Phụng Vụ - Mục Vụ
Đêm An Bình
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
01:08 18/12/2013
THÁNH LỄ GIÁNG SINH ĐÊM
Lc 1,1-14
ĐÊM AN BÌNH
Đêm nay toàn thể nhân loại, đặc biệt những người có đức tin luôn hướng về Bêlem không phải với óc tưởng tượng mà đi về Hang Đá Máng Lừa như niềm tin sâu sắc của những người có Chúa là Cha,là gia nghiệp cho đời mình.Bởi vì, nếu Thiên Chúa không sai Con của Người là Chúa Giêsu đến trần gian mặc xác phàm trở thành con người, sống kiếp con người, ngoại trừ tội lỗi thì nhân loại vẫn chìm trong u tối, chìm trong tội lỗi vì ông bà nguyên tổ phạm tội đem sự chết vào trần gian. Chỉ có Đức Kitô, Đấng Cứu Tinh mới có thể tái lập được vinh quang Thiên Chúa và đem lại bình an cho con người trên mặt đất này.
Đêm nay, Hài Đồng Giêsu đã được sinh ra trong Hang Đá Bêlem, bình an từ trời cao đã đến với chúng ta. Con Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Thế Giêsu đã đi vào lịch sử nhân loại, Ngài đã giáng sinh để đem lại cho nhân loại ơn tái sinh trong ơn thánh. Đêm nay đất trời se kết, Chúa Cứu Thế đã gặp con người và con người đã gặp Ngài. Chúng ta hãy đến Bêlem với đức tin sâu xa, với lòng yêu mến. Chúng ta hãy đi theo các mục đồng, các nhà đạo sĩ và những ai có tâm hồn đơn sơ bé mọn. Đến Hang Đá để chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu bởi vì Emmanuen, Thiên Chúa-Ở-Với-Con-Người đang im lặng nằm trong máng lừa, Ngài dạy chúng ta bài học khiêm hạ, bài học khó nghèo.Tất cả ba nhân vật Mẹ Maria, Hài Đồng Giêsu và thánh cả Giuse đều im lặng. Đây là sự kỳ diệu của đêm Giáng Sinh. Đây là đêm linh thánh. Biến cố đêm Giáng Sinh được coi như một lời để nhìn, một lời để loan báo, một lời để suy niệm và giữ mãi trong lòng. Hài Nhi Giêsu im lặng. Tất cả đều yên lặng. Bầu khí đêm Giáng Sinh là một bầu khí linh thánh, bầu khí thánh thiêng nhưng mang một ý nghĩa tuyệt vời. Mẹ Maria và thánh cả Giuse chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu. Trong sự im lặng thánh, chúng ta hiểu được mầu nhiệm Giáng Sinh vì Giáng Sinh đang thực sự nói với chúng ta. Chúng ta sẽ lãnh nhận được ánh sáng của Con Thiên Chúa làm người nếu chúng ta biết trở nên nghèo khó như Chúa Giêsu nghèo khó và khiêm tốn đón nhận Ngài, thì Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta quyền làm Con Thiên Chúa và làm anh em đích thực với nhau.
Chúa Kitô đã đến giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban bình an cho chúng ta:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương “ ( Lc 2, 14 ). Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra chính chúng ta bởi vì Chúa đồng hóa với người nghèo, người bé nhỏ, kẻ khiêm nhu vv…Do đó, đến với Hài Đồng Giêsu chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy . Đêm Giáng Sinh nói cho nhận loại hiểu Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương loài người. Lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã tặng ban cho nhân loại người Con Một Yêu Dấu để chia sẻ kiếp sống con người, để cứu chuộc con người. Ngài muốn chúng ta đáp trả lại tình yêu của Ngài và chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta hãy đến gần máng cỏ, hãy đến Bêlem với đức tin sống động để hiểu tình yêu của Chúa Giêsu.
Xin mượn bài thơ sau đây để nói lên niềm vui Giáng Sinh:
Noel đã về rồi
Cao nguyên đêm lạnh giá
Mẹ Maria sinh hạ
Đấng Cứu Thế Giêsu
Giữa mùa đông gió rét
Mục đồng nghe sứ thần
Loan tin vui rạng rỡ
Vội đi đến Bêlem
Chúa Hài Nhi nằm đó
Trong Hang Đá máng lừa
Mình bọc khăn vải trắng
Bò lừa đang thở hơi
Trên không trung rạng ngời
Biết bao đoàn thiên sứ
Hát vang khắp đất trời
Vinh danh Chúa Cứu Thế
Bình an người lòng ngay.
Xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con sẵn sàng dọn máng cỏ tâm hồn thật đẹp cho Hài Đồng Giêsu ngự. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Đêm Giáng Sinh có ý nghĩa gì đối với chúng ta ?
2.Bầu khí Giáng Sinh nói gì với mỗi người chúng ta ?
Lc 1,1-14
ĐÊM AN BÌNH
Đêm nay toàn thể nhân loại, đặc biệt những người có đức tin luôn hướng về Bêlem không phải với óc tưởng tượng mà đi về Hang Đá Máng Lừa như niềm tin sâu sắc của những người có Chúa là Cha,là gia nghiệp cho đời mình.Bởi vì, nếu Thiên Chúa không sai Con của Người là Chúa Giêsu đến trần gian mặc xác phàm trở thành con người, sống kiếp con người, ngoại trừ tội lỗi thì nhân loại vẫn chìm trong u tối, chìm trong tội lỗi vì ông bà nguyên tổ phạm tội đem sự chết vào trần gian. Chỉ có Đức Kitô, Đấng Cứu Tinh mới có thể tái lập được vinh quang Thiên Chúa và đem lại bình an cho con người trên mặt đất này.
Đêm nay, Hài Đồng Giêsu đã được sinh ra trong Hang Đá Bêlem, bình an từ trời cao đã đến với chúng ta. Con Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Thế Giêsu đã đi vào lịch sử nhân loại, Ngài đã giáng sinh để đem lại cho nhân loại ơn tái sinh trong ơn thánh. Đêm nay đất trời se kết, Chúa Cứu Thế đã gặp con người và con người đã gặp Ngài. Chúng ta hãy đến Bêlem với đức tin sâu xa, với lòng yêu mến. Chúng ta hãy đi theo các mục đồng, các nhà đạo sĩ và những ai có tâm hồn đơn sơ bé mọn. Đến Hang Đá để chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu bởi vì Emmanuen, Thiên Chúa-Ở-Với-Con-Người đang im lặng nằm trong máng lừa, Ngài dạy chúng ta bài học khiêm hạ, bài học khó nghèo.Tất cả ba nhân vật Mẹ Maria, Hài Đồng Giêsu và thánh cả Giuse đều im lặng. Đây là sự kỳ diệu của đêm Giáng Sinh. Đây là đêm linh thánh. Biến cố đêm Giáng Sinh được coi như một lời để nhìn, một lời để loan báo, một lời để suy niệm và giữ mãi trong lòng. Hài Nhi Giêsu im lặng. Tất cả đều yên lặng. Bầu khí đêm Giáng Sinh là một bầu khí linh thánh, bầu khí thánh thiêng nhưng mang một ý nghĩa tuyệt vời. Mẹ Maria và thánh cả Giuse chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu. Trong sự im lặng thánh, chúng ta hiểu được mầu nhiệm Giáng Sinh vì Giáng Sinh đang thực sự nói với chúng ta. Chúng ta sẽ lãnh nhận được ánh sáng của Con Thiên Chúa làm người nếu chúng ta biết trở nên nghèo khó như Chúa Giêsu nghèo khó và khiêm tốn đón nhận Ngài, thì Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta quyền làm Con Thiên Chúa và làm anh em đích thực với nhau.
Chúa Kitô đã đến giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban bình an cho chúng ta:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương “ ( Lc 2, 14 ). Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra chính chúng ta bởi vì Chúa đồng hóa với người nghèo, người bé nhỏ, kẻ khiêm nhu vv…Do đó, đến với Hài Đồng Giêsu chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy . Đêm Giáng Sinh nói cho nhận loại hiểu Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương loài người. Lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã tặng ban cho nhân loại người Con Một Yêu Dấu để chia sẻ kiếp sống con người, để cứu chuộc con người. Ngài muốn chúng ta đáp trả lại tình yêu của Ngài và chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta hãy đến gần máng cỏ, hãy đến Bêlem với đức tin sống động để hiểu tình yêu của Chúa Giêsu.
Xin mượn bài thơ sau đây để nói lên niềm vui Giáng Sinh:
Noel đã về rồi
Cao nguyên đêm lạnh giá
Mẹ Maria sinh hạ
Đấng Cứu Thế Giêsu
Giữa mùa đông gió rét
Mục đồng nghe sứ thần
Loan tin vui rạng rỡ
Vội đi đến Bêlem
Chúa Hài Nhi nằm đó
Trong Hang Đá máng lừa
Mình bọc khăn vải trắng
Bò lừa đang thở hơi
Trên không trung rạng ngời
Biết bao đoàn thiên sứ
Hát vang khắp đất trời
Vinh danh Chúa Cứu Thế
Bình an người lòng ngay.
Xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con sẵn sàng dọn máng cỏ tâm hồn thật đẹp cho Hài Đồng Giêsu ngự. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Đêm Giáng Sinh có ý nghĩa gì đối với chúng ta ?
2.Bầu khí Giáng Sinh nói gì với mỗi người chúng ta ?
Thánh Giuse trong mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh
Linh mục Fx. Nguyễn Hùng Oánh
08:34 18/12/2013
THÁNH GIUSE TRONG MẦU NHIỆM CHÚA GIÁNG SINH
Xin nhắc lại chu kỳ Kinh Thánh có 3 năm: Năm A là năm có số lẻ 1 (2014 chia cho 3 lẻ 1) đọc Tin Mừng theo Mathêu, năm B có số lẻ 2 (2015 chia cho 3 lẻ 2) đọc Tin Mừng theo Maccô, năm C có số chẵn (2016 chia cho 3), đọc Tin mừng theo Luca.
Tuần tới tuần thứ tư Mùa Vọng, đọc Mathêu 1,18-24 nói về truyền tin Chúa cho Thánh Giu-se. Trước hết, đoạn văn trích dẫn một sự kiện có thực đã xảy ra để trình bày giáo lý, chứng minh rằng Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vid, chứng minh rằng Ngài là Đức Ki-tô, chúng minh rằng nơi Ngài đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh Cựu Ước.
Vì thế, ta thấy Thánh Mathêu giới thiệu đầu tiên gia phả của Chúa Ki-tô và tiếp đến là vai trò của Thánh Giu-se. Thánh Giu-se đính hôn với Đức Maria, và trước khi về chung sống với nhau, Đức Maria đã thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giu-se là người công chính không muốn tiết lộ mầu nhiệm đó, định tâm lìa xa cách kín đáo.
Đoạn văn kể trên nói lên sự trinh khiết của Đức Mẹ và sự công chính của Thánh Giu-se. Công chính như thế nào ? Theo Cựu Ước, người công chính là người tuân giữ hoàn hảo luật Chúa. Việc Thánh Giu-se âm thầm lìa xa Đức Mẹ không đúng luật vì được dạy nếu có tội thì phải tố cáo, nếu li dị phải làm tờ ly hôn có ít là hai người làm chứng. Thế mà Thánh Mathêu nói Thánh Giu-se là người công chính, điều này khiến ta phải hiểu từ ngữ “công chính” ở đây có mức độ cao hơn, vì không phải dựa vào luật lệ, bản văn có khi rơi vào hình thức, máy móc. Nhưng ở đây, ta thấy tinh thần tôn giáo của Thánh Giu-se rất cao: Thánh Giu-se không dám nhận Đức Maria về nhà mình vì ngài biết Đức Maria mang thai do quyền năng của Chúa, ngài không có quyền nhận đứa bé Thánh đó là con của mình. Ngài rút lui trong tâm tình kính sợ Thiên Chúa giống như tiên tri Isaia khiếp sợ trước vinh quang của Chúa, giống như Thánh Phê-rô xin Chúa Giê-su xa đi trước mẻ cá lạ lùng. Từ ngữ “công chính” này cũng đã dùng cho trường hợp Abel.
Tiếp đến, Thánh Giu-se còn đáng được gọi là công chính lần nữa qua việc mau mắn thực hiện sứ mệnh của Thiên Thần truyền cho ngài trong giấc ngủ “đưa Đức Maria về nhà mình” vì lẽ ngài phải từ bỏ ý nghĩ, cách thế ngài thi hành trước sự huyền bí của Đức Maria mang thai, và khi Đức Mẹ sinh Chúa Ki-tô ra, thánh nhân đã đặt tên cho Chúa Hài Nhi là Giê-su tức là nhận mình là “bố” và Chúa Giê-su là “con”, một chuyện đáng sợ ,nhưng vì tuân hành ý Chúa Thánh Giu-se đã làm.
Hậu quả là nhờ sự vâng phục đó, nhờ sự công chính đó, Chúa Ki-tô đã được hội nhập vào dòng dõi Đa-vid. Đức Maria không bị mang tiếng và Lời Chúa được ứng nghiệm (một nữ trinh sẽ sinh con). Như vậy, Thánh Giu-se đã biết tôn trọng ý Chúa hơn ý mình, biết thực hiện ý Chúa trong đời mình.
Dầu đoạn Phúc Âm này Thánh Matthêu có dụng ý nói về Thánh Giu-se phục vụ Chúa Ki-tô, chấp nhận Chúa Ki-tô hội nhập vào loài người, vào dòng dõi Đa-vid, nhưng đoạn Phúc Âm không quên nhắc tới Đức Maria vì Đức Maria đóng vai trò quan trọng hơn Thánh Giu-se, thực hiện trọn lời tiên tri Isaia: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel” nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng vai trò quan trọng nhất là Chúa Ki-tô giáng trần để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Ki-tô là trung tâm điểm của mọi mầu nhiệm Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại. Ngài hạ mình xuống làm người, để Đức Mẹ sinh ra, nhập vào dòng họ Thánh Giu-se, nhờ đó Ngài giống chúng ta, nhờ đó Ngài trở thành Emmanuel.
Thiên Chúa siêu việt vô cùng, con người ta không thể thấy được, không thể cảm được, nhưng nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Ngôi Hai giáng trần làm người, ta thấy được Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa linh thiêng cao vời, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể chúng ta cảm được Thiên Chúa gần gũi chúng ta. Mặt khác, nếu ta hiểu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa hiện diện nơi ta, trong cả phần thâm sau nhất của hữu thể ta, thì dĩ nhiên Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng Kinh Thánh lại nói Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong hoàn cảnh mầu nhiện Nhập Thể là cụ thể nhất, tức là nhấn mạnh tới công trình Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Ki-tô nơi mọi người, công trình xây dựng nhiệm thể của Ngài là Hội Thánh.
Đón tiếp mầu nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm Chúa làm người, là nhận ra ơn Chúa tác động nơi chúng ta, nhận ra ơn Chúa đang kéo nhân loại lên với Chúa. Đón tiếp mầu nhiệm Giáng Sinh, ta phải có thái độ đón ý Chúa như Thánh Giu-se, tức là cưu mang Chúa trong tinh thần và biết Chúa hiện diện trong Hội Thánh, trong mọi người.
Linh mục Fx. Nguyễn Hùng Oánh
Xin nhắc lại chu kỳ Kinh Thánh có 3 năm: Năm A là năm có số lẻ 1 (2014 chia cho 3 lẻ 1) đọc Tin Mừng theo Mathêu, năm B có số lẻ 2 (2015 chia cho 3 lẻ 2) đọc Tin Mừng theo Maccô, năm C có số chẵn (2016 chia cho 3), đọc Tin mừng theo Luca.
Tuần tới tuần thứ tư Mùa Vọng, đọc Mathêu 1,18-24 nói về truyền tin Chúa cho Thánh Giu-se. Trước hết, đoạn văn trích dẫn một sự kiện có thực đã xảy ra để trình bày giáo lý, chứng minh rằng Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vid, chứng minh rằng Ngài là Đức Ki-tô, chúng minh rằng nơi Ngài đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh Cựu Ước.
Vì thế, ta thấy Thánh Mathêu giới thiệu đầu tiên gia phả của Chúa Ki-tô và tiếp đến là vai trò của Thánh Giu-se. Thánh Giu-se đính hôn với Đức Maria, và trước khi về chung sống với nhau, Đức Maria đã thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giu-se là người công chính không muốn tiết lộ mầu nhiệm đó, định tâm lìa xa cách kín đáo.
Đoạn văn kể trên nói lên sự trinh khiết của Đức Mẹ và sự công chính của Thánh Giu-se. Công chính như thế nào ? Theo Cựu Ước, người công chính là người tuân giữ hoàn hảo luật Chúa. Việc Thánh Giu-se âm thầm lìa xa Đức Mẹ không đúng luật vì được dạy nếu có tội thì phải tố cáo, nếu li dị phải làm tờ ly hôn có ít là hai người làm chứng. Thế mà Thánh Mathêu nói Thánh Giu-se là người công chính, điều này khiến ta phải hiểu từ ngữ “công chính” ở đây có mức độ cao hơn, vì không phải dựa vào luật lệ, bản văn có khi rơi vào hình thức, máy móc. Nhưng ở đây, ta thấy tinh thần tôn giáo của Thánh Giu-se rất cao: Thánh Giu-se không dám nhận Đức Maria về nhà mình vì ngài biết Đức Maria mang thai do quyền năng của Chúa, ngài không có quyền nhận đứa bé Thánh đó là con của mình. Ngài rút lui trong tâm tình kính sợ Thiên Chúa giống như tiên tri Isaia khiếp sợ trước vinh quang của Chúa, giống như Thánh Phê-rô xin Chúa Giê-su xa đi trước mẻ cá lạ lùng. Từ ngữ “công chính” này cũng đã dùng cho trường hợp Abel.
Tiếp đến, Thánh Giu-se còn đáng được gọi là công chính lần nữa qua việc mau mắn thực hiện sứ mệnh của Thiên Thần truyền cho ngài trong giấc ngủ “đưa Đức Maria về nhà mình” vì lẽ ngài phải từ bỏ ý nghĩ, cách thế ngài thi hành trước sự huyền bí của Đức Maria mang thai, và khi Đức Mẹ sinh Chúa Ki-tô ra, thánh nhân đã đặt tên cho Chúa Hài Nhi là Giê-su tức là nhận mình là “bố” và Chúa Giê-su là “con”, một chuyện đáng sợ ,nhưng vì tuân hành ý Chúa Thánh Giu-se đã làm.
Hậu quả là nhờ sự vâng phục đó, nhờ sự công chính đó, Chúa Ki-tô đã được hội nhập vào dòng dõi Đa-vid. Đức Maria không bị mang tiếng và Lời Chúa được ứng nghiệm (một nữ trinh sẽ sinh con). Như vậy, Thánh Giu-se đã biết tôn trọng ý Chúa hơn ý mình, biết thực hiện ý Chúa trong đời mình.
Dầu đoạn Phúc Âm này Thánh Matthêu có dụng ý nói về Thánh Giu-se phục vụ Chúa Ki-tô, chấp nhận Chúa Ki-tô hội nhập vào loài người, vào dòng dõi Đa-vid, nhưng đoạn Phúc Âm không quên nhắc tới Đức Maria vì Đức Maria đóng vai trò quan trọng hơn Thánh Giu-se, thực hiện trọn lời tiên tri Isaia: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel” nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng vai trò quan trọng nhất là Chúa Ki-tô giáng trần để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Ki-tô là trung tâm điểm của mọi mầu nhiệm Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại. Ngài hạ mình xuống làm người, để Đức Mẹ sinh ra, nhập vào dòng họ Thánh Giu-se, nhờ đó Ngài giống chúng ta, nhờ đó Ngài trở thành Emmanuel.
Thiên Chúa siêu việt vô cùng, con người ta không thể thấy được, không thể cảm được, nhưng nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Ngôi Hai giáng trần làm người, ta thấy được Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa linh thiêng cao vời, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể chúng ta cảm được Thiên Chúa gần gũi chúng ta. Mặt khác, nếu ta hiểu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa hiện diện nơi ta, trong cả phần thâm sau nhất của hữu thể ta, thì dĩ nhiên Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng Kinh Thánh lại nói Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong hoàn cảnh mầu nhiện Nhập Thể là cụ thể nhất, tức là nhấn mạnh tới công trình Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Ki-tô nơi mọi người, công trình xây dựng nhiệm thể của Ngài là Hội Thánh.
Đón tiếp mầu nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm Chúa làm người, là nhận ra ơn Chúa tác động nơi chúng ta, nhận ra ơn Chúa đang kéo nhân loại lên với Chúa. Đón tiếp mầu nhiệm Giáng Sinh, ta phải có thái độ đón ý Chúa như Thánh Giu-se, tức là cưu mang Chúa trong tinh thần và biết Chúa hiện diện trong Hội Thánh, trong mọi người.
Linh mục Fx. Nguyễn Hùng Oánh
Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
11:14 18/12/2013
Chúa Nhật 4 VỌNG A
Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời “Xin Vâng” trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời “Xin Vâng”, Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương công chính
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: “Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ?”. Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
“Giuse là người công chính”. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ ‘mầu nhiệm’, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!’ Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2,13-14) .
- Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen” (Mt 2,19-21).
- Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét” (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời “Xin Vâng” trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời “Xin Vâng”, Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương công chính
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: “Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ?”. Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
“Giuse là người công chính”. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ ‘mầu nhiệm’, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!’ Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2,13-14) .
- Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen” (Mt 2,19-21).
- Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét” (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
Kế hoạch cứu độ nhiệm màu của Thiên Chúa
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
17:11 18/12/2013
Thứ Năm, 19/12 Mùa Vọng
« Em sẽ đi trước mặt Chúa […] và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa » (Lc 1, 17).
Sắp đến ngày Giáng Sinh, các bài Tin Mừng thường nhắc đến những nhân vật liên quan với biến cố trọng đại này, đặc biệt là những khuôn mặt trong hai gia đình có mối quan hệ họ hàng. Đó chính là các thành viên của gia đình Gioan Tẩy Giả và của gia đình Hài Nhi Giêsu. Tất cả đều có những điểm tương đồng và có sứ mệnh rất quan trọng đối với sự sống còn của nhân loại.
Trước hết, việc ra đời của cả hai đều có sự can thiệp của Thiên Chúa quyền năng. Tuy có khác nhau về độ tuổi, một Elisabeth cao niên son sẻ và một thiếu nữ Maria ở tuổi xuân xanh, cả hai phụ nữ này cưu mang trong mình bào thai vốn được Thiên Chúa đã giao trước trọng trách sẽ được thực hiện sau này.
Phản ứng đầu tiên là tâm trạng ngạc nhiên trước lời loan báo của sứ thần. Dacaria cho rằng việc đó không thể xảy ra được vì vợ chồng ông đã lớn tuổi. Còn Maria thì nghi ngờ vì mình không biết đến người nam. Riêng Giuse khi thấy bạn mình trước khi về chung sống đã có thai bèn có dự tính chia tay một cách kín đáo.
Sau khi đã nhận ra sự quan phòng cách đặc biệt của Thiên Chúa, họ đã cất tiếng ngợi khen Người về tình yêu thương cách biệt đã dành cho họ nói riêng và cho nhân loại nói chung : « Chúc tụng Thiên Chúa là Đức Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người ». Lời này được thốt ra từ miệng lưỡi của ông Dacaria. Về phần mình, Maria cất tiếng tạ ơn : « Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng. Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi ».
Lần đầu tiên gặp nhau giữa hai bà bầu, ai nấy đều tràn ngập niềm vui vì cảm nhận được hồng phúc lớn lao của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy Giả đang trong bụng mẹ cũng đã nhảy lên vui mừng khi được tiếp xúc với ơn cứu độ.
Kẻ trước người sau, mỗi người đều thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Gioan được trao sứ mệnh đi trước để dọn đường cho Chúa đến. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ được trao phó khi chuẩn bị tâm hồn cho dân chúng để đón tiếp Đấng đến sau ông và giới thiệu Ngài là « Chiên Thiên Chúa » cho những người thuộc thời đại ông sống. Còn Đức Giêsu đã đi đến tận cùng con đường cứu chuộc. Nhờ đó, Ngài đã khai mở con đường mới dẫn đưa nhân loại vào cõi trường sinh.
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện một cách lạ lùng và tiệm tiến theo thời gian : qua các tổ phụ, các tiên tri, và sau hết là thời kỳ chuyển tiếp để ơn cứu độ được thực hiện. Thời kỳ ấy diễn ra trong khuôn khổ gia đình gần gũi và thân mật : kẻ nhận sứ mạng dọn đường, còn bên kia là Đấng phải đến trong thế gian nhân danh Thiên Chúa.
Xin cho mỗi cộng đoàn và mỗi gia đình được tràn ngập niềm vui ơn cứu độ qua việc ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong từng giây phút của cuộc sống.
« Em sẽ đi trước mặt Chúa […] và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa » (Lc 1, 17).
Sắp đến ngày Giáng Sinh, các bài Tin Mừng thường nhắc đến những nhân vật liên quan với biến cố trọng đại này, đặc biệt là những khuôn mặt trong hai gia đình có mối quan hệ họ hàng. Đó chính là các thành viên của gia đình Gioan Tẩy Giả và của gia đình Hài Nhi Giêsu. Tất cả đều có những điểm tương đồng và có sứ mệnh rất quan trọng đối với sự sống còn của nhân loại.
Trước hết, việc ra đời của cả hai đều có sự can thiệp của Thiên Chúa quyền năng. Tuy có khác nhau về độ tuổi, một Elisabeth cao niên son sẻ và một thiếu nữ Maria ở tuổi xuân xanh, cả hai phụ nữ này cưu mang trong mình bào thai vốn được Thiên Chúa đã giao trước trọng trách sẽ được thực hiện sau này.
Phản ứng đầu tiên là tâm trạng ngạc nhiên trước lời loan báo của sứ thần. Dacaria cho rằng việc đó không thể xảy ra được vì vợ chồng ông đã lớn tuổi. Còn Maria thì nghi ngờ vì mình không biết đến người nam. Riêng Giuse khi thấy bạn mình trước khi về chung sống đã có thai bèn có dự tính chia tay một cách kín đáo.
Sau khi đã nhận ra sự quan phòng cách đặc biệt của Thiên Chúa, họ đã cất tiếng ngợi khen Người về tình yêu thương cách biệt đã dành cho họ nói riêng và cho nhân loại nói chung : « Chúc tụng Thiên Chúa là Đức Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người ». Lời này được thốt ra từ miệng lưỡi của ông Dacaria. Về phần mình, Maria cất tiếng tạ ơn : « Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng. Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi ».
Lần đầu tiên gặp nhau giữa hai bà bầu, ai nấy đều tràn ngập niềm vui vì cảm nhận được hồng phúc lớn lao của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy Giả đang trong bụng mẹ cũng đã nhảy lên vui mừng khi được tiếp xúc với ơn cứu độ.
Kẻ trước người sau, mỗi người đều thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Gioan được trao sứ mệnh đi trước để dọn đường cho Chúa đến. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ được trao phó khi chuẩn bị tâm hồn cho dân chúng để đón tiếp Đấng đến sau ông và giới thiệu Ngài là « Chiên Thiên Chúa » cho những người thuộc thời đại ông sống. Còn Đức Giêsu đã đi đến tận cùng con đường cứu chuộc. Nhờ đó, Ngài đã khai mở con đường mới dẫn đưa nhân loại vào cõi trường sinh.
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện một cách lạ lùng và tiệm tiến theo thời gian : qua các tổ phụ, các tiên tri, và sau hết là thời kỳ chuyển tiếp để ơn cứu độ được thực hiện. Thời kỳ ấy diễn ra trong khuôn khổ gia đình gần gũi và thân mật : kẻ nhận sứ mạng dọn đường, còn bên kia là Đấng phải đến trong thế gian nhân danh Thiên Chúa.
Xin cho mỗi cộng đoàn và mỗi gia đình được tràn ngập niềm vui ơn cứu độ qua việc ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong từng giây phút của cuộc sống.
Sống công chính và toàn tâm phụng sự Chúa
Lm. Đan Vinh
19:00 18/12/2013
HIỆP SỐNG TIN MỪNG Chúa Nhật 4 MÙA VỌNG A
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24
SỐNG CÔNG CHÍNH VÀ TOÀN TÂM PHỤNG SỰ CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 1,18-24.
(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể hiện qua cách ứng xử trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a. Tin Mừng cũng cho biết thái độ của Đức Ma-ri-a là toàn tâm toàn ý cộng tác vào chương trinh cứu độ của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái lễ cưới gồm hai giai đoạn là lễ đính hôn và lễ cưới rước dâu. Lễ đính hôn chính là thành hôn về mặt pháp lý và được cử hành trước lễ cưới cả năm trời. Thường thì hai người nam nữ sau khi đính hôn vẫn chưa ăn ở với nhau. Nhưng nếu lỡ có con trong thời gian này thì đứa con vẫn được công nhận là con chính thức của hai vợ chồng. Câu này cho thấy Giu-se và Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp sau lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do Giu-se. Tuy nhiên về mặt xã hội, trẻ Giê-su vẫn được thiên hạ coi là con của bác thợ mộc Giu-se (x. Mt 13,55), dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính theo Luật, vì Giu-se đã không làm theo Luật dạy là phải làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại ba điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, lại vừa giữ được sự công minh chính trực ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mạng cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mạng làm cha để trẻ Giê-su thuộc về dòng dõi Đa-vít theo pháp luật, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của đứa trẻ về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trước đó (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mạng của con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
- C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. Thực ra mẫu tính đồng trinh của Đức Ma-ri-a nói đây không nhấn mạnh về thể xác cho bằng để chứng minh thần tính và nhân tính của Đức Giê-su+ Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mạng của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mình như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi thưa “Xin Vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần khi đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” trong câu này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh hài nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến khi” ở đây không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng như các đôi vợ chồng khác. Khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của ngôn sứ I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành về việc thánh hiến con trai đầu lòng cho Đức Chúa của người và thú vật (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho trẻ Giê-su (x. Lc 2,23). Do đó “con trai đầu lòng” ở đây chỉ có ý nói là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời một người nọ nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tương tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những người anh em bà con nói chung chứ không hàm ý rõ ràng đó có phải là anh chị em ruột hay không. Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em nói đây chỉ là bà con họ nội của Đức Giê-su về phía cha nuôi là thánh Giu-se.
- Bằng chứng rõ nhất chứng minh Đức Giê-su là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của môn đồ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ Người. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu ngoài Đức Giê-su còn có nhiều anh chị em khác nữa thì Đức Giê-su chắc chắn đã không trối trăn như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19). Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU CHUYỆN: MỘT HÀNH ĐỘNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn tuy đã biết nhưng vẫn làm ngơ cho thuộc hạ tổ chức nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông đã cầm lấy mở ra và đọc được câu Lời Chúa sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính câu Lời Chúa đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát đi toàn nước Mỹ lời nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính phục ông như trước.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay mời gọi các tín hữu chúng ta dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Đức Giê-su bằng việc noi gương thánh cả Giu-se và Trinh Nữ Ma-ri-a như sau:
1) Noi gương công chính của thánh Giu-se: Sự công chính của Giu-se được Tin Mừng diễn tả như sau: “Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vậy tại sao Giu-se được khen là người công chính? Trong những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta phải sống thế nào để noi gương công chính của thánh Giu-se?
a) Công chính là ứng xử công bình ngay chính: Trước sự kiện Ma-ri-a tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giu-se đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Ma-ri-a, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Ma-ri-a đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giu-se đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Ma-ri-a, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
b) Công chính cũng là vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Giu-se còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giu-se đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
c) Học tập gương công chính của thánh Giu-se: Như vậy, cách ứng xử của thánh Giu-se nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Ma-ria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giu-se là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giê-su và là bạn trăm năm của Ðức Ma-ri-a, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giê-su ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giu-se.
2) Noi gương đức đồng trinh về tâm hồn như Trinh nữ Ma-ri-a: Tin Mừng hôm nay không những đề cao sự công chính của thánh Giu-se mà còn đề cập đến việc thụ thai kỳ diệu của Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Ðức Ma-ri-a, người ta thường chỉ nghĩ tới đồng trinh về thể xác, mà ít nghĩ tới đức đồng trinh về tâm hồn của ngài. Thực ra cả hai mặt của đức đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nếu chỉ đồng trinh về thể xác mà thiếu đồng trinh tâm hồn thì sự đồng trinh ấy cũng không có giá trị bao nhiêu! Chính sự đồng trinh tâm hồn nơi Ðức Ma-ri-a mới quan trọng và nêu gương cho chúng ta hôm nay.
Đức Ma-ri-a đồng trinh trong tâm hồn biểu lộ qua việc Mẹ luôn quy hướng về Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa. Khi thưa Xin Vâng với sứ thần, Trinh nữ Ma-ri-a đã như một nữ tu khấn trọn: tuyên khấn thuộc trọn về Chúa. Qua lời khấn đó Mẹ đã tự hủy để toàn tâm toàn ý thuộc về Thiên Chúa và sống chết cho Ngài như Đức Giê-su nói: “Tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38), hoặc như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức Ma-ri-a đã chứng tỏ đức đông trinh tâm hồn và trở thành gương mẫu cho các tín hữu hôm nay. Mọi tín hữu kể cả những người sống bậc hôn nhân gia đình đều có thể và được mời gọi sống đức đồng trinh trong tâm hồn, nghĩa là trọn vẹn phụng sự Thiên Chúa noi gương Mẹ Ma-ri-a.
3) “Em-ma-nu-en”- “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”: Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay cũng đề cập đến danh hiệu của Đức Giê-su đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó bảy trăm năm: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23). Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người mọi nơi mọi lúc như Đức Giê-su đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục ở cùng chúng ta bằng nhiều cách như sau:
1- Khi Hội Thánh công bố Lời Chúa trong phụng vụ: Bấy giờ chính Đức Giê-su hiện diện để nói với chúng ta qua các vị chủ chăn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
2- Khi cộng đoàn hội họp nhau nhân danh Đức Giê-su trong các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần hằng tháng thì có Người hiện diện để dạy dỗ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
3- Khi chúng ta yêu mến Chúa Giê-su và biểu lộ bằng việc lằng nghe và vâng giữ lời Người thì Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
4- Khi chúng ta cử hành thánh lễ và rước lễ sốt sắng là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa như Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
5- Khi chúng ta phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đã phục vụ chính Chúa Giê-su đang hiện thân nơi họ như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tóm lại: Thiên Chúa muốn ở cùng con cái loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế qua Đấng Em-ma-nu-en là Chúa Giê-su. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn đang từ chối đón nhận Người như Tin Mừng Gio-an đã viết: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Vậy trong những ngày này chúng ta sẽ làm gi để gặp gỡ tâm sự với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Người nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi?
4. THẢO LUẬN: 1) Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một người công bình ngay chính noi gương thánh cả Giu-se ? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để noi gương Trinh Nữ Ma-ri-a toàn tâm toàn ý phụng sự Tin Mừng Nước Thiên Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần an ủi phục vụ họ, hầu sau này chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời như thánh Giu-se khi xưa.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng tận hiến cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân noi gương đức đồng trinh trong tâm hồn của Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu và xa lánh mà không thể tự giải oan, xin giúp chúng con biết bình tĩnh cậy trông và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng noi gương Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24
SỐNG CÔNG CHÍNH VÀ TOÀN TÂM PHỤNG SỰ CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 1,18-24.
(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể hiện qua cách ứng xử trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a. Tin Mừng cũng cho biết thái độ của Đức Ma-ri-a là toàn tâm toàn ý cộng tác vào chương trinh cứu độ của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái lễ cưới gồm hai giai đoạn là lễ đính hôn và lễ cưới rước dâu. Lễ đính hôn chính là thành hôn về mặt pháp lý và được cử hành trước lễ cưới cả năm trời. Thường thì hai người nam nữ sau khi đính hôn vẫn chưa ăn ở với nhau. Nhưng nếu lỡ có con trong thời gian này thì đứa con vẫn được công nhận là con chính thức của hai vợ chồng. Câu này cho thấy Giu-se và Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp sau lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do Giu-se. Tuy nhiên về mặt xã hội, trẻ Giê-su vẫn được thiên hạ coi là con của bác thợ mộc Giu-se (x. Mt 13,55), dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính theo Luật, vì Giu-se đã không làm theo Luật dạy là phải làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại ba điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, lại vừa giữ được sự công minh chính trực ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mạng cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mạng làm cha để trẻ Giê-su thuộc về dòng dõi Đa-vít theo pháp luật, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của đứa trẻ về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trước đó (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mạng của con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
- C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. Thực ra mẫu tính đồng trinh của Đức Ma-ri-a nói đây không nhấn mạnh về thể xác cho bằng để chứng minh thần tính và nhân tính của Đức Giê-su+ Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mạng của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mình như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi thưa “Xin Vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần khi đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” trong câu này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh hài nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến khi” ở đây không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng như các đôi vợ chồng khác. Khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của ngôn sứ I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành về việc thánh hiến con trai đầu lòng cho Đức Chúa của người và thú vật (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho trẻ Giê-su (x. Lc 2,23). Do đó “con trai đầu lòng” ở đây chỉ có ý nói là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời một người nọ nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tương tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những người anh em bà con nói chung chứ không hàm ý rõ ràng đó có phải là anh chị em ruột hay không. Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em nói đây chỉ là bà con họ nội của Đức Giê-su về phía cha nuôi là thánh Giu-se.
- Bằng chứng rõ nhất chứng minh Đức Giê-su là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của môn đồ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ Người. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu ngoài Đức Giê-su còn có nhiều anh chị em khác nữa thì Đức Giê-su chắc chắn đã không trối trăn như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19). Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU CHUYỆN: MỘT HÀNH ĐỘNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn tuy đã biết nhưng vẫn làm ngơ cho thuộc hạ tổ chức nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông đã cầm lấy mở ra và đọc được câu Lời Chúa sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính câu Lời Chúa đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát đi toàn nước Mỹ lời nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính phục ông như trước.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay mời gọi các tín hữu chúng ta dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Đức Giê-su bằng việc noi gương thánh cả Giu-se và Trinh Nữ Ma-ri-a như sau:
1) Noi gương công chính của thánh Giu-se: Sự công chính của Giu-se được Tin Mừng diễn tả như sau: “Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vậy tại sao Giu-se được khen là người công chính? Trong những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta phải sống thế nào để noi gương công chính của thánh Giu-se?
a) Công chính là ứng xử công bình ngay chính: Trước sự kiện Ma-ri-a tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giu-se đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Ma-ri-a, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Ma-ri-a đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giu-se đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Ma-ri-a, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
b) Công chính cũng là vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Giu-se còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giu-se đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
c) Học tập gương công chính của thánh Giu-se: Như vậy, cách ứng xử của thánh Giu-se nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Ma-ria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giu-se là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giê-su và là bạn trăm năm của Ðức Ma-ri-a, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giê-su ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giu-se.
2) Noi gương đức đồng trinh về tâm hồn như Trinh nữ Ma-ri-a: Tin Mừng hôm nay không những đề cao sự công chính của thánh Giu-se mà còn đề cập đến việc thụ thai kỳ diệu của Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Ðức Ma-ri-a, người ta thường chỉ nghĩ tới đồng trinh về thể xác, mà ít nghĩ tới đức đồng trinh về tâm hồn của ngài. Thực ra cả hai mặt của đức đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nếu chỉ đồng trinh về thể xác mà thiếu đồng trinh tâm hồn thì sự đồng trinh ấy cũng không có giá trị bao nhiêu! Chính sự đồng trinh tâm hồn nơi Ðức Ma-ri-a mới quan trọng và nêu gương cho chúng ta hôm nay.
Đức Ma-ri-a đồng trinh trong tâm hồn biểu lộ qua việc Mẹ luôn quy hướng về Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa. Khi thưa Xin Vâng với sứ thần, Trinh nữ Ma-ri-a đã như một nữ tu khấn trọn: tuyên khấn thuộc trọn về Chúa. Qua lời khấn đó Mẹ đã tự hủy để toàn tâm toàn ý thuộc về Thiên Chúa và sống chết cho Ngài như Đức Giê-su nói: “Tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38), hoặc như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức Ma-ri-a đã chứng tỏ đức đông trinh tâm hồn và trở thành gương mẫu cho các tín hữu hôm nay. Mọi tín hữu kể cả những người sống bậc hôn nhân gia đình đều có thể và được mời gọi sống đức đồng trinh trong tâm hồn, nghĩa là trọn vẹn phụng sự Thiên Chúa noi gương Mẹ Ma-ri-a.
3) “Em-ma-nu-en”- “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”: Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay cũng đề cập đến danh hiệu của Đức Giê-su đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó bảy trăm năm: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23). Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người mọi nơi mọi lúc như Đức Giê-su đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục ở cùng chúng ta bằng nhiều cách như sau:
1- Khi Hội Thánh công bố Lời Chúa trong phụng vụ: Bấy giờ chính Đức Giê-su hiện diện để nói với chúng ta qua các vị chủ chăn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
2- Khi cộng đoàn hội họp nhau nhân danh Đức Giê-su trong các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần hằng tháng thì có Người hiện diện để dạy dỗ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
3- Khi chúng ta yêu mến Chúa Giê-su và biểu lộ bằng việc lằng nghe và vâng giữ lời Người thì Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
4- Khi chúng ta cử hành thánh lễ và rước lễ sốt sắng là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa như Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
5- Khi chúng ta phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đã phục vụ chính Chúa Giê-su đang hiện thân nơi họ như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tóm lại: Thiên Chúa muốn ở cùng con cái loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế qua Đấng Em-ma-nu-en là Chúa Giê-su. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn đang từ chối đón nhận Người như Tin Mừng Gio-an đã viết: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Vậy trong những ngày này chúng ta sẽ làm gi để gặp gỡ tâm sự với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Người nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi?
4. THẢO LUẬN: 1) Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một người công bình ngay chính noi gương thánh cả Giu-se ? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để noi gương Trinh Nữ Ma-ri-a toàn tâm toàn ý phụng sự Tin Mừng Nước Thiên Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần an ủi phục vụ họ, hầu sau này chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời như thánh Giu-se khi xưa.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng tận hiến cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân noi gương đức đồng trinh trong tâm hồn của Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu và xa lánh mà không thể tự giải oan, xin giúp chúng con biết bình tĩnh cậy trông và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng noi gương Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Đức Giêsu là quà tặng vô giá
Jos. Vinc. Ngọc Biển
22:21 18/12/2013
ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ
(Lễ Đêm Giáng Sinh 2013)
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì:
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
(Lễ Đêm Giáng Sinh 2013)
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì:
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thống kê số tu sĩ Dòng Tên năm 2013
Chỉnh Trần, S.J.
08:29 18/12/2013
Thống kê số tu sĩ Dòng Tên năm 2013
Bản thống kê này dựa vào báo cáo thống kê của các Tỉnh và Miền Dòng Độc lập. Thành viên của 10 Miền Phụ thuộc được tính chung trong thống kê của các Tỉnh mà các Miền này trực thuộc. 403 Giêsu hữu đang phục vụ tại các Nhà ở Rôma (gồm cả trụ sở trung ương) cũng được tính chung với Tỉnh hay Miền mà họ là thành viên. Hiện nay, Dòng Tên trên toàn thế giới có 83 Tỉnh Dòng, 6 Miền Độc lập và 10 Miền Phụ thuộc được phân bố theo 9 Vùng (Assistancy): Phi Châu, Nam Mỹ Latinh, Bắc Mỹ Latinh, Nam Á, Châu Á – Thái Bình Dương, Trung và Đông Âu, Nam Âu, Tây Âu và Hoa Kỳ.
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2013, tổng số tu sĩ Dòng Tên trên toàn thế giới là 17,287 tu sĩ, trong đó có 12,287 linh mục, 1,400 tu huynh, 2,878 học viên (ứng viên linh mục) và 711 tập sinh. Với tổng số tu sĩ này, Dòng Tên là dòng nam có số tu sĩ đông nhất trong Giáo Hội (chỉ đứng sau gia đình Phan Sinh nếu tính chung 3 nhánh tự trị: Dòng Anh Em hèn mọn (OFM) khoảng 15.000 tu sĩ, Anh Em Hèn Mọn Lúp Dài – OFM Capuccinorum khoảng 11.300 tu sĩ, Anh Em Hèn Mọn Viện tu – OFM Conventualium khoảng 4.500 tu sĩ)
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Dòng Tên trên thế giới được phân bố theo 9 Vùng (Assistancy)
AFR: Phi Châu
ALM: Nam Mỹ Latinh
ALS: Bắc Mỹ Latinh
ASM: Nam Á
ASP: Châu Á – Thái Bình Dương
ECO: Trung và Đông Âu
EMR: Nam Âu
EOC: Tây Âu
USA: Hoa Kỳ
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2013, tổng số tu sĩ Dòng Tên trên toàn thế giới là 17,287 tu sĩ, trong đó có 12,287 linh mục, 1,400 tu huynh, 2,878 học viên (ứng viên linh mục) và 711 tập sinh. Với tổng số tu sĩ này, Dòng Tên là dòng nam có số tu sĩ đông nhất trong Giáo Hội (chỉ đứng sau gia đình Phan Sinh nếu tính chung 3 nhánh tự trị: Dòng Anh Em hèn mọn (OFM) khoảng 15.000 tu sĩ, Anh Em Hèn Mọn Lúp Dài – OFM Capuccinorum khoảng 11.300 tu sĩ, Anh Em Hèn Mọn Viện tu – OFM Conventualium khoảng 4.500 tu sĩ)
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Dòng Tên trên thế giới được phân bố theo 9 Vùng (Assistancy)
AFR: Phi Châu
ALM: Nam Mỹ Latinh
ALS: Bắc Mỹ Latinh
ASM: Nam Á
ASP: Châu Á – Thái Bình Dương
ECO: Trung và Đông Âu
EMR: Nam Âu
EOC: Tây Âu
USA: Hoa Kỳ
Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh gặp ngoại giao đoàn lần đầu tiên
Hoàng Thương
12:22 18/12/2013
Hôm 13/12/2013, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Pietro Parolin, lần đầu tiên gặp gỡ các vị đại sứ toàn cầu cạnh Tòa Thánh.
Trong bài phát biểu của mình, ngài nhắc lại rằng Giáo Hội hoạt động theo hướng làm cho tất cả nhân loại trở thành một gia đình, nơi đối thoại đánh bại chiến tranh. Ngài nói:"Chúng ta cần phải thấy rằng hòa bình là điều có thể đạt được chứ không phải là điều không tưởng".
Đức Tổng Giám MụcQuốc Vụ Khanh cũng dùng cơ hội này để cảm ơn tất cả các nhà ngoại giao vì những lời chúc tốt đẹp của họ khi ngài được bổ nhiệm.
Trong bài phát biểu của mình, ngài nhắc lại rằng Giáo Hội hoạt động theo hướng làm cho tất cả nhân loại trở thành một gia đình, nơi đối thoại đánh bại chiến tranh. Ngài nói:"Chúng ta cần phải thấy rằng hòa bình là điều có thể đạt được chứ không phải là điều không tưởng".
Đức Tổng Giám MụcQuốc Vụ Khanh cũng dùng cơ hội này để cảm ơn tất cả các nhà ngoại giao vì những lời chúc tốt đẹp của họ khi ngài được bổ nhiệm.
Đức Giáo Hoàng tiếp các đại sứ: Hãy chấm dứt nạn buôn người. Đó là điều đáng hổ thẹn!
Hoàng Thương
11:43 18/12/2013
Hôm 12/12/2013, Đức Giáo Hoàng tiếp đón 16 vị đại sứ không thường trú tại Sảnh đường Clêmentê của Vatican và từng người trong nhóm đã lần lượt trình quốc thư lên Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Các nền văn hóa và thậm chí các ngôn ngữ khác nhau đã tụ họp để đại diện cho đất nước họ trước Tòa Thánh. Đức Giáo Hoàng thậm chí còn có cơ hội thực hành tiếng Pháp của Ngài.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Cảm ơn quý ngài rất nhiều. Tôi hy vọng quý ngài có một chuyến thăm tuyệt vời. Xin cầu nguyện cho tôi".
Sau đó ngài nói tiếng Tây Ban Nha bản xứ của ngài: "Hân hạnh được gặp quý ngài. Tôi hy vọng quý ngài cảm thấy (thoải mái) như ở nhà".
Chỉ còn vài tháng là đến chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Thánh Địa, Đại sứ Palestine, ông Amad Rashid, cũng trình quốc thư.
Ông Amad Rashid, Đại sứ Palestine cạnh Tòa Thánh nói: "Thưa Ngài, tôi rất vinh dự trình quốc thư của tôi đại diện cho Thánh Địa và người dân Palestine. Thật là niềm vinh dự".
Trong số các nhà ngoại giao là các đại sứ từ Jordan, Kuwait, Thụy Điển, Pakistan, Malta, Sierra Leone, Na Uy và Đan Mạch. Đức Giáo Hoàng kêu gọi tất cả họ giúp ngăn chặn nạn buôn người, và nói thêm rằng các chính phủ có quyền ngăn chặn nó.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Xin tất cả mọi người thiện chí, cho dù có theo tôn giáo nào hay không, cũng không thể để phụ nữ, nam giới hoặc trẻ em bị đối xử như nhữngđồ vật. Họ đã bị lừa dối, bị lạm dụng, thường bị bán đi vì những mục đích khác nhau, nhưng cuối cùng họ bị giết hoặc bị thiệt hại về thể lý và tinh thần. Cuối cùng họ bị loại bỏ và bị ruồng rẫy. Thật đáng hổ thẹn!"
Đức Thánh Cha mô tả nạn buôn người là một tội ác chống nhân loại. Ngài kêu gọi tất cả các đại sứ tham gia vào lực lượng ngăn chặn nó, và nói thêm nó không chỉ là vấn đề công lý, an ninh, tài chính. Trên hết, ngài nói đó là phẩm giá con người.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Kitô hữu nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Người được nhận ra trong những kẻ bé mọn và túng thiếu nhất giữa chúng ta".
Sau đó,Đức Giáo Hoàng nói thêm rằng nạn buôn người không chỉ là chế độ nô lệ hiện đại mà còn là một vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng đến tất cả các nước, ngay cả những nước phát triển nhất.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Cảm ơn quý ngài rất nhiều. Tôi hy vọng quý ngài có một chuyến thăm tuyệt vời. Xin cầu nguyện cho tôi".
Sau đó ngài nói tiếng Tây Ban Nha bản xứ của ngài: "Hân hạnh được gặp quý ngài. Tôi hy vọng quý ngài cảm thấy (thoải mái) như ở nhà".
Chỉ còn vài tháng là đến chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Thánh Địa, Đại sứ Palestine, ông Amad Rashid, cũng trình quốc thư.
Ông Amad Rashid, Đại sứ Palestine cạnh Tòa Thánh nói: "Thưa Ngài, tôi rất vinh dự trình quốc thư của tôi đại diện cho Thánh Địa và người dân Palestine. Thật là niềm vinh dự".
Trong số các nhà ngoại giao là các đại sứ từ Jordan, Kuwait, Thụy Điển, Pakistan, Malta, Sierra Leone, Na Uy và Đan Mạch. Đức Giáo Hoàng kêu gọi tất cả họ giúp ngăn chặn nạn buôn người, và nói thêm rằng các chính phủ có quyền ngăn chặn nó.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Xin tất cả mọi người thiện chí, cho dù có theo tôn giáo nào hay không, cũng không thể để phụ nữ, nam giới hoặc trẻ em bị đối xử như nhữngđồ vật. Họ đã bị lừa dối, bị lạm dụng, thường bị bán đi vì những mục đích khác nhau, nhưng cuối cùng họ bị giết hoặc bị thiệt hại về thể lý và tinh thần. Cuối cùng họ bị loại bỏ và bị ruồng rẫy. Thật đáng hổ thẹn!"
Đức Thánh Cha mô tả nạn buôn người là một tội ác chống nhân loại. Ngài kêu gọi tất cả các đại sứ tham gia vào lực lượng ngăn chặn nó, và nói thêm nó không chỉ là vấn đề công lý, an ninh, tài chính. Trên hết, ngài nói đó là phẩm giá con người.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: "Kitô hữu nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Người được nhận ra trong những kẻ bé mọn và túng thiếu nhất giữa chúng ta".
Sau đó,Đức Giáo Hoàng nói thêm rằng nạn buôn người không chỉ là chế độ nô lệ hiện đại mà còn là một vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng đến tất cả các nước, ngay cả những nước phát triển nhất.
Đức Thánh Cha tiếp Tổng Thư ký Tổ chức Hợp tác Hồi giáo
Hoàng Thương
11:44 18/12/2013
Hôm 13/12/2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Tổng Thư ký của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo tại Dinh Tông Tòa của Vatican. Hàng năm, tổ chức nàyđưa ramột báo cáo được gọi là 'Islamophobia' (tạm dịch "Nỗi lo sợ người Hồi giáo) trong đó trình bày sự phân biệt đối xử của một số xã hội phương Tây chống lại người Hồi giáo.
Ông Ekmeleddin Ihsanoglu, là người đứng đầu của tổ chức bao gồm 56 quốc gia có người Hồi giáo chiếm đa số, ở khắp bốn châu lục. Mục tiêu chính của tổ chức nhằm thúc đẩy sự đoàn kết người Hồi giáo trong các vấn đề kinh tế, xã hội và thậm chí cả chính trị.
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, cuộc đàn áp các Kitô hữu ở Trung Đông và cuộc xung đột đang diễn ra ở Syria chắc chắn nằm trong số những quan tâm hàng đầu của ngài.
Sau cuộc gặp với ông Tổng Thư ký, Đức Thánh Cha đã chào riêng từng người trong phái đoàn của ông. Sau đó, họ tặng quà cho nhau.
Ông Ekmeleddin Ihsanoglu nói: "Cái này dành cho thư viện của Vatican".
Ông Ihsanoglu đã tặng Đức Thánh Cha một ấn phẩm thế kỷ 14 được in đầu tiên ở Damascus.
Sau đó, Đức Thánh Cha tặng mỗi người trong phái đoàn một huy hiệu giáo hoàng của ngài, như ngài thường tặng cho các vị khách, ngài cũng xin họ cầu nguyện cho ngài.
Tổ chức Hợp tác Hồi giáo đã được thành lập vào năm 1969. Trên bình diện quốc tế, đây là một trong những tổ chức đa chính phủ lớn nhất, chỉ sau Liên Hiệp Quốc.
Cuộc gặp với Đức Thánh Cha thậtcó ý nghĩa, nhất là kể từ khi ngài lên tiếng khuyến khích đối thoại liên tôn.
Ông Ekmeleddin Ihsanoglu, là người đứng đầu của tổ chức bao gồm 56 quốc gia có người Hồi giáo chiếm đa số, ở khắp bốn châu lục. Mục tiêu chính của tổ chức nhằm thúc đẩy sự đoàn kết người Hồi giáo trong các vấn đề kinh tế, xã hội và thậm chí cả chính trị.
Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, cuộc đàn áp các Kitô hữu ở Trung Đông và cuộc xung đột đang diễn ra ở Syria chắc chắn nằm trong số những quan tâm hàng đầu của ngài.
Sau cuộc gặp với ông Tổng Thư ký, Đức Thánh Cha đã chào riêng từng người trong phái đoàn của ông. Sau đó, họ tặng quà cho nhau.
Ông Ekmeleddin Ihsanoglu nói: "Cái này dành cho thư viện của Vatican".
Ông Ihsanoglu đã tặng Đức Thánh Cha một ấn phẩm thế kỷ 14 được in đầu tiên ở Damascus.
Sau đó, Đức Thánh Cha tặng mỗi người trong phái đoàn một huy hiệu giáo hoàng của ngài, như ngài thường tặng cho các vị khách, ngài cũng xin họ cầu nguyện cho ngài.
Tổ chức Hợp tác Hồi giáo đã được thành lập vào năm 1969. Trên bình diện quốc tế, đây là một trong những tổ chức đa chính phủ lớn nhất, chỉ sau Liên Hiệp Quốc.
Cuộc gặp với Đức Thánh Cha thậtcó ý nghĩa, nhất là kể từ khi ngài lên tiếng khuyến khích đối thoại liên tôn.
Tấm thiệp giản dị chúc mừng Giáng Sinh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
12:22 18/12/2013
Tấm thiệp giản dị chúc mừng Giáng Sinh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Theo nhận định chung thì không có gì đơn giản hơn bằng tấm tấm thiệp đơn sơ để gửi đi chúc mừng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào dịp lễ Giáng Sinh 2013. Thật đơn sơ giống như phong cách con người thật của Ngài vậy.
Bên trong tấm thiệp in hình hang đá trắng đen của họa sĩ Giorgio Ghisi (1520-1582), phía bên trái là dấu hiệu Giáo Hoàng và ghi hàng chữ Latinh từ Phúc Âm Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người" (Ga 1:9). Bên dưới là chữ ký Phanxicô. Và dòng cuối cùng ghi hàng chữ nhỏ Latinh: Giáng Sinh 2013.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
Bên trong tấm thiệp in hình hang đá trắng đen của họa sĩ Giorgio Ghisi (1520-1582), phía bên trái là dấu hiệu Giáo Hoàng và ghi hàng chữ Latinh từ Phúc Âm Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người" (Ga 1:9). Bên dưới là chữ ký Phanxicô. Và dòng cuối cùng ghi hàng chữ nhỏ Latinh: Giáng Sinh 2013.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng
Linh Tiến Khải
13:14 18/12/2013
Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng. Nó cử hành biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người để sống với chúng ta trong lịch sử loài người, với tất cả gánh nặng các hạn hẹp và thảm cảnh của nó.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013.
Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:
Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.
Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.
Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:
Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!
Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.
Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.
Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:
Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).
Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.
Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.
Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.
Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.
Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013.
Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:
Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.
Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.
Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:
Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!
Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.
Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.
Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:
Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).
Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.
Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.
Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.
Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.
Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Nhân vụ sát nhập toà đại sứ Mỹ tại Vatican với tòa đại sứ Mỹ tại Ý
Nguyễn Kim Ngân
22:46 18/12/2013
Bài phân tích sau đây là của Anne Hendershott, Giáo Sư Xã Hội Học và Giám Đốc Trung Tâm Veritas tại Franciscan University of Steubenville, tiểu bang Ohio. Bà là tác giả một số tác phẩm, trong đó có: “Status Envy: The Politics of Catholic Higher Education; The Politics of Abortion; The Politics of Deviance.” Bà còn là đồng-tác-giả của loạt bài viết về Canh Tân Giáo Hội: “How a New Generation of Priests and Bishops are Revitalizing the Catholic Church.”
Bài phân tích này có tựa đề nguyên thủy là: President Obama’s Faithful Helpers (xin mạn phép phóng dịch là “Các gia nô trung thành của Tổng Thống (TT) Obama” được đăng trên www.crisismagazine.com/2013/president-obamas-faithful-helpers, ngày 11 tháng 12 năm 2013).
Quyết định của TT Obama trong việc đóng cửa toà Đại Sứ Mỹ (ĐSM) tại Vatican—di chuyển đại sứ và toàn thể các viên chức về ‘se phòng’ với Toà ĐSM tại Ý--được nhiều người, trong số đó phải kể đến một vài vị cựu ĐSM tại Vatican—nhận định là một bước kế tiếp của chính quyền Obama trong nỗ lực hạ giảm thêm nữa tầm ảnh hưởng của Toà Thánh.
Trong khi chính quyền Obama viện dẫn quan ngại về an ninh như là lý do của việc đóng cửa này (qua một điện thư gửi cho Daily Caller sau vụ tấn công toà ĐSM tại Bengazi, Libya, vào ngày 11 tháng 9 năm 2012), thì James Nicholson, ĐSM tại Vatican từ 2001—2005, đã mô tả quyết định này như là một “xuống cấp tập thể của mối quan hệ Mỹ-Vatican…, một sự lăng mạ đối với giới Công Giáo Mỹ và với Vatican.” Ông còn nói thêm với một nhà báo của tờ National Catholic Reporter rằng quyết định này là một “biến đổi toà ĐSM (tại Vatican) trở thành đứa con ghẻ của toà ĐSM tại Ý.
Các vị cựu ĐSM tại Vatican như Francis Rooney, Mary Ann Glendon, Raymond Flynn và Thomas Melady đều có cùng cảm nhận như của Nicholson. Mặc dù đương kim ĐSM Kenneth Hackett, người vừa được TT Obama chỉ định, đã bênh vực quyết định sát nhập này bằng cách nêu lên sự kiện là nhiều quốc gia khác cũng đều làm như thế (tức chính sách ‘se phòng’), cựu ĐSM Mary Ann Glendon đã phủ nhận lời bênh vực nói trên bằng cách cho rằng tầm quan trọng của mối quan hệ Mỹ-Vatican “vẫn xứng đáng phải có một cơ ngơi và bộ mặt riêng.”
Việc công kích quyết định đóng cửa vừa nói đã xuất phát từ các vị cưụ ĐSM thuộc cả hai đảng. Trong khi Glendon, Nicholson, Rooney và Melady được các TT Cộng Hòa chỉ định, thì Raymond Flynn, một trong những tiếng nói công kích mạnh nhất chống lại việc sát nhập, lại được chỉ định bởi TT Clinton.
Trong một buổi phỏng vấn với tờ National Catholic Reporter, Flynn nói: “Không phải chỉ những kẻ dội bom xuống các nhà thờ và giết hại người Công Giáo trong vùng Trung Đông mới là những đối thủ của ta, đó còn là những kẻ đã cố gắng hạn chế quyền tự do tôn giáo và muốn đóng cửa toà ĐSM tại Vatican…Trong vụ này, nước Mỹ chẳng có lợi lộc gì, cả về mặt ngoại giao lẫn chính trị.”
Một phần Đường Lối gạt phăng đi các Tiếng Nói Trung Thành
Chính quyền Obama đã biểu tỏ mối ác cảm đối với Giáo Hội Công Giáo trong suốt thời kỳ tại chức--nhất là qua việc hủy bỏ mới đây nhất các phương tiện bảo vệ tự do tôn giáo qua chỉ thị của Bộ Sức Khoẻ và Nhân Dụng (SKND) áp dụng trên việc chăm sóc sức khỏe. Chỉ thị của Bộ SKND đòi buộc mọi cơ quan—bao gồm các trường đại học, bệnh viện và các tổ chức phục vụ xã hội của Công Giáo--phải cung cấp bảo hiểm trong đó có việc cấp phát thuốc phá thai như Ella và Plan B, cũng như các dịch vụ ngừa thai và triệt sản. Chỉ thị này đòi buộc người Công Giáo phải mua loại bảo hiểm, mà theo lời Giáo Hội dậy, thì mang tính vô luân nghiêm trọng. Chỉ thị của Bộ SKND buộc các chủ nhân Công Giáo phải chi trả và tạo điều kiện dễ dàng cho việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ đi ngược lại với niềm tin tôn giáo và luân lý sâu xa của họ.
Cách thức lăng mạ kiểu này mà TT Obama dành cho giới Công Giáo chỉ là nỗ lực mới nhất của ông nhằm làm hạ giảm tầm ảnh hưởng của Giáo Hội trên các vấn đề về gia đình và sự sống. Đây là chiến lược hiệu quả mà TT đã áp dụng ngay từ những ngày đầu đi vận động làm TT qua việc lợi dụng các nhóm Công Giáo cấp tiến, tỉ như nhóm George Soros trong “Liên Minh vì Công Ích” cũng như nhóm “Công Giáo Hợp Nhất” nhằm khuyến dụ cử tri Công Giáo tập chú vào các vấn đề công bằng xã hội (nạn nghèo khó, chẳng hạn) như là cách thức làm giảm con số phá thai mà không cần hạn chế các quyền phá thai. Chẳng những làm ngơ cho TT Obama và Kathleen Sebelius bỏ phiếu ủng hộ phá thai trễ và tài trợ phá thai cả ở trong lẫn ngoài nước, hai nhóm Liên Minh và Công Giáo Hợp Nhất này đã vận động để giới Công Giáo tuyển chọn các ứng cử viên nào sẵn sàng đề cập đến cái họ gọi là “căn rễ” của phá thai.
Đương nhiên hai nhóm này rất khôn khéo không công khai ủng hộ phá thai, tránh né những cuộc chiến tranh văn hoá chung quanh vấn đề phá thai, hòng cho thấy lập trường luân lý cao vời trong các khẩu hiệu bên ngoài, nhưng bên trong thì ngấm ngầm đẩy mạnh các chính sách và các ứng cử viên phò phá thai như Kathleen Sebelius nhẩy vào các chức vụ công quyền cao.
Các nhóm này cũng như các kẻ lãnh đạo nhóm đều đã được TT tưởng thưởng hậu hĩ vì đã ủng hộ ông. Quả vậy, nhà thần học giải phóng, Miguel Diaz, người được TT chỉ định làm ĐSM tại Vatican năm 2009, đã trở thành “cố vấn thần học cho nhóm Công Giáo thuộc ‘Liên Minh vì Công Ích’.” Vì có cùng chủ trương cấp tiến với nhóm Công Giáo trong ‘Liên Minh vì Công Ích,’ Diaz được Edward Pentin giới thiệu trong một bài viết đăng trên tờ Catholic World Report ngày 12 tháng 5 năm 2011 như là một người biết tiếp cận các vấn đề phò sự sống “một cách thực tiễn.” Khi được hỏi về quan điểm ủng hộ các chính khách phò phá thai, Diaz cho tờ Catholic News Service biết rằng ông tin TT Obama đã “hết mình làm việc với những ai đấu tranh bảo vệ mầm sống từ trong bụng mẹ.” Còn khi được hỏi tại sao ông ủng hộ bà Kathleen Sebelius, Diaz trả lời rằng Sebelius đã làm việc cật lực để giảm thiểu số vụ phá thai khi còn làm Thống Đốc Kansas--mặc dù khi tại chức bà ta đã bỏ phiếu phủ quyết dự luật chống-phá-thai vào năm 2003, 2005, 2006 và 2008, cũng như phủ quyết dự luật bảo đảm phá thai trễ hạn và phòng ngừa “phá thai cưỡng bách.”
Đại Sứ Miguel Diaz: Gia nô trung thành nhất của Obama
Mặc dù cấu kết với nhóm Công Giáo trong “Liên Minh vì Công Ích” trong suốt giai đoạn Obama vận động làm TT, và mạnh mẽ ủng hộ các chính sách phá thai “thực tiễn” của Kathleen Sebelius, Diaz đã không phải là chọn lựa đầu tiên của TT Obama trong chức vụ ĐSM tại Vatican vào năm 2009. Theo tờ Telegraph của Anh Quốc, thì chọn lựa thứ nhất này chính là dành cho ái nữ cố TT John F. Kennedy là Caroline Kennedy, người có chủ trương phò phá thai. Thế nhưng chủ trương phò phá thai này hẳn là sẽ không được Vatican chấp nhận. Diaz chưa hề công khai ủng hộ phá thai—cho dù ông đã ủng hộ một số chính khách cực kỳ phò phá thai tại Mỹ.
Ngoài “Liên Minh vì Công Ích,” Diaz còn cấu kết với “Tiếng Nói Giáo Dân,” một tổ chức cấp tiến nổi lên từ vụ xì căng đan giáo sĩ lạm dụng tình dục vào năm 2002, thoạt đầu là chủ trương ủng hộ các nạn nhân, nhưng rồi mở rộng chủ trương sang lãnh vực cải cách cơ cấu lớn của Giáo Hội, bao gồm việc giảm hạ uy tín của các linh mục và giám mục, dành chỗ đi lên cho giáo dân. Diaz cống hiến cho “Tiếng Nói Giáo Dân” một loạt bài về “Lời Hứa của Vatican II” bằng cách xuất hiện trên cuốn DVD mang tựa đề “Trở Thành Giáo Hội Trần Thế.” Trong cuốn DVD này, ông trưng dẫn hai văn kiện “Lumen Gentium” và “Gaudium et Spes” biện minh cho chủ đích nâng cao vai trò giáo dân và đẩy lui vai trò hàng Giáo phẩm. Với Diaz, khi Giáo Hội đi sát hơn với một “Giáo Hội Trần Thế” vốn khai mở một thứ đạo “Công Giáo bình dân”--một tôn giáo nẩy sinh từ quần chúng và kinh nghiệm quần chúng chứ không phải từ Kinh Thánh và các giáo huấn chính thức của Giáo Hội, thì tôn giáo sẽ trở thành chính thống hơn, bởi nó xuất phát từ chính quần chúng bị áp bức.
Trong tác phẩm hợp soạn ‘From the Heart of Our People,’ Diaz và các cộng sự viên dùng ngôn ngữ Thần Học Giải Phóng để biện luận cho thứ đạo ‘Công Giáo bình dân’ như là một tôn giáo chính thức, “tôn giáo của những con người bị đầy đoạ bởi cả xã hội lẫn Giáo Hội tại Mỹ…nó chứa đựng, cống hiến và chuyển tải những chủ trương và nguyên tắc thần học đặt nền cho niềm tin…một nền tảng tối hậu của hữu thể sâu thẳm nơi quần chúng, đồng thời là biểu cảm chung linh hồn tập thể của quần chúng.” Từ viễn tượng này, ‘bình dân’ không có nghĩa là nổi bật, mà là ám chỉ niềm tin tôn giáo nổi lên từ chính quần chúng.
Theo chương nói về Maria Pilar Aquino trong tác phẩm của Diaz, thì “Công Giáo bình dân” chính là một tôn giáo trong đó quần chúng xây dựng một viễn kiến phức tạp và năng động về thế giới, nối kết kinh nghiệm tôn giáo với các truyền thống khác của Giáo Hội về đời sống và suy tưởng, chống lại cao trào các tôn giáo và ý hệ thống lĩnh, cũng như đối diện với các mâu thuẫn hiện tại và các khả thể tương lai của thực tại lịch sử.”
Với tư cách nhà tiên phong của ‘Công Giáo bình dân,’ cả Diaz lẫn đồng tác giả Orlando Espin đều chủ trương rằng thần học phải luôn mang tính văn hoá. Do đó bất kỳ một nỗ lực nào làm cho thần học và tôn giáo của một cộng đồng trở thành phi văn hoá sẽ đều là tội lỗi. Theo hai tác giả này, “những ai hưởng đặc ân từ cơ chế Giáo Hội như là nhân chứng của nền Công Giáo chân chính” thì đều sai lạc cả.
Hơn ba mươi năm trước đây, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận ra mối nguy hiểm của thứ Công Giáo bình dân này và đã phi bác cái ý tưởng về một ‘Giáo Hội của quần chúng’ bằng những lời cứng rắn; Ngài tiên đoán rằng cái “Giáo Hội sinh ra từ quần chúng là một thứ sản phẩm mới vừa phi lý lại vừa nguy hiểm…thật là vô cùng khó khăn nếu muốn tránh không bị đầu độc bởi những thứ ý hệ lạ lùng này.”
Đã đọc sách và nghe ông diễn thuyết, ta mới dễ hiểu tại sao TT Obama đã chọn Miguel Diaz làm ĐSM tại Vatican. Cũng dễ hiểu tại sao quyết định đóng cửa toà ĐSM đã khởi sự trong nhiệm kỳ của Diaz. Chính ông cũng công nhận như thế. Ngày 26 tháng 11 vừa qua, trong một buổi phỏng vấn của Catholic News Service, Diaz nói rằng “ông ta đã dính sát với quyết định đóng cửa toà ĐSM và không hề thấy có yếu tố gì làm hạ giảm vị trí của nó cả.” Ông còn thêm rằng “kế hoạch đóng cửa này đã có từ hồi TT George W. Bush.” Nếu đúng thế, thì lý do “quan ngại về an ninh” liên quan đến vụ Bengazi mà Bộ Ngoại Giao đưa ra không hề đúng. Cuộc tấn công toà ĐSM tại Bengazi đã xẩy ra vào năm 2012. Có lẽ chính Diaz đã giúp phối trí với Bộ Ngoại Giao để đưa ra cái “lý do chính thức” cho việc đóng cửa này.
Nay thì Diaz đã giã từ chức vụ ĐSM để lui về làm giáo sư tại University of Dayton, tiểu bang Ohio, thì hôm 18 tháng Giêng năm 2013, tờ Catholic News Agency đã tường trình rằng TT Obama đã tìm người thay thế cho Diaz từ trong nhóm Công Giáo “Liên Minh vì Công Ích.” John Allen của tờ National Catholic Reporter cho biết có tin là Giáo Sư Stephen F. Schneck thuộc Catholic University có thể sẽ được chọn thay thế Diaz. Theo TT Obama, Schneck sẽ là một lựa chọn tuyệt hảo do bởi sự cấu kết của ông với ‘Liên Minh vì Công Ích,” cũng như do thái độ sẵn sàng công khai phê phán các giám mục nếu ông thấy các vị bước qua lãnh vực chính trị. Quả vậy, năm 2009, Schneck là một trong 26 học giả Công Giáo đã ký tên vào bản kiến nghị ‘Catholics for Sebelius,’ nhằm ủng hộ quyết định của TT Obama bổ nhiệm Sebelius làm Bộ Trưởng Bộ SKND. Ông cũng là một trong 24 người ký vào bản kiến nghị đăng trên tờ South Bend Tribune nhan đề “Catholic Leaders and Theologians Welcome President Obama to Notre Dame.” Đây là tờ quảng cáo được ‘Liên Minh vì Công Ích’ bảo trợ nhằm phê phán các giám mục nào đã chống đối University of Notre Dame khi quyết định tặng bằng danh dự cho TT Obama.
Vào thời điểm đó, chính Đức TGM Charles Chaput của Denver có nói rằng “công việc của các nhóm Công Giáo liên kết với Đảng Dân Chủ như ‘Liên Minh vì Công Ích’ đã không hề phục vụ cho Giáo Hội, làm rối beng các mối ưu tiên tự nhiên trong giáo huấn xã hôi Công Giáo, phá hỏng bước tiến của phong trào phò sự sống, và làm cớ cho một số người Công Giáo bác bỏ vấn đề phá thai.” Mặc dù thế, Schneck vẫn tiếp tục đứng ra làm thành viên trong ban lãnh đạo ‘Liên Minh vì công Ích.’
Với TT Obama, Schneck sẽ là một chọn lựa tuyệt hảo cho chức vụ ĐSM tại Vatican, bởi vì ngoài việc chỉ trích các giám mục Công Giáo về các vấn đề sự sống và tự do tôn giáo, Schneck luôn luôn sẵn sàng tấn công Đảng Cộng Hoà về thái độ mà ông cho là “đi ngược” lại giáo huấn Công Giáo. Năm 2011, khi Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner được mời đọc diễn văn ra trường tại Catholic University of America, chính Schneck đã tổ chức một cuộc chống đối bao gồm 78 giáo sư thuộc một số trường đại học Công Giáo nhằm ký tên vào một lá thư ngỏ gửi ông Chủ Tịch để chỉ trích việc ông không bảo vệ người nghèo. Trong khi quên tuốt luốt lập trường phò sự sống kiên định của ông Chủ Tịch, nhóm chống đối này tố giác ông đã thao túng Hạ Viện để thông qua dự luật giảm thuế người giầu, như thế là làm hại giới nghèo. Họ còn tố ông Chủ Tịch là đã đi ngược lại “giáo huấn luân lý lâu đời nhất của Giáo Hội là dành ưu tiên cho các nhu cầu của giới nghèo.” Mặt khác, Schneck còn mạnh mẽ ủng hộ TT và Sebelius trong chủ trương phò phá thai.
Tuy không chọn Schneck làm ĐSM, nhưng TT Obama đã chỉ định một nhân vật phò sự sống “thực tiễn” khác là Kenneth Hackett, cựu giám đốc Catholic Relief Services (CRS--Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo). Theo John-Henry Westen trên LifeSiteNews.com, thì chỉ sau bốn ngày nhậm chức tân ĐSM tại Vatican, Ken Hackett đã “miệt thị những người phò sự sống nào trước đây đã tố giác cơ quan CRS của ông là đã tài trợ cho các tổ chức phá thai và ngừa thai.” Hồ sơ vận động cho thấy Hackett, với tiền lương $300,000 một năm trong chức vụ làm giám đốc một tổ chức cứu trợ người nghèo, đã tích cực đóng góp cho TT Obama.
Trong cuộc phỏng vấn với tờ National Catholic Reporter vào ngày 25 tháng 10 năm 2013, Hackett mô tả vai trò của ông như là “đại diện cho TT và cho chính phủ trước các thành viên Hội Đồng Tư Vấn Roma và trước Toà Thánh về các vấn đề đối với ta là ưu tiên, trong khi nhìn nhận rằng Toà Thánh thật sự mang tính toàn cầu…có nhiều vấn đề mà chính phủ Mỹ không chỉ coi là cùng chung lý tưởng với Vatican, mà cả hai bên còn có chung những mối ưu tiên thật sự nữa.” Khi được hỏi liệu ông có ‘bao che’ cho một chính phủ mà theo một số người Công Giáo tại Mỹ cho rằng có tính thù địch, thì Hackett trả lời rằng ông không thấy “bị gây rắc rối gì khi có những điều bất đồng, cần phải đối thoại hơn là ném đá nhau.”
Nay thì Hackett đang bao che cho quyết định của TT Obama khi giáng cấp vai trò toà ĐSM tại Vatican. Sau khi lập lại lý do an ninh trong quyết định đóng cửa toà ĐSM, cũng trên tờ National Catholic Reporter, Hackett còn thêm rằng “cơ sở mới sẽ cho quý khách cảm tưởng là nước Mỹ rất coi trọng mối bang giao với Vatican.” Cũng thế, Miguel Diaz ca ngợi quyết định mà ông đã có công vun đắp, khi nói chuyện với John Allen trên tờ National Catholic Reporter rằng các chỉ trích về việc đóng cửa toà ĐSM đều “xuất phát từ các đại biểu của các TT Cộng Hoà” do đó nó có “hơi hướng đảng phái.” Có lẽ đã tới lúc ông Diaz nên đọc lại những lời đanh thép chống lại việc đóng cửa toà ĐSM thốt ra từ cửa miệng ĐSM Flynn, một người được TT Clinton chỉ định.
Nguyễn Kim Ngân
Bài phân tích này có tựa đề nguyên thủy là: President Obama’s Faithful Helpers (xin mạn phép phóng dịch là “Các gia nô trung thành của Tổng Thống (TT) Obama” được đăng trên www.crisismagazine.com/2013/president-obamas-faithful-helpers, ngày 11 tháng 12 năm 2013).
Quyết định của TT Obama trong việc đóng cửa toà Đại Sứ Mỹ (ĐSM) tại Vatican—di chuyển đại sứ và toàn thể các viên chức về ‘se phòng’ với Toà ĐSM tại Ý--được nhiều người, trong số đó phải kể đến một vài vị cựu ĐSM tại Vatican—nhận định là một bước kế tiếp của chính quyền Obama trong nỗ lực hạ giảm thêm nữa tầm ảnh hưởng của Toà Thánh.
Trong khi chính quyền Obama viện dẫn quan ngại về an ninh như là lý do của việc đóng cửa này (qua một điện thư gửi cho Daily Caller sau vụ tấn công toà ĐSM tại Bengazi, Libya, vào ngày 11 tháng 9 năm 2012), thì James Nicholson, ĐSM tại Vatican từ 2001—2005, đã mô tả quyết định này như là một “xuống cấp tập thể của mối quan hệ Mỹ-Vatican…, một sự lăng mạ đối với giới Công Giáo Mỹ và với Vatican.” Ông còn nói thêm với một nhà báo của tờ National Catholic Reporter rằng quyết định này là một “biến đổi toà ĐSM (tại Vatican) trở thành đứa con ghẻ của toà ĐSM tại Ý.
Kenneth Hackett |
Việc công kích quyết định đóng cửa vừa nói đã xuất phát từ các vị cưụ ĐSM thuộc cả hai đảng. Trong khi Glendon, Nicholson, Rooney và Melady được các TT Cộng Hòa chỉ định, thì Raymond Flynn, một trong những tiếng nói công kích mạnh nhất chống lại việc sát nhập, lại được chỉ định bởi TT Clinton.
Trong một buổi phỏng vấn với tờ National Catholic Reporter, Flynn nói: “Không phải chỉ những kẻ dội bom xuống các nhà thờ và giết hại người Công Giáo trong vùng Trung Đông mới là những đối thủ của ta, đó còn là những kẻ đã cố gắng hạn chế quyền tự do tôn giáo và muốn đóng cửa toà ĐSM tại Vatican…Trong vụ này, nước Mỹ chẳng có lợi lộc gì, cả về mặt ngoại giao lẫn chính trị.”
Một phần Đường Lối gạt phăng đi các Tiếng Nói Trung Thành
Chính quyền Obama đã biểu tỏ mối ác cảm đối với Giáo Hội Công Giáo trong suốt thời kỳ tại chức--nhất là qua việc hủy bỏ mới đây nhất các phương tiện bảo vệ tự do tôn giáo qua chỉ thị của Bộ Sức Khoẻ và Nhân Dụng (SKND) áp dụng trên việc chăm sóc sức khỏe. Chỉ thị của Bộ SKND đòi buộc mọi cơ quan—bao gồm các trường đại học, bệnh viện và các tổ chức phục vụ xã hội của Công Giáo--phải cung cấp bảo hiểm trong đó có việc cấp phát thuốc phá thai như Ella và Plan B, cũng như các dịch vụ ngừa thai và triệt sản. Chỉ thị này đòi buộc người Công Giáo phải mua loại bảo hiểm, mà theo lời Giáo Hội dậy, thì mang tính vô luân nghiêm trọng. Chỉ thị của Bộ SKND buộc các chủ nhân Công Giáo phải chi trả và tạo điều kiện dễ dàng cho việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ đi ngược lại với niềm tin tôn giáo và luân lý sâu xa của họ.
Kathleen Sibelius |
Đương nhiên hai nhóm này rất khôn khéo không công khai ủng hộ phá thai, tránh né những cuộc chiến tranh văn hoá chung quanh vấn đề phá thai, hòng cho thấy lập trường luân lý cao vời trong các khẩu hiệu bên ngoài, nhưng bên trong thì ngấm ngầm đẩy mạnh các chính sách và các ứng cử viên phò phá thai như Kathleen Sebelius nhẩy vào các chức vụ công quyền cao.
Các nhóm này cũng như các kẻ lãnh đạo nhóm đều đã được TT tưởng thưởng hậu hĩ vì đã ủng hộ ông. Quả vậy, nhà thần học giải phóng, Miguel Diaz, người được TT chỉ định làm ĐSM tại Vatican năm 2009, đã trở thành “cố vấn thần học cho nhóm Công Giáo thuộc ‘Liên Minh vì Công Ích’.” Vì có cùng chủ trương cấp tiến với nhóm Công Giáo trong ‘Liên Minh vì Công Ích,’ Diaz được Edward Pentin giới thiệu trong một bài viết đăng trên tờ Catholic World Report ngày 12 tháng 5 năm 2011 như là một người biết tiếp cận các vấn đề phò sự sống “một cách thực tiễn.” Khi được hỏi về quan điểm ủng hộ các chính khách phò phá thai, Diaz cho tờ Catholic News Service biết rằng ông tin TT Obama đã “hết mình làm việc với những ai đấu tranh bảo vệ mầm sống từ trong bụng mẹ.” Còn khi được hỏi tại sao ông ủng hộ bà Kathleen Sebelius, Diaz trả lời rằng Sebelius đã làm việc cật lực để giảm thiểu số vụ phá thai khi còn làm Thống Đốc Kansas--mặc dù khi tại chức bà ta đã bỏ phiếu phủ quyết dự luật chống-phá-thai vào năm 2003, 2005, 2006 và 2008, cũng như phủ quyết dự luật bảo đảm phá thai trễ hạn và phòng ngừa “phá thai cưỡng bách.”
Đại Sứ Miguel Diaz: Gia nô trung thành nhất của Obama
Miguel Diaz |
Ngoài “Liên Minh vì Công Ích,” Diaz còn cấu kết với “Tiếng Nói Giáo Dân,” một tổ chức cấp tiến nổi lên từ vụ xì căng đan giáo sĩ lạm dụng tình dục vào năm 2002, thoạt đầu là chủ trương ủng hộ các nạn nhân, nhưng rồi mở rộng chủ trương sang lãnh vực cải cách cơ cấu lớn của Giáo Hội, bao gồm việc giảm hạ uy tín của các linh mục và giám mục, dành chỗ đi lên cho giáo dân. Diaz cống hiến cho “Tiếng Nói Giáo Dân” một loạt bài về “Lời Hứa của Vatican II” bằng cách xuất hiện trên cuốn DVD mang tựa đề “Trở Thành Giáo Hội Trần Thế.” Trong cuốn DVD này, ông trưng dẫn hai văn kiện “Lumen Gentium” và “Gaudium et Spes” biện minh cho chủ đích nâng cao vai trò giáo dân và đẩy lui vai trò hàng Giáo phẩm. Với Diaz, khi Giáo Hội đi sát hơn với một “Giáo Hội Trần Thế” vốn khai mở một thứ đạo “Công Giáo bình dân”--một tôn giáo nẩy sinh từ quần chúng và kinh nghiệm quần chúng chứ không phải từ Kinh Thánh và các giáo huấn chính thức của Giáo Hội, thì tôn giáo sẽ trở thành chính thống hơn, bởi nó xuất phát từ chính quần chúng bị áp bức.
Trong tác phẩm hợp soạn ‘From the Heart of Our People,’ Diaz và các cộng sự viên dùng ngôn ngữ Thần Học Giải Phóng để biện luận cho thứ đạo ‘Công Giáo bình dân’ như là một tôn giáo chính thức, “tôn giáo của những con người bị đầy đoạ bởi cả xã hội lẫn Giáo Hội tại Mỹ…nó chứa đựng, cống hiến và chuyển tải những chủ trương và nguyên tắc thần học đặt nền cho niềm tin…một nền tảng tối hậu của hữu thể sâu thẳm nơi quần chúng, đồng thời là biểu cảm chung linh hồn tập thể của quần chúng.” Từ viễn tượng này, ‘bình dân’ không có nghĩa là nổi bật, mà là ám chỉ niềm tin tôn giáo nổi lên từ chính quần chúng.
Theo chương nói về Maria Pilar Aquino trong tác phẩm của Diaz, thì “Công Giáo bình dân” chính là một tôn giáo trong đó quần chúng xây dựng một viễn kiến phức tạp và năng động về thế giới, nối kết kinh nghiệm tôn giáo với các truyền thống khác của Giáo Hội về đời sống và suy tưởng, chống lại cao trào các tôn giáo và ý hệ thống lĩnh, cũng như đối diện với các mâu thuẫn hiện tại và các khả thể tương lai của thực tại lịch sử.”
Với tư cách nhà tiên phong của ‘Công Giáo bình dân,’ cả Diaz lẫn đồng tác giả Orlando Espin đều chủ trương rằng thần học phải luôn mang tính văn hoá. Do đó bất kỳ một nỗ lực nào làm cho thần học và tôn giáo của một cộng đồng trở thành phi văn hoá sẽ đều là tội lỗi. Theo hai tác giả này, “những ai hưởng đặc ân từ cơ chế Giáo Hội như là nhân chứng của nền Công Giáo chân chính” thì đều sai lạc cả.
Hơn ba mươi năm trước đây, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận ra mối nguy hiểm của thứ Công Giáo bình dân này và đã phi bác cái ý tưởng về một ‘Giáo Hội của quần chúng’ bằng những lời cứng rắn; Ngài tiên đoán rằng cái “Giáo Hội sinh ra từ quần chúng là một thứ sản phẩm mới vừa phi lý lại vừa nguy hiểm…thật là vô cùng khó khăn nếu muốn tránh không bị đầu độc bởi những thứ ý hệ lạ lùng này.”
Đã đọc sách và nghe ông diễn thuyết, ta mới dễ hiểu tại sao TT Obama đã chọn Miguel Diaz làm ĐSM tại Vatican. Cũng dễ hiểu tại sao quyết định đóng cửa toà ĐSM đã khởi sự trong nhiệm kỳ của Diaz. Chính ông cũng công nhận như thế. Ngày 26 tháng 11 vừa qua, trong một buổi phỏng vấn của Catholic News Service, Diaz nói rằng “ông ta đã dính sát với quyết định đóng cửa toà ĐSM và không hề thấy có yếu tố gì làm hạ giảm vị trí của nó cả.” Ông còn thêm rằng “kế hoạch đóng cửa này đã có từ hồi TT George W. Bush.” Nếu đúng thế, thì lý do “quan ngại về an ninh” liên quan đến vụ Bengazi mà Bộ Ngoại Giao đưa ra không hề đúng. Cuộc tấn công toà ĐSM tại Bengazi đã xẩy ra vào năm 2012. Có lẽ chính Diaz đã giúp phối trí với Bộ Ngoại Giao để đưa ra cái “lý do chính thức” cho việc đóng cửa này.
Nay thì Diaz đã giã từ chức vụ ĐSM để lui về làm giáo sư tại University of Dayton, tiểu bang Ohio, thì hôm 18 tháng Giêng năm 2013, tờ Catholic News Agency đã tường trình rằng TT Obama đã tìm người thay thế cho Diaz từ trong nhóm Công Giáo “Liên Minh vì Công Ích.” John Allen của tờ National Catholic Reporter cho biết có tin là Giáo Sư Stephen F. Schneck thuộc Catholic University có thể sẽ được chọn thay thế Diaz. Theo TT Obama, Schneck sẽ là một lựa chọn tuyệt hảo do bởi sự cấu kết của ông với ‘Liên Minh vì Công Ích,” cũng như do thái độ sẵn sàng công khai phê phán các giám mục nếu ông thấy các vị bước qua lãnh vực chính trị. Quả vậy, năm 2009, Schneck là một trong 26 học giả Công Giáo đã ký tên vào bản kiến nghị ‘Catholics for Sebelius,’ nhằm ủng hộ quyết định của TT Obama bổ nhiệm Sebelius làm Bộ Trưởng Bộ SKND. Ông cũng là một trong 24 người ký vào bản kiến nghị đăng trên tờ South Bend Tribune nhan đề “Catholic Leaders and Theologians Welcome President Obama to Notre Dame.” Đây là tờ quảng cáo được ‘Liên Minh vì Công Ích’ bảo trợ nhằm phê phán các giám mục nào đã chống đối University of Notre Dame khi quyết định tặng bằng danh dự cho TT Obama.
Vào thời điểm đó, chính Đức TGM Charles Chaput của Denver có nói rằng “công việc của các nhóm Công Giáo liên kết với Đảng Dân Chủ như ‘Liên Minh vì Công Ích’ đã không hề phục vụ cho Giáo Hội, làm rối beng các mối ưu tiên tự nhiên trong giáo huấn xã hôi Công Giáo, phá hỏng bước tiến của phong trào phò sự sống, và làm cớ cho một số người Công Giáo bác bỏ vấn đề phá thai.” Mặc dù thế, Schneck vẫn tiếp tục đứng ra làm thành viên trong ban lãnh đạo ‘Liên Minh vì công Ích.’
Với TT Obama, Schneck sẽ là một chọn lựa tuyệt hảo cho chức vụ ĐSM tại Vatican, bởi vì ngoài việc chỉ trích các giám mục Công Giáo về các vấn đề sự sống và tự do tôn giáo, Schneck luôn luôn sẵn sàng tấn công Đảng Cộng Hoà về thái độ mà ông cho là “đi ngược” lại giáo huấn Công Giáo. Năm 2011, khi Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner được mời đọc diễn văn ra trường tại Catholic University of America, chính Schneck đã tổ chức một cuộc chống đối bao gồm 78 giáo sư thuộc một số trường đại học Công Giáo nhằm ký tên vào một lá thư ngỏ gửi ông Chủ Tịch để chỉ trích việc ông không bảo vệ người nghèo. Trong khi quên tuốt luốt lập trường phò sự sống kiên định của ông Chủ Tịch, nhóm chống đối này tố giác ông đã thao túng Hạ Viện để thông qua dự luật giảm thuế người giầu, như thế là làm hại giới nghèo. Họ còn tố ông Chủ Tịch là đã đi ngược lại “giáo huấn luân lý lâu đời nhất của Giáo Hội là dành ưu tiên cho các nhu cầu của giới nghèo.” Mặt khác, Schneck còn mạnh mẽ ủng hộ TT và Sebelius trong chủ trương phò phá thai.
Tuy không chọn Schneck làm ĐSM, nhưng TT Obama đã chỉ định một nhân vật phò sự sống “thực tiễn” khác là Kenneth Hackett, cựu giám đốc Catholic Relief Services (CRS--Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo). Theo John-Henry Westen trên LifeSiteNews.com, thì chỉ sau bốn ngày nhậm chức tân ĐSM tại Vatican, Ken Hackett đã “miệt thị những người phò sự sống nào trước đây đã tố giác cơ quan CRS của ông là đã tài trợ cho các tổ chức phá thai và ngừa thai.” Hồ sơ vận động cho thấy Hackett, với tiền lương $300,000 một năm trong chức vụ làm giám đốc một tổ chức cứu trợ người nghèo, đã tích cực đóng góp cho TT Obama.
Trong cuộc phỏng vấn với tờ National Catholic Reporter vào ngày 25 tháng 10 năm 2013, Hackett mô tả vai trò của ông như là “đại diện cho TT và cho chính phủ trước các thành viên Hội Đồng Tư Vấn Roma và trước Toà Thánh về các vấn đề đối với ta là ưu tiên, trong khi nhìn nhận rằng Toà Thánh thật sự mang tính toàn cầu…có nhiều vấn đề mà chính phủ Mỹ không chỉ coi là cùng chung lý tưởng với Vatican, mà cả hai bên còn có chung những mối ưu tiên thật sự nữa.” Khi được hỏi liệu ông có ‘bao che’ cho một chính phủ mà theo một số người Công Giáo tại Mỹ cho rằng có tính thù địch, thì Hackett trả lời rằng ông không thấy “bị gây rắc rối gì khi có những điều bất đồng, cần phải đối thoại hơn là ném đá nhau.”
Nay thì Hackett đang bao che cho quyết định của TT Obama khi giáng cấp vai trò toà ĐSM tại Vatican. Sau khi lập lại lý do an ninh trong quyết định đóng cửa toà ĐSM, cũng trên tờ National Catholic Reporter, Hackett còn thêm rằng “cơ sở mới sẽ cho quý khách cảm tưởng là nước Mỹ rất coi trọng mối bang giao với Vatican.” Cũng thế, Miguel Diaz ca ngợi quyết định mà ông đã có công vun đắp, khi nói chuyện với John Allen trên tờ National Catholic Reporter rằng các chỉ trích về việc đóng cửa toà ĐSM đều “xuất phát từ các đại biểu của các TT Cộng Hoà” do đó nó có “hơi hướng đảng phái.” Có lẽ đã tới lúc ông Diaz nên đọc lại những lời đanh thép chống lại việc đóng cửa toà ĐSM thốt ra từ cửa miệng ĐSM Flynn, một người được TT Clinton chỉ định.
Nguyễn Kim Ngân
Đức Bênêđíctô bênh vực Đức Phanxicô về thị trường và đạo đức
Vũ Văn An
21:04 18/12/2013
Trong cuộc phỏng vấn với tờ La Stampa vừa qua, khi được hỏi về lời chỉ trích của phe cực hữu tại Hoa Kỳ cho rằng ngài là một người Mácxít, Đức Phanxicô đã cho hay: “Ý thức hệ Mácxít sai lầm. Nhưng tôi đã gặp nhiều người Mácxít trong đời, họ rất tốt, nên tôi không thấy bị xúc phạm… Không điều gì trong Tông Huấn mà lại không thể tìm thấy trong học thuyết xã hội của Giáo Hội. Tôi không nói theo quan điểm kỹ thuật, điều tôi cố gắng làm là đưa ra một bức tranh của những gì đang diễn ra. Trích dẫn chuyên biệt duy nhất tôi sử dụng là trích dẫn liên quan tới “các lý thuyết nhỏ giọt” là các lý thuyết giả định rằng tăng trưởng kinh tế, do thị trường tự do khuyến khích, sẽ nhất thiết thành công trong việc tạo ra công bằng và bao gồm xã hội nhiều hơn trên thế giới. Hứa hẹn là khi chiếc ly đã đầy, nó sẽ tràn ra, đem lợi lại cho người nghèo. Nhưng điều thực sự xẩy ra là khi chiếc ly đầy, nó lại phình to hơn một cách đầy ảo thuật nên chẳng có chi tràn tới người nghèo cả. Đó là câu duy nhất nhắc đến lý thuyết chuyên biệt này. Tôi xin nhắc lại, tôi không nói theo quan điểm kỹ thuật nhưng theo giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Điều này chắc chắn không có nghĩa (tôi) là một người Mácxít”.
Nếu họ cho rằng chỉ vì ngài theo sát học thuyết xã hội Công Giáo mà bị coi là Mácxít thì tất cả các vị giáo hoàng trước đây cũng đều là Mácxít cả sao! Thực vậy các trước tác của Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđíctô XVI không những bênh vực các nhận định của Đức Phanxicô trong Niềm Vui Tin Mừng mà cả ngữ cảnh chuyên biệt của chúng nữa và vai trò lớn lao hơn của Giáo Hội đối với kinh tế và luân lý nói chung. Sau đây là lời Đức Bênêđíctô:
“Để tìm ra các giải pháp thực sự dẫn ta tiến lên, các ý tưởng mới về kinh tế là điều cần thiết. Nhưng các biện pháp như thế xem ra không thể quan niệm được hay đúng hơn không thể áp dụng được nếu không có các thúc đẩy về luân lý. Chính ở điểm này, cuộc đối thoại giữa Giáo Hội và kinh tế trở nên vừa khả hữu vừa cần thiết.
“Tôi muốn được nói rõ phần nào điểm chính xác của vấn đề. Thoạt nhìn, theo chính lý thuyết kinh tế cổ điển, việc Giáo Hội và nền kinh tế nên thực sự có chung với nhau điều gì là điều không hiển nhiên, ngoại trừ sự kiện Giáo Hội cũng có cơ sở làm ăn của mình và do đó, cũng là một nhân tố của thị trường. Ở đây, Giáo Hội không nên bước vào cuộc đối thoại trong tư cách chỉ là thành viên của thị trường mà đúng hơn trong quyền hạn là Giáo Hội”.
Đức Bênêđíctô nói tiếp để nghiêm khắc lên án nền kinh tế học của Adam Smith, đặc biệt là hệ thống trong đó “các hành động tự ý về ‘luân lý’ mâu thuẫn với luật lệ thị trường và xua đuổi các nhà kinh doanh hợp luân ra khỏi cuộc chơi”, vì ngài coi nền kinh tế này như một phạm nhân mà Giáo Hội buộc phải chống lại:
“Các thành công lớn lao của lý thuyết này che đậy các giới hạn của nó trong một thời gian dài. Nhưng nay, trong một hoàn cảnh đã thay đổi, các tiền gỉa định triết lý có tính chiến thuật của nó và do đó các vấn đề của nó đã trở nên rõ ràng hơn. Mặc dù chủ trương này nhìn nhận tự do của các doanh gia cá thể, và tới mức ấy, có thể gọi là tự do, nhưng thực sự trong cốt lõi, nó vẫn có tính duy định mệnh. Nó tiền giả định rằng xét theo cấu trúc của con người và của thế giới, trò chơi tự do của các lực lượng thị trường chỉ có thể hành động theo một hướng mà thôi, tức là, hướng tự điều chỉnh giữa mức cung và mức cầu, và sự hiệu năng và tiến bộ về kinh tế”.
Tuy nhiên, như Đức Phanxicô nhận định, “ý thức hệ Mácxít cũng sai lầm” luôn. Đức Bênêđíctô không ngần ngại ủng hộ nhận định này. Ngài viết:
“Về phương diện cấu trúc lý thuyết và nghiệm tác (praxis) kinh tế của nó, hệ thống Mácxít, xét như một nền kinh tế quản trị tập trung, là một phản đề triệt để của kinh tế thị trường. Người ta trông mong được cứu rỗi vì không có việc tư nhân kiểm soát các phương tiện sản xuất, vì cung và cầu không bị sự cạnh tranh của thị trường đem vào thế hoà hợp, vì không có chỗ để kiếm chác lợi lộc tư riêng, và vì mọi qui định đều phát xuất từ cơ quan quản trị kinh tế trung ương. Ấy thế nhưng, bất kể sự triệt để chống lại các cơ chế kinh tế cụ thể này, vẫn còn các điểm chung trong các tiền giả định triết lý sâu xa hơn. Tiền giả định đầu tiên hệ ở sự kiện này: chủ nghĩa Mác cũng có tính định mệnh thuyết trong bản chất của nó và cả nó nữa cũng hứa hẹn một cuộc giải phóng hoàn toàn như là thành quả của thuyết duy định mệnh. Vì lý do này, quả là một sai lầm nền tảng khi giả thiết rằng hệ thống kinh tế tập quyền là hệ thống hợp luân, ngược với hệ thống có tính máy móc của nền kinh tế thị trường. Điều này trở nên rõ nét qua việc Lenin chấp nhận luận đề của Sombart là luận đề cho rằng trong chủ nghĩa Mác, không hề có một mảy may đạo đức, mà chỉ là các luật lệ kinh tế”.
Ở đây, ta thấy rõ: ít là một phần, Đức Bênêđíctô muốn nói tới các nhận định ở đoạn 57 của Niềm Vui Tin Mừng. Các nhận định này cho rằng: “Đằng sau thái độ này ẩn nấp việc chối từ luân thường đạo lý và chối từ Thiên Chúa. Luân lý thường bị người ta nhìn một cách khinh khi và châm biếm nào đó. Nó bị coi là phản tác dụng và quá nhân bản bởi vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền lực. Nó bị coi như một mối đe dọa, vì nó lên án việc thao túng và hạ giá con người. Cuối cùng, luân lý đề cập đến một Thiên Chúa là Đấng kêu gọi một đáp trả dấn thân, là điều ở ngoài các loại thị trường. Khi các loại này đã được tuyệt đối hóa, Thiên Chúa bị coi là không thể kiểm soát được, không thể thao túng được, và thậm chí nguy hiểm, bởi vì Ngài kêu gọi con người tới sự viên mãn và độc lập khỏi bất kỳ loại nô lệ nào”
Để nhấn mạnh đến cách bênh vực của ngài, và nói cho ngay, kiểu trình bày sắc bén hơn của ngài, đối với các phê phán kinh tế của Đức Phanxicô trong Niềm Vui Tin Mừng, Đức Bênêđíctô nhận định:
“Ta không thể ngây thơ coi hệ thống tư bản tự do như là hệ thống cứu thế được nữa (dù với những điều chỉnh nó nhận được lâu nay). Ta không thể còn coi như thế được nữa trong thời đại Kennedy, với chủ nghĩa lạc quan của Đoàn Hòa Bình; các nghi vấn của Thế Giới Đệ Tam có thể là không vô tư, nhưng chúng không hề vô căn cứ. Việc tự phê của các tuyên tín Kitô Giáo liên quan tới đạo đức học chính trị và kinh tế là đòi hỏi trước nhất.
“Một sự kiện lịch sử mỗi ngày mỗi trở nên hiển nhiên hơn là: việc phát triển của các hệ thống kinh tế tập chú vào ích chung tùy thuộc một hệ thống đạo đức nhất định; hệ thống này chỉ có thể phát sinh và duy trì nhờ các xác tín mạnh mẽ về tôn giáo. Ngược lại, điều cũng trở nên hiển nhiên là sự suy thoái của hệ thống đạo đức này thực sự có khả năng khiến các định luật của thị trường sụp đổ hoàn toàn. Chính sách kinh tế nào nhằm phục vụ không những thiện ích của tập thể, đúng hơn, không những ích chung của một nhà nước nhất định, mà còn nhằm phục vụ ích chung của gia đình nhân loại đều đòi phải có một nền đạo đức tối đa và do đó một sức mạnh tôn giáo tối đa. Ngày nay, việc đào tạo ý chí về chính trị chỉ dùng các định luật kinh tế cố hữu để hướng tới mục tiêu này, dù với tất cả các phản kháng nhân đạo, xem ra vẫn là điều hầu như bất khả. Nó chỉ có thể thể hiện được nếu các sức mạnh mới về đạo đức được hoàn toàn thả tự do. Nền đạo đức nào nếu tin mình có thể làm ngơ kiến thức kỹ thuật của kinh tế thì không phải là một nền đạo đức mà là một chủ nghĩa duy đạo đức. Một thứ phản đề của luân lý. Phương thức khoa học nào nếu tin mình có khả năng quản trị mà không cần một triết lý hành động (ethos) là đã hiều lầm thực tại con người. Do đó, không khoa học chút nào. Ngày nay, ta cần một hiểu biết tối đa chuyên biệt về kinh tế, nhưng cũng cần một triết lý hành động tối đa để cái hiểu chuyên biệt về kinh tế có thể phục vụ các mục tiêu đúng đắn. Chỉ bằng cách này, kiến thức của nó mới có thể vừa có tính thực tiễn về chính trị vừa có thể chấp nhận được về xã hội”.
Điều đáng chú ý là lời bênh vực của vị giáo hoàng hưu trí đã được viết ra từ tháng Mười Một năm 1985, gần 30 năm trước khi công bố Niềm Vui Tin Mừng.
Theo Andrew M. Haines, Pope Benedict Defends Francis on Markets and Ethics, Ethika Politika (http://ethikapolitika.org/2013/12/16/benedict-defends-francis-markets-ethics/) 16 tháng 12, 2013.
Nếu họ cho rằng chỉ vì ngài theo sát học thuyết xã hội Công Giáo mà bị coi là Mácxít thì tất cả các vị giáo hoàng trước đây cũng đều là Mácxít cả sao! Thực vậy các trước tác của Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđíctô XVI không những bênh vực các nhận định của Đức Phanxicô trong Niềm Vui Tin Mừng mà cả ngữ cảnh chuyên biệt của chúng nữa và vai trò lớn lao hơn của Giáo Hội đối với kinh tế và luân lý nói chung. Sau đây là lời Đức Bênêđíctô:
“Để tìm ra các giải pháp thực sự dẫn ta tiến lên, các ý tưởng mới về kinh tế là điều cần thiết. Nhưng các biện pháp như thế xem ra không thể quan niệm được hay đúng hơn không thể áp dụng được nếu không có các thúc đẩy về luân lý. Chính ở điểm này, cuộc đối thoại giữa Giáo Hội và kinh tế trở nên vừa khả hữu vừa cần thiết.
“Tôi muốn được nói rõ phần nào điểm chính xác của vấn đề. Thoạt nhìn, theo chính lý thuyết kinh tế cổ điển, việc Giáo Hội và nền kinh tế nên thực sự có chung với nhau điều gì là điều không hiển nhiên, ngoại trừ sự kiện Giáo Hội cũng có cơ sở làm ăn của mình và do đó, cũng là một nhân tố của thị trường. Ở đây, Giáo Hội không nên bước vào cuộc đối thoại trong tư cách chỉ là thành viên của thị trường mà đúng hơn trong quyền hạn là Giáo Hội”.
Đức Bênêđíctô nói tiếp để nghiêm khắc lên án nền kinh tế học của Adam Smith, đặc biệt là hệ thống trong đó “các hành động tự ý về ‘luân lý’ mâu thuẫn với luật lệ thị trường và xua đuổi các nhà kinh doanh hợp luân ra khỏi cuộc chơi”, vì ngài coi nền kinh tế này như một phạm nhân mà Giáo Hội buộc phải chống lại:
“Các thành công lớn lao của lý thuyết này che đậy các giới hạn của nó trong một thời gian dài. Nhưng nay, trong một hoàn cảnh đã thay đổi, các tiền gỉa định triết lý có tính chiến thuật của nó và do đó các vấn đề của nó đã trở nên rõ ràng hơn. Mặc dù chủ trương này nhìn nhận tự do của các doanh gia cá thể, và tới mức ấy, có thể gọi là tự do, nhưng thực sự trong cốt lõi, nó vẫn có tính duy định mệnh. Nó tiền giả định rằng xét theo cấu trúc của con người và của thế giới, trò chơi tự do của các lực lượng thị trường chỉ có thể hành động theo một hướng mà thôi, tức là, hướng tự điều chỉnh giữa mức cung và mức cầu, và sự hiệu năng và tiến bộ về kinh tế”.
Tuy nhiên, như Đức Phanxicô nhận định, “ý thức hệ Mácxít cũng sai lầm” luôn. Đức Bênêđíctô không ngần ngại ủng hộ nhận định này. Ngài viết:
“Về phương diện cấu trúc lý thuyết và nghiệm tác (praxis) kinh tế của nó, hệ thống Mácxít, xét như một nền kinh tế quản trị tập trung, là một phản đề triệt để của kinh tế thị trường. Người ta trông mong được cứu rỗi vì không có việc tư nhân kiểm soát các phương tiện sản xuất, vì cung và cầu không bị sự cạnh tranh của thị trường đem vào thế hoà hợp, vì không có chỗ để kiếm chác lợi lộc tư riêng, và vì mọi qui định đều phát xuất từ cơ quan quản trị kinh tế trung ương. Ấy thế nhưng, bất kể sự triệt để chống lại các cơ chế kinh tế cụ thể này, vẫn còn các điểm chung trong các tiền giả định triết lý sâu xa hơn. Tiền giả định đầu tiên hệ ở sự kiện này: chủ nghĩa Mác cũng có tính định mệnh thuyết trong bản chất của nó và cả nó nữa cũng hứa hẹn một cuộc giải phóng hoàn toàn như là thành quả của thuyết duy định mệnh. Vì lý do này, quả là một sai lầm nền tảng khi giả thiết rằng hệ thống kinh tế tập quyền là hệ thống hợp luân, ngược với hệ thống có tính máy móc của nền kinh tế thị trường. Điều này trở nên rõ nét qua việc Lenin chấp nhận luận đề của Sombart là luận đề cho rằng trong chủ nghĩa Mác, không hề có một mảy may đạo đức, mà chỉ là các luật lệ kinh tế”.
Ở đây, ta thấy rõ: ít là một phần, Đức Bênêđíctô muốn nói tới các nhận định ở đoạn 57 của Niềm Vui Tin Mừng. Các nhận định này cho rằng: “Đằng sau thái độ này ẩn nấp việc chối từ luân thường đạo lý và chối từ Thiên Chúa. Luân lý thường bị người ta nhìn một cách khinh khi và châm biếm nào đó. Nó bị coi là phản tác dụng và quá nhân bản bởi vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền lực. Nó bị coi như một mối đe dọa, vì nó lên án việc thao túng và hạ giá con người. Cuối cùng, luân lý đề cập đến một Thiên Chúa là Đấng kêu gọi một đáp trả dấn thân, là điều ở ngoài các loại thị trường. Khi các loại này đã được tuyệt đối hóa, Thiên Chúa bị coi là không thể kiểm soát được, không thể thao túng được, và thậm chí nguy hiểm, bởi vì Ngài kêu gọi con người tới sự viên mãn và độc lập khỏi bất kỳ loại nô lệ nào”
Để nhấn mạnh đến cách bênh vực của ngài, và nói cho ngay, kiểu trình bày sắc bén hơn của ngài, đối với các phê phán kinh tế của Đức Phanxicô trong Niềm Vui Tin Mừng, Đức Bênêđíctô nhận định:
“Ta không thể ngây thơ coi hệ thống tư bản tự do như là hệ thống cứu thế được nữa (dù với những điều chỉnh nó nhận được lâu nay). Ta không thể còn coi như thế được nữa trong thời đại Kennedy, với chủ nghĩa lạc quan của Đoàn Hòa Bình; các nghi vấn của Thế Giới Đệ Tam có thể là không vô tư, nhưng chúng không hề vô căn cứ. Việc tự phê của các tuyên tín Kitô Giáo liên quan tới đạo đức học chính trị và kinh tế là đòi hỏi trước nhất.
“Một sự kiện lịch sử mỗi ngày mỗi trở nên hiển nhiên hơn là: việc phát triển của các hệ thống kinh tế tập chú vào ích chung tùy thuộc một hệ thống đạo đức nhất định; hệ thống này chỉ có thể phát sinh và duy trì nhờ các xác tín mạnh mẽ về tôn giáo. Ngược lại, điều cũng trở nên hiển nhiên là sự suy thoái của hệ thống đạo đức này thực sự có khả năng khiến các định luật của thị trường sụp đổ hoàn toàn. Chính sách kinh tế nào nhằm phục vụ không những thiện ích của tập thể, đúng hơn, không những ích chung của một nhà nước nhất định, mà còn nhằm phục vụ ích chung của gia đình nhân loại đều đòi phải có một nền đạo đức tối đa và do đó một sức mạnh tôn giáo tối đa. Ngày nay, việc đào tạo ý chí về chính trị chỉ dùng các định luật kinh tế cố hữu để hướng tới mục tiêu này, dù với tất cả các phản kháng nhân đạo, xem ra vẫn là điều hầu như bất khả. Nó chỉ có thể thể hiện được nếu các sức mạnh mới về đạo đức được hoàn toàn thả tự do. Nền đạo đức nào nếu tin mình có thể làm ngơ kiến thức kỹ thuật của kinh tế thì không phải là một nền đạo đức mà là một chủ nghĩa duy đạo đức. Một thứ phản đề của luân lý. Phương thức khoa học nào nếu tin mình có khả năng quản trị mà không cần một triết lý hành động (ethos) là đã hiều lầm thực tại con người. Do đó, không khoa học chút nào. Ngày nay, ta cần một hiểu biết tối đa chuyên biệt về kinh tế, nhưng cũng cần một triết lý hành động tối đa để cái hiểu chuyên biệt về kinh tế có thể phục vụ các mục tiêu đúng đắn. Chỉ bằng cách này, kiến thức của nó mới có thể vừa có tính thực tiễn về chính trị vừa có thể chấp nhận được về xã hội”.
Điều đáng chú ý là lời bênh vực của vị giáo hoàng hưu trí đã được viết ra từ tháng Mười Một năm 1985, gần 30 năm trước khi công bố Niềm Vui Tin Mừng.
Theo Andrew M. Haines, Pope Benedict Defends Francis on Markets and Ethics, Ethika Politika (http://ethikapolitika.org/2013/12/16/benedict-defends-francis-markets-ethics/) 16 tháng 12, 2013.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tuần tập huấn giáo lý viên tại giáo xứ Mỹ Khánh, hạt Bảo Nham
Huy Hoàng
09:17 18/12/2013
Giáo hạt Bảo Nham, với địa bàn sâu rộng, có 13 giáo xứ nằm rải rác thuộc bốn huyện, do vậy được chia thành 3 cụm để thầy cô tiện việc đi lại và học tập, cụm 1 gồm: các giáo xứ Bảo Nham, Rú Đất, Lâm Xuyên, Mỹ Khánh và Ngọc Long, cụm 2 gồm các giáo xứ Hội Yên, Thanh Tân, Lưu Mỹ, cụm 3: Hậu Thành, Đạo Đồng, Quy Hậu, Làng Rào, Tân Diên.
Sáng ngày 9/12/2013, đồng loạt 3 cụm đã trở về cụm của mình để tham gia tuần tập huấn, dưới những cơn mưa dai dẳng và cái rét mùa đông cũng không làm tinh thần các thầy cô nao núng, trong cụm 1 tổ chứ tại giáo xứ Mỹ Khánh có 158 thầy cô, riêng giáo xứ Bảo Nham tham gia 40 thầy cô, đặc biệt có một số cô còn rất trẻ và đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng với lòng nhiệt tình, hy sinh cộng tác trong công cuộc truyền dạy cho các em
Thầy cô giáo lý viên hiểu được trọng trách của mình là một ơn gọi với một sứ vụ loại biệt, để Giáo lý Chúa Kitô trở nên thông điệp thật gần gũi với con người. Chính vì thế, tập huấn cho Giáo lý viên trở nên một việc làm thiết yếu và là một ưu tiên trong chương trình hoạt động của Ban Giáo lý Đức tin (BGLĐT) Giáo phận. Do đó, hằng năm, BGLĐTGP đều tổ chức các tuần tập huấn tại các giáo hạt với ban giảng huấn là những người có chuyên môn cao.
Với những nội dung tập huấn, những phần lý thuyết, thực hành, những bài trắc nghiệm, qua tuần tập huấn các thầy cô đã nắm bắt được, do vậy kết quả khảo sát cuối tuần của các khối một số thầy cô đạt điểm cao.
Tuần tập huấn khép lại bằng thánh lễ tạ ơn vào ngày 14/12/2013 do cha quản hạt chủ sự, cùng với quý cha trong giáo hạt đồng tế. Đông đảo bà con giáo xứ Mỹ Khánh cũng đến tham dự thánh lễ, dâng lời tạ ơn với ban giảng huấn và 158 GLV sau một tuần hồng phúc.
Sau cùng là nghi thức sai đi dành cho các GLV trước sự chứng kiến của cha quản xứ, đại diện Ban Giáo lý Đức tin Giáo phận và cộng đoàn dân Chúa. Các GLV như được tiếp thêm sức mạnh để hân hoan lên đường, quyết tâm thi hành sứ mạng của mình.
Sáng ngày 9/12/2013, đồng loạt 3 cụm đã trở về cụm của mình để tham gia tuần tập huấn, dưới những cơn mưa dai dẳng và cái rét mùa đông cũng không làm tinh thần các thầy cô nao núng, trong cụm 1 tổ chứ tại giáo xứ Mỹ Khánh có 158 thầy cô, riêng giáo xứ Bảo Nham tham gia 40 thầy cô, đặc biệt có một số cô còn rất trẻ và đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng với lòng nhiệt tình, hy sinh cộng tác trong công cuộc truyền dạy cho các em
Với những nội dung tập huấn, những phần lý thuyết, thực hành, những bài trắc nghiệm, qua tuần tập huấn các thầy cô đã nắm bắt được, do vậy kết quả khảo sát cuối tuần của các khối một số thầy cô đạt điểm cao.
Tuần tập huấn khép lại bằng thánh lễ tạ ơn vào ngày 14/12/2013 do cha quản hạt chủ sự, cùng với quý cha trong giáo hạt đồng tế. Đông đảo bà con giáo xứ Mỹ Khánh cũng đến tham dự thánh lễ, dâng lời tạ ơn với ban giảng huấn và 158 GLV sau một tuần hồng phúc.
Sau cùng là nghi thức sai đi dành cho các GLV trước sự chứng kiến của cha quản xứ, đại diện Ban Giáo lý Đức tin Giáo phận và cộng đoàn dân Chúa. Các GLV như được tiếp thêm sức mạnh để hân hoan lên đường, quyết tâm thi hành sứ mạng của mình.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đảng CSVN có đang vỡ ra từng mảnh ?
Phạm Trần
22:04 18/12/2013
ĐẢNG CSVN CÓ ĐANG VỠ RA TỪNG MẢNH ?
Trong khi Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cố gượng cười ăn mừng tòan thắng thông qua Hiến pháp mới ngày 28/11/2013 thì họ cũng run sợ trước trận cuồng phong bão kép “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang âm thầm phá đảng không còn manh giáp bất kỳ lúc nào.
Biến chuyển này đến vào cuối năm 2013, giữa nhiệm kỳ đảng Khóa XI, không còn là chuyện hão huyền hay ảo tưởng trong tàn cuộc rượu của những “thế lực thù địch” hay “những phần tử bất mãn” mà do chính đảng viên gây ra.
Vì vậy từ sau Hội nghị Trung ương 8/XI từ 30/9 đến ngày 9/10/2013, đảng đã dồn mọi nỗ lực và tiền bạc vào công tác học tập Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tất cả Lực lượng võ trang bao gồm Quân Đội, Lực lượng trừ bị dân sự và lực lượng Công An cho đến các cấp đảng và đơn vị hành chính đều được cảnh giác “Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” (Nghị quyết Trung ương 8/XI).
Nhưng lực lượng của kẻ thù nào đã hay đang đe dọa sự “toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” ? Mọi người Việt Nam dù ở trong nước hay ngòai nước, cũng đều biết chỉ có kẻ thù duy nhất có khả năng “ăn tươi nuốt sống Việt Nam” bây giờ là Trung Cộng, nước láng giềng phương Bắc mà Lãnh đạo hai nước vẫn thường “đồng ca” bài 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tình thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.”
Nhưng tại sao chưa bao giờ có Lãnh đạo nào của Việt Nam, từ thời Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh (1986) cho đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011) dám “động đến lỗ chân lông” của Trung Cộng dù đã bị áp chế công khai trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông ?
Vì vậy mệnh lệnh thi hành “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới “ theo tinh thần Nghị quyết 8 Khoá đảng IX (năm 2003) được lập lại hồi tháng 10/2013 chỉ là “cái mã bề ngoài” nhằm che giấu chủ trương triệt để ngăn chận bằng mọi giá những cuộc nổi loạn từ trong nội bộ đảng và trong nhân dân đang âm thầm bung ra chống đảng.
NHỮNG KẺ NỘI THÙ
Vì vậy những kẻ đang đe dọa sự sống còn của đảng và tồn vong của chế độ không xuất thân từ “các thế lực thù địch” hay “diễn biến hòa bình” của phương Tây, chủ yếu là Mỹ như đảng vẫn hô hóan.
Ngay cả đe dọa xâm lăng Việt Nam bằng quân sự của Trung Cộng cũng không cần thiết vào lúc này vì Bắc Kinh đã thành công “bao vây và khống chế Việt Nam” bằng kinh tế và chính trị từ nhiều năm qua.
Kẻ thù đích thực của đảng CSVN đang dấy lên từ trong lòng chế độ bởi các “nhóm lợi ích” quyết bảo vệ quyền hành và bổng lộc bằng mọi giá; bởi đội ngũ cán bộ đảng viên tham nhũng; bởi những kế họach, dự án kinh tế đẻ ra lãng phí; bởi thành phần bất mãn trong đảng vì bị mất quyền lợi, bị ăn hớt tay trên bởi các cấp trên có chức, có quyền.
Chúng cũng đến từ những bấn loạn trong hệ thống cai trị của “một bộ phận không nhỏ”cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Và sau cùng là sự không còn tin vào đường lối lãnh đạo của đảng vì đảng viên nào cũng thấy rõ quyết định duy trì quyền lãnh đạo độc tôn của đảng dựa trên Chủ nghĩa phá sản Cộng sản không làm cho"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà chỉ làm cho dân tộc lầm than và lạc hậu hơn, ngay cả đối với người dân Cao Miên và Lào.
Chuyện này không mới vì ngay trong Đại hội Đảng lần thứ XI (Tháng 1/2011), Đảng đã thừa nhận: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.”
Ban Chấp hành Trung ương còn xác nhận : “Trong nội bộ những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp…”
Cuộc sống của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền và những Lãnh đạo vẫn thường rao giảng “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã sống và hành động ngược với lời nói. Nhiều cán bộ, đảng viên đã bị nhân dân ta thán với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang rằng những người này, nếu không tham nhũng thì lấy tiền đâu tậu nhà, mua xe hơi đắt tiền và sống rất sa hoa, trụy lạc, mất phẩm chất và còn có tiền gửi con ra theo học ở các nước Tư bản ?
Vì vậy ở Việt Nam đến cuối năm 2013, vào giữa nhiệm kỳ Đảng Khoá XI, không còn ai tin vào lời Đảng nói rằng: “ Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.”
Hay hù họa vô căn cứ : “ Các thế lực thù địch tăng cường chống phá sự nghiệp đổi mới của đất nước với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc hơn…” (Nghị quyết Trung ương 8/XI)
Nhưng những lời báo động này không mới vì chúng đã được Lãnh đạo đảng nói đi nói lại từ Khoá đảng IX dưới thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh. Chỉ khác ở tính thời gian nên khi được lập lại sau 13 năm đã chứng minh đảng không tìm được lý do nào mới hơn để trốn tránh thất bại cho việc “tự phê bình và phê bình” trong nội bộ đảng.
Điều này cũng có nghĩa chủ nghĩa cá nhân và chứng bệnh di căn“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nghiêm trọng hơn các năm trước.
Vì vậy, trên Tạp chí Tuyên Giáo ngày 27/11/2013 (Ban Tuyên giáo Trung Ương), Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tú đã kêu gọi đảng viên phải : “Phối hợp và phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng chủ động đấu tranh phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên.”
Ông viết : “ Các cấp ủy Đảng, phải nhận thức đúng, đánh giá cho được sự thoái hoá về tư tưởng, chính trị, mức độ và tính chất“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cán bộ, đảng viên, kịp thời có chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, quán triệt và tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt chú trọng khâu giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và chất lượng sinh hoạt Đảng. Phát huy dân chủ, tăng cường kiểm tra giám sát, đổi mới công tác bố trí, sử dụng cán bộ; bổ sung, đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách về cán bộ….nhận thức cho đúng tính chất phức tạp, nguy hại và nhận diện cho rõ những biểu hiện cụ thể, mức độ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, để một mặt tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì và đi liền với chủ động chống lại thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của các thế lực thù địch.”
Những “bầy mưu, vẽ kế” của Giáo sư Nguyễn Xuân Tú cũng chỉ có giá trị trên lý thuyết vì thực tế đảng đã làm những việc này rồi mà có thay đổi được gì đâu.
CÔNG AN PHẢI BÀO VỆ ĐẢNG
Bằng chứng đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và cấp lãnh đạo Bộ Công an lập lại tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 69 tổ chức tại Hà Nội ngày 18/12/2013.
Ông Nguyễn Phú Trọng bảo lực lượng Công an phải : “Chủ động nắm chắc, phân tích, dự báo sát đúng tình hình để tham mưu với Đảng, Nhà nước có chủ trương, quyết sách đúng đắn. Tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa, tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh kinh tế, tài chính, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ Đảng, bảo vệ quá trình triển khai thi hành Hiến pháp vừa được Quốc hội thông qua... Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, không để bị động, bất ngờ; giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng yếu và các sự kiện quan trọng của đất nước, tạo môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.”
Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng không hề nói gì đến nhiệm vụ của Công an chống lại đe dọa chiếm biển đảo Việt Nam của Trung Cộng là nhiệm vụ “bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, nhưng ông lại tập trung vào tình hình nội bộ khi nói rằng : “Lực lượng Công an nhân dân và báo chí Công an nhân dân cần tích cực tham gia và thể hiện vai trò đi đầu trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; tham gia tích cực cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phản bác nhanh, nhạy, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Từ lâu, đảng đã công khai nói Quân đội và Công an là hai lực lượng rường cột bảo vệ đảng nên không ngạc nhiên khi thấy ông Trọng nói thêm lần nữa rằng : “Lực lượng Công an là một công cụ chuyên chính, sắc bén của Đảng, chiến đấu trực diện hằng ngày, hằng giờ với kẻ thù rất gian ác và xảo quyệt. Thực tế khách quan đó đòi hỏi các tổ chức Đảng trong Công an nhân dân phải trong sạch, vững mạnh. Vì vậy, lực lượng Công an nhân dân cần tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng Công an.”
Ông còn nói thêm:”Toàn bộ hoạt động của lực lượng Công an nhân dân phải tập trung thực hiện nhiệm vụ trung tâm là giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống. Đó là mục tiêu, nhiệm vụ chung, chúng ta phải kiên quyết thực hiện cho bằng được, khó khăn phức tạp thế nào cũng phải kiên quyết làm, nếu không sẽ đe dọa tới sự tồn vong của chế độ, tới vai trò lãnh đạo của Đảng.”
Lệnh và đe dọa của ông Nguyễn Phú Trọng về sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của đảng CSVN cho thấy tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ đảng viên là biến cố rất quan trọng đảng phải đối phó vào giai đọan Ban Chấp hành Trung ương Khoá XI đang chuẩn bị nhân sự cho Khoá đáng XII năm 2016.
Nhưng liệu tình trạng “xáo trộn” nội bộ này có tích lũy thành một lực cản khiến đảng khó vượt qua để tồn tại hay “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” của đảng viên sẽ hòa chung vào tiến trình dân đang mỗi ngày một xa đảng để đảng tự vỡ cho tan không còn manh giáp che thân ?
Phạm Trần
(12/013)
Trong khi Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cố gượng cười ăn mừng tòan thắng thông qua Hiến pháp mới ngày 28/11/2013 thì họ cũng run sợ trước trận cuồng phong bão kép “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang âm thầm phá đảng không còn manh giáp bất kỳ lúc nào.
Biến chuyển này đến vào cuối năm 2013, giữa nhiệm kỳ đảng Khóa XI, không còn là chuyện hão huyền hay ảo tưởng trong tàn cuộc rượu của những “thế lực thù địch” hay “những phần tử bất mãn” mà do chính đảng viên gây ra.
Vì vậy từ sau Hội nghị Trung ương 8/XI từ 30/9 đến ngày 9/10/2013, đảng đã dồn mọi nỗ lực và tiền bạc vào công tác học tập Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tất cả Lực lượng võ trang bao gồm Quân Đội, Lực lượng trừ bị dân sự và lực lượng Công An cho đến các cấp đảng và đơn vị hành chính đều được cảnh giác “Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” (Nghị quyết Trung ương 8/XI).
Nhưng lực lượng của kẻ thù nào đã hay đang đe dọa sự “toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” ? Mọi người Việt Nam dù ở trong nước hay ngòai nước, cũng đều biết chỉ có kẻ thù duy nhất có khả năng “ăn tươi nuốt sống Việt Nam” bây giờ là Trung Cộng, nước láng giềng phương Bắc mà Lãnh đạo hai nước vẫn thường “đồng ca” bài 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tình thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.”
Nhưng tại sao chưa bao giờ có Lãnh đạo nào của Việt Nam, từ thời Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh (1986) cho đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011) dám “động đến lỗ chân lông” của Trung Cộng dù đã bị áp chế công khai trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông ?
Vì vậy mệnh lệnh thi hành “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới “ theo tinh thần Nghị quyết 8 Khoá đảng IX (năm 2003) được lập lại hồi tháng 10/2013 chỉ là “cái mã bề ngoài” nhằm che giấu chủ trương triệt để ngăn chận bằng mọi giá những cuộc nổi loạn từ trong nội bộ đảng và trong nhân dân đang âm thầm bung ra chống đảng.
NHỮNG KẺ NỘI THÙ
Vì vậy những kẻ đang đe dọa sự sống còn của đảng và tồn vong của chế độ không xuất thân từ “các thế lực thù địch” hay “diễn biến hòa bình” của phương Tây, chủ yếu là Mỹ như đảng vẫn hô hóan.
Ngay cả đe dọa xâm lăng Việt Nam bằng quân sự của Trung Cộng cũng không cần thiết vào lúc này vì Bắc Kinh đã thành công “bao vây và khống chế Việt Nam” bằng kinh tế và chính trị từ nhiều năm qua.
Kẻ thù đích thực của đảng CSVN đang dấy lên từ trong lòng chế độ bởi các “nhóm lợi ích” quyết bảo vệ quyền hành và bổng lộc bằng mọi giá; bởi đội ngũ cán bộ đảng viên tham nhũng; bởi những kế họach, dự án kinh tế đẻ ra lãng phí; bởi thành phần bất mãn trong đảng vì bị mất quyền lợi, bị ăn hớt tay trên bởi các cấp trên có chức, có quyền.
Chúng cũng đến từ những bấn loạn trong hệ thống cai trị của “một bộ phận không nhỏ”cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Và sau cùng là sự không còn tin vào đường lối lãnh đạo của đảng vì đảng viên nào cũng thấy rõ quyết định duy trì quyền lãnh đạo độc tôn của đảng dựa trên Chủ nghĩa phá sản Cộng sản không làm cho"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà chỉ làm cho dân tộc lầm than và lạc hậu hơn, ngay cả đối với người dân Cao Miên và Lào.
Chuyện này không mới vì ngay trong Đại hội Đảng lần thứ XI (Tháng 1/2011), Đảng đã thừa nhận: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.”
Ban Chấp hành Trung ương còn xác nhận : “Trong nội bộ những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp…”
Cuộc sống của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền và những Lãnh đạo vẫn thường rao giảng “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã sống và hành động ngược với lời nói. Nhiều cán bộ, đảng viên đã bị nhân dân ta thán với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang rằng những người này, nếu không tham nhũng thì lấy tiền đâu tậu nhà, mua xe hơi đắt tiền và sống rất sa hoa, trụy lạc, mất phẩm chất và còn có tiền gửi con ra theo học ở các nước Tư bản ?
Vì vậy ở Việt Nam đến cuối năm 2013, vào giữa nhiệm kỳ Đảng Khoá XI, không còn ai tin vào lời Đảng nói rằng: “ Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.”
Hay hù họa vô căn cứ : “ Các thế lực thù địch tăng cường chống phá sự nghiệp đổi mới của đất nước với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc hơn…” (Nghị quyết Trung ương 8/XI)
Nhưng những lời báo động này không mới vì chúng đã được Lãnh đạo đảng nói đi nói lại từ Khoá đảng IX dưới thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh. Chỉ khác ở tính thời gian nên khi được lập lại sau 13 năm đã chứng minh đảng không tìm được lý do nào mới hơn để trốn tránh thất bại cho việc “tự phê bình và phê bình” trong nội bộ đảng.
Điều này cũng có nghĩa chủ nghĩa cá nhân và chứng bệnh di căn“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nghiêm trọng hơn các năm trước.
Vì vậy, trên Tạp chí Tuyên Giáo ngày 27/11/2013 (Ban Tuyên giáo Trung Ương), Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tú đã kêu gọi đảng viên phải : “Phối hợp và phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng chủ động đấu tranh phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên.”
Ông viết : “ Các cấp ủy Đảng, phải nhận thức đúng, đánh giá cho được sự thoái hoá về tư tưởng, chính trị, mức độ và tính chất“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cán bộ, đảng viên, kịp thời có chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, quán triệt và tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt chú trọng khâu giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và chất lượng sinh hoạt Đảng. Phát huy dân chủ, tăng cường kiểm tra giám sát, đổi mới công tác bố trí, sử dụng cán bộ; bổ sung, đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách về cán bộ….nhận thức cho đúng tính chất phức tạp, nguy hại và nhận diện cho rõ những biểu hiện cụ thể, mức độ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, để một mặt tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì và đi liền với chủ động chống lại thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của các thế lực thù địch.”
Những “bầy mưu, vẽ kế” của Giáo sư Nguyễn Xuân Tú cũng chỉ có giá trị trên lý thuyết vì thực tế đảng đã làm những việc này rồi mà có thay đổi được gì đâu.
CÔNG AN PHẢI BÀO VỆ ĐẢNG
Bằng chứng đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và cấp lãnh đạo Bộ Công an lập lại tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 69 tổ chức tại Hà Nội ngày 18/12/2013.
Ông Nguyễn Phú Trọng bảo lực lượng Công an phải : “Chủ động nắm chắc, phân tích, dự báo sát đúng tình hình để tham mưu với Đảng, Nhà nước có chủ trương, quyết sách đúng đắn. Tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa, tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh kinh tế, tài chính, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ Đảng, bảo vệ quá trình triển khai thi hành Hiến pháp vừa được Quốc hội thông qua... Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, không để bị động, bất ngờ; giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng yếu và các sự kiện quan trọng của đất nước, tạo môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.”
Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng không hề nói gì đến nhiệm vụ của Công an chống lại đe dọa chiếm biển đảo Việt Nam của Trung Cộng là nhiệm vụ “bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, nhưng ông lại tập trung vào tình hình nội bộ khi nói rằng : “Lực lượng Công an nhân dân và báo chí Công an nhân dân cần tích cực tham gia và thể hiện vai trò đi đầu trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; tham gia tích cực cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phản bác nhanh, nhạy, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Từ lâu, đảng đã công khai nói Quân đội và Công an là hai lực lượng rường cột bảo vệ đảng nên không ngạc nhiên khi thấy ông Trọng nói thêm lần nữa rằng : “Lực lượng Công an là một công cụ chuyên chính, sắc bén của Đảng, chiến đấu trực diện hằng ngày, hằng giờ với kẻ thù rất gian ác và xảo quyệt. Thực tế khách quan đó đòi hỏi các tổ chức Đảng trong Công an nhân dân phải trong sạch, vững mạnh. Vì vậy, lực lượng Công an nhân dân cần tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng Công an.”
Ông còn nói thêm:”Toàn bộ hoạt động của lực lượng Công an nhân dân phải tập trung thực hiện nhiệm vụ trung tâm là giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống. Đó là mục tiêu, nhiệm vụ chung, chúng ta phải kiên quyết thực hiện cho bằng được, khó khăn phức tạp thế nào cũng phải kiên quyết làm, nếu không sẽ đe dọa tới sự tồn vong của chế độ, tới vai trò lãnh đạo của Đảng.”
Lệnh và đe dọa của ông Nguyễn Phú Trọng về sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của đảng CSVN cho thấy tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ đảng viên là biến cố rất quan trọng đảng phải đối phó vào giai đọan Ban Chấp hành Trung ương Khoá XI đang chuẩn bị nhân sự cho Khoá đáng XII năm 2016.
Nhưng liệu tình trạng “xáo trộn” nội bộ này có tích lũy thành một lực cản khiến đảng khó vượt qua để tồn tại hay “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” của đảng viên sẽ hòa chung vào tiến trình dân đang mỗi ngày một xa đảng để đảng tự vỡ cho tan không còn manh giáp che thân ?
Phạm Trần
(12/013)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Việc dời ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội được qui định thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
08:14 18/12/2013
Giải đáp phụng vụ: Việc dời ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội được qui định thế nào?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Năm nay (2013) lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được cử hành ngày thứ hai, 9-12, tại giáo xứ của tôi. Lễ đã được dời qua ngày 9, bởi vì ngày 8-12 là một Chúa Nhật Mùa Vọng, nên không được cử hành lễ khác. Mặc dù lễ cử hành vào ngày Chúa Nhật 8-12 là một ngày lễ buộc, lễ vào ngày dời không là ngày lễ buộc, vì luật buộc đã được đáp ứng bằng cách tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật 8-12 rồi. Nếu một người tham dự Thánh lễ vào tối Thứ bảy 7-12, người ấy đã chu toàn luật buộc dự lễ Chúa Nhật. Nhưng, thưa cha, liệu người ấy có chu toàn luật buộc dự lễ vào ngày 8-12, là lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội không, trong trường hợp lễ này rơi vào ngày Chúa Nhật? - R. C., Calangute, Ấn Độ.
Đáp: Trước hết, tôi cần phải minh định một trong các tiền đề của bạn. Không phải là luôn luôn chính xác khi nói rằng luật buộc chấm dứt khi một ngày lễ được dời ngày. Luật liên quan đến nội dung của lễ ấy, chứ không liên quan đến ngày mà lễ ấy được cử hành.
Vì vậy, trong một số quốc gia, nơi mà lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được dời qua ngày thứ hai 9-12, luật buộc dự lễ này vẫn còn đó.
Trong các trường hợp này, phải dự lễ hai lần. Việc này được thực hiện từ chiều tối thứ bảy 7-12 đến hết ngày 9-12.
Chúng ta phải phân biệt giữa yêu cầu tối thiểu của Giáo luật về việc chu toàn luật buộc, vốn đòi hỏi tham dự bất cứ Thánh lễ Công Giáo nào vào chiều vọng lễ, ngay cả khi công thức của Thánh Lễ không là công thức của Thánh lễ buộc, và lợi ích tinh thần của việc tôn vinh ngày lễ trọng càng trọn vẹn càng tốt.
Vì vậy, vì lợi ích tinh thần lớn nhất, và như là một biểu hiện của sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, một người Công Giáo (nếu luật buộc đòi hỏi) cần tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật Mùa Vọng và Thánh Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày thứ hai.
Tuy nhiên về mặt Giáo luật, một người Công Giáo sẽ thực hiện cả hai lần buộc, nếu tham dự Thánh lễ chiều thứ bảy và chiều Chúa Nhật, ngay cả khi hai Thánh Lễ này đều có các lời nguyện và bài đọc giống nhau. Cũng có thể chu toàn hai lần buộc, nếu người ấy tham dự hai Thánh Lễ buổi sáng và chiều tối của ngày Chúa Nhật.
Vì thế, không thể chu toàn hai lần buộc khi chỉ tham dự một thánh lễ, tức là như người ta nói “bắn một phát trúng hai con chim”.
Ở một số nước, chẳng hạn ở Mỹ, các Giám mục miễn chước cho tín hữu luật buộc dự lễ ngày Chúa Nhật, khi ngày lễ buộc rơi vào hoặc được chuyển qua một ngày thứ bảy hoặc ngày thứ hai. Việc này có thể được thực hiện thông qua một luật chung, do Hội đồng Giám mục công bố với sự chấp thuận của Tòa Thánh. Đây là trường hợp của Mỹ, mặc dù trong quốc gia này, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vẫn là một lễ buộc khi ngày 8-12 rơi vào ngày thứ bảy hoặc ngày thứ hai, nhưng không phải khi lễ rơi vào ngày Chúa Nhật, và trong trường hợp này lễ Đức Mẹ được dời qua ngày thứ hai, 9-12, như đã xảy ra trong năm nay.
Một sự miễn chước như vậy cũng có thể là kết quả của một quyết định mục vụ đúng, dựa vào quyết định của các Giám mục địa phương, liên quan đến khả năng của tín hữu tham dự Thánh lễ hai ngày liên tiếp, mà một trong hai ngày là một ngày làm việc bình thường.
Có lẽ sự miễn chước này của Giám mục xảy ra trong giáo phận của bạn đọc đặt câu hỏi, làm cho bạn tin rằng luật buộc tự động ngừng khi có sự đổi ngày mừng lễ.
Các trường hợp ngoại lệ cho quy tắc đổi ngày đôi khi được thực hiện ở các quốc gia, mà ở đó ngày lễ mừng thấm đậm vào văn hóa dân tộc của các nước ấy. Ví dụ, ở Ý, Tây Ban Nha và một số nước khác gắn bó về lịch sử với Tây Ban Nha, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội luôn được mừng vào ngày 8-12, ngay cả khi lễ rơi vào ngày Chúa Nhật. Đây một phần là do mối quan hệ lịch sử sâu sắc mà Tây Ban Nha đã có trong việc phát triển lòng sùng kính và học thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, và một phần là do tại Ý và Tây Ban Nha ngày lễ Đức Mẹ trùng hợp với một ngày nghỉ của ngân hàng dân sự quốc gia.
Một trường hợp tương tự là lễ Đức Mẹ Guadalupe ở Mexico. Mặc dù lễ này không phải là một ngày nghỉ dân sự hoặc không phải là ngày lễ buộc ở Mexico, Tòa Thánh thường ban phép chuẩn miễn đặc biệt, cho phép lễ Đức Mẹ được tổ chức vào ngày Chúa Nhật. Nhưng không như trường hợp của lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Tây Ban Nha và Ý, sự chuẩn miễn này này không phải là vĩnh viễn, cũng không là tự động. Hội Đồng Giám Mục Mexico phải xin phép chuẩn miễn của Tòa thánh, mỗi lần lễ Đức Mẹ trên rơi vào một ngày Chúa Nhật. (Zenit.org 17-12-2013)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Năm nay (2013) lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được cử hành ngày thứ hai, 9-12, tại giáo xứ của tôi. Lễ đã được dời qua ngày 9, bởi vì ngày 8-12 là một Chúa Nhật Mùa Vọng, nên không được cử hành lễ khác. Mặc dù lễ cử hành vào ngày Chúa Nhật 8-12 là một ngày lễ buộc, lễ vào ngày dời không là ngày lễ buộc, vì luật buộc đã được đáp ứng bằng cách tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật 8-12 rồi. Nếu một người tham dự Thánh lễ vào tối Thứ bảy 7-12, người ấy đã chu toàn luật buộc dự lễ Chúa Nhật. Nhưng, thưa cha, liệu người ấy có chu toàn luật buộc dự lễ vào ngày 8-12, là lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội không, trong trường hợp lễ này rơi vào ngày Chúa Nhật? - R. C., Calangute, Ấn Độ.
Đáp: Trước hết, tôi cần phải minh định một trong các tiền đề của bạn. Không phải là luôn luôn chính xác khi nói rằng luật buộc chấm dứt khi một ngày lễ được dời ngày. Luật liên quan đến nội dung của lễ ấy, chứ không liên quan đến ngày mà lễ ấy được cử hành.
Vì vậy, trong một số quốc gia, nơi mà lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được dời qua ngày thứ hai 9-12, luật buộc dự lễ này vẫn còn đó.
Trong các trường hợp này, phải dự lễ hai lần. Việc này được thực hiện từ chiều tối thứ bảy 7-12 đến hết ngày 9-12.
Chúng ta phải phân biệt giữa yêu cầu tối thiểu của Giáo luật về việc chu toàn luật buộc, vốn đòi hỏi tham dự bất cứ Thánh lễ Công Giáo nào vào chiều vọng lễ, ngay cả khi công thức của Thánh Lễ không là công thức của Thánh lễ buộc, và lợi ích tinh thần của việc tôn vinh ngày lễ trọng càng trọn vẹn càng tốt.
Vì vậy, vì lợi ích tinh thần lớn nhất, và như là một biểu hiện của sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, một người Công Giáo (nếu luật buộc đòi hỏi) cần tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật Mùa Vọng và Thánh Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày thứ hai.
Tuy nhiên về mặt Giáo luật, một người Công Giáo sẽ thực hiện cả hai lần buộc, nếu tham dự Thánh lễ chiều thứ bảy và chiều Chúa Nhật, ngay cả khi hai Thánh Lễ này đều có các lời nguyện và bài đọc giống nhau. Cũng có thể chu toàn hai lần buộc, nếu người ấy tham dự hai Thánh Lễ buổi sáng và chiều tối của ngày Chúa Nhật.
Vì thế, không thể chu toàn hai lần buộc khi chỉ tham dự một thánh lễ, tức là như người ta nói “bắn một phát trúng hai con chim”.
Ở một số nước, chẳng hạn ở Mỹ, các Giám mục miễn chước cho tín hữu luật buộc dự lễ ngày Chúa Nhật, khi ngày lễ buộc rơi vào hoặc được chuyển qua một ngày thứ bảy hoặc ngày thứ hai. Việc này có thể được thực hiện thông qua một luật chung, do Hội đồng Giám mục công bố với sự chấp thuận của Tòa Thánh. Đây là trường hợp của Mỹ, mặc dù trong quốc gia này, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vẫn là một lễ buộc khi ngày 8-12 rơi vào ngày thứ bảy hoặc ngày thứ hai, nhưng không phải khi lễ rơi vào ngày Chúa Nhật, và trong trường hợp này lễ Đức Mẹ được dời qua ngày thứ hai, 9-12, như đã xảy ra trong năm nay.
Một sự miễn chước như vậy cũng có thể là kết quả của một quyết định mục vụ đúng, dựa vào quyết định của các Giám mục địa phương, liên quan đến khả năng của tín hữu tham dự Thánh lễ hai ngày liên tiếp, mà một trong hai ngày là một ngày làm việc bình thường.
Có lẽ sự miễn chước này của Giám mục xảy ra trong giáo phận của bạn đọc đặt câu hỏi, làm cho bạn tin rằng luật buộc tự động ngừng khi có sự đổi ngày mừng lễ.
Các trường hợp ngoại lệ cho quy tắc đổi ngày đôi khi được thực hiện ở các quốc gia, mà ở đó ngày lễ mừng thấm đậm vào văn hóa dân tộc của các nước ấy. Ví dụ, ở Ý, Tây Ban Nha và một số nước khác gắn bó về lịch sử với Tây Ban Nha, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội luôn được mừng vào ngày 8-12, ngay cả khi lễ rơi vào ngày Chúa Nhật. Đây một phần là do mối quan hệ lịch sử sâu sắc mà Tây Ban Nha đã có trong việc phát triển lòng sùng kính và học thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, và một phần là do tại Ý và Tây Ban Nha ngày lễ Đức Mẹ trùng hợp với một ngày nghỉ của ngân hàng dân sự quốc gia.
Một trường hợp tương tự là lễ Đức Mẹ Guadalupe ở Mexico. Mặc dù lễ này không phải là một ngày nghỉ dân sự hoặc không phải là ngày lễ buộc ở Mexico, Tòa Thánh thường ban phép chuẩn miễn đặc biệt, cho phép lễ Đức Mẹ được tổ chức vào ngày Chúa Nhật. Nhưng không như trường hợp của lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Tây Ban Nha và Ý, sự chuẩn miễn này này không phải là vĩnh viễn, cũng không là tự động. Hội Đồng Giám Mục Mexico phải xin phép chuẩn miễn của Tòa thánh, mỗi lần lễ Đức Mẹ trên rơi vào một ngày Chúa Nhật. (Zenit.org 17-12-2013)
Nguyễn Trọng Đa
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Mùa Giáng Sinh Từ Miền Trung Hoa Kỳ
Vũ Đình Huyến, Lm (CMC)
22:18 18/12/2013
Ảnh của Vũ đình Huyến, Lm. (CMC)
Ánh đèn đón mừng Chúa Giáng Sinh
từ những thành phố nhỏ, hẻo lánh..