Kitô.
4. Ơn “hiệp thông” (buổi triều yết 29 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Qua thừa tác vụ tông đồ của mình, Giáo Hội, một cộng đồng được Con Thiên Chúa nhập thể tụ họp, sẽ tiếp tục sống qua các thời đại, bằng cách xây dựng và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông mà tất cả chúng ta đều được mời gọi và nhờ đó cảm nhận được ơn cứu độ của Chúa Cha.
Như Đức Clêmentê, vị kế nhiệm thứ ba của Thánh Phêrô từng nói vào cuối thế kỷ thứ 3, nhóm Mười Hai, trên thực tế, hết sức lưu tâm tới việc chuẩn bị các người kế nhiệm mình (xem I Clem 42:4), để sứ mệnh ủy thác cho các ngài vẫn tiếp diễn sau khi các ngài qua đời. Như thế, nhờ được tổ chức một cách hữu cơ dưới sự hướng dẫn của các mục tử hợp pháp, Giáo Hội tiếp tục sống trong thế gian qua các thời đại như một mầu nhiệm hiệp thông trong đó, sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi được phản chiếu tới một mức độ nào đó.
Thánh Tông Đồ Phaolô từng nhắc tới nguồn cội Ba Ngôi tối cao này khi ngài chúc các Kitô hữu của mình: “Ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cor 13:14).
Những lời trên, có lẽ mô phỏng lời kinh phụng vụ của Giáo Hội sơ khai, đã nhấn mạnh tới phương cách ơn thánh nhưng không của Chúa Cha nơi Chúa Giêsu Kitô được thể hiện và tỏ lộ ra như thế nào trong sự hiệp thông do Chúa Thánh Thần mang lại. Lối giải thích này, dựa trên sự song hành chặt chẽ giữa ba sở hữu cách của câu trên: ân sủng của Đức Giêsu Kitô… tình yêu của Chúa Cha… ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, đã trình bày “ơn thông hiệp” như ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần, vốn là hoa trái của tình yêu do Chúa Cha ban tặng và ơn thánh do Chúa Giêsu đem lại.
Mặt khác, ngữ cảnh trước mắt lúc đó, được đánh dấu bằng việc nhấn mạnh tới tình hiệp thông huynh đệ, khiến ta nhận thức “sự thông hiệp” của Chúa Thánh Thần này không phải chỉ là việc từng cá nhân chúng ta được “dự phần” vào sự sống Thiên Chúa ít hay nhiều, mà một cách hợp lý còn là sự “hiệp thông” giữa các tín hữu mà chính Chúa Thánh Thần đã khơi dậy làm người xây dựng và tác nhân chính (xem Pl 2:1).
Ta có thể nói rằng ơn thánh, tình yêu và sự hiệp thông, lần lượt được quy chiếu cho Chúa Kitô, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, là các khía cạnh khác nhau của cùng một hành động Ba Ngôi nhằm cứu rỗi ta. Hành động ấy đã tạo ra Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trở thành “một dân tộc được sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần dẫn vào hợp nhất” , như lời Thánh Cyprianô nói vào thế kỷ thứ ba (De Orat. Dom. 23; PL 4, 553, được trích dẫn trong hiến chế Lumen Gentium, n. 4).
Ý niệm hiệp thông hiểu như được tham dự vào sự sống Ba Ngôi đã được Phúc Âm Gioan minh giải một cách đặc biệt. Ở đây, sự hiệp thông tình yêu vốn nối kết Chúa Con với Chúa Cha và với con người, cùng một lúc, cũng là khuôn mẫu và nguồn gốc của sự hiệp thông huynh đệ, một hiệp thông có nhiệm vụ hợp nhất các môn đệ với nhau: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15:12; xem thêm 13:34); “để chúng nên một… như chúng ta vốn là một” (Ga 17:21-22). Bởi đó, nó chính là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa Ba Ngôi và là sự hiệp thông của họ với nhau.
Trong khi còn lữ thứ trên trần gian, nhờ được hiệp thông với Chúa Con, người môn đệ đã có thể chia sẻ được sự sống Thiên Chúa nơi Chúa Con và sự sống Thiên Chúa nơi Chúa Cha: “sự thông hiệp của chúng ta là sự thông hiệp với Chúa Cha và với Con của Người là Chúa Giêsu Kitô” (1Ga 1:3).
Sự sống thông hiệp với Thiên Chúa và với nhau này là mục đích đặc thù của lời tuyên xưng trong Phúc Âm, là mục đích của việc gia nhập Kitô Giáo: “Những điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi cũng xin công bố cho anh em, để anh em được thông hiệp với chúng tôi” (1Ga 1:2). Như thế, sự hiệp thông kép, với Thiên Chúa và với nhau này không thể nào tách biệt được. Ở đâu bất cứ, hễ đã tiêu diệt sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì cũng tiêu diệt gốc rễ và nguồn cội sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau. Và cũng ở đâu bất cứ, nếu ta không sống sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau, thì sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng hết sống động, hết chân thật, như đã nói trên đây.
Giờ đây, ta hãy tiến thêm bước nữa. Là hoa trái của Chúa Thánh Thần, hiệp thông phải được nuôi dưỡng bằng Bánh Thánh Thể (xem 1Cor 10:16-17) và được diễn tả qua các liên hệ huynh đệ, trong viễn tượng chờ mong thế giới tương lai ngay trong chính thời đại mình. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu dưỡng nuôi ta, Người hợp nhất ta với chính Người, với Cha của Người, với Chúa Thánh Thần và với nhau. Mạng lưới hợp nhất bao trùm thế giới ấy chính là một hình thức chờ mong thế giới tương lai. Chính bằng cách này, vì là một chờ mong thế giới tương lai, nên hiệp thông cũng là một ơn phúc mang lại các hậu quả hết sức hiện thực. Nó nâng ta ra khỏi nỗi cô đơn của ta, khỏi trạng huống tự khép kín trong chính ta, và làm ta trở thành những người cùng chia sẻ tình yêu vốn hợp nhất ta với Thiên Chúa và với nhau.
Thật dễ hiểu ơn phúc này vĩ đại dường nào, nếu ta chịu nghĩ tới sự phân mảnh và những tranh chấp đang tàn phá các mối liên hệ giữa các cá nhân, các nhóm và các dân tộc với nhau. Và nếu không có ơn hợp nhất trong Chúa Thánh Thần, thì sự phân mảnh của nhân loại là điều không thể tránh khỏi.
“Hiệp thông” quả là Tin Mừng, là thuốc chữa do Chúa ban để ta chống trị sự cô đơn đang đe dọa mọi người hiện nay, một ơn phúc qúy giá giúp ta cảm nhận được sự chào đón và tình yêu của Thiên Chúa, trong tình hợp nhất của Dân Người, vốn tụ họp nhau nhân danh Chúa Ba Ngôi; nó là ánh sáng giúp Giáo Hội rạng chiếu như hải đăng dựng giữa muôn dân.
“Nếu ta nói ta có sự thông hiệp với Người mà lại bước đi trong bóng tối, thì quả ta nói dối và không sống theo chân lý; nhưng nếu ta bước đi trong ánh sáng, như Người vốn ở trong ánh sáng, thì chúng ta có tình thông hiệp với nhau” (1Ga 1:6ff).
Như thế, bất chấp mọi yếu hèn nhân bản vốn đánh dấu khuôn mặt lịch sử của mình, Giáo Hội vẫn được mạc khải như một tạo phẩm diệu kỳ của tình yêu, được đưa vào hiện hữu để mang Chúa Kitô đến gần mọi người đàn ông và đàn bà thực sự mong muốn được gặp Người, cho đến ngày tận thế. Và trong Giáo Hội, Chúa Kitô mãi mãi là người cùng thời với ta. Thánh Kinh không phải là một điều thuộc dĩ vãng. Chúa Kitô không nói trong quá khứ, Người nói trong hiện tại, Người nói với ta hôm nay, Người soi sáng ta, Người chỉ đường cho ta đi suốt cuộc đời, Người ban cho ta sự thông hiệp và nhờ thế, chuẩn bị và mở lòng ta chào đón hòa bình.
Kỳ tới: II. Bản chất Giáo Hội
Nhưng trước khi đề cập đến các vị thánh cá thể, Đức Bênêđíctô XVI nói cách chung tới Giáo Hội và đặc tính tông truyền của Giáo Hội. Chúng tôi xin chuyển ngữ phần có thể được coi như dẫn nhập này của ngài.
I. Nguồn Gốc Giáo Hội
1.Trên Đá này ta sẽ xây Giáo Hội Ta
Trong cuộc triều yết chung ngày 22 tháng 2 năm 2006, nhân ngày kính Tòa Phêrô, Đức Bênêđíctô XVI đã khai triển các bài giáo lý của ngài theo chiều hướng mới nói trên bằng cách suy nghĩ tới chữ Toà (cathedra).
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, phụng vụ theo nghi lễ La Tinh cử hành Lễ Kính Tòa Phêrô. Đây là một truyền thống rất cổ xưa mà người ta đã chứng minh được là có từ thế kỷ thứ tư. Nhân ngày này, chúng ta cảm tạ Chúa vì sứ mệnh Người đã ủy thác cho Thánh Tông Đồ Phêrô và các vị kế nghiệp của ngài.
Theo nghĩa đen, “cathedra” có nghĩa là tòa đã được thiết lập cho một giám mục, được đặt tại nhà thờ mẹ của giáo phận. Chính vì thế, nhà thờ này được gọi là nhà thờ chính tòa; nó biểu tượng cho thẩm quyền của giám mục và nhất là “huấn quyền” của ngài, tức là quyền giảng dạy phúc âm mà với tư cách kế nghiệp các Tông Đồ, vị giám mục được kêu gọi gìn giữ và chuyển giao cho Cộng Đoàn Kitô Giáo.
Khi một giám mục tiếp nhận một Giáo Hội đặc thù mà ngài được ủy thác, ngài ngồi trên tòa, đầu đội mũ gầu (mitre), tay mang gậy mục tử. Từ tòa này, với tư cách thầy dạy và người chăn dắt, ngài hướng dẫn hành trình của tín hữu trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Vậy “tòa” của Thánh Phêrô là tòa gì? Được Chúa Kitô chọn làm “đá tảng” để xây dựng Giáo Hội trên đó (Xem Mt 16:18), Thánh Phêrô khởi đầu thừa tác vụ của ngài tại Giêrusalem, sau khi Chúa lên trời và Chúa Thánh Thần hiện xuống. “Tòa” đầu tiên của Giáo Hội vì thế là Thượng Lầu. Chắc chắn ở đấy có một chỗ đặc biệt dành cho Simon Phêrô. Cũng trong căn phòng đó, Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, đã cùng cầu nguyện với các môn đệ.
Sau đó, Tòa của Phêrô là Antiôkia, một thành phố tọa lạc cạnh Sông Oronte thuộc Syria, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Thành này lúc đó là đô thị lớn thứ ba của Đế Quốc Rôma, sau Rôma và Alexandria của Ai Cập. Thánh Phêrô là giám mục tiên khởi của thành này, một thành được phúc âm hóa bởi Barnabas và Thánh Phaolô. Tại đây, “lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu” (Cv 11:26), và do đó là nơi danh xưng “Kitô hữu” của chúng ta ra đời. Thực thế, trước khi có việc canh tân lịch, Sách Tử Đạo Rôma cũng đã cử hành đặc biệt Tòa Phêrô tại Antiôkia.
Từ đó, Chúa Quan Phòng đã đưa Thánh Phêrô qua Rôma. Bởi thế, ta có cuộc hành trình từ Giêrusalem, từ Giáo Hội sơ sinh, tới Antiôkia, trung tâm đầu hết của Giáo Hội, được hình thành từ các người ngoại giáo nhưng vẫn kết hợp với Giáo Hội xuất phát từ người Do Thái. Rồi Thánh Phêrô qua Rôma, trung tâm Đế Quốc, biểu tượng của “Orbis”, của địa cầu hay thế giới, nơi ngài hoàn tất cuộc đua phục vụ Phúc Âm bằng cái chết tử đạo.
Như thế ta thấy Tòa Rôma, một tòa được vinh dự cao cả nhất, cũng là tòa được Chúa Kitô ủy thác cho Phêrô làm người phục vụ mọi Giáo Hội đặc thù trong sứ mệnh giáo hóa và kết hợp toàn bộ dân Chúa.
Vì thế, sau các cuộc du hành của Thánh Phêrô, Tòa Rôma đã được nhìn nhận là Tòa của Người Kế Nghiệp Thánh Phêrô và “tòa” giám mục của nó được nhìn nhận là đại biểu cho sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác cho vị này trong việc chăn dắt toàn bộ đoàn chiên của Người.
Điều trên đã được các Giáo Phụ xưa nhất của Giáo Hội, như Thánh Irênê, Giám Mục Lyons chẳng hạn, minh chứng. Ngài vốn xuất thân từ Tiểu Á. Nhưng trong khảo luận Adversus Haereses (Chống Lạc Giáo), ngài mô tả Giáo Hội Rôma là Giáo Hội “vĩ đại và cổ xưa nhất, mà ai cũng biết… được sáng lập và thiết lập tại Rôma bởi hai vị Tông Đồ hiển vinh nhất là Phêrô và Phaolô”. Ngài còn thêm: “Giáo Hội hoàn vũ, nghĩa là các tín hữu khắp nơi, phải nhất trí với Giáo Hội này vì tính trổi vượt của nó” (III, 3, 2-3).
Sau đó không lâu, Tertullianô viết rằng: “Giáo Hội Rôma diễm phúc biết bao, vì trên Giáo Hội này các Tông Đồ đã tuôn đổ mọi học lý của các ngài cùng với cả dòng máu của các ngài nữa!” (De Praescriptione Hereticorum, 36).
Thành thử, Tòa của Giám Mục Rôma không những chỉ đại biểu cho việc ngài phục vụ cộng đồng Rôma mà thôi mà còn đại biểu cho cả sứ mệnh của ngài làm người hướng dẫn toàn bộ Dân Thiên Chúa.
Mừng kính “tòa” Phêrô, do đó, như chúng ta mừng kính ngày nay, là đem lại cho nó một ý nghĩa thiêng liêng mạnh mẽ hơn và nhìn nhận nó là dấu chỉ ưu tuyển của tình yêu Thiên Chúa, Đấng Chăn Chiên Đời Đời Nhân Hậu, hằng muốn tụ tập toàn thể Giáo Hội của Người và dẫn dắt Giáo Hội này trên đường cứu rỗi.
Trong số rất nhiều chứng tá Giáo Phụ, tôi muốn trưng dẫn chứng tá của Thánh Giêrônimô. Đây là trích đoạn từ một lá thư của ngài gửi cho Đức Giám Mục Rôma. Trích đoạn này lý thú một cách đặc biệt vì nó minh nhiên nói tới “Tòa” Phêrô, coi nó như bến cảng an lành của chân lý và hòa bình.
Thánh Giêrônimô viết như sau: “Con quyết định tham khảo Tòa Phêrô, nơi người ta thấy môi miệng một Tông Đồ đã hiển dương đức tin; giờ đây con đến xin của nuôi dưỡng linh hồn con tại đây, nơi con từng lãnh nhận y phục của Chúa Kitô. Con không theo thủ lĩnh nào ngoài Chúa Kitô, nên con xin hiệp thông với phúc lành của ngài, tức, hiệp thông với Tòa Phêrô, vì con biết đây là hòn đá trên đó Giáo Hội đã được xây cất” (Xem Le lettere I, 15, 1-2).
Anh chị em thân mến, như anh chị em biết, trong hậu cung Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có một đài kỷ niệm Ngai Tòa Thánh Tông Đồ, một công trình lớn của Bernini. Đài này mang hình một tòa lớn bằng đồng được tượng của 4 Tiến Sĩ Giáo Hội chống đỡ: hai vị xuất thân từ Tây Phương là Thánh Augustinô và Thánh Ambrôsiô, hai vị xuất thân từ Đông Phương là Thánh Gioan Kim Khẩu và Thánh Anathasiô.
Tôi mời anh chị em dừng chân trước công trình gợi hình này mà ngày nay ta có thể chiêm ngưỡng, một công trình được trang trí bằng vô số chân đèn, và xin anh chị em hãy cầu nguyện cho thừa tác vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi. Anh chị em hãy ngước mắt nhìn chiếc cửa sổ kính mầu làm bằng thạch cao tuyết hoa (alabaster) nằm ngay trên đầu Ngai Tòa và hãy khẩn cầu Chúa Thánh Thần để với ơn soi sáng và sức mạnh của Người, Người luôn hướng dẫn việc phục vụ hàng ngày của tôi đối với toàn thể Giáo Hội.
2. Chúa Kitô và Giáo Hội (Buổi triều yết chung ngày 15 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
…Tôi xin dành buổi triều yết hôm nay để nói về sự mầu nhiệm trong mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, dựa vào kinh nghiệm của các Tông Đồ, dưới ánh sáng nhiệm vụ đã được ủy thác cho các ngài.
Giáo hội đã được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ thành một cộng đồng đức tin, đức cậy và đức mến. Qua các Tông Đồ, ta đến thẳng với chính Chúa Giêsu. Giáo Hội được thành lập lúc một số ngư phủ vùng Galilê gặp gỡ Chúa Giêsu, bị cái nhìn, giọng nói, lời mời gọi nồng ấm và mạnh mẽ của Người chinh phục: “Hãy theo Ta, và Ta sẽ làm các con thành nhưữg kẻ chinh phục người ta” (Mc 1:17; Mt 4:19).
Ở đầu thiên niên kỷ thứ ba, vị Tiền Nhiệm yêu qúy của tôi là Đức Gioan Phaolô II từng mời gọi Giáo Hội chiêm ngắm Khuôn Mặt Chúa Kitô (xem Novo Millennio Ineunte, n. 16 ff.). Tiếp tục cùng một hướng ấy, tôi muốn trình bày điều này: ánh sáng Khuôn Mặt ấy đã được phản ảnh ra sao trên khuôn mặt Giáo Hội (Xem Lumen Gentium, n. 1), bất kể các giới hạn và bóng râm trong bản tính nhân loại mỏng dòn và tội lệ của ta.
Sau Đức Maria, Đấng đã phản chiếu toàn diện ánh sáng của Chúa Kitô, chính qua các Tông Đồ, qua lời nói và chứng tá của các ngài, mà ta tiếp nhận được chân lý của Chúa Kitô. Tuy nhiên, sứ mệnh của các ngài không cô lập, nhưng được đặt trong mầu nhiệm hiệp thông bao gồm toàn bộ dân Chúa và được thể hiện từng giai đoạn từ Cựu Ước qua Tân Ước.
Về phương diện này, cần phải nói rằng sứ điệp của Chúa Giêsu sẽ bị hiểu lầm hoàn toàn nếu nó bị tách biệt khỏi bối cảnh đức tin và đức cậy của dân Chúa Chọn: Giống Thánh Gioan Tây Giả, vị Tiền Hô của Người, Chúa Giêsu cũng đã nói trước hết với Dân Do Thái (xem Mt 15:24) ngõ hầu “tụ họp” họ lại với nhau vào thời cánh chung, một thời đã cùng xuất hiện với Người. Và giống như lời giảng của Thánh Gioan, lời giảng của Chúa Giêsu cũng là lời kêu gọi của ơn thánh và là dấu chỉ của mâu thuẫn và của công lý đối với toàn bộ dân Chúa.
Như thế, ngay từ giây phút đầu tiên trong hoạt động cứu rỗi của Người, Chúa Giêsu Nadarét đã cố gắng tụ họp dân Chúa lại với nhau. Dù lời giảng của Người luôn là lời mời gọi người ta phải hồi hướng bản thân, nhưng trên thực tế, Người luôn luôn nhắm tới việc xây dựng dân Chúa, một Dân mà chính Người đã đến để tụ tập, thanh tẩy và cứu vớt.
Chính vì thế, lối giải thích có tính cá nhân chủ nghĩa về việc Chúa Kitô công bố Nước Trời, một lối giải thích đặc trưng của nền thần học tự do, chỉ là một chiều và không có nền tảng. Nhà thần học tự do nổi tiếng, là Adolf von Harnack, từng tóm lược lối giải thích ấy như sau, trong giảng khóa năm 1900 của ông tựa là The essence of Christianity (Yếu tính Kitô Giáo): "Khi áp dụng vào các cá nhân đơn độc, Nước Thiên Chúa có khả năng đi vào linh hồn họ và được linh hồn họ chào đón. Đã đành, Nước Thiên Chúa là lãnh thổ thuộc quyền thống trị của Người, nhưng đó là lãnh thổ của Thiên Chúa chí thánh trong các trái tim cá thể” (Bài 3, tr.100 và tiếp theo).
Trên thực tế, chủ nghĩa cá nhân của nền thần học tự do này đang được thời nay nhấn mạnh một cách đặc biệt. Nhưng, theo cái nhìn của truyền thống Thánh Kinh và trong bối cảnh của Do Thái Giáo, nơi công trình của Chúa Giêsu diễn tiến, ai cũng rõ điều này: toàn bộ sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người có tính cộng đoàn. Người thực sự xuống thế để hợp nhất nhân loại đang tứ tán; Người thực sự đến để hợp nhất Dân Thiên Chúa.
Dấu chỉ hiển nhiên cho thấy ý định của Đấng xuất thân từ Nadarét muốn tụ họp cộng đồng Giao Ước lại với nhau để qua nó chứng tỏ sự nên trọn của các lời hứa đã được ngỏ cùng Các Tổ Phụ, những vị luôn luôn nhắc tới công hội, thống nhất, hợp nhất, là việc thiết lập nhóm Mười Hai. Ta nghe được việc thiết lập nhóm Mười Hai này lúc đọc Phúc Âm. Tôi xin đọc lại cho anh chị em đoạn chủ yếu sau đây: “Và Người lên đồi, rồi gọi những kẻ Người muốn đến với Người; và họ đã đến với Người. Người chỉ định 12 người ở với Người, để được sai đi rao giảng và được quyền trừ qủy. Tên của 12 Tông Đồ là…” (Mc 3:13-16; xem Mt 10:1-4; Lc 6:12-16).
Trên địa điểm mạc khải ấy, tức “gò cao”, với sáng kiến hòan toàn có ý thức và đầy cương quyết, Chúa Giêsu đã thiết lập nhóm Mười Hai, để họ, cùng với Người, làm chứng và loan báo việc xuất hiện của Nước Thiên Chúa.
Không còn hoài nghi gì nữa về tính lịch sử của việc kêu gọi này, không phải chỉ vì tính cổ xưa và tính số đông các chứng tá, nhưng còn vì lý do giản dị này nữa là có cả tên Giuđa nữa, tức người Tông Đồ sẽ phản bội Người, bất chấp các khó khăn do sự hiện diện này có thể gây ra cho cho cộng đồng tân lập.
Con số mười hai, một con số hiển nhiên có ý nhắc tới mười hai chi họ Israel, đủ để mạc khải cho ta ý nghĩa của hành động biểu tượng đầy tính tiên tri tiềm ẩn trong sáng kiến tái lập dân thánh. Vì hệ thống 12 chi họ đã lui vào bóng tối từ lâu, nên niềm hy vọng của Israel chờ đợi việc tái lập chúng phải được coi như dấu chỉ thời cánh chung (như đã được nhắc tới vào cuối Sách Êdêkien 37:15-19; 39:23-29; 40-48).
Khi chọn nhóm Mười Hai, để dẫn họ vào hiệp thông sự sống với Người cũng như cho họ tham dự vào sứ mệnh công bố Nước Trời của Người bằng lời nói và việc làm (xem Mc 6:7-13; Mt 10:5-8; Lc 9:1-6; 6:13), Chúa Giêsu muốn nói rằng thời ấn định đã tới để thiết lập Dân Mới của Thiên Chúa, không phải là dân của 12 chi họ, mà là dân phổ quát, tức Giáo Hội của Người.
Lời kêu gọi dân Israel
Từ chính sự hiện hữu của mình, nhóm Mười Hai, những người được kêu gọi từ nhiều hậu cảnh khác nhau, đã trở thành lời mời gọi toàn bộ Israel hồi tâm và tụ họp nhau lại thành giao ước mới, một giáo ước làm trọn giao ước cũ. Sự kiện Người ủy thác cho các Tông Đồ nhiệm vụ cử hành Lễ Vượt Qua của Người ngay trong Bữa Tiệc Ly, trước ngày Người chịu thống khổ, cho thấy Chúa Giêsu muốn chuyển giao cho toàn thể cộng đồng, qua con người các nhà lãnh đạo của nó, sứ mệnh trở thành dấu chỉ và dụng cụ trong lịch sử tụ họp có tính cánh chung mà chính Người đã khởi sự. Theo một nghĩa nào đó, ta có thể nói rằng Bữa Tiệc Ly chính là hành động đặt nền cho Giáo Hội, vì Người đã tự hiến mình và do đó đã tạo ra một cộng đồng mới, một cộng đồng hợp nhất trong hiệp thông với chính Người.
Dưới ánh sáng đó, ta hiểu được tại sao Đấng Sống Lại đã ban cho họ quyền tha tội sau khi ban Chúa Thánh Thần cho họ (xem Ga 20:23). Như thế, nhóm Mười Hai là dấu chỉ hiển nhiên nhất cho thấy ý muốn của Chúa Giêsu đối với sự hiện hữu và sứ mệnh của Giáo Hội và bảo đảm rằng giữa Chúa Kitô và Giáo Hội không hề có sự kình chống nào: bất chấp tội lỗi của các thành viên làm thành Giáo Hội, Chúa Kitô và Giáo Hội không thể tách biệt nhau.
Bởi thế, cái kiểu nói khá phổ thông cách nay không lâu cho rằng “Chúa Giêsu thì được, nhưng Giáo Hội thì không” là hoàn toàn không thể quan niệm được trong ý định của Chúa Kitô. Chúa Giêsu do chủ nghĩa cá nhân ấy chọn lựa chỉ là một Chúa Giêsu tưởng tượng.
Chúng ta không thể có Chúa Giêsu mà lại không có thực tại được Người tạo ra và tự tỏ mình trong đó. Giữa Thiên Chúa nhập hể và Giáo Hội của Người, có một sự liên tục sâu sắc, bền chặt và huyền nhiệm qua đó, Chúa Kitô hiện diện với con người thời nay. Người luôn luôn là người cùng thời với chúng ta, Người luôn luôn cùng thời với Giáo Hội, được xây trên nền các Tông Đồ và sống động trong các đấng kế vị các ngài. Sự hiện diện của Người nơi cộng đồng chính là lý do tạo ra niềm vui của chúng ta. Đúng thế, Chúa Kitô đang ở với chúng ta, Nước Thiên Chúa đang tới.
3. Các chứng nhân của Chúa Kitô (Buổi triều yết 22 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến
Thư gửi Tín Hữu Êphêsô trình bày cho ta hình ảnh Giáo Hội như một cấu trúc xây “trên nền các tông đồ và tiên tri, với Chúa Giêsu là viên đá góc” (Eph.2:20). Trong Sách Khải Huyền, vai trò của các Tông Đồ, nhất là của nhóm Mười Hai, đã được giải thích theo viễn tượng cánh chung về một Giêrusalem trên trời, được mô tả như một kinh thành với những bức tường “có mười hai nền, và trên những nền này, có 12 tên của Mười Hai Tông Đồ của Chiên Con” (21:14).
Các Phúc Âm nhất trí cho rằng việc kêu gọi các Tông Đồ đánh dấu các bước đầu tiên trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu, sau khi Người nhận phép rửa từ tay Gioan Tẩy Giả tại Sông Giođăng.
Theo trình thuật của Máccô (1:16-20) và của Mátthêu (4:18-22), khung cảnh của việc kêu gọi các Tông Đồ đầu tiên là Biển Galilê. Lúc vừa bắt đầu rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã để ý tới 2 nhóm anh em ruột: Simong và Andrê, Giacôbê và Gioan. Họ làm nghề đánh cá, đang bận bịu với công việc hằng ngày, thả và vá lưới.
Nhưng một hình thức đánh cá khác đang chờ đón họ. Người chủ ý kêu gọi họ và họ nhanh nhẹn đi theo Người: và sau đó, họ trở thành “những kẻ đánh cá người” (xem Mc 1:17; Mt 4:19). Cũng theo cùng một truyền thống này, nhưng Luca cho chúng ta một trình thuật đầy đủ hơn (5:1-11).
Trình thuật của Luca minh họa việc phát triển niềm tin của các môn đệ đầu tiên, bằng cách giải thích rằng lời Chúa Giêsu kêu gọi họ theo Người đã được đưa ra sau khi các ông được nghe lời giảng đầu tiên của Người và đã được thấy các dấu lạ đầu tiên Người làm. Riêng mẻ cá lạ còn là bối cảnh tức khắc, cho thấy tính biểu tượng trong sứ mệnh đánh cá người vừa được ủy thác cho các ông. Số phận những người mới “được gọi”, do đó, gắn bó chặt chẽ với số phận của Chúa Giêsu. Tông đồ là người được sai đi, nhưng trước đó, họ phải là các “chuyên viên” về Chúa Giêsu.
Khía cạnh trên được Phúc Âm Gioan nhấn mạnh từ chính cuộc gặp gỡ đầu tiên của Chúa Giêsu với các Tông Đồ tương lai. Ở đây, khung cảnh có khác. Cuộc gặp gỡ xẩy ra tại bờ Sông Giođăng. Sự hiện diện của các môn đệ tương lai, những người, giống Chúa Giêsu, cũng từ Galilê tới đó để chịu phép rửa của Gioan, giải thích cho ta rõ thế giới tâm linh của họ.
Họ là những người chờ đợi Nước Thiên Chúa, lo lắng được biết Đấng Được Xức Dầu mà người ta từng công bố là sắp sửa xuất hiện. Chỉ cần Gioan Tẩy Giả cho họ thấy Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa (xem Ga 1:36) cũng đủ khơi dậy trong lòng họ niềm khát khao được đích thân gặp gỡ Người.
Câu chuyện qua lại với hai tông đồ tương lai thứ nhất nói lên khá nhiều điều. Họ đáp lại câu Người hỏi: “các anh kiếm gì?”, bằng một câu hỏi khác: “Thưa thầy, thầy ở đâu?”. Câu Chúa Giêsu trả lời đúng là một lời mời: “Hãy đến mà xem” (xem Ga 1:38-39). Hãy đến, để các anh có khả năng thấy.
Cuộc phiêu lưu của các Tông Đồ đã diễn ra như thế đấy, như một cuộc trùng phùng giữa những con người sẵn sàng mở cửa đón chào nhau. Đối với các môn đệ, buổi hừng đông của cuộc hành trình trực tiếp làm quen với Thầy chính là ở chỗ thấy nơi Thầy cư ngụ và bắt đầu quen biết Người. Đúng vậy, các ông sẽ không rao giảng một ý niệm mà là làm chứng cho một con người.
Trước khi được sai đi rao giảng, họ phải “hiện hữu” với Chúa Giêsu (xem Mc 3:14), thiết lập mối quan hệ thân thương với Người. Trên căn bản ấy, việc phúc âm hóa không còn là gì khác hơn lời công bố điều chính họ cảm nghiệm và là lời mời gọi bước vào sự hiệp thông huyền nhiệm với Chúa Kitô (xem 1Ga 1:1-3).
Các Tông Đồ đã được sai đến với những ai? Trong Phúc Âm, hình như Chúa Giêsu muốn giới hạn sứ mệnh của Người nơi một mình dân Do Thái. Người nói: “Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel mà thôi” (Mt 15:24). Tương tự như thế, hình như Người cũng giới hạn sứ mệnh ủy thác cho nhóm Mười Hai: “Khi sai nhóm Mười Hai đi, Người dặn họ “Đừng đi tới Dân Ngoại, đừng vào nhà người Samaria, nhưng đúng hơn hãy tới với những con chiên lạc của nhà Israel” (Mt 10:5ff).
Một số các nhà bình luận hiện đại đầy óc suy lý cho rằng những lời lẽ trên cho thấy Vị Tiên Tri người Nadarét này rõ ràng không hề có một ý thức phổ quát. Nhưng thực ra, lời lẽ trên phải được hiểu dưới ánh sáng mối liên hệ đặc biệt của Người với Israel, tức cộng đồng Giao Ước, một cộng đồng luôn luôn diễn tiến trong lịch sử cứu rỗi.
Nói về lòng mong chờ Đấng Được Xức Dầu, lời hứa của Thiên Chúa, một lời hứa được trực tiếp ngỏ cùng Israel, sẽ được nên trọn khi Thiên Chúa tụ tập Dân của Người qua Đấng Người Đã Chọn làm mục tử với nhiệm vụ tụ tập đó: “Ta sẽ cứu đàn chiên Ta, chúng sẽ không còn là miếng mồi nữa… Ta sẽ đặt trên chúng một mục tử, là tôi trung Đavít của ta, và mục tử này sẽ chăn nuôi chúng và trở thành mục tử của chúng. Và Ta, Chúa Tể, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn tôi tớ Đavít của Ta sẽ là hoàng tử giữa chúng” (Ed 34:22-24).
Chúa Giêsu là mục tử cánh chung, Đấng sẽ tụ tập các chiên lạc của nhà Israel. Người sẽ đi tìm chúng vì Người biết rõ và rất yêu thương chúng (xem Lc 15:4-7, Mt 18:12-14; cũng nên xem hình ảnh người Chăn Chiên Lành trong Ga 10:11ff). Nhờ sự “tụ tập” này, Nước Thiên Chúa được công bố cho mọi người: “Ta sẽ thiết lập vinh quang Ta giữa các dân tộc; và mọi dân tộc sẽ thấy sự phán xử của Ta, sự phán xử mà Ta sẽ thi hành, cùng sẽ thấy bàn tay Ta, một bàn tay đang giáng trên chúng” (Ed 39:21). Chúa Giêsu đã theo sát lời tiên tri ấy. Bước đầu tiên của Người, vì thế, là “tụ tập” dân Israel, để mọi dân tộc, khi được mời gọi tụ họp trong hiệp thông với Chúa, được thấy và tin.
Chính vì vậy, nhóm Mười Hai, được mời gọi chia sẻ cùng một sứ mệnh như Chúa Giêsu, cùng hợp tác với vị Mục Tử của thời sau hết, cũng đã đi tìm các chiên lạc của nhà Israel, nghĩa là nói với dân giao ước rằng sự trở về đoàn tụ của họ là dấu chỉ của ơn cứu độ dành cho mọi dân tộc, là khởi đầu của việc phổ quát hóa Giao Ước.
Thay vì làm sai lạc tính cởi mở phổ quát trong hành động Thiên Sai của Chúa Giêsu, việc giới hạn vào dân Israel trong sứ mạng của Người cũng như của nhóm Mười Hai càng là một dấu chỉ tiên tri hữu hiệu. Sau cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, dấu chỉ ấy sẽ trở nên rõ ràng: đặc tính phổ quát trong sứ mệnh của các Tông Đồ sẽ trở nên minh nhiên hơn. Lúc ấy, Chúa Kitô sẽ sai các ông tới “mọi tạo vật” (Mc 16:15), “mọi dân tộc” (Mt 28:19; Lc 24:47), “tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Sứ mạng ấy nay vẫn còn được tiếp nối. Lệnh Chúa truyền phải tụ tập mọi người trong hợp nhất yêu thương vẫn tiếp tục. Hy vọng và nhiệm vụ của ta là: đóng góp vào tính phổ quát này, vào sự hợp nhất chân thực này trong mọi nền văn hóa, trong niềm hiệp thông với Chúa thật của ta là Chúa Giêsu Kitô.
4. Ơn “hiệp thông” (buổi triều yết 29 tháng 3 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Qua thừa tác vụ tông đồ của mình, Giáo Hội, một cộng đồng được Con Thiên Chúa nhập thể tụ họp, sẽ tiếp tục sống qua các thời đại, bằng cách xây dựng và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông mà tất cả chúng ta đều được mời gọi và nhờ đó cảm nhận được ơn cứu độ của Chúa Cha.
Như Đức Clêmentê, vị kế nhiệm thứ ba của Thánh Phêrô từng nói vào cuối thế kỷ thứ 3, nhóm Mười Hai, trên thực tế, hết sức lưu tâm tới việc chuẩn bị các người kế nhiệm mình (xem I Clem 42:4), để sứ mệnh ủy thác cho các ngài vẫn tiếp diễn sau khi các ngài qua đời. Như thế, nhờ được tổ chức một cách hữu cơ dưới sự hướng dẫn của các mục tử hợp pháp, Giáo Hội tiếp tục sống trong thế gian qua các thời đại như một mầu nhiệm hiệp thông trong đó, sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi được phản chiếu tới một mức độ nào đó.
Thánh Tông Đồ Phaolô từng nhắc tới nguồn cội Ba Ngôi tối cao này khi ngài chúc các Kitô hữu của mình: “Ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cor 13:14).
Những lời trên, có lẽ mô phỏng lời kinh phụng vụ của Giáo Hội sơ khai, đã nhấn mạnh tới phương cách ơn thánh nhưng không của Chúa Cha nơi Chúa Giêsu Kitô được thể hiện và tỏ lộ ra như thế nào trong sự hiệp thông do Chúa Thánh Thần mang lại. Lối giải thích này, dựa trên sự song hành chặt chẽ giữa ba sở hữu cách của câu trên: ân sủng của Đức Giêsu Kitô… tình yêu của Chúa Cha… ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, đã trình bày “ơn thông hiệp” như ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần, vốn là hoa trái của tình yêu do Chúa Cha ban tặng và ơn thánh do Chúa Giêsu đem lại.
Mặt khác, ngữ cảnh trước mắt lúc đó, được đánh dấu bằng việc nhấn mạnh tới tình hiệp thông huynh đệ, khiến ta nhận thức “sự thông hiệp” của Chúa Thánh Thần này không phải chỉ là việc từng cá nhân chúng ta được “dự phần” vào sự sống Thiên Chúa ít hay nhiều, mà một cách hợp lý còn là sự “hiệp thông” giữa các tín hữu mà chính Chúa Thánh Thần đã khơi dậy làm người xây dựng và tác nhân chính (xem Pl 2:1).
Ta có thể nói rằng ơn thánh, tình yêu và sự hiệp thông, lần lượt được quy chiếu cho Chúa Kitô, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, là các khía cạnh khác nhau của cùng một hành động Ba Ngôi nhằm cứu rỗi ta. Hành động ấy đã tạo ra Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trở thành “một dân tộc được sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần dẫn vào hợp nhất” , như lời Thánh Cyprianô nói vào thế kỷ thứ ba (De Orat. Dom. 23; PL 4, 553, được trích dẫn trong hiến chế Lumen Gentium, n. 4).
Ý niệm hiệp thông hiểu như được tham dự vào sự sống Ba Ngôi đã được Phúc Âm Gioan minh giải một cách đặc biệt. Ở đây, sự hiệp thông tình yêu vốn nối kết Chúa Con với Chúa Cha và với con người, cùng một lúc, cũng là khuôn mẫu và nguồn gốc của sự hiệp thông huynh đệ, một hiệp thông có nhiệm vụ hợp nhất các môn đệ với nhau: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15:12; xem thêm 13:34); “để chúng nên một… như chúng ta vốn là một” (Ga 17:21-22). Bởi đó, nó chính là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa Ba Ngôi và là sự hiệp thông của họ với nhau.
Trong khi còn lữ thứ trên trần gian, nhờ được hiệp thông với Chúa Con, người môn đệ đã có thể chia sẻ được sự sống Thiên Chúa nơi Chúa Con và sự sống Thiên Chúa nơi Chúa Cha: “sự thông hiệp của chúng ta là sự thông hiệp với Chúa Cha và với Con của Người là Chúa Giêsu Kitô” (1Ga 1:3).
Sự sống thông hiệp với Thiên Chúa và với nhau này là mục đích đặc thù của lời tuyên xưng trong Phúc Âm, là mục đích của việc gia nhập Kitô Giáo: “Những điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi cũng xin công bố cho anh em, để anh em được thông hiệp với chúng tôi” (1Ga 1:2). Như thế, sự hiệp thông kép, với Thiên Chúa và với nhau này không thể nào tách biệt được. Ở đâu bất cứ, hễ đã tiêu diệt sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì cũng tiêu diệt gốc rễ và nguồn cội sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau. Và cũng ở đâu bất cứ, nếu ta không sống sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau, thì sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng hết sống động, hết chân thật, như đã nói trên đây.
Giờ đây, ta hãy tiến thêm bước nữa. Là hoa trái của Chúa Thánh Thần, hiệp thông phải được nuôi dưỡng bằng Bánh Thánh Thể (xem 1Cor 10:16-17) và được diễn tả qua các liên hệ huynh đệ, trong viễn tượng chờ mong thế giới tương lai ngay trong chính thời đại mình. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu dưỡng nuôi ta, Người hợp nhất ta với chính Người, với Cha của Người, với Chúa Thánh Thần và với nhau. Mạng lưới hợp nhất bao trùm thế giới ấy chính là một hình thức chờ mong thế giới tương lai. Chính bằng cách này, vì là một chờ mong thế giới tương lai, nên hiệp thông cũng là một ơn phúc mang lại các hậu quả hết sức hiện thực. Nó nâng ta ra khỏi nỗi cô đơn của ta, khỏi trạng huống tự khép kín trong chính ta, và làm ta trở thành những người cùng chia sẻ tình yêu vốn hợp nhất ta với Thiên Chúa và với nhau.
Thật dễ hiểu ơn phúc này vĩ đại dường nào, nếu ta chịu nghĩ tới sự phân mảnh và những tranh chấp đang tàn phá các mối liên hệ giữa các cá nhân, các nhóm và các dân tộc với nhau. Và nếu không có ơn hợp nhất trong Chúa Thánh Thần, thì sự phân mảnh của nhân loại là điều không thể tránh khỏi.
“Hiệp thông” quả là Tin Mừng, là thuốc chữa do Chúa ban để ta chống trị sự cô đơn đang đe dọa mọi người hiện nay, một ơn phúc qúy giá giúp ta cảm nhận được sự chào đón và tình yêu của Thiên Chúa, trong tình hợp nhất của Dân Người, vốn tụ họp nhau nhân danh Chúa Ba Ngôi; nó là ánh sáng giúp Giáo Hội rạng chiếu như hải đăng dựng giữa muôn dân.
“Nếu ta nói ta có sự thông hiệp với Người mà lại bước đi trong bóng tối, thì quả ta nói dối và không sống theo chân lý; nhưng nếu ta bước đi trong ánh sáng, như Người vốn ở trong ánh sáng, thì chúng ta có tình thông hiệp với nhau” (1Ga 1:6ff).
Như thế, bất chấp mọi yếu hèn nhân bản vốn đánh dấu khuôn mặt lịch sử của mình, Giáo Hội vẫn được mạc khải như một tạo phẩm diệu kỳ của tình yêu, được đưa vào hiện hữu để mang Chúa Kitô đến gần mọi người đàn ông và đàn bà thực sự mong muốn được gặp Người, cho đến ngày tận thế. Và trong Giáo Hội, Chúa Kitô mãi mãi là người cùng thời với ta. Thánh Kinh không phải là một điều thuộc dĩ vãng. Chúa Kitô không nói trong quá khứ, Người nói trong hiện tại, Người nói với ta hôm nay, Người soi sáng ta, Người chỉ đường cho ta đi suốt cuộc đời, Người ban cho ta sự thông hiệp và nhờ thế, chuẩn bị và mở lòng ta chào đón hòa bình.
Kỳ tới: II. Bản chất Giáo Hội
Đức Bênêđíctô XVI và các bài giáo lý về Giáo Hội, tiếp theo
Vũ Văn An
17:17 16/12/2019
II. Bản Chất Giáo Hội
5. ‘Gìn giữ ơn phúc’ (Buổi triều yết ngày 5 tháng 4 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong loạt bài Giáo Lý mới, bắt đầu mấy tuần trước đây, chúng ta đã xem sét các nguồn gốc của Giáo Hội, để hiểu được kế hoạch nguyên thủy của Chúa Giêsu và nhờ thế nắm được nét chủ yếu khiến Giáo Hội sống còn qua các đổi thay của thời gian. Và cũng nhờ thế, chúng ta hiểu được lý do tại sao ta hiện diện trong Giáo Hội và phải cố gắng sống ơn gọi Kitô hữu ấy ra sao ở hừng đông thiên niên kỷ thứ ba này.
Khi suy nghĩ về Giáo Hội sơ sinh, ta khám phá ra hai phương diện: phương diện thứ nhất được nhấn mạnh bởi Thánh Irênê thành Lyons. Ngài là thánh tử đạo và là một nhà thần học vĩ đại cuối thế kỷ thứ hai, người đầu tiên đã mang lại cho chúng ta một nền thần học tương đối có hệ thống. Thánh Irênê viết rằng: “Giáo Hội ở đâu thì Chúa Thánh Thần cũng ở đó; và Chúa Thánh Thần ở chỗ nào, thì Giáo Hội và mọi ơn thánh cũng ở chỗ ấy; vì Chúa Thánh Thần là chân lý” (Adversus Haereses, III, 24, 1: PG 7, 966). Như thế, giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội, có một nối kết hết sức sâu sắc.
Chúa Thánh Thần xây dựng Giáo Hội và ban cho Giáo Hội chân lý; Thánh Phaolô nói rằng: Chúa Thánh Thần đổ tràn tình yêu vào tâm hồn các tín hữu” (Xem Rm 5: 5).
Ngoài ra, còn có phương diện thứ hai nữa. Mối nối kết với Chúa Thánh Thần trên đây không loại bỏ nhân tính của chúng ta, một nhân tính với đầy đủ các yếu đuối của nó. Bởi thế, ngay từ đầu, cộng đồng các môn đệ không những chỉ cảm nhận được niềm vui của Chúa Thánh Thần, các ơn sự thật và tình yêu, mà còn cảm nhận được cả thử thách nữa, các thử thách gây ra trước nhất bởi việc bất đồng về chính các chân lý của đức tin, gây tai hại cho sự hiệp thông anh em.
Tình thông hiệp yêu thương đã hiện hữu ngay từ đầu và tiếp tục sống còn cho tới ngày tận thế (xem 1Ga 1:1ff) thế nào, thì sự chia rẽ, buồn thay, cũng đã xuất hiện ngay từ thuở ban đầu như thế. Ta cũng không nên ngạc nhiên khi thấy nó còn hiện hữu đến bây giờ. “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng chúng không phải là người của chúng ta”, Thánh Gioan từng viết trong thư thứ nhất của ngài như thế, “vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta” (1Ga 2:19).
Do đó, qua các biến cố của thế giới và qua cả các yếu đuối của Giáo Hội, vẫn luôn luôn có nguy cơ mất đức tin, và do đó, mất cả đức ái và tình huynh đệ. Bởi thế, những ai tin vào Giáo Hội của yêu thương và muốn sống trong Giáo Hội ấy có nhiệm vụ đặc biệt phải nhìn nhận nguy cơ trên và chấp nhận rằng sự hiệp thông không thể nào có được với những người đã tách mình khỏi tín lý cứu rỗi (xem 2Ga 9:11).
Việc Giáo Hội sơ sinh ý thức rõ các căng thẳng có thể có trong kinh nghiệm hiệp thông đã được chỉ rõ trong thư thứ nhất của Thánh Gioan: không một tiếng nói nào trong Tân Ước đã được gióng lên một cách mạnh mẽ hơn để nhấn mạnh tới thực tại và bổn phận của tình yêu huynh đệ giữa các Kitô hữu; nhưng cùng một tiếng nói này cũng đã nói đến sự trầm trọng lớn lao của những kẻ thù Giáo Hội mà trước đây vốn là thành viên của Giáo Hội nhưng nay không còn thuộc Giáo Hội nữa.
Giáo Hội của yêu thương cũng là Giáo Hội của sự thật, chủ yếu được hiểu là lòng trung thành đối với Phúc Âm đã được Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ của Người. Chính việc được sự thật của Chúa Thánh Thần biến cải thành con cái của cùng một Chúa Cha đã phát sinh ra tình huynh đệ giữa các Kitô hữu: “Vì tất cả những người được Thần Trí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8:14).
Tuy nhiên, muốn cho gia đình các con cái của Thiên Chúa sống hợp nhất và hoà bình, họ cần một Đấng gìn giữ họ trong sự thật và hướng dẫn họ bằng một biện phân khôn ngoan và có thẩm quyền: đó chính là điều mà thừa tác vụ của các Tông Đồ đã được yêu cầu phải thực hiện.
Điều trên dẫn ta tới một điểm quan trọng. Giáo Hội hoàn toàn là của Chúa Thánh Thần nhưng nó có một cấu trúc, đó chính là việc kế thừa tông đồ (apostolic succession), một sự kế thừa có trách nhiệm bảo đảm để Giáo Hội tồn tại trong sự thật mà Chúa Giêsu đã ban tặng, Đấng mà từ Người khả năng yêu thương của chúng ta đã phát sinh.
Mô tả ngắn ngủi đầu hết trong Sách Tông Đồ Công Vụ đã tóm lược được một cách rất hiệu quả sự hội tụ của các giá trị trên trong cuộc sống của Giáo Hội sơ sinh: “Và họ tận tụy với giáo huấn và tình hiệp thông của các Tông Đồ, với việc bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2:42). Hiệp thông phát sinh từ đức tin, một đức tin được giáo huấn của các Tông Đồ linh hứng. Hiệp thông ấy được nuôi dưỡng bằng việc Bẻ Bánh và cầu nguyện, và được phát biểu bằng tình yêu và phục vụ huynh đệ.
Trước mắt, ta thấy một mô tả về tình hiệp thông trong Giáo Hội sơ sinh hết sức phong phú với tính năng động nội tại và các biểu thức ngoại tại: ơn hiệp thông được gìn giữ và thăng tiến một cách riêng nhờ thừa tác vụ tông đồ. Thừa tác vụ này, nói cho cùng, cũng là một ơn phúc Chúa ban cho toàn thể cộng đồng.
Các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, do đó, là những người canh giữ và là các chứng nhân có thẩm quyền của kho tàng sự thật đã được trao phó cho Giáo Hội, đồng thời cũng là các thừa tác viên của bác ái. Hai khía cạnh đó luôn đi đối với nhau.
Các ngài phải luôn luôn chú ý tới bản chất bất khả phân ly của việc phục vụ kép ấy mà trên thực tế chỉ là một việc phục vụ: sự thật và tình yêu do Chúa Giêsu mạc khải và ban tặng. Về phương diện này, việc phục vụ của các ngài trước nhất và trên hết phải là việc phục vụ của yêu thương: và tình bác ái mà các ngài sống và cổ vũ không bao giờ được tách biệt khỏi sự thật mà các ngài canh giữ và truyền thụ.
Sự thật và tình yêu là hai mặt của cùng một ơn phúc do Chúa ban và chính nhờ thừa tác vụ tông đồ mà ơn phúc này được duy trì trong Giáo Hội và được truyền lại cho chúng ta, cho thời đại này!
Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi cũng đến với chúng ta qua việc phục vụ của các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, để truyền thụ cho ta sự thật, một sự thật sẽ giải phóng tất cả chúng ta (xem Ga 8:32).
Tất cả những điều ta chứng kiến nơi Giáo Hội sơ sinh này thúc giục ta cầu nguyện cho các vị kế nhiệm các Tông Đồ, cho mọi giám mục và cho người kế nhiệm Thánh Phêrô, để các vị cùng nhau thật sự trở thành những người canh giữ cả sự thật lẫn tình yêu; để, về phương diện này, các ngài thật sự trở thành các tông đồ của Chúa Kitô và để ánh sáng của Người, ánh sáng sự thật và tình yêu, mãi mãi không bao giờ tắt trong Giáo Hội và trong thế giới.
6. Hiệp thông trong thời gian: Thánh Truyền (Buổi triều yết 26 tháng 4 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Cám ơn anh chị em về lòng qúy mến của anh chị em! Trong loạt bài giáo lý mới vừa bắt đầu mới đây, chúng ta đang tìm hiểu kế hoạch nguyên thủy mà Chúa muốn dành cho Giáo Hội, ngõ hầu hiểu rõ chỗ đứng của chúng ta, đời sống Kitô hữu của chúng ta, trong tình hiệp thông vĩ đại của Giáo Hội.
Cho đến nay, ta đã hiểu rằng sự hiệp thông trong Giáo Hội được Chúa Thánh Thần linh hứng và nâng đỡ và được thừa tác vụ tông đồ gìn giữ và phát huy. Sự hiệp thông mà chúng ta gọi là Giáo Hội này, không những trải dài ra mọi tín hữu thuộc một thời kỳ đặc thù nào đó mà thôi, mà còn ôm ấp mọi thời đại và mọi thế hệ. Như thế, ta có một tính phổ quát kép: tính phổ quát đồng thời (synchronic) làm chúng ta hợp nhất với các tín hữu khắp nơi trên thế giới, và tính phổ quát có thể gọi là dị thời (diachronic) nghĩa là mọi thời đều thuộc chúng ta, và mọi tín hữu của quá khứ và tương lai đều cùng với chúng ta tạo thành một hiệp thông duy nhất vĩ đại.
Chúa Thánh Thần đối với chúng ta là Đấng gìn giữ sự hiện hữu sống động của mầu nhiệm trong lịch sử, Đấng bảo đảm sự thể hiện của mầu nhiệm này trong mọi thế kỷ. Nhờ Đấng Bào Chữa (Paraclete), mọi thế hệ kế tiếp đều có khả năng cảm nghiệm được cùng một Đấng Đã Trỗi Dậy, một cảm nghiệm từng được sống bởi cộng đồng tông đồ ở khởi nguồn Giáo Hội, vì cảm nghiệm này vốn được truyền lại cho ta và được hiện thực hóa trong đức tin, trong việc thờ phượng và trong tình hiệp thông của dân Chúa, trên đường lữ thứ kinh qua thời gian.
Chúng ta ngày nay cũng thế, trong Mùa Phục Sinh, chúng ta cũng đang sống cuộc gặp gỡ với Đấng Đã Trỗi Dậy không phải như một sự kiện thuộc quá khứ, mà là trong tình hiệp thông hiện tại với đức tin, phụng vụ và đời sống Giáo Hội. Truyền thống tông đồ của Giáo Hội hệ ở việc thông truyền ơn phúc cứu rỗi, một việc thông truyền mà nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần đã làm cho cộng đồng Kitô hữu trở thành người luôn luôn hiện thực hóa được sự hiệp thông lúc ban đầu.
Ta nói đến sự hiệp thông “ban đầu” vì quả thực sự hiệp thông đó phát sinh từ lời chứng của các Tông Đồ và của cộng đồng các môn đệ ở thời đầu hết ấy. Sự hiệp thông ấy được thông truyền dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong các trước tác Tân Ước và trong đời sống bí tích và đời sống tín lý. Giáo Hội liên tục nhắc đến sự thông truyền ấy, đến Thánh Truyền ấy, đến ơn phúc trọn vẹn và luôn luôn thức thời ấy của Chúa Giêsu, như là nền tảng và là luật pháp của mình qua suốt diễn trình kế tục thừa tác vụ tông đồ không bao giờ đứt đoạn.
Ngoài ra, trong cuộc sống lịch sử của Người, Chúa Giêsu từng giới hạn sứ vụ của Người nơi nhà Israel mà thôi, nhưng mặt khác, Người cũng nói rõ rằng ơn cứu rỗi không chỉ dành cho Dân Israel mà thôi mà là dành cho mọi người khắp thế giới và thuộc mọi thời đại.
Sau này, Đấng Trỗi Dậy đã minh nhiên ủy thác cho các Tông Đồ (xem Lc 6:13) nhiệm vụ biến muôn dân thành môn đệ, và hứa rằng Người sẽ hiện diện và trợ giúp họ cho đến ngày tận thế (xem Mt 28: 19 ff.).
Mặc khác, tính phổ quát của ơn cứu rỗi đòi hỏi điều này: việc tưởng niệm Phục Sinh phải được cử hành liên tục trong lịch sử cho đến ngày Chúa Giêsu trở lại (xem 1Cor 11:26). Đấng nào sẽ làm cho sự hiện diện cứu chuộc của Chúa Giêsu xuất hiện qua thừa tác vụ của các Tông Đồ, vốn là đầu của Israel cánh chung (xem Mt 19:28), và qua trọn đời sống của dân Giao Ước mới? Câu trả lời đã rõ: đó chính là Chúa Thánh Thần. Tiếp tục mẫu mực của Phúc Âm Luca, Sách Tông Đồ Công Vụ mô tả một cách sống động sự thấm nhập vào nhau (interpenetration) giữa Chúa Thánh Thần, những người được Chúa Kitô sai đi và cộng đồng do các vị này tập họp.
Nhờ hành động của Đấng Bào Chữa, các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, trong thời gian, có thể thể hiện được sứ mệnh đã nhận lãnh từ Đấng Đã Trỗi Dậy. “Chúng con là chứng nhân những điều ấy. Và này, Thầy sẽ gửi cho các con điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24: 48ff.).
“Các con sẽ nhận được quyền lực khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các con; và các con sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem và tại mọi miền Giuđêa và Samaria và cho tới tận cùng thế giới” (Cv 1:8). Lời hứa thoạt đầu có vẻ không tin được này đã trở thành sự thật ngay từ thời các Tông Đồ: “Còn chúng tôi, chúng tôi là nhân chứng của các điều ấy, Chúa Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã ban cho những ai biết vâng phục Người, cũng là nhân chứng như vậy” (Cv 5:32).
Như thế, chính Chúa Thánh Thần, qua việc đặt tay và cầu nguyện của các Tông Đồ, đã thánh hiến và sai đi các nhà truyền giáo mới của Phúc Âm (như trong Cv 13:3 ff. và 1Tm 4:14). Quả đáng lưu ý khi có đoạn nói rằng chính Thánh Phaolô cử nhiệm kỳ mục (elders) tại tất cả các Giáo Hội (xem Cv 14:23), nhưng đoạn khác lại nói rằng chính Chúa Thánh Thần đã làm họ trở thành những người canh giữ đoàn chiên (xem Cv 20:28).
Nếu thế thì hành động của Chúa Thánh Thần và hành động của Thánh Phaolô đã đan kết với nhau một cách khăng khít. Lúc phải đưa ra các quyết định long trọng cho đời sống của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện ở đấy để hướng dẫn Giáo Hội. Sự hiện diện để hướng dẫn này của Chúa Thánh Thần được cảm nhận một cách hết sức sắc cạnh tại Công Đồng Giêrusalem, trong các kết luận hết sức vang dội của Công Đồng này: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15:28); Giáo Hội lớn mạnh và sống “trong niềm kính sợ Chúa và sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần” (Cv 9:31). Việc liên tục hiện thực hóa sự hiện diện đầy năng động của Chúa Giêsu giữa Dân của Người, do Chúa Thánh Thần đem lại và được phát biểu trong Giáo Hội qua thừa tác vụ tông đồ và sự hiệp thông huynh đệ chính là nội dung của “Thánh Truyền” theo nghĩa thần học: nó không phải chỉ là việc lưu truyền có tính vật chất những gì các Tông Đồ đã được trao ban từ lúc khởi đầu, nhưng là chính sự hiện diện hữu hiệu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại và đang đồng hành cùng hướng dẫn cộng đồng Người đã tụ họp lại trong Chúa Thánh Thần.
Thánh Truyền là việc hiệp thông các tín hữu chung quanh các mục tử hợp pháp của họ qua dòng lịch sử, một sự hiệp thông được Chúa Thánh Thần dưỡng nuôi, nhờ thế có được sự nối kết giữa kinh nghiệm đức tin tông truyền, một kinh nghiệm sống của cộng đoàn môn đệ đầu tiên, và kinh nghiệm hiện nay của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người.
Nói cách khác, Thánh Truyền là sự liên tục thực tế của Giáo Hội, Đền thờ thánh của Chúa Cha, được xây trên nền các Tông Đồ và được giữ chặt lại với nhau bằng viên đá góc là Chúa Kitô, nhờ hành động ban sự sống của Chúa Thánh Thần: “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa.Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Eph 2:19-22).
Nhờ Thánh Truyền, được thừa tác vụ của các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài canh giữ, nước trường sinh chẩy ra từ cạnh sườn Chúa Kitô và máu thánh của Người tới được với mọi người đàn ông và đàn bà mọi thời. Như thế, Thánh Truyền là sự hiện diện trường cửu của Đấng Cứu Thế, Đấng tới để gặp gỡ chúng ta, cứu chuộc chúng ta và thánh hóa chúng ta trong Chúa Thánh Thần, nhờ thừa tác vụ của Giáo Hội, vì vinh quang Chúa Cha.
Do đó, để kết luận và tóm lược, ta có thể nói rằng Thánh Truyền không phải là việc lưu truyền sự việc hay lời nói, tức toàn bộ sự vật đã chết. Trái lại, Thánh Truyền là dòng sông sống nối ta với ngọn nguồn, dòng sông sống trong đó ngọn nguồn luôn hiện diện, dòng sông lớn dẫn ta tới cổng đời đời. Và vì là như thế, nên trong dòng sông sống này, lời Chúa mà khởi đầu ta nghe được từ môi miệng người đọc sẽ mãi mãi được mang tới: “Thầy sẽ mãi mãi ở với các con, cho đến tận cùng thời gian” (Mt 28:20).
7. Truyền Thống Tông Đồ của Giáo Hội (Buổi triều yết 3 tháng 5 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong các bài giáo lý này, chúng ta muốn hiểu thêm chút nữa về bản chất Giáo Hội. Lần trước, ta đã suy niệm về chủ đề Truyền Thống Tông Đồ. Ta thấy rằng truyền thống ấy không phải là một bộ sưu tập sự vật hay lời nói, giống như chiếc hộp chứa các sự vật đã chết. Truyền thống là dòng sông của sự sống mới phát nguyên từ nguồn, từ Chúa Kitô chẩy tới chúng ta, và làm chúng ta tham dự vào lịch sử của Thiên Chúa với loài người.
Chủ đề về Thánh Truyền này quan trọng đến nỗi hôm nay, tôi muốn được suy tư thêm về nó một lần nữa: thực vậy, nó có tầm hết sức quan trọng đối với đời sống của Giáo Hội.
Về phương diện này, Công Đồng Vatican II chỉ rõ rằng Thánh Truyền chủ yếu có tính tông đồ ngay từ khởi nguyên: “Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mạc khải (x. 2Cor 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông Ðồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm… như nguồn mọi chân lý cứu độ và lề luật luân lý” (Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Dei Verbum, số 7).
Công Đồng cũng nói thêm rằng việc trên đã được thực hiện một cách trung thành “bởi các Tông Ðồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý” (cùng chỗ vừa dẫn).
Văn kiện còn cho biết thêm: cũng có “những người phụ tá cho các Tông Đồ đã viết lại tin mừng cứu rỗi dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần” (cùng chỗ vừa dẫn).
Trong tư cách thủ lãnh của Israel cánh chung, và cũng trong tư cách nhóm Mười Hai, con số y hệt con số các chi tộc của Dân Riêng, các Tông Đồ tiếp tục việc “tụ họp” đã được Chúa khởi sự. Các ngài làm việc đó trước nhất và trên hết qua việc trung thành lưu truyền lại các ơn phúc đã nhận được, tức Tin Mừng Nước Trời, một tin mừng cho dân trong Chúa Giêsu Kitô.
Con số nơi các ngài không những nói lên tính liên tục với gốc rễ nguyên thủy, tức Israel của Mười Hai chi tộc, mà còn nói lên cả đối tượng phổ quát cho thừa tác vụ của các ngài, một thừa tác vụ đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới.
Điều này có thể hiểu được nhờ giá trị biểu tượng mà các con số trong thế giới Sêmít vốn mang sẵn: Mười hai là kết quả của việc nhân ba, con số hoàn hảo, với bốn, con số vốn dùng để chỉ bốn phương, do đó, chỉ toàn thế giới.
Cộng đồng do lời công bố Phúc Âm sinh ra nhìn nhận rằng mình được kêu gọi bởi lời của những người đầu tiên đã được cảm nghiệm Chúa cách trực tiếp và được chính Người sai đi. Cộng đồng này biết rằng mình có thể trông cậy vào sự dìu dắt của nhóm Mười Hai cũng như sự dìu dắt của những người đến sau có liên hệ với các ngài trong tư cách kế nhiệm thừa tác vụ Lời Chúa và phục vụ hiệp thông. Kết quả, cộng đồng này thấy mình dấn thân vào việc truyền lại cho người khác “Tin Mừng” về sự hiện diện thực sự của Chúa và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, do Chúa Thánh Thần đem lại.
Điều ấy được nhấn mạnh rõ ràng và gợi hình trong nhiều đoạn thư của Thánh Phaolô: “Tôi chuyển giao cho anh chị em… điều tôi đã nhận được” (1Cor 15:3). Và điều đó rất quan trọng. Như đã biết, Thánh Phaolô, từ đầu, được Chúa Kitô kêu gọi với một ơn gọi có tính bản thân. Ngài là một Tông Đồ thực sự, thế nhưng đối với ngài cũng thế, việc trung thành với những điều ngài đã tiếp nhận là điều hết sức quan trọng. Ngài không muốn “sáng chế” ra, có thể nói như thế, một thứ tân Kitô Giáo “theo Phaolô”. Bởi thế, ngài nhấn mạnh rằng “tôi chuyển giao cho anh chị em… điều tôi đã nhận được”. Ngài truyền lại ơn phúc khởi nguyên nhận được từ Chúa và là chân lý cứu rỗi.
Rồi về cuối đời, ngài viết cho Timôtê: “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2Tm 1:14).
Điều trên cũng được minh chứng một cách hữu hiệu bởi chứng tá đức tin Kitô Giáo cổ xưa do Tertulianô viết khoảng năm 200: “(Các Tông Đồ), sau khi đem chứng tá niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô trước hết đến khắp miền Giuđêa và thiết lập các giáo hội (tại đó), sau đó đã đi khắp thế giới và rao giảng cùng một học lý về đức tin ấy cho mọi dân tộc. Rồi các vị cũng thiết lập các giáo hội tại mọi thành thị, từ đó, mọi giáo hội khác, lần lượt rút tỉa được truyền thống đức tin và hạt giống tín lý, và nhờ hàng ngày rút tỉa như thế, mà họ đã trở thành các giáo hội. Thực vậy, chỉ căn cứ vào điều ấy, họ đã có thể tự coi mình là tông truyền, thực sự là dòng dõi, miêu duệ của các giáo hội tông đồ” (Tertullian, De Praescriptione Haereticorum, 20: PL 2, 32).
Công Đồng Vatican II bình luận rằng: “Những điều các Tông Ðồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần vào việc giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc thờ phượng của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin” (Dei Verbum, n. 8).
Giáo Hội truyền lại tất cả những gì mình là và mình tin. Giáo Hội làm việc đó qua thờ phượng, qua đời sống và qua giáo lý của mình. Như thế, Thánh Truyền chính là Phúc Âm sống động, được các Tông Đồ công bố một cách trọn vẹn dựa trên sự viên mãn của kinh nghiệm độc đáo, không thể nào mô phỏng được của các ngài: nhờ hoạt động của các ngài, đức tin được thông truyền cho người khác, cho cả chúng ta ngày nay, cho đến tận cùng thế giới. Do đó, Thánh Truyền là lịch sử Chúa Thánh Thần hoạt động trong lịch sử Giáo Hội nhờ trung gian các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, trong liên tục tính trung thực với kinh nghiệm của thuở ban đầu.
Đó là điều được Thánh Clêmentê thành Rôma nói tới vào cuối thế kỷ thứ nhất. Ngài viết: “Các Tông Đồ đã rao giảng cho chúng ta Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô; Chúa Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa sai đến. Cho nên, Chúa Kitô đã được Thiên Chúa phái tới, còn các Tông Đồ thì được Chúa Kitô phái tới. Như thế, cả hai sự đề cử này đều đã được thực hiện một cách có thứ tự, theo thánh ý Thiên Chúa… Qua Chúa Giêsu Kitô, các Tông Đồ của chúng ta cũng biết rằng sẽ có sự xung đột về chức vụ giám mục. Chính vì lý do đó, như thể các ngài biết trước việc đó, nên các ngài đã chỉ định các [thừa tác viên] vừa kể, và sau đó còn chỉ thị rằng khi các ngài qua đi, những vị được chấp thuận khác sẽ kế nhiệm thừa tác vụ của các ngài” (Ad Corinthios, 42, 44: PG 1, 292, 296).
Dây chuyền phục vụ này vẫn tiếp diễn tới tận ngày nay; nó sẽ tiếp diễn cho tới tận cùng thế giới. Thực vậy, sứ mệnh được Chúa Giêsu ủy nhiệm cho các Tông Đồ đã được các ngài chuyển giao cho các vị kế nhiệm. Vượt quá cảm nghiệm được đích thân tiếp xúc với Chúa Kitô, một cuộc tiếp xúc độc đáo không bao giờ còn có thể lặp lại, các Tông Đồ vẫn đã truyền lại cho các vị kế nhiệm các ngài sứ mệnh long trọng mà các ngài đã lãnh nhận từ Thầy Chí Thánh là ra đi khắp thế giới. “Tông đồ” phát sinh từ chữ Hy lạp "apostéllein", có nghĩa là “sai đi”.
Sứ mệnh tông đồ, như bản văn Mátthêu (Mt 28:19ff) cho thấy, bao hàm việc phục vụ có tính chăn dắt (“bởi thế các con hãy ra đi và làm cho muôn dân thành môn đệ..”), có tính phụng vụ (“rửa tội cho họ”) và có tính tiên tri (“dạy dỗ họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”) và được bảo đảm bằng việc Chúa luôn ở gần, cho đến ngày tận cùng của thời gian (“và này Thầy ở cùng các con luôn mãi, cho đến ngày tận cùng thời gian”). Như thế, tuy khác với các Tông Đồ, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có được cảm nghiệm chân thực, có tính bản thân về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh.
Tóm lại, nhờ thừa tác vụ tông đồ, chính Chúa Kitô tới với những ai được mời gọi vào đức tin. Khoảng cách thời gian đã được vượt qua và Đấng Sống Lại đã hiển hiện một cách sống động và tích cực vì chúng ta, trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay. Đó quả là niềm vui lớn. Trong dòng sông sống của Thánh Truyền, Chúa Kitô không cách chúng ta 2000 năm mà thực sự đang hiện diện giữa chúng ta và ban cho ta sự thật, Người ban cho ta ánh sáng giúp ta sống và tìm thấy đường dẫn tới tương lai.
8. “Nhìn từ trên cao” (Buổi triều yết 10 tháng 5 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong hai buổi triều yết trước, chúng ta đã suy niệm về điều Truyền Thống trong Giáo Hội là gì và ta thấy rằng truyền thống ấy chính là sự hiện diện thường hằng của lời nói và cuộc sống Chúa Giêsu giữa dân của Người. Nhưng để hiện diện được, lời nói ấy cần một một con người, cần một nhân chứng.
Và thế là có sự hỗ tương này: một đàng, lời nói cần một con người, nhưng mặt khác, con người, tức nhân chứng ấy, bị trói buộc vào lời, từng được ủy thác cho ông ta, vốn không do ông ta sáng chế ra. Tính hỗ tương giữa nội dung, tức Lời Chúa, sự sống của Chúa, và người thi hành công việc này chính là đặc điểm trong cơ cấu Giáo Hội. Hôm nay, ta hãy suy niệm về khía cạnh bản vị này của Giáo Hội.
Như đã thấy, Chúa sáng lập ra Giáo Hội bằng cách kêu gọi nhóm Mười Hai, những người đại diện cho Dân tương lai của Chúa. Trung thành với sứ mệnh do Chúa giao phó, sau khi Người lên trời, nhóm Mười Hai đã làm tròn con số của mình bằng cách đề cử Matthias thay chỗ cho Giuđa (xem Cv 1:15-26), nhờ thế đã liên tục mời gọi người khác tham dự vào các nhiệm vụ đã ủy thác cho mình để mình có thể tiếp tục thừa tác vụ.
Chúa Phục Sinh đã đích thân kêu gọi Phaolô (xem Gl 1:1), nhưng Phaolô, dù được Chúa kêu gọi làm Tông Đồ, đã so sánh Phúc Âm của ngài với Phúc Âm của nhóm Mười Hai (xem Gl 1:18) và lo truyền lại những gì mình đã tiếp nhận (xem 1Cor 11:23; 15:3-4). Trong việc phân phối các nhiệm vụ truyền giáo, ngài đã liên kết với các Tông Đồ cũng như với nhiều vị khác như Barnabas chẳng hạn (xem Gl 2:9).
Việc trở thành Tông Đồ bắt đầu bằng việc được Chúa Phục Sinh kêu gọi và sai đi thế nào, thì lời kêu gọi những người khác và sai họ đi sau đó cũng phải được thực hiện bởi những vị đã được thụ phong trong thừa tác vụ tông đồ như thế, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chính bằng cách đó, mà thừa tác vụ này, từ thế hệ thứ hai được gọi là thừa tác vụ giám mục, “episcope”, đã được tiếp tục.
Có lẽ ta nên giải thích vắn tắt chữ “giám mục” có nghĩa gì. “Episcope” (giám mục) là hình thức người Ý viết chữ “episcopos” của tiếng Hy Lạp. Chữ này chỉ một người nhìn từ trên cao, nhìn bằng trái tim. Thánh Phêrô đã dùng chữ này gọi Chúa Giêsu trong thư thứ nhất của ngài: “Mục Tử và Giám Mục, Người Canh Giữ linh hồn anh chị em” (1Pr 2:25).
Căn cứ vào kiểu mẫu mới này của Chúa, Đấng là Giám Mục đầu hết, là Đấng Canh Giữ và là Mục Tử các linh hồn, các vị kế nhiệm các Tông Đồ sau này đều được gọi là giám mục, “episcopoi”. Vai trò “episcope” được ủy thác cho các ngài. So với lúc ban đầu, thì vai trò đặc trưng của giám mục này đã dần dần biến đổi cho tới lúc nó được phân thành ba chức vụ: giám mục, linh mục và phó tế, điều mà Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã minh nhiên nhắc tới vào đầu thế kỷ thứ hai (xem Ad Magnesios, 6, 1: PG 5, 668).
Việc phát triển này đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Người đã giúp Giáo Hội biện phân được các hình thức xác thực của việc Kế Thừa Tông Đồ, mỗi ngày mỗi được xác định rõ hơn khi phải đối diện với sự đa dạng của kinh nghiệm và các hình thức đặc sủng và thừa tác vụ lúc ấy đang hiện hữu trong các cộng đồng sơ khai.
Như thế, sự kế thừa vai trò giám mục được trình bày như là sự liên tục trong thừa tác vụ Tông Đồ, một bảo đảm cho tính vĩnh viễn của Truyền Thống Tông Đồ, cả lời nói lẫn cuộc sống, mà Chúa đã ủy thác cho ta. Dây nối kết giữa Giám Mục Đoàn và cộng đoàn nguyên thủy các Tông Đồ được hiểu trước hết trong nhãn giới liên tục tính lịch sử.
Như đã thấy, trước nhất Matthias, sau đến Phaolô, rồi Barnabas đã tham gia vào nhóm Mười Hai, và còn nhiều người khác nữa, cho tới thế hệ thứ hai và thứ ba, thì thừa tác vụ giám mục thành hình. Do đó, liên tục tính đã được phát biểu trong dây chuyền lịch sử ấy. Và trong tính liên tục của việc kế thừa này ta thấy có sự bảo đảm cho tính vĩnh viễn của Hiệp Đoàn Tông Đồ trong Cộng Đồng Giáo Hội, một hiệp đoàn mà chính Chúa Kitô đã tụ họp quanh Người.
Tuy nhiên, tính liên tục mà ta thấy trước nhất trong các thừa tác vụ lịch sử phải được hiểu theo nghĩa thiêng liêng, vì Kế Thừa Tông Đồ về phương diện thừa tác vụ vốn được coi là nơi ưu tuyển để Chúa Thánh Thần hành động và thông truyền. Ta thấy các xác tín này được phản ảnh rõ rệt trong đoạn văn sau đây của Thánh Irênê thành Lyons (hậu bán thế kỷ thứ 2): “Trong mọi Giáo Hội, bất cứ ai muốn thấy chân lý đều có khả năng chiêm ngắm truyền thống Tông Đồ cách rõ ràng, một truyền thống đã được tỏ hiện khắp nơi trên thế giới; và chúng ta có thể kể ra những vị đã được các Tông Đồ lập làm giám mục trong các giáo hội và… việc kế nhiệm các vị này cho đến tận bây giờ… Quả vậy, [Các Tông Đồ] muốn rằng các vị này, mà các ngài để lại như người kế nhiệm mình, phải là những người rất hoàn hảo và không thể chê trách được gì trong mọi vấn đề, để các ngài có thể trao chức vụ cai quản của mình cho họ; các vị này, nếu chu toàn các chức năng của mình một cách trung thực, thì đó sẽ là một đại phúc, nhưng nếu các vị sa phạm, thì quả là một tai họa thảm khốc nhất” (Adversus Haereses, III, 3, 1: PG 7, 848).
Sau khi nhấn mạnh tới sự kiện: mạng lưới Kế Thừa Tông Đồ này bảo đảm cho tính vĩnh viễn của lời Chúa, Thánh Irênê tập chú vào Giáo Hội chuyên biệt, tức “Giáo Hội rất vĩ đại, rất cổ xưa và được mọi người biết đến, do hai Tông Đồ vinh hiển nhất là Phêrô và Phaolô sáng lập và tổ chức tại Rôma”. Ngài nhấn mạnh tới Truyền Thống đức tin của Giáo Hội này đã truyền tới chúng ta từ các Tông Đồ xuyên qua việc kế nhiệm các giám mục. Như thế, đối với Thánh Irênê cũng như đối với Giáo Hội hoàn vũ, việc kế thừa giám mục của Giáo Hội Rôma đã trở nên một dấu chỉ, một tiêu chuẩn và một bảo đảm cho việc lưu truyền liên tục đức tin tông truyền: “Như một vấn đề thiết yếu, mọi giáo hội, nghĩa là các tín hữu khắp mọi nơi, phải nhất trí với Giáo Hội này, vì Giáo Hội này có thẩm quyền ưu việt (propter potiorem principalitatem), do sự kiện: Truyền Thống Tông Đồ luôn được liên tục bảo toàn tại đây…” (ibid., III, 3, 2: PG 7, 848).
Việc Kế thừa Tông đồ, được chứng thực dựa vào sự hiệp thông với sự kế thừa của Giáo Hội Rôma, do đó, là tiêu chuẩn cho tính vĩnh viễn của các Giáo Hội đặc thù trong Truyền Thống đức tin tông truyền chung, một truyền thống, ngay từ đầu, đã được truyền lại cho chúng ta qua máng chuyển này: “trong trật tự này, và nhờ sự kế thừa này, Truyền thống Giáo Hội từ các Tông đồ và việc rao giảng sự thật đã được truyền đến chúng ta. Và đây là bằng chứng dồi dào nhất cho thấy có một đức tin duy nhất và cùng là đức tin một đức tin ban sự sống,vốn được duy trì trong Giáo Hội từ các Tông đồ cho tới nay, và được chuyển giao trong sự thật” (ibid., III, 3, 3: PG 7, 851).
Theo chứng từ của Giáo Hội cổ xưa, tính tông truyền của hiệp thông Giáo Hội hệ ở lòng trung thành với giáo huấn và triết lý hành động của các Tông Đồ, nhờ đó, sợi dây lịch sử và thiêng liêng nối kết Giáo Hội với Chúa Kitô được bảo đảm. Việc Kế thừa Tông đồ của thừa tác vụ Giám Mục là phương thế bảo đảm việc lưu truyền chứng tá Tông đồ một cách trung thành.
Tương tự như thế, điều các Tông Đồ đại diện trong tương quan giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội gốc cũng được đại diện bởi việc kế thừa thừa tác trong mối tương quan giữa Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội ngày nay. Đây không phải chỉ là một dải nối tiếp vật chất; đúng hơn, nó là dụng cụ lịch sử được Chúa Thánh Thần sử dụng để làm cho Chúa Giêsu, Đầu của Dân Người, hiện diện qua những vị được phong chức làm thừa tác vụ qua việc đặt tay và lời cầu nguyện của Giám Mục.
Thành thử, qua việc Kế thừa Tông đồ, chính Chúa Giêsu với tới chúng ta: trong lời lẽ của các Tông đồ và các vị kế nhiệm các ngài, chính Người nói với chúng ta; qua bàn tay các ngài, chính Người hành động trong các bí tích; trong ánh mắt của các ngài, chính ánh mắt của Người đang ôm ấp chúng ta và làm chúng ta cảm thấy được yêu thương vào chào đón và Trái Tim Thiên Chúa. Và cho đến tận hôm nay, cũng như từ thuở ban đầu, chính Chúa Kitô là Mục tử và người Gìn giữ linh hồn chúng ta, Đấng chúng ta bước theo với một lòng tín thác, biết ơn và hân hoan sâu sắc.
5. ‘Gìn giữ ơn phúc’ (Buổi triều yết ngày 5 tháng 4 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong loạt bài Giáo Lý mới, bắt đầu mấy tuần trước đây, chúng ta đã xem sét các nguồn gốc của Giáo Hội, để hiểu được kế hoạch nguyên thủy của Chúa Giêsu và nhờ thế nắm được nét chủ yếu khiến Giáo Hội sống còn qua các đổi thay của thời gian. Và cũng nhờ thế, chúng ta hiểu được lý do tại sao ta hiện diện trong Giáo Hội và phải cố gắng sống ơn gọi Kitô hữu ấy ra sao ở hừng đông thiên niên kỷ thứ ba này.
Khi suy nghĩ về Giáo Hội sơ sinh, ta khám phá ra hai phương diện: phương diện thứ nhất được nhấn mạnh bởi Thánh Irênê thành Lyons. Ngài là thánh tử đạo và là một nhà thần học vĩ đại cuối thế kỷ thứ hai, người đầu tiên đã mang lại cho chúng ta một nền thần học tương đối có hệ thống. Thánh Irênê viết rằng: “Giáo Hội ở đâu thì Chúa Thánh Thần cũng ở đó; và Chúa Thánh Thần ở chỗ nào, thì Giáo Hội và mọi ơn thánh cũng ở chỗ ấy; vì Chúa Thánh Thần là chân lý” (Adversus Haereses, III, 24, 1: PG 7, 966). Như thế, giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội, có một nối kết hết sức sâu sắc.
Chúa Thánh Thần xây dựng Giáo Hội và ban cho Giáo Hội chân lý; Thánh Phaolô nói rằng: Chúa Thánh Thần đổ tràn tình yêu vào tâm hồn các tín hữu” (Xem Rm 5: 5).
Ngoài ra, còn có phương diện thứ hai nữa. Mối nối kết với Chúa Thánh Thần trên đây không loại bỏ nhân tính của chúng ta, một nhân tính với đầy đủ các yếu đuối của nó. Bởi thế, ngay từ đầu, cộng đồng các môn đệ không những chỉ cảm nhận được niềm vui của Chúa Thánh Thần, các ơn sự thật và tình yêu, mà còn cảm nhận được cả thử thách nữa, các thử thách gây ra trước nhất bởi việc bất đồng về chính các chân lý của đức tin, gây tai hại cho sự hiệp thông anh em.
Tình thông hiệp yêu thương đã hiện hữu ngay từ đầu và tiếp tục sống còn cho tới ngày tận thế (xem 1Ga 1:1ff) thế nào, thì sự chia rẽ, buồn thay, cũng đã xuất hiện ngay từ thuở ban đầu như thế. Ta cũng không nên ngạc nhiên khi thấy nó còn hiện hữu đến bây giờ. “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng chúng không phải là người của chúng ta”, Thánh Gioan từng viết trong thư thứ nhất của ngài như thế, “vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta” (1Ga 2:19).
Do đó, qua các biến cố của thế giới và qua cả các yếu đuối của Giáo Hội, vẫn luôn luôn có nguy cơ mất đức tin, và do đó, mất cả đức ái và tình huynh đệ. Bởi thế, những ai tin vào Giáo Hội của yêu thương và muốn sống trong Giáo Hội ấy có nhiệm vụ đặc biệt phải nhìn nhận nguy cơ trên và chấp nhận rằng sự hiệp thông không thể nào có được với những người đã tách mình khỏi tín lý cứu rỗi (xem 2Ga 9:11).
Việc Giáo Hội sơ sinh ý thức rõ các căng thẳng có thể có trong kinh nghiệm hiệp thông đã được chỉ rõ trong thư thứ nhất của Thánh Gioan: không một tiếng nói nào trong Tân Ước đã được gióng lên một cách mạnh mẽ hơn để nhấn mạnh tới thực tại và bổn phận của tình yêu huynh đệ giữa các Kitô hữu; nhưng cùng một tiếng nói này cũng đã nói đến sự trầm trọng lớn lao của những kẻ thù Giáo Hội mà trước đây vốn là thành viên của Giáo Hội nhưng nay không còn thuộc Giáo Hội nữa.
Giáo Hội của yêu thương cũng là Giáo Hội của sự thật, chủ yếu được hiểu là lòng trung thành đối với Phúc Âm đã được Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ của Người. Chính việc được sự thật của Chúa Thánh Thần biến cải thành con cái của cùng một Chúa Cha đã phát sinh ra tình huynh đệ giữa các Kitô hữu: “Vì tất cả những người được Thần Trí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8:14).
Tuy nhiên, muốn cho gia đình các con cái của Thiên Chúa sống hợp nhất và hoà bình, họ cần một Đấng gìn giữ họ trong sự thật và hướng dẫn họ bằng một biện phân khôn ngoan và có thẩm quyền: đó chính là điều mà thừa tác vụ của các Tông Đồ đã được yêu cầu phải thực hiện.
Điều trên dẫn ta tới một điểm quan trọng. Giáo Hội hoàn toàn là của Chúa Thánh Thần nhưng nó có một cấu trúc, đó chính là việc kế thừa tông đồ (apostolic succession), một sự kế thừa có trách nhiệm bảo đảm để Giáo Hội tồn tại trong sự thật mà Chúa Giêsu đã ban tặng, Đấng mà từ Người khả năng yêu thương của chúng ta đã phát sinh.
Mô tả ngắn ngủi đầu hết trong Sách Tông Đồ Công Vụ đã tóm lược được một cách rất hiệu quả sự hội tụ của các giá trị trên trong cuộc sống của Giáo Hội sơ sinh: “Và họ tận tụy với giáo huấn và tình hiệp thông của các Tông Đồ, với việc bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2:42). Hiệp thông phát sinh từ đức tin, một đức tin được giáo huấn của các Tông Đồ linh hứng. Hiệp thông ấy được nuôi dưỡng bằng việc Bẻ Bánh và cầu nguyện, và được phát biểu bằng tình yêu và phục vụ huynh đệ.
Trước mắt, ta thấy một mô tả về tình hiệp thông trong Giáo Hội sơ sinh hết sức phong phú với tính năng động nội tại và các biểu thức ngoại tại: ơn hiệp thông được gìn giữ và thăng tiến một cách riêng nhờ thừa tác vụ tông đồ. Thừa tác vụ này, nói cho cùng, cũng là một ơn phúc Chúa ban cho toàn thể cộng đồng.
Các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, do đó, là những người canh giữ và là các chứng nhân có thẩm quyền của kho tàng sự thật đã được trao phó cho Giáo Hội, đồng thời cũng là các thừa tác viên của bác ái. Hai khía cạnh đó luôn đi đối với nhau.
Các ngài phải luôn luôn chú ý tới bản chất bất khả phân ly của việc phục vụ kép ấy mà trên thực tế chỉ là một việc phục vụ: sự thật và tình yêu do Chúa Giêsu mạc khải và ban tặng. Về phương diện này, việc phục vụ của các ngài trước nhất và trên hết phải là việc phục vụ của yêu thương: và tình bác ái mà các ngài sống và cổ vũ không bao giờ được tách biệt khỏi sự thật mà các ngài canh giữ và truyền thụ.
Sự thật và tình yêu là hai mặt của cùng một ơn phúc do Chúa ban và chính nhờ thừa tác vụ tông đồ mà ơn phúc này được duy trì trong Giáo Hội và được truyền lại cho chúng ta, cho thời đại này!
Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi cũng đến với chúng ta qua việc phục vụ của các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, để truyền thụ cho ta sự thật, một sự thật sẽ giải phóng tất cả chúng ta (xem Ga 8:32).
Tất cả những điều ta chứng kiến nơi Giáo Hội sơ sinh này thúc giục ta cầu nguyện cho các vị kế nhiệm các Tông Đồ, cho mọi giám mục và cho người kế nhiệm Thánh Phêrô, để các vị cùng nhau thật sự trở thành những người canh giữ cả sự thật lẫn tình yêu; để, về phương diện này, các ngài thật sự trở thành các tông đồ của Chúa Kitô và để ánh sáng của Người, ánh sáng sự thật và tình yêu, mãi mãi không bao giờ tắt trong Giáo Hội và trong thế giới.
6. Hiệp thông trong thời gian: Thánh Truyền (Buổi triều yết 26 tháng 4 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Cám ơn anh chị em về lòng qúy mến của anh chị em! Trong loạt bài giáo lý mới vừa bắt đầu mới đây, chúng ta đang tìm hiểu kế hoạch nguyên thủy mà Chúa muốn dành cho Giáo Hội, ngõ hầu hiểu rõ chỗ đứng của chúng ta, đời sống Kitô hữu của chúng ta, trong tình hiệp thông vĩ đại của Giáo Hội.
Cho đến nay, ta đã hiểu rằng sự hiệp thông trong Giáo Hội được Chúa Thánh Thần linh hứng và nâng đỡ và được thừa tác vụ tông đồ gìn giữ và phát huy. Sự hiệp thông mà chúng ta gọi là Giáo Hội này, không những trải dài ra mọi tín hữu thuộc một thời kỳ đặc thù nào đó mà thôi, mà còn ôm ấp mọi thời đại và mọi thế hệ. Như thế, ta có một tính phổ quát kép: tính phổ quát đồng thời (synchronic) làm chúng ta hợp nhất với các tín hữu khắp nơi trên thế giới, và tính phổ quát có thể gọi là dị thời (diachronic) nghĩa là mọi thời đều thuộc chúng ta, và mọi tín hữu của quá khứ và tương lai đều cùng với chúng ta tạo thành một hiệp thông duy nhất vĩ đại.
Chúa Thánh Thần đối với chúng ta là Đấng gìn giữ sự hiện hữu sống động của mầu nhiệm trong lịch sử, Đấng bảo đảm sự thể hiện của mầu nhiệm này trong mọi thế kỷ. Nhờ Đấng Bào Chữa (Paraclete), mọi thế hệ kế tiếp đều có khả năng cảm nghiệm được cùng một Đấng Đã Trỗi Dậy, một cảm nghiệm từng được sống bởi cộng đồng tông đồ ở khởi nguồn Giáo Hội, vì cảm nghiệm này vốn được truyền lại cho ta và được hiện thực hóa trong đức tin, trong việc thờ phượng và trong tình hiệp thông của dân Chúa, trên đường lữ thứ kinh qua thời gian.
Chúng ta ngày nay cũng thế, trong Mùa Phục Sinh, chúng ta cũng đang sống cuộc gặp gỡ với Đấng Đã Trỗi Dậy không phải như một sự kiện thuộc quá khứ, mà là trong tình hiệp thông hiện tại với đức tin, phụng vụ và đời sống Giáo Hội. Truyền thống tông đồ của Giáo Hội hệ ở việc thông truyền ơn phúc cứu rỗi, một việc thông truyền mà nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần đã làm cho cộng đồng Kitô hữu trở thành người luôn luôn hiện thực hóa được sự hiệp thông lúc ban đầu.
Ta nói đến sự hiệp thông “ban đầu” vì quả thực sự hiệp thông đó phát sinh từ lời chứng của các Tông Đồ và của cộng đồng các môn đệ ở thời đầu hết ấy. Sự hiệp thông ấy được thông truyền dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong các trước tác Tân Ước và trong đời sống bí tích và đời sống tín lý. Giáo Hội liên tục nhắc đến sự thông truyền ấy, đến Thánh Truyền ấy, đến ơn phúc trọn vẹn và luôn luôn thức thời ấy của Chúa Giêsu, như là nền tảng và là luật pháp của mình qua suốt diễn trình kế tục thừa tác vụ tông đồ không bao giờ đứt đoạn.
Ngoài ra, trong cuộc sống lịch sử của Người, Chúa Giêsu từng giới hạn sứ vụ của Người nơi nhà Israel mà thôi, nhưng mặt khác, Người cũng nói rõ rằng ơn cứu rỗi không chỉ dành cho Dân Israel mà thôi mà là dành cho mọi người khắp thế giới và thuộc mọi thời đại.
Sau này, Đấng Trỗi Dậy đã minh nhiên ủy thác cho các Tông Đồ (xem Lc 6:13) nhiệm vụ biến muôn dân thành môn đệ, và hứa rằng Người sẽ hiện diện và trợ giúp họ cho đến ngày tận thế (xem Mt 28: 19 ff.).
Mặc khác, tính phổ quát của ơn cứu rỗi đòi hỏi điều này: việc tưởng niệm Phục Sinh phải được cử hành liên tục trong lịch sử cho đến ngày Chúa Giêsu trở lại (xem 1Cor 11:26). Đấng nào sẽ làm cho sự hiện diện cứu chuộc của Chúa Giêsu xuất hiện qua thừa tác vụ của các Tông Đồ, vốn là đầu của Israel cánh chung (xem Mt 19:28), và qua trọn đời sống của dân Giao Ước mới? Câu trả lời đã rõ: đó chính là Chúa Thánh Thần. Tiếp tục mẫu mực của Phúc Âm Luca, Sách Tông Đồ Công Vụ mô tả một cách sống động sự thấm nhập vào nhau (interpenetration) giữa Chúa Thánh Thần, những người được Chúa Kitô sai đi và cộng đồng do các vị này tập họp.
Nhờ hành động của Đấng Bào Chữa, các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, trong thời gian, có thể thể hiện được sứ mệnh đã nhận lãnh từ Đấng Đã Trỗi Dậy. “Chúng con là chứng nhân những điều ấy. Và này, Thầy sẽ gửi cho các con điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24: 48ff.).
“Các con sẽ nhận được quyền lực khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các con; và các con sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem và tại mọi miền Giuđêa và Samaria và cho tới tận cùng thế giới” (Cv 1:8). Lời hứa thoạt đầu có vẻ không tin được này đã trở thành sự thật ngay từ thời các Tông Đồ: “Còn chúng tôi, chúng tôi là nhân chứng của các điều ấy, Chúa Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã ban cho những ai biết vâng phục Người, cũng là nhân chứng như vậy” (Cv 5:32).
Như thế, chính Chúa Thánh Thần, qua việc đặt tay và cầu nguyện của các Tông Đồ, đã thánh hiến và sai đi các nhà truyền giáo mới của Phúc Âm (như trong Cv 13:3 ff. và 1Tm 4:14). Quả đáng lưu ý khi có đoạn nói rằng chính Thánh Phaolô cử nhiệm kỳ mục (elders) tại tất cả các Giáo Hội (xem Cv 14:23), nhưng đoạn khác lại nói rằng chính Chúa Thánh Thần đã làm họ trở thành những người canh giữ đoàn chiên (xem Cv 20:28).
Nếu thế thì hành động của Chúa Thánh Thần và hành động của Thánh Phaolô đã đan kết với nhau một cách khăng khít. Lúc phải đưa ra các quyết định long trọng cho đời sống của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện ở đấy để hướng dẫn Giáo Hội. Sự hiện diện để hướng dẫn này của Chúa Thánh Thần được cảm nhận một cách hết sức sắc cạnh tại Công Đồng Giêrusalem, trong các kết luận hết sức vang dội của Công Đồng này: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15:28); Giáo Hội lớn mạnh và sống “trong niềm kính sợ Chúa và sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần” (Cv 9:31). Việc liên tục hiện thực hóa sự hiện diện đầy năng động của Chúa Giêsu giữa Dân của Người, do Chúa Thánh Thần đem lại và được phát biểu trong Giáo Hội qua thừa tác vụ tông đồ và sự hiệp thông huynh đệ chính là nội dung của “Thánh Truyền” theo nghĩa thần học: nó không phải chỉ là việc lưu truyền có tính vật chất những gì các Tông Đồ đã được trao ban từ lúc khởi đầu, nhưng là chính sự hiện diện hữu hiệu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại và đang đồng hành cùng hướng dẫn cộng đồng Người đã tụ họp lại trong Chúa Thánh Thần.
Thánh Truyền là việc hiệp thông các tín hữu chung quanh các mục tử hợp pháp của họ qua dòng lịch sử, một sự hiệp thông được Chúa Thánh Thần dưỡng nuôi, nhờ thế có được sự nối kết giữa kinh nghiệm đức tin tông truyền, một kinh nghiệm sống của cộng đoàn môn đệ đầu tiên, và kinh nghiệm hiện nay của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người.
Nói cách khác, Thánh Truyền là sự liên tục thực tế của Giáo Hội, Đền thờ thánh của Chúa Cha, được xây trên nền các Tông Đồ và được giữ chặt lại với nhau bằng viên đá góc là Chúa Kitô, nhờ hành động ban sự sống của Chúa Thánh Thần: “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa.Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Eph 2:19-22).
Nhờ Thánh Truyền, được thừa tác vụ của các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài canh giữ, nước trường sinh chẩy ra từ cạnh sườn Chúa Kitô và máu thánh của Người tới được với mọi người đàn ông và đàn bà mọi thời. Như thế, Thánh Truyền là sự hiện diện trường cửu của Đấng Cứu Thế, Đấng tới để gặp gỡ chúng ta, cứu chuộc chúng ta và thánh hóa chúng ta trong Chúa Thánh Thần, nhờ thừa tác vụ của Giáo Hội, vì vinh quang Chúa Cha.
Do đó, để kết luận và tóm lược, ta có thể nói rằng Thánh Truyền không phải là việc lưu truyền sự việc hay lời nói, tức toàn bộ sự vật đã chết. Trái lại, Thánh Truyền là dòng sông sống nối ta với ngọn nguồn, dòng sông sống trong đó ngọn nguồn luôn hiện diện, dòng sông lớn dẫn ta tới cổng đời đời. Và vì là như thế, nên trong dòng sông sống này, lời Chúa mà khởi đầu ta nghe được từ môi miệng người đọc sẽ mãi mãi được mang tới: “Thầy sẽ mãi mãi ở với các con, cho đến tận cùng thời gian” (Mt 28:20).
7. Truyền Thống Tông Đồ của Giáo Hội (Buổi triều yết 3 tháng 5 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong các bài giáo lý này, chúng ta muốn hiểu thêm chút nữa về bản chất Giáo Hội. Lần trước, ta đã suy niệm về chủ đề Truyền Thống Tông Đồ. Ta thấy rằng truyền thống ấy không phải là một bộ sưu tập sự vật hay lời nói, giống như chiếc hộp chứa các sự vật đã chết. Truyền thống là dòng sông của sự sống mới phát nguyên từ nguồn, từ Chúa Kitô chẩy tới chúng ta, và làm chúng ta tham dự vào lịch sử của Thiên Chúa với loài người.
Chủ đề về Thánh Truyền này quan trọng đến nỗi hôm nay, tôi muốn được suy tư thêm về nó một lần nữa: thực vậy, nó có tầm hết sức quan trọng đối với đời sống của Giáo Hội.
Về phương diện này, Công Đồng Vatican II chỉ rõ rằng Thánh Truyền chủ yếu có tính tông đồ ngay từ khởi nguyên: “Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mạc khải (x. 2Cor 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông Ðồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm… như nguồn mọi chân lý cứu độ và lề luật luân lý” (Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Dei Verbum, số 7).
Công Đồng cũng nói thêm rằng việc trên đã được thực hiện một cách trung thành “bởi các Tông Ðồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý” (cùng chỗ vừa dẫn).
Văn kiện còn cho biết thêm: cũng có “những người phụ tá cho các Tông Đồ đã viết lại tin mừng cứu rỗi dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần” (cùng chỗ vừa dẫn).
Trong tư cách thủ lãnh của Israel cánh chung, và cũng trong tư cách nhóm Mười Hai, con số y hệt con số các chi tộc của Dân Riêng, các Tông Đồ tiếp tục việc “tụ họp” đã được Chúa khởi sự. Các ngài làm việc đó trước nhất và trên hết qua việc trung thành lưu truyền lại các ơn phúc đã nhận được, tức Tin Mừng Nước Trời, một tin mừng cho dân trong Chúa Giêsu Kitô.
Con số nơi các ngài không những nói lên tính liên tục với gốc rễ nguyên thủy, tức Israel của Mười Hai chi tộc, mà còn nói lên cả đối tượng phổ quát cho thừa tác vụ của các ngài, một thừa tác vụ đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới.
Điều này có thể hiểu được nhờ giá trị biểu tượng mà các con số trong thế giới Sêmít vốn mang sẵn: Mười hai là kết quả của việc nhân ba, con số hoàn hảo, với bốn, con số vốn dùng để chỉ bốn phương, do đó, chỉ toàn thế giới.
Cộng đồng do lời công bố Phúc Âm sinh ra nhìn nhận rằng mình được kêu gọi bởi lời của những người đầu tiên đã được cảm nghiệm Chúa cách trực tiếp và được chính Người sai đi. Cộng đồng này biết rằng mình có thể trông cậy vào sự dìu dắt của nhóm Mười Hai cũng như sự dìu dắt của những người đến sau có liên hệ với các ngài trong tư cách kế nhiệm thừa tác vụ Lời Chúa và phục vụ hiệp thông. Kết quả, cộng đồng này thấy mình dấn thân vào việc truyền lại cho người khác “Tin Mừng” về sự hiện diện thực sự của Chúa và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, do Chúa Thánh Thần đem lại.
Điều ấy được nhấn mạnh rõ ràng và gợi hình trong nhiều đoạn thư của Thánh Phaolô: “Tôi chuyển giao cho anh chị em… điều tôi đã nhận được” (1Cor 15:3). Và điều đó rất quan trọng. Như đã biết, Thánh Phaolô, từ đầu, được Chúa Kitô kêu gọi với một ơn gọi có tính bản thân. Ngài là một Tông Đồ thực sự, thế nhưng đối với ngài cũng thế, việc trung thành với những điều ngài đã tiếp nhận là điều hết sức quan trọng. Ngài không muốn “sáng chế” ra, có thể nói như thế, một thứ tân Kitô Giáo “theo Phaolô”. Bởi thế, ngài nhấn mạnh rằng “tôi chuyển giao cho anh chị em… điều tôi đã nhận được”. Ngài truyền lại ơn phúc khởi nguyên nhận được từ Chúa và là chân lý cứu rỗi.
Rồi về cuối đời, ngài viết cho Timôtê: “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2Tm 1:14).
Điều trên cũng được minh chứng một cách hữu hiệu bởi chứng tá đức tin Kitô Giáo cổ xưa do Tertulianô viết khoảng năm 200: “(Các Tông Đồ), sau khi đem chứng tá niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô trước hết đến khắp miền Giuđêa và thiết lập các giáo hội (tại đó), sau đó đã đi khắp thế giới và rao giảng cùng một học lý về đức tin ấy cho mọi dân tộc. Rồi các vị cũng thiết lập các giáo hội tại mọi thành thị, từ đó, mọi giáo hội khác, lần lượt rút tỉa được truyền thống đức tin và hạt giống tín lý, và nhờ hàng ngày rút tỉa như thế, mà họ đã trở thành các giáo hội. Thực vậy, chỉ căn cứ vào điều ấy, họ đã có thể tự coi mình là tông truyền, thực sự là dòng dõi, miêu duệ của các giáo hội tông đồ” (Tertullian, De Praescriptione Haereticorum, 20: PL 2, 32).
Công Đồng Vatican II bình luận rằng: “Những điều các Tông Ðồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần vào việc giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc thờ phượng của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin” (Dei Verbum, n. 8).
Giáo Hội truyền lại tất cả những gì mình là và mình tin. Giáo Hội làm việc đó qua thờ phượng, qua đời sống và qua giáo lý của mình. Như thế, Thánh Truyền chính là Phúc Âm sống động, được các Tông Đồ công bố một cách trọn vẹn dựa trên sự viên mãn của kinh nghiệm độc đáo, không thể nào mô phỏng được của các ngài: nhờ hoạt động của các ngài, đức tin được thông truyền cho người khác, cho cả chúng ta ngày nay, cho đến tận cùng thế giới. Do đó, Thánh Truyền là lịch sử Chúa Thánh Thần hoạt động trong lịch sử Giáo Hội nhờ trung gian các Tông Đồ và các vị kế nhiệm các ngài, trong liên tục tính trung thực với kinh nghiệm của thuở ban đầu.
Đó là điều được Thánh Clêmentê thành Rôma nói tới vào cuối thế kỷ thứ nhất. Ngài viết: “Các Tông Đồ đã rao giảng cho chúng ta Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô; Chúa Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa sai đến. Cho nên, Chúa Kitô đã được Thiên Chúa phái tới, còn các Tông Đồ thì được Chúa Kitô phái tới. Như thế, cả hai sự đề cử này đều đã được thực hiện một cách có thứ tự, theo thánh ý Thiên Chúa… Qua Chúa Giêsu Kitô, các Tông Đồ của chúng ta cũng biết rằng sẽ có sự xung đột về chức vụ giám mục. Chính vì lý do đó, như thể các ngài biết trước việc đó, nên các ngài đã chỉ định các [thừa tác viên] vừa kể, và sau đó còn chỉ thị rằng khi các ngài qua đi, những vị được chấp thuận khác sẽ kế nhiệm thừa tác vụ của các ngài” (Ad Corinthios, 42, 44: PG 1, 292, 296).
Dây chuyền phục vụ này vẫn tiếp diễn tới tận ngày nay; nó sẽ tiếp diễn cho tới tận cùng thế giới. Thực vậy, sứ mệnh được Chúa Giêsu ủy nhiệm cho các Tông Đồ đã được các ngài chuyển giao cho các vị kế nhiệm. Vượt quá cảm nghiệm được đích thân tiếp xúc với Chúa Kitô, một cuộc tiếp xúc độc đáo không bao giờ còn có thể lặp lại, các Tông Đồ vẫn đã truyền lại cho các vị kế nhiệm các ngài sứ mệnh long trọng mà các ngài đã lãnh nhận từ Thầy Chí Thánh là ra đi khắp thế giới. “Tông đồ” phát sinh từ chữ Hy lạp "apostéllein", có nghĩa là “sai đi”.
Sứ mệnh tông đồ, như bản văn Mátthêu (Mt 28:19ff) cho thấy, bao hàm việc phục vụ có tính chăn dắt (“bởi thế các con hãy ra đi và làm cho muôn dân thành môn đệ..”), có tính phụng vụ (“rửa tội cho họ”) và có tính tiên tri (“dạy dỗ họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”) và được bảo đảm bằng việc Chúa luôn ở gần, cho đến ngày tận cùng của thời gian (“và này Thầy ở cùng các con luôn mãi, cho đến ngày tận cùng thời gian”). Như thế, tuy khác với các Tông Đồ, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có được cảm nghiệm chân thực, có tính bản thân về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh.
Tóm lại, nhờ thừa tác vụ tông đồ, chính Chúa Kitô tới với những ai được mời gọi vào đức tin. Khoảng cách thời gian đã được vượt qua và Đấng Sống Lại đã hiển hiện một cách sống động và tích cực vì chúng ta, trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay. Đó quả là niềm vui lớn. Trong dòng sông sống của Thánh Truyền, Chúa Kitô không cách chúng ta 2000 năm mà thực sự đang hiện diện giữa chúng ta và ban cho ta sự thật, Người ban cho ta ánh sáng giúp ta sống và tìm thấy đường dẫn tới tương lai.
8. “Nhìn từ trên cao” (Buổi triều yết 10 tháng 5 năm 2006)
Anh chị em thân mến,
Trong hai buổi triều yết trước, chúng ta đã suy niệm về điều Truyền Thống trong Giáo Hội là gì và ta thấy rằng truyền thống ấy chính là sự hiện diện thường hằng của lời nói và cuộc sống Chúa Giêsu giữa dân của Người. Nhưng để hiện diện được, lời nói ấy cần một một con người, cần một nhân chứng.
Và thế là có sự hỗ tương này: một đàng, lời nói cần một con người, nhưng mặt khác, con người, tức nhân chứng ấy, bị trói buộc vào lời, từng được ủy thác cho ông ta, vốn không do ông ta sáng chế ra. Tính hỗ tương giữa nội dung, tức Lời Chúa, sự sống của Chúa, và người thi hành công việc này chính là đặc điểm trong cơ cấu Giáo Hội. Hôm nay, ta hãy suy niệm về khía cạnh bản vị này của Giáo Hội.
Như đã thấy, Chúa sáng lập ra Giáo Hội bằng cách kêu gọi nhóm Mười Hai, những người đại diện cho Dân tương lai của Chúa. Trung thành với sứ mệnh do Chúa giao phó, sau khi Người lên trời, nhóm Mười Hai đã làm tròn con số của mình bằng cách đề cử Matthias thay chỗ cho Giuđa (xem Cv 1:15-26), nhờ thế đã liên tục mời gọi người khác tham dự vào các nhiệm vụ đã ủy thác cho mình để mình có thể tiếp tục thừa tác vụ.
Chúa Phục Sinh đã đích thân kêu gọi Phaolô (xem Gl 1:1), nhưng Phaolô, dù được Chúa kêu gọi làm Tông Đồ, đã so sánh Phúc Âm của ngài với Phúc Âm của nhóm Mười Hai (xem Gl 1:18) và lo truyền lại những gì mình đã tiếp nhận (xem 1Cor 11:23; 15:3-4). Trong việc phân phối các nhiệm vụ truyền giáo, ngài đã liên kết với các Tông Đồ cũng như với nhiều vị khác như Barnabas chẳng hạn (xem Gl 2:9).
Việc trở thành Tông Đồ bắt đầu bằng việc được Chúa Phục Sinh kêu gọi và sai đi thế nào, thì lời kêu gọi những người khác và sai họ đi sau đó cũng phải được thực hiện bởi những vị đã được thụ phong trong thừa tác vụ tông đồ như thế, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chính bằng cách đó, mà thừa tác vụ này, từ thế hệ thứ hai được gọi là thừa tác vụ giám mục, “episcope”, đã được tiếp tục.
Có lẽ ta nên giải thích vắn tắt chữ “giám mục” có nghĩa gì. “Episcope” (giám mục) là hình thức người Ý viết chữ “episcopos” của tiếng Hy Lạp. Chữ này chỉ một người nhìn từ trên cao, nhìn bằng trái tim. Thánh Phêrô đã dùng chữ này gọi Chúa Giêsu trong thư thứ nhất của ngài: “Mục Tử và Giám Mục, Người Canh Giữ linh hồn anh chị em” (1Pr 2:25).
Căn cứ vào kiểu mẫu mới này của Chúa, Đấng là Giám Mục đầu hết, là Đấng Canh Giữ và là Mục Tử các linh hồn, các vị kế nhiệm các Tông Đồ sau này đều được gọi là giám mục, “episcopoi”. Vai trò “episcope” được ủy thác cho các ngài. So với lúc ban đầu, thì vai trò đặc trưng của giám mục này đã dần dần biến đổi cho tới lúc nó được phân thành ba chức vụ: giám mục, linh mục và phó tế, điều mà Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã minh nhiên nhắc tới vào đầu thế kỷ thứ hai (xem Ad Magnesios, 6, 1: PG 5, 668).
Việc phát triển này đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Người đã giúp Giáo Hội biện phân được các hình thức xác thực của việc Kế Thừa Tông Đồ, mỗi ngày mỗi được xác định rõ hơn khi phải đối diện với sự đa dạng của kinh nghiệm và các hình thức đặc sủng và thừa tác vụ lúc ấy đang hiện hữu trong các cộng đồng sơ khai.
Như thế, sự kế thừa vai trò giám mục được trình bày như là sự liên tục trong thừa tác vụ Tông Đồ, một bảo đảm cho tính vĩnh viễn của Truyền Thống Tông Đồ, cả lời nói lẫn cuộc sống, mà Chúa đã ủy thác cho ta. Dây nối kết giữa Giám Mục Đoàn và cộng đoàn nguyên thủy các Tông Đồ được hiểu trước hết trong nhãn giới liên tục tính lịch sử.
Như đã thấy, trước nhất Matthias, sau đến Phaolô, rồi Barnabas đã tham gia vào nhóm Mười Hai, và còn nhiều người khác nữa, cho tới thế hệ thứ hai và thứ ba, thì thừa tác vụ giám mục thành hình. Do đó, liên tục tính đã được phát biểu trong dây chuyền lịch sử ấy. Và trong tính liên tục của việc kế thừa này ta thấy có sự bảo đảm cho tính vĩnh viễn của Hiệp Đoàn Tông Đồ trong Cộng Đồng Giáo Hội, một hiệp đoàn mà chính Chúa Kitô đã tụ họp quanh Người.
Tuy nhiên, tính liên tục mà ta thấy trước nhất trong các thừa tác vụ lịch sử phải được hiểu theo nghĩa thiêng liêng, vì Kế Thừa Tông Đồ về phương diện thừa tác vụ vốn được coi là nơi ưu tuyển để Chúa Thánh Thần hành động và thông truyền. Ta thấy các xác tín này được phản ảnh rõ rệt trong đoạn văn sau đây của Thánh Irênê thành Lyons (hậu bán thế kỷ thứ 2): “Trong mọi Giáo Hội, bất cứ ai muốn thấy chân lý đều có khả năng chiêm ngắm truyền thống Tông Đồ cách rõ ràng, một truyền thống đã được tỏ hiện khắp nơi trên thế giới; và chúng ta có thể kể ra những vị đã được các Tông Đồ lập làm giám mục trong các giáo hội và… việc kế nhiệm các vị này cho đến tận bây giờ… Quả vậy, [Các Tông Đồ] muốn rằng các vị này, mà các ngài để lại như người kế nhiệm mình, phải là những người rất hoàn hảo và không thể chê trách được gì trong mọi vấn đề, để các ngài có thể trao chức vụ cai quản của mình cho họ; các vị này, nếu chu toàn các chức năng của mình một cách trung thực, thì đó sẽ là một đại phúc, nhưng nếu các vị sa phạm, thì quả là một tai họa thảm khốc nhất” (Adversus Haereses, III, 3, 1: PG 7, 848).
Sau khi nhấn mạnh tới sự kiện: mạng lưới Kế Thừa Tông Đồ này bảo đảm cho tính vĩnh viễn của lời Chúa, Thánh Irênê tập chú vào Giáo Hội chuyên biệt, tức “Giáo Hội rất vĩ đại, rất cổ xưa và được mọi người biết đến, do hai Tông Đồ vinh hiển nhất là Phêrô và Phaolô sáng lập và tổ chức tại Rôma”. Ngài nhấn mạnh tới Truyền Thống đức tin của Giáo Hội này đã truyền tới chúng ta từ các Tông Đồ xuyên qua việc kế nhiệm các giám mục. Như thế, đối với Thánh Irênê cũng như đối với Giáo Hội hoàn vũ, việc kế thừa giám mục của Giáo Hội Rôma đã trở nên một dấu chỉ, một tiêu chuẩn và một bảo đảm cho việc lưu truyền liên tục đức tin tông truyền: “Như một vấn đề thiết yếu, mọi giáo hội, nghĩa là các tín hữu khắp mọi nơi, phải nhất trí với Giáo Hội này, vì Giáo Hội này có thẩm quyền ưu việt (propter potiorem principalitatem), do sự kiện: Truyền Thống Tông Đồ luôn được liên tục bảo toàn tại đây…” (ibid., III, 3, 2: PG 7, 848).
Việc Kế thừa Tông đồ, được chứng thực dựa vào sự hiệp thông với sự kế thừa của Giáo Hội Rôma, do đó, là tiêu chuẩn cho tính vĩnh viễn của các Giáo Hội đặc thù trong Truyền Thống đức tin tông truyền chung, một truyền thống, ngay từ đầu, đã được truyền lại cho chúng ta qua máng chuyển này: “trong trật tự này, và nhờ sự kế thừa này, Truyền thống Giáo Hội từ các Tông đồ và việc rao giảng sự thật đã được truyền đến chúng ta. Và đây là bằng chứng dồi dào nhất cho thấy có một đức tin duy nhất và cùng là đức tin một đức tin ban sự sống,vốn được duy trì trong Giáo Hội từ các Tông đồ cho tới nay, và được chuyển giao trong sự thật” (ibid., III, 3, 3: PG 7, 851).
Theo chứng từ của Giáo Hội cổ xưa, tính tông truyền của hiệp thông Giáo Hội hệ ở lòng trung thành với giáo huấn và triết lý hành động của các Tông Đồ, nhờ đó, sợi dây lịch sử và thiêng liêng nối kết Giáo Hội với Chúa Kitô được bảo đảm. Việc Kế thừa Tông đồ của thừa tác vụ Giám Mục là phương thế bảo đảm việc lưu truyền chứng tá Tông đồ một cách trung thành.
Tương tự như thế, điều các Tông Đồ đại diện trong tương quan giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội gốc cũng được đại diện bởi việc kế thừa thừa tác trong mối tương quan giữa Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội ngày nay. Đây không phải chỉ là một dải nối tiếp vật chất; đúng hơn, nó là dụng cụ lịch sử được Chúa Thánh Thần sử dụng để làm cho Chúa Giêsu, Đầu của Dân Người, hiện diện qua những vị được phong chức làm thừa tác vụ qua việc đặt tay và lời cầu nguyện của Giám Mục.
Thành thử, qua việc Kế thừa Tông đồ, chính Chúa Giêsu với tới chúng ta: trong lời lẽ của các Tông đồ và các vị kế nhiệm các ngài, chính Người nói với chúng ta; qua bàn tay các ngài, chính Người hành động trong các bí tích; trong ánh mắt của các ngài, chính ánh mắt của Người đang ôm ấp chúng ta và làm chúng ta cảm thấy được yêu thương vào chào đón và Trái Tim Thiên Chúa. Và cho đến tận hôm nay, cũng như từ thuở ban đầu, chính Chúa Kitô là Mục tử và người Gìn giữ linh hồn chúng ta, Đấng chúng ta bước theo với một lòng tín thác, biết ơn và hân hoan sâu sắc.
VietCatholic TV
Tin Tức Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới, 15/12/2019: Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2020
VietCatholic Network
00:17 16/12/2019
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Kinh Truyền tin với Đức Thành Cha, Chúa Nhật ngày 15/12/2019.
2- Sứ điệp của Đức Thành Cha Phanxicô Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2020.
3- Đức Thánh Cha tiếp các nữ cộng sự viên giáo phận Milano.
4- Đức Thành Cha tiếp các nghệ sĩ buổi hòa nhạc tại Vatican.
5- Giáo hội sắp có thêm 28 chân phước.
6- Tomasito, thiên thần nhỏ muốn được an nghỉ cạnh Đức Giáo Hoàng.
7- Đức Hồng Y Nichols mời gọi các lãnh đạo chính trị vì hạnh phúc của tha nhân.
8- Giám mục Bolivia kêu gọi hòa bình.
9- Giáo hội Hoa Kỳ giúp hơn 832 ngàn dollar cho các dự án ở châu Phi.
10- Các nhà thờ Công Giáo vùng Đồng Nai thắp sáng mùa Giáng Sinh.
11- Giới thiệu Thánh ca: Ngàn Sao. Ngàn Sao.
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết:
Tĩnh tâm Mùa Vọng cùng giáo triều Rôma: Bài ca Manificat là trường truyền giáo và hoán cải
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
02:08 16/12/2019
Lúc 9g sáng thứ Sáu 13 tháng 12, tại nhà nguyện Mẹ Đấng Cứu Chuộc trong điện Tông Tòa của Vatican, Đức Thánh Cha và giáo triều Rôma đã tham dự buổi tĩnh tâm Tuần thứ Hai Mùa Vọng. Vị giảng thuyết là cha Raniero Cantalamessa, thần học gia, và là giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng.
Chủ đề của các bài thuyết giảng trong cuộc tĩnh tâm Mùa Vọng là một câu từ Phúc Âm theo Thánh Matthêu “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.”
Trong phần thứ nhất, cha Raniero Cantalamessa giảng thuyết về bài ca Magnificat, khi Đức Mẹ đi thăm bà Êlisabét. Phần thứ hai bàn về bài ca Magnificat trong ý hướng truyền giáo và hoán cải.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây: “My Soul Proclaims the Greatness of the Lord” – “Linh hồn tôi ngợi khen sự cao cả của Thiên Chúa”. Dưới đây là bản dịch toàn văn phần II sang Việt Ngữ.
Bài ca Magnificat, trường truyền giáo
Nhận xét về biến cố Truyền tin, Thánh Irênê (Irenaeus) nói rằng “Đức Maria, lòng đầy hân hoan, đã thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.” [3] Đức Maria giống như nghệ sĩ độc tấu bắt đầu một giai điệu mà dàn hợp xướng phải hát theo. Điều này giải thích diễn đạt “Đức Maria, mô hình của Giáo Hội” (typus Ecclesiae), được các Giáo Phụ sử dụng và được Công đồng Vatican II (LG 63) công nhận. Nói rằng “Đức Maria là mô hình của Giáo Hội”, có nghĩa là Mẹ là sự nhân cách hóa của Giáo Hội, là đại diện dễ nhận biết của một thực tại tâm linh; điều đó có nghĩa là Mẹ là mô hình gương mẫu của Giáo Hội theo nghĩa là ý tưởng về Giáo Hội được thực hiện hoàn hảo trước hết nơi Mẹ, đồng thời Mẹ là thành viên chính, là gốc rễ và trái tim của Giáo Hội.
Nhưng “Giáo Hội” có ý nghĩa gì ở đây và ở chỗ mà Thánh Irênê nói Đức Maria hát bài Magnificat nhân danh Hội Thánh? Không phải nhân danh Giáo Hội về mặt danh nghĩa, nhưng là nhân danh một Giáo Hội thực sự, nghĩa là không phải một Giáo Hội trừu tượng, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, bao gồm những người và những linh hồn tạo nên Giáo Hội. Magnificat không chỉ được đọc mà còn được sống. Mỗi người trong chúng ta nên biến nó thành của riêng mình; thành bài thánh ca của chúng ta. Khi chúng ta nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, thì chữ “tôi” ấy phải là một tham chiếu trực tiếp. Thánh Ambrôsiô đã viết: “Xin cho linh hồn Đức Maria ở trong anh chị em để anh chị em hân hoan trong Chúa.... Đúng là về phương diện thể lý Mẹ của Chúa Kitô chỉ có một, nhưng tất cả các linh hồn đều có Chúa Kitô trong đức tin bởi vì mỗi tín hữu đều đón nhận vào chính mình Lời của Thiên Chúa.” [4]
Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này, bây giờ chúng ta hãy cố gắng áp dụng bài ca của Đức Maria cho chính chúng ta, cho Giáo Hội và các linh hồn, để học biết những gì chúng ta phải làm để có thể “nên giống như” Đức Maria không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.
Khi Đức Maria loan báo việc hạ bệ những người quyền thế và kiêu hãnh, bài Magnificat nhắc nhở Giáo Hội về thông điệp thiết yếu mà Giáo Hội phải công bố với thế giới. Bài ca ấy dạy Giáo Hội phải có tính “tiên tri”. Giáo Hội sống và thực hành bài thánh ca của Đức Trinh Nữ khi Giáo Hội lặp lại cùng với Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người giàu có, lại đuổi về tay trắng!” Giáo Hội lặp lại điều này với đức tin, tạo ra sự khác biệt giữa điều này và tất cả các lời loan báo khác, Giáo Hội cũng có quyền kêu gọi sự chú ý đến công lý, hòa bình và trật tự xã hội vì Giáo Hội là thông dịch viên về luật tự nhiên được công nhận và là người bảo vệ các lệnh truyền của Chúa Kitô về tình huynh đệ.
Hai tầm nhìn [về Thiên Chúa và về thế giới] tuy khác biệt, nhưng chúng không tách biệt và có ảnh hưởng tương tác với nhau. Việc tuyên xưng đức tin về những gì Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ (tầm nhìn về Thiên Chúa trong Magnificat) trở thành dấu chỉ tốt nhất về những gì con người đến lượt mình phải làm trong lịch sử cá nhân của mình, và, đúng hơn là những gì bản thân Giáo Hội, về phương diện bác ái, phải làm đối với những người giàu có, liên quan đến ơn cứu rỗi của họ. Magnificat không phải là lời “kích động việc hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng của họ nhằm nâng lên những người khiêm nhường”, nhưng đó là lời cảnh báo lành mạnh dành cho người giàu có và quyền thế về nguy cơ to lớn mà họ gặp phải như trong câu chuyện ngụ ngôn về ông phú hộ, được Chúa Giêsu đưa ra sau này.
Do đó, Magnificat không phải là cách duy nhất để đối mặt với vấn đề mà ngày nay có thể cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ là giàu có và nghèo đói, là đói khát và thừa mứa. Có những cách hợp pháp khác đến với chúng ta từ lịch sử, chứ không phải từ đức tin, mà các Kitô hữu hỗ trợ và Giáo Hội phân định. Nhưng cách thế được nêu trong Kinh thánh phải được Giáo Hội công bố luôn luôn cho tất cả mọi người như là một nhiệm vụ đặc thù của mình và qua đó Giáo Hội hỗ trợ những nỗ lực chung của tất cả những người thiện chí. Điều này luôn luôn có giá trị phổ quát và có liên quan. Nếu tình cờ có một lúc, một nơi nào đó không còn bất công hay bất bình đẳng xã hội giữa con người với nhau, mọi người đều giàu có và hài lòng, thì Giáo Hội vẫn phải tuyên bố, như Đức Maria đã làm, rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng. Trên thực tế, Giáo Hội còn phải công bố điều đó với một nhiệt tình thậm chí còn lớn hơn nữa. Magnificat có liên quan ở các nước giàu có cũng như ở các nước thuộc Thế giới thứ ba.
Có những kế hoạch và những khía cạnh của cuộc sống chỉ có thể nắm bắt được với sự trợ giúp của một ánh sáng đặc biệt, mắt trần thôi thì không đủ; chúng ta cần tia hồng ngoại hoặc tia cực tím. Hình ảnh mà ánh sáng đặc biệt này mang lại rất khác biệt và đáng ngạc nhiên đối với những người đã quen nhìn thấy những hiện tượng tương tự trong ánh sáng tự nhiên. Nhờ lời của Thiên Chúa, Giáo Hội có một hình ảnh khác về tình hình thế giới, là hình ảnh duy nhất lâu dài, bởi vì nó có được nhờ ánh sáng của Thiên Chúa và đó là hình ảnh mà chính Thiên Chúa có. Giáo Hội không thể cất giấu hình ảnh này. Nhưng Giáo Hội phải truyền bá nó một cách không mệt mỏi, làm cho nó được mọi người biết đến vì phần số đời đời của họ đang bị đe dọa. Đó là hình ảnh sẽ còn lại khi “khuôn mẫu của thế giới” này qua đi. Đôi khi Giáo Hội phải làm sáng tỏ điều này qua những từ đơn giản, trực tiếp và tiên tri, giống như những lời mà Đức Maria đã sử dụng; qua đó, chúng ta bày tỏ những điều mà chúng ta tin tưởng một cách mật thiết và thanh thản. Điều này phải được thực hiện ngay cả với giá phải trả là thế gian, theo ý kiến và quan điểm phổ biến của thời đại, xem chúng ta là những kẻ dại khờ và bị tách biệt khỏi thế giới này.
Sách Khải Huyền cho chúng ta một ví dụ về ngôn ngữ tiên tri trực tiếp và táo bạo này, trong đó sự thật thánh thiêng trái ngược lại với ý kiến của con người: “Ngươi nói: ‘Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi’; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng.” (Kh 3:17).
Hãy nghĩ về câu chuyện nổi tiếng của Andersen, trong đó một số kẻ lừa đảo đã khiến một vị vua tin rằng có một chất liệu đẹp đẽ sẽ khiến những người mặc nó trở nên vô hình trước những kẻ ngu si và đần độn, và chỉ người khôn ngoan mới có thể nhìn thấy được. Trước hết, bản thân nhà vua không nhìn thấy điều đó nhưng ông ta sợ nói như vậy thì sẽ bị coi là một trong những kẻ ngu si đần độn và tất cả các văn võ bá quan cũng như thần dân của ông ta cũng cư xử theo cùng một cách như thế. Vì vậy, gần như hoàn toàn khỏa thân, nhà vua diễu hành qua đường phố và mọi người, để không tự phản bội chính mình, giả vờ chiêm ngưỡng chiếc áo choàng đẹp đẽ của ông ta cho đến khi vang lên tiếng trẻ con trong đám đông: “Nhưng nhà vua không mặc gì hết kia kìa!”, điều đó đã đặt một dấu chấm hết cho trò này, và mọi người cuối cùng cũng có can đảm thừa nhận rằng những chiếc áo choàng nổi tiếng không hề tồn tại.
Giáo Hội phải giống như giọng nói trẻ con đó. Đối với một thế giới mê đắm sự thịnh vượng của chính mình và với những ai cho thấy họ không tin vào mình, Giáo Hội lặp đi lặp lại những lời của sách Khải Huyền: “Ngươi không biết rằng ngươi là kẻ trần truồng!” Điều này cho thấy Đức Maria đã thực sự “thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh” trong bài ca Magnificat: bắt đầu từ Thiên Chúa, Mẹ là người đầu tiên vạch trần sự cơ bần cùng cực của những kẻ giàu có trong thế giới này. Chính bài ca Magnificat biện minh cho danh hiệu “Ánh sao truyền giáo”, mà Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục xưng tụng Đức Maria trong Tông huấn “Evangelii nuntiandi” – nghĩa là “Loan Báo Tin Mừng” – của ngài.
Bài ca Magnificat, trường học hoán cải
Tuy nhiên, giới hạn phần nói về kẻ kiêu hãnh và người khiêm nhường, kẻ giàu có và người nghèo đói của bài ca Magnificat trong phạm vi những gì Giáo Hội và các tín hữu phải thuyết giảng cho thế giới sẽ gây ra một sự hiểu nhầm hoàn toàn bài ca này. Chúng ta không chỉ đối diện với một cái gì đó phải được rao giảng nhưng trên hết, phải được thực hành. Đức Maria có thể công bố mối phúc cho người khiêm tốn và nghèo khổ vì bản thân Mẹ là người khiêm tốn và thanh bần. Sự đảo ngược được Mẹ đề cập đến phải diễn ra đặc biệt là trong trái tim của bất cứ ai nói về bài ca Magnificat và cầu nguyện qua bài ca này. Đức Maria nói: Chúa dẹp tan phường kiêu căng “trong lòng trí tâm hồn họ”.
Thật bất ngờ, chủ đề chuyển từ ngoài vào trong, từ các cuộc thảo luận thần học trong đó mọi người đều đúng sang những suy nghĩ của con tim mà mọi người đều sai. Những ai sống cho bản thân mình, coi mình là thần minh của chính mình, chứ không phải Chúa, thì những người ấy đang tự xây dựng ngai vàng cho mình ngồi lên ra lệnh cho người khác. Giờ đây, Đức Maria nói, Chúa đã hạ bệ những người ấy xuống khỏi ngai vàng của họ; Ngài đã vạch trần sự thiếu vắng chân lý và sự bất công của họ. Có một thế giới nội tâm được tạo thành từ những suy nghĩ, ý chí, mong muốn và đam mê, mà theo Thánh Giacôbê, luôn gây ra các cuộc chiến và xung đột, bất công và lạm dụng trong anh em (xem Gb 4: 1) và khi không ai cố gắng thay đổi tình trạng này từ gốc, sẽ không có gì thực sự thay đổi trên thế giới; và nếu có cái gì đó thay đổi đi chăng nữa thì chỉ sau một thời gian ngắn nó lại tái tạo một tình trạng tương tự như trước đây.
Như thế, chúng ta cảm động đến mức nào trước bài ca của Đức Maria, bài ca ấy xem xét kỹ lưỡng chúng ta như thế nào và “chặt đứt các cội rễ” triệt để biết bao. Tôi sẽ ngu ngốc và bất nhất đến mức nào nếu hàng ngày, trong các giờ Kinh Chiều, tôi lặp lại cùng với Đức Maria rằng “Chúa hạ bệ những ai quyền thế” trong khi đó tôi lại tiếp tục khao khát quyền lực, một vị trí cao hơn, thăng quan tiến chức, một sự nghiệp tốt hơn và đánh mất đi sự bình an nội tâm nếu tôi không thành công; và mỗi ngày tôi tuyên bố cùng với Đức Maria rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng, nhưng đồng thời tôi lại khao khát không mệt mỏi sự giàu có và của cải cùng những thứ càng lúc càng thượng hạng hơn; và rồi tôi cũng thích trắng tay trước mặt Chúa hơn là trắng tay trước mắt thế gian. Tôi sẽ ngu ngốc đến mức nào nếu tôi tiếp tục nói với Đức Maria rằng Chúa “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, Ngài gần gũi với họ, xa lánh phường kiêu căng và những kẻ giàu có, nhưng tôi lại làm điều ngược lại. Trong bài bình luận về bài ca Magnificat, Martin Luther viết,
Mỗi ngày chúng ta thấy rằng mọi người đều nhắm quá cao, vào các vị trí danh dự, quyền thế, sự giàu có, quyền thống trị, một cuộc sống thoải mái hơn, và vào bất cứ điều gì mang lại cho họ tầm quan trọng. Và tất cả chúng ta đều thích làm bạn với những người như vậy; chúng ta chạy theo họ, sẵn lòng phục vụ họ, chia sẻ sự vĩ đại của họ. Không ai muốn nhìn xuống những nơi thấp hơn, là những nơi đang ngự trị nghèo đói, ô nhục, túng quẫn, phiền não và thống khổ. Thay vào đó, chúng ta đảo mắt khỏi những điều như vậy. Chúng ta trốn tránh và tránh xa những người đang gặp rắc rối và để mặc họ ra sao thì ra. Không ai nghĩ đến việc giúp đỡ hoặc chìa ra một bàn tay cho họ hoặc làm bất cứ điều gì để giúp họ trở thành một cái gì đó; họ phải ở lại bậc thang thấp hèn và bị coi thường [5].
Đức Maria nói rằng Chúa làm điều ngược lại; Ngài xa lành phường kiêu căng và nâng dậy những ai khiêm nhường và không quan trọng; Ngài sẵn sàng gần gũi hơn với những người nghèo khổ và đói khát đang quấy rầy Ngài với những lời cầu xin và các thỉnh cầu hơn là với những người giàu có và hài lòng, những người không cần đến Ngài và không xin sự gì nơi Ngài. Vì thế, với sự dịu dàng từ mẫu, Đức Maria khuyên chúng ta bắt chước Chúa và biến lựa chọn của Ngài thành lựa chọn của chính chúng ta. Mẹ dạy chúng ta đường lối Chúa. Magnificat thực sự là một trường học tuyệt vời của sự khôn ngoan theo Kinh thánh, và là một trường hoán cải liên tục.
Thông qua sự hiệp thông của các thánh trong Nhiệm Thể, toàn bộ di sản to lớn này giờ đây gắn bó với bài ca Magnificat. Đây là cách bài ca này phải được hát, đó là đồng ca với tất cả các tín hữu trong Giáo Hội. Đây là cách làm cho Chúa vui thích. Để trở thành một phần của dàn đồng ca đã phát triển trong suốt nhiều thế kỷ, tất cả những gì chúng ta phải làm là dâng lên Thiên Chúa tình cảm và ý hướng muốn chuyển tải của Đức Maria, là người đầu tiên hát lên “nhân danh Giáo Hội”, nhân danh các học giả đã nhận xét về bài ca này, nhân danh những nhạc sĩ đã phổ nhạc ca vịnh ấy trong đức tin, nhân danh những người mộ đạo và nhân danh những người khiêm nhượng trong lòng đã sống bài ca ấy. Nhờ có bài thánh ca tuyệt vời này, Đức Maria tiếp tục tán dương Chúa cho tất cả các thế hệ. Tiếng hát của Mẹ, như tiếng hát của một người dẫn hát, hỗ trợ và mang theo cùng tiếng hát của Mẹ tiếng hát của Giáo Hội.
Vịnh gia mời tất cả chúng ta cùng tham gia: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,” (Tv 34: 4). Đức Maria lặp lại những lời tương tự với chúng ta, là con cái của Mẹ. Nếu tôi được phép diễn giải tâm trí của Đức Thánh Cha trong ngày Kim Khánh linh mục này của ngài, thì ngài cũng nói cùng chúng ta: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA!” Và chúng ta hứa sẽ làm điều đó.
[1] x. Thánh Augustinô, Tự Thú, VII, 16; XI, 9.
[2] Thánh Bonaventure, Lignum vitae – Rừng sự sống, I, 3.
[3] Thánh Irênê, Adv. Haer., III, 10, 2 (SCh 211, trang 118).
[4] x. Thánh Ambrôsiô, Luận về các trinh nữ, I, 31 (PL 16, 208).
[5] Weimar ed., 7, tr. 547.
Chủ đề của các bài thuyết giảng trong cuộc tĩnh tâm Mùa Vọng là một câu từ Phúc Âm theo Thánh Matthêu “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.”
Trong phần thứ nhất, cha Raniero Cantalamessa giảng thuyết về bài ca Magnificat, khi Đức Mẹ đi thăm bà Êlisabét. Phần thứ hai bàn về bài ca Magnificat trong ý hướng truyền giáo và hoán cải.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây: “My Soul Proclaims the Greatness of the Lord” – “Linh hồn tôi ngợi khen sự cao cả của Thiên Chúa”. Dưới đây là bản dịch toàn văn phần II sang Việt Ngữ.
Bài ca Magnificat, trường truyền giáo
Nhận xét về biến cố Truyền tin, Thánh Irênê (Irenaeus) nói rằng “Đức Maria, lòng đầy hân hoan, đã thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.” [3] Đức Maria giống như nghệ sĩ độc tấu bắt đầu một giai điệu mà dàn hợp xướng phải hát theo. Điều này giải thích diễn đạt “Đức Maria, mô hình của Giáo Hội” (typus Ecclesiae), được các Giáo Phụ sử dụng và được Công đồng Vatican II (LG 63) công nhận. Nói rằng “Đức Maria là mô hình của Giáo Hội”, có nghĩa là Mẹ là sự nhân cách hóa của Giáo Hội, là đại diện dễ nhận biết của một thực tại tâm linh; điều đó có nghĩa là Mẹ là mô hình gương mẫu của Giáo Hội theo nghĩa là ý tưởng về Giáo Hội được thực hiện hoàn hảo trước hết nơi Mẹ, đồng thời Mẹ là thành viên chính, là gốc rễ và trái tim của Giáo Hội.
Nhưng “Giáo Hội” có ý nghĩa gì ở đây và ở chỗ mà Thánh Irênê nói Đức Maria hát bài Magnificat nhân danh Hội Thánh? Không phải nhân danh Giáo Hội về mặt danh nghĩa, nhưng là nhân danh một Giáo Hội thực sự, nghĩa là không phải một Giáo Hội trừu tượng, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, bao gồm những người và những linh hồn tạo nên Giáo Hội. Magnificat không chỉ được đọc mà còn được sống. Mỗi người trong chúng ta nên biến nó thành của riêng mình; thành bài thánh ca của chúng ta. Khi chúng ta nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, thì chữ “tôi” ấy phải là một tham chiếu trực tiếp. Thánh Ambrôsiô đã viết: “Xin cho linh hồn Đức Maria ở trong anh chị em để anh chị em hân hoan trong Chúa.... Đúng là về phương diện thể lý Mẹ của Chúa Kitô chỉ có một, nhưng tất cả các linh hồn đều có Chúa Kitô trong đức tin bởi vì mỗi tín hữu đều đón nhận vào chính mình Lời của Thiên Chúa.” [4]
Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này, bây giờ chúng ta hãy cố gắng áp dụng bài ca của Đức Maria cho chính chúng ta, cho Giáo Hội và các linh hồn, để học biết những gì chúng ta phải làm để có thể “nên giống như” Đức Maria không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.
Khi Đức Maria loan báo việc hạ bệ những người quyền thế và kiêu hãnh, bài Magnificat nhắc nhở Giáo Hội về thông điệp thiết yếu mà Giáo Hội phải công bố với thế giới. Bài ca ấy dạy Giáo Hội phải có tính “tiên tri”. Giáo Hội sống và thực hành bài thánh ca của Đức Trinh Nữ khi Giáo Hội lặp lại cùng với Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người giàu có, lại đuổi về tay trắng!” Giáo Hội lặp lại điều này với đức tin, tạo ra sự khác biệt giữa điều này và tất cả các lời loan báo khác, Giáo Hội cũng có quyền kêu gọi sự chú ý đến công lý, hòa bình và trật tự xã hội vì Giáo Hội là thông dịch viên về luật tự nhiên được công nhận và là người bảo vệ các lệnh truyền của Chúa Kitô về tình huynh đệ.
Hai tầm nhìn [về Thiên Chúa và về thế giới] tuy khác biệt, nhưng chúng không tách biệt và có ảnh hưởng tương tác với nhau. Việc tuyên xưng đức tin về những gì Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ (tầm nhìn về Thiên Chúa trong Magnificat) trở thành dấu chỉ tốt nhất về những gì con người đến lượt mình phải làm trong lịch sử cá nhân của mình, và, đúng hơn là những gì bản thân Giáo Hội, về phương diện bác ái, phải làm đối với những người giàu có, liên quan đến ơn cứu rỗi của họ. Magnificat không phải là lời “kích động việc hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng của họ nhằm nâng lên những người khiêm nhường”, nhưng đó là lời cảnh báo lành mạnh dành cho người giàu có và quyền thế về nguy cơ to lớn mà họ gặp phải như trong câu chuyện ngụ ngôn về ông phú hộ, được Chúa Giêsu đưa ra sau này.
Do đó, Magnificat không phải là cách duy nhất để đối mặt với vấn đề mà ngày nay có thể cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ là giàu có và nghèo đói, là đói khát và thừa mứa. Có những cách hợp pháp khác đến với chúng ta từ lịch sử, chứ không phải từ đức tin, mà các Kitô hữu hỗ trợ và Giáo Hội phân định. Nhưng cách thế được nêu trong Kinh thánh phải được Giáo Hội công bố luôn luôn cho tất cả mọi người như là một nhiệm vụ đặc thù của mình và qua đó Giáo Hội hỗ trợ những nỗ lực chung của tất cả những người thiện chí. Điều này luôn luôn có giá trị phổ quát và có liên quan. Nếu tình cờ có một lúc, một nơi nào đó không còn bất công hay bất bình đẳng xã hội giữa con người với nhau, mọi người đều giàu có và hài lòng, thì Giáo Hội vẫn phải tuyên bố, như Đức Maria đã làm, rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng. Trên thực tế, Giáo Hội còn phải công bố điều đó với một nhiệt tình thậm chí còn lớn hơn nữa. Magnificat có liên quan ở các nước giàu có cũng như ở các nước thuộc Thế giới thứ ba.
Có những kế hoạch và những khía cạnh của cuộc sống chỉ có thể nắm bắt được với sự trợ giúp của một ánh sáng đặc biệt, mắt trần thôi thì không đủ; chúng ta cần tia hồng ngoại hoặc tia cực tím. Hình ảnh mà ánh sáng đặc biệt này mang lại rất khác biệt và đáng ngạc nhiên đối với những người đã quen nhìn thấy những hiện tượng tương tự trong ánh sáng tự nhiên. Nhờ lời của Thiên Chúa, Giáo Hội có một hình ảnh khác về tình hình thế giới, là hình ảnh duy nhất lâu dài, bởi vì nó có được nhờ ánh sáng của Thiên Chúa và đó là hình ảnh mà chính Thiên Chúa có. Giáo Hội không thể cất giấu hình ảnh này. Nhưng Giáo Hội phải truyền bá nó một cách không mệt mỏi, làm cho nó được mọi người biết đến vì phần số đời đời của họ đang bị đe dọa. Đó là hình ảnh sẽ còn lại khi “khuôn mẫu của thế giới” này qua đi. Đôi khi Giáo Hội phải làm sáng tỏ điều này qua những từ đơn giản, trực tiếp và tiên tri, giống như những lời mà Đức Maria đã sử dụng; qua đó, chúng ta bày tỏ những điều mà chúng ta tin tưởng một cách mật thiết và thanh thản. Điều này phải được thực hiện ngay cả với giá phải trả là thế gian, theo ý kiến và quan điểm phổ biến của thời đại, xem chúng ta là những kẻ dại khờ và bị tách biệt khỏi thế giới này.
Sách Khải Huyền cho chúng ta một ví dụ về ngôn ngữ tiên tri trực tiếp và táo bạo này, trong đó sự thật thánh thiêng trái ngược lại với ý kiến của con người: “Ngươi nói: ‘Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi’; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng.” (Kh 3:17).
Hãy nghĩ về câu chuyện nổi tiếng của Andersen, trong đó một số kẻ lừa đảo đã khiến một vị vua tin rằng có một chất liệu đẹp đẽ sẽ khiến những người mặc nó trở nên vô hình trước những kẻ ngu si và đần độn, và chỉ người khôn ngoan mới có thể nhìn thấy được. Trước hết, bản thân nhà vua không nhìn thấy điều đó nhưng ông ta sợ nói như vậy thì sẽ bị coi là một trong những kẻ ngu si đần độn và tất cả các văn võ bá quan cũng như thần dân của ông ta cũng cư xử theo cùng một cách như thế. Vì vậy, gần như hoàn toàn khỏa thân, nhà vua diễu hành qua đường phố và mọi người, để không tự phản bội chính mình, giả vờ chiêm ngưỡng chiếc áo choàng đẹp đẽ của ông ta cho đến khi vang lên tiếng trẻ con trong đám đông: “Nhưng nhà vua không mặc gì hết kia kìa!”, điều đó đã đặt một dấu chấm hết cho trò này, và mọi người cuối cùng cũng có can đảm thừa nhận rằng những chiếc áo choàng nổi tiếng không hề tồn tại.
Giáo Hội phải giống như giọng nói trẻ con đó. Đối với một thế giới mê đắm sự thịnh vượng của chính mình và với những ai cho thấy họ không tin vào mình, Giáo Hội lặp đi lặp lại những lời của sách Khải Huyền: “Ngươi không biết rằng ngươi là kẻ trần truồng!” Điều này cho thấy Đức Maria đã thực sự “thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh” trong bài ca Magnificat: bắt đầu từ Thiên Chúa, Mẹ là người đầu tiên vạch trần sự cơ bần cùng cực của những kẻ giàu có trong thế giới này. Chính bài ca Magnificat biện minh cho danh hiệu “Ánh sao truyền giáo”, mà Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục xưng tụng Đức Maria trong Tông huấn “Evangelii nuntiandi” – nghĩa là “Loan Báo Tin Mừng” – của ngài.
Bài ca Magnificat, trường học hoán cải
Tuy nhiên, giới hạn phần nói về kẻ kiêu hãnh và người khiêm nhường, kẻ giàu có và người nghèo đói của bài ca Magnificat trong phạm vi những gì Giáo Hội và các tín hữu phải thuyết giảng cho thế giới sẽ gây ra một sự hiểu nhầm hoàn toàn bài ca này. Chúng ta không chỉ đối diện với một cái gì đó phải được rao giảng nhưng trên hết, phải được thực hành. Đức Maria có thể công bố mối phúc cho người khiêm tốn và nghèo khổ vì bản thân Mẹ là người khiêm tốn và thanh bần. Sự đảo ngược được Mẹ đề cập đến phải diễn ra đặc biệt là trong trái tim của bất cứ ai nói về bài ca Magnificat và cầu nguyện qua bài ca này. Đức Maria nói: Chúa dẹp tan phường kiêu căng “trong lòng trí tâm hồn họ”.
Thật bất ngờ, chủ đề chuyển từ ngoài vào trong, từ các cuộc thảo luận thần học trong đó mọi người đều đúng sang những suy nghĩ của con tim mà mọi người đều sai. Những ai sống cho bản thân mình, coi mình là thần minh của chính mình, chứ không phải Chúa, thì những người ấy đang tự xây dựng ngai vàng cho mình ngồi lên ra lệnh cho người khác. Giờ đây, Đức Maria nói, Chúa đã hạ bệ những người ấy xuống khỏi ngai vàng của họ; Ngài đã vạch trần sự thiếu vắng chân lý và sự bất công của họ. Có một thế giới nội tâm được tạo thành từ những suy nghĩ, ý chí, mong muốn và đam mê, mà theo Thánh Giacôbê, luôn gây ra các cuộc chiến và xung đột, bất công và lạm dụng trong anh em (xem Gb 4: 1) và khi không ai cố gắng thay đổi tình trạng này từ gốc, sẽ không có gì thực sự thay đổi trên thế giới; và nếu có cái gì đó thay đổi đi chăng nữa thì chỉ sau một thời gian ngắn nó lại tái tạo một tình trạng tương tự như trước đây.
Như thế, chúng ta cảm động đến mức nào trước bài ca của Đức Maria, bài ca ấy xem xét kỹ lưỡng chúng ta như thế nào và “chặt đứt các cội rễ” triệt để biết bao. Tôi sẽ ngu ngốc và bất nhất đến mức nào nếu hàng ngày, trong các giờ Kinh Chiều, tôi lặp lại cùng với Đức Maria rằng “Chúa hạ bệ những ai quyền thế” trong khi đó tôi lại tiếp tục khao khát quyền lực, một vị trí cao hơn, thăng quan tiến chức, một sự nghiệp tốt hơn và đánh mất đi sự bình an nội tâm nếu tôi không thành công; và mỗi ngày tôi tuyên bố cùng với Đức Maria rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng, nhưng đồng thời tôi lại khao khát không mệt mỏi sự giàu có và của cải cùng những thứ càng lúc càng thượng hạng hơn; và rồi tôi cũng thích trắng tay trước mặt Chúa hơn là trắng tay trước mắt thế gian. Tôi sẽ ngu ngốc đến mức nào nếu tôi tiếp tục nói với Đức Maria rằng Chúa “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, Ngài gần gũi với họ, xa lánh phường kiêu căng và những kẻ giàu có, nhưng tôi lại làm điều ngược lại. Trong bài bình luận về bài ca Magnificat, Martin Luther viết,
Mỗi ngày chúng ta thấy rằng mọi người đều nhắm quá cao, vào các vị trí danh dự, quyền thế, sự giàu có, quyền thống trị, một cuộc sống thoải mái hơn, và vào bất cứ điều gì mang lại cho họ tầm quan trọng. Và tất cả chúng ta đều thích làm bạn với những người như vậy; chúng ta chạy theo họ, sẵn lòng phục vụ họ, chia sẻ sự vĩ đại của họ. Không ai muốn nhìn xuống những nơi thấp hơn, là những nơi đang ngự trị nghèo đói, ô nhục, túng quẫn, phiền não và thống khổ. Thay vào đó, chúng ta đảo mắt khỏi những điều như vậy. Chúng ta trốn tránh và tránh xa những người đang gặp rắc rối và để mặc họ ra sao thì ra. Không ai nghĩ đến việc giúp đỡ hoặc chìa ra một bàn tay cho họ hoặc làm bất cứ điều gì để giúp họ trở thành một cái gì đó; họ phải ở lại bậc thang thấp hèn và bị coi thường [5].
Đức Maria nói rằng Chúa làm điều ngược lại; Ngài xa lành phường kiêu căng và nâng dậy những ai khiêm nhường và không quan trọng; Ngài sẵn sàng gần gũi hơn với những người nghèo khổ và đói khát đang quấy rầy Ngài với những lời cầu xin và các thỉnh cầu hơn là với những người giàu có và hài lòng, những người không cần đến Ngài và không xin sự gì nơi Ngài. Vì thế, với sự dịu dàng từ mẫu, Đức Maria khuyên chúng ta bắt chước Chúa và biến lựa chọn của Ngài thành lựa chọn của chính chúng ta. Mẹ dạy chúng ta đường lối Chúa. Magnificat thực sự là một trường học tuyệt vời của sự khôn ngoan theo Kinh thánh, và là một trường hoán cải liên tục.
Thông qua sự hiệp thông của các thánh trong Nhiệm Thể, toàn bộ di sản to lớn này giờ đây gắn bó với bài ca Magnificat. Đây là cách bài ca này phải được hát, đó là đồng ca với tất cả các tín hữu trong Giáo Hội. Đây là cách làm cho Chúa vui thích. Để trở thành một phần của dàn đồng ca đã phát triển trong suốt nhiều thế kỷ, tất cả những gì chúng ta phải làm là dâng lên Thiên Chúa tình cảm và ý hướng muốn chuyển tải của Đức Maria, là người đầu tiên hát lên “nhân danh Giáo Hội”, nhân danh các học giả đã nhận xét về bài ca này, nhân danh những nhạc sĩ đã phổ nhạc ca vịnh ấy trong đức tin, nhân danh những người mộ đạo và nhân danh những người khiêm nhượng trong lòng đã sống bài ca ấy. Nhờ có bài thánh ca tuyệt vời này, Đức Maria tiếp tục tán dương Chúa cho tất cả các thế hệ. Tiếng hát của Mẹ, như tiếng hát của một người dẫn hát, hỗ trợ và mang theo cùng tiếng hát của Mẹ tiếng hát của Giáo Hội.
Vịnh gia mời tất cả chúng ta cùng tham gia: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,” (Tv 34: 4). Đức Maria lặp lại những lời tương tự với chúng ta, là con cái của Mẹ. Nếu tôi được phép diễn giải tâm trí của Đức Thánh Cha trong ngày Kim Khánh linh mục này của ngài, thì ngài cũng nói cùng chúng ta: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA!” Và chúng ta hứa sẽ làm điều đó.
[1] x. Thánh Augustinô, Tự Thú, VII, 16; XI, 9.
[2] Thánh Bonaventure, Lignum vitae – Rừng sự sống, I, 3.
[3] Thánh Irênê, Adv. Haer., III, 10, 2 (SCh 211, trang 118).
[4] x. Thánh Ambrôsiô, Luận về các trinh nữ, I, 31 (PL 16, 208).
[5] Weimar ed., 7, tr. 547.
Lịch sử thật đáng kinh ngạc của ngày lễ Đức Mẹ Guadalupe: 5 lần hiện ra của Đức Mẹ
Giáo Hội Năm Châu
15:21 16/12/2019
Lúc 6 giờ chiều ngày 12 tháng 12 năm 2019, Thứ Năm trong tuần thứ hai Mùa Vọng, Đức Thánh Cha đã chủ sự lễ kính Đức Mẹ Guadalupe tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Đồng tế với ngài còn có đông đảo các vị trong giáo triều Rôma.
Trong chương trình hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu với quý vị và anh chị em bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi lễ này. Sau đó, chương trình sẽ được dành để giới thiệu về lịch sử của ngày lễ ấy.
1. Bài giảng của Đức Thánh Cha tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói rằng phụng vụ lễ kính Đức Mẹ Guadalupe và hình ảnh Đức Mẹ La Morenita được trưng bày trên bàn thờ, gợi lên cho ngài 3 tính từ. Ba tính từ này giải thích về bản tính của Mẹ Maria: người nữ, người mẹ và “người lai”.
Mẹ Maria là một người nữ. Đức Thánh Cha nói rằng trong khi các Kitô hữu tôn vinh Mẹ Maria với nhiều tước hiệu, không có điều gì khác cần hơn là nhớ rằng Mẹ là một phụ nữ của sự thánh thiện, một mẫu gương cho mọi người nữ, một môn đệ trung thành của Chúa Kitô. Mẹ khiêm nhường và trung thành với Thầy của Mẹ, với Con của Mẹ, “Đấng Cứu độ duy nhất”. Mẹ không bao giờ xem mình là đấng đồng Cứu chuộc nhưng như một môn đệ phục vụ Đấng Cứu độ.
Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. “Mẹ là Mẹ của chúng ta, Mẹ của các dân tộc chúng ta... Mẹ của con tim chúng ta.” Mẹ không chỉ là Mẹ của Giáo hội mà còn là hình ảnh của Giáo hội. Do đó “những gì nói về Mẹ Maria cũng có thể được nói về Giáo hội, có nữ tính.” Đức Thánh Cha khẳng định rằng Giáo hội không thể được hiểu khác với ý nghĩa về Thánh mẫu học này. Đây là điều quan trọng để hiểu vai trò của người nữ trong Giáo hội. Nếu chỉ hiểu vai trò của người nữ dưới khía cạnh chức năng thì đó là sự hiểu biết khiếm khuyết.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói rằng Đức Mẹ Guadalupe muốn được xem như là một “người lai”, không chỉ với thánh Juan Diego, để cho thấy rằng Mẹ là Mẹ của mọi người. Mẹ Maria nói với chúng ta như nói với thánh Juan Diego, cách dịu dàng, như một người mẹ. Và Đức Thánh Cha kết luận rằng Mẹ Maria hiện ra như một “người lai” để nói rằng Con của Mẹ cũng là một “người lai”: Người là Thiên Chúa và là người.
2. Lịch sử ngày lễ Đức Mẹ Guadalupe.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong chuyến tông du Mễ Tây Cơ lần thứ hai, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng thổ dân Juan Diego (1474-1548) lên hàng Chân Phước vào Chúa Nhật 6 tháng 5,1990. Hôm ấy, Đức Thánh Cha âu yếm gọi tân chân phước là “người tâm phúc của Đức Bà dịu hiền Tepeyac”. Thổ dân Juan Diego được Đức Mẹ Guadalupe hiện ra 5 lần vào năm 1531.
12 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sang thủ đô Mễ Tây Cơ lần thứ năm và chủ sự lễ tôn phong hiển thánh cho chân phước thổ dân Juan Diego vào ngày 31 tháng 7, 2002.
Xin lược thuật 5 lần Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA hiện ra cùng thổ dân Juan Diego trên đồi Tepeyac. Lần đầu vào sáng thứ bảy 9-12-1531 và lần cuối vào chiều thứ ba 12-12-1531. Trong lần hiện ra sau cùng, Đức Mẹ MARIA tỏ lộ danh thánh là “Đức Bà Guadalupe”. “Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn”.
Các cuộc hiện ra được thổ dân Antonio Valeriano (1520-1605) kể lại tỉ mỉ. Thổ dân Antonio Valeriano sống đồng thời với thổ dân Juan Diego. Vào năm 1531, thổ dân Juan Diego 57 tuổi và thuộc về nhóm thổ dân thiểu số rất ít người. Trước đó 7 năm, ông Juan Diego lãnh bí tích Rửa Tội cùng với người vợ hiền đức là bà Maria Lucia. Bà Maria Lucia qua đời năm 1529.
3. LẦN HIỆN RA THỨ NHẤT
Hôm đó là sáng thứ bảy 9-12-1531, ông Juan Diego đến nhà thờ Thánh Giá ở Tlatelolco để tham dự buổi học giáo lý. Khi đến gần đồi Tepeyac, ông nghe tiếng líu lo êm ái, tiếng ríu rít nhẹ nhàng, với các cung trầm bổng tuyệt vời của muôn ngàn chim sẻ, như tiếng nhạc réo rắt vọng xuống từ trời cao. Thổ dân Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ. Ông dồn dập tự hỏi: “Liệu mình có xứng đáng với những gì đang nghe không? Hay mình đang mơ? Mình đã tỉnh hẳn chưa? Mình đang ở nơi nào đây? Có lẽ mình đang ở địa đàng, nơi cõi trần hạnh phúc mà các bậc tiên tổ đã nói tới chăng? Hay là mình đã vào thiên đàng rồi?” Còn đang đảo mắt nhìn chung quanh, bỗng tiếng hót im bặt và ông nghe một tiếng nói xa xôi, vọng xuống từ trên cao và gọi rõ tên ông:
- Juan Diego, Juan Diego bé nhỏ!
Juan Diego không hề cảm thấy sợ hãi, trái lại, ông sung sướng tiến nhanh về hướng đồi cao. Khi leo lên tới đỉnh, Juan Diego trông thấy một Bà đang đứng đó. Bà ra hiệu mời Juan Diego tiến lại gần Bà. Khi đến trước mặt Bà, Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ và kinh ngạc trước vẽ đẹp siêu thoát của Bà. Áo Bà long lanh các tia sáng mặt trời. Tảng đá nơi Bà đặt chân như toàn bằng đá quí và mặt đất chung quanh Bà tỏa sáng như cầu vòng.
Thổ dân Juan Diego kính cẩn quì xuống và cảm động lắng nghe lời Bà nói cách êm ái dịu dàng:
- Hỡi Juan bé nhỏ, người con nhỏ bé nhất trong các con Mẹ, con đang đi đâu đấy?
Juan Diego trả lời:
- Thưa Bà, con phải đến Nhà Bà ở Messico-Tlatelolco để tiếp tục học về các mầu nhiệm của Thiên Chúa do các Linh Mục dạy. Các Linh Mục là các thừa tác viên thánh của Chúa chúng ta.
Bà Đẹp liền bày tỏ cùng Juan Diego ước muốn của Bà:
- Con hãy cẩn trọng ghi khắc nơi lòng con rằng con là người bé mọn nhất trong các con của Mẹ, và Mẹ chính là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, Mẹ Thiên Chúa thật, Đấng là suối nguồn sự sống, là Đấng Tạo Dựng muôn loài. Ngài là Chủ Tể trên trời và dưới đất. Mẹ hết sức mong ước người ta xây cất nơi đây một đền thánh, hầu Mẹ có thể minh chứng và trao ban cho mọi người tình thương của Mẹ, lòng cảm thông, sự trợ giúp và che chở của Mẹ. Bởi vì, Mẹ là Mẹ Từ Bi của các con, Mẹ của riêng con, cũng như của toàn dân sống trên phần đất này và của tất cả những ai thành khẩn kêu cầu cùng Mẹ với trọn lòng tin tưởng. Mẹ nghe rõ tiếng kêu than ai oán của họ. Mẹ muốn trao ban cho mọi người phương thuốc chữa trị các nỗi đau đớn, các khó khăn cùng các sầu khổ buồn phiền. Và để có thể thực hiện các nguyện ước khoan nhân của Mẹ, con hãy đi tới tòa Giám Mục Mễ Tây Cơ và thưa với Đức Giám Mục rằng, chính Mẹ sai con tới và Mẹ ước ao người ta xây cho Mẹ một đền thánh trên ngọn đồi này. Con hãy kể lại tỉ mỉ cho Đức Giám Mục tất cả những gì con thấy và nghe. Con hãy tin chắc rằng, Mẹ sẽ nhớ ơn con, Mẹ sẽ ban thưởng cho con. Mẹ sẽ làm cho con được hạnh phúc và con, con sẽ xứng đáng với phần thưởng, dành cho các cố gắng và các nhọc mệt con hy sinh để chu toàn sứ mệnh Mẹ trao phó. Đấy nhé, con đã nghe rõ mệnh lệnh của Mẹ, hỡi con Mẹ, đứa con nhỏ bé nhất trong tất cả các con Mẹ. Bây giờ con hãy đi và dùng trọn sức lực để thi hành công tác.
Thổ dân Juan Diego kính cẩn cúi mình nói:
- Thưa Bà, con sẽ đi ngay và thực hiện lệnh Bà truyền. Giờ đây đứa đầy tớ khiêm hạ của Bà xin được phép lui gót.
Ông Juan Diego mau mắn xuống khỏi đồi và trực chỉ thành phố Mễ Tây Cơ. Vào thành, ông đi thẳng đến tòa Giám Mục. Vị Giám Mục sở tại lúc bấy giờ là Đức Cha Juan de Zumárraga thuộc dòng Anh Em hèn mọn thánh Phanxicô. Juan Diego xin gặp Đức Cha và thưa với ngài về sứ điệp của Bà Đẹp Thiên Quốc. Nhưng Đức Cha không tin lời ông nói. Juan Diego buồn bã ra về, lòng thất vọng vì nhiệm vụ giao phó không hoàn thành.
4. LẦN HIỆN RA THỨ HAI
Cùng ngày thứ bảy 9-12-1531, thổ dân Juan Diego quay trở lại đồi Tepeyac. Khi lên tới đỉnh đồi, Juan Diego trông thấy Bà Đẹp Thiên Quốc đang đứng chờ mình. Ông quỳ sụp xuống và nói:
- Thưa Bà, con đã mang sứ điệp của Bà đến cho Đức Giám Mục. Ngài ưu ái lắng nghe con nói, nhưng ngài không tin lời con. Có lẽ ngài nghĩ là con bịa chuyện. Vì vậy, con tha thiết xin Bà, xin Bà hãy trao phó nhiệm vụ này cho một người khác quan trọng hơn. Có thế, Đức Giám Mục mới tin. Bởi vì con chỉ là người chót bét, một sợi dây mỏng manh, một chiếc thang bằng gỗ, một cái đuôi, một mảnh giấy. Con thuộc về một nhóm dân cùng đinh, nghèo khổ, vậy mà Bà lại sai con đến một nơi quá cao xa đối với con, đến một chỗ mà con không bao giờ dám đặt chân tới. Xin Bà tha thứ cho con, nếu con làm phật ý Bà, nếu con làm Bà nổi giận. Hỡi Bà là Bà Chủ của con!
Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trả lời:
- Hỡi người con bé nhỏ nhất của Mẹ, hãy lắng nghe lời Mẹ nói đây. Mẹ biết rõ là có nhiều tôi tớ khác của Mẹ có thể thi hành mệnh lệnh Mẹ truyền. Tuy nhiên, Mẹ rất cần đến sự giúp đỡ của con. Vậy thì, Mẹ truyền cho con trở lại tòa Giám Mục một lần nữa. Ngày mai, con đến tòa Giám Mục và thưa với Đức Cha rằng con đến nhân danh Mẹ và xin ngài xây cất một đền thờ theo ý hướng của Mẹ. Con lập lại với ngài lần nữa rằng chính Mẹ là Đức Trinh Nữ MARIA, Mẹ Thiên Chúa, chính Mẹ đã đích thân sai con đến với ngài.
Thổ dân Juan Diego khiêm tốn thưa:
- Thưa Bà, con không hề muốn làm phiền lòng Bà, con sẽ trung tín thi hành nhiệm vụ Bà trao phó. Con không quản ngại đường xa cũng không lưu ý việc Đức Giám Mục không tin lời con nói. Ngày mai, con sẽ mang đến cho Bà câu trả lời của Đức Giám Mục. Bây giờ xin Bà cho phép con ra đi. Trong khi chờ đợi, xin Bà nghỉ ngơi!
Sáng hôm sau, Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego rời nhà thật sớm đi tới Tlatelolco để tham dự các buổi cử hành phụng vụ. Trong lòng, ông cương quyết tìm mọi cách gặp cho bằng được Đức Giám Mục. Thánh Lễ kết thúc, thổ dân Juan Diego phải nài nĩ mãi người ta mới cho ông được hầu chuyện với vị Giám Mục. Ông quì gối trước mặt Đức Giám Mục, vừa khóc ông vừa lập lại lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông khẩn khoản xin Đức Giám Mục tin lời ông. Ông tha thiết xin ngài chấp thuận thi hành ước nguyện của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm.
Với mục đích kiểm chứng thực hư, Đức Cha Juan de Zumárraga đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi. Thổ dân Juan Diego kiên nhẫn trả lời rõ ràng từng câu một, thật chính xác. Sau khi tỉ mỉ tra vấn, Đức Giám Mục truyền cho ông Juan Diego phải xin Bà Đẹp Thiên Quốc tỏ lộ một “dấu chỉ”. Mặt khác, ngài còn cẩn thận sai vài người giúp việc nơi tòa Giám Mục hãy đi theo ông Juan Diego xa xa, và theo dõi mọi hành động của ông. Thế nhưng, khi đến chân đồi Tepeyac thì những người này không còn trông thấy bóng dáng thổ dân Juan Diego đâu nữa.
5. LẦN HIỆN RA THỨ BA
Cùng ngày Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego lên đồi trình bày với Đức Mẹ về câu trả lời của Đức Giám Mục. Nghe xong, Đức Mẹ liền nói:
- Hỡi con bé nhỏ của Mẹ, con đã thi hành tốt đẹp lệnh truyền của Mẹ. Được rồi. Ngày mai con hãy trở lại đây để đón nhận “dấu chỉ” mà vị Giám Mục xin. Như thế, ngài sẽ tin lời Mẹ, sẽ không hoài nghi cũng không còn ngờ vực con nữa. Phần con, con luôn ghi nhớ rằng Mẹ sẽ trả công bội hậu cho con vì tất cả khó nhọc con dành để phục vụ Mẹ. Giờ đây con hãy chạy nhanh về đi. Ngày mai Mẹ đợi con cũng nơi ngọn đồi này!
Ngày hôm sau, thứ hai 11-12-1531, thổ dân Juan Diego không đến nơi hẹn với Đức Trinh Nữ. Lý do vì chiều Chúa Nhật hôm trước, khi về đến nhà, ông Juan Diego trông thấy người chú Juan Bernardino lâm bệnh nặng. Ông Juan Diego vội vã chạy đi tìm thầy thuốc đến chữa bệnh cho chú. Thầy thuốc đến ngay. Nhưng cơn bệnh đã đến hồi trầm trọng, vô phương cứu chữa. Biết thế, ông chú liền xin Juan Diego đi mời Linh Mục đến, để ông được lãnh nhận các phép Bí Tích sau cùng và dọn mình chết lành.
6. LẦN HIỆN RA THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM
Sáng tinh sương ngày thứ ba 12-12-1531, ông Juan Diego nhanh nhẹn đi đến Tlatecolco để mời Linh Mục cho chú. Ông cẩn thận chọn một con đường khác, đi vòng quanh ngọn đồi về hướng đông, để có thể vào ngay thành phố Mễ Tây Cơ, và khỏi bị Bà Đẹp Thiên Quốc giữ lại nói chuyện! Tuy nhiên, ông Juan Diego rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Bà Đẹp từ trên đồi đi xuống. Khi đến gần, Bà hỏi ông Juan Diego:
- Có chuyện gì xảy ra vậy con? Con đang đi đâu đó?
Thổ dân Juan Diego cảm thấy vừa sợ hãi vừa xấu hổ thẹn thùng. Ông nghiêng mình thưa:
- Con hy vọng Bà hài lòng! Sáng nay Bà có cảm thấy dễ chịu không? Sức khoẻ Bà như thế nào? Con biết Bà sẽ phật ý. Nhưng xin Bà hiểu cho rằng, chú con bị bệnh nặng vì bị lây bệnh dịch hạch. Con đi mời Linh Mục đến giải tội cho chú con. Xin Bà thứ lỗi cho con. Xin Bà vui lòng chờ đợi con. Con không đánh lừa Bà đâu. Ngày mai con sẽ đến đây thật sớm để gặp Bà!
Sau khi lặng lẽ nghe ông Juan Diego bào chữa một hơi dài, Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA Nhân Từ dịu dàng trả lời:
- Con hãy lắng nghe và hiểu cho kỹ, hỡi đứa con bé nhỏ nhất của Mẹ. Con đừng xao xuyến trong lòng. Con đừng lo lắng về bệnh tình của chú con cũng như về bất cứ điều gì không may sẽ xảy ra. Mẹ đang có mặt nơi đây, không như là Người Mẹ của con sao? Con không tìm thấy an nghỉ dưới bóng rợp mát của Mẹ sao? Mẹ không phải là sức khỏe của con sao? Con không được Mẹ ấp ủ sao? Hãy nói cho Mẹ biết con đang cần gì? Con chớ nên âu lo và buồn phiền, ngay cả bệnh tình trầm trọng của chú con. Bởi vì chú con chưa chết bây giờ đâu. Con hãy tin tưởng vững chắc rằng, ngay chính lúc này đây, chú con sẽ được khỏi bệnh!
Lắng nghe những lời nói dịu dàng của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, thổ dân Juan Diego cảm thấy lòng tràn ngập niềm an ủi. Ông mau mắn leo lên đồi cao, theo lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông hái những đóa hồng Tây-Ban-Nha nở tươi, thơm phức, tuyệt đẹp, ngoại lệ, vì lúc bấy giờ là tháng 12. Thổ dân Juan Diego nhanh nhẹn hái hết và bỏ vào chiếc áo choàng, đan bằng sợi cây xương rồng. Giờ đây ông trở thành vị sứ giả đáng tin cậy. Ông hăng hái trở lại con đường tiến thẳng vào thành phố Mễ Tây Cơ.
Ông Juan Diego vào tòa Giám Mục, quì gối trước mặt Đức Cha Juan de Zumárraga. Thổ dân Juan Diego lập lại sứ điệp của Đức Mẹ MARIA rồi từ từ mở chiếc áo choàng, mà cho đến lúc ấy, ông vẫn còn giữ chặt trước ngực. Vừa khi những đóa hồng tươi rơi xuống đất, tức khắc, xuất hiện trên chiếc áo choàng hình ảnh thật đẹp của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, Mẹ Thiên Chúa.
Vị Giám Mục cùng tất cả những người hiện diện liền sấp mình xuống đất, tôn kính hình ảnh lạ được Đức Mẹ MARIA in trên áo choàng. Vị Giám Mục thật ân hận vì không tin ngay lời thổ dân Juan Diego nói. Ngài muốn giữ chiếc áo choàng lạ nơi nhà nguyện riêng của ngài ở tòa Giám Mục. Ngày hôm sau, Đức Giám Mục cùng với một đoàn người đông đảo, đi hành hương kính viếng nơi Đức Mẹ đã hiện ra trên đồi Tepeyac.
Về phần thổ dân Juan Diego, ngoài hồng phúc được tận mắt trông thấy Đức Mẹ MARIA, ông còn cảm thấy thật sung sướng vì chứng kiến phép lạ đầu tiên thực hiện theo lời hứa của Đức Mẹ. Đó là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của người chú Juan Bernardino. Chính với người chú này - ông Juan Bernardino - mà trong lần hiện ra thứ năm, cũng là lần sau cùng, Đức Mẹ tỏ lộ danh thánh:
- Đức Bà Guadalupe.
“Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn”.
Chiếc áo choàng với hình Đức Mẹ MARIA được rước từ nhà nguyện riêng của Đức Giám Mục ra Nhà Thờ Chính Tòa và được trưng bày cho các tín hữu đến kính viếng. Hơn 2 tuần sau, ngày 26-12-1531, chiếc áo choàng lạ lại được rước tới nhà nguyện nhỏ đầu tiên do chính các thổ dân xây cất dâng kính Đức Bà Guadalupe trên đồi Tepeyac.
Trong vòng 17 năm trời, tức cho đến ngày nhắm mắt từ trần vào năm 1548, thổ dân Juan Diego sống cạnh đền thánh tí hon này, làm người canh giữ đền thánh. Nhưng nhất là, ông trở thành người đầy tớ đơn sơ khiêm hạ, trở thành vị chứng nhân và tông đồ nhiệt thành của Đức Bà Guadalupe.
Cuộc hiện ra của Đức Bà Guadalupe với thổ dân Juan Diego đã ghi dấu ấn sâu đậm nơi cuộc sống người dân Mễ Tây Cơ. Đức Bà Guadalupe trở thành biểu tượng sức mạnh của kẻ bé nhỏ, yếu đuối và là niềm hy vọng của tất cả những ai đang lo âu sầu khổ.
Hình ảnh Đức Mẹ MARIA in trên áo choàng vẫn còn trông thấy rõ ràng mãi cho đến ngày nay, sau 480 năm. Chiếc áo choàng hiện được tôn kính nơi đền thánh trên đồi Tepeyac. Đền thánh mang tên Đức Bà Guadalupe.
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe là Trung Tâm Thánh Mẫu lớn nhất thế giới. Mỗi năm có khoảng 20 triệu tín hữu đến hành hương.
Đức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng bổn mạng nước Mễ Tây Cơ vào năm 1737, bổn mạng toàn Mỹ Châu vào năm 1910 và bổn mạng nước Phi-Luật-Tân vào năm 1935.
Trong chương trình hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu với quý vị và anh chị em bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi lễ này. Sau đó, chương trình sẽ được dành để giới thiệu về lịch sử của ngày lễ ấy.
1. Bài giảng của Đức Thánh Cha tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói rằng phụng vụ lễ kính Đức Mẹ Guadalupe và hình ảnh Đức Mẹ La Morenita được trưng bày trên bàn thờ, gợi lên cho ngài 3 tính từ. Ba tính từ này giải thích về bản tính của Mẹ Maria: người nữ, người mẹ và “người lai”.
Mẹ Maria là một người nữ. Đức Thánh Cha nói rằng trong khi các Kitô hữu tôn vinh Mẹ Maria với nhiều tước hiệu, không có điều gì khác cần hơn là nhớ rằng Mẹ là một phụ nữ của sự thánh thiện, một mẫu gương cho mọi người nữ, một môn đệ trung thành của Chúa Kitô. Mẹ khiêm nhường và trung thành với Thầy của Mẹ, với Con của Mẹ, “Đấng Cứu độ duy nhất”. Mẹ không bao giờ xem mình là đấng đồng Cứu chuộc nhưng như một môn đệ phục vụ Đấng Cứu độ.
Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. “Mẹ là Mẹ của chúng ta, Mẹ của các dân tộc chúng ta... Mẹ của con tim chúng ta.” Mẹ không chỉ là Mẹ của Giáo hội mà còn là hình ảnh của Giáo hội. Do đó “những gì nói về Mẹ Maria cũng có thể được nói về Giáo hội, có nữ tính.” Đức Thánh Cha khẳng định rằng Giáo hội không thể được hiểu khác với ý nghĩa về Thánh mẫu học này. Đây là điều quan trọng để hiểu vai trò của người nữ trong Giáo hội. Nếu chỉ hiểu vai trò của người nữ dưới khía cạnh chức năng thì đó là sự hiểu biết khiếm khuyết.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói rằng Đức Mẹ Guadalupe muốn được xem như là một “người lai”, không chỉ với thánh Juan Diego, để cho thấy rằng Mẹ là Mẹ của mọi người. Mẹ Maria nói với chúng ta như nói với thánh Juan Diego, cách dịu dàng, như một người mẹ. Và Đức Thánh Cha kết luận rằng Mẹ Maria hiện ra như một “người lai” để nói rằng Con của Mẹ cũng là một “người lai”: Người là Thiên Chúa và là người.
2. Lịch sử ngày lễ Đức Mẹ Guadalupe.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong chuyến tông du Mễ Tây Cơ lần thứ hai, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng thổ dân Juan Diego (1474-1548) lên hàng Chân Phước vào Chúa Nhật 6 tháng 5,1990. Hôm ấy, Đức Thánh Cha âu yếm gọi tân chân phước là “người tâm phúc của Đức Bà dịu hiền Tepeyac”. Thổ dân Juan Diego được Đức Mẹ Guadalupe hiện ra 5 lần vào năm 1531.
12 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sang thủ đô Mễ Tây Cơ lần thứ năm và chủ sự lễ tôn phong hiển thánh cho chân phước thổ dân Juan Diego vào ngày 31 tháng 7, 2002.
Xin lược thuật 5 lần Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA hiện ra cùng thổ dân Juan Diego trên đồi Tepeyac. Lần đầu vào sáng thứ bảy 9-12-1531 và lần cuối vào chiều thứ ba 12-12-1531. Trong lần hiện ra sau cùng, Đức Mẹ MARIA tỏ lộ danh thánh là “Đức Bà Guadalupe”. “Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn”.
Các cuộc hiện ra được thổ dân Antonio Valeriano (1520-1605) kể lại tỉ mỉ. Thổ dân Antonio Valeriano sống đồng thời với thổ dân Juan Diego. Vào năm 1531, thổ dân Juan Diego 57 tuổi và thuộc về nhóm thổ dân thiểu số rất ít người. Trước đó 7 năm, ông Juan Diego lãnh bí tích Rửa Tội cùng với người vợ hiền đức là bà Maria Lucia. Bà Maria Lucia qua đời năm 1529.
3. LẦN HIỆN RA THỨ NHẤT
Hôm đó là sáng thứ bảy 9-12-1531, ông Juan Diego đến nhà thờ Thánh Giá ở Tlatelolco để tham dự buổi học giáo lý. Khi đến gần đồi Tepeyac, ông nghe tiếng líu lo êm ái, tiếng ríu rít nhẹ nhàng, với các cung trầm bổng tuyệt vời của muôn ngàn chim sẻ, như tiếng nhạc réo rắt vọng xuống từ trời cao. Thổ dân Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ. Ông dồn dập tự hỏi: “Liệu mình có xứng đáng với những gì đang nghe không? Hay mình đang mơ? Mình đã tỉnh hẳn chưa? Mình đang ở nơi nào đây? Có lẽ mình đang ở địa đàng, nơi cõi trần hạnh phúc mà các bậc tiên tổ đã nói tới chăng? Hay là mình đã vào thiên đàng rồi?” Còn đang đảo mắt nhìn chung quanh, bỗng tiếng hót im bặt và ông nghe một tiếng nói xa xôi, vọng xuống từ trên cao và gọi rõ tên ông:
- Juan Diego, Juan Diego bé nhỏ!
Juan Diego không hề cảm thấy sợ hãi, trái lại, ông sung sướng tiến nhanh về hướng đồi cao. Khi leo lên tới đỉnh, Juan Diego trông thấy một Bà đang đứng đó. Bà ra hiệu mời Juan Diego tiến lại gần Bà. Khi đến trước mặt Bà, Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ và kinh ngạc trước vẽ đẹp siêu thoát của Bà. Áo Bà long lanh các tia sáng mặt trời. Tảng đá nơi Bà đặt chân như toàn bằng đá quí và mặt đất chung quanh Bà tỏa sáng như cầu vòng.
Thổ dân Juan Diego kính cẩn quì xuống và cảm động lắng nghe lời Bà nói cách êm ái dịu dàng:
- Hỡi Juan bé nhỏ, người con nhỏ bé nhất trong các con Mẹ, con đang đi đâu đấy?
Juan Diego trả lời:
- Thưa Bà, con phải đến Nhà Bà ở Messico-Tlatelolco để tiếp tục học về các mầu nhiệm của Thiên Chúa do các Linh Mục dạy. Các Linh Mục là các thừa tác viên thánh của Chúa chúng ta.
Bà Đẹp liền bày tỏ cùng Juan Diego ước muốn của Bà:
- Con hãy cẩn trọng ghi khắc nơi lòng con rằng con là người bé mọn nhất trong các con của Mẹ, và Mẹ chính là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, Mẹ Thiên Chúa thật, Đấng là suối nguồn sự sống, là Đấng Tạo Dựng muôn loài. Ngài là Chủ Tể trên trời và dưới đất. Mẹ hết sức mong ước người ta xây cất nơi đây một đền thánh, hầu Mẹ có thể minh chứng và trao ban cho mọi người tình thương của Mẹ, lòng cảm thông, sự trợ giúp và che chở của Mẹ. Bởi vì, Mẹ là Mẹ Từ Bi của các con, Mẹ của riêng con, cũng như của toàn dân sống trên phần đất này và của tất cả những ai thành khẩn kêu cầu cùng Mẹ với trọn lòng tin tưởng. Mẹ nghe rõ tiếng kêu than ai oán của họ. Mẹ muốn trao ban cho mọi người phương thuốc chữa trị các nỗi đau đớn, các khó khăn cùng các sầu khổ buồn phiền. Và để có thể thực hiện các nguyện ước khoan nhân của Mẹ, con hãy đi tới tòa Giám Mục Mễ Tây Cơ và thưa với Đức Giám Mục rằng, chính Mẹ sai con tới và Mẹ ước ao người ta xây cho Mẹ một đền thánh trên ngọn đồi này. Con hãy kể lại tỉ mỉ cho Đức Giám Mục tất cả những gì con thấy và nghe. Con hãy tin chắc rằng, Mẹ sẽ nhớ ơn con, Mẹ sẽ ban thưởng cho con. Mẹ sẽ làm cho con được hạnh phúc và con, con sẽ xứng đáng với phần thưởng, dành cho các cố gắng và các nhọc mệt con hy sinh để chu toàn sứ mệnh Mẹ trao phó. Đấy nhé, con đã nghe rõ mệnh lệnh của Mẹ, hỡi con Mẹ, đứa con nhỏ bé nhất trong tất cả các con Mẹ. Bây giờ con hãy đi và dùng trọn sức lực để thi hành công tác.
Thổ dân Juan Diego kính cẩn cúi mình nói:
- Thưa Bà, con sẽ đi ngay và thực hiện lệnh Bà truyền. Giờ đây đứa đầy tớ khiêm hạ của Bà xin được phép lui gót.
Ông Juan Diego mau mắn xuống khỏi đồi và trực chỉ thành phố Mễ Tây Cơ. Vào thành, ông đi thẳng đến tòa Giám Mục. Vị Giám Mục sở tại lúc bấy giờ là Đức Cha Juan de Zumárraga thuộc dòng Anh Em hèn mọn thánh Phanxicô. Juan Diego xin gặp Đức Cha và thưa với ngài về sứ điệp của Bà Đẹp Thiên Quốc. Nhưng Đức Cha không tin lời ông nói. Juan Diego buồn bã ra về, lòng thất vọng vì nhiệm vụ giao phó không hoàn thành.
4. LẦN HIỆN RA THỨ HAI
Cùng ngày thứ bảy 9-12-1531, thổ dân Juan Diego quay trở lại đồi Tepeyac. Khi lên tới đỉnh đồi, Juan Diego trông thấy Bà Đẹp Thiên Quốc đang đứng chờ mình. Ông quỳ sụp xuống và nói:
- Thưa Bà, con đã mang sứ điệp của Bà đến cho Đức Giám Mục. Ngài ưu ái lắng nghe con nói, nhưng ngài không tin lời con. Có lẽ ngài nghĩ là con bịa chuyện. Vì vậy, con tha thiết xin Bà, xin Bà hãy trao phó nhiệm vụ này cho một người khác quan trọng hơn. Có thế, Đức Giám Mục mới tin. Bởi vì con chỉ là người chót bét, một sợi dây mỏng manh, một chiếc thang bằng gỗ, một cái đuôi, một mảnh giấy. Con thuộc về một nhóm dân cùng đinh, nghèo khổ, vậy mà Bà lại sai con đến một nơi quá cao xa đối với con, đến một chỗ mà con không bao giờ dám đặt chân tới. Xin Bà tha thứ cho con, nếu con làm phật ý Bà, nếu con làm Bà nổi giận. Hỡi Bà là Bà Chủ của con!
Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trả lời:
- Hỡi người con bé nhỏ nhất của Mẹ, hãy lắng nghe lời Mẹ nói đây. Mẹ biết rõ là có nhiều tôi tớ khác của Mẹ có thể thi hành mệnh lệnh Mẹ truyền. Tuy nhiên, Mẹ rất cần đến sự giúp đỡ của con. Vậy thì, Mẹ truyền cho con trở lại tòa Giám Mục một lần nữa. Ngày mai, con đến tòa Giám Mục và thưa với Đức Cha rằng con đến nhân danh Mẹ và xin ngài xây cất một đền thờ theo ý hướng của Mẹ. Con lập lại với ngài lần nữa rằng chính Mẹ là Đức Trinh Nữ MARIA, Mẹ Thiên Chúa, chính Mẹ đã đích thân sai con đến với ngài.
Thổ dân Juan Diego khiêm tốn thưa:
- Thưa Bà, con không hề muốn làm phiền lòng Bà, con sẽ trung tín thi hành nhiệm vụ Bà trao phó. Con không quản ngại đường xa cũng không lưu ý việc Đức Giám Mục không tin lời con nói. Ngày mai, con sẽ mang đến cho Bà câu trả lời của Đức Giám Mục. Bây giờ xin Bà cho phép con ra đi. Trong khi chờ đợi, xin Bà nghỉ ngơi!
Sáng hôm sau, Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego rời nhà thật sớm đi tới Tlatelolco để tham dự các buổi cử hành phụng vụ. Trong lòng, ông cương quyết tìm mọi cách gặp cho bằng được Đức Giám Mục. Thánh Lễ kết thúc, thổ dân Juan Diego phải nài nĩ mãi người ta mới cho ông được hầu chuyện với vị Giám Mục. Ông quì gối trước mặt Đức Giám Mục, vừa khóc ông vừa lập lại lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông khẩn khoản xin Đức Giám Mục tin lời ông. Ông tha thiết xin ngài chấp thuận thi hành ước nguyện của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm.
Với mục đích kiểm chứng thực hư, Đức Cha Juan de Zumárraga đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi. Thổ dân Juan Diego kiên nhẫn trả lời rõ ràng từng câu một, thật chính xác. Sau khi tỉ mỉ tra vấn, Đức Giám Mục truyền cho ông Juan Diego phải xin Bà Đẹp Thiên Quốc tỏ lộ một “dấu chỉ”. Mặt khác, ngài còn cẩn thận sai vài người giúp việc nơi tòa Giám Mục hãy đi theo ông Juan Diego xa xa, và theo dõi mọi hành động của ông. Thế nhưng, khi đến chân đồi Tepeyac thì những người này không còn trông thấy bóng dáng thổ dân Juan Diego đâu nữa.
5. LẦN HIỆN RA THỨ BA
Cùng ngày Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego lên đồi trình bày với Đức Mẹ về câu trả lời của Đức Giám Mục. Nghe xong, Đức Mẹ liền nói:
- Hỡi con bé nhỏ của Mẹ, con đã thi hành tốt đẹp lệnh truyền của Mẹ. Được rồi. Ngày mai con hãy trở lại đây để đón nhận “dấu chỉ” mà vị Giám Mục xin. Như thế, ngài sẽ tin lời Mẹ, sẽ không hoài nghi cũng không còn ngờ vực con nữa. Phần con, con luôn ghi nhớ rằng Mẹ sẽ trả công bội hậu cho con vì tất cả khó nhọc con dành để phục vụ Mẹ. Giờ đây con hãy chạy nhanh về đi. Ngày mai Mẹ đợi con cũng nơi ngọn đồi này!
Ngày hôm sau, thứ hai 11-12-1531, thổ dân Juan Diego không đến nơi hẹn với Đức Trinh Nữ. Lý do vì chiều Chúa Nhật hôm trước, khi về đến nhà, ông Juan Diego trông thấy người chú Juan Bernardino lâm bệnh nặng. Ông Juan Diego vội vã chạy đi tìm thầy thuốc đến chữa bệnh cho chú. Thầy thuốc đến ngay. Nhưng cơn bệnh đã đến hồi trầm trọng, vô phương cứu chữa. Biết thế, ông chú liền xin Juan Diego đi mời Linh Mục đến, để ông được lãnh nhận các phép Bí Tích sau cùng và dọn mình chết lành.
6. LẦN HIỆN RA THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM
Sáng tinh sương ngày thứ ba 12-12-1531, ông Juan Diego nhanh nhẹn đi đến Tlatecolco để mời Linh Mục cho chú. Ông cẩn thận chọn một con đường khác, đi vòng quanh ngọn đồi về hướng đông, để có thể vào ngay thành phố Mễ Tây Cơ, và khỏi bị Bà Đẹp Thiên Quốc giữ lại nói chuyện! Tuy nhiên, ông Juan Diego rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Bà Đẹp từ trên đồi đi xuống. Khi đến gần, Bà hỏi ông Juan Diego:
- Có chuyện gì xảy ra vậy con? Con đang đi đâu đó?
Thổ dân Juan Diego cảm thấy vừa sợ hãi vừa xấu hổ thẹn thùng. Ông nghiêng mình thưa:
- Con hy vọng Bà hài lòng! Sáng nay Bà có cảm thấy dễ chịu không? Sức khoẻ Bà như thế nào? Con biết Bà sẽ phật ý. Nhưng xin Bà hiểu cho rằng, chú con bị bệnh nặng vì bị lây bệnh dịch hạch. Con đi mời Linh Mục đến giải tội cho chú con. Xin Bà thứ lỗi cho con. Xin Bà vui lòng chờ đợi con. Con không đánh lừa Bà đâu. Ngày mai con sẽ đến đây thật sớm để gặp Bà!
Sau khi lặng lẽ nghe ông Juan Diego bào chữa một hơi dài, Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA Nhân Từ dịu dàng trả lời:
- Con hãy lắng nghe và hiểu cho kỹ, hỡi đứa con bé nhỏ nhất của Mẹ. Con đừng xao xuyến trong lòng. Con đừng lo lắng về bệnh tình của chú con cũng như về bất cứ điều gì không may sẽ xảy ra. Mẹ đang có mặt nơi đây, không như là Người Mẹ của con sao? Con không tìm thấy an nghỉ dưới bóng rợp mát của Mẹ sao? Mẹ không phải là sức khỏe của con sao? Con không được Mẹ ấp ủ sao? Hãy nói cho Mẹ biết con đang cần gì? Con chớ nên âu lo và buồn phiền, ngay cả bệnh tình trầm trọng của chú con. Bởi vì chú con chưa chết bây giờ đâu. Con hãy tin tưởng vững chắc rằng, ngay chính lúc này đây, chú con sẽ được khỏi bệnh!
Lắng nghe những lời nói dịu dàng của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, thổ dân Juan Diego cảm thấy lòng tràn ngập niềm an ủi. Ông mau mắn leo lên đồi cao, theo lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông hái những đóa hồng Tây-Ban-Nha nở tươi, thơm phức, tuyệt đẹp, ngoại lệ, vì lúc bấy giờ là tháng 12. Thổ dân Juan Diego nhanh nhẹn hái hết và bỏ vào chiếc áo choàng, đan bằng sợi cây xương rồng. Giờ đây ông trở thành vị sứ giả đáng tin cậy. Ông hăng hái trở lại con đường tiến thẳng vào thành phố Mễ Tây Cơ.
Ông Juan Diego vào tòa Giám Mục, quì gối trước mặt Đức Cha Juan de Zumárraga. Thổ dân Juan Diego lập lại sứ điệp của Đức Mẹ MARIA rồi từ từ mở chiếc áo choàng, mà cho đến lúc ấy, ông vẫn còn giữ chặt trước ngực. Vừa khi những đóa hồng tươi rơi xuống đất, tức khắc, xuất hiện trên chiếc áo choàng hình ảnh thật đẹp của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, Mẹ Thiên Chúa.
Vị Giám Mục cùng tất cả những người hiện diện liền sấp mình xuống đất, tôn kính hình ảnh lạ được Đức Mẹ MARIA in trên áo choàng. Vị Giám Mục thật ân hận vì không tin ngay lời thổ dân Juan Diego nói. Ngài muốn giữ chiếc áo choàng lạ nơi nhà nguyện riêng của ngài ở tòa Giám Mục. Ngày hôm sau, Đức Giám Mục cùng với một đoàn người đông đảo, đi hành hương kính viếng nơi Đức Mẹ đã hiện ra trên đồi Tepeyac.
Về phần thổ dân Juan Diego, ngoài hồng phúc được tận mắt trông thấy Đức Mẹ MARIA, ông còn cảm thấy thật sung sướng vì chứng kiến phép lạ đầu tiên thực hiện theo lời hứa của Đức Mẹ. Đó là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của người chú Juan Bernardino. Chính với người chú này - ông Juan Bernardino - mà trong lần hiện ra thứ năm, cũng là lần sau cùng, Đức Mẹ tỏ lộ danh thánh:
- Đức Bà Guadalupe.
“Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn”.
Chiếc áo choàng với hình Đức Mẹ MARIA được rước từ nhà nguyện riêng của Đức Giám Mục ra Nhà Thờ Chính Tòa và được trưng bày cho các tín hữu đến kính viếng. Hơn 2 tuần sau, ngày 26-12-1531, chiếc áo choàng lạ lại được rước tới nhà nguyện nhỏ đầu tiên do chính các thổ dân xây cất dâng kính Đức Bà Guadalupe trên đồi Tepeyac.
Trong vòng 17 năm trời, tức cho đến ngày nhắm mắt từ trần vào năm 1548, thổ dân Juan Diego sống cạnh đền thánh tí hon này, làm người canh giữ đền thánh. Nhưng nhất là, ông trở thành người đầy tớ đơn sơ khiêm hạ, trở thành vị chứng nhân và tông đồ nhiệt thành của Đức Bà Guadalupe.
Cuộc hiện ra của Đức Bà Guadalupe với thổ dân Juan Diego đã ghi dấu ấn sâu đậm nơi cuộc sống người dân Mễ Tây Cơ. Đức Bà Guadalupe trở thành biểu tượng sức mạnh của kẻ bé nhỏ, yếu đuối và là niềm hy vọng của tất cả những ai đang lo âu sầu khổ.
Hình ảnh Đức Mẹ MARIA in trên áo choàng vẫn còn trông thấy rõ ràng mãi cho đến ngày nay, sau 480 năm. Chiếc áo choàng hiện được tôn kính nơi đền thánh trên đồi Tepeyac. Đền thánh mang tên Đức Bà Guadalupe.
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe là Trung Tâm Thánh Mẫu lớn nhất thế giới. Mỗi năm có khoảng 20 triệu tín hữu đến hành hương.
Đức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng bổn mạng nước Mễ Tây Cơ vào năm 1737, bổn mạng toàn Mỹ Châu vào năm 1910 và bổn mạng nước Phi-Luật-Tân vào năm 1935.