Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:52 21/12/2013
TU ĐỨC.
Có người hỏi sư phụ: “Tu đức là gì ?”
Sư phụ nói: “Không ngừng chuyển hoá nội tại của con người, đó là tu đức”.
- “Nếu con dùng phương pháp của sư phụ truyền dạy, tức không phải là tu đức ?”
- “Nếu trong nội tâm của con không phát sinh tác dụng, tức không được coi là tu đức. Một tấm thảm không làm cho con được ấm áp, tức không phải là tấm thảm”.
- “Tu đức có thay đổi không ?”
- “Người thay đổi, cần thiết cũng phải thay đổi. Cho nên, tu đức trước đây không còn là tu đức; cái gọi là kinh nghiệm tu đức, nói trắng ra, chẳng qua là ghi chép lại phương pháp của (tu đức) trong quá khứ”.
Suy tư:
Khi một tu sĩ sống không xứng đáng với chức phận của tu sĩ, thì người ta nói: không có tu đức; khi một linh mục sống không xứng đáng với thiên chức linh mục, thì người ta phê bình: không có tu đức hoặc là thiếu tu đức.
Tu đức không có gì mới lạ, chỉ là ghi chép lại phương pháp và kinh ghiệm của các bậc thánh nhân trong quá khứ dể đạt tới sự toàn vẹn cho thân xác và linh hồn, nói tắt một lời là: nên thánh.
Tu đức là phương pháp giúp cho con người ta, theo thứ bậc và bổn phận của mình để nên thánh, tức là giúp con người ta sống hài hòa với Thiên Chúa và con người, cho nên có tu đức dành cho bậc linh mục, có tu đức dành cho bậc tu sĩ, có tu đức dành cho bậc giáo dân.
Tu đức thì không thay đổi, nhưng con người thì luôn thay đổi bởi hoàn cảnh của cuộc sống. Cái tâm con người ta cứ quay cuồng trong cơn lốc của hưởng thụ thế gian mà lạc đường lạc hướng, nên tu đức như kim chỉ nam luôn chỉ hướng bắc là hướng về Thiên Chúa, để dẫn đường cho họ đi đúng hướng cần phải đi, là hướng đến Thiên Chúa và sống chan hòa với tha nhân.
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có người hỏi sư phụ: “Tu đức là gì ?”
Sư phụ nói: “Không ngừng chuyển hoá nội tại của con người, đó là tu đức”.
- “Nếu con dùng phương pháp của sư phụ truyền dạy, tức không phải là tu đức ?”
- “Nếu trong nội tâm của con không phát sinh tác dụng, tức không được coi là tu đức. Một tấm thảm không làm cho con được ấm áp, tức không phải là tấm thảm”.
- “Tu đức có thay đổi không ?”
- “Người thay đổi, cần thiết cũng phải thay đổi. Cho nên, tu đức trước đây không còn là tu đức; cái gọi là kinh nghiệm tu đức, nói trắng ra, chẳng qua là ghi chép lại phương pháp của (tu đức) trong quá khứ”.
Suy tư:
Khi một tu sĩ sống không xứng đáng với chức phận của tu sĩ, thì người ta nói: không có tu đức; khi một linh mục sống không xứng đáng với thiên chức linh mục, thì người ta phê bình: không có tu đức hoặc là thiếu tu đức.
Tu đức không có gì mới lạ, chỉ là ghi chép lại phương pháp và kinh ghiệm của các bậc thánh nhân trong quá khứ dể đạt tới sự toàn vẹn cho thân xác và linh hồn, nói tắt một lời là: nên thánh.
Tu đức là phương pháp giúp cho con người ta, theo thứ bậc và bổn phận của mình để nên thánh, tức là giúp con người ta sống hài hòa với Thiên Chúa và con người, cho nên có tu đức dành cho bậc linh mục, có tu đức dành cho bậc tu sĩ, có tu đức dành cho bậc giáo dân.
Tu đức thì không thay đổi, nhưng con người thì luôn thay đổi bởi hoàn cảnh của cuộc sống. Cái tâm con người ta cứ quay cuồng trong cơn lốc của hưởng thụ thế gian mà lạc đường lạc hướng, nên tu đức như kim chỉ nam luôn chỉ hướng bắc là hướng về Thiên Chúa, để dẫn đường cho họ đi đúng hướng cần phải đi, là hướng đến Thiên Chúa và sống chan hòa với tha nhân.
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:54 21/12/2013
Chúa Nhật 4 MÙA VỌNG
Tin mừng : Mt 1, 18-24
“Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít”.
Anh chị em thân mến,
Mùa vọng sắp kết thúc, mùa giáng sinh sắp đến, mọi người đang hân hoan chờ đợi ngày đại lễ giáng trần của Con Thiên Chúa –Đức Chúa Giê-su Ki-tô- với tất cả tâm tình vui tươi và hy vọng. Trong niềm hân hoan ấy, tôi xin chia sẻ với anh chị em mấy điều này :
1. Đừng ngại nhận Ma-ri-a làm vợ.
Được gọi là người công chính, tất nhiên là người có cuộc sống rất đạo đức thánh thiện, cho nên không lạ gì mà thánh Giu-se đã rất buồn khi thấy Mẹ Ma-ri-a mang thai ngoài ý muốn, cho nên thánh Giu-se rất buồn, cái buồn của người công chính.
Buồn, nhưng là người công chính nên thánh Giu-se âm thầm quyết định phải ra đi mà không muốn tố cáo Ma-ri-a, đó là hành động của người công chính, nhưng Thiên Chúa đã can thiệp kịp thời và đúng lúc vì đó là việc của Ngài. Thiên thần nói: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về...” . Người công chính thì dễ dàng nghe được thánh ý của Thiên Chúa qua hoàn cảnh, qua cuộc sống, qua nơi những người mà mình tiếp xúc, thánh Giu-se đã nghe và đã vui lòng đón nhận bà Ma-ri-a làm vợ mình...
Càng đau khổ thì niềm vui càng nhân lên gấp bội, đó là niềm vui của thánh Giu-se, trong đau khổ biết nghe được tiếng của Thiên Chúa và thực hành lời của Ngài, đó là người công chính; đau khổ của người công chính đã trở nên niềm vui vì đã biết để cho ân sủng của Thiên Chúa hoạt động trong nghịch cảnh của đời mình.
2. Đừng ngại đối thoại với người mình không thích.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng hôm nay và qua bài học phó thác trong tay Thiên Chúa của người công chính –thánh Giu-se- chúng ta nhận ra được niềm vui trong đau khổ của người công chính, đó là chấp nhận người anh em như là một món quà quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
Có rất nhiều lúc chúng ta tự cho mình là người công chính mà khinh thường tha nhân khi họ phạm lỗi, từ thái độ khinh thường ấy chúng ta xa lánh người anh em chị em của mình, không thèm trò chuyện với họ, không muốn nghe lời góp ý và chia sẻ của họ, đó không phải là thái độ của người công chính nhưng là thái độ của người kiêu ngạo.
Đừng ngại đối thoại với những người mà mình cho là tội lỗi, nhưng học theo gương lành của thánh Giu-se, mau mắn chấp nhận và đón họ đồng hành với mình trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì Con Thiên Chúa đã chấp nhận sinh ra trên trần gian là để cùng đồng hành và chia sẻ với con người những vui buồn, hạnh phúc cũng như đau khổ...
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn mấy ngày nữa là chúng ta hân hoan đón mừng ngày trọng đại “làm người của Con Thiên Chúa”, mọi trang hoàng nhà thờ, làm hang đá tráng lệ đẹp đẽ, hoạt cảnh thiên thần mục đồng cũng đã chuẩn bị xong và chỉ chờ ngày ấy đến, mọi người đều nô nức chờ đợi...
Nhưng quan trọng hơn đó là sứ điệp của thánh Giu-se trong những ngày cuối mùa vọng này: mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón Thiên Chúa đến, cũng có nghĩa là, chúng ta hãy làm cho tâm hồn của chúng ta trở thành hang đá để Giê-su Hài Nhi sinh ra, bằng cách chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa đón nhận tha nhân như đón nhận chính Con Thiên Chúa giáng trần.
Có những tâm hồn đau khổ đang chờ đợi chúng ta nói lời tha thứ, có những tâm hồn đang chờ đợi chúng ta đem niềm vui và hy vọng đến cho họ...
Cửa trời đã mở và mưa ân sủng đã đổ xuống trên trần gian, nhưng tin vui Con Thiên Chúa giáng trần đang bị chận lại không bay tới nơi các tâm hồn vì những kiêu căng và gương xấu của chúng ta...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin mừng : Mt 1, 18-24
“Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít”.
Anh chị em thân mến,
Mùa vọng sắp kết thúc, mùa giáng sinh sắp đến, mọi người đang hân hoan chờ đợi ngày đại lễ giáng trần của Con Thiên Chúa –Đức Chúa Giê-su Ki-tô- với tất cả tâm tình vui tươi và hy vọng. Trong niềm hân hoan ấy, tôi xin chia sẻ với anh chị em mấy điều này :
1. Đừng ngại nhận Ma-ri-a làm vợ.
Được gọi là người công chính, tất nhiên là người có cuộc sống rất đạo đức thánh thiện, cho nên không lạ gì mà thánh Giu-se đã rất buồn khi thấy Mẹ Ma-ri-a mang thai ngoài ý muốn, cho nên thánh Giu-se rất buồn, cái buồn của người công chính.
Buồn, nhưng là người công chính nên thánh Giu-se âm thầm quyết định phải ra đi mà không muốn tố cáo Ma-ri-a, đó là hành động của người công chính, nhưng Thiên Chúa đã can thiệp kịp thời và đúng lúc vì đó là việc của Ngài. Thiên thần nói: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về...” . Người công chính thì dễ dàng nghe được thánh ý của Thiên Chúa qua hoàn cảnh, qua cuộc sống, qua nơi những người mà mình tiếp xúc, thánh Giu-se đã nghe và đã vui lòng đón nhận bà Ma-ri-a làm vợ mình...
Càng đau khổ thì niềm vui càng nhân lên gấp bội, đó là niềm vui của thánh Giu-se, trong đau khổ biết nghe được tiếng của Thiên Chúa và thực hành lời của Ngài, đó là người công chính; đau khổ của người công chính đã trở nên niềm vui vì đã biết để cho ân sủng của Thiên Chúa hoạt động trong nghịch cảnh của đời mình.
2. Đừng ngại đối thoại với người mình không thích.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng hôm nay và qua bài học phó thác trong tay Thiên Chúa của người công chính –thánh Giu-se- chúng ta nhận ra được niềm vui trong đau khổ của người công chính, đó là chấp nhận người anh em như là một món quà quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
Có rất nhiều lúc chúng ta tự cho mình là người công chính mà khinh thường tha nhân khi họ phạm lỗi, từ thái độ khinh thường ấy chúng ta xa lánh người anh em chị em của mình, không thèm trò chuyện với họ, không muốn nghe lời góp ý và chia sẻ của họ, đó không phải là thái độ của người công chính nhưng là thái độ của người kiêu ngạo.
Đừng ngại đối thoại với những người mà mình cho là tội lỗi, nhưng học theo gương lành của thánh Giu-se, mau mắn chấp nhận và đón họ đồng hành với mình trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì Con Thiên Chúa đã chấp nhận sinh ra trên trần gian là để cùng đồng hành và chia sẻ với con người những vui buồn, hạnh phúc cũng như đau khổ...
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn mấy ngày nữa là chúng ta hân hoan đón mừng ngày trọng đại “làm người của Con Thiên Chúa”, mọi trang hoàng nhà thờ, làm hang đá tráng lệ đẹp đẽ, hoạt cảnh thiên thần mục đồng cũng đã chuẩn bị xong và chỉ chờ ngày ấy đến, mọi người đều nô nức chờ đợi...
Nhưng quan trọng hơn đó là sứ điệp của thánh Giu-se trong những ngày cuối mùa vọng này: mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón Thiên Chúa đến, cũng có nghĩa là, chúng ta hãy làm cho tâm hồn của chúng ta trở thành hang đá để Giê-su Hài Nhi sinh ra, bằng cách chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa đón nhận tha nhân như đón nhận chính Con Thiên Chúa giáng trần.
Có những tâm hồn đau khổ đang chờ đợi chúng ta nói lời tha thứ, có những tâm hồn đang chờ đợi chúng ta đem niềm vui và hy vọng đến cho họ...
Cửa trời đã mở và mưa ân sủng đã đổ xuống trên trần gian, nhưng tin vui Con Thiên Chúa giáng trần đang bị chận lại không bay tới nơi các tâm hồn vì những kiêu căng và gương xấu của chúng ta...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:01 21/12/2013
N2T |
12. Ai muốn khắc phục sự phẫn nộ thì nên có khát vọng vô hạn bị sỉ nhục, trái lại luôn khát vọng vô hạn được tôn vinh, thì không hồ nghi gì cả, chính là tham hư danh.
(Thánh John Climacus)-----------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:28 21/12/2013
XIN CHA CƯỜI
Ban đại diện giáo xứ đã họp xong, cha sở thân tình trò chuyện với mọi người về những công việc của các ban ngành trong giáo xứ, một giáo dân nói:
- “Thưa cha, cha làm việc gì cũng có kế hoạch, chúng con rất nể phục, có một việc chúng con xin cha giúp... ”
Cha sở cười vui, hỏi: “Tôi sẽ giúp chuyện gì ?”
- “Xin cha cười nhiều nhiều, vì thấy cha lúc nào cũng nghiêm khắc ngay cả tụi con cũng không dám đến thưa chuyện với cha, huống hồ là tụi thanh niên và trẻ em...”
Cha sở nghe phảng phất đâu đây lời của Tôi Tớ Chúa Hồng Y Nguyễn Văn Thuận: “Một vị thánh không biết cười là một vị thánh buồn bã... làm phép lạ trái giờ trái ngày…”
-------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Ban đại diện giáo xứ đã họp xong, cha sở thân tình trò chuyện với mọi người về những công việc của các ban ngành trong giáo xứ, một giáo dân nói:
- “Thưa cha, cha làm việc gì cũng có kế hoạch, chúng con rất nể phục, có một việc chúng con xin cha giúp... ”
Cha sở cười vui, hỏi: “Tôi sẽ giúp chuyện gì ?”
- “Xin cha cười nhiều nhiều, vì thấy cha lúc nào cũng nghiêm khắc ngay cả tụi con cũng không dám đến thưa chuyện với cha, huống hồ là tụi thanh niên và trẻ em...”
Cha sở nghe phảng phất đâu đây lời của Tôi Tớ Chúa Hồng Y Nguyễn Văn Thuận: “Một vị thánh không biết cười là một vị thánh buồn bã... làm phép lạ trái giờ trái ngày…”
-------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
CN 4a MV : Thánh Giuse, chuyên viên mơ mộng.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
08:38 21/12/2013
Đời vua Trang Tông bên nước Tề, có một người tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm, tự dưng đi vào nhà rồi nhổ vào mặt. Ông ta giật mình, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, nhưng ông ta vẫn tức, ngồi suốt đêm lấy làm bực dọc khó chịu.
Sáng hôm sau, ông ta mời một người bạn thân đến và nói rằng: “Bác ơi ! từ thuở bé đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi, chưa phải đứa nào làm nhục bao giờ. Thế mà đêm qua bị một đứa nó làm nhục, tôi định tìm kỳ được đứa ấy, báo thù mới thôi. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, nếu không tìm thấy thì tôi chết mất”.
Rồi từ hôm đó sáng nào ông cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà vẫn không thấy, ông ta về nhà uất lên mà chết.
Truyện kể rằng: ngày nọ Trang Chu (Trang Tử) nằm mộng thấy mình hoá bướm. Tỉnh dậy, ông nghi ngờ, chẳng hay bướm hoá thân thành Trang Chu hay Trang Chu biến thành bướm !
Chẳng bao lâu sau biến cố mùa xuân 1975, có bà cụ kia đã nhờ người đào bới mấy ngôi mộ của quân nhân Miền Nam được chôn chất trong một nghĩa trang cạnh nhà, vì lý do đêm qua bà nằm mơ thấy có người đến mách bảo là dưới những ngôi mộ ấy, ngoài những thi thể mục rữa là cả mấy kho tàng vàng bạc châu báu. Người ta đào mãi nhưng rốt cuộc cũng chỉ tìm thấy những đất cốt đen sậm khô khốc…
Tin Mừng Mát-thêu cũng thuật lại sự kiện ba lần ông Giu-se nằm mơ thấy Thiên Sứ Chúa hiện đến báo mộng. Một lần Thiên Sứ đến báo tin ông hãy đón nhận cô Ma-ri-a bạn ông về làm vợ (Mt 1, 20). Lần kia Thiên Sứ xuất hiện để báo tin cho ông hãy dậy đưa bà Ma-ri-a và con trẻ trốn sang Ai-cập vì Hê-rô-đê đang tìm giết hại con trẻ (Mt 2, 13) và lần nọ khi báo mộng đưa trẻ từ Ai Cập trở về.
Từ những giấc mộng trên chúng ta thử phân tích
Theo các nhà tâm lý thì con người ta không đêm nào không nằm mộng, thế nhưng khi tỉnh giấc chúng ta chỉ có thể nhớ những giấc mộng xảy đến gần với khi ta vừa tỉnh giấc mà thôi. Còn những giấc mơ xảy ra từ lúc ta vừa ngả lưng ngon giấc hoặc xảy đến xa với lúc tỉnh giấc thì nó đã không được bộ nhớ của ta lưu giữ.
Vẫn theo các nhà tâm lý, thì mộng là một hiện tượng lặp lại của trí nhớ. Người ta không thể mộng thấy những gì mà trong thực tế người ấy chưa một lần thấy hay chưa một lần tưởng tượng. Nhưng có người sẽ phản đối : “Hôm qua tôi mơ điều mà tôi chưa nghĩ tới bao giờ : lái xe hơi.” Chẳng qua những điều ta đã nghe, đã thấy, đã tưởng tượng đó theo ngày tháng đã đi vào vô thức khiến ta có cảm tưởng những gì trong giấc chiêm bao đêm qua ta gặp là những gì mới mẻ đó thôi. Nhất là những gì người ta khao khát, ước ao thì đêm về người ta sẽ thấy nó lặp lại trong giấc chiêm bao: người ta sẽ gặp lại người yêu, hay được một ai đó đến cho một số tiền, hoặc cả sự hận thù trả oán người khác... tất cả đều tuỳ thuộc ở những suy nghĩ, tưởng tượng, ao ước của ta trong thực tế đời thường.
Vì thế, nhiều nhà tâm lý cũng khuyên chúng ta trước khi đi ngủ không nên xem các phim ảnh bạo lực, đọc sách báo xấu. Cũng vì những lý do đó mà các nhà tu đức đã không ngừng khuyên ta nên đọc một vài kinh hay một đoạn Thánh kinh trước khi đi ngủ.
Trở lại vấn đề, như thế, chắc chắn trong thực tế ông Tân Ti Tụ kia đã ít nhất một lần trong đời bị một kẻ nào ấy mạ lị, hay chính ông đang mang một mối thù oán đối với ai đó mà hình ảnh người này nay đã rơi vào vô thức, bất chợt trong giấc mơ nó hiện lên đó thôi. Cũng như cụ bà kia, vì thân phận nghèo khổ ngày qua tháng lại bương chải với cuộc sống nhưng vẫn không đủ ăn, nên đã từng mơ ước, tưởng tượng ra những kho báu dưới mấy ngôi mộ kia như thể đó là một thực tế.
Như thế ta lý giải sao đối với những giấc chiêm bao của Thánh Giu-se trên đây. Những giấc mơ đó có thật chăng hay cũng chỉ là sản phẩm của một niềm mơ ước, là thành qủa của một nỗi khao khát chờ mong Đấng Cứu Thế từ bấy lâu nay ?
Có 2 điểm giống nhau giữa giấc mơ của Tân Ti Tụ và cụ bà kia với cha nuôi của Giêsu, và có 2 điểm khác nhau.
Hai điểm giống nhau
1. Đó là có nuôi những suy nghĩ trước, như các nhà tâm lý đã phân tích. Giuse suy nghĩ đắn đo : bên tình bên lý. Khi trốn qua Ai Cập, chắc hản Giuse ngày đêm nghĩ đến giá mà ngày nào đó được đưa Ấu Vương và mẹ Người về lại quê nhà… Thế là sứ thần báo mộng.
2. Và cái giống nhau kỳ thú hơn, là cả ba trỗi dậy thi hành ngay những gì giấc mơ bảo : Tân Ti Tụ cầm gậy đón đường người mình thấy trong mộng. Bà cụ già kia thì thuê ngay người đào tìm mỏ vàng cạnh nhà. Còn Giuse trỗi dậy nhận Maria về nhà mình ; dậy đưa con trẻ trốn ; và dậy đưa Ấu Chúa hồi hương. Nhưng cái khác nhau là căn bản.
Hai điểm khác nhau
1. Ông Tân Ti Tụ đã thực hiện theo giấc mơ mình gặp nhưng vẫn không hề gặp được người trong mộng. Cụ bà kia vẫn thực hiện theo sự chỉ vẽ của giấc mơ nhưng kết quả là vàng trong mộng, mộng về vàng. Ta nhiều khi nằm mơ và sáng ngày cũng thực hiện ngay điều giấc mộng cho thấy. Thấy con cá trắng đi đánh số 1, 41, 81, thấy con dê đi đánh 35, 75, thấy con heo đánh số 07, 47…, mà chẳng thấy đúng như vậy, bởi nếu đúng như vậy thì những người mua số đề đã xây nhà lầu cao vút trung tâm thành phố đây.
Còn Giuse cũng thực hiện ngay điều giấc mộng bảo, và thực tế đúng như vậy. Nói theo kiểu nói dân gian là “linh.” Bởi thế, phải hiểu đó là một cuộc gặp gỡ giữa Giuse và Thần Linh Thiên Chúa qua trung gian Sứ Thần của Người. Hay nói cách khác đây là một cuộc tiếp xúc trong một giờ cầu nguyện khi mà Thánh Cả Giu-se đang trong một cơn xâu xé nội tâm.
Nói tóm lại, giấc mộng của Thánh Giu-se không phải là một giấc mộng tâm lý bình thường như những giấc mộng khác của bao người. Nhưng đúng hơn, phải nói theo ngôn ngữ của sách Khải Huyền thì đây là những “thị kiến ban đêm.”
2. Cái khác thứ hai chứa đầy hương vị Kinh Thánh giữa các giấc mơ chúng ta phân tích, đó là “tên” người mơ khác nhau. Tân Ti Tụ và bà cụ kia, cùng Trang Chu tiên sinh không phải là Giuse. Phải là Giuse, người Do Thái, dòng tộc vua Davit, thì mới có những giấc mộng như thế được. Lý do :
Trong các Sách Tin Mừng, có nhiều cuộc truyền tin : truyền tin cho Maria, thì ban ngày, có lẽ đang đan áo. Cho Zacaria thì đang cầu nguyện, cũng ban ngày, trong đền thờ trước hương án… Matthêu khi thuật lại cuộc truyền tin cho Giuse, thì lồng vào giấc mộng, cả 3 lần, lần nào cũng báo mộng, là để nhắc cho dân Do Thái biết về một ông tổ của giấc mộng mang tên Giuse, con cưng của Giacop và nàng Raken. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ mộng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình ; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (St 37:5-9). Rồi khi bị bán qua Ai Cập, Giuse giải mộng cho 2 vị quan bị giam, và cuối cùng giải mộng lúa lép nuốt lúa mập, 7 bò gầy trơ xương nuốt gọn 7 con bò mập ú, để báo trước : sau 7 năm được mùa sẽ là 7 năm đói kém kinh khiếp, hơn cái đói năm Ất Dậu 45 ở Bắc Nước Ta, khiến Ai Cập chuẩn bị kịp và Giuse lên ngôi tể tướng.
Vậy giờ đây, một Giuse khác, con vua Đavit xuất hiện, và điểm chung với Giuse tổ phụ kia cũng chính là báo mộng. Tên cúng cơm là Giuse thì gắn liền với mơ mộng.
Ta có nên ao ước noi gương Giuse để được Chúa cho biết ý của Ngài qua giấc mộng hay không ?
Chắc là không. Bởi vì như ta vừa phân tích, tối thiểu phải mang tên Giuse mới được. Cựu Ước biết bao nhiêu lần Chúa tỏ cho biết ý Chúa, nhưng trong giấc mộng không nhiều đâu. Chỉ Giuse, tổ giấc mộng là rõ nhất. Phải Giuse mới được, vậy chọn tên thánh Giuse đủ chưa, chưa đủ, phải dân Semit nữa kìa !
Nhưng lý thứ hai này mạnh hơn chắc là không cần noi gương Giuse tìm ý Chúa trong giấc mộng : Mộng để làm gì ? Để biết ý Chúa. Không ai biết ý Chúa Cha và thực thi ý của Chúa Cha như người Con giáng sinh làm người. Vậy là với những lời người Con, là Lời, nói trong sách Tin Mừng thì đã đủ biết ý Chúa rồi, cần gì mộng mơ. Còn nếu muốn thoả lòng các nhà tâm lý, họ nói giấc mơ phản ánh những gì mình ấp ủ trong ngày, thì trong ngày và nhất là trước khi ngủ, hãy đọc Lời Chúa, để trong giấc mơ ta thấy được ý Chúa mà ta suy gẫm trong ngày.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Sáng hôm sau, ông ta mời một người bạn thân đến và nói rằng: “Bác ơi ! từ thuở bé đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi, chưa phải đứa nào làm nhục bao giờ. Thế mà đêm qua bị một đứa nó làm nhục, tôi định tìm kỳ được đứa ấy, báo thù mới thôi. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, nếu không tìm thấy thì tôi chết mất”.
Rồi từ hôm đó sáng nào ông cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà vẫn không thấy, ông ta về nhà uất lên mà chết.
Truyện kể rằng: ngày nọ Trang Chu (Trang Tử) nằm mộng thấy mình hoá bướm. Tỉnh dậy, ông nghi ngờ, chẳng hay bướm hoá thân thành Trang Chu hay Trang Chu biến thành bướm !
Chẳng bao lâu sau biến cố mùa xuân 1975, có bà cụ kia đã nhờ người đào bới mấy ngôi mộ của quân nhân Miền Nam được chôn chất trong một nghĩa trang cạnh nhà, vì lý do đêm qua bà nằm mơ thấy có người đến mách bảo là dưới những ngôi mộ ấy, ngoài những thi thể mục rữa là cả mấy kho tàng vàng bạc châu báu. Người ta đào mãi nhưng rốt cuộc cũng chỉ tìm thấy những đất cốt đen sậm khô khốc…
Tin Mừng Mát-thêu cũng thuật lại sự kiện ba lần ông Giu-se nằm mơ thấy Thiên Sứ Chúa hiện đến báo mộng. Một lần Thiên Sứ đến báo tin ông hãy đón nhận cô Ma-ri-a bạn ông về làm vợ (Mt 1, 20). Lần kia Thiên Sứ xuất hiện để báo tin cho ông hãy dậy đưa bà Ma-ri-a và con trẻ trốn sang Ai-cập vì Hê-rô-đê đang tìm giết hại con trẻ (Mt 2, 13) và lần nọ khi báo mộng đưa trẻ từ Ai Cập trở về.
Từ những giấc mộng trên chúng ta thử phân tích
Theo các nhà tâm lý thì con người ta không đêm nào không nằm mộng, thế nhưng khi tỉnh giấc chúng ta chỉ có thể nhớ những giấc mộng xảy đến gần với khi ta vừa tỉnh giấc mà thôi. Còn những giấc mơ xảy ra từ lúc ta vừa ngả lưng ngon giấc hoặc xảy đến xa với lúc tỉnh giấc thì nó đã không được bộ nhớ của ta lưu giữ.
Vẫn theo các nhà tâm lý, thì mộng là một hiện tượng lặp lại của trí nhớ. Người ta không thể mộng thấy những gì mà trong thực tế người ấy chưa một lần thấy hay chưa một lần tưởng tượng. Nhưng có người sẽ phản đối : “Hôm qua tôi mơ điều mà tôi chưa nghĩ tới bao giờ : lái xe hơi.” Chẳng qua những điều ta đã nghe, đã thấy, đã tưởng tượng đó theo ngày tháng đã đi vào vô thức khiến ta có cảm tưởng những gì trong giấc chiêm bao đêm qua ta gặp là những gì mới mẻ đó thôi. Nhất là những gì người ta khao khát, ước ao thì đêm về người ta sẽ thấy nó lặp lại trong giấc chiêm bao: người ta sẽ gặp lại người yêu, hay được một ai đó đến cho một số tiền, hoặc cả sự hận thù trả oán người khác... tất cả đều tuỳ thuộc ở những suy nghĩ, tưởng tượng, ao ước của ta trong thực tế đời thường.
Vì thế, nhiều nhà tâm lý cũng khuyên chúng ta trước khi đi ngủ không nên xem các phim ảnh bạo lực, đọc sách báo xấu. Cũng vì những lý do đó mà các nhà tu đức đã không ngừng khuyên ta nên đọc một vài kinh hay một đoạn Thánh kinh trước khi đi ngủ.
Trở lại vấn đề, như thế, chắc chắn trong thực tế ông Tân Ti Tụ kia đã ít nhất một lần trong đời bị một kẻ nào ấy mạ lị, hay chính ông đang mang một mối thù oán đối với ai đó mà hình ảnh người này nay đã rơi vào vô thức, bất chợt trong giấc mơ nó hiện lên đó thôi. Cũng như cụ bà kia, vì thân phận nghèo khổ ngày qua tháng lại bương chải với cuộc sống nhưng vẫn không đủ ăn, nên đã từng mơ ước, tưởng tượng ra những kho báu dưới mấy ngôi mộ kia như thể đó là một thực tế.
Như thế ta lý giải sao đối với những giấc chiêm bao của Thánh Giu-se trên đây. Những giấc mơ đó có thật chăng hay cũng chỉ là sản phẩm của một niềm mơ ước, là thành qủa của một nỗi khao khát chờ mong Đấng Cứu Thế từ bấy lâu nay ?
Có 2 điểm giống nhau giữa giấc mơ của Tân Ti Tụ và cụ bà kia với cha nuôi của Giêsu, và có 2 điểm khác nhau.
Hai điểm giống nhau
1. Đó là có nuôi những suy nghĩ trước, như các nhà tâm lý đã phân tích. Giuse suy nghĩ đắn đo : bên tình bên lý. Khi trốn qua Ai Cập, chắc hản Giuse ngày đêm nghĩ đến giá mà ngày nào đó được đưa Ấu Vương và mẹ Người về lại quê nhà… Thế là sứ thần báo mộng.
2. Và cái giống nhau kỳ thú hơn, là cả ba trỗi dậy thi hành ngay những gì giấc mơ bảo : Tân Ti Tụ cầm gậy đón đường người mình thấy trong mộng. Bà cụ già kia thì thuê ngay người đào tìm mỏ vàng cạnh nhà. Còn Giuse trỗi dậy nhận Maria về nhà mình ; dậy đưa con trẻ trốn ; và dậy đưa Ấu Chúa hồi hương. Nhưng cái khác nhau là căn bản.
Hai điểm khác nhau
1. Ông Tân Ti Tụ đã thực hiện theo giấc mơ mình gặp nhưng vẫn không hề gặp được người trong mộng. Cụ bà kia vẫn thực hiện theo sự chỉ vẽ của giấc mơ nhưng kết quả là vàng trong mộng, mộng về vàng. Ta nhiều khi nằm mơ và sáng ngày cũng thực hiện ngay điều giấc mộng cho thấy. Thấy con cá trắng đi đánh số 1, 41, 81, thấy con dê đi đánh 35, 75, thấy con heo đánh số 07, 47…, mà chẳng thấy đúng như vậy, bởi nếu đúng như vậy thì những người mua số đề đã xây nhà lầu cao vút trung tâm thành phố đây.
Còn Giuse cũng thực hiện ngay điều giấc mộng bảo, và thực tế đúng như vậy. Nói theo kiểu nói dân gian là “linh.” Bởi thế, phải hiểu đó là một cuộc gặp gỡ giữa Giuse và Thần Linh Thiên Chúa qua trung gian Sứ Thần của Người. Hay nói cách khác đây là một cuộc tiếp xúc trong một giờ cầu nguyện khi mà Thánh Cả Giu-se đang trong một cơn xâu xé nội tâm.
Nói tóm lại, giấc mộng của Thánh Giu-se không phải là một giấc mộng tâm lý bình thường như những giấc mộng khác của bao người. Nhưng đúng hơn, phải nói theo ngôn ngữ của sách Khải Huyền thì đây là những “thị kiến ban đêm.”
2. Cái khác thứ hai chứa đầy hương vị Kinh Thánh giữa các giấc mơ chúng ta phân tích, đó là “tên” người mơ khác nhau. Tân Ti Tụ và bà cụ kia, cùng Trang Chu tiên sinh không phải là Giuse. Phải là Giuse, người Do Thái, dòng tộc vua Davit, thì mới có những giấc mộng như thế được. Lý do :
Trong các Sách Tin Mừng, có nhiều cuộc truyền tin : truyền tin cho Maria, thì ban ngày, có lẽ đang đan áo. Cho Zacaria thì đang cầu nguyện, cũng ban ngày, trong đền thờ trước hương án… Matthêu khi thuật lại cuộc truyền tin cho Giuse, thì lồng vào giấc mộng, cả 3 lần, lần nào cũng báo mộng, là để nhắc cho dân Do Thái biết về một ông tổ của giấc mộng mang tên Giuse, con cưng của Giacop và nàng Raken. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ mộng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình ; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (St 37:5-9). Rồi khi bị bán qua Ai Cập, Giuse giải mộng cho 2 vị quan bị giam, và cuối cùng giải mộng lúa lép nuốt lúa mập, 7 bò gầy trơ xương nuốt gọn 7 con bò mập ú, để báo trước : sau 7 năm được mùa sẽ là 7 năm đói kém kinh khiếp, hơn cái đói năm Ất Dậu 45 ở Bắc Nước Ta, khiến Ai Cập chuẩn bị kịp và Giuse lên ngôi tể tướng.
Vậy giờ đây, một Giuse khác, con vua Đavit xuất hiện, và điểm chung với Giuse tổ phụ kia cũng chính là báo mộng. Tên cúng cơm là Giuse thì gắn liền với mơ mộng.
Ta có nên ao ước noi gương Giuse để được Chúa cho biết ý của Ngài qua giấc mộng hay không ?
Chắc là không. Bởi vì như ta vừa phân tích, tối thiểu phải mang tên Giuse mới được. Cựu Ước biết bao nhiêu lần Chúa tỏ cho biết ý Chúa, nhưng trong giấc mộng không nhiều đâu. Chỉ Giuse, tổ giấc mộng là rõ nhất. Phải Giuse mới được, vậy chọn tên thánh Giuse đủ chưa, chưa đủ, phải dân Semit nữa kìa !
Nhưng lý thứ hai này mạnh hơn chắc là không cần noi gương Giuse tìm ý Chúa trong giấc mộng : Mộng để làm gì ? Để biết ý Chúa. Không ai biết ý Chúa Cha và thực thi ý của Chúa Cha như người Con giáng sinh làm người. Vậy là với những lời người Con, là Lời, nói trong sách Tin Mừng thì đã đủ biết ý Chúa rồi, cần gì mộng mơ. Còn nếu muốn thoả lòng các nhà tâm lý, họ nói giấc mơ phản ánh những gì mình ấp ủ trong ngày, thì trong ngày và nhất là trước khi ngủ, hãy đọc Lời Chúa, để trong giấc mơ ta thấy được ý Chúa mà ta suy gẫm trong ngày.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Ba quả táo - Lễ Giáng Sinh
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
10:55 21/12/2013
BA QUẢ TÁO LỄ GIÁNG SINH
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Eva
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng”đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đỏ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang….Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ.Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Eva
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng”đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đỏ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang….Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ.Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
Niềm vui Giáng Sinh đích thật
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
10:56 21/12/2013
Giáng Sinh 2013 - NIỀM VUI GIÁNG SINH ĐÍCH THỰC
Điểm lại trong lịch sử nhân loại, chúng ta thấy có một số vị vua có lòng yêu thương dân đặc biệt, nên đã xuống với các thường dân thăm hỏi, ủng hộ, động viên và khích lệ người dân. Việt Nam có vua Nhân Tông, vua Thánh Tông… Trung Quốc có vua Đường, vua Khang Hy, v.v...
Tuy nhiên chưa có một vị vua nào đến với các thường dân và chấp nhận trở thành một “thường dân” như Đức Giêsu Kitô. Quả vậy, Đức Giêsu là vua trời đất và Chúa muôn loài, nhưng Ngài không đến trần gian chỉ để viếng thăm, hay trao tặng cho con người một vài món quà nào đó rồi trở về cung điện như các vị vua chúa trần gian.
Ngài đến với con người và trở thành một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi. Nói theo ngôn ngữ của thánh Gioan là Ngài đã “làm người”. “Làm người” đến nơi đến chốn, “làm người” thực sự, “làm người” 100%, chứ không phải chỉ “làm” lấy có, “làm” hình thức.
Quả vậy, Đức Giêsu vốn là thân phận Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chấp nhận đi vào trần gian trong hình hài của một trẻ thơ được sinh ra trong cảnh nghèo hèn trần trụi. Là Đấng Hằng Hữu, nhưng Ngài đã vui nhận mang lấy thân phận phải chết của con người chúng ta. Để làm gì?
Trước hết là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ. Nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài.
Chuyện kể rằng một đêm kia, đứa bé nghèo nằm mơ thấy Chúa Giêsu đi ngang qua cửa nhà em, một mái nhà tranh xiêu vẹo. Vừa thấy Chúa, em vội vàng chạy theo Ngài.
Nghe tiếng chân em từ phía sau, Ngài liền quay mặt lại và đứng chờ em bước tới. Em run run lên tiếng hỏi: ‘Xin cho con được nói chuyện với Chúa”. Ngài trả lời: “Hãy nói đi hỡi người bạn nhỏ bé của Ta ơi”.
Em ngạc nhiên khi thấy Ngài trả lời và gọi em là bạn, tuy em chỉ là đứa bé cùng đinh. Em lấy hết can đảm hỏi thêm: “Trong nhà của Chúa còn có chỗ cho con không?”
Ngài vui vẻ trả lời: “Dĩ nhiên rồi, trong nhà của Ta còn rất nhiều chỗ”. Em đánh bạo hỏi thêm: “Xin Chúa cho con đi theo Chúa được không?” Ngài dang rộng hai tay và mỉm cười nói: “Tại sao không, hãy đến với Ta hỡi người bạn nhỏ bé của Ta”.
Sau cùng em đánh liều hỏi tiếp: “Xin cho con được ở gần bên Chúa luôn mãi được không?”
Ngài âu yếm ôm em vào lòng và nói nhỏ vào tai em: “Tất nhiên rồi, con sẽ ở gần bên Ta luôn vì Ta thương yêu con”.
Em sung sướng nhắm mắt dựa lòng vào Chúa và tự nhủ, Ngài đã trả lời với em như thế, tuy em chỉ là đứa bé nghèo hèn thuộc lớp người cùng đinh.
Thiên Chúa đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa. Và đây cũng là điều làm kỳ diệu. Noel Amstrong, nhà du hành vũ trụ đầu tiên đặt chân lên mặt trăng đã nói với các phóng viên khi trở về trái đất rằng: “Cái vĩ đại không phải là con người đã lên được trên trời nhưng điều vĩ đại là Thiên Chúa đã đi xuống trần gian làm người”.
Thiên Chúa đã làm người thực sự để nói cho con người điều gì nữa? Thưa là để nói cho con người biết Thiên Chúa yêu thương con người như thế nào. Chắc hẳn, con người sẽ không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa nếu Thiên Chúa chỉ ngồi ở trên trời cao và rêu rao là mình yêu thương con người. Một Thiên Chúa cao sang uy quyền đã hạ cố đến với con người, chắc chắn không còn cách thế nào hơn thế để chứng tỏ tình yêu thương lớn lao cho con người.
Một người cha ngồi trên trên lầu và bảo với đứa con nhỏ mới chập chững biết đi của mình rằng cha yêu thương con lắm, con chịu khó leo cầu thang và lên đây với cha đi. Đứa con thơ ấy khó có thể hình dung được tình yêu của cha dành cho nó là tròn hay méo. Ngược lại, chỉ cần người cha ấy bước xuống khỏi cầu thang rồi ẳm lấy đứa con của mình và đưa lên lầu với mình; tức khắc, đứa con đó sẽ cảm nhận được tình thương mà cha của nó dành cho nó ngay. Khỏi cần nói, khỏi cần giải thích gì nhiều.
Thiên Chúa là một người cha đã xuống với đứa con thơ của mình là nhân loại, vốn không thể tự mình “lên trời” được, để đồng hành, để sẻ chia thân phận giới hạn bất toàn của con người, và rồi để nâng con người “lên trời” với Ngài mai sau. Thật vậy, qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa muốn nói cho con người biết rằng Ngài yêu thương họ đến dường nào. Thánh Gioan cũng đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình để những ai tin vào Người thì không bị hư mất”.
Đó cũng là lý do nhân loại mừng ngày Ngài chào đời một cách tưng bừng và mừng vui như thế! Đó cũng là lý do tại sao người Kitô hữu chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh một cách long trọng và hân hoan như thế!
Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận niềm vui ấy như nhau. Niềm vui ấy trước hết là hoa trái của đức tin. Bởi chưng, trước biết cố Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, không phải ai cũng đón nhận được niềm vui ơn cứu độ. Vua Hêrôđê, các giới chức đạo đời Dothái và nhiều con dân thành Giêrusalem không hề có được niềm vui Giáng Sinh. Đơn giản vì họ không tin Đức Giêsu vừa giáng thế là con Thiên Chúa. Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ và tin tưởng thì mới đón nhận được niềm vui Giáng Sinh thực sự. Họ là Giuse, là Maria, là các mục đồng, là ba nhà đạo sĩ, và là những môn đệ thành tâm tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa cùa đời mình.
Tắt một lời, để có thể đón nhận được niềm vui của ơn cứu độ, con người phải có niềm tin, nói cách khác niềm vui đích thực của Giáng Sinh - niềm vui ơn cứu độ chính là hoa trái của niềm tin. Không có niềm tin, người ta chỉ mừng Giáng Sinh một cách hời hợt, theo kiểu hoàn toàn trần tục. Không có niềm tin, người ta sẽ không có thể có được niềm vui Giáng Sinh thực sự.
Năm ngoái, có dịp vào Sàigòn mua đồ trang trí Giáng sinh, chúng tôi đã đi tham quan một vòng ở khu trung tâm Sài Gòn, qua đường Đồng Khởi, đường Nguyễn Huệ, Nguyễn Trãi… đường nào cũng trang hoàng thật đẹp và rất hành tráng. Có điều tìm mãi mà vẫn không thấy bóng dáng nhân vật chính của ngày lễ Giáng sinh là Chúa Hài Đồng đâu cả. Thực tế, người ta tưng bừng chuẩn bị cho Noel vì mục đích vui chơi hay thương mại, chứ không phải vì để đón Chúa. Đơn giản vì họ không có niềm tin.
Là Kitô hữu, ta đón Noel phải là đón Chúa. Mà muốn đón Chúa thì cần có niềm tin. Nói cách khác, niềm tin phải là thứ mà ta cần trau dồi, “nâng cấp” hơn hết, để có thể đón Chúa đến với mình, gia đình mình và xứ đạo của mình.
“Trang trí lộng lẫy sẽ trở nên vô nghĩa nếu quên đi một nhân vật chính của ngày lễ: Vị Hoàng Tử của Công Lý và Hòa Bình. Hang đá sẽ mất đi sự thánh thiêng nếu thiếu đi một Hài Nhi Giêsu bé bỏng sinh làm người trần thế. Ngày lễ Giáng Sinh sẽ trở nên trần tục nếu thiếu đi những tâm hồn rộng mở để đón Chúa vào trong cuộc đời mình và để cho Người biến đổi và hoán cải chính bản thân mình” (Giáng Sinh: Niềm vui của toàn nhân loại và thế giới, Lm. Vũ Tiến Tặng).
Do đó, chúng ta là những người có niềm tin, chúng ta mừng lễ Giáng Sinh trong cung cách khác, và niềm vui Giáng Sinh mà chúng ta đón nhận là niềm vui sâu lắng.
Vậy ơn mà chúng ta phải xin trong ngày lễ Giáng Sinh là gì? Thưa là ơn đức tin. Xin ơn đức tin để nhận ra Hài Nhi bé bỏng Giêsu đang nằm trong máng cỏ là Con Thiên Chúa làm người. Xin ơn đức tin để nhận ra con trẻ Giêsu tạm cư trong hang đá nghèo hèn cùng với Đức Maria và Thánh Giuse là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Xin ơn đức tin để nhận ra được tình yêu sâu thẳm dường nào mà Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Xin ơn đức tin để chúng ta biết hăng say nhiệt thành hơn nữa khi đem niềm vui ơn cứu độ cho những người anh em chưa biết Chúa, chưa đón nhận được Tin Mừng. Đó là cách thức tốt nhất chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh trong Năm Đức Tin này.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con. Amen.
Điểm lại trong lịch sử nhân loại, chúng ta thấy có một số vị vua có lòng yêu thương dân đặc biệt, nên đã xuống với các thường dân thăm hỏi, ủng hộ, động viên và khích lệ người dân. Việt Nam có vua Nhân Tông, vua Thánh Tông… Trung Quốc có vua Đường, vua Khang Hy, v.v...
Tuy nhiên chưa có một vị vua nào đến với các thường dân và chấp nhận trở thành một “thường dân” như Đức Giêsu Kitô. Quả vậy, Đức Giêsu là vua trời đất và Chúa muôn loài, nhưng Ngài không đến trần gian chỉ để viếng thăm, hay trao tặng cho con người một vài món quà nào đó rồi trở về cung điện như các vị vua chúa trần gian.
Ngài đến với con người và trở thành một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi. Nói theo ngôn ngữ của thánh Gioan là Ngài đã “làm người”. “Làm người” đến nơi đến chốn, “làm người” thực sự, “làm người” 100%, chứ không phải chỉ “làm” lấy có, “làm” hình thức.
Quả vậy, Đức Giêsu vốn là thân phận Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chấp nhận đi vào trần gian trong hình hài của một trẻ thơ được sinh ra trong cảnh nghèo hèn trần trụi. Là Đấng Hằng Hữu, nhưng Ngài đã vui nhận mang lấy thân phận phải chết của con người chúng ta. Để làm gì?
Trước hết là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ. Nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài.
Chuyện kể rằng một đêm kia, đứa bé nghèo nằm mơ thấy Chúa Giêsu đi ngang qua cửa nhà em, một mái nhà tranh xiêu vẹo. Vừa thấy Chúa, em vội vàng chạy theo Ngài.
Nghe tiếng chân em từ phía sau, Ngài liền quay mặt lại và đứng chờ em bước tới. Em run run lên tiếng hỏi: ‘Xin cho con được nói chuyện với Chúa”. Ngài trả lời: “Hãy nói đi hỡi người bạn nhỏ bé của Ta ơi”.
Em ngạc nhiên khi thấy Ngài trả lời và gọi em là bạn, tuy em chỉ là đứa bé cùng đinh. Em lấy hết can đảm hỏi thêm: “Trong nhà của Chúa còn có chỗ cho con không?”
Ngài vui vẻ trả lời: “Dĩ nhiên rồi, trong nhà của Ta còn rất nhiều chỗ”. Em đánh bạo hỏi thêm: “Xin Chúa cho con đi theo Chúa được không?” Ngài dang rộng hai tay và mỉm cười nói: “Tại sao không, hãy đến với Ta hỡi người bạn nhỏ bé của Ta”.
Sau cùng em đánh liều hỏi tiếp: “Xin cho con được ở gần bên Chúa luôn mãi được không?”
Ngài âu yếm ôm em vào lòng và nói nhỏ vào tai em: “Tất nhiên rồi, con sẽ ở gần bên Ta luôn vì Ta thương yêu con”.
Em sung sướng nhắm mắt dựa lòng vào Chúa và tự nhủ, Ngài đã trả lời với em như thế, tuy em chỉ là đứa bé nghèo hèn thuộc lớp người cùng đinh.
Thiên Chúa đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa. Và đây cũng là điều làm kỳ diệu. Noel Amstrong, nhà du hành vũ trụ đầu tiên đặt chân lên mặt trăng đã nói với các phóng viên khi trở về trái đất rằng: “Cái vĩ đại không phải là con người đã lên được trên trời nhưng điều vĩ đại là Thiên Chúa đã đi xuống trần gian làm người”.
Thiên Chúa đã làm người thực sự để nói cho con người điều gì nữa? Thưa là để nói cho con người biết Thiên Chúa yêu thương con người như thế nào. Chắc hẳn, con người sẽ không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa nếu Thiên Chúa chỉ ngồi ở trên trời cao và rêu rao là mình yêu thương con người. Một Thiên Chúa cao sang uy quyền đã hạ cố đến với con người, chắc chắn không còn cách thế nào hơn thế để chứng tỏ tình yêu thương lớn lao cho con người.
Một người cha ngồi trên trên lầu và bảo với đứa con nhỏ mới chập chững biết đi của mình rằng cha yêu thương con lắm, con chịu khó leo cầu thang và lên đây với cha đi. Đứa con thơ ấy khó có thể hình dung được tình yêu của cha dành cho nó là tròn hay méo. Ngược lại, chỉ cần người cha ấy bước xuống khỏi cầu thang rồi ẳm lấy đứa con của mình và đưa lên lầu với mình; tức khắc, đứa con đó sẽ cảm nhận được tình thương mà cha của nó dành cho nó ngay. Khỏi cần nói, khỏi cần giải thích gì nhiều.
Thiên Chúa là một người cha đã xuống với đứa con thơ của mình là nhân loại, vốn không thể tự mình “lên trời” được, để đồng hành, để sẻ chia thân phận giới hạn bất toàn của con người, và rồi để nâng con người “lên trời” với Ngài mai sau. Thật vậy, qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa muốn nói cho con người biết rằng Ngài yêu thương họ đến dường nào. Thánh Gioan cũng đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình để những ai tin vào Người thì không bị hư mất”.
Đó cũng là lý do nhân loại mừng ngày Ngài chào đời một cách tưng bừng và mừng vui như thế! Đó cũng là lý do tại sao người Kitô hữu chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh một cách long trọng và hân hoan như thế!
Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận niềm vui ấy như nhau. Niềm vui ấy trước hết là hoa trái của đức tin. Bởi chưng, trước biết cố Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, không phải ai cũng đón nhận được niềm vui ơn cứu độ. Vua Hêrôđê, các giới chức đạo đời Dothái và nhiều con dân thành Giêrusalem không hề có được niềm vui Giáng Sinh. Đơn giản vì họ không tin Đức Giêsu vừa giáng thế là con Thiên Chúa. Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ và tin tưởng thì mới đón nhận được niềm vui Giáng Sinh thực sự. Họ là Giuse, là Maria, là các mục đồng, là ba nhà đạo sĩ, và là những môn đệ thành tâm tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa cùa đời mình.
Tắt một lời, để có thể đón nhận được niềm vui của ơn cứu độ, con người phải có niềm tin, nói cách khác niềm vui đích thực của Giáng Sinh - niềm vui ơn cứu độ chính là hoa trái của niềm tin. Không có niềm tin, người ta chỉ mừng Giáng Sinh một cách hời hợt, theo kiểu hoàn toàn trần tục. Không có niềm tin, người ta sẽ không có thể có được niềm vui Giáng Sinh thực sự.
Năm ngoái, có dịp vào Sàigòn mua đồ trang trí Giáng sinh, chúng tôi đã đi tham quan một vòng ở khu trung tâm Sài Gòn, qua đường Đồng Khởi, đường Nguyễn Huệ, Nguyễn Trãi… đường nào cũng trang hoàng thật đẹp và rất hành tráng. Có điều tìm mãi mà vẫn không thấy bóng dáng nhân vật chính của ngày lễ Giáng sinh là Chúa Hài Đồng đâu cả. Thực tế, người ta tưng bừng chuẩn bị cho Noel vì mục đích vui chơi hay thương mại, chứ không phải vì để đón Chúa. Đơn giản vì họ không có niềm tin.
Là Kitô hữu, ta đón Noel phải là đón Chúa. Mà muốn đón Chúa thì cần có niềm tin. Nói cách khác, niềm tin phải là thứ mà ta cần trau dồi, “nâng cấp” hơn hết, để có thể đón Chúa đến với mình, gia đình mình và xứ đạo của mình.
“Trang trí lộng lẫy sẽ trở nên vô nghĩa nếu quên đi một nhân vật chính của ngày lễ: Vị Hoàng Tử của Công Lý và Hòa Bình. Hang đá sẽ mất đi sự thánh thiêng nếu thiếu đi một Hài Nhi Giêsu bé bỏng sinh làm người trần thế. Ngày lễ Giáng Sinh sẽ trở nên trần tục nếu thiếu đi những tâm hồn rộng mở để đón Chúa vào trong cuộc đời mình và để cho Người biến đổi và hoán cải chính bản thân mình” (Giáng Sinh: Niềm vui của toàn nhân loại và thế giới, Lm. Vũ Tiến Tặng).
Do đó, chúng ta là những người có niềm tin, chúng ta mừng lễ Giáng Sinh trong cung cách khác, và niềm vui Giáng Sinh mà chúng ta đón nhận là niềm vui sâu lắng.
Vậy ơn mà chúng ta phải xin trong ngày lễ Giáng Sinh là gì? Thưa là ơn đức tin. Xin ơn đức tin để nhận ra Hài Nhi bé bỏng Giêsu đang nằm trong máng cỏ là Con Thiên Chúa làm người. Xin ơn đức tin để nhận ra con trẻ Giêsu tạm cư trong hang đá nghèo hèn cùng với Đức Maria và Thánh Giuse là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Xin ơn đức tin để nhận ra được tình yêu sâu thẳm dường nào mà Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Xin ơn đức tin để chúng ta biết hăng say nhiệt thành hơn nữa khi đem niềm vui ơn cứu độ cho những người anh em chưa biết Chúa, chưa đón nhận được Tin Mừng. Đó là cách thức tốt nhất chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh trong Năm Đức Tin này.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH Phanxicô sẽ dâng thánh lễ tại nhà thờ Dòng Tên ở Rôma ngày 3/1/2014
Chỉnh Trần, S.J.
08:47 21/12/2013
18/12/2013 – Cha Federico Lombardi, S.J., giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ đến nhà thờ Thánh Danh Chúa Giêsu của Dòng Tên tại Rôma để dâng Lễ mừng kính Tước hiệu Dòng Chúa Giêsu (Dòng Tên) vào ngày 3 tháng 1 năm 2014. Đức Giáo Hoàng sẽ đồng tế với các anh em Giêsu hữu của ngài trong Thánh Lễ vào lúc 9 giờ sáng. Đây sẽ là dịp để Dòng tạ ơn Chúa vì Chân phước Phêrô Faber vừa mới được Đức Giáo Hoàng ghi tên vào sổ bộ các Thánh vào ngày 17 tháng 12 năm 2013 vừa qua.
Cha Lombardi cũng cho biết Đức Thánh Cha, khi trò chuyện với cha Adolfo Nicolas, S.J., Bề trê Cả Dòng Tên đã bình luận rằng ngài là người đầu tiên cầu nguyện với vị thánh mới khi ngài ký sắc lệnh phong thánh.
Chỉnh Trần, S.J
Cha Lombardi cũng cho biết Đức Thánh Cha, khi trò chuyện với cha Adolfo Nicolas, S.J., Bề trê Cả Dòng Tên đã bình luận rằng ngài là người đầu tiên cầu nguyện với vị thánh mới khi ngài ký sắc lệnh phong thánh.
Chỉnh Trần, S.J
Đức Thánh Cha tiếp các Hồng Y và Giáo Triều Roma
Lm. Trần Đức Anh OP
21:15 21/12/2013
VATICAN -. ĐTC Phanxicô nêu bật 3 đặc tính những người phục vụ trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh cần phải có, đó là khả năng chuyên môn, tinh thần phục vụ và đời sống thánh thiện.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-12-2013, dành cho các Hồng Y và các chức sắc thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và đầu năm mới.
Sau khi nồng nhiệt cám ơn sự cộng tác và phục vụ của các vị tại Tòa Thánh, đặc biệt là các vị chuẩn bị về hưu, ĐTC nhấn mạnh đến các đặc tính của những người phục vụ tại Tòa Thánh:
Trước tiên là khả năng chuyên môn, bao gồm cả việc học hỏi nghiên cứu và cập nhật. Ngài nói: ”Đây là điều kiện cơ bản để làm việc tại Tòa Thánh. Dĩ nhiên khả năng chuyên môn là do sự huấn luyện và một phần do sự thủ đắc, và để được vậy ngay từ đầu cần có một căn bản tốt.”
Đặc tính thứ hai là phục vụ: phục vụ Giáo Hoàng và các GM, Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương. Trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh, người ta học hô hấp một cách đặc biệt hai chiều kích của Giáo Hội, chiều kích hoàn vũ và địa phương thấu nhập vào nhau.
ĐTC nhận xét rằng ”nếu không có khả năng chuyên môn thì dần dần người ta sa vào sự tầm thường. Những hồ sơ trở thành những phúc trình rập theo khuôn mẫu và những thông báo không có men sự sống, không có khả năng tạo ra những chân trời cao cả. Đàng khác một khi thái độ không phải là phục vụ các Giáo Hội địa phương và các GM của các Giáo Hội ấy, thì cơ cấu giáo triều tăng trưởng như một sở quan thuế bàn giấy nặng nề, thanh tra và hạch hỏi, không để cho Chúa Thánh Linh hoạt động và dân Chúa được tăng trưởng”.
ĐTC nói thêm rằng: ”Thêm vào hai đức tính đó, - khả năng chuyên môn và tinh thần phục vụ,- tôi muốn kể đến một đức tính thứ ba, đó là đời sống thánh thiện. Chúng ta biết rõ đây là điều quan trọng nhất trong thứ tự các giá trị. Thực vậy, nó ở nơi nền tảng chất lượng làm việc, và phục vụ. Sự thánh thiện có nghĩa là đời sống được chìm đắm trong Thánh Linh, cởi mở tâm hồn đối với Thiên Chúa, cầu nguyện liên lỷ, khiêm tốn sâu xa, bác ái huynh đệ trong tương quan với các đồng nghiệp. Thánh thiện cũng có nghĩa là làm tông đồ, làm việc mục vụ kín đáo, trung thành, nhiệt thành và có tiếp xúc trực tiếp với dân Chúa. Đây là điều không thể thiếu được đối với một linh mục”.
ĐTC đặc biệt nhấn mạnh điều này: ”Sự thánh thiện trong các cơ quan Tòa Thánh cũng có nghĩa là phản kháng lương tâm, chống lại thói nói hành nói xấu! Chúng ta có lý mà nhấn mạnh đến sự giá trị của sự phản kháng lương tâm, nhưng có lẽ chúng ta cũng phải thực thi điều này để bảo vệ chống ta chống lại một luật bất thành văn trong môi trường của chúng ta, rất tiếc môi trường này là môi trường nói hành nói xấu. Vì thế, tất cả chúng ta hãy thực thi việc phản kháng lương tâm, và xin anh chị em chú ý: tôi không muốn làm một diễn văn luân lý ở đây! Những vụ nói hành nói xấu làm thiệt hại chất lượng con người, công việc và môi trường chung quanh”.
Sau bài diễn văn, ĐTC đã đứng lại bắt tay chào thăm từng vị Hồng Y và GM tại Tòa Thánh (SD 21-12-2013)
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-12-2013, dành cho các Hồng Y và các chức sắc thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và đầu năm mới.
Sau khi nồng nhiệt cám ơn sự cộng tác và phục vụ của các vị tại Tòa Thánh, đặc biệt là các vị chuẩn bị về hưu, ĐTC nhấn mạnh đến các đặc tính của những người phục vụ tại Tòa Thánh:
Trước tiên là khả năng chuyên môn, bao gồm cả việc học hỏi nghiên cứu và cập nhật. Ngài nói: ”Đây là điều kiện cơ bản để làm việc tại Tòa Thánh. Dĩ nhiên khả năng chuyên môn là do sự huấn luyện và một phần do sự thủ đắc, và để được vậy ngay từ đầu cần có một căn bản tốt.”
Đặc tính thứ hai là phục vụ: phục vụ Giáo Hoàng và các GM, Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương. Trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh, người ta học hô hấp một cách đặc biệt hai chiều kích của Giáo Hội, chiều kích hoàn vũ và địa phương thấu nhập vào nhau.
ĐTC nhận xét rằng ”nếu không có khả năng chuyên môn thì dần dần người ta sa vào sự tầm thường. Những hồ sơ trở thành những phúc trình rập theo khuôn mẫu và những thông báo không có men sự sống, không có khả năng tạo ra những chân trời cao cả. Đàng khác một khi thái độ không phải là phục vụ các Giáo Hội địa phương và các GM của các Giáo Hội ấy, thì cơ cấu giáo triều tăng trưởng như một sở quan thuế bàn giấy nặng nề, thanh tra và hạch hỏi, không để cho Chúa Thánh Linh hoạt động và dân Chúa được tăng trưởng”.
ĐTC nói thêm rằng: ”Thêm vào hai đức tính đó, - khả năng chuyên môn và tinh thần phục vụ,- tôi muốn kể đến một đức tính thứ ba, đó là đời sống thánh thiện. Chúng ta biết rõ đây là điều quan trọng nhất trong thứ tự các giá trị. Thực vậy, nó ở nơi nền tảng chất lượng làm việc, và phục vụ. Sự thánh thiện có nghĩa là đời sống được chìm đắm trong Thánh Linh, cởi mở tâm hồn đối với Thiên Chúa, cầu nguyện liên lỷ, khiêm tốn sâu xa, bác ái huynh đệ trong tương quan với các đồng nghiệp. Thánh thiện cũng có nghĩa là làm tông đồ, làm việc mục vụ kín đáo, trung thành, nhiệt thành và có tiếp xúc trực tiếp với dân Chúa. Đây là điều không thể thiếu được đối với một linh mục”.
ĐTC đặc biệt nhấn mạnh điều này: ”Sự thánh thiện trong các cơ quan Tòa Thánh cũng có nghĩa là phản kháng lương tâm, chống lại thói nói hành nói xấu! Chúng ta có lý mà nhấn mạnh đến sự giá trị của sự phản kháng lương tâm, nhưng có lẽ chúng ta cũng phải thực thi điều này để bảo vệ chống ta chống lại một luật bất thành văn trong môi trường của chúng ta, rất tiếc môi trường này là môi trường nói hành nói xấu. Vì thế, tất cả chúng ta hãy thực thi việc phản kháng lương tâm, và xin anh chị em chú ý: tôi không muốn làm một diễn văn luân lý ở đây! Những vụ nói hành nói xấu làm thiệt hại chất lượng con người, công việc và môi trường chung quanh”.
Sau bài diễn văn, ĐTC đã đứng lại bắt tay chào thăm từng vị Hồng Y và GM tại Tòa Thánh (SD 21-12-2013)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Bắc Thần trao quà Giáng Sinh cho các em thiếu nhi
Phước Lý
08:56 21/12/2013
Ban Tình Thương Giáo Xứ Bắc Thần trao quà Noel mừng Chúa Giáng Sinh cho các em thiếu nhi
Sau lễ Thiếu nhi trong Tuần Bát nhật chuẩn bị Mừng Chúa Giáng sinh, chiều 21.12.2013, Hội Tình thương Giáo xứ Bắc Thần (hạt Phước Lý) cùng với các anh chị Giáo lý Viên tổ chức trao trên 600 phần quà cho tất cả các em Thiếu nhi đang học các lớp Giáo lý. Phần quà là hộp bánh có giá trị (khoảng 25.000 đến 30.000 đồng/phần)
Xem hình
Trước Thánh lễ, một em Thiếu nhi thay mặt các bạn Thiếu nhi có lời cảm ơn và chúc mừng Giáng Sinh - Năm mới đến cha xứ, cha phó, quý dì, các anh chị Giáo lý viên… nhất là ông bà cô chú trong ban Tình thương trong và ngoài nước đã luôn quan tâm, khích lệ con em Thiếu nhi. Các em hứa sẽ chăm ngoan học tập, học Giáo lý, đi tham dự Thánh lễ như lời đáp trả cụ thể lòng biết ơn, hiếu kính.
Được biết hàng năm các ân nhân trong và ngoài nước thông qua Ban Tình Thương của Giáo xứ đã có nhiều hoạt động thiết thực thể hiện tinh thần bác ái yêu thương cho người nghèo trong giáo xứ, đặc biệt đặc biệt quan tâm đến các em Thiếu nhi, những học sinh nghèo, sinh viên.
Phước Lý
Sau lễ Thiếu nhi trong Tuần Bát nhật chuẩn bị Mừng Chúa Giáng sinh, chiều 21.12.2013, Hội Tình thương Giáo xứ Bắc Thần (hạt Phước Lý) cùng với các anh chị Giáo lý Viên tổ chức trao trên 600 phần quà cho tất cả các em Thiếu nhi đang học các lớp Giáo lý. Phần quà là hộp bánh có giá trị (khoảng 25.000 đến 30.000 đồng/phần)
Xem hình
Trước Thánh lễ, một em Thiếu nhi thay mặt các bạn Thiếu nhi có lời cảm ơn và chúc mừng Giáng Sinh - Năm mới đến cha xứ, cha phó, quý dì, các anh chị Giáo lý viên… nhất là ông bà cô chú trong ban Tình thương trong và ngoài nước đã luôn quan tâm, khích lệ con em Thiếu nhi. Các em hứa sẽ chăm ngoan học tập, học Giáo lý, đi tham dự Thánh lễ như lời đáp trả cụ thể lòng biết ơn, hiếu kính.
Được biết hàng năm các ân nhân trong và ngoài nước thông qua Ban Tình Thương của Giáo xứ đã có nhiều hoạt động thiết thực thể hiện tinh thần bác ái yêu thương cho người nghèo trong giáo xứ, đặc biệt đặc biệt quan tâm đến các em Thiếu nhi, những học sinh nghèo, sinh viên.
Phước Lý
Bổn Mạng Giáo Đoàn Georges Hall Sydney
Diệp Hải Dung
11:28 21/12/2013
Chiều thứ Bảy 21/12/2013 các Hội Đoàn Đoàn Thể trong Giáo đoàn, quý Quan Khách Úc Việt và các Giáo đoàn bạn đã đến nhà thờ St.Mary’s Queen of Heaven Georges Hall Sydney tham dự Thánh lễ mừng kính Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa là Quan Thầy của Giáo Đoàn Georges Hall.
Hình ảnh
Quý Cha và tất cả mọi người tập trung tại khuôn viên trường học nhà thờ và Cha Phêrô Dương Thanh Liêm Tuyên úy Đặc trách Giáo Đoàn Georges Hall xông hương kiệu Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa đồng thời Ban Tây Nhạc Cecilia hợp tấu bài Chào Mừng và 3 hồi chiêng trống nổi lên kiệu cung nghinh tượng Thánh Simon Phan Đắc Hòa rước vào nhà thờ an vị trên cung Thánh.
Cha Phêrô Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng quý Cha, quý Sơ, tất cả mọi người và chúc mừng Bổn Mạng Giáo Đoàn, và cùng với quý Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Chính xứ Georges Hall Joseph Kolodziel hiệp dâng Thánh lễ.
Sau nghi thức Thiếu Nhi Thánh Thể của Xứ đoàn cung nghinh Phúc Âm. Cha Dương Thanh Liêm trong bài giảng nói về Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa xuất thân trong một gia đình không Công Giáo, nhưng Ngài sống với người Công Giáo nhìn thấy cái đẹp của Đạo KiTô Giáo và năm 12 tuổi Ngài học đạo và gia nhập vào Giáo Hội của Chúa và Ngài đã sẵn sang hy sinh mạng sống của Ngài để làm chứng nhân đức tin cho Thiên Chúa…
Trước khi kết thúc Thánh lễ, bà Donna Busuttil Chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ Georges Hall lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng của Giáo Đoàn, bà thay mặt Hội Đồng Giáo Xứ cám ơn Giáo Đoàn đã giúp ích đóng góp cho Giáo Xứ được phát triển tốt đẹp. Kế tiếp anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo Đoàn, Ca đoàn, Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và Huynh Đoàn Đaminh, anh khen ngợi Giáo Đoàn đã tích cực đóng góp rất nhiều cho Cộng Đồng và Giáo Xứ trong suốt những năm tháng qua. Sau cùng ông Trần Thanh Tịnh Trưởng Ban Mục Vụ Giáo Đoàn lên ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Quan Khách và mọi người đã đến tham dự Thánh lễ mừng kính Bổn Mạng của Giáo Đoàn Ông cũng đặc biệt cám ơn quý ân nhân đã đóng góp trợ giúp cho Giáo Đoàn và sau cùng ông xin tất cả mọi người hãy luôn cầu nguyện cho Giáo Đoàn ngày bền vững và tiến triển trong Cộng Đồng trong Giáo Hội.
Kế tiếp là nghi thức đặt tượng Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa an ngự trong nhà thờ. Qúy Cha và mọi người cùng quỳ dâng lời kinh nguyện lên Thánh Simon Hòa đồng thời đại diện Ban Mục Vụ Giáo Đoàn đã trịnh trọng cung nghinh đặt tượng Thánh Simon Phan Đắc Hòa trên bệ bàn thờ. Đây là một niềm vinh dự lớn cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, đã có được một vị Thánh Anh Hùng Việt Nam an ngự trong thánh đường của Giáo xứ Úc để mọi người tôn kính.
Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ở lại qua sân trường nhà thờ tham dự tiệc liên hoan mừng Bổn Mạng và thưỡng lãm văn nghệ do Ca đoàn và Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể trình diễn.
Hình ảnh
Quý Cha và tất cả mọi người tập trung tại khuôn viên trường học nhà thờ và Cha Phêrô Dương Thanh Liêm Tuyên úy Đặc trách Giáo Đoàn Georges Hall xông hương kiệu Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa đồng thời Ban Tây Nhạc Cecilia hợp tấu bài Chào Mừng và 3 hồi chiêng trống nổi lên kiệu cung nghinh tượng Thánh Simon Phan Đắc Hòa rước vào nhà thờ an vị trên cung Thánh.
Cha Phêrô Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng quý Cha, quý Sơ, tất cả mọi người và chúc mừng Bổn Mạng Giáo Đoàn, và cùng với quý Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Chính xứ Georges Hall Joseph Kolodziel hiệp dâng Thánh lễ.
Sau nghi thức Thiếu Nhi Thánh Thể của Xứ đoàn cung nghinh Phúc Âm. Cha Dương Thanh Liêm trong bài giảng nói về Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa xuất thân trong một gia đình không Công Giáo, nhưng Ngài sống với người Công Giáo nhìn thấy cái đẹp của Đạo KiTô Giáo và năm 12 tuổi Ngài học đạo và gia nhập vào Giáo Hội của Chúa và Ngài đã sẵn sang hy sinh mạng sống của Ngài để làm chứng nhân đức tin cho Thiên Chúa…
Trước khi kết thúc Thánh lễ, bà Donna Busuttil Chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ Georges Hall lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng của Giáo Đoàn, bà thay mặt Hội Đồng Giáo Xứ cám ơn Giáo Đoàn đã giúp ích đóng góp cho Giáo Xứ được phát triển tốt đẹp. Kế tiếp anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo Đoàn, Ca đoàn, Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và Huynh Đoàn Đaminh, anh khen ngợi Giáo Đoàn đã tích cực đóng góp rất nhiều cho Cộng Đồng và Giáo Xứ trong suốt những năm tháng qua. Sau cùng ông Trần Thanh Tịnh Trưởng Ban Mục Vụ Giáo Đoàn lên ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Quan Khách và mọi người đã đến tham dự Thánh lễ mừng kính Bổn Mạng của Giáo Đoàn Ông cũng đặc biệt cám ơn quý ân nhân đã đóng góp trợ giúp cho Giáo Đoàn và sau cùng ông xin tất cả mọi người hãy luôn cầu nguyện cho Giáo Đoàn ngày bền vững và tiến triển trong Cộng Đồng trong Giáo Hội.
Kế tiếp là nghi thức đặt tượng Thánh Tử Đạo Simon Phan Đắc Hòa an ngự trong nhà thờ. Qúy Cha và mọi người cùng quỳ dâng lời kinh nguyện lên Thánh Simon Hòa đồng thời đại diện Ban Mục Vụ Giáo Đoàn đã trịnh trọng cung nghinh đặt tượng Thánh Simon Phan Đắc Hòa trên bệ bàn thờ. Đây là một niềm vinh dự lớn cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, đã có được một vị Thánh Anh Hùng Việt Nam an ngự trong thánh đường của Giáo xứ Úc để mọi người tôn kính.
Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ở lại qua sân trường nhà thờ tham dự tiệc liên hoan mừng Bổn Mạng và thưỡng lãm văn nghệ do Ca đoàn và Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể trình diễn.
Nhóm CTTTHNGD Cộng đoàn Phục Sinh thăm viếng Nhà Dưỡng Lão
Quân Trần
08:59 21/12/2013
Đêm nhạc Giáng Sinh tại Trung tâm mục vụ TGP Saigòn
Sr Minh Du
11:31 21/12/2013
Tối ngày 20/12 tại trung tâm mục vụ tổng giáo phận Sàigòn người người khắp nơi nô nức kéo nhau về cùng lắng đọng tâm hồn với những ca khúc Giáng Sinh mừng đón Chúa Hài Đồng.
Hình ảnh
Đêm nhạc Giáng Sinh với chủ đề: Đêm Thánh, đêm rực sáng yêu thương đã làm những người tham dự cảm nhận một đêm yêu thương thực sự giữa tình trời và đất. Với mười bảy ca khúc Giáng Sinh bất hủ, truyền thống đến những bài Noel mới đan quyện nhau làm cho một không gian dặc quánh mùi, màu và hơi thở Giáng Sinh. Mở đầu chương trình là lời mời gọi từ ban tổ chức cho mọi người tham dự cầu nguyện. Cả khuôn viên Trung tâm mục vụ vang lên lời ca Maranatha của cha Thành Tâm, cầu mong Chúa đến.
Phần một với chủ đề Đêm thánh, nhạc sĩ Ngọc Linh chỉ huy một ca đoàn tổng hợp kỷ lục với khoảng ba trăm năm mươi (350) ca viên gồm quý sơ dòng nữ Đaminh Rosa Lima, Đaminh Bùi Chu, quý thầy dòng Đồng Công, các ca đoàn Tam Hà, Tam Hải, Thiện Chí Gx. Phát Diệm, Hồng Ân của Trung tâm mục vụ với hai ca khúc của cố nhạc sĩ Viết Chung là Kinh Cầu Giáng Sinh và Đêm yêu thương...những lời hát mượt mà, êm dịu đầy tình Giáng Sinh làm cho những người thưởng thức cảm nhận được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu dọi vào tâm hồn. Nhạc sĩ Ngọc Linh cho biết thêm hai bài hát này Thầy đi tập các nhóm ở các nơi khác nhau trong vòng một tháng và trước đêm diễn ráp lại một lần chung với nhau chỉ trong một tiếng đồng hồ. Thêm một kỷ lục nữa cho thầy Ngọc Linh. Cảm ơn người nhạc sĩ sống cống hiến cho một nền thánh nhạc Việt Nam với những tận tụy và bền chí, cho những bài thánh ca và những đêm chỉ huy lớn như thế này cho anh chị em Kitô hữu được thưởng thức.
Các ca sĩ Gia Ân, Bích Hiền, Duyên Quỳnh, Hoàng Kim, Thùy Trâm, Quang Thái, Minh Khoa, Ngọc Mai Khắc Triệu, Xuân Trường, Tuyết Mai, Thanh Sử và Diệu Hiền với những ca khúc Nơi Belem ( Kim Long), Đêm hồng phúc, Ơn Giáng Sinh và Xanh trời Noel ( Nguyễn Duy), Ba Vua lên đường ( Thông Vi Vu),Hãy vùng đứng ( Vinh Hạnh ), Đêm Thánh huy hoàng ( Nguyễn Văn Đông) và các bài ngoại quốc như Silent Night, Joy to the world, Một đêm đông giá ( Ciro Dammicco). Tham gia múa gồm hai hội dòng: Mến Thánh Giá Chợ Quán và Mân Côi.
Tiết mục nào cũng đặc sắc, đan xen giữa những lời ca bất hủ là những bài hát hiện đại. Đan chen vào giữa những bản hợp ca là những song ca, tam ca và những bài múa của các thiên thần. Không khí đêm diễn như đã nói trên là đặc quánh một mùi Giáng Sinh. Tôi ngồi xem, dù ghế có lưng dựa nhưng hình như tôi đã quên không dựa ghế mà ngồi thẳng đứng, thưởng thức, mặc cho những tiếng bình luận chung quanh, lòng trào dâng một niềm vui. Vui vì được lắng nghe những ca khúc Giáng Sinh và vui vì được xem tận mắt, vui vì một bầu khí ấm cúng, một bữa tiệc ngon mắt và “đã tai”.
Trong các tiết mục thì bài múa của các em thiếu nhi Hạnh Thông Tây là đặc sắc nhất, vì khán giả là những vị giám khảo công bằng nhất, và khi các em vừa chạy ra sân khấu thì những tràng pháo tay nổ ra khắp các khán đài. Trong trang phục ngộ nghĩnh khi hóa thân thành những cây trạng nguyên, những chú nai, những giọt tuyết và cây thông và chen lẫn với các thiên thần trong bài múa Mary’s Boy Child. Các điệu múa rất đơn giản, nhưng với trang phục đẹp mắt, sự xuất hiện dễ thương của các em đã làm cho khán giả mềm lòng và không tiếc vỗ những tràng pháo tay thật lớn để cổ vũ. Chẳng cần ai cầm micro lớn tiếng xin cho một tràng pháo tay, vậy mà bài múa của các em đã lấy của khán giả không biết bao nhiêu là pháo tay. Cảm ơn các em đã cống hiến một bài múa hay và một làn khí tươi mát cho chương trình.
Có lẽ không thể không nhắc đến tứ ca Cha Cha Cha Cha, khi mới nghe giới thiệu về nhóm này, ai cũng ơ hờ vì chưa từng nghe đến nhóm này bao giờ, nhưng khi xuất hiện, thì khán giả bắt đầu chỉ chỏ rồi hỏi nhau có phải là cha Đăng Linh không, à kia là cha Duy Khánh, đó là cha Hoàng Quân, ồ cha Hoàng Chương nữa.... và chúng ta có tứ ca Cha Cha Cha Cha.
Ca đoàn Piô với nhạc sĩ Tiến Linh với những giọng ca đều và trầm ấm, không cần âm thanh lớn đã để lại trong lòng những người tham dự một sự lắng đọng của phần cuối chương trình.
một điểm hết sức đặc biệt nữa là gần cuối chương trình có bài Hãy yêu nhau đi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Một bài hát chẳng có chất gì là Giáng Sinh ở đây cả, một điều lạ thường chưa từng xảy ra trước đây. Khi tôi đem thắc mắc này đến cha Roco Nguyễn Duy, là một trong những người biên tập và đạo diễn cho đêm diễn, cha nhạc sĩ cho biết: vì bài hát mang chất Tin Mừng và vì nhạc sĩ họ Trịnh này cũng không có đạo mà năm nay là năm phúc âm hóa nên hãy yêu nhau đi được đưa vào chương trình với một thông điệp nhắn gửi rằng: phúc âm hóa toàn thể xã hội và hãy hướng về mọi người. Mở đầu là Maranatha với lời nhắn: xin cho dương thế người biết thương nhau thì khép lại là hãy yêu nhau đi. Xin cảm ơn thâm ý của các đạo diễn và nhờ đó thông điệp này sẽ được sẻ chia và lan rộng.
Một bữa tiệc Giáng Sinh, có thể nói như vậy về Đêm thánh, đêm yêu thương của Tổng giáo phận Saigon đêm qua. Một chương trình không mang tính hình thức, không có quảng cáo, không bán vé, không ồn ào, không giới thiệu dài dòng. Bắt đầu đúng 19 giờ và kết thúc 21 giờ như trong thiệp mời, không xê xích chút nào, âm thanh tuyệt hảo, ánh sáng rạng ngời và những bài cảm ơn và phát biểu của Đức Hồng Y, của cha Nguyễn Văn Hiền ngắn gọn, xúc tích chứa đựng tâm tình của vị cha chung. Và ngoài những phần cảm ơn như bình thường, người viết thích nhất khi nghe cha Hiền cảm ơn những gia đình hàng xóm của trung tâm Mục vụ hôm nay đã hy sinh chịu đựng những âm thanh của đêm diễn này. Thật dễ thương và tình người !
Một đêm tuyệt vời, khó quên và nếu ai đó bỏ lỡ dịp này thì thật là tiếc ! Riêng những người có mặt tại mái nhà của tổng giáo phận hôm nay thì nhủ lòng khi ra về rằng: sang năm mình sẽ đến sớm hơn để tìm được chỗ ngồi quan sát tốt nhất.
Xin cảm ơn Đức Hồng Y, quý Đức Cha, Quý Cha, Quý nhà Dòng, quý nhạc sĩ, ca sĩ, quý diễn viên, ca sĩ và những anh chị em trong các ban vệ sinh, trật tự... đã dọn cho mọi người một bữa tiệc Giáng Sinh tinh thần ấm cúng và thánh đức. Xin Thiên Chúa Ngôi Hai đổ tràn lòng Quý Vị bằng những ngọn lửa của tình yêu và sự nhiệt thành cộng với một sức khỏe tốt để việc phục vụ trân quý này mỗi ngày một vinh danh Chúa hơn.
Saigon 21/12/2013
Hình ảnh
Đêm nhạc Giáng Sinh với chủ đề: Đêm Thánh, đêm rực sáng yêu thương đã làm những người tham dự cảm nhận một đêm yêu thương thực sự giữa tình trời và đất. Với mười bảy ca khúc Giáng Sinh bất hủ, truyền thống đến những bài Noel mới đan quyện nhau làm cho một không gian dặc quánh mùi, màu và hơi thở Giáng Sinh. Mở đầu chương trình là lời mời gọi từ ban tổ chức cho mọi người tham dự cầu nguyện. Cả khuôn viên Trung tâm mục vụ vang lên lời ca Maranatha của cha Thành Tâm, cầu mong Chúa đến.
Phần một với chủ đề Đêm thánh, nhạc sĩ Ngọc Linh chỉ huy một ca đoàn tổng hợp kỷ lục với khoảng ba trăm năm mươi (350) ca viên gồm quý sơ dòng nữ Đaminh Rosa Lima, Đaminh Bùi Chu, quý thầy dòng Đồng Công, các ca đoàn Tam Hà, Tam Hải, Thiện Chí Gx. Phát Diệm, Hồng Ân của Trung tâm mục vụ với hai ca khúc của cố nhạc sĩ Viết Chung là Kinh Cầu Giáng Sinh và Đêm yêu thương...những lời hát mượt mà, êm dịu đầy tình Giáng Sinh làm cho những người thưởng thức cảm nhận được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu dọi vào tâm hồn. Nhạc sĩ Ngọc Linh cho biết thêm hai bài hát này Thầy đi tập các nhóm ở các nơi khác nhau trong vòng một tháng và trước đêm diễn ráp lại một lần chung với nhau chỉ trong một tiếng đồng hồ. Thêm một kỷ lục nữa cho thầy Ngọc Linh. Cảm ơn người nhạc sĩ sống cống hiến cho một nền thánh nhạc Việt Nam với những tận tụy và bền chí, cho những bài thánh ca và những đêm chỉ huy lớn như thế này cho anh chị em Kitô hữu được thưởng thức.
Các ca sĩ Gia Ân, Bích Hiền, Duyên Quỳnh, Hoàng Kim, Thùy Trâm, Quang Thái, Minh Khoa, Ngọc Mai Khắc Triệu, Xuân Trường, Tuyết Mai, Thanh Sử và Diệu Hiền với những ca khúc Nơi Belem ( Kim Long), Đêm hồng phúc, Ơn Giáng Sinh và Xanh trời Noel ( Nguyễn Duy), Ba Vua lên đường ( Thông Vi Vu),Hãy vùng đứng ( Vinh Hạnh ), Đêm Thánh huy hoàng ( Nguyễn Văn Đông) và các bài ngoại quốc như Silent Night, Joy to the world, Một đêm đông giá ( Ciro Dammicco). Tham gia múa gồm hai hội dòng: Mến Thánh Giá Chợ Quán và Mân Côi.
Tiết mục nào cũng đặc sắc, đan xen giữa những lời ca bất hủ là những bài hát hiện đại. Đan chen vào giữa những bản hợp ca là những song ca, tam ca và những bài múa của các thiên thần. Không khí đêm diễn như đã nói trên là đặc quánh một mùi Giáng Sinh. Tôi ngồi xem, dù ghế có lưng dựa nhưng hình như tôi đã quên không dựa ghế mà ngồi thẳng đứng, thưởng thức, mặc cho những tiếng bình luận chung quanh, lòng trào dâng một niềm vui. Vui vì được lắng nghe những ca khúc Giáng Sinh và vui vì được xem tận mắt, vui vì một bầu khí ấm cúng, một bữa tiệc ngon mắt và “đã tai”.
Trong các tiết mục thì bài múa của các em thiếu nhi Hạnh Thông Tây là đặc sắc nhất, vì khán giả là những vị giám khảo công bằng nhất, và khi các em vừa chạy ra sân khấu thì những tràng pháo tay nổ ra khắp các khán đài. Trong trang phục ngộ nghĩnh khi hóa thân thành những cây trạng nguyên, những chú nai, những giọt tuyết và cây thông và chen lẫn với các thiên thần trong bài múa Mary’s Boy Child. Các điệu múa rất đơn giản, nhưng với trang phục đẹp mắt, sự xuất hiện dễ thương của các em đã làm cho khán giả mềm lòng và không tiếc vỗ những tràng pháo tay thật lớn để cổ vũ. Chẳng cần ai cầm micro lớn tiếng xin cho một tràng pháo tay, vậy mà bài múa của các em đã lấy của khán giả không biết bao nhiêu là pháo tay. Cảm ơn các em đã cống hiến một bài múa hay và một làn khí tươi mát cho chương trình.
Có lẽ không thể không nhắc đến tứ ca Cha Cha Cha Cha, khi mới nghe giới thiệu về nhóm này, ai cũng ơ hờ vì chưa từng nghe đến nhóm này bao giờ, nhưng khi xuất hiện, thì khán giả bắt đầu chỉ chỏ rồi hỏi nhau có phải là cha Đăng Linh không, à kia là cha Duy Khánh, đó là cha Hoàng Quân, ồ cha Hoàng Chương nữa.... và chúng ta có tứ ca Cha Cha Cha Cha.
Ca đoàn Piô với nhạc sĩ Tiến Linh với những giọng ca đều và trầm ấm, không cần âm thanh lớn đã để lại trong lòng những người tham dự một sự lắng đọng của phần cuối chương trình.
một điểm hết sức đặc biệt nữa là gần cuối chương trình có bài Hãy yêu nhau đi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Một bài hát chẳng có chất gì là Giáng Sinh ở đây cả, một điều lạ thường chưa từng xảy ra trước đây. Khi tôi đem thắc mắc này đến cha Roco Nguyễn Duy, là một trong những người biên tập và đạo diễn cho đêm diễn, cha nhạc sĩ cho biết: vì bài hát mang chất Tin Mừng và vì nhạc sĩ họ Trịnh này cũng không có đạo mà năm nay là năm phúc âm hóa nên hãy yêu nhau đi được đưa vào chương trình với một thông điệp nhắn gửi rằng: phúc âm hóa toàn thể xã hội và hãy hướng về mọi người. Mở đầu là Maranatha với lời nhắn: xin cho dương thế người biết thương nhau thì khép lại là hãy yêu nhau đi. Xin cảm ơn thâm ý của các đạo diễn và nhờ đó thông điệp này sẽ được sẻ chia và lan rộng.
Một bữa tiệc Giáng Sinh, có thể nói như vậy về Đêm thánh, đêm yêu thương của Tổng giáo phận Saigon đêm qua. Một chương trình không mang tính hình thức, không có quảng cáo, không bán vé, không ồn ào, không giới thiệu dài dòng. Bắt đầu đúng 19 giờ và kết thúc 21 giờ như trong thiệp mời, không xê xích chút nào, âm thanh tuyệt hảo, ánh sáng rạng ngời và những bài cảm ơn và phát biểu của Đức Hồng Y, của cha Nguyễn Văn Hiền ngắn gọn, xúc tích chứa đựng tâm tình của vị cha chung. Và ngoài những phần cảm ơn như bình thường, người viết thích nhất khi nghe cha Hiền cảm ơn những gia đình hàng xóm của trung tâm Mục vụ hôm nay đã hy sinh chịu đựng những âm thanh của đêm diễn này. Thật dễ thương và tình người !
Một đêm tuyệt vời, khó quên và nếu ai đó bỏ lỡ dịp này thì thật là tiếc ! Riêng những người có mặt tại mái nhà của tổng giáo phận hôm nay thì nhủ lòng khi ra về rằng: sang năm mình sẽ đến sớm hơn để tìm được chỗ ngồi quan sát tốt nhất.
Xin cảm ơn Đức Hồng Y, quý Đức Cha, Quý Cha, Quý nhà Dòng, quý nhạc sĩ, ca sĩ, quý diễn viên, ca sĩ và những anh chị em trong các ban vệ sinh, trật tự... đã dọn cho mọi người một bữa tiệc Giáng Sinh tinh thần ấm cúng và thánh đức. Xin Thiên Chúa Ngôi Hai đổ tràn lòng Quý Vị bằng những ngọn lửa của tình yêu và sự nhiệt thành cộng với một sức khỏe tốt để việc phục vụ trân quý này mỗi ngày một vinh danh Chúa hơn.
Saigon 21/12/2013