Ngày 21-08-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:21 21/08/2025

19. Người kiêu ngạo thích được người khác ca ngợi, giống như em bé chụp bắt con bướm, đối với em bé đó là việc lớn, nhưng trong con mắt của người lớn đó chỉ là vui đùa mà thôi.

(Vô danh)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:24 21/08/2025
23. HỌC SINH ĐÁNH LẠI

Ở châu Bộ có một nguời họ Khổng, khi về già mới sinh được một con trai, nên rất là vui sướng.

Ông ta bèn mời thầy đến dạy học cho con trai, nhưng đứa con trai hễ mở miệng là chửi, thầy giáo giận dữ bèn đánh nhẹ nó mấy roi, con trai liền khóc và đi vào phòng của bà mẹ để tố thầy giáo, nói:

- “Thầy giáo đánh con, con nhất định phải đánh trả lại, nếu không thì con sẽ chết`”.

Nhà họ Khổng vội vàng nhờ bạn bè thương lượng với thầy giáo tạm thời nhẫn nại một chút, để cho con trai bớt giận, thầy giáo không chịu, bạn bè cho rằng gia cảnh của thầy giáo có phần khốn khổ, bèn nói với họ Khổng hối lộ thầy giáo mười lượng bạc thì thầy giáo mới miễn cưỡng mà nhận…

(Tiếu Tiếu lục)

Suy tư 23:

Con một trong gia đình thì thường là được cha mẹ cưng chiều, vì được cưng chiều nhiều nên có những đứa con hư thân mà cha mẹ không làm gì được.

Học trò đòi đánh thầy giáo là học trò mất dạy, cái mất dạy này trước hết là do cha mẹ quá cưng chiều con cái mà ra; cha mẹ không dám nghiêm khắc dạy dỗ con cái, là cha mẹ trở thành sợi dây thòng lọng từ từ thắt chết linh hồn con mình.

Bạn bè không nhắc nhở nhau làm điều tốt thì cả hai đều đi xuống hố tội lỗi, đó là lời cảnh cáo của Đức Chúa Giêsu, ai có học giáo lý thì đều hiểu.

Thời nay, học trò đánh thầy cô giáo là một dấu hiệu đáng báo động cho những người có trách nhiệm giáo dục thanh thiếu niên, dấu hiệu này càng ngày càng rõ nét là báo trước một nền luân lý sa đọa và sắp sụp đổ, và cảnh báo trước một quốc gia đang đi đến chỗ tự hủy hoại mình, nó cũng là thời điểm báo trước con thịnh nộ của Thiên Chúa…

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Ngày 22/08: Đức Maria Nữ Vương vì biết xin vâng - Lm Giuse Trần Châu Đông
Giáo Hội Năm Châu
02:35 21/08/2025

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
 
Nghịch lý
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
05:59 21/08/2025
NGHỊCH LÝ?
(Chúa Nhật XXI TN C Lc 13,22-30)

Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô song và tốt lành vô cùng. Kitô hữu xác tín rằng Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng ơn cứu độ, nghĩa là được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng Người tặng ban. Vậy hiểu thế nào lời Chúa Giêsu khi có người hỏi: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” thì Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết, có nhiều người tìm cách vào mà không thể được”? (x.Lc 13,22-23}.

Chắc chắn Thiên Chúa không hề dè sẻn hồng ân cứu độ, hạnh phúc vĩnh cửu mà Người quảng đại thông ban cho mọi loài, nhất là loài người chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định rằng: “Thiên hạ sẽ từ bốn phương, Đông Tây Nam Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa cùng với các Tổ phụ Abrraham, Isaacs, Giacóp và các sứ ngôn” (x.Lc 13,28-29). Chúng ta có thể xác tín rằng cánh cửa Nước Trời luôn rộng mở cho tất cả mọi người. Thế nhưng cánh cửa ấy vẫn có thể là quá hẹp đối với một số người. Vậy họ là những ai?

Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu mà Tin mừng tường thuật trong ngữ cảnh này thì đó là những người đã làm điều bất chính, đã làm những hành vi gian dối, ác độc mặc dầu họ cũng đã từng nghe lời Chúa, đã từng tham dự nhiều lễ nghi phụng vụ. “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố chúng tôi” (Lc 13,26). Theo thiển ý thì chính cái tôi của chúng ta nếu quá phình to ra thì sẽ quá cở so với cánh cửa thiên đường. Một nguyên nhân khiến cái tôi của chúng ta phình to ra đó là sự tham lam vô độ. Tham danh, tham quyền, tham lợi... không chỉ là đầu mối gây ra sự dữ mà còn là hình thái thờ ngẫu tượng.

Vì tham lam nên người ta sẵn sàng làm những hành vi gian dối, lọc lừa. Gian dối trong sản xuất hàng hóa, gian dối trong kinh doanh buôn bán, gian dối trong thông truyền tin tức...là những hành vi ác độc làm tổn hại đến sức khỏe thể lý và tinh thần của rất nhiều người. Vì tham lam quyền lực người ta cũng có thể hành khổ không chỉ những người thuộc quyền mà cả người dân các nước khác bằng những hành vi độc tài, độc đoán, độc quyền mà hầu chắc ít nhiều cũng có tính độc ác. Những cơ chế, chính sách bất công, những cuộc chiến tranh bất nhân, phi nghĩa là những mình chứng rõ ràng.

Chúa Giêsu đã từng vạch rõ chân tướng của thần dữ là “tên sát nhân và là cha của sự gian dối” (x.Ga 8,44). Những kẻ làm điều gian ác là làm tôi cho thần dữ. Và sự tham lam vô độ đã làm cho cái tôi của họ phình to ra cách quả cở nên không thể lọt qua cánh cửa Nước trời. Vậy có thể nói rằng cửa Nước Trời chỉ hẹp với những ai có cái tôi qua lớn mà thôi.

Để có thể được chung với số người từ bốn phương, Đông Tây Nam Bắc vào dự tiệc trong Nước Thiên Chúa thì không gì hơn hãy làm cho cái tôi của mình nhỏ lại. Và cách thế tốt nhất mà Chúa Giêsu chỉ dạy để làm cho cái tôi mình nhỏ lại đó là lấy thiện ích của tha nhân, nhất là thiện ích những nghèo, người bé mọn làm kim chỉ nam cho mọi hành vi, những nghĩ suy, lời nói, việc làm của chúng ta (x.Mt 25,31-46). Khi thiện ích của tha nhân càng lớn lên thì cái tôi của chúng ta sẽ dần nhỏ lại.

Cánh cửa Nước Trời dù có hẹp thì vẫn là vừa, vẫn là rộng đối với những ai có cái tôi bé nhỏ. Để làm cho cái tôi của mình nhỏ lại thì không phải dễ dàng ngày một ngày hai. Chính vì thế mà Chúa Giêsu truyền dạy: “Hãy chiến đấu”. Hãy chiến đấu từng ngày trước hết với kẻ “nội thù” là lòng tham vô độ trong lòng chúng ta.

Ban Mê Thuột
 
Nữ Vương - Nữ Tỳ
Lm. Minh Anh
17:22 21/08/2025
NỮ VƯƠNG - NỮ TỲ

“Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Nữ hoàng Mary, Scotland, thường đi thăm dân chúng một mình. Chiều kia, trời đổ mưa, bà ghé một ngôi nhà, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, ngày mai tôi sẽ trả?”. Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa; một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một cơ hội - không trao cho nữ hoàng cái tốt nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất”, Nữ Hoàng ở đây chính là Mẹ Maria. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ là ‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Với triều thiên vinh hiển Chúa ban, Mẹ là ‘Nữ Vương’ thiên đàng nhưng cũng là ‘nữ tỳ’, là môn đệ và là ‘Ái Nữ’ của Đấng mà “Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa, nên Mẹ Ngài là ‘Nữ Vương’ bởi “huyết thống thần linh” trong tư cách Mẹ Đức Chúa Trời. Mẹ là ‘Nữ Vương’ bởi sự lựa chọn duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người bình thường có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng nhờ sự lựa chọn của dân chúng, thì sự lựa chọn của chính Chúa Cha còn vĩ đại hơn biết bao! “Phẩm giá vương giả của Maria phát xuất từ sự gắn bó độc nhất với Chúa Kitô, Con của Mẹ, Vị Vua thần linh!” - Bênêđictô XVI. Vương vị của Mẹ phát sinh từ vương vị của Con.

Đức Phanxicô trích dẫn Thánh Kinh ba lần để chứng tỏ Vương Quyền của Mẹ. Lời các ngôn sứ về Đấng Cứu Thế xem ra đều nói về một vị Vua, chẳng hạn, “Người sẽ mở rộng quyền bính, lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít” - bài đọc một. Trong cuộc Truyền Tin, dù chỉ là một ‘nữ tỳ’, Mẹ được sứ thần báo trước về ngai vàng của Đấng Mẹ cưu mang, “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”. Sau cùng, vương vị của Mẹ được tìm thấy trong Khải Huyền, “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”; miêu tả Mẹ là ‘Nữ Vương mới’ chia sẻ quyền quản cai vũ trụ với Chúa Con. “Maria là Nữ Vương vì Mẹ là Mẹ của Vua các vua!” - Piô XII.

Anh Chị em,

“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Là Mẹ của Đấng vô cùng vô tận, nhưng Đức Maria cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. “Mẹ là người đầu tiên lãnh nhận trọn vẹn ân sủng, và là người luôn chuyển cầu cho chúng ta bằng trái tim của một người Mẹ!” - Lêô XIV. “Hãy gõ cửa nhà Mẹ! Chúng ta không được tưởng tượng Đức Maria ‘như một bức tượng sáp bất động’, nhưng nơi Mẹ, chúng ta có thể nhìn thấy một ‘người chị’ với đôi dép mòn cùng biết bao mệt nhọc!” - Phanxicô. Riêng Fulton Sheen thì hài hước, “Chúa sẽ chào đón một người trên thiên đàng bằng những lời này: ‘Mẹ tôi nói rất tốt về bạn!’”. Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, ‘Nữ Vương’ uy phép nhưng cũng là ‘Nữ Tỳ’ khiêm hạ, đừng để con vất vưởng như con mồ côi!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Frank Caprio, vị thẩm phán nổi tiếng với lòng nhân từ, qua đời ở tuổi 88
Đặng Tự Do
04:05 21/08/2025
Frank Caprio, người từng là thẩm phán tòa án thành phố Providence, Rhode Island, trong gần 40 năm và được mệnh danh là "thẩm phán tốt bụng nhất nước Mỹ", đã qua đời vào ngày 20 tháng 8 vì bệnh ung thư tuyến tụy.

“Được yêu mến bởi lòng trắc ẩn, sự khiêm nhường và niềm tin vững chắc vào lòng tốt của con người, Thẩm phán Caprio đã chạm đến cuộc sống của hàng triệu người thông qua công việc của mình tại tòa án và hơn thế nữa. Sự ấm áp, hài hước và lòng tốt của ông đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng tất cả những ai từng biết ông”.

Thống đốc bang Rhode Island, Dan McKee, đã ra lệnh treo cờ rủ tại tất cả các cơ quan và tòa nhà của bang cho đến sau một ngày thánh lễ an táng Caprio, đồng thời yêu cầu người dân Rhode Island hạ cờ xuống để bày tỏ lòng tôn kính.

Caprio nổi tiếng khắp thế giới nhờ phong cách tư pháp khoan dung, kết hợp giữa công lý, sự đồng cảm sâu sắc và lòng thương xót khi phiên tòa xét xử ông được truyền hình trực tiếp trong chương trình "Caught in Providence". Chương trình bắt đầu vào năm 1999 và lan truyền mạnh mẽ vào năm 2017, đạt hàng trăm triệu lượt xem kể từ đó. Chương trình đã được đề cử Giải Daytime Emmy năm 2021 và sở hữu kênh YouTube với gần 3 triệu người ghi danh.

Khi đưa ra phán quyết về các lỗi vi phạm nhẹ như phạt đậu xe và chạy quá tốc độ, Caprio đã nói với phóng viên Colm Flynn của EWTN News trên chương trình “EWTN News In Depth” vào tháng 2 rằng ông luôn ghi nhớ điều mà cha ông, một người nhập cư Ý chăm chỉ chỉ học hết lớp năm, đã truyền đạt cho ông: “Những gì có vẻ như là khoản tiền phạt nhỏ đối với một số người lại là thứ mà nhiều người không thể chi trả được”.

Caprio cho biết: "Đó là lý do tại sao tôi luôn hỏi: 'Hãy kể cho tôi nghe một chút về những gì đang diễn ra trong cuộc sống của bạn'".

“Vụ án của anh đã bị bác bỏ” đã trở thành câu nói đặc trưng của Caprio.

Khi các thẩm phán khác hỏi tại sao ông lại khoan hồng như vậy, ông trả lời: "Tôi chỉ muốn đặt mình vào vị trí của người đang đối diện với tôi mà thôi."

Caprio đã bác bỏ vụ kiện của một người đàn ông 96 tuổi, Victor, người có một vé phạt chạy quá tốc độ chưa thanh toán, lần đầu tiên trong đời, mà ông nhận được khi đưa con trai khuyết tật của mình đi khám bác sĩ. Bốn năm sau, Caprio đã cùng ông tổ chức sinh nhật lần thứ 100.

Caprio chia sẻ: “Khi quan sát cha mình, tôi đã học được cách đối xử với mọi người bằng sự tôn trọng và phẩm giá”.

Cuộc sống và giáo dục ban đầu

Caprio sinh năm 1936 tại Providence, Rhode Island, là con thứ hai trong ba người con trai của cặp vợ chồng người Ý nhập cư Antonio Caprio và Filomena Caprio, những người di cư từ Naples.

Caprio theo học tại các trường công lập ở Providence, giành chức vô địch cấp bang về đấu vật khi học tại Trường Trung học Central, và sau đó tốt nghiệp Đại Học Providence năm 1958. Trong thời gian giảng dạy môn chính phủ Hoa Kỳ tại Trường Trung học Hope, ông theo học ngành luật tại Khoa Luật, Đại học Suffolk, tham gia các lớp học buổi tối và vượt qua kỳ thi luật sư năm 1965. Ông trở thành thẩm phán năm 1985 và phục vụ cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2023.

Caprio kể rằng cha ông, một người bán trái cây và giao sữa, thường đánh thức ông và các ông em lúc 4 giờ sáng để đi cùng ông trong chuyến giao sữa.

“Tôi đã có một tuổi thơ sung sướng nhất mà bạn có thể tưởng tượng,” Caprio nói với Flynn. “Tôi may mắn được lớn lên trong cảnh nghèo khó.”

Ông mô tả cuộc sống trong một "căn nhà nước lạnh", một căn nhà không có nước nóng.

Cha của Caprio nói với các con trai của mình rằng nếu họ "không muốn ở lại chiếc xe đẩy sữa này suốt quãng đời còn lại thì tốt hơn hết là các con nên tiếp tục đi học".

Caprio kể rằng, một ngày nọ, khi ông khoảng 12 tuổi, cha ông đặt tay lên vai ông và nói: "Một ngày nào đó con sẽ trở thành luật sư, và con không thể buộc tội những người nghèo như chúng ta được."

Ông Caprio đã chỉ cho các con trai mình cách thể hiện lòng trắc ẩn ngay cả khi là một người giao sữa nghèo, từ chối dừng giao sữa khi khách hàng không có khả năng trả tiền.

Cha của Caprio vẫn là một nhân tố quyền lực trong cuộc đời ông ngay cả sau khi ông trở thành thẩm phán. Ngay ngày đầu tiên tại tòa, Caprio đã yêu cầu một người phụ nữ hung hăng, thô lỗ với nhiều vé phạt đỗ xe phải trả đủ số tiền bà ta nợ và tịch thu xe. Cuối ngày, ông hỏi cha mình, người đã theo dõi vụ việc: "Con làm thế nào?"

Bố ông nói rằng ông quá khắt khe với người phụ nữ đó, mặc dù bà ta có thái độ không tốt. Ông nói rằng bà ta có ba đứa con và có thể không đủ sức nuôi chúng tối hôm đó.

Cha của Caprio nói với ông rằng: "Việc con nắm giữ quyền lực không có nghĩa là con phải sử dụng nó để chống lại những người không có quyền lực".

Đó là bài học mà ông sẽ không bao giờ quên.

Caprio nói với Flynn: "Tôi chỉ cố gắng cư xử tử tế với mọi người. Tôi chưa bao giờ ngồi dự bị và nghĩ mình giỏi hơn người khác hay hơn họ ở bất kỳ điểm nào".

Chẩn đoán ung thư

Caprio được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tụy vào năm 2023.

Là một người Công Giáo ngoan đạo, đức tin của Caprio đã nâng đỡ ông trong chuyến hành hương đến Lourdes, Pháp, vào năm 2024, nơi ông hát "Ave Maria" tại hang động, mô tả đó là một khoảnh khắc tâm linh sâu sắc.

Ông nói với Flynn rằng ông hy vọng người hâm mộ sẽ cầu nguyện cho ông sau khi ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vì "Tôi có niềm tin sâu sắc và bền vững vào Giáo Hội Công Giáo, vào Chúa Giêsu, vào sức mạnh của lời cầu nguyện". Ông nói rằng niềm tin vào Chúa và lời cầu nguyện của tất cả người hâm mộ đã giúp ông tiếp tục.

Ông lại kêu gọi mọi người cầu nguyện vào ngày 19 tháng 8, đăng một video lên Facebook. Ông qua đời vào ngày hôm sau.

Sự nghiệp, di sản và danh dự

Caprio, một đảng viên Dân chủ, đã phục vụ tại Hội đồng Thành phố Providence trong sáu năm, từ năm 1962 đến năm 1968, và thất bại trong cuộc tổng tuyển cử giành chức Bộ Trưởng Tư Pháp Rhode Island năm 1970. Ông là đại biểu của năm Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ. Caprio cũng phục vụ trong Lực lượng Vệ binh Quốc gia Lục quân Rhode Island.

Ông tích cực tham gia vào nhiều tổ chức cộng đồng, bao gồm Boys Town of Italy và Ngân hàng Thực phẩm Rhode Island. Ông đồng chủ trì Quỹ Tượng Nữ thần Tự do Rhode Island, gây quỹ cho việc trùng tu Tượng Nữ thần Tự do và Đảo Ellis. Ngoài ra, ông còn phục vụ trong Hội đồng Quản trị Giáo dục Tiểu học và Trung học Rhode Island. Caprio cũng là thành viên Hội đồng Hiệu trưởng tại Cao đẳng Providence.

Tại Khoa Luật, Đại học Suffolk, Caprio đã thành lập Quỹ Học bổng Antonio “Tup” Caprio, được đặt theo tên cha ông, nhằm hỗ trợ sinh viên Rhode Island, những người tâm huyết với việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý tại các khu dân cư nghèo ở thành thị của tiểu bang. Caprio cũng tạo ra các học bổng tại Cao đẳng Providence, Trường Luật Suffolk và cho sinh viên tốt nghiệp Trường Trung học Central, tất cả đều nhằm tôn vinh di sản của cha ông.

Caprio đã nhận được hai bằng tiến sĩ danh dự và Giải thưởng Producer's Circle tại Liên hoan phim Quốc tế Rhode Island cùng với đề cử giải Daytime Emmy. Tòa án thành phố cũ của ông được đổi tên thành "Tòa án Chánh án Frank Caprio" vào năm 2023.

Là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Boston Red Sox, Caprio đã ném quả bóng mở màn mang tính nghi lễ tại Fenway Park vào năm 2019.

Năm 2025, ông xuất bản hồi ký “Lòng trắc ẩn trong tòa án: Những câu chuyện thay đổi cuộc đời từ vị thẩm phán tốt bụng nhất nước Mỹ”.

Ông Caprio ra đi để lại người vợ 60 năm chung sống, Joyce, và có năm người con: Frank T. Caprio, David Caprio, Marissa Pesce, John Caprio và Paul Caprio. Hai vợ chồng có bảy đứa cháu và hai đứa chắt.


Source:Catholic News Agency
 
Đức Giáo Hoàng Lêô có thể tìm cách duy trì đời sống cộng đoàn tại Vatican
Vũ Văn An
14:58 21/08/2025

© Francesco Sforza | Vatican Media


Kathleen N. Hattrup của tạp chí Aleteia, ngày 21/08/25, cho hay: Có suy đoán rằng khi Đức Giáo Hoàng cuối cùng chuyển đến căn hộ giáo hoàng đã được cải tạo vào mùa thu, ngài có thể sẽ có một cộng đoàn nhỏ dòng Augustinô.

Trong Giáo Hội Công Giáo, có sự phân biệt cơ bản giữa hai "loại" linh mục. Một số linh mục thuộc "giáo phận", còn được gọi là "đời", nghĩa là họ phục vụ một khu vực địa lý nhất định, một giáo phận, dưới sự lãnh đạo của một giám mục địa phương. Những linh mục khác được gọi là linh mục "dòng" vì họ là một phần của một cộng đồng tôn giáo - một hội dòng hoặc một dòng tu, chẳng hạn như Dòng Tên (như Đức Giáo Hoàng Phanxicô), Dòng Đa Minh, Dòng Phanxicô, hoặc Dòng Augustinô (như Đức Giáo Hoàng Lêô). Ngoài ra còn có các đan sĩ, nhưng để đơn giản, bạn có thể đọc về họ tại đây.

Các linh mục dòng có điểm tương đồng với các nữ tu -- họ khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, và thường sống với các thành viên khác trong gia đình thiêng liêng của mình, tạo thành một kiểu đời sống gia đình, hoặc đời sống cộng đoàn.

Sự khác biệt này đã được nhấn mạnh với các vị giáo hoàng đương nhiệm và gần đây. Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô là linh mục giáo phận, được thụ phong cho các Giáo phận Krakow, Ba Lan, và Munich, Đức; trong khi Đức Phanxicô, giống như Đức Lêô, là một linh mục dòng. Cả bốn vị đều sau đó phục vụ với tư cách là giám mục địa phương, vì các giám mục có thể được bổ nhiệm theo bất cứ "kiểu" linh mục nào. Nhưng Đức Lêô và Đức Phanxicô đều đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong gia đình thiêng liêng của mình.

Đức Phanxicô nổi tiếng vì đã chọn không sống trong cung điện tông đồ vì ngài nói rằng ngài cần phải ở giữa mọi người. Vì vậy, ngài đã chọn ở tại Casa Santa Marta, một kiểu khách sạn ở Vatican.

Giờ đây, dường như Đức Lêô đang tìm ra một cách tương tự để "ở giữa mọi người", đặc biệt là trong cộng đoàn tu trì của ngài.

Chuyển đến Tông điện vào mùa thu?

Hiện tại, vị giáo hoàng thứ 267 vẫn đang sống ở tầng hai của Cung điện Văn phòng Thánh, nơi ngài đã cư trú trước khi được bầu. Nhật báo La Repubblica đưa tin rằng ngài dự kiến sẽ ở lại đó "ít nhất là cho đến cuối tháng 9" và sẽ chuyển đến căn hộ giáo hoàng tại Tông điện vào mùa thu, sau khi việc cải tạo toàn diện nơi ở - vốn bị bỏ hoang trong thời kỳ Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại vị - hoàn tất.

Tờ báo Ý này dự kiến căn hộ 10 phòng này sẽ là nơi ở của một "cộng đoàn nhỏ gồm ba hoặc bốn tu sĩ Dòng Augustinô", dòng tu của Đức Giáo Hoàng cùng với Đức Leo XIV và thư ký của ngài, linh mục người Peru Edgar Rimaycuna.

Có thể có ba tu sĩ tạo nên "phòng thánh của giáo hoàng", chịu trách nhiệm chuẩn bị các nghi lễ phụng vụ của giáo hoàng.

Những tu sĩ Dòng Augustinô này - một người Ý, một người Philippines và một người Nigeria - hiện đang sống gần Nhà nguyện Sistine. Cha bề trên tổng quyền Dòng Thánh Augustinô, linh mục người Tây Ban Nha Alejandro Moral Antón, chia sẻ với tạp chí Aleteia hồi tháng 6 năm ngoái: “Đôi khi Đức Giáo Hoàng hiện tại đi ăn trưa với các tu sĩ này”.

Cha Moral cho biết ngài đã đề nghị với đức tân Giáo hoàng “rằng sẽ tốt hơn nếu thành lập một cộng đoàn nhỏ gồm các tu sĩ xung quanh ngài, những người sẽ cùng học tập, cầu nguyện và sống với ngài” tại Tông Điện.

Cha nhận định: “Đức Lêô XIV có thể trò chuyện với họ và đi dạo [...]. Đức Giáo Hoàng rất cô đơn và gánh vác nhiều trách nhiệm”.

Một kỳ nghỉ bận rộn và trở về Rome

Sau bảy ngày nghỉ ngơi tại dinh thự mùa hè của các giáo hoàng ở Castel Gandolfo, Đức Lêô XIV đã trở về Vatican vào tối ngày 19 tháng 8 năm 2025.

Trước khi trở về Rome, Đức Giáo Hoàng đã đến thăm Đền thánh Đức Mẹ Mentorella, một địa điểm được Đức Gioan Phaolô II yêu mến.

Sau khi rời dinh thự Castel Gandolfo vào buổi tối, Đức Lêô XIV đã trả lời ngắn gọn các nhà báo đã hỏi ngài về các cuộc đàm phán hòa bình ở Ukraine. Theo Vatican News, Đức Giáo Hoàng nói: “Hy vọng vẫn còn, nhưng chúng ta vẫn cần phải nỗ lực, cầu nguyện chăm chỉ và thực sự tìm kiếm con đường phía trước để tìm thấy hòa bình”.

Trong lần thứ hai ở Castel Gandolfo — sau hai tuần vào tháng 7 — Đức Leo XIV đã chủ trì nhiều buổi lễ công cộng khác nhau. Ngài đã cử hành Thánh lễ vào Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (ngày 15 tháng 8) tại giáo xứ San Tommaso da Villanova ở Castel Gandolfo và một Thánh lễ cầu nguyện cho người nghèo tại đền thờ Santa Maria della Rotonda ở Albano vào ngày 17 tháng 8. Ngài cũng đã dùng bữa trưa Chúa nhật với khoảng 100 người nghèo.

Trở lại Rome, vào ngày 20 tháng 8, ngài đã chủ trì buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư, buổi gặp gỡ hàng tuần của ngài với các tín hữu, trong đó ngài giảng giáo lý. Thứ Tư tuần trước, ngài đã dành gần hai giờ để chào đón đám đông chật kín Đại sảnh Phaolô VI và Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, tránh cái nắng gay gắt của Rome.
 
Đức Leo XIV có thể sớm tông du Lebanon
Vũ Văn An
15:10 21/08/2025

Antoine Mekary | ALETEIA
Antoine Mekary | ALETEIA

Trong bản tin ngày 21/08/2025, tạp chí Aleteia cho hay: Tiếp nối mong muốn của người tiền nhiệm về việc thăm Lebanon, Đức Giáo Hoàng Leo XIV được cho là đang lên kế hoạch đến thăm vào tháng 12, có thể kết hợp với chuyến thăm dự kiến tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo nhật báo L'Orient-Le Jour, Đức Hồng Y Bechara Raï, Thượng phụ Giáo hội Maronite, đã tuyên bố hôm thứ Ba trên Al-Arabiya rằng Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ đến Lebanon "vào tháng 12".

Theo các nguồn tin từ Vatican mà chúng tôi tham khảo, một chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng thực sự đang được lên kế hoạch. Chuyến đi có thể được kết hợp với chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ dự kiến vào tháng 11, để kỷ niệm Công đồng Nicaea.

Lebanon và Thổ Nhĩ Kỳ trong cùng một chuyến đi?

Kể từ khi được bầu vào ngày 8 tháng 5, Đức Leo XIV vẫn chưa công du nước ngoài. Hiện tại, Vatican chưa có thông báo chính thức nào về bất cứ chuyến công du nào bên ngoài nước Ý.

Tuy nhiên, chuyến công du của Đức Giáo Hoàng đến Thổ Nhĩ Kỳ dã dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 11. Đức Tân Giáo hoàng dự định kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nicaea, cùng với các nhà lãnh đạo Giáo hội Kitô giáo khác, đặc biệt là Đức Thượng phụ Bartholomew.

Theo thông tin của chúng tôi, Đức Leo XIV có thể sẽ đến thăm một quốc gia thứ hai trong chuyến đi này. Các nguồn tin từ Vatican mà Aleteia tham khảo sáng nay xác nhận rằng “chuyến công du của Đức Giáo Hoàng đến Lebanon thực sự đang được chuẩn bị”.

Vào ngày 13 tháng 6, Tổng thống Lebanon Joseph Aoun đã được Đức Giáo Hoàng Leo XIV tiếp đón tại Vatican. Đây là cuộc gặp thứ hai giữa hai vị, sau lời chào hỏi đầu tiên vào cuối Thánh lễ khai mạc triều đại giáo hoàng vào ngày 18 tháng 5. Trong chuyến thăm Vatican, Tổng thống Joseph Aoun đã chính thức gửi lời mời đức tân giáo hoàng đến thăm Lebanon.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhiều lần bày tỏ mong muốn đến thăm Lebanon. Một chuyến thăm như vậy thậm chí đã được Phủ Tổng thống Lebanon công bố vào tháng 4 năm 2022. Tuy nhiên, chuyến đi đó đã không diễn ra.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến thăm Lebanon vào năm 1997, và Đức Benedict XVI đã thực hiện chuyến tông du cuối cùng của mình tại đây vào năm 2012.
 
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đến Hội nghị Rimini: Hy vọng không làm chúng ta thất vọng
Thanh Quảng sdb
15:13 21/08/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đến Hội nghị Rimini: Hy vọng không làm chúng ta thất vọng

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV mời gọi những người tham dự Hội nghị Hữu nghị Giữa các Dân tộc lần thứ 46 hãy nhớ rằng hòa bình được tạo nên từ những nghĩa cử hằng ngày, và cảnh báo rằng cuộc cách mạng kỹ thuật số đặt ra một số những rủi ro và thách đố.

(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)

Trong thông điệp được công bố hôm thứ Năm (21/8/2025), do Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin ký, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã khuyến khích những người tham dự Hội nghị Hữu nghị Giữa các Dân tộc - thường được gọi là "Hội nghị Rimini" - hãy trở thành những người kiến tạo hòa bình, tràn đầy hy vọng, những người hoạt động vì lợi ích chung.

Kể từ năm 1980, Hội nghị Hữu nghị Giữa các Dân tộc đã diễn ra hàng năm tại thị trấn ven biển Rimini, miền bắc nước Ý vào cuối tháng Tám. Chủ đề năm nay là "Chúng ta sẽ xây dựng những viên gạch mới trên những vùng đất đổ nát."

Hội nghị Rimini là một sự kiện thường niên, do Phong trào Hiệp thông và Giải phóng tổ chức, thu hút đông đảo tín hữu, gặp gỡ nhiều cá nhân cấp cao để thảo luận về các vấn đề quan trọng. Hội nghị cũng cung cấp nhiều gian hàng và hoạt động khác nhau cho cá nhân, gia đình và trẻ em.

Hy vọng không làm chúng ta thất vọng

Trong văn bản, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến ban tổ chức, các tình nguyện viên và tất cả những người tham dự, với "hy vọng chân thành" rằng "họ có thể vui mừng nhận ra rằng 'viên đá mà thợ xây loại bỏ đã trở thành đá tảng góc tường, được chọn lựa và quý giá, và bất cứ ai tin vào nó sẽ không phải xấu hổ.' Vì 'hy vọng không làm chúng ta thất vọng.'"

Đức Thánh Cha nhận xét rằng sa mạc thường là những nơi "bị bỏ hoang" và "bị coi là không phù hợp với sự sống", nhưng ngài đã đưa ra một lời nhắc nhở rõ ràng. "Chính tại nơi dường như không có gì có thể sinh ra", ngài nhớ lại, "Kinh Thánh liên tục kể lại sự hiện diện của Thiên Chúa."

Các Thánh Tử Đạo Algeria

Đức Thánh Cha khen ngợi ban tổ chức đã tổ chức triển lãm đặc sắc của Hội nghị năm nay, dành riêng cho chứng tá của các Thánh Tử Đạo Algeria.

Đức Thánh Cha nói: "Trong những điều này, ơn gọi của Giáo hội được tỏa sáng, đó là sống trong sa mạc, hiệp thông sâu sắc với toàn thể nhân loại - vượt qua những bức tường ngờ vực chia rẽ các tôn giáo và văn hóa - bằng cách noi gương trọn vẹn sự nhập thể và hiến thân của Con Thiên Chúa."

Kêu gọi sự hiệp nhất, Đức Thánh Cha đã nhắc lại lời của mình khi phát biểu trước các Giám mục Ý tại Vatican vào tháng Sáu để "thúc đẩy các con đường giáo dục bất bạo động, các sáng kiến hòa giải trong các xung đột địa phương, và các dự án chào đón, biến nỗi sợ hãi người khác thành cơ hội gặp gỡ."

Hòa bình là một con đường khiêm nhường được tạo nên từ những cử chỉ hằng ngày

Luôn trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Leo XIV kêu gọi để mỗi cộng đồng trở thành một 'ngôi nhà hòa bình', "nơi thù địch được hóa giải thông qua đối thoại, nơi công lý được thực thi, và lòng tha thứ được gìn giữ," và ngài nói thêm rằng, "Hòa bình không phải là một điều không tưởng về mặt tinh thần; đó là một con đường khiêm nhường được tạo nên từ những cử chỉ hằng ngày..."

Với tâm tình này, Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả mọi người "hãy đặt tên và định hình cho cái mới," để "đức tin, đức cậy và đức mến có thể được chuyển thành một sự hoán cải văn hóa sâu sắc."

Vì lợi ích chung và hòa bình

Đức Thánh Cha đề xuất rằng điều này đòi hỏi phải khám phá những phương thức phát triển "là những lựa chọn thay thế cho những con đường tăng trưởng thiếu công bằng và bền vững".

"Để phụng sự Thiên Chúa hằng sống", Đức Thánh Cha nhấn mạnh, "chúng ta phải từ bỏ thói sùng bái lợi nhuận, điều đã làm tổn hại nghiêm trọng đến công lý, quyền tự do gặp gỡ và trao đổi, sự tham gia của tất cả mọi người vào lợi ích chung - và cuối cùng là chính hòa bình."

"Một đức tin xa lánh việc sa mạc hóa thế giới, hoặc gián tiếp góp phần vào việc dung túng nó", ngài cảnh báo, "sẽ không còn là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô nữa."

Những nguy cơ của cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra

Suy ngẫm về xã hội đương đại, Đức Thánh Cha nhận định rằng công nghệ đang phát triển nhanh chóng không thể bị lãng quên.

"Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra", ngài cảnh báo, "có nguy cơ làm gia tăng sự phân biệt đối xử và xung đột; do đó, nó phải được nuôi dưỡng bằng sự sáng tạo của những người, vâng theo Chúa Thánh Thần, không còn là nô lệ nữa, mà là con cái. Khi đó, sa mạc sẽ trở thành một khu vườn, và "Thành phố của Thiên Chúa", được các thánh tiên báo, sẽ biến đổi những nơi hoang vắng của chúng ta."

Cuối cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành và cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Ngôi Sao Ban Mai chúc lành cho Đại hội và tất cả.
 
Kính gửi Đức Leo: Đức Giáo Hoàng tiếp tục mục tư vấn
Vũ Văn An
15:19 21/08/2025

Antoine Mekary | ALETEIA


Daniel Esparza của tạp chí Aleteia, ngày 20/08/25, cho hay: Một hình thức đối thoại bằng thư tín, được phát triển lần đầu tiên dưới thời Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã trở thành một dấu ấn của sự gần gũi mục vụ.

Trong tạp chí Piazza San Pietro của Vatican, một truyền thống mới tiếp tục phát triển: Thư từ của các tín hữu nhận được phản hồi cá nhân từ chính Đức Giáo Hoàng. Hình thức đối thoại bằng thư tín, được phát triển lần đầu tiên dưới thời Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã trở thành một dấu ấn của sự gần gũi mục vụ — một cách lắng nghe những khó khăn và hy vọng của mọi người, đồng thời đưa ra những hướng dẫn rút ra từ Tin mừng.

Giờ đây, Đức Giáo Hoàng Leo XIV tiếp tục mang tinh thần này, đề cập đến những thách thức của chiến tranh, đời sống gia đình và hành trình tìm kiếm đức tin với cùng sự dịu dàng và minh bạch.

Trong một số báo gần đây, Zaira, một phụ nữ trẻ lo lắng về sự bùng nổ chiến tranh, đã đặt câu hỏi về điều gì sẽ xảy ra với những giấc mơ của trẻ em nếu bom đạn phá hủy nhà cửa của chúng. Bức thư của cô đầy đau khổ: “Nếu cha mẹ khóc trước mặt con cái, họ đang truyền tải thông điệp gì? Nhân loại có thể có tương lai gì nếu không có hòa bình?”

Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Leo vừa mang tính an ủi vừa mang tính đòi hỏi. Ngài viết, hòa bình đích thực không thể được duy trì chỉ bằng các hiệp ước mà “phải được xây dựng trong tâm hồn và bắt đầu từ tâm hồn, bằng cách nhổ tận gốc lòng kiêu hãnh và oán giận.”

Trích lời Chúa Kitô — “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27) — ngài nhắc nhở độc giả rằng hòa bình là một món quà thiêng liêng, nhưng đòi hỏi sự dấn thân hàng ngày: cầu nguyện, thanh tẩy tâm hồn, và những cử chỉ đối thoại nhỏ bé trong gia đình và cộng đồng.

Những lời của ngài vang vọng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người thường xuyên cảnh báo rằng “chiến tranh luôn là thất bại.”

Giống như vị tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Leo nhấn mạnh rằng hòa bình không phải là thụ động. Đó là một con đường gặp gỡ, đòi hỏi lòng can đảm và sự khiêm nhường. “Chiến tranh sẽ không thắng thế,” ngài nhấn mạnh, nếu chúng ta tiếp tục vun đắp một nền văn hóa hòa bình trong gia đình và khu phố của mình.
 
Chính quyền quân sự lên kế hoạch phá hủy nhà thờ Chính tòa và các tu viện Phật giáo ở Myanmar
Thanh Quảng sdb
15:53 21/08/2025
Chính quyền quân sự lên kế hoạch phá hủy nhà thờ Chính tòa và các tu viện Phật giáo ở Myanmar

Nhà thờ Chính tòa sắp bị phá hủy này đóng một vai trò quan trọng trong sứ mệnh truyền giáo Công Giáo của khu vực

Chính quyền quân sự lên kế hoạch phá hủy nhà thờ chính tòa và các tu viện Phật giáo ở Myanmar

Nhà thờ Chính tòa Thánh Tâm ở Taungngu đã được lên kế hoạch phá hủy như một phần trong nỗ lực đang diễn ra của chính quyền quân sự nhằm san phẳng địa điểm của một thành phố thế kỷ 16, để xây dựng một thành phố mới. (Ảnh: Dennis Lo)

(UCA News)

Chính quyền quân sự Myanmar lên kế hoạch phá hủy một nhà thờ Chính tòa lịch sử và 19 di tích Phật giáo như một phần trong nỗ lực đang diễn ra nhằm san bằng địa điểm của một thành phố thế kỷ 16, theo một tài liệu bị rò rỉ gửi đến các nhà lãnh đạo tôn giáo.

Theo công văn chính thức, chính quyền quân sự có kế hoạch mở rộng hoạt động khai quật tại thành phố cổ Toungoo-Ketumati, bao gồm các khu vực hiện là nơi tọa lạc của 16 tu viện Phật giáo, một ni viện Phật giáo, một trung tâm tĩnh tâm Phật giáo, một ngôi chùa và Nhà thờ Chính tòa Thánh Tâm Taungngu.

Các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đang được tiến hành tại Toungoo, còn được gọi là Ketumati, kinh đô đầu tiên được vua Mingyi Nyo thành lập vào năm 1510, là trung tâm của triều đại Toungoo, triều đại cai trị phần lớn Myanmar trong hơn 200 năm. Thành phố này tọa lạc tại thị trấn Toungoo thuộc vùng Bago của Myanmar.

Công văn ngày 10 tháng 8 do Khin Maung Aye, Phó Giám đốc Bộ Tôn giáo và Văn hóa của chính quyền quân sự ký, đã được gửi đến vị sư trụ trì của Ủy ban Tăng già tại thị trấn Toungoo. Công văn cho biết các di tích tôn giáo nằm trong khu vực tường thành và hào nước của thành phố cổ.

Việc khai quật và bảo tồn bức tường phía bắc và hào nước của thành phố cổ vẫn là một "ưu tiên", và "các công trình tôn giáo nằm trong khu vực văn hóa" cần phải được di dời bất cứ thứ gì cần di dời, bức thư nêu rõ.

Vào ngày 18 tháng 8, UCA News đã có được một bản sao của bức thư, hiện đang được lan truyền trên mạng xã hội. Các quan chức nhà thờ cũng cho biết họ đã được thông báo về kế hoạch san bằng của chính quyền quân sự, vốn gây ra mối đe dọa cho nhà thờ chính tòa của thành phố.

"Nhà thờ Thánh Tâm là một trong những địa điểm tôn giáo mà họ dự định đập bỏ. Tôi rất buồn vì đây là một nhà thờ Công Giáo lịch sử của khu vực này kể từ khi Kitô giáo bắt đầu phát triển ở đây", Linh mục Baptist Samuel Saw của Nhà thờ Hallelujah ở Taungoo cho biết, đã nói với UCA News.

"Giáo dân địa phương rất sốc", Cha Xavier Wine Maung, linh mục chánh xứ nhà thờ chính tòa, cho biết.

Nhà thờ "mang ý nghĩa cá nhân to lớn" đối với cộng đồng, nơi nhiều thế hệ đã được rửa tội, kết hôn và cầu nguyện trước khi chôn cất, và họ rất sốc khi biết rằng Nhà thờ sẽ bị phá hủy.

“Họ đến gặp tôi và hỏi, 'Chúng tôi phải làm gì nếu điều này xảy ra?'”, vị linh mục nói, đồng thời cho biết thêm rằng ông “không có câu trả lời rõ ràng”. Cộng đồng Công Giáo “bất lực trong việc bảo vệ nhà thờ chính tòa xinh đẹp này”.

“Hy vọng duy nhất của tôi là cầu xin sự khoan hồng, yêu cầu họ cứu ít nhất là tòa nhà chính của Giáo hội. Việc họ phá hủy các tòa nhà khác trong khuôn viên cũng không quan trọng”, ông nói.

Lịch sử của nhà thờ bắt đầu sau Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ hai (1852-1853), khi người Anh nắm quyền kiểm soát phần lớn Myanmar, bao gồm Pegu (Bago) và Taungoo. Họ đã xác định vị trí hiện tại của nhà thờ và xây dựng một nhà thờ cho các binh sĩ Kitô giáo của quân đội Anh và Ấn Độ.

Người Anh đã chuyển nhượng khu đất rộng 1,4 ha (3,5 mẫu Anh) cho các thành viên của Viện Giáo hoàng Truyền giáo Nước ngoài (PIME), những người đã đến Myanmar vào năm 1869, theo lời Cha Xavier Wine Maung, cha xứ của nhà thờ.

Khi công cuộc truyền giáo Công Giáo phát triển, Phủ doãn Tông tòa Đông Miến Điện được thành lập vào năm 1870. Năm 1890, Phủ doãn Tông tòa Taungoo trở thành Phủ doãn Tông tòa Taungoo và năm 1955 trở thành giáo phận.

Vị linh mục cho biết, nhà thờ hiện tại được xây dựng vào năm 1987, thay thế nhà thờ được xây dựng lại vào năm 1945, sau khi tòa nhà ban đầu từ thế kỷ 19 bị phá hủy trong Thế chiến II.

Trong số 16 tu viện Phật giáo đang phải đối mặt với nguy cơ bị phá hủy, tu viện lớn nhất là Tu viện Nandawon Dhamma Yeikthar, tọa lạc trên khu đất rộng 1 ha.

Nhưng theo nhà sư Phật giáo đáng kính Min Thonnya, một nhà văn và là người lãnh đạo cuộc Cách mạng Cà sa năm 2007, cuộc biểu tình phản đối các chính sách kinh tế của chính phủ, và hiện đang sống lưu vong, "chính quyền quân sự không phải là một chính phủ hợp pháp", và họ không có thẩm quyền tham gia vào các hoạt động như vậy.

Trong một cuộc phỏng vấn trực tuyến, ông nói với UCA rằng các dự án liên quan đến di sản quốc gia nên được thực hiện với "sự đồng thuận hoàn toàn của người dân".

Ông cho biết người dân và các công trình của họ cần được khảo sát kỹ lưỡng, và thiệt hại cần được bồi thường công bằng; những người dân phải di dời cần được tái định cư.

Dữ liệu cho thấy cuộc chiến của chính quyền quân sự chống lại các nhóm kháng chiến kể từ cuộc đảo chính năm 2021 đã dẫn đến việc phá hủy một số địa điểm tôn giáo.

Theo nhóm nghiên cứu độc lập Nyan Lynn Thit Analytica, các cuộc không kích đã gây hư hại ít nhất 302 công trình tôn giáo trên toàn quốc từ tháng 2 năm 2021 đến tháng 12 năm 2024.

Chính phủ Thống nhất Quốc gia (NUG), chính phủ lưu vong được thành lập bởi một nhóm nghị sĩ dân cử và các thành viên chính phủ bị lật đổ trong cuộc đảo chính, cho biết người đứng đầu chính quyền quân sự, Min Aung Hlaing, đã cố tình nhắm vào các địa điểm tôn giáo.

Một quan chức của Hội đồng Quản lý Di sản Lâm thời của NUG nói với UCA News vào ngày 16 tháng 8 rằng Hlaing đang "làm bất cứ điều gì ông ta muốn mà không quan tâm đến người dân, vì ông ta chưa bao giờ quan tâm đến họ."
 
Ứng dụng Cấu trúc Nhận thức của Bernard Lonergan vào Trí tuệ Nhân tạo hợp Đạo đức
Vũ Văn An
17:37 21/08/2025

Bernard Lonergan đang thuyết trình, không rõ ngày tháng, tác giả cũng không rõ, được cho là thuộc phạm vi công cộng, nếu không thì là Sử dụng hữu lý.


Trên Church Life Journal của Đại học Notre Dame, ngày 15 tháng 8 năm 2025, Taylor Black (*) có bài viết về trí tuệ nhân tạo (AI). Ông viết:

Vào một buổi chiều muộn tại Detroit, một người đàn ông tên Robert Williams đã bị bắt ngay trên bãi cỏ trước nhà, trước sự kinh hoàng của gia đình. Anh ta bị đưa vào tù và bị giam giữ gần ba mươi giờ vì một vụ trộm mà anh ta không hề thực hiện—tất cả chỉ vì một AI nhận dạng khuôn mặt tuyên bố anh ta là thủ phạm.[1] Chỉ có một vấn đề: Trí tuệ nhân tạo đã sai. Hình ảnh giám sát bị mờ, và ngoài việc là những người đàn ông Mỹ gốc Phi có vóc dáng tương tự, Robert và nghi phạm thực sự trông không giống nhau chút nào. Robert sau đó than thở: “Làm sao có thể giải thích cho hai cô bé rằng một chiếc máy tính đã sai, nhưng cảnh sát vẫn lắng nghe nó?”. Các con gái của ông đã chứng kiến người cha vô tội của mình bị còng tay do lỗi của một chiếc máy, một lỗi đã để lại vết sẹo vĩnh viễn về sự bất công trong gia đình.

Biến cố có thật này minh họa rõ nét những rủi ro về mặt đạo đức khi sử dụng trí tuệ nhân tạo trong một số lĩnh vực nhất định. Khi các hệ thống trí tuệ nhân tạo âm thầm len lỏi vào cuộc sống hàng ngày—từ các thuật toán quản lý nguồn cấp tin tức đến tự động hóa hướng dẫn quyết định tuyển dụng và giám sát—mỗi hệ thống đều hứa hẹn hiệu quả và hiểu biết sâu sắc, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Một vụ bắt giữ sai trái, việc phê duyệt khoản vay thiên vị, hay một bong bóng mạng xã hội bị bóp méo có thể đảo lộn cuộc sống và làm xói mòn niềm tin. Chúng ta ứng phó với những thách thức như vậy như thế nào? Làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo những Kỹ thuật mạnh mẽ này phục vụ công lý và lợi ích chung, thay vì phá hoại chúng? Chúng ta cần nhiều hơn những giải pháp kỹ thuật; chúng ta cần sự khôn ngoan và sáng suốt về mặt đạo đức.

Trong hành trình tìm kiếm sự phân định đó, việc tìm đến một người dẫn đường bất ngờ sẽ rất hữu ích: triết gia và nhà thần học Dòng Tên thế kỷ 20, Bernard Lonergan. Lonergan được biết đến với việc nêu ra năm “giới luật siêu việt [transcendental precepts]” như những thói quen của tâm trí và trái tim để theo đuổi chân lý và lòng tốt: Hãy ý tứ, hãy thông minh, hãy hữu lý, hãy có trách nhiệm và hãy yêu thương.[2] Những nguyên tắc này ban đầu được xây dựng để mô tả cách con người chân thực đến với việc biết và quyết định, bắt nguồn từ điều mà Lonergan gọi là “mong muốn hiểu biết không giới hạn” của chúng ta – một động lực do Thiên Chúa ban tặng hướng tới chân lý và giá trị. Mặc dù ông sống rất lâu trước khi Trí tuệ nhân tạo hiện đại ra đời, những hiểu biết sâu sắc của Lonergan cung cấp một la bàn vô cùng hữu ích để định hướng những phức tạp về đạo đức của thời đại Trí tuệ nhân tạo.[3] Mỗi nguyên tắc cung cấp một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể xem xét tương tác của mình với Trí tuệ nhân tạo: từ những gì chúng ta nhận thấy, đến cách chúng ta suy nghĩ, phán đoán, hành động và cuối cùng là tình yêu trong một thế giới ngày càng được định hình bởi các thuật toán.

Tiếp theo là một hành trình tường thuật qua năm nguyên tắc này được áp dụng vào cuộc gặp gỡ hiện đại của chúng ta với Trí tuệ nhân tạo. Bằng cách ý tứ đến cách Trí tuệ nhân tạo định hình trải nghiệm của chúng ta, thông minh về khả năng và giới hạn của nó, cân nhắc hữu lý những lời hứa của nó so với những nguy cơ, có trách nhiệm trong cách chúng ta thiết kế và sử dụng nó, và yêu thương trong việc đảm bảo nó phục vụ phẩm giá con người, chúng ta có thể vạch ra một con đường vừa am hiểu Kỹ thuật vừa vững chắc về mặt đạo đức. Khi làm như vậy, chúng ta đáp lại lời kêu gọi cấp bách để dẫn dắt Trí tuệ nhân tạo bằng trí tuệ của con người, thay vì bị Trí tuệ nhân tạo dẫn dắt mà không suy tư.

Những nguyên tắc của Lonergan trong thời đại Trí tuệ nhân tạo

Năm nguyên tắc của Lonergan tạo thành một chuỗi các bước để nhận thức đạo đức, giúp chúng ta vững vàng giữa những bước tiến nhanh chóng của Trí tuệ nhân tạo.[4] Chúng đi từ quan sát đến hiểu biết, đến phán đoán, hành động và cuối cùng là định hướng hướng đến điều tốt đẹp. Được đan xen vào một câu chuyện, những nguyên tắc này có thể thay đổi cách chúng ta tiếp cận những cuộc gặp gỡ hàng ngày với máy móc thông minh. Hãy cùng xem xét từng nguyên tắc và ý nghĩa của chúng đối với thời đại Trí tuệ nhân tạo.

Hãy ý tứ

Hãy ý tứ đến những gì thực sự hiện hữu. Nguyên tắc đầu tiên này thúc giục chúng ta ý tứ đến trải nghiệm của mình một cách có ý thức, chủ động nhận thức thay vì trôi dạt một cách thụ động. Trong bối cảnh Trí tuệ nhân tạo, ý tứ có nghĩa là nhận ra cách nhận thức của chúng ta về thế giới ngày càng được điều chỉnh bởi các thuật toán – thường theo những cách tinh tế mà chúng ta hầu như không nhận thấy.

Hãy xem xét hành động đơn giản là đọc tin tức. Nhiều người trong chúng ta lướt qua các nguồn cấp dữ liệu trên Facebook, Twitter hoặc Google News, tin rằng chúng ta đang xem một phần lớn các biến cố hiện thời. Trên thực tế, các thuật toán Trí tuệ nhân tạo tinh vi đang tuyển chọn những gì chúng ta thấy, lựa chọn các câu chuyện dựa trên các lần nhấp chuột, vị trí và hồ sơ trước đây của chúng ta. Theo thời gian, sự cá nhân hóa này có thể bọc chúng ta trong một cái kén vô hình của nội dung cùng chí hướng, một bong bóng sàng lọc [filter bubble] củng cố thành kiến của chúng ta. “Nếu thuật toán chỉ hiển thị cho bạn những tin tức mà nó nghĩ rằng bạn sẽ thích... bạn có thể không biết rằng những quan điểm khác quan điểm này thậm chí có tồn tại hay không”, một nhà khoa học máy tính đã cảnh báo như thế; nhà khoa học này lưu ý rằng vì tất cả đều được thực hiện “đằng sau hậu trường”, chúng ta hầu như không nhận thấy chế độ ăn uống thông tin của mình đang bị thu hẹp.[5] Nếu không ý tứ, chúng ta có thể sống dưới sự chi phối của các ưu tiên thuật toán, nhầm lẫn một góc nhìn cục bộ với toàn bộ sự thật.

Do đó, việc ý tứ trong thời đại Trí tuệ nhân tạo đòi hỏi một loại chánh niệm kỹ thuật số [digital mindfulness]. Chúng ta phải tự hỏi: Trợ lý thông minh của tôi không nói với tôi điều gì? Những giọng nói nào có thể bị thiếu trong nguồn cấp dữ liệu mạng xã hội của tôi? Các hệ thống Trí tuệ nhân tạo đang định hình nhận thức của tôi về thực tại như thế nào? Điều này có thể có nghĩa là nhận thấy rằng sau khi xem một video trên YouTube, các gợi ý “Tiếp theo” bắt đầu kéo chúng ta vào một con đường cực đoan hơn hoặc nhận ra rằng “tuyến đường nhanh nhất” của ứng dụng dẫn đường thực chất đang thu thập dữ liệu giao thông từ chúng ta. Điều này có nghĩa là phải ý tứ đến những sai lệch tiềm ẩn trong xuất lượng [output] của Trí tuệ nhân tạo—chẳng hạn như khi ứng dụng nhận dạng hình ảnh liên tục gặp khó khăn với những khuôn mặt có làn da sẫm màu, hoặc khi một gợi ý tự động hoàn thành có vẻ mang tính định kiến. Tóm lại, “Hãy Ý tứ” kêu gọi chúng ta luôn tỉnh táo với những gì Trí tuệ nhân tạo đang làm xung quanh và với chính chúng ta. Chỉ bằng cách nhìn nhận rõ ràng, chúng ta mới có thể hy vọng phản ứng một cách chính đáng.

Hãy Thông Minh

Tiếp theo là sự hiểu biết. Thông minh nghĩa là đi sâu vào lý do và cách thức—tìm kiếm sự thấu hiểu, tạo kết nối, tiếp thu kiến thức. Lời kêu gọi trở nên thông minh của Lonergan mời gọi chúng ta vượt ra khỏi những ấn tượng bề ngoài và đặt ra những câu hỏi sâu sắc hơn về các hệ thống Trí tuệ nhân tạo: Chúng hoạt động như thế nào? Giới hạn của chúng là gì? Chúng được xây dựng dựa trên những giả định nào?

Trong thực tế, điều này có thể bao gồm việc tìm hiểu một số kiến thức cơ bản về Trí tuệ nhân tạo. Ví dụ, hầu hết các thuật toán Trí tuệ nhân tạo học hỏi từ dữ liệu lịch sử. Điều đó có nghĩa là nếu dữ liệu bị sai lệch hoặc có định kiến, “trí thông minh” của Trí tuệ nhân tạo sẽ thừa hưởng những sai sót đó. Một ví dụ điển hình xuất hiện vài năm trước khi Amazon phát triển một Trí tuệ nhân tạo thử nghiệm để hữu lý hóa quy trình tuyển dụng. Mục tiêu là tạo ra một chương trình sàng lọc sơ yếu lý lịch và xác định những ứng viên hàng đầu. Nhưng dự án đã gặp phải một trở ngại: đến năm 2015, các kỹ sư nhận ra Trí tuệ nhân tạo đang xếp hạng các ứng viên một cách rõ ràng là không công bằng đối với phụ nữ.[6] Tại sao? Thuật toán đã tự đào tạo dựa trên hồ sơ xin việc trong mười năm, hầu hết đến từ nam giới (phản ảnh sự thống trị của nam giới trong ngành Kỹ thuật). Trên thực tế, cỗ máy đã kết luận rằng nam giới là điều kiện tiên quyết để trở thành một kỹ sư giỏi. Nó bắt đầu hạ cấp các sơ yếu lý lịch có đề cập đến “phụ nữ” (như trong “đội trưởng câu lạc bộ cờ vua nữ”) hoặc đến từ các trường đại học nữ.

Trí tuệ nhân tạo đã làm chính xác những gì nó được dạy – tìm kiếm các mô hình trong dữ liệu – nhưng nó thiếu hiểu biết để biết rằng những mô hình đó đang phản ảnh sự thiên vị trong quá khứ chứ không phải thành tích trong tương lai. Amazon đã khôn ngoan loại bỏ công cụ đó khi những điểm mù của nó trở nên rõ ràng. Câu chuyện cảnh báo này nhấn mạnh lý do tại sao việc hiểu biết về Trí tuệ nhân tạo là điều cần thiết. Chúng ta phải nỗ lực tìm hiểu tiềm năng cũng như giới hạn của một hệ thống Trí tuệ nhân tạo. Đúng vậy, Trí tuệ nhân tạo có thể phát hiện các mẫu hình trong các tập dữ liệu khổng lồ vượt xa khả năng của con người, mang lại những hiểu biết hữu ích – từ việc phát hiện các dấu hiệu ban đầu của bệnh tật trong các lần chụp chiếu [scan] y tế đến dự đoán thảm họa thời tiết. Nhưng Trí tuệ nhân tạo không phải là phép thuật, cũng không phải là bất khả xâm phạm. Nó không thực sự “hiểu” bối cảnh hay ý nghĩa; nó tìm kiếm mối tương quan, chứ không phải nguyên nhân. Và nó sẽ khuếch đại một cách trung thực bất cứ điều gì được nhúng vào quá trình đào tạo của nó.

Ví dụ, trong lĩnh vực thực thi pháp luật, một số thành phố đã áp dụng các thuật toán dự đoán cảnh sát với hy vọng giảm tội phạm bằng cách phân bổ lực lượng tuần tra của cảnh sát dựa trên số liệu thống kê tội phạm. Trên thực tế, những công cụ này thường dẫn đến việc duy trì định kiến chủng tộc. Họ đã cử cảnh sát đến cùng một khu dân cư được giám sát quá mức hết lần này đến lần khác, bởi vì bản thân dữ liệu lịch sử đã bị bóp méo bởi hàng thập niên giám sát không cân xứng trong các cộng đồng thiểu số.[7] Kết quả có thể là một vòng luẩn quẩn: càng nhiều cuộc tuần tra thì càng có nhiều vụ việc được ghi nhận, điều này lại biện minh cho việc tăng thêm các cuộc tuần tra, trong khi lại nhắm mục tiêu một cách không công bằng vào người da màu.

Một cách tiếp cận thông minh sẽ nhận ra cạm bẫy này. Điều này đòi hỏi sự minh bạch về cách Trí tuệ nhân tạo đưa ra quyết định và sự cảnh giác về chất lượng dữ liệu của nó. Nó cũng có nghĩa là thừa nhận những gì Trí tuệ nhân tạo không thể làm: nó không thể đánh giá giá trị, đạo đức, hay toàn bộ tính độc đáo của một tình huống con người. Trở nên thông minh không phải là sở hữu tất cả kiến thức kỹ thuật, mà là trau dồi sự hiểu biết thận trọng về khả năng và điểm yếu của Trí tuệ nhân tạo. Theo Lonergan, đó là sự khác biệt giữa dữ liệu thô và hiểu biết có ý nghĩa. Chúng ta cần hiểu biết đó để sử dụng Trí tuệ nhân tạo một cách khôn ngoan.

Hãy Hữu Lý

Chỉ kiến thức thôi là chưa đủ; chúng ta phải đánh giá xem nên làm gì với nó. Hữu lý nghĩa là áp dụng đánh giá phê phán và phán đoán đúng đắn vào những hiểu biết mà chúng ta đã có được. Nó bao gồm việc đặt câu hỏi: Điều này có đúng không? Điều này có tốt không? Và cân nhắc các lựa chọn dựa trên bằng chứng và các nguyên tắc đạo đức. Trong một thế giới bão hòa Trí tuệ nhân tạo, việc hữu lý đòi hỏi chúng ta phải sàng lọc những lời cường điệu và nỗi sợ hãi xung quanh Kỹ thuật và đánh giá vai trò của Trí tuệ nhân tạo với sự trung thực và minh bạch về mặt đạo đức.

Một khía cạnh của sự hữu lý là cân nhắc về những đánh đổi và hậu quả của Trí tuệ nhân tạo. Việc chúng ta có thể làm điều gì đó với Trí tuệ nhân tạo không có nghĩa là chúng ta nên làm. Ví dụ, các bộ lọc nội dung do Trí tuệ nhân tạo điều khiển trên mạng xã hội có thể chặn tuyên truyền cực đoan và ngôn từ kích động thù địch—nhưng chúng cũng có thể vô tình kiểm duyệt các cuộc thảo luận chính đáng hoặc biểu đạt nghệ thuật. Liệu sự đánh đổi này có đáng không? Tương tự, việc trang bị Trí tuệ nhân tạo cho máy bay không người lái hoặc vũ khí tự động có thể bảo vệ binh lính của chúng ta trong chiến đấu, nhưng rủi ro sai sót hoặc cái giá phải trả về mặt đạo đức của việc giao phó các quyết định sinh tử cho máy móc là gì? Hoặc hãy tưởng tượng một chiếc xe tự lái đối diện với một tình huống tai nạn bất khả: liệu nó có nên đánh chệch lái để tránh một người đi bộ nếu làm như vậy sẽ gây nguy hiểm cho hành khách? Không có thuật toán đơn giản nào cho những tình huống khó xử về mặt đạo đức như vậy; chúng buộc chúng ta phải làm rõ các giá trị và ưu tiên của con người. Một cách tiếp cận hữu lý không để những câu hỏi này chỉ dành cho các kỹ sư; nó khẳng định rằng các nhà đạo đức học, triết gia và cộng đồng có tiếng nói khi cân nhắc lợi ích và tác hại.

Hữu lý cũng có nghĩa là phê phán những câu chuyện lớn thường đi kèm với Kỹ thuật mới. Một trong những câu chuyện như vậy là huyền thoại định mệnh thuyết Kỹ thuật [technological determinism]- quan điểm cho rằng sự tiến bộ của Trí tuệ nhân tạo là tất yếu và về cơ bản nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Quan điểm này, đôi khi được khuyến khích (ngầm hoặc công khai) bởi những người có tầm nhìn xa của Big Tech, có thể ru ngủ xã hội vào sự chấp nhận thụ động bất cứ điều gì Thung lũng Silicon mang lại.[8] Nếu “cuộc cách mạng Trí tuệ nhân tạo” là không thể ngăn cản, tại sao lại phải bận tâm đặt câu hỏi về nó? Nhưng khuôn khổ của Lonergan thúc giục chúng ta bác bỏ thuyết định mệnh đó.

Máy móc không chỉ tự biến hóa; con người thiết kế, đào tạo và triển khai chúng. Tương lai của Trí tuệ nhân tạo sẽ được định hình bởi những lựa chọn và giá trị của con người, cho dù chúng ta có thừa nhận điều đó hay không. Lý trí đòi hỏi chúng ta phải giành lại quyền tự quyết của mình. Chúng ta nên xem xét kỹ lưỡng những tuyên bố táo bạo (ví dụ, Trí tuệ nhân tạo sẽ sớm vượt qua trí thông minh của con người trong mọi lĩnh vực) và phân biệt tiến bộ thực tế với khoa học viễn tưởng hay chiêu trò tiếp thị. Chúng ta cũng nên lưu ý đến những hạn chế nội tại của Trí tuệ nhân tạo: dù tinh vi đến đâu, Trí tuệ nhân tạo vẫn thiếu nhận thức về bản thân, sự tương cảm và định hướng bẩm sinh hướng tới chân lý và lòng tốt mà con người sở hữu.[9]

Nói cách khác, dù Trí tuệ nhân tạo có vẻ “thông minh” đến đâu, nó cũng không phải là một tác nhân đạo đức. Hữu lý giúp chúng ta tránh gán cho Trí tuệ nhân tạo quá nhiều trí tuệ hay thẩm quyền hơn mức nó xứng đáng. Nó giúp chúng ta tập trung vào chân lý cơ bản rằng chúng ta chịu trách nhiệm về các công cụ mình tạo ra. Tư thế phê phán, tìm kiếm chân lý này rất quan trọng nếu chúng ta muốn định hướng Kỹ thuật hướng tới tiến bộ thực sự và tránh bị cuốn vào sự nhiệt tình thiếu khảo chứng.

Hãy có trách nhiệm

Với kiến thức được soi sáng bởi lý trí, nguyên tắc thứ tư của Lonergan kêu gọi chúng ta phải có trách nhiệm - hành động theo phán đoán tốt nhất của mình về điều gì là đúng. Trong bối cảnh này, trách nhiệm có hai ý nghĩa: nó nói với những người thiết kế và triển khai hệ thống Trí tuệ nhân tạo, và nói với tất cả chúng ta, những người sử dụng hoặc bị ảnh hưởng bởi chúng. Nó nhắc nhở chúng ta rằng đạo đức cuối cùng là về các quyết định và hành động cụ thể, chứ không chỉ là những nguyên tắc trừu tượng.

Đối với các nhà thiết kế và phát triển Trí tuệ nhân tạo, có trách nhiệm có nghĩa là xây dựng các hệ thống một cách có ý thức phù hợp với các giá trị đạo đức và phục vụ lợi ích chung. Điều này có thể bao gồm việc tuân theo các phương pháp hay nhất mới nổi cho thiết kế "Trí tuệ nhân tạo hợp đạo đức": kiểm tra các thuật toán để phát hiện thiên vị, đảm bảo tính minh bạch về cách đưa ra quyết định và bao gồm các ý kiến đa dạng trong quá trình phát triển. Nó cũng có nghĩa là chống lại áp lực phải vội vàng đưa sản phẩm ra thị trường mà không kiểm tra an toàn đầy đủ. Ví dụ, nếu một công ty Kỹ thuật đang phát triển phần mềm nhận dạng khuôn mặt, một cách tiếp cận có trách nhiệm có thể bao gồm việc đặt ra các tiêu chuẩn chính xác nghiêm ngặt cho các nhóm nhân khẩu học khác nhau trước khi triển khai, và thậm chí lựa chọn không bán sản phẩm cho một số người dùng cuối cùng [end user] nào đó (như các cơ quan chính phủ có hồ sơ nhân quyền kém). Điều quan trọng là các nhà phát triển thừa nhận trách nhiệm của họ đối với tác động xã hội của những sáng tạo của họ.[10] Họ không thể chỉ nói "thuật toán đã quyết định" như thể điều đó sẽ giải thoát họ—lập trình viên là người viết thuật toán, và dữ liệu mà thuật toán học hỏi được phản ảnh lịch sử con người. Do đó, trách nhiệm phải được "thiết kế sẵn" ngay từ đầu.

Đối với người dùng và công dân hàng ngày, việc có trách nhiệm với Trí tuệ nhân tạo có nghĩa là chịu trách nhiệm về cách chúng ta đưa những Kỹ thuật này vào cuộc sống của mình. Đó là về sự tham gia chủ động chứ không phải là sự tiêu thụ thụ động.[11] Trên thực tế, điều này có thể bao gồm các hành động và lựa chọn đơn giản, cùng nhau, định hướng việc sử dụng Trí tuệ nhân tạo theo hướng tốt hơn. Ví dụ:

• Đặt ra ranh giới cá nhân với Trí tuệ nhân tạo: hạn chế sự phụ thuộc của bạn vào các tiện ích Trí tuệ nhân tạo có thể gây nghiện hoặc xâm phạm. Một người dùng có trách nhiệm có thể quyết định tắt tính năng tự động phát thuật toán trên nền tảng video để tránh việc cuộn trang vô tận, hoặc lên lịch "ngày Sa-bát kỹ thuật số" thường xuyên để kiểm soát sự ý tứ của mình và không bị các thuật toán thao túng liên tục.

Yêu cầu sự minh bạch và công bằng: hỗ trợ các công ty và sản phẩm minh bạch về hoạt động Trí tuệ nhân tạo của họ và ưu tiên quyền riêng tư của người dùng và đạo đức dữ liệu. Điều này có thể có nghĩa là sử dụng một công cụ tìm kiếm không theo dõi mọi hoạt động của bạn, hoặc chọn không sử dụng một ứng dụng yêu cầu quyền truy cập xâm phạm mà không có lý do chính đáng.

Vận động và giáo dục: lãnh trách nhiệm cũng mở rộng ra phạm vi công cộng—tham gia vào các cuộc trò chuyện và tranh luận chính sách về Trí tuệ nhân tạo. Người ta có thể vận động cho các luật cấm sử dụng rõ ràng có hại (ví dụ: cấm sử dụng Trí tuệ nhân tạo thiên vị trong tuyển dụng hoặc kiểm soát) và ủng hộ các sáng kiến giám sát chặt chẽ việc triển khai Trí tuệ nhân tạo.[12] Tương tự như vậy, việc tự giáo dục bản thân và những người khác (trong gia đình, nhà thờ và cộng đồng của chúng ta) về cả lợi ích và rủi ro của Trí tuệ nhân tạo là một cách có trách nhiệm để xây dựng một xã hội hiểu biết hơn.

Mỗi hành động này phản ảnh nhận thức rằng chúng ta không phải là những khán giả bất lực của cuộc cách mạng Trí tuệ nhân tạo. Đúng hơn, chúng ta là người quản lý những công cụ mạnh mẽ này. Trong ngôn từ thần học, việc có trách nhiệm với Kỹ thuật là một phần trong ơn gọi của chúng ta, trở thành người quản lý tốt công trình sáng tạo - giờ đây được mở rộng để bao gồm cả những sáng tạo kỹ thuật số của trí tuệ con người. Cũng như chúng ta chịu trách nhiệm về cách chúng ta đối xử với môi trường hoặc với hàng xóm, chúng ta cũng chịu trách nhiệm về cách chúng ta "đối xử" với Trí tuệ nhân tạo (và cách Trí tuệ nhân tạo đối xử với người khác). Và điều này dẫn đến lời răn cuối cùng và tối hậu của Lonergan, điều mang lại ý nghĩa sâu sắc nhất cho tất cả những lời răn khác.

Hãy Yêu Thương

Lonergan thường mô tả lời răn thứ năm là "Hãy yêu thương", theo đó ông muốn nói đến một định hướng vô điều kiện hướng đến giá trị, lòng tốt, và cuối cùng là Thiên Chúa.[13] Yêu thương là đặt lòng bác ái vào trung tâm của mọi nhận thức và hành động của chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà những điều răn lớn nhất trong đức tin Kitô giáo là yêu Chúa và yêu người lân cận. Bất cứ đạo đức nào dừng lại ở trách nhiệm mà không vươn tới tình yêu thương sẽ vẫn lạnh lùng và không trọn vẹn. Tình yêu thương hoàn thiện và tôn vinh đời sống đạo đức, hướng nó đến sự tự hiến và lợi ích đích thực của người khác.

Đưa tình yêu thương vào mối quan hệ của chúng ta với Trí tuệ nhân tạo có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là, trước hết và quan trọng nhất, hãy giữ gìn phẩm giá con người và lợi ích chung như kim chỉ nam của chúng ta. Hãy Yêu Thương nhắc nhở chúng ta rằng mọi quyết định kỹ thuật cuối cùng đều là quyết định về con người - về cách chúng ta tôn vinh hay làm mất hình ảnh của Chúa nơi người khác. Nếu một ứng dụng Trí tuệ nhân tạo, dù ấn tượng đến đâu, làm suy yếu phẩm giá con người hoặc cắt đứt kết nối giữa con người, thì tình yêu sẽ thôi thúc chúng ta đặt câu hỏi hoặc thậm chí từ chối nó. Ngược lại, nếu một Kỹ thuật có thể được khai thác để nâng đỡ con người, để chữa lành, để bao dung, để trao quyền cho những người bị thiệt thòi, thì tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta theo đuổi và hỗ trợ nó.

Ở bình diện bản thân, việc yêu thương trong thời đại kỹ thuật số có thể bao gồm những lựa chọn có chủ đích về vai trò của Kỹ thuật trong các mối quan hệ của chúng ta. Ví dụ, sử dụng Trí tuệ nhân tạo theo cách thúc đẩy cộng đồng thay vì cô lập. Điều này có thể đơn giản như tận dụng một ứng dụng nhắn tin để giữ liên lạc với gia đình ở xa (thay vì lướt web một mình), hoặc phức tạp như thiết kế các chương trình tiếp cận cộng đồng của nhà thờ sử dụng phân tích dữ liệu để phục vụ người nghèo tốt hơn. Nó cũng có nghĩa là cảnh giác trước những cách Trí tuệ nhân tạo có thể làm rạn nứt các mối quan hệ xã hội của chúng ta. Các thuật toán mạng xã hội thường ưu tiên các bài đăng gây ra phản ứng mạnh mẽ, có thể gieo rắc chia rẽ. Một cách tiếp cận yêu thương sẽ tìm cách khắc phục điều đó—có lẽ bằng cách chủ động tiếp cận ngoại tuyến với một người mà chúng ta bất đồng quan điểm, thay vì chỉ trích nhau trên Facebook. Nói cách khác, tình yêu nên định hình cách chúng ta sử dụng Kỹ thuật, chứ không phải ngược lại. Như một tài liệu gần đây của Vatican đã lưu ý, nếu Trí tuệ nhân tạo được sử dụng để giúp mọi người nuôi dưỡng những kết nối chân thành, nó có thể đóng góp tích cực cho sự phát triển của con người. Nhưng điều đó đòi hỏi một sự lựa chọn có ý thức đặt hạnh phúc của con người lên hàng đầu.

Ở bình diện đạo đức rộng hơn, Hãy Yêu Thương chuyển thành cam kết rằng Trí tuệ nhân tạo cuối cùng phải phục vụ những gì thực sự tốt đẹp cho nhân loại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhiều lần nhấn mạnh điều này, kêu gọi sử dụng các Kỹ thuật mới theo cách thúc đẩy phẩm giá con người và lợi ích chung.[14] Tình yêu trong hành động có nghĩa là chúng ta đo lường thành công của Trí tuệ nhân tạo không chỉ bằng lợi nhuận hay hiệu quả, mà còn bằng cách nó tác động đến những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta. Liệu một thuật toán ngân hàng có đối xử công bằng với người nghèo không? Liệu một hệ thống đề xuất nội dung có bảo vệ trẻ em khỏi bị tổn hại không? Liệu các tiện ích do Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy của chúng ta có quan tâm đến những người có thể mất việc làm do tự động hóa không?

Một lăng kính tình yêu luôn hướng đến con người đằng sau điểm dữ liệu. Nó nhấn mạnh rằng con người là mục đích, không phải phương tiện, và Kỹ thuật nên là công cụ chăm sóc, chứ không phải là cái cớ để trốn tránh việc chăm sóc. Theo thuật ngữ Kitô giáo, nếu chúng ta tạo ra các hệ thống Trí tuệ nhân tạo giúp đỡ “những người bé mọn nhất” (Mt 25:40)—chẳng hạn như Trí tuệ nhân tạo chẩn đoán cho các bệnh viện chưa được phục vụ đầy đủ hoặc ứng dụng phiên dịch cho người tị nạn—thì chúng ta đang đi trên con đường của tình yêu. Nếu chúng ta làm ngược lại, cho phép Kỹ thuật hạ thấp giá trị hoặc bóc lột con người, chúng ta đã đánh mất cốt lõi nhân tính của chính mình.

Suy gẫm Thực tiễn và Thần học

Những nguyên tắc này có thể bén rễ như thế nào trong cộng đồng của chúng ta—đặc biệt là các cộng đồng đức tin của chúng ta? Nhiệm vụ hướng dẫn Trí tuệ nhân tạo về mặt đạo đức là quá lớn đối với bất cứ nhóm nào; nó đòi hỏi điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là một cuộc đối thoại rộng rãi giữa những người tin và những người không tin về những vấn đề đạo đức cơ bản do Kỹ thuật đặt ra.[15] Giáo hội, với hai thiên niên kỷ khôn ngoan về bản chất con người, tội lỗi và ân sủng, có một vai trò quan trọng trong sự phân định văn hóa này. Nhưng Giáo hội phải làm điều đó một cách khiêm nhường và hợp tác, tìm hiểu về Kỹ thuật ngay cả khi nó tác động lên những hiểu biết thần học và đạo đức sâu sắc. Trước hết, các cộng đồng tôn giáo có thể nêu gương trong việc phân định việc sử dụng Trí tuệ nhân tạo. Cũng như các nhà thờ đã học cách đánh giá các phương tiện truyền thông như truyền hình hay internet một cách phê phán, Trí tuệ nhân tạo cũng vậy. Ví dụ, một giáo xứ có thể tổ chức một hội thảo về “Đời sống Kitô hữu trong thời đại kỹ thuật số”, giúp giáo dân suy gẫm về việc sử dụng điện thoại thông minh, thuật toán mạng xã hội và trợ lý Trí tuệ nhân tạo dưới góc độ đức tin của họ. Các mục tử và lãnh đạo mục vụ có thể khuyến khích các hoạt động chánh niệm: có thể đề xuất một buổi “xét mình Kỹ thuật” vào cuối ngày, nơi mọi người cùng cầu nguyện và suy gẫm về việc họ sử dụng các công cụ kỹ thuật số trong ngày hôm đó đã giúp họ gần gũi hơn hay xa rời Chúa và tha nhân hơn. Những suy tư như vậy đặt nền tảng cho hành động ý tứ, thông minh, hữu lý, v.v. trong bối cảnh tâm linh. Chúng cũng gửi đi một thông điệp: việc đặt câu hỏi về Kỹ thuật không phải là lạc hậu—mà là khôn ngoan.

Giáo hội có thể đóng góp vào việc định hình đạo đức công cộng và các chính sách về Trí tuệ nhân tạo. Truyền thống giáo huấn xã hội Công Giáo cung cấp một khuôn khổ phong phú (các nguyên tắc như công ích, nguyên tắc phụ đới, phẩm giá con người, ưu tiên chọn người nghèo) có thể định hướng hiệu quả cho đạo đức Kỹ thuật. Hãy lấy nguyên tắc công ích làm ví dụ: nó thúc giục chúng ta xem xét lợi ích của tất cả mọi người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương, trong bất cứ quyết định xã hội nào. Áp dụng vào Trí tuệ nhân tạo, điều này có thể có nghĩa là ủng hộ các quy định bảo vệ cộng đồng khỏi các quyết định có hại do Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoặc thúc đẩy quyền tiếp cận công bằng với Trí tuệ nhân tạo có lợi (như sử dụng Trí tuệ nhân tạo trong y tế để phục vụ các khu vực nghèo đói, không chỉ người giàu).

Trong những năm gần đây, chính Vatican đã tham gia vào cuộc thảo luận này—đồng tài trợ cho Lời kêu gọi Rome về Đạo đức Trí tuệ nhân tạo và triệu tập các chuyên gia thông qua các sự kiện như Đối thoại Minerva, nơi quy tụ các nhà lãnh đạo Kỹ thuật và các nhà thần học để thảo luận về tác động xã hội của Trí tuệ nhân tạo.[16] Những cuộc đối thoại liên ngành như vậy rất quan trọng. Chúng phá vỡ sự ngăn cách thường tồn tại giữa các nhà phát triển Kỹ thuật và các học giả nhân văn. Thật là một dấu hiệu đáng mừng khi thấy các nhà khoa học máy tính, triết gia và giám mục ngồi cùng bàn, vật lộn với các câu hỏi về việc học máy [machine learning] và trách nhiệm đạo đức. Chúng ta càng khuyến khích những cuộc đối thoại này—trong các hội nghị học thuật, các phiên điều trần của chính phủ, các cuộc họp đại kết—chúng ta càng xây dựng được sự hiểu biết chung có thể hướng Trí tuệ nhân tạo đến những mục tiêu tích cực.

Về mặt thần học, chúng ta có thể xem xét sự xuất hiện của Trí tuệ nhân tạo thông qua lăng kính đồng sáng tạo của con người dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Khả năng phát minh ra các thuật toán phức tạp và máy móc thông minh của chúng ta là biểu hiện của sự sáng tạo mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong sách Sáng thế, con người được giao nhiệm vụ “canh tác và gìn giữ” khu vườn sáng tạo (Sáng thế 2:15); chúng ta cũng được kêu gọi “tham gia một cách có trách nhiệm vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa” trên thế giới.[17] Phát triển Kỹ thuật là một cách chúng ta thực hiện ơn gọi đó. Nhưng bất cứ hoạt động nào như vậy đều đi kèm với trách nhiệm đạo đức. Cũng như việc sử dụng sự sáng tạo của chúng ta để xây dựng một cây cầu hay một đột phá y học đều mang những hàm ý đạo đức, việc tạo ra Trí tuệ nhân tạo cũng vậy.

Giáo hội có thể nhắc nhở chúng ta rằng Kỹ thuật không trung lập về mặt đạo đức—nó thừa hưởng các giá trị của những người tạo ra và người sử dụng nó. Do đó, việc xây dựng Trí tuệ nhân tạo không chỉ là một nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là một nhiệm vụ đạo đức. Việc định hình theo cách này có thể truyền cảm hứng cho các Kitô hữu trong lĩnh vực Kỹ thuật, coi công việc của họ như một hình thức quản lý hoặc thậm chí làm môn đệ: lập trình để phục vụ Chúa Kitô bằng cách phục vụ người khác. Nó cũng có thể nhắc nhở tất cả chúng ta rằng lòng trung thành cuối cùng của chúng ta không thể nằm ở Kỹ thuật hay tiến bộ vì lợi ích của chính nó, mà là ở Thiên Chúa, Đấng đã giao phó cho chúng ta những món quà này vì lợi ích của những người lân cận.

Cuối cùng, một bước tiến thiết thực là giáo dục và đối thoại ở cấp cơ sở. Các giáo xứ, trường đại học và các nhóm Kitô giáo có thể thúc đẩy các nhóm nghiên cứu tìm hiểu về đạo đức Trí tuệ nhân tạo, đảm bảo rằng cuộc trò chuyện không chỉ giới hạn ở các chuyên gia. Những sáng kiến như vậy giúp giải mã Trí tuệ nhân tạo cho người dân bình thường và xua tan cả sự lạc quan ngây thơ lẫn nỗi sợ hãi thái quá. Chúng cũng trang bị cho những người có đức tin khả năng lên tiếng trước công chúng, ủng hộ một tương lai Trí tuệ nhân tạo phản ảnh các giá trị của chúng ta. Hãy tưởng tượng các ủy ban nhà thờ, giống như các ủy ban công lý xã hội hoặc các nhóm chăm sóc sáng tạo, tập trung cụ thể vào đạo đức Kỹ thuật - giúp cộng đồng luôn được cập nhật và tham gia vào các vấn đề từ quyền riêng tư dữ liệu đến deepfake. Các ủy ban này có thể hợp tác với các công ty Kỹ thuật hoặc nhà hoạch định chính sách địa phương để cung cấp phản hồi và hướng dẫn dựa trên các nguyên tắc đạo đức. Khi các nhà thần học, nhà đạo đức học, kỹ sư và người dùng cùng nhau thiện chí, chúng ta có cơ hội tốt hơn để xây dựng các hệ thống và chính sách Trí tuệ nhân tạo hướng đến sự nâng cao thay vì gây hại.

Kết luận

Sự phát triển nhanh chóng của Trí tuệ nhân tạo mang đến cho chúng ta những lựa chọn sẽ định hình linh hồn của xã hội. Liệu chúng ta sẽ trôi dạt, để tự động hóa và thuật toán quyết định các điều kiện của cuộc sống con người? Hay chúng ta sẽ tiếp cận những công cụ này với sự phân định và ý hướng tính, đảm bảo chúng góp phần vào sự phát triển của con người? Những nguyên tắc siêu việt của Bernard Lonergan—Hãy Ý tứ, Hãy Thông Minh, Hãy Hữu Lý, Hãy Có Trách Nhiệm, Hãy Yêu Thương—mang đến một khuôn khổ vượt thời gian cho chính loại nhận thức này. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng dù Kỹ thuật của chúng ta mới mẻ đến đâu, những quy trình cơ bản của sự phán đoán đúng đắn và hành động đạo đức vẫn không thay đổi. Chúng ta phải mở mắt nhìn nhận thực tại, tìm kiếm sự hiểu biết, phán đoán sáng suốt, hành động có đạo đức và tập trung tất cả vào tình yêu thương.

Đối với những người có đức tin, và thực sự là tất cả những người có thiện chí, lời kêu gọi là áp dụng những thói quen của tâm trí và trái tim này vào lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo. Điều này có nghĩa là vun đắp một nền văn hóa phân định Trí tuệ nhân tạo trong cuộc sống cá nhân, cộng đồng và các tổ chức của chúng ta. Nó có nghĩa là từ chối bị choáng ngợp bởi những lời hứa hẹn hào nhoáng của Kỹ thuật, và cũng từ chối việc coi thường Kỹ thuật, thay vào đó là đi theo con đường khó khăn hơn của sự tham gia có hướng dẫn. Nó có nghĩa nhấn mạnh rằng nhân loại vẫn là người dẫn dắt, vạch ra lộ trình tiến bộ Kỹ thuật với bàn tay vững chắc trên la bàn đạo đức.

Có rất nhiều lý do để hy vọng. Trên khắp thế giới, các nhà đạo đức học, kỹ sư và các nhà lãnh đạo tôn giáo đang ngày càng hợp tác chặt chẽ để đảm bảo Trí tuệ nhân tạo được phát triển một cách có trách nhiệm. Các chính phủ đang bắt đầu soạn thảo luật về tính công bằng và minh bạch của thuật toán. Các công ty Kỹ thuật, dưới áp lực của công chúng, đang nói nhiều về đạo đức hơn bao giờ hết. Các trường đại học Công Giáo đang phát triển các chương trình sinh thái truyền thông của Giáo hội. Và vô số cá nhân đang học cách sử dụng điện thoại thông minh và trợ lý Trí tuệ nhân tạo của họ một cách nhận thức hơn. Đây là những dấu hiệu cho thấy chúng ta có thể định hình tương lai của Trí tuệ nhân tạo thay vì thụ động chịu đựng nó.

Là các Kitô hữu, chúng ta tiếp cận tương lai với niềm hy vọng, không chỉ nhờ nỗ lực của con người, mà còn bởi vì chúng ta tin tưởng vào một Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử. Nếu chúng ta mang những điều tốt đẹp nhất của truyền thống - sự khôn ngoan của nó, sự nhấn mạnh vào phẩm giá của mỗi người, điều răn yêu thương của nó - vào cuộc trò chuyện về Trí tuệ nhân tạo, chúng ta sẽ đóng vai trò như muối và ánh sáng trong thế giới kỹ thuật số. Những thách thức về đạo đức của Trí tuệ nhân tạo, cuối cùng, là sự phản ảnh của những thách thức lâu đời về quyền lực, lòng kiêu hãnh, công lý và lòng bác ái. Các công cụ thì mới, nhưng bi kịch của con người thì không. Trong mọi thời đại, Giáo hội đã được kêu gọi để nhận ra những dấu chỉ của thời đại; ngày nay, một trong những dấu chỉ đó tỏa sáng trong các mạch điện và mã neon. Bằng cách làm theo lời khuyên của Lonergan là phải ý tứ, thông minh, hữu lý, có trách nhiệm và yêu thương, chúng ta có thể đảm bảo rằng ngay cả khi chúng ta đổi mới, chúng ta vẫn không đánh mất nhân tính hay linh hồn của mình.

Thước đo cuối cùng của thành công sẽ không phải là máy móc của chúng ta trở nên thông minh đến mức nào, mà là chúng ta khai thác trí tuệ đó một cách khôn ngoan và yêu thương như thế nào để cải thiện tất cả. Theo lời của một phân tích, chúng ta phải "khẳng định vị thế tối cao của con người" trong việc phát triển và sử dụng Kỹ thuật, hướng tới một thế giới mà Kỹ thuật thực sự phục vụ nhân loại, chứ không phải ngược lại.[18] Với trái tim vững chắc trong tình yêu thương và tâm trí được dẫn dắt bởi sự thật, chúng ta có thể nắm bắt các công cụ của Trí tuệ nhân tạo mà không từ bỏ những gì làm nên con người đích thực của chúng ta. Đó là hy vọng và thách thức trước mắt chúng ta—và nhờ ân sủng của Thiên Chúa, đó là một thách thức mà chúng ta có thể vượt qua vì ích chung.

________________________________________

[1] Victoria Burton-Harris và Philip Mayor, “Bị bắt giữ oan vì nhận dạng khuôn mặt không phân biệt được người da đen,” ACLU, ngày 24 tháng 6 năm 2020.

[2] Lonergan, Bernard J. F. Phương pháp trong Thần học. Tuyển tập các tác phẩm của Bernard Lonergan, (CWL 14), do Robert M. Doran và John D. Dadosky biên tập, Toronto: Nhà xuất bản Đại học Toronto, 2017, trang 22-23.

[3] Steven Umbrello, “Điều hướng Trí tuệ nhân tạo với các nguyên tắc siêu việt của Lonergan,” Evangelization & Culture Online, ngày 25 tháng 4 năm 2024.

[4] Sđd.

[5] Casey Moffitt và Linsey Maughan, “Thiên kiến trong bong bóng: Nghiên cứu mới cho thấy thuật toán lọc tin tức củng cố thiên kiến chính trị”, Illinois Tech, ngày 1 tháng 11 năm 2021.

[6] Jeffrey Dastin, “Thông tin chi tiết: Amazon loại bỏ công cụ tuyển dụng Trí tuệ nhân tạo bí mật cho thấy thiên kiến đối với phụ nữ”, Reuters, ngày 11 tháng 10 năm 2018.

[7] NAACP, Tóm tắt vấn đề về Trí tuệ nhân tạo trong Cảnh sát dự đoán, không có ngày.

[8] Steven Umbrello, “Điều hướng Trí tuệ nhân tạo với các nguyên tắc siêu việt của Lonergan”, Sđd.

[9] Sđd.

[10] Sđd.

[11] Sđd.

[12] NAACP, Tóm tắt vấn đề về Trí tuệ nhân tạo trong Cảnh sát dự đoán, Sđd.

[13] Steven Umbrello, “Điều hướng Trí tuệ nhân tạo với các nguyên tắc siêu việt của Lonergan”, Sđd.

[14] Deborah Castellano Lubov, “Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi sử dụng trí tuệ nhân tạo một cách có đạo đức”, Vatican News, ngày 27 tháng 3 năm 2023.

[15] Sđd.

[16] Sđd.

[17] Sđd.

[18] Steven Umbrello, “Điều hướng Trí tuệ nhân tạo với các nguyên tắc siêu việt của Lonergan”, Sđd.

_________________________________

(*) Taylor Black dẫn dắt các chương trình chiến lược tại Văn phòng Giám đốc Kỹ thuật (CTO) của Microsoft, nơi ông khám phá các ranh giới của đổi mới sáng tạo và tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp. Với bằng cấp cao về triết học và luật, ông kết hợp sự nghiêm khắc về mặt trí tuệ với tính thực tiễn trong vai trò giảng viên tại Trường Kinh doanh Foster thuộc Đại học Washington và ứng viên phó tế tại Giáo phận Công Giáo Byzantine ở Phoenix.
 
Văn Hóa
Ly dị và tái hôn trong Giáo hội sơ khai: Một số Suy nghĩ về Phương pháp luận Lịch sử
Vũ Văn An
18:59 21/08/2025

Bài của Henri Crouzel

“Mong muốn qúa lớn tự thích nghi với nhu cầu của thời đại sẽ gây nguy hiểm cho tính chân chính trong công trình của nhà sử học và bởi chính sự kiện đó sẽ tước mất của nó sự quan tâm mà nó có thể có đối với những người cùng thời với ông.”

Sau sự can thiệp của Đức Giám Mục Zoghby tại Công đồng Vatican II, nhiều cuốn sách và bài báo đã được xuất bản nhằm nỗ lực đặt câu hỏi về kỷ luật của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc ly hôn và tái hôn. Một số tác giả của họ đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chứng từ còn sót lại của Giáo hội sơ khai và giải thích các bản văn theo nghĩa này. Thông thường, những tác giả này là những nhà thần học hoặc nhà giáo luật không chuyên về các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo và ít quen thuộc với những yêu cầu của phương pháp lịch sử. Vì mong muốn gây ảnh hưởng đến công chúng nên họ ít có ý định tham gia vào các cuộc thảo luận sẽ chỉ làm cho cuốn sách của họ dài hơn và làm nản lòng người đọc: vì vậy, giống như các nhà tiên tri, họ xác định ý nghĩa của mỗi đoạn văn mà không khổ công thực hiện những nghiên cứu cần thiết. Kết quả cũng không làm hài lòng nhà sử học, họ chỉ có thể lấy làm tiếc về ảnh hưởng mà những nỗ lực như vậy gây ra đối với công chúng rộng rãi hơn, đánh lừa họ bằng những hy vọng hão huyền. Nếu bất cứ nhà sử học nào quyết định công bố một lời giải thích rõ ràng, ông ta khó có thể hy vọng rằng nó sẽ được công chúng chú ý, trước hết vì công chúng sẽ không hài lòng với những lời giải thích của ông ta, nhưng trên hết là vì những lời giải thích của ông ta sẽ không được đọc; chúng đòi hỏi quá nhiều nỗ lực đối với người đọc bình thường và ngay cả đối với các tác giả được đề cập, những người gần như không quan tâm đến chúng. Phóng chiếu lên nhà sử học mong muốn của chính họ trong việc chứng minh một luận đề bằng lịch sử, và được củng cố trong niềm xác tín này bởi “các nhà triết học nghi ngờ” hiện đại, những tác giả này không thấy ở nhà sử học điều gì cả ngoài việc là một nhà hộ giáo. Họ không hiểu rằng việc chứng minh một luận đề khác với việc làm bất cứ chuyện gì khác, vì việc nghiên cứu lịch sử đòi hỏi một nỗ lực quên mình đi và quên những quan niệm của chính mình.

Thực thế, nhiều tác giả hiện đại được đề cập dường như coi tất cả các nghiên cứu có kết quả phù hợp với tính chính thống chỉ là những lời hộ giáo. Trình độ chuyên môn này giả thiết nhà sử học đã không làm nghĩa vụ của mình, vốn không phải là chứng minh một luận đề mà là rút ra ý nghĩa thực sự của các sự kiện lịch sử. Vì vậy, các nhà sử học sẽ chỉ “khách quan” nếu các kết luận của họ mâu thuẫn với tính chính thống. Nhưng, sau đó, nếu họ không phải là những nhà hộ giáo, thì liệu họ có phải là những nhà phản hộ giáo không, một điều sẽ dẫn đến cùng một điều, tức là bước tới câu hỏi bằng một luận đề tiên kiến? Há các mong muốn duy trì một luận đề truyền thống hay đáp ứng các nhu cầu đương thời không phải là hai thái độ đáng ngờ như nhau trong mắt các nhà sử học hay sao? Dường như có một sự mâu thuẫn nhất định trong việc tuyên bố tính khách quan của một người trong khi thể hiện ý định thích nghi với hoàn cảnh đương thời. (1)

Hơn nữa, lịch sử chỉ có thể được thực hiện với những tài liệu hiện có, những tài liệu này giải thích lẫn nhau càng nhiều càng tốt chứ không phải dựa trên những giả thuyết chưa được chứng minh. Chúng ta có thể cho rằng những lời chứng trái ngược đã biến mất hoặc những thực hành trái ngược không để lại dấu vết bằng bản văn. Nhưng những điều đó không có giá trị gì đối với một nhà sử học, vì ông ta chỉ có thể nghiên cứu những gì đã được bảo tồn, kẻo rơi vào địa hạt của sự tưởng tượng và võ đoán. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng các Kitô hữu thời đó không phải tất cả đều là những vị thánh trong cách cư xử hôn nhân, một số người trong số họ đã tái hôn sau khi ly hôn, và thậm chí một số giám mục đã chấp nhận điều này; nhân chứng Origen chứng thực điều này. Nhưng giả định trước hoặc ghi nhận điều này là một chuyện, còn việc xác định xem ở mức độ nào, thông qua tiếng nói hoặc ngòi bút của các mục tử, các Giáo phụ hoặc các công đồng của Giáo hội, mà những bài viết hoặc khoản luật của họ đã được truyền lại cho chúng ta, Giáo hội đã chấp nhận, dung túng hoặc khiển trách hành vi của họ. Đối với các nhà sử học, đây là hai câu hỏi khác nhau không thể nhầm lẫn được. Như một bước đầu, chúng ta sẽ khảo sát từng nguyên tắc một trong các nguyên tắc giải thích từng được viện dẫn nhiều lần để xin phép kết hôn lần thứ hai sau khi ly hôn trong những bản văn không minh nhiên nêu rõ điều này. Bước thứ hai, chúng ta sẽ chỉ ra một số phương thức tiến hành khiến nhà sử học không thể xem xét nghiêm túc nhiều câu chuyện trong số này. (2)

I. Các nguyên tắc giải thích đã được nêu ra

Vai trò của nhà sử học là giải thích những đoạn văn ông nghiên cứu. Nhưng cách giải thích này phải xuất phát từ chính bản văn hoặc từ sự kiểm chứng với các bản văn khác của cùng tác giả hoặc cùng thời kỳ. Nó không thể được phóng chiếu từ bên ngoài, xác định một cách tiên nghiệm trên cơ sở những ý tưởng của sử gia hay của thời đại ông ta. Hơn nữa, chúng có thể không mâu thuẫn với dữ kiện lịch sử. Thí dụ, việc thẩm vấn một tác giả về một vấn đề nảy sinh sau thời của ông ta hoặc yêu cầu ông ta giải quyết những câu hỏi mà ông ta chưa bao giờ hỏi là một hành vi vi phạm nghiêm trọng lịch sử. Do những sai sót về phương pháp luận như vậy, các nhà thần học cổ thời, bao gồm cả những nhà thần học vĩ đại nhất trong số họ, thường bị buộc tội tuyên bố những tà giáo đến sau họ vì họ đã sử dụng một cách ngây thơ một số công thức mà sau này mang ý nghĩa dị giáo, trong khi công trình của họ nếu được xem xét trong tính toàn bộ của nó, chứng tỏ rằng họ không hề bị cám dỗ bởi sự lệch lạc về mặt tín lý đó. Những gì chúng tôi nói ở đây cũng áp dụng cho thông diễn học: làm sao chúng ta có thể giải thích chính xác các bản văn của Origen nếu chúng ta không quen với các quy tắc căn bản về lối chú giải dụ ý [allegorical exegis] của ông và thái độ của ông đối với Kinh thánh, vì những điều này xuất phát từ thực tiễn của ông và từ lý thuyết mà ông đã trình bày nhiều lần dựa vào nó?

Điều có liên hệ là rút ra lý thuyết từ các bản văn, chứ không phải biến bản văn thành một lý thuyết được áp đặt từ bên ngoài: các nguyên tắc giải thích phải được đánh giá từ các bản văn, dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn lịch sử. Thực thế, chúng thường được trình bày như bằng chứng chứng thực: nói cách khác, chúng tái tạo lại quan niệm của những người sử dụng chúng, và những quan niệm này không nhất thiết phải phù hợp với quan niệm của thời đại mà chúng được áp dụng. Hoặc chúng là kết quả của một ý tưởng tóm tắt quá mức, gần với một khẩu hiệu, của thời đại liên quan. Hiển nhiên những nguyên tắc diễn giải này không cần phải được chứng minh, chúng là những định đề không thể nghi ngờ! Do đó, thông diễn học có nguy cơ trở thành nghệ thuật rút ra từ một bản văn điều trái ngược với những gì nó nói.

1. “Các Kitô hữu không thể làm những gì không có trong luật dân sự.”

Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong các nguyên tắc nêu trên. Nó được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau, một số trong đó chúng tôi sẽ xem xét riêng. Để khẳng định lại tuyên bố một cách rõ ràng hơn: “Các Kitô hữu không thể thừa nhận sự ly thân mà không cho phép một cuộc hôn nhân mới, vì luật La Mã không hề biết đến một định chế như vậy”. Do đó, mỗi khi các Giáo phụ nói đến việc ly thân vì lý do ngoại tình mà không nhắc đến khả thể tái hôn, chắc chắn họ ám chỉ điều đó. Và quan niệm của họ về ngoại tình chắc hẳn là của người La Mã, không bình đẳng giữa nam và nữ: chúng ta sẽ quay lại điểm thứ hai này.

Nguyên tắc như vậy có phù hợp với dữ kiện lịch sử không? Chúng ta phải trả lời phủ định. Về những điểm mà chúng tôi quan tâm, các Giáo phụ thường xuyên phản đối các quy định của luật La Mã. Về việc ly dị và tái hôn, chúng ta thấy những lời phản đối tương tự ở Thánh Giustinô, Thánh Athenagoras, thánh Grêgoriô thành Nazianzus, Thánh Gioan Kim Khẩu, Thánh Ambrôsiô, Thánh Chrômasiô thành Aquileia và Thánh Augustinô. Tương tự, Lactansiô, Grêgoriô thành Nazianzus, Thánh Asteriô thành Amasea, Gioan Kim Khẩu, Thánh Theodoret quê Cyrus, Thánh Zeno thành Verona, Thánh Ambrôsiô, Thánh Giêrôm, và thánh Augustinô chỉ trích luật dân sự, thường bằng những lời lẽ khá sôi nổi, vì sự bất bình đẳng trong thái độ của nó đối với cả hai giới tính về vấn đề ngoại tình. Một quan sát như vậy đủ để bác bỏ nguyên tắc đã được viện dẫn.

Hơn nữa, bản văn thống trị toàn bộ thần học hôn nhân của các Giáo phụ thời xưa, giống như đối với Chúa Giêsu trong các Tin Mừng, là Sáng thế 2:22–24: bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng dẫn cô dâu đến với chàng rể, Evà đến với Ađam, và là Đấng đóng ấn sự kết hợp của họ, sự kết hợp bất khả tiêu. Thiên Chúa can thiệp vào hôn nhân của người Kitô hữu. Vì sự kiện này, hôn nhân, đối với họ, không còn là điều đối với người La Mã nữa, vốn chỉ là một hợp đồng song phương đơn giản, có thể bị phá vỡ thông qua thỏa thuận chung mà không gặp khó khăn gì: đối với người La Mã, chỉ có sự rẫy bỏ [repudiation] đơn phương mới cần đến một quy trình pháp lý. Quan niệm Kitô giáo này đã rõ ràng vào cuối thế kỷ thứ hai trong Ad Uxorem [đối với vợ] II, VIII, 6 của Tertullian, và đã cách mạng hóa ý tưởng về hôn nhân: tính bất khả tiêu là hệ quả rõ ràng được rút ra từ nó. Theo đó, làm thế nào người ta có thể khẳng định rằng các Kitô hữu không thể có quan niệm bác bỏ khác với quan niệm bác bỏ của luật La Mã?

Hai phản bác chính được nêu ra đối với câu trả lời của chúng tôi. Đầu tiên, một số tác giả bày tỏ sự ngạc nhiên rằng, nếu đúng như những gì chúng tôi mô tả thì các hoàng đế Thiên Chúa giáo vẫn giữ khả thể tái hôn, mặc dù có rất nhiều hạn chế. Một cách nghịch lý, những tác giả này cũng cho rằng các hoàng đế là những nhân chứng tốt hơn cho tư tưởng của Giáo hội so với các nhà văn giáo hội cùng thời với họ, những người gần như đều là mục tử chứ không phải nhà lý thuyết thuần túy.

Nhưng vào thế kỷ thứ tư và thứ năm, Đế quốc không chỉ có các Kitô hữu sinh sống, và cho đến khi có thỏa hiệp được Justinian áp đặt cho cả Giáo hội phương Đông và cho nhà nước vào thế kỷ thứ sáu, luật pháp của đế quốc cũng phải áp dụng cho những người ngoại giáo. Bất chấp xác tín của họ cho rằng Sáng thế 2:24, được đưa vào trình thuật sáng tạo, áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả những người ngoại đạo, nhưng trên thực tế, các Giáo phụ chỉ quan tâm đến đàn chiên của họ. Chỉ có một công đồng châu Phi yêu cầu tính bất khả tiêu phải trở thành đối tượng của luật đế quốc. (3) Hơn nữa, thật khó để đưa ra một tuyên bố về tính chân chính của tinh thần Kitô giáo nơi một số vị hoàng đế ở thế kỷ thứ tư và thứ năm.

Một số người cũng đề cập đến tình trạng khó khăn của một người phụ nữ ly thân bị cấm tái hôn, cho rằng họ không thể sống một mình, vì họ sẽ không có khả thể làm việc và kiếm tiền nuôi sống mình. Dù chúng ta làm gì với lời khẳng định này, vốn có vẻ cường điệu, thì đây cũng là tình trạng của những góa phụ mà cuộc hôn nhân thứ hai của họ Giáo hội khó khuyến khích - lời khẳng định này nói chung là không thể tranh cãi và thậm chí còn bị nhấn mạnh quá mức. Đó cũng là tình trạng của các trinh nữ, mà sự hiện hữu của họ trong Giáo hội vào thế kỷ thứ hai và thứ ba, trước khi bắt đầu phong trào đơn tu, đã được chứng thực bởi nhiều tài liệu. Nhưng chúng ta biết rằng cộng đồng đã hỗ trợ các góa phụ gặp khó khăn và những phụ nữ bị rẫy bỏ cũng nhận được sự trợ giúp. Cuốn Didascalia, trong bản dịch tiếng Syriac, cũng như trong việc tái chi tiết hóa nó trong các Tông hiến bằng tiếng Hy Lạp, (4) viết về các góa phụ trẻ không thể được nhận vào hàng góa phụ trong giáo hội vì tuổi đời của họ, nhưng họ nhận được sự giúp đỡ nếu họ cần sự giúp đỡ này: “Nếu có một người trẻ, ở với chồng chỉ một thời gian ngắn, và chồng đã chết, hoặc vì một lý do nào khác mà thấy mình mới bị cô lập và do đó vẫn cô đơn...” Mọi phụ nữ,vì vậy, thiếu sự hỗ trợ của người chồng và đang gặp khó khăn là trách nhiệm của cộng đồng.

Tổng quát hơn, nguyên tắc diễn giải mà chúng ta đang thảo luận ở đây phủ nhận Kitô giáo có quyền có bất cứ tính độc đáo nào đối với các định chế của thời đó. Nhưng rồi, tại sao dừng lại ở đó và hạn chế hôn nhân? Phải chăng, một mình trong Đế quốc, Giáo hội đã phản đối việc sùng bái hoàng đế và thể hiện sự không khoan nhượng như vậy đối với tôn giáo chính thức? Nếu Giáo Hội chấp nhận phong tục La Mã về vấn đề kết hôn, há Giáo Hội đã không có thêm lý do để làm như vậy khi việc từ chối hiến tế dẫn đến tra tấn và chết chóc đó sao? Há chúng ta không nên kết luận rằng mọi điều nói về các vị tử đạo đều là sai sự thật hay sao? Cuối cùng, nguyên tắc được đề cập phủ nhận mọi khả thể độc đáo trong thông điệp Kitô giáo.

2. “Không có luật hôn nhân Kitô giáo nào trong những thế kỷ đầu tiên.”

Nguyên tắc này chỉ là một biến thể của nguyên tắc trước đó. Người ta buộc phải chấp nhận nó nếu họ đòi, để có luật, sự hiện hữu của một Corpus iuris canonici [bộ giáo luật] được soạn thảo theo mọi quy tắc của khoa học pháp lý đương thời. Điều tương tự cũng xảy ra nếu người ta cho rằng luật lệ này phải đặt các Kitô hữu vào tình thế xung đột trực tiếp với luật La Mã - điều mà chúng ta không hề có vết tích nào. Nhưng nếu, theo phong tục dân sự, việc ly thân cho phép tái hôn, thì hiển nhiên nó không áp đặt điều đó, và Kitô hữu không tái hôn không phản đối luật pháp của Đế quốc. Các Kitô hữu rõ ràng phải tuân theo các hình thức hợp pháp của hôn nhân La Mã hoặc thậm chí của việc rẫy bỏ nữa, như trường hợp của người phụ nữ được đề cập trong cuốn Hộ giáo Thứ Hai của Thánh Giustinô, nhưng điều này không mấy quan trọng, vì đây không phải là loại luật mà các Giáo phụ nghĩ đến khi nói về hôn nhân. Các Kitô hữu tiên khởi cũng ở trong hoàn cảnh tương tự như người Công Giáo ngày nay khi họ kết hôn dân sự trước hôn nhân tôn giáo, hoặc khi họ xin ly hôn dân sự mà không có ý định tái hôn, vì những ảnh hưởng pháp lý của việc ly hôn này; trong suy nghĩ của họ, cuộc ly hôn này chỉ đơn giản là một cuộc ly thân. Luật của các Kitô hữu có bản chất khác với luật La Mã và đi xa hơn luật La Mã. Việc kết hôn theo luật La Mã không ngăn cản Kitô hữu có luật lệ riêng, tức là cách sống hôn nhân của riêng họ. Nhưng họ tuân theo luật dân sự ở tất cả những nơi nó không trái với luật Thiên Chúa.

Thực thế, ngay từ đầu, các Kitô hữu đã có ý thức tuân theo “luật lệ” của chính mình. Sách Sáng thế 2:24, mà Chúa Giêsu gán cho chính Thiên Chúa theo Mt 19:4–5, được coi là một “luật” mà Đấng Tạo Hóa đã thiết lập ngay từ đầu, trước việc Môsê nhân nhượng trong Đệ nhị luật 24:1 vì sự cứng lòng. Do đó, theo Origen, những giám mục cho phép một phụ nữ tái hôn khi chồng nàng vẫn còn sống đã hành động “trái ngược với luật nguyên thủy được ghi trong Kinh thánh”. (5) Trong các văn bản của họ về ly hôn, ba nhà chú giải vĩ đại của Antiôkia, Theodore thành Mopsuestia, Thánh Gioan Kim Khẩu, và Thánh Theodoret quê Đảo Cyrus, liên tục gọi câu Sáng thế 2:24 là “luật hôn nhân”. Thánh Gioan Kim Khẩu không ngại nhiều lần đặt “luật của Thiên Chúa”, vốn đòi hỏi sự bất khả tiêu đối đầu với “luật của người ngoài”, tức là của người ngoại giáo, cho phép ly dị và tái hôn - một phát biểu còn khắc nghiệt hơn ở chỗ những luật đó được ban hành vào thời điểm đó bởi các hoàng đế Kitô giáo. Thánh Gioan áp dụng cùng những lời như thế vào sự bình đẳng hoặc bất bình đẳng giữa hai giới trước tội ngoại tình. Ngoài ra, khi Thánh Athenagoras, trong Lời khẩn cầu 33, nói về “người phụ nữ mà chúng ta đã kết hôn theo những luật lệ đã ấn định cho chúng ta,” thì “chúng ta” này không nên sửa thành “bạn” như một số — và may mắn, cô lập—các bản dịch gần đây đã thực hiện, bất chấp việc thiếu các biến thể văn bản và không ghi nhận sự thay đổi. Vì các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên đã ý thức được rằng họ đang tuân theo những luật lệ riêng của mình, cũng như họ ý thức được mình là một dân tộc tách biệt, khác biệt với những người ngoại giáo mà họ sống với: phải chăng chữ paroikia trong tiếng Hy Lạp (trong tiếng Latin, paroecia hoặc parrochia), mà họ áp dụng cho cộng đồng của họ—các giáo xứ hay các giáo phận, theo thuật ngữ ngày nay—có nghĩa là một thuộc địa nước ngoài sống giữa một dân tộc khác? (6)

Liệu chúng ta có thể nói rằng những “luật” này chỉ có ý nghĩa đạo đức và chúng thiếu tác động pháp lý hoặc định chế trong cộng đồng - hay nói cách khác, người vi phạm những luật này bằng cách tái hôn sau khi ly hôn sẽ phải tự quyết định lương tâm của mình và không phải là đối tượng bị giáo hội trừng phạt hay không? Chúng ta có thể hỏi liệu sự phân biệt này có lỗi thời không, như khi nó được áp dụng vào Mt 19:3–12 hay Mc 10:2–12. Để nâng đỡ một luận điểm như vậy, chúng ta phải bỏ qua sự hiện hữu và tính nghiêm ngặt của việc sám hối công khai, điều mà những người hiện đại không thể tưởng tượng được. Một trong những tội chính phải chịu đền tội như vậy là ngoại tình: kể từ thời Hermas, Thánh Giustinô, Theophilô, Thánh Clêmentê, Tertullianô, Origen, v.v., người tái hôn sau khi rẫy vợ mình và người kết hôn với một người phụ nữ bị rẫy bỏ đều được hiểu, như trong chính Tin Mừng, rơi vào hạng người ngoại tình. Ngoại tình là một lỗi ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của Giáo hội: nó có hiệu quả định chế và pháp lý, vượt quá lương tâm của tội nhân.

3. “Không có phụng vụ hôn nhân nào trong những thế kỷ đầu tiên.”

Mặc dù câu hỏi này không liên quan đến chủ đề mà chúng ta đang nghiên cứu, nhưng nó liên quan đến điểm trước đó đến mức chúng ta phải bàn đến nó.

Đầu tiên chúng ta phải xua tan sự nhầm lẫn phổ biến. Hình thức hôn nhân tôn giáo không bị bắt buộc ở phương Tây cho đến khi có sắc lệnh Tametsi của Công đồng Trent; ở phương Đông, điều này xảy ra sớm hơn nhiều, vào năm 895, với tuyên bố của Hoàng đế Leo VI. Trước đó, trong Giáo hội Latinh, phù hợp với học thuyết kinh viện vốn hiểu vợ chồng là thừa tác viên của bí tích, thì sự hiện diện của linh mục không được coi là cần thiết: chỉ cần một người nam và một người nữ bày tỏ sự ưng thuận của mình, ngay cả không công khai, họ đã thực sự là vợ chồng. Để chấm dứt mối nguy hiểm mà những cuộc hôn nhân lén lút như vậy áp đặt lên tính bất khả tiêu, do sự thiếu công khai này gây ra, và để đảm bảo tính chất công khai của sự cam kết này, Công đồng Trent đã đưa ra hình thức tôn giáo cần thiết để có hiệu lực bằng một luật thực định.

Từ sự kiện nghi lễ tôn giáo không bắt buộc, một số tác giả đôi khi khá vội vàng đưa ra kết luận rằng nó không hiện hữu, mặc dù Dom K. Ritzer đã dành một tác phẩm lớn để nghiên cứu sự tiến hóa của nó trong thiên niên kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta. (7) Thật không may, Dom Ritzer cảm thấy buộc phải loại bỏ hai văn bản rất quý giá của Tertullianô, trên cơ sở những gì tôi thấy là một lối chú giải không chính đáng. (8) Cùng với một lời ám chỉ ngắn gọn về Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, hai văn bản này cung cấp thông tin duy nhất còn sót lại về thế kỷ thứ hai và thứ ba. Chúng cho thấy Giáo hội thực sự quan tâm đến hôn nhân của các tín hữu, ngay cả khi chúng ta không thể nói rằng những thực hành như vậy là tổng quát hay bắt buộc. Thánh Inhaxiô muốn hôn nhân được ký kết với sự đồng ý của giám mục. Tertullianô nói rằng các Kitô hữu yêu cầu nó (postulare) từ Giáo hội có phẩm trật, vốn đóng vai trò là người hòa giải (conciliator) trong hôn nhân; theo nghĩa thông thường của thuật ngữ đó, điều này có nghĩa là người đặt các người phối ngẫu tiếp xúc với nhau và sắp xếp việc kết hôn. Về nghi lễ, một oblatio được đề cập, một từ ngữ mà với Tertullianô thường chỉ Bí tích Thánh Thể nhưng từ ngữ này cũng có thể được áp dụng cho một lời cầu nguyện không phải Thánh Thể; và một benedictio, một lời chúc hạnh phúc do một người đàn ông nói lên - người ta không nói rõ ràng rằng đây phải là một linh mục - nhân danh Chúa. Có nhiều bằng chứng liên quan đến thế kỷ thứ tư hơn. (9)

Người ta thường nói rằng các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên đã kết hôn theo cách giống như những người ngoại giáo. Một cụm từ trong Thư gửi Diognetus được trích dẫn để ủng hộ điều này, cụm từ này không đề cập đến nghi lễ hôn nhân nhưng khẳng định rằng giống như những người đàn ông khác, các Kitô hữu đều có vợ và con cái. Thực tế là, theo các nhân chứng sau này, phụng vụ hôn nhân vẫn giữ lại những đặc điểm rút ra từ các nghi thức cử hành thời cổ đại, chẳng hạn như đội vương miện hoặc nghi thức dextrarum iunctio [nắm tay phải nhau], dù sao cũng đưa ra một sự thật nhất định cho tuyên bố vừa được lưu ý. Nhưng người ta tưởng tượng rằng đám cưới của người La Mã cổ thời là một loại nghi lễ hôn nhân dân sự và thế tục giống như nghi lễ do Cách mạng Pháp thiết lập: đây là một chuyện lỗi thời khác. Đúng hơn, chúng là một nghi lễ tôn giáo trong gia đình bao gồm việc cầu nguyện và hiến tế các vị thần. Người ta có thể quan niệm được rằng các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên, những người vốn rất cứng rắn đối với bất cứ điều gì có thể giống như việc tham gia vào việc sùng bái ngẫu tượng, không thay thế những lời cầu nguyện hoặc hy tế này bằng những lời cầu nguyện và hy tế Kitô giáo hay không? Ngay cả khi chúng ta không có lời chứng của Tertullianô hoặc không tin vào lời chứng đó, thì việc khẳng định đơn thuần rằng các Kitô hữu kết hôn giống như những người ngoại đạo cũng hàm ý rằng việc cử hành đám cưới liên quan đến một nghi lễ tôn giáo. Và vì chúng ta không thể nghĩ rằng các Kitô hữu cầu nguyện hay hiến tế cho các vị thần ngoại giáo, nên chúng ta buộc phải xem ở đây sự khởi đầu của phụng vụ Kitô giáo. Điều này không nhất thiết giả định sự hiện diện của một giáo sĩ, nhưng Giáo hội không chỉ hiện diện ở nơi có giám mục hay linh mục. Dù sao đi nữa, Giáo hội trong các thế kỷ đầu tiên không hề thờ ơ với hôn nhân xét theo khía cạnh pháp lý, phụng vụ hoặc thậm chí theo quan điểm thần học, vì bắt đầu từ Thánh Clêmentê và Tertullianô, hầu hết các Giáo phụ đều suy tư về chủ đề này, đôi khi theo những cách độc đáo.

4. “Khi các Nghị phụ nói về sự ‘đổ vỡ’ của một cuộc hôn nhân do ngoại tình, họ có ý định cho phép tái hôn, theo luật Rôma.”

Phát biểu này, hoặc những phát biểu tương đương, trên thực tế đã được các Giáo Phụ sử dụng, vì các ngài không cho phép tiếp tục chung sống với người phối ngẫu đang ngoại tình. Có vẻ tự nhiên khi coi những thuật ngữ này theo ý nghĩa mà các luật gia và giáo luật hiện đại thường gán cho chúng, và hiểu rằng đó là sự đổ vỡ của mối dây vợ chồng vốn tạo khả hữu cho cuộc hôn nhân thứ hai. Nhưng trên thực tế, nếu Tertullianô, Origen, Asteriô thành Amasea, Apollinariô xứ Laodicea, Thánh Gioan Kim Khẩu, Theodoret xứ Cyrus, Hilariô thành Poitiers, Thánh Ambrôsiô thành Milan, và cuốn Opus Imperfectum về Tin Mừng Mátthêu sử dụng những cách diễn đạt này, thì họ cũng phản đối việc tái hôn—đôi khi trong cùng một văn bản. Bản thân Thánh Augustinô, vị thánh mà việc bác bỏ cuộc hôn nhân thứ hai sau khi ly hôn là điều không bị ai tranh cãi, coi hành vi gian dâm [fornicatio] là “nguyên nhân duy nhất dẫn đến việc hủy tiêu (solutionis) các cuộc kết hợp.” (10) Do đó, ngài sử dụng cùng một từ vựng như những người khác; giống như những người khác, ngài chỉ muốn nói đến sự đổ vỡ cần thiết hoặc được phép của cuộc sống chung. Nói rằng các Giáo phụ chắc hẳn đã cho phép tái hôn vì đây là ý nghĩa của thuật ngữ “đổ vỡ” trong môi trường xung quanh chúng, như chúng tôi đã đề cập ở trên, là tiên thiên bác bỏ khả thể độc đáo của Kitô giáo trong lĩnh vực này; nó cũng không xét đến các văn bản hiện có, cả kinh thánh lẫn giáo phụ.(11)

Hôn nhân thực sự bị “gỡ bỏ” bởi ngoại tình, tự nó là một sự đổ vỡ của hôn nhân, và đời sống cộng đồng không còn khả hữu nữa; nhưng, “người vợ vẫn phải gắn bó với chồng bao lâu chồng còn sống” (1 Cr 7:39). Có phải chúng ta phải nói rằng vợ ràng buộc với chồng chứ chồng không phải ràng buộc với vợ? Như chúng ta sẽ thấy, lời khẳng định này phù hợp với quan niệm ngoại tình của người Do Thái và Hy Lạp-La Mã, nhưng nó không được các Kitô hữu chấp nhận, vì trong 1 Cr 7:4, Thánh Phaolô công nhận cả hai vợ chồng đều có quyền như nhau đối với thân xác của nhau. Đại đa số các nhà văn giáo hội thời kỳ đầu đã làm theo ngài về vấn đề này. Nếu các Giáo phụ thường xuyên đề cập đến vấn đề mối liên hệ giữa người phụ nữ với chồng hơn là ngược lại, thì chúng ta vẫn gặp bằng chứng về mối liên hệ sau, chẳng hạn trong Bài giảng V của Thánh Gioan Kim Khẩu về Bức thư đầu tiên gửi tín hữu Thessalonica, trong đó nó được trình bày một cách mạnh mẽ. (12) Hơn nữa, nếu một người chồng có thể có hai người phụ nữ ràng buộc với anh “miễn là anh còn sống”, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng Giáo hội sơ khai đã chấp nhận chế độ hai vợ một chồng. Không hề có một chút dấu vết nào của bất cứ sự chấp nhận nào như vậy, hoàn toàn ngược lại.

Việc tiếp tục thấy, trong việc “đổ vỡ” hoặc “tiêu hủy” một cuộc hôn nhân vì ly dị, một việc cho phép tái hôn, là tuyên bố rằng các Giáo phụ hẳn hiểu những từ ngữ này theo ý nghĩa kỹ thuật mà chúng có trong luật Rôma. Trả lời cho chủ trương này là điều không khó. Đầu tiên, chúng ta có thể hỏi liệu có lỗi thời không khi phóng chiếu sự hiểu biết đương thời của chúng ta về ý nghĩa kỹ thuật lên thời cổ đại, và liệu việc sử dụng hiếm hoi các thuật ngữ này trong các văn bản pháp lý trước thời Justiniô có cho phép chúng ta áp dụng đặc tính này cho chúng hay không. Trên hết, bất cứ ai quen với các bản văn giáo phụ đều biết rằng các Giáo phụ Hy Lạp không bao giờ hoàn toàn tôn trọng ý nghĩa được cho là mang tính kỹ thuật của các thuật ngữ triết học mà họ sử dụng, vì họ liên tục điều chỉnh chúng cho phù hợp với đề xuất Kitô giáo của mình; và các Giáo phụ Latinh cũng làm như vậy với các thuật ngữ lấy từ luật La Mã. Thí dụ, việc nghiên cứu thuật ngữ của một trong những tác giả giáo hội phương Tây, người được đánh dấu nhiều nhất bởi nền tảng pháp lý của ông và là người khai thác nó nhiều nhất, Tertullianô, đã dẫn đến những kết luận như vậy.(13) Cùng một phản bác cũng đã được đưa ra đối với việc sử dụng hạn từ apoluein trong Mt 5:32 và 19:9 và trong Mc 10:11–12. Người ta nói rằng các Kitô hữu gốc Do Thái trong Tin Mừng Mátthêu và các Kitô hữu Hy Lạp-La Mã trong Tin Mừng Máccô không thể hiểu được hạn từ này ngoại trừ việc rẫy bỏ và tái hôn. Nhưng điều này là quên rằng các tác giả Tin Mừng đã viết cho các Kitô hữu và những người này đã nhận được, qua giáo lý, giáo huấn về tính bất khả tiêu được chứng minh trong các bức thư của Thánh Phaolô. Do đó, họ có khả năng loại bỏ thuật ngữ này - nghĩa chặt chẽ của nó trong mọi trường hợp chỉ đơn thuần là "buông thả, đuổi đi" - mà hậu quả không được nó trực tiếp phát biểu, ngay cả khi hậu quả này được liên kết với nó bởi môi trường xung quanh.

Còn tiếp
 
VietCatholic TV
Donbas: Cái bẫy của Putin. Vài ngày tới hết sức quan trọng với tương lai thế giới: 5 vấn đề nổi bật
VietCatholic Media
03:35 21/08/2025


1. Tổng thống Trump nói với Macron: Putin ‘muốn đạt được thỏa thuận là vì tôi’

Ngay trước cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và các nhà lãnh đạo Âu Châu tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Hai, ngày 18 tháng 8, một chiếc micro đã thu được giọng nói của Tổng thống Trump khi nói với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron: “Tôi nghĩ Putin muốn đạt được một thỏa thuận là vì tôi.”

“Ông hiểu điều đó chứ?” Tổng thống Trump tiếp tục, theo đoạn phim được Associated Press chia sẻ. “Nghe có vẻ điên rồ...”

Tổng thống Hoa Kỳ cũng được nghe nhắc đến một “trilat”, hay hội nghị thượng đỉnh ba bên. Tổng thống Trump sau đó tuyên bố rằng ông đã bắt đầu sắp xếp một cuộc họp giữa Nga, Hoa Kỳ và Ukraine.

Phát biểu với NBC News sau cuộc họp, Macron cho biết: “Tổng thống của cô rất tự tin về khả năng đạt được thỏa thuận này với Tổng thống Putin, và điều đó thật tuyệt vời.”

Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo vẫn bất đồng về việc liệu Putin có thực sự muốn chấm dứt chiến tranh của Nga ở Ukraine hay không. Mặc dù tuyên bố Nga sẵn sàng chấp nhận các bảo đảm an ninh cho Ukraine như một phần của thỏa thuận hòa bình, Tổng thống Trump hôm thứ Hai lại nói rằng nguy cơ Nga xâm lược Ukraine trong tương lai “phần lớn là bị đánh giá quá cao”.

Ngược lại, Macron nói với NBC: “Nếu bạn thực hiện bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào mà không có bảo đảm an ninh, Nga sẽ không bao giờ tôn trọng lời nói của mình, sẽ không bao giờ tuân thủ các cam kết của chính mình.”

Tổng thống Pháp là người ủng hộ mạnh mẽ việc Âu Châu đóng vai trò trung tâm hơn trong việc chấm dứt chiến tranh với Nga. Pháp và Anh đồng chủ trì “Liên minh Thiện chí”, một nhóm các quốc gia chủ yếu là Âu Châu và Canada cam kết hỗ trợ Ukraine. Vào ngày 10 tháng 7, hai nước đã thông báo rằng Paris và Luân Đôn sẽ cùng đăng cai trụ sở thường trực của tổ chức này.

Sau hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng thống Trump với Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Âu Châu, NATO đang gấp rút lập kế hoạch cho con đường phía trước, trong khi nhà lãnh đạo quân đội Anh tới Washington.

Rời Tòa Bạch Ốc hôm thứ Hai, Macron cho biết hội nghị thượng đỉnh ba bên giữa Nga, Ukraine và Hoa Kỳ dự kiến sẽ được tổ chức tại Âu Châu. “Tôi đang thúc đẩy Geneva”, ông nói thêm.

Trong cuộc gặp đa phương giữa Tổng thống Trump, Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Âu Châu, Tổng thống Pháp cũng nhấn mạnh rằng Âu Châu nên có một vị thế trong bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào trong tương lai, theo Reuters.

“Để tiếp nối, chúng ta cần một cuộc họp bốn bên, bởi vì khi chúng ta nói về bảo đảm an ninh, chúng ta đang nói về toàn bộ an ninh của lục địa Âu Châu. Đây là lý do tại sao tất cả chúng ta đều đoàn kết ở đây với Ukraine,” ông nói.

[Newsweek: Trump Tells Macron: Putin ‘Wants to Make a Deal For Me’]

2. Munich 2.0: Tổng thống Trump lọt vào kế hoạch chiến tranh của Putin

Tiến sĩ Robert Zubrin là một kỹ sư hàng không vũ trụ người Mỹ và là thành viên của Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ, gọi tắt là ISW.

Sau đây là những nhận định của ông về yêu sách của Putin đòi Ukraine phải nhượng toàn bộ vùng Donbas cho Nga mà Tổng thống Trump tuyên bố “đồng ý phần lớn.”

Những nhượng bộ mà Putin yêu cầu từ Ukraine - chỉ mang lại lệnh ngừng bắn, chứ không phải kế hoạch hòa bình trọn vẹn - sẽ không chỉ trao cho Điện Cẩm Linh lãnh thổ mà họ không thể chiếm trên chiến trường, mà còn triệt tiêu mọi khả năng phòng thủ khi Mạc Tư Khoa quyết định thể hiện rằng họ vẫn muốn chiếm Kyiv.

Sau cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và nhà độc tài Nga Vladimir Putin tại Alaska, các nhà bình luận đã bày tỏ sự kinh ngạc trước sự bất công của kế hoạch “hòa bình” được tường trình đã được hai nhà lãnh đạo đồng ý, vì kế hoạch này liên quan đến việc Ukraine trao trả một số thành phố với hàng trăm ngàn cư dân cho lực lượng xâm lược tàn bạo của Nga mà không nhận lại được gì cả.

Những phản đối này có cơ sở, nhưng lại thiếu trọng tâm. Chúng ta phải mạnh mẽ nhấn mạnh rằng lãnh thổ mà Putin đang yêu cầu bao gồm cả phòng tuyến pháo đài của Ukraine. Nếu nhượng lại, toàn bộ Ukraine sẽ bị quân đội Cẩm Linh xâm lược.

Thỏa thuận Putin-Tổng thống Trump do đó mô phỏng chính xác Hiệp ước Munich tự sát tháng 10 năm 1938 do Hitler, Quốc trưởng Đức Quốc xã, thông đồng với Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, Thủ tướng Pháp Edouard Daladier và nhà độc tài Phát xít Ý Benito Mussolini, áp đặt lên Tiệp Khắc. Trong thỏa thuận đó, Tiệp Khắc được hứa hẹn hòa bình và an ninh, với điều kiện là họ phải giao nộp các tỉnh biên giới được phòng thủ nghiêm ngặt cho Đức Quốc xã.

Tuy nhiên, một khi điều đó được thực hiện, Tiệp Khắc đã trở nên bất lực, và trong vòng sáu tháng, toàn bộ đất nước đã bị tràn ngập, xâm lược và không còn tồn tại như một quốc gia độc lập.

“Thỏa thuận” tương tự hiện đang được đề nghị với Ukraine. Như các nhà phân tích quân sự uy tín tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW đã chỉ ra, lỗ hổng trong hệ thống phòng thủ của Ukraine do việc từ bỏ tuyến thành phố pháo đài sẽ không thể khắc phục được, vì địa hình phía sau tuyến phòng thủ này không thuận lợi cho việc phòng thủ. Báo cáo của Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ của chúng tôi nêu rõ rằng:

“ISW tiếp tục đánh giá rằng việc quân đội Ukraine bị buộc p1 p1 rút khỏi Tỉnh Donetsk sẽ làm suy giảm khả năng phòng thủ và cơ sở công nghiệp quốc phòng, gọi tắt là DIB của Ukraine và khiến hàng trăm ngàn thường dân Ukraine phải chịu sự xâm lược của Nga.

“ISW tiếp tục đánh giá rằng việc giao nộp các khu vực hiện không bị tạm chiếm của Tỉnh Donetsk cho Nga sẽ giúp lực lượng Nga có vị thế cực kỳ tốt để tiếp tục hành động xâm lược Ukraine theo những điều khoản thuận lợi hơn nhiều, tránh được một cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu cho vùng lãnh thổ này và tạo cơ hội cho Nga xây dựng lực lượng và vũ khí.

ISW trước đây đã lưu ý rằng việc cho phép Nga xâm lược phần còn lại của Tỉnh Donetsk sẽ khiến vành đai pháo đài của Ukraine rơi vào tay lực lượng Nga, và vành đai pháo đài này cũng bao gồm cơ sở hạ tầng DIB đáng kể. Đáng chú ý là lực lượng Nga đã không thể tiến đến hoặc bao vây vành đai pháo đài kể từ mùa thu năm 2022. Bộ chỉ huy quân sự Nga gần như chắc chắn sẽ nỗ lực thiết lập nhanh chóng các vị trí cố định trên khắp vành đai pháo đài và sử dụng DIB của vành đai pháo đài cho mục đích sản xuất quân sự nếu lực lượng Ukraine bị buộc phải rút lui khỏi vị trí của họ ở Tỉnh Donetsk.

ISW trước đây cũng lưu ý rằng khu vực biên giới Donetsk về bản chất không phù hợp cho các hoạt động tấn công của Nga do có ít thị trấn, nhưng lại nhiều cánh đồng trống và các chướng ngại vật tự nhiên như sông Oskil và Siverskyi Donets.”

Đây là lý do tại sao Nga sẵn sàng chịu hàng trăm ngàn thương vong trong ba năm qua để cố gắng đột phá vào đó, và sau khi thất bại, giờ đây đang tìm mọi cách để cố gắng xâm chiếm Ukraine bằng sự lừa dối.

Điểm tương đồng giữa thỏa thuận Munich 1.0 của Hitler-Chamberlain và thỏa thuận Munich 2.0 của Putin-Tổng thống Trump còn vượt xa hơn thế. Munich 1.0 không chỉ là sự tự sát đối với Tiệp Khắc. Nó còn là sự tự sát đối với cả các đồng minh phương Tây.

Bằng cách phản bội Tiệp Khắc, Chamberlain và Daladier đã xóa 35 sư đoàn Tiệp được trang bị tốt khỏi đội hình chiến đấu của phương Tây, bổ sung ngành công nghiệp vũ khí tuyệt vời của Tiệp vào cơ sở công nghiệp quốc phòng của Đức Quốc xã và mở rộng biên giới mà Đức có thể tấn công Ba Lan, qua đó khiến quốc gia này không thể phòng thủ được.

Đức Quốc xã, được củng cố đáng kể nhờ những nhượng bộ này, đã tiến hành xâm lược Ba Lan vài tháng sau đó. Lúc đó, các đồng minh phương Tây không thể làm gì cả và đành để Ba Lan bị tiêu diệt.

Điều này đã cắt giảm thêm 50 sư đoàn từ lực lượng phương Tây, nâng tổng số tổn thất của quân Đồng minh lên 85 sư đoàn trước khi trận chiến thảm khốc để chiếm nước Pháp (được bảo vệ bởi tổng cộng 94 sư đoàn Pháp và Anh) diễn ra.

Sự điên rồ chiến lược của việc phản bội Ukraine giờ đây còn tệ hơn. Nếu chúng ta để Ukraine bị hy sinh, điều gì sẽ xảy ra?

Thưa, trước hết, quân đội Ukraine gồm một triệu người sẽ bị loại khỏi đội hình chiến đấu của phương Tây, các nguồn lực công nghiệp và kỹ thuật của Ukraine sẽ được bổ sung vào lực lượng của Nga, và lực lượng Nga sẽ được điều động về mặt địa lý đến các vị trí mà từ đó có thể dễ dàng xâm lược phần còn lại của Âu Châu. Và đúng là như vậy.

Sẽ là sai lầm nếu nói rằng Nga không thể là mối đe dọa đối với phần còn lại của phương Tây, bởi vì họ gần như không thể đối phó với Ukraine. Ukraine đã ngăn chặn bước tiến của Nga bằng cách điều động hàng trăm ngàn quân vào chiến đấu và chịu hàng chục ngàn thương vong, trả một cái giá bằng máu cao hơn nhiều so với những gì Hoa Kỳ hay bất kỳ đồng minh Tây Âu nào của chúng ta có thể sẵn sàng gánh chịu. Chỉ nhờ lòng dũng cảm và sự bền bỉ của quân đội Ukraine mà tiền tuyến đã trở nên tĩnh lặng, và cuộc chiến đã bị thu hẹp thành một cuộc thi về trình độ công nghệ mà phương Tây có thể dễ dàng giành chiến thắng.

Với quân đội Ukraine còn nguyên vẹn và giữ vững phòng tuyến, các cường quốc phương Tây có thể làm rất nhiều để giúp Ukraine giành chiến thắng mà gần như không phải trả giá, chỉ bằng cách cung cấp cho Ukraine quyền truy cập rộng rãi vào hệ thống thông tin liên lạc vệ tinh của họ, bao gồm cả Starlink và các hệ thống khác. Ukraine có máy bay điều khiển từ xa với khả năng thực tế để bay sâu vào lãnh thổ Nga. Điều họ thiếu là khả năng liên lạc để điều khiển chúng ở đó. Nếu được trang bị hệ thống thông tin vệ tinh, và tốt hơn là cả đạn dược tấn công tầm xa của phương Tây, Ukraine sẽ có thể sử dụng máy bay điều khiển từ xa để ngăn chặn giao thông nội bộ của Nga, khiến lực lượng tiền tuyến của Nga không thể tiếp tế, và làm tê liệt toàn bộ nền kinh tế của nước này.

Đây không phải là năm 1916. Quân đội Ukraine không cần phải xông vào chiến hào của Nga để đánh bại cuộc xâm lược. Tất cả những gì họ cần làm là củng cố năng lực để Nga hiểu rằng họ có thể có một vài phần lãnh thổ Ukraine, hoặc có thể có một nền kinh tế, nhưng không thể có cả hai. Trong những trường hợp đó, Nga sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút quân.

Nhưng nếu loại bỏ quân đội Ukraine thì mọi thứ sẽ thay đổi.

Với việc quân đội Ukraine đã rút đi, NATO sẽ không có động thái phản công nào nếu Nga quyết định xâm lược các nước Baltic. Nhưng tình hình còn nghiêm trọng hơn thế nhiều. Hãy nhìn vào bản đồ. Chỉ có hai quốc gia chặn đường Nga tiến vào Âu Châu: Ba Lan và Ukraine. Ba Lan có một lực lượng quân sự nhỏ nhưng hùng mạnh và chắc chắn sẽ tự vệ nếu bị Nga tấn công. Nhưng nếu không có Ukraine, sẽ không còn quân đội đáng gờm nào ngăn chặn quân đội Nga tiến về phía nam Ba Lan, đến Budapest, Vienna và Belgrade, cũng như chiếm Moldova, Rumani và Bulgaria. Liệu chúng ta có sẵn sàng gửi nửa triệu lính Mỹ đến Âu Châu để ngăn chặn một cuộc tiến công như vậy không? Chắc chắn là không.

Tóm lại là như thế này. NATO cần một đội quân. Ukraine đã có. Với nó, Âu Châu có thể được bảo vệ với chi phí tối thiểu. Không có nó, Âu Châu sẽ phải đối mặt với thảm họa.

Do đó, người Ukraine và Âu Châu phải hoàn toàn thực tế và đừng để hy vọng hão huyền rằng bằng cách nào đó Putin sẽ giữ lời hứa khiến họ mù quáng trước thực tế chiến lược. Nếu Ukraine hoặc Âu Châu đồng ý với bất kỳ điều khoản nào làm tăng quyền lực của Putin để đòi hỏi nhiều hơn, ông ta sẽ đòi hỏi nhiều hơn, và mỗi yêu cầu được đáp ứng sẽ càng khiến ông ta hùng mạnh hơn. Nếu họ tự làm mình bất lực, ông ta sẽ tàn sát họ.

Munich 1.0 không phải là một hiệp định hòa bình. Đó là một hiệp định cưỡng hiếp. Munich 2.0 cũng vậy.

Cách duy nhất để khiến Putin từ chức là buộc hắn ta phải từ chức, phải rút lui chứ không phải là ve vãn một tên sát nhân rằng hắn ta là một người bạn tuyệt vời của mình, một người rất tốt. NO. Hắn ta là một thằng khốn nạn, một tên sát nhân đã giết hàng triệu người, đã bắt cóc hàng chục ngàn đứa con nít.

[Kyiv Post: Munich 2.0: Trump Colludes With Putin’s War Plans]

3. Donald Tusk chỉ trích Budapest là nơi có thể diễn ra các cuộc đàm phán về Ukraine

Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk hôm thứ Tư đã chỉ trích ý tưởng chọn Budapest làm địa điểm tiềm năng cho các cuộc đàm phán hòa bình giữa Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và Putin.

“Budapest ư? Có thể không phải ai cũng nhớ, nhưng năm 1994, Ukraine đã nhận được sự bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ từ Mỹ, Nga và Anh. Chính là tại Budapest,” Tusk nói. “Ai trách tôi mê tín thì tôi đành chịu, nhưng lần này hãy cố gắng tìm một nơi khác.”

Tờ POLITICO hôm thứ Ba tiết lộ rằng Tòa Bạch Ốc đang xem xét một cuộc họp ba bên có sự tham gia của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại thủ đô Hung Gia Lợi, trích dẫn lời một quan chức chính quyền và một người thân cận với chính quyền.

Nhưng Hung Gia Lợi sẽ là một địa điểm khó khăn cho Ukraine. Bản ghi nhớ năm 1994, được ký kết tại đó bởi Hoa Kỳ, Anh, Ukraine và Nga, cam kết tôn trọng chủ quyền của Kyiv để đổi lấy việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Nhưng cuộc tấn công của Putin vào Ukraine năm 2014 và việc thiếu hỗ trợ quân sự từ các bên ký kết đã khiến những cam kết này về cơ bản trở nên vô nghĩa.

Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán, một đồng minh thân cận của Tổng thống Trump, người vẫn tiếp tục vun đắp mối quan hệ với Điện Cẩm Linh bất chấp cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine, vẫn chưa đưa ra bình luận công khai.

Vào ngày 25 tháng 2 năm 2022, một ngày sau khi Nga tấn công Ukraine, Ngoại trưởng Hung Gia Lợi Péter Szijjártó ngay lúc đó đã đề xuất Budapest là địa điểm an toàn “cho cả phía Ukraine và Nga”.

Các quan chức Nga đã giảm bớt kỳ vọng rằng một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Putin và Tổng thống Zelenskiy có thể xảy ra, và sự không chắc chắn đang làm lu mờ mọi lựa chọn địa điểm tiềm năng.

Trong một cuộc phỏng vấn được công bố hôm thứ Ba, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã đề xuất Geneva là một địa điểm khả thi, một ý tưởng nhanh chóng được Ngoại trưởng Ý Antonio Tajani ủng hộ. Ngoại trưởng Thụy Sĩ Ignazio Cassis khẳng định Thụy Sĩ “sẵn sàng cho một cuộc họp như vậy”, đồng thời cho biết Putin sẽ không bị bắt giữ bất chấp lệnh truy nã của Tòa án Hình sự Quốc tế về tội ác chiến tranh.

Trong cuộc điện đàm bất ngờ với Tổng thống Trump hôm thứ Hai, Putin đã đề xuất Mạc Tư Khoa là địa điểm tiềm năng cho một cuộc gặp riêng với Tổng thống Zelenskiy. Tuy nhiên, đề xuất này ngay lập tức bị Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Âu Châu bác bỏ, coi đây là một đề xuất thiếu nghiêm chỉnh.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Ukraine, Heorhii Tykhyi, cho biết các nỗ lực ám sát Tổng thống Zelenskiy đã diễn ra không dưới 10 lần. Ông cũng nhắc lại rằng gần 2 năm trước, chính xác là vào ngày 23 Tháng Tám, 2023, máy bay chở 10 người, trong đó có trùm Wagner Yevgeny Prigozhin đã bị một hỏa tiễn bắn hạ khi đang trên đường bay từ Mạc Tư Khoa đến thành phố St. Petersburg.

[Politico: Donald Tusk trashes Budapest as possible Ukraine talks venue]

4. Những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong các cuộc đàm phán hòa bình Ukraine-Nga? 5 câu hỏi cần đặt ra trước thềm cuộc gặp ba bên tiềm năng

Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia, gọi tắt là RUSI là tổ chức nghiên cứu quốc phòng và an ninh lâu đời nhất thế giới, được thành lập năm 1831 bởi Công tước Wellington, có trụ sở tại Whitehall, London, Vương quốc Anh

Sau cuộc hội đàm quan trọng tại Tòa Bạch Ốc giữa Tổng thống Trump và 8 nhà lãnh đạo các nước Âu Châu, Tiến Sĩ Jack Watling có bài thuyết trình nhan đề “What’s next for Ukraine-Russia peace talks? 5 questions to ask heading into a potential trilateral”, nghĩa là “Những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong các cuộc đàm phán hòa bình Ukraine-Nga? 5 câu hỏi cần đặt ra trước thềm cuộc gặp ba bên tiềm năng”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Đình Trinh.

Tổng thống Trump đã dành nhiều ngày qua cho một cuộc chạy nước rút ngoại giao, đặt nền móng cho cuộc gặp ba bên tiềm năng với nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy để thảo luận về các con đường chấm dứt cuộc chiến kéo dài nhiều năm.

Nhưng bất chấp các cuộc gặp liên tiếp với các phái đoàn từ cả hai nước, cùng với một nhóm các nhà lãnh đạo Âu Châu, vẫn còn sự khác biệt giữa những yêu cầu lâu nay của Putin và các điều kiện do Tổng thống Zelenskiy và các đồng minh Âu Châu của ông đưa ra.

Sau khi các cuộc đàm phán chính thức với Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Âu Châu kết thúc vào thứ Hai - và trong khi các nguyên thủ quốc gia vẫn đang tụ tập để ăn tối tại Tòa Bạch Ốc - Tổng thống Trump đã tuyên bố trên mạng xã hội rằng ông đang sắp xếp một cuộc gặp song phương giữa Tổng thống Zelenskiy và Putin, sau đó là một hội nghị ba bên mà Tổng thống Trump sẽ tham dự.

Các cuộc đàm phán ba bên có thể có nghĩa là khởi đầu cho các cuộc đàm phán nghiêm chỉnh nhằm chấm dứt cuộc chiến kéo dài nhiều năm, là điều mà Tổng thống Trump đã cam kết thực hiện kể từ khi nhậm chức vào tháng Giêng, ông vẫn còn nhiều bước phải thực hiện để tổ chức thành công một hội nghị như vậy — bắt đầu bằng việc đưa cả hai nhà lãnh đạo vào bàn đàm phán.

Dưới đây là năm câu hỏi chúng tôi đặt ra khi Tòa Bạch Ốc chuẩn bị cho một cuộc gặp ba bên có thể xảy ra:

Thứ nhất: Liệu Putin có thực sự đồng ý gặp Tổng thống Zelenskiy không?

Kế hoạch lớn của Tổng thống Trump về một cuộc gặp trực tiếp giữa hai nhà lãnh đạo đang đối đầu phụ thuộc vào việc Putin có sẵn lòng gặp trực tiếp người đồng cấp Ukraine hay không. Khả năng này rất khó có thể xảy ra.

Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov hôm thứ Ba phát biểu với truyền thông nhà nước Nga rằng bất kỳ cuộc họp nào cũng phải diễn ra “từng bước, dần dần, bắt đầu từ cấp chuyên gia và sau đó trải qua tất cả các giai đoạn cần thiết”. Đó chính là lập trường mà Điện Cẩm Linh đã sử dụng để trì hoãn trong những nỗ lực trước đây nhằm đưa hai nhà lãnh đạo vào cùng một phòng.

Nhưng Lavrov không loại trừ hoàn toàn khả năng gặp mặt, ông nói rằng Putin sẽ không nhất thiết từ chối tham dự hội nghị thượng đỉnh song phương hoặc ba bên.

Đây không phải lần đầu tiên Điện Cẩm Linh đưa ra khả năng tổ chức hội nghị thượng đỉnh Putin-Tổng thống Zelenskiy nhằm trì hoãn các cuộc đàm phán hòa bình nghiêm chỉnh trong khi Nga tiếp tục tấn công Ukraine. Mặc dù đã đề xuất gặp Tổng thống Zelenskiy vào tháng 5, Putin đã cử một phái đoàn thay vì đích thân tham dự hội nghị thượng đỉnh sau khi Tổng thống Zelenskiy yêu cầu ngừng bắn làm tiền đề cho các cuộc đàm phán.

Thứ hai: Sự phân chia các cam kết an ninh giữa Âu Châu và Hoa Kỳ như thế nào?

Theo Tổng Thư ký NATO Mark Rutte, “bước đột phá” quan trọng từ hội nghị thượng đỉnh hôm thứ Hai là việc Tổng thống Trump sẵn sàng cam kết bảo đảm an ninh cho Ukraine, là điều mà Putin đã bày tỏ sự cởi mở trong hội nghị thượng đỉnh Alaska hôm thứ Sáu. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ sự tham gia của Hoa Kỳ sẽ cụ thể như thế nào.

Trong cuộc gọi với chương trình “Fox and Friends” hôm thứ Ba, Tổng thống Trump cho biết trước hết các đồng minh Âu Châu sẽ “gánh vác” các cam kết an ninh, và ông thề rằng Mỹ sẽ không điều động bộ binh tại Ukraine. Thay vào đó, Tổng thống Trump nói rằng “một vài quốc gia”, cụ thể là Pháp, Đức và Vương quốc Anh, có thể sẽ cung cấp quân đội.

Nhưng Hoa Kỳ vẫn có thể đóng góp theo những cách khác — bao gồm cả hỗ trợ trên không, là điều mà Tổng thống Trump cũng đã đề cập với Fox News hôm thứ Ba. Một quan chức cao cấp nói với POLITICO tuần này rằng “Tôi không nghĩ có một ranh giới đỏ” nào cho vai trò tiềm năng của Hoa Kỳ trong các nỗ lực gìn giữ hòa bình lâu dài.

Thứ ba: Cuộc họp tiềm năng sẽ diễn ra ở đâu?

Tòa Bạch Ốc đang trong quá trình lựa chọn địa điểm cho cuộc gặp ba bên tiềm năng này — nếu nó thành hiện thực.

Danh sách các khả năng không dài. Do lệnh bắt giữ Putin của Tòa án Hình sự Quốc tế vì cáo buộc ông này có liên quan đến vụ bắt cóc trẻ em ở Ukraine trong chiến tranh, nhà lãnh đạo Nga bị hạn chế về số lượng quốc gia mà ông có thể đến thăm mà không phải đối mặt với nguy cơ bị bắt giữ.

Thụy Sĩ sẽ cấp cho Putin “quyền miễn trừ” nếu ông đến thăm nước này để đàm phán hòa bình, Ngoại trưởng Thụy Sĩ cho biết hôm thứ Ba. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đề xuất Geneva là một địa điểm tiềm năng để gặp mặt. Trong khi đó, Putin hô hào tổ chức cuộc hội đàm tại Mạc Tư Khoa. Đó là một ý tưởng khá khôi hài, thậm chí là tồi tệ, mà nhiều người cho rằng Putin đang muốn bỡn cợt với Tổng thống Trump hơn là nói chuyện nghiêm chỉnh. Ngay lập tức người ta nghĩ ngay đến trùm Wagner Yevgeny Prigozhin và vụ bắn hạ máy bay chở ông ta ngày 23 Tháng Tám, 2023 trên chiếc máy bay chở 10 người đang trên đường từ Mạc Tư Khoa đến thành phố St. Petersburg.

Một địa điểm khác đã xuất hiện trong danh sách ưu tiên của Tòa Bạch Ốc. Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ đang lên kế hoạch cho cuộc họp diễn ra tại Budapest, Hung Gia Lợi, POLITICO đưa tin vào hôm Thứ Tư, 20 Tháng Tám, mặc dù kế hoạch vẫn chưa được hoàn thiện.

Hội nghị thượng đỉnh Budapest sẽ đưa Thủ tướng Viktor Orbán, một đồng minh của Tổng thống Trump, lên làm chủ nhà cho cuộc họp quan trọng này. Nó cũng sẽ tạo ra một tiếng vang lịch sử có thể gây tổn thương cho Ukraine. Sau khi các đồng minh hứa sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước để đổi lấy việc Kyiv từ bỏ vũ khí hạt nhân theo Bản ghi nhớ Budapest năm 1994, cam kết của họ đã trở nên vô nghĩa khi các đối tác của Ukraine không cung cấp hỗ trợ quân sự trước cuộc tấn công của Nga năm 2014.

Thứ tư: Liệu Tổng thống Trump vẫn còn cân nhắc nhượng bộ về lãnh thổ không?

Có lẽ trở ngại lớn nhất trên con đường hình thành cuộc họp ba bên tiềm năng là yêu cầu nhượng bộ lãnh thổ từ Ukraine của Putin.

Tổng thống Trump đã tỏ ra cởi mở với cái mà ông gọi là “trao đổi đất đai” - điều này liên quan đến việc Nga từ bỏ một số lãnh thổ của Ukraine mà nước này đã xâm lược trong chiến tranh, nhưng vẫn giữ lại các vùng đất khác, bao gồm cả các phần của khu vực Donbas mà Nga hiện không nắm giữ.

Putin đã tuyên bố rõ ràng rằng ông sẽ không cân nhắc việc chấm dứt chiến tranh với Ukraine nếu không giành được thành công vùng Donbas. Nhưng Tổng thống Zelenskiy không có ý định đổi đất lấy một thỏa thuận hòa bình. Hôm Thứ Hai, 18 Tháng Tám, Tổng Tư Lệnh Ukraine, Đại Tướng Oleksandr Syrskyi, cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng Nga đã đánh Donbas từ năm 2014 cho đến nay; và xét về mặt quân sự Nga chỉ có thể chiếm được toàn bộ vùng Donbas sau khi mất thêm 2 triệu quân nữa. Có lẽ vì thế, họ mong muốn chiếm được nó bằng một giải pháp khác. Tuy nhiên, ông cảnh cáo rằng mất Donbas, Ukraine sẽ nhanh chóng chìm trong một cuộc chiến còn khốc liệt hơn cuộc chiến hiện nay và có nguy cơ sụp đổ vì gánh nặng chiến tranh. Khả năng Ukraine trao hoàn toàn Donbas cho Nga là điều không xảy ra.

Theo Thủ tướng Đức Friedrich Merz, người tham gia hội nghị thượng đỉnh tại Tòa Bạch Ốc hôm thứ Hai, vấn đề lãnh thổ không được đề cập trong các cuộc đàm phán trong ngày, về cơ bản là hoãn các cuộc thảo luận cho đến khi Tổng thống Zelenskiy và Putin gặp mặt trực tiếp.

Nhưng bất kỳ điều kiện nhượng bộ lãnh thổ nào hướng tới một thỏa thuận ba bên giả định có thể sẽ hủy bỏ sự bảo đảm về sự tham gia của Tổng thống Zelenskiy.

Thứ năm: Liệu Tổng thống Trump có thay đổi lòng trung thành một lần nữa không?

Chuyến thăm của Tổng thống Trump hôm thứ Hai với Tổng thống Zelenskiy và một nhóm lãnh đạo Âu Châu dường như đã đưa tổng thống Mỹ trở lại vị thế của Ukraine. Nhưng không có gì bảo đảm ông sẽ tiếp tục duy trì vị thế đó.

Tổng thống Trump đã dành phần lớn thời gian trong nhiệm kỳ của mình để ca ngợi Putin, công khai chỉ trích Tổng thống Zelenskiy, và dừng rồi lại khởi động lại các chuyến hàng vũ khí đến quốc gia bị chiến tranh tàn phá này — trước khi cuối cùng cảm thấy mệt mỏi vì nhà độc tài Nga không tham gia nghiêm chỉnh vào các cuộc đàm phán hòa bình và bày tỏ sự ngờ vực về ý định của hắn ta.

Nhưng tổng thống Hoa Kỳ lại một lần nữa bị Putin thuyết phục sau cuộc gặp hôm thứ Sáu - cuộc gặp mà ông đã trải thảm đỏ - lặp lại yêu cầu của Putin về việc chấm dứt đàm phán về thỏa thuận ngừng bắn để ủng hộ các cuộc đàm phán hòa bình dài hạn hơn, cũng như điều kiện lâu nay của Điện Cẩm Linh là Ukraine không bao giờ được gia nhập NATO.

Trong khi sự ủng hộ của Tổng thống Trump dành cho Ukraine dường như đã quay trở lại sau hội nghị thượng đỉnh hôm thứ Hai, Putin có thể kéo Tổng thống Trump trở lại quỹ đạo của Điện Cẩm Linh một lần nữa, có khả năng khiến Âu Châu và Ukraine lại phải rơi vào cảnh lạnh lẽo.

5. Nga muốn… Nga có quyền phủ quyết đối với các bảo đảm an ninh của phương Tây dành cho Ukraine

Một quan chức cao cấp của Điện Cẩm Linh cho biết hôm thứ Tư rằng Mạc Tư Khoa không thay đổi những gì mà họ coi là sự bảo đảm an ninh có thể chấp nhận được đối với Ukraine.

Những bình luận của Ngoại trưởng Mạc Tư Khoa Sergey Lavrov đã làm suy yếu hy vọng rằng sẽ có bất kỳ tiến triển nào hướng tới việc chấm dứt chiến tranh Ukraine kể từ khi Putin gặp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vào thứ sáu tại Alaska.

Những phát biểu của Lavrov còn chỉ ra rằng Điện Cẩm Linh vẫn chưa từ bỏ lập trường cực đoan của mình đối với Ukraine: rằng nước này sẽ trở thành một quốc gia trung lập; cắt giảm mạnh quân đội; và từ bỏ tham vọng gia nhập NATO sau khi Nga giải quyết xong vấn đề với Ukraine.

“Mạc Tư Khoa sẽ không đồng ý với các bảo đảm an ninh tập thể được đàm phán mà không có Nga… Nga sẽ chấp nhận nếu các bảo đảm an ninh cho Ukraine được cung cấp trên cơ sở bình đẳng với sự tham gia của các quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp”, ông Lavrov phát biểu trong một cuộc họp báo sau khi gặp Ngoại trưởng Jordan.

Việc Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa có tiếng nói trong cách thức bảo đảm an ninh cho Ukraine sẽ là điều không thể đối với các đồng minh phương Tây, khi họ cố gắng đưa ra một kế hoạch để bảo vệ Ukraine sau khi bất kỳ lệnh ngừng bắn hoặc thỏa thuận hòa bình nào có hiệu lực.

Một ví dụ nữa về sự ngoan cố của Điện Cẩm Linh trong việc thực hiện các bước nhằm chấm dứt cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu vào tháng 2 năm 2022, cuộc gặp được dự kiến giữa Putin và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy vẫn là một viễn cảnh xa vời, theo những bình luận mà Lavrov đưa ra vào đầu tuần này.

Hôm thứ Tư, ông Lavrov đã nhắc lại một đề xuất trong các cuộc đàm phán hòa bình tại Istanbul vào tháng 4 năm 2022, liên quan đến một liên minh các quốc gia bảo lãnh tương tự NATO, cung cấp các bảo đảm an ninh cho Ukraine. Ý tưởng này đã thất bại ở phía phương Tây vì Mạc Tư Khoa yêu cầu một điều khoản đồng ý phải được tất cả các quốc gia, bao gồm cả Nga, bật đèn xanh trước khi các bảo đảm này có thể được kích hoạt.

“Tôi tin tưởng rằng ở phương Tây – trước hết là ở Hoa Kỳ – họ hoàn toàn hiểu rằng việc thảo luận vấn đề an ninh mà không có Liên bang Nga là điều không tưởng, là con đường dẫn đến hư không”, ông Lavrov phát biểu tại một cuộc họp báo.

Nhà ngoại giao hàng đầu của Putin cũng chỉ trích nhà ngoại giao hàng đầu của Liên Hiệp Âu Châu là Kaja Kallas, một người thẳng thắn chỉ trích cuộc xâm lược của Nga, là người mà ông cho là có những phát biểu “làm suy yếu các phương pháp chính sách đối ngoại”.

Tổng thống Trump, người đã ca ngợi các cuộc gặp gần đây với Putin và sau đó là Tổng thống Zelenskiy cùng các nhà lãnh đạo Âu Châu là thành công, đã nói với Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo Âu Châu trong cuộc họp hôm thứ Hai rằng Ukraine sẽ có các biện pháp bảo vệ “giống như Điều 5” của NATO, nhưng không đưa ra bất kỳ thông tin cụ thể nào - trong khi sau đó cam kết rằng sẽ không có quân đội Mỹ nào có mặt trên bộ ở Ukraine.

Các nhà lãnh đạo Âu Châu cuối cùng không tin Putin thực sự chân thành về một thỏa thuận hòa bình - và những tuyên bố của Lavrov đã củng cố cho lý thuyết đó.

[Politico: Russia wants … Russia to have veto over Western security guarantees for Ukraine]

6. JD Vance đã nói với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy rằng hãy “cư xử đúng mực” trong cuộc họp tại Phòng Bầu dục

Phó Tổng thống JD Vance hào hứng nói với Laura Ingraham của Fox News rằng ông đã chào đón Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy bằng một “cuộc trò chuyện nhỏ” trong chuyến thăm Tòa Bạch Ốc tuần này.

Vance kể lại: “Tổng thống Zelenskiy bước vào Phòng Bầu dục, và tôi trò chuyện với ông ấy, với Tổng thống Trump và một số phái đoàn cao cấp của Ukraine. Tôi nói, thưa Tổng thống, miễn là ông cư xử đúng mực, tôi sẽ không nói gì cả. Và ông ấy chỉ cười khúc khích một chút, và đó là một cuộc trò chuyện thú vị.”

Trong cuộc họp tại Phòng Bầu dục vào tháng 2, Tổng thống Trump và Vance bất ngờ đối đầu với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, đỉnh điểm là một cuộc cãi vã công khai và thỏa thuận khoáng sản đã ký bị hủy bỏ sau khi Tổng thống Zelenskiy bị gọi là “thiếu tôn trọng” và bị áp giải ra khỏi Tòa Bạch Ốc.

Cuộc họp - ban đầu dự kiến là để chính thức hóa sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Ukraine - đã hoàn toàn sụp đổ, với bữa trưa và cuộc họp báo chung bị hủy bỏ giữa lúc có những hậu quả nghiêm trọng.

Trong một đoạn clip được Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương công bố, người ta thấy một linh mục hướng dẫn cộng đoàn của ngài đọc kinh Mân Côi cầu nguyện với ý chỉ cụ thể là xin cho JD Vance đừng tấn công Tổng thống của họ như hôm 28 Tháng Hai. Một người xem đưa ra lời bình luận rằng lời cầu nguyện của cộng đoàn đã được nhận lời. Tuy nhiên, cũng có người nhận xét chua chát rằng JD Vance đã hành xử như một thứ ông kẹ, chứ không phải một phó tổng thống khiến người Ukraine phải sợ hãi đến như thế.

[Newsweek: JD Vance Told Volodymyr Zelensky to 'Behave' During Oval Office Meeting]

7. Kim Chính Ân ra lệnh hạt nhân

Nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Chính Ân cho biết đất nước ông phải nhanh chóng mở rộng kho vũ khí hạt nhân khi ông cảnh báo rằng các cuộc tập trận quân sự thường niên của Mỹ và Nam Hàn bao gồm một “yếu tố hạt nhân” mà ông cho rằng có thể gây ra chiến tranh, truyền thông nhà nước Bắc Hàn đưa tin.

Bán đảo Triều Tiên về mặt kỹ thuật vẫn trong tình trạng chiến tranh kể từ năm 1953, được chia thành Bắc Hàn và Nam Hàn bởi Khu phi quân sự, khi giao tranh kết thúc.

Bắc Hàn đã tiến hành sáu vụ thử hạt nhân kể từ năm 2006. Nước này lên án các cuộc tập trận quân sự giữa lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh Nam Hàn là sự chuẩn bị cho một cuộc xâm lược.

Trong bình luận mới nhất, Kim cáo buộc Hoa Kỳ và Nam Hàn tăng cường các cuộc tập trận và thể hiện “ý đồ châm ngòi chiến tranh”.

Tờ báo chính thức Rodong Sinmun đưa tin, trích dẫn lại lời phát biểu của Kim, cho biết “môi trường an ninh” xung quanh Bắc Hàn đang “ngày càng nghiêm trọng hơn” và “yêu cầu chúng ta phải có sự thay đổi triệt để và nhanh chóng trong lý thuyết và thực tiễn quân sự hiện tại cũng như mở rộng nhanh chóng chương trình hạt nhân hóa”.

Tờ Rodong dẫn lời ông Kim cho biết các cuộc tập trận quân sự giữa Mỹ và Nam Hàn “luôn mang tính khiêu khích và nguy hiểm nhưng mức độ nghiêm trọng đang gia tăng do đặc điểm gần đây họ đang âm mưu liên kết quân sự với yếu tố hạt nhân liên quan”.

Ông cho biết: “Mối quan hệ quân sự ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn cùng với việc phô trương sức mạnh là biểu hiện rõ ràng nhất cho ý chí châm ngòi chiến tranh và là nguồn gốc phá hủy môi trường hòa bình và an ninh trong khu vực”, ám chỉ Nam Hàn bằng chữ cái đầu trong tên chính thức của nước này, Đại Hàn Dân Quốc.

Kim đang kiểm tra tàu chiến Thôi Hiền (최현,Choe Hyon), là tàu khu trục lớp 5.000 tấn lần đầu tiên được ra mắt vào tháng 4, trong chuyến thăm cảng Nampo phía tây vào thứ Hai, ngày 18 tháng 8.

Quân đội Nam Hàn và Hoa Kỳ đã khởi động cuộc tập trận mùa hè quy mô lớn thường niên nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa ngày càng gia tăng từ Bắc Hàn.

Cuộc tập trận Ulchi Freedom Shield kéo dài 11 ngày, được các đồng minh mô tả là cuộc tập trận phòng thủ, sẽ huy động 21.000 quân, bao gồm 18.000 quân Nam Hàn, tham gia các hoạt động chỉ huy mô phỏng trên máy tính và huấn luyện thực địa.

Tổng thống Trump đã có ba cuộc gặp với Kim Chính Ân trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, mặc dù không đạt được đột phá nào. Trong chiến dịch tranh cử năm ngoái, Tổng thống Trump đã nêu ra triển vọng khôi phục nỗ lực gây áp lực buộc Bắc Hàn từ bỏ chương trình hạt nhân và hỏa tiễn.

Trung Quốc, nước láng giềng và đồng minh của Bắc Hàn, cũng kêu gọi phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc không muốn thấy Bắc Hàn sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng cũng không muốn thấy vũ khí hạt nhân của Mỹ hiện diện trong khu vực.

Khi được hỏi về ý định xây dựng kho vũ khí hạt nhân của Kim, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết “Lập trường cơ bản của Trung Quốc về tình hình Bán đảo Triều Tiên không thay đổi”.

[Newsweek: North Korea's Kim Gives Nuclear Order]

8. Gần 1 triệu người dùng của mạng viễn thông Orange ở Bỉ bị tấn công mạng

Nhà mạng viễn thông Pháp Orange cho biết hôm thứ Tư rằng một cuộc tấn công mạng đã làm tổn hại dữ liệu cá nhân của khoảng 850.000 khách hàng Bỉ.

Trong email gửi đến các khách hàng bị ảnh hưởng — bao gồm một số nhân viên của POLITICO — Orange Belgium cho biết tin tặc đã truy cập được tên, số điện thoại, thông tin thẻ SIM, gói cước và mã Khóa Mở Khóa Cá Nhân, gọi tắt là PUK của người dùng. Công ty nhấn mạnh rằng không có mật khẩu, địa chỉ email hay thông tin tài chính nào bị đánh cắp.

Công ty cho biết trong một tuyên bố: “Orange Belgium đã thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền và đã nộp đơn khiếu nại chính thức lên cơ quan tư pháp”. Các cuộc điều tra ban đầu chỉ ra rằng cuộc tấn công mạng nghiêm trọng này do một nhóm điện tặc Nga có tên là Cozy Bear được nhà nước ủng hộ.

Tập đoàn Orange - phục vụ hơn 290 triệu khách hàng trên toàn cầu - đã cảnh báo rằng một số dịch vụ có thể bị ảnh hưởng bởi phản ứng của họ đối với sự việc này, mặc dù không tiết lộ bản chất chính xác của cuộc tấn công.

Cách giải quyết sự việc của Orange đã vấp phải sự chỉ trích gay gắt từ một số cộng đồng an ninh mạng của Bỉ.

Trong bài đăng trên LinkedIn, Inti De Ceukelaire, hacker trưởng tại nền tảng săn lỗi Intigriti của Bỉ, gọi phản ứng của công ty là “rất đáng thất vọng”, cáo buộc Orange sử dụng “chiêu trò quan hệ công chúng cũ rích” để bảo vệ thương hiệu thay vì bảo vệ khách hàng.

De Ceukelaire cảnh báo rằng trang thông tin chuyên dụng do Orange công bố đã hạ thấp những rủi ro thực sự - chẳng hạn như hoán đổi SIM và đánh cắp số điện thoại - trong khi chuyển gánh nặng sang người dùng, bảo họ phải cảnh giác với lừa đảo.

Ông nói thêm rằng công ty “sau đó đã hạ thấp các yêu cầu bồi thường tài chính và cho rằng thiệt hại cần phải được chứng minh”.

Một người dùng LinkedIn khác, Koen Gabriels, viết: “Chắc chắn, việc cung cấp cho mỗi khách hàng bị ảnh hưởng một thẻ SIM mới rất tốn kém và đòi hỏi khá nhiều công sức về mặt hậu cần, nhưng điều đó chứng minh với tôi rằng họ xứng đáng được lưu trữ dữ liệu của tôi”.

Vụ tấn công xảy ra khi các cơ quan quản lý và nhà khai thác viễn thông Âu Châu tăng cường giám sát các tiêu chuẩn an ninh mạng trong bối cảnh tình trạng rò rỉ dữ liệu quy mô lớn nhắm vào cơ sở hạ tầng quan trọng gia tăng.

Orange, một trong những nhà cung cấp dịch vụ di động lớn nhất ở cả Âu Châu và Phi Châu, đã thông báo riêng vào cuối tháng 7 rằng họ đã bị tấn công mạng ảnh hưởng đến một trong các hệ thống nội bộ.

Orange vẫn chưa trả lời yêu cầu bình luận của POLITICO cho đến thời điểm xuất bản.

[Politico: Almost 1M Belgian users hit by Orange cyberattack]
 
Tư Lệnh Syrskyi: Ukraine tung vũ khí mới dùng AI, Nga kiệt sức, thua liên tiếp, binh sĩ tuyệt vọng
Đặng Tự Do
16:43 21/08/2025


1. Cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa gây ra hỏa hoạn tại nhà máy lọc dầu ở tỉnh Rostov của Nga, truyền thông đưa tin

Một vụ hỏa hoạn đã bùng phát tại nhà máy lọc dầu Novoshakhtinsk ở tỉnh Rostov của Nga sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào đêm 21 tháng 8, kênh tin tức Astra của Nga đưa tin, trích dẫn các báo cáo địa phương và cảnh quay về vụ tấn công.

Thành phố Novoshakhtinsk nằm cách biên giới Nga-Ukraine khoảng 10 km và cách tiền tuyến hơn 200 km.

Người dân cho biết ít nhất năm vụ nổ đã được nghe thấy trên bầu trời thành phố Novoshakhtinsk trong cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa. Máy bay điều khiển từ xa đã tấn công nhà máy lọc dầu địa phương, gây ra một đám cháy lớn.

Đoạn phim ghi lại vụ tấn công nhà máy lọc dầu cho thấy khói và lửa bốc lên từ địa điểm tấn công.

Nhà máy lọc dầu Novoshakhtinsk được tường trình sản xuất tới 7,5 triệu tấn sản phẩm dầu mỗi năm và chuyên sản xuất nhiên liệu.

Kyiv đã từng nhắm vào cơ sở này trong các cuộc tấn công trước đó. Vào tháng 12 năm 2024, Hải quân Ukraine và Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU đã thực hiện một cuộc tấn công phối hợp vào nhà máy lọc dầu, gây ra một vụ hỏa hoạn quy mô lớn và thiệt hại đáng kể.

Bộ Tổng tham mưu Ukraine cho biết sau vụ tấn công rằng cơ sở Novoshakhtinsk là nhà máy lọc dầu duy nhất đang hoạt động tại Tỉnh Rostov của Nga.

Quân đội Ukraine trước đó tuyên bố rằng vụ tấn công vào nhà máy lọc dầu vào tháng 7 năm 2024 đã phá hủy 1,5 triệu tấn dầu và các sản phẩm dầu, trị giá 540 triệu đô la. Nhà máy lọc dầu cũng đã ngừng hoạt động một phần sau vụ tấn công vào tháng 3.

Ukraine thường xuyên tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa tầm xa vào các cơ sở công nghiệp và quân sự ở Nga. Các nhà máy lọc dầu, nơi cung cấp tài chính và nhiên liệu cho cỗ máy chiến tranh của Mạc Tư Khoa, thường xuyên là mục tiêu của các cuộc tấn công này.

Theo báo chí, ba nhà máy lọc dầu của Nga đã phải cắt giảm hoặc tạm dừng hoạt động trong tháng này do thiệt hại từ các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine. Bloomberg đưa tin một cơ sở của Rosneft ở tỉnh Saratov đã ngừng nhập dầu sau cuộc tấn công vào ngày 10 tháng 8.

Nhà máy lọc dầu Ryazan của Nga cũng đã giảm một nửa sản lượng trong khi nhà máy lọc dầu Novokuibyshevsk đã ngừng sản xuất hoàn toàn vào ngày 2 tháng 8, Reuters đưa tin.

[Kyiv Independent: Drone strike sparks blaze at oil refinery in Russia's Rostov Oblast, media reports]

2. ‘Tâm trạng chiến thắng’ của Nga chuyển sang tuyệt vọng’ – Tướng Syrsky nói về các trận chiến, máy bay điều khiển từ xa và hệ thống phòng thủ AI của Ukraine

Tổng Tư Lệnh Ukraine, Đại Tướng Oleksandr Syrskyi, cho biết, mặc dù quân đội Nga phải chịu thất bại ở khu vực Sumy, họ vẫn tiến được 10-12 km về phía một số thị trấn của Ukraine gần Dobropillya ở vùng Donetsk.

Trong một cuộc phỏng vấn với RBC-Ukraine, Tướng Syrsky tuyên bố:

“Ở vùng Sumy, đối phương có thể nói là đã phải chịu thất bại nặng nề.”

Ông tiết lộ rằng Nga đã tập trung một số đơn vị mạnh nhất của mình vào khu vực này - lính dù, Thủy Quân Lục Chiến và lực lượng súng trường cơ giới tinh nhuệ - nhưng “đối phương không đạt được thành công nào trong hai tháng qua”.

“Ngược lại, Nga đã mất một số thị trấn”, ông nói thêm.

Theo Tướng Syrsky, nỗ lực cuối cùng của Nga nhằm tiến vào khu vực Stepne và Novokostyantynivka “đã kết thúc trong thất bại hoàn toàn. Họ bị tiêu diệt, bị đẩy lùi qua biên giới.”

Ông cho biết Nga đã cố gắng lợi dụng địa hình hiểm trở và sự thiếu vắng một tuyến đầu liên tục gần Dobropillya. Nhưng khi quân tiếp viện Ukraine đến, Tướng Syrsky nói, “tâm trạng chiến thắng” của Nga nhanh chóng chuyển sang tuyệt vọng.

Ông thừa nhận rằng lực lượng Nga đã tiến 10-12 km về phía một số thị trấn ở khu vực Dobropillya, nhưng nhấn mạnh rằng địa lý của khu vực này thuận lợi cho việc di chuyển bí mật.

“ Địa hình ở đó đầy khe núi và sông ngòi – những đặc điểm tự nhiên cho phép di chuyển ẩn nấp. Vào mùa hè, thảm thực vật rậm rạp khiến việc kiểm soát giới tuyến trở nên khó khăn”.

Ông nói thêm rằng việc thiếu sự bảo vệ liên tục của quân đội tiền tuyến ở khu vực này đã mang lại cho Nga lợi thế ban đầu.

“Nhưng sau khi một số biện pháp quyết liệt được thực hiện, các đơn vị không quân bổ sung đã được điều động, chúng tôi đã giải phóng các thị trấn và khu vực, và tâm trạng chiến thắng của đối phương đã chuyển sang tuyệt vọng. Các bài đăng trên mạng xã hội của chúng ban đầu mang giọng điệu 'tiến lên, chiến thắng', và giờ là 'bị bao vây. Hết rồi'“, Tướng Syrsky nói.

Ông cho biết Ukraine không dựa vào phòng thủ thụ động.

“Chúng tôi tuân thủ nguyên tắc không bao giờ phòng thủ thụ động. Phòng thủ của chúng tôi là chủ động. Nếu xét số liệu thống kê các hoạt động chiến đấu trong thời gian gần đây, thì thực tế, một phần sáu đến một phần bảy tổng số hoạt động chiến đấu ở tiền tuyến là các hoạt động tấn công hoặc phản công của chúng tôi”, Tướng Syrsky nói.

Tướng Syrsky cũng lấy việc phòng thủ Pokrovsk làm ví dụ, nói rằng mặc dù lực lượng Nga dự kiến sẽ chiếm được thị trấn này vào mùa thu năm ngoái, quân đội Ukraine vẫn tiếp tục giữ vững vị trí của mình.

“Nếu tính toán thiệt hại của địch trong các trận chiến ở khu vực này, tôi nghĩ toàn bộ cánh đồng sẽ ngập tràn xác lính. Đây là cái giá phải trả cho mỗi mét vuông đất của chúng ta”, ông nói.

Theo ông, quân đội Ukraine sẽ tiếp tục tuân thủ chiến thuật phòng thủ tích cực, mặc dù chi tiết về các hành động trong tương lai không được tiết lộ.

Nga liên tục cải tiến máy bay điều khiển từ xa của mình, bao gồm cả máy bay Shahed do Iran sản xuất, hiện được trang bị hệ thống bảo vệ đánh chặn hiện đại và thậm chí cả cơ chế tự hủy.

Theo Tướng Syrsky, Shaheds hiện đã được trang bị hệ thống dẫn đường quang học, ăng-ten 12-16 kênh giúp chống nhiễu, cũng như cảm biến tránh va chạm và cháy.

Những tính năng này cho phép máy bay điều khiển từ xa của Nga thực hiện các động tác phòng thủ tự động, khiến chúng khó bị tiêu diệt hơn.

“Trên thực tế, tất cả các máy bay điều khiển từ xa tầm xa hiện đang được đối phương sử dụng – thậm chí cả Gerans, loại mà Nga sử dụng làm mồi nhử – đều được trang bị thuốc nổ để tự hủy”, nhà lãnh đạo quân đội cho biết.

“Để chiếc máy bay điều khiển từ xa này không thể bị bắt sau khi rơi và tiêu diệt tất cả những kẻ tiếp cận. Bạn phải rất cẩn thận: khi một chiếc máy bay điều khiển từ xa như vậy rơi xuống, nó có thể phát nổ”, Tướng Syrsky nói.

Ông cho biết thêm rằng lực lượng Ukraine đang tích cực tăng cường số lượng hệ thống phòng không công nghệ cao và hiện đại hóa các nhóm hỏa lực cơ động, trang bị cho chúng hệ thống ngắm bằng trí tuệ nhân tạo.

Tướng Syrsky cho biết lực lượng hàng không quân sự đã cho thấy hiệu quả đáng kể trong việc chống lại máy bay điều khiển từ xa:

“ Trực thăng trang bị súng máy cho thấy hiệu quả rất cao. Tôi có thể nói rằng từ tháng 8 năm ngoái đến tháng 8 năm nay, chúng đã bắn hạ hơn 3.200 máy bay điều khiển từ xa Shahed – đây là những con số ấn tượng.”

Lực lượng Ukraine cũng tích cực sử dụng máy bay hạng nhẹ và hệ thống hỏa tiễn phòng không.

Vị tướng này cho biết thêm rằng máy bay điều khiển từ xa đánh chặn là một lĩnh vực phát triển đầy hứa hẹn.

Tướng Syrsky cho biết: “Chúng tôi có nhiều dự án phát triển có thể dễ dàng cạnh tranh với các công ty nổi tiếng như Merops”, đồng thời lưu ý rằng các kế hoạch tăng cường sử dụng các hệ thống như vậy vẫn đang được điều động.

Tướng Syrsky nói với RBC Ukraine rằng tại Bakhmut năm 2023, tỷ lệ tổn thất ít nhất là 1:7, nghĩa là Nga chịu tổn thất gấp 7 lẩn quân Ukraine. Ông nói thêm rằng tình hình cũng tương tự trong chiến dịch Kursk, nơi lực lượng Nga cũng chịu tổn thất lớn hơn gấp nhiều lần.

Theo Tướng Syrsky, việc phòng thủ Bakhmut kéo dài có tầm quan trọng chiến lược. Các trận chiến giành thị trấn kéo dài tám tháng, và lực lượng chính của Nga tham gia là lính đánh thuê của Tập đoàn Wagner.

Tướng Syrsky cho biết: “Khi các trận chiến ở Bakhmut kết thúc, chính Prigozhin (cựu lãnh đạo của PMC Wagner) đã thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng ông đã mất 20.000 chiến binh giỏi nhất của mình tại thị trấn này”.

Theo ước tính của Bộ Tổng tham mưu Ukraine, con số này gần 23.000 quân.

“Và vì tổn thất của họ là 50-50 – cả chết lẫn bị thương – nên cộng thêm số người bị thương, tổng số thương vong lên tới khoảng 40.000. Trong khi tổng quân số của nhóm Wagner lên tới 50.000. Nghĩa là, Wagner với tư cách là một cấu trúc không còn được phục hồi nữa”, Tướng Syrsky nói.

“Và dựa trên mức độ tổn thất mà Wagner phải chịu – và tôi không tính đến các đơn vị Nga khác cũng tham gia vào các trận chiến ở đó – thì theo nhiều ước tính khác nhau, tỷ lệ giữa tổn thất của chúng tôi và của đối phương là 1 trên 7 – 1 trên 7,7. Nghĩa là, chúng tôi mất ít hơn đối phương bảy lần”, Tướng Syrsky nói thêm.

Ông nói rằng đây là chỉ dấu rõ ràng nhất cho toàn bộ cuộc chiến tranh tổng lực. “Vì vậy, nếu nói về vai trò của Bakhmut, nó thực sự đã cứu được một khu vực đáng kể trên mặt trận và một số lượng lớn lãnh thổ.”

Tình hình tương tự cũng diễn ra trong chiến dịch Kursk. Theo các nguồn tin của Nga, tổn thất của lực lượng Nga tại đây cao hơn tổn thất của Ukraine tới 5,5 lần.

“Tức là, trong cuộc tấn công, chúng tôi chịu tổn thất ít hơn địch năm lần. Đây cũng là chỉ số tốt nhất trong một cuộc chiến tranh toàn diện. Có lẽ đây là một đặc điểm của cuộc chiến, mặc dù thực tế nó chỉ là một chiến dịch được tính toán kỹ lưỡng”, Tướng Syrsky nói thêm.

Tướng Syrsky cho biết, vào năm 2025, Ukraine có kế hoạch chuyển giao 15.000 nền tảng robot mặt đất cho nhiều mục đích khác nhau cho quân đội, đồng thời cho biết thêm rằng nước này đang tích cực phát triển máy bay điều khiển từ xa và hệ thống robot để giảm thiểu rủi ro cho binh lính trên chiến trường.

“Chúng tôi đang đặt cược vào vũ khí công nghệ cao, các hệ thống công nghệ cao sẽ giúp chúng tôi giảm thiểu sự hiện diện trực tiếp của quân nhân trên chiến trường. Điều này chủ yếu liên quan đến các nền tảng robot, hệ thống điều khiển từ xa các loại và mục đích khác nhau – chủ yếu là máy bay điều khiển từ xa. Nhưng chúng tôi cũng đang tích cực phát triển các hệ thống mặt đất – hậu cần, y tế để di tản người bị thương”, ông nói.

Tướng Syrsky cho biết thêm rằng các phương tiện điều khiển từ xa để di tản người bị thương hiện đang được thử nghiệm. Ông xác nhận rằng quân đội Ukraine đang tích cực sử dụng các tổ hợp robot trong các hoạt động chiến đấu.

“Năm nay, chúng tôi dự định sẽ nhận được 15.000 nền tảng robot mặt đất cho nhiều mục đích khác nhau”, ông cho biết.

Theo ông, chúng bao gồm cả hệ thống tấn công bằng súng máy hoặc các loại vũ khí khác, cũng như các nền tảng phụ trợ cho hậu cần hoặc di tản y tế.

Hiện nay, hầu như tất cả vũ khí công nghệ của AFU đều được trang bị các yếu tố AI, bao gồm cả hệ thống phòng không.

Tướng Syrsky tiết lộ rằng các cơ cấu chuyên dụng đã được thành lập tại Bộ Tổng tham mưu và các trụ sở khác để giám sát việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự.

Tướng Syrsky cho biết: “Ngay cả các hệ thống phòng không thông thường – súng máy hoặc pháo – cũng có hệ thống hiện đại để ngắm, bắt giữ, theo dõi tự động, phân loại và nhận dạng mục tiêu, cho phép chúng tăng hiệu quả lên nhiều lần”.

Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng AI không phải là hoàn hảo:

“Cần phải lưu ý rằng AI có thể bị nhầm lẫn, vì hiện tại mới chỉ là bước khởi đầu cho quá trình phát triển và sử dụng AI.”

[Kyiv Post: ‘Russia’s ‘Victorious Mood’ Turned to Despair’ – Syrsky on Battles, Drones, Ukraine’s AI-Driven Defense]

3. Tổng thống Trump cho rằng Crimea bị tạm chiếm có ‘kích thước của Texas’, nói rằng nó ‘nằm giữa đại dương’

Trong khi Kyiv chuẩn bị cho các cuộc đàm phán hòa bình bao gồm các cuộc đàm phán về tình trạng của các vùng lãnh thổ bị Nga tạm chiếm của Ukraine, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vào ngày 20 tháng 8 đã cho rằng Crimea có “có kích thước bằng Texas” và nằm “giữa đại dương”.

Nga đã xâm lược Crimea bất hợp pháp kể từ năm 2014. Có thông tin cho rằng Mạc Tư Khoa có thể đang tìm cách công nhận bán đảo bị sáp nhập này là của Nga như một phần của giải pháp hòa bình trong tương lai nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.

Tổng thống Trump đã nhắc đến việc Nga xâm lược Crimea năm 2014 trong một cuộc trò chuyện trên Mark Levin Show, một chương trình phát thanh cánh hữu. Ông chỉ ra rằng việc sáp nhập diễn ra khi cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama còn tại vị, ám chỉ rằng truyền thông đã chỉ trích cách giải quyết vấn đề Nga của ông một cách bất công trong khi lại bỏ qua cho Obama.

“Tôi không trao Crimea cho họ,” Tổng thống Trump nói.

“ Crimea rộng lớn — tôi nghĩ là cỡ Texas hay gì đó — nằm giữa đại dương. Và nó thật tuyệt đẹp. Họ đã từ bỏ nó vì Obama và báo chí thậm chí chẳng thèm nhắc đến điều đó.”

Thực ra, Crimea nhỏ hơn Texas khoảng 26 lần và không nằm “giữa đại dương” - đây là một bán đảo ở Hắc Hải, giáp với Biển Azov.

Tiểu bang Texas của Hoa Kỳ lớn hơn toàn bộ đất nước Ukraine khoảng 10%.

Tổng thống Trump thường né tránh những lời chỉ trích về chiến lược chính sách đối ngoại của mình đối với Nga bằng cách đổ lỗi cho những người tiền nhiệm thuộc Đảng Dân chủ về cuộc chiến thay vì giải quyết bản chất của những lời chỉ trích hoặc nêu rõ quan điểm về những diễn biến hiện tại. Hội nghị thượng đỉnh Alaska của ông với Putin đã vấp phải sự chỉ trích rộng rãi, khi Tổng thống Trump dành cho Putin sự chào đón nồng nhiệt như trải thảm đỏ và nhanh chóng từ bỏ yêu cầu ngừng bắn.

Trong cuộc họp báo chung sau cuộc họp kín, Putin nói với các phóng viên rằng cựu Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden phải chịu trách nhiệm về cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022.

Tổng thống Trump, người nhắc lại tuyên bố đó trong hầu hết các bài phát biểu công khai của mình về cuộc chiến ở Ukraine, cho biết ông “rất vui” khi nghe Putin nói điều đó.

Mặc dù cách diễn đạt của Tổng thống Trump không phải là mới, nhưng những sai lầm về mặt địa lý của ông liên quan đến Ukraine có thể gây thêm lo ngại khi Kyiv chuẩn bị cho các cuộc đàm phán hòa bình quan trọng có thể bao gồm áp lực phải ký kết nhượng bộ lãnh thổ như một phần của thỏa thuận.

Các công tác chuẩn bị đang được tiến hành để Tổng thống Volodymyr Zelenskiy có thể gặp trực tiếp Putin trong hai tuần tới. Ngày 18 tháng 8, Tổng thống Zelenskiy cho biết ông sẵn sàng thảo luận trực tiếp các vấn đề lãnh thổ với Putin như một phần của các cuộc đàm phán hòa bình.

Nga yêu cầu quân đội Ukraine rút toàn bộ khỏi các tỉnh Donetsk và Luhansk, công nhận hợp pháp các vùng lãnh thổ hiện đang bị tạm chiếm — bao gồm cả Crimea — là của Nga, cấp quy chế đặc biệt cho nhà thờ do Nga hậu thuẫn và tiếng Nga tại Ukraine, phi quân sự hóa Kyiv và cấm Ukraine gia nhập NATO.

Những bình luận của Tổng thống Trump về Crimea gợi nhớ đến phát biểu của Đặc phái viên Steve Witkoff hồi tháng 3. Witkoff đã gây phẫn nộ ở Ukraine khi ông không thể nêu chính xác “cái gọi là bốn khu vực” bị Nga tạm chiếm ngay cả khi ông đề xuất trao trả chúng cho Mạc Tư Khoa.

[Kyiv Independent: Trump calls occupied Crimea 'size of Texas,' says it's 'in the middle of the ocean']

4. Một trường hơp bi thảm tại Quốc hội Phần Lan được công bố

Eemeli Peltonen được nêu tên là nhà lập pháp tự tử ngay trong một cuộc họp của quốc hội Phần Lan. Đây là vụ tự tử đầu tiên trong lịch sử khi một thành viên Quốc Hội lại tự tử khi đang tham dự một cuộc họp.

Peltonen, 30 tuổi, là thành viên quốc hội của Đảng Dân chủ Xã hội Phần Lan, gọi tắt là SDP và đang phục vụ nhiệm kỳ đầu tiên, đại diện cho khu vực bầu cử Uusimaa.

“Cái chết của Eemeli Peltonen khiến tôi và tất cả chúng tôi vô cùng bàng hoàng”, chủ tịch nhóm Dân biểu SDP Tytti Tuppurainen phát biểu trong một tuyên bố bằng tiếng Phần Lan.

“Anh ta là một thành viên rất được yêu mến trong cộng đồng chúng tôi, và chúng tôi sẽ rất nhớ anh ta. Một cuộc đời trẻ trung đã kết thúc quá sớm. Chúng tôi chia sẻ nỗi đau buồn với những người thân yêu của anh ta và cầu chúc họ mạnh mẽ vượt qua nỗi đau này.”

Trong bài đăng cuối cùng trên tài khoản Instagram của Peltonen, ông đã nói về việc phải điều trị bệnh thận và sau đó bị nhiễm trùng thứ cấp, khiến ông phải nghỉ phép vì lý do sức khỏe, không còn giữ chức vụ Dân biểu nữa.

Peltonen được bầu vào quốc hội trong cuộc bầu cử năm 2023 với 5.747 phiếu bầu và phục vụ trong các ủy ban hành chính và pháp lý của quốc hội, Ilta-Sanomat đưa tin.

Ông cũng là thành viên của Hội đồng thành phố Järvenpää và Chủ tịch Hội đồng thành phố - người trẻ nhất trong lịch sử - được bầu vào cơ quan này khi mới 18 tuổi.

Antti Kaikkonen, một Dân biểu Phần Lan và là chủ tịch Đảng Trung tâm, trước đây từng là bộ trưởng quốc phòng, đã bày tỏ lòng kính trọng đối với Peltonen trong một bài đăng trên X, gọi ông là “một Dân biểu trẻ tài năng của Quốc hội”.

“Tôi cũng biết anh ta là một người ấm áp và giàu lòng trắc ẩn. Tin tức về sự ra đi của Eemeli thật sự gây sốc và vô cùng đau buồn”, Kaikkonen nói, ban đầu bằng tiếng Phần Lan.

“ Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình và những người thân yêu của Eemeli. Chúc họ mạnh mẽ vượt qua nỗi đau buồn to lớn này.”

Tờ báo Iltalehti của Phần Lan là tờ đầu tiên đưa tin một nhà lập pháp đã tự tử trong tòa nhà quốc hội vào thứ ba, ngày 19 tháng 8.

Aaro Toivonen, giám đốc an ninh tại Quốc hội Phần Lan, xác nhận với tờ báo rằng đã có người tử vong trong tòa nhà, nhưng không cung cấp thêm thông tin.

Một tờ báo Phần Lan khác, Ilta-Sanomat, cũng đưa tin tương tự. Khi được đài truyền hình công cộng Yle của Phần Lan hỏi về vấn đề này, Toivonen đã không phản bác thông tin do Iltalehti đưa tin.

“Quốc hội sẽ không bình luận thêm về vụ việc trong khi cuộc điều tra của cảnh sát vẫn đang diễn ra”, một tuyên bố từ quốc hội xác nhận cái chết cho biết, đồng thời nói thêm rằng cộng đồng của họ “chia sẻ nỗi đau buồn với người thân”.

Thủ tướng Phần Lan Petteri Orpo bày tỏ sự bàng hoàng và đau buồn trước cái chết của một đồng nghiệp tại quốc hội, Ilta-Sanomat đưa tin.

Quốc hội Phần Lan, được gọi là eduskunta, có 200 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Hiện tại, quốc hội đang trong kỳ nghỉ hè cho đến tháng Chín.

[Newsweek: MP Who Died by Suicide in Finland's Parliament Is Named]

5. Tổng thống Trump: Netanyahu là anh hùng chiến tranh — và ‘Tôi cũng vậy’

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tự gọi mình là “anh hùng chiến tranh” vì đã phê duyệt các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân của Iran.

Tổng thống Trump nói rằng Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu là “một anh hùng chiến tranh vì chúng tôi đã cùng nhau làm việc”.

“Ông ấy là anh hùng chiến tranh. Tôi đoán tôi cũng vậy”, Tổng thống Trump nói. “Chẳng ai quan tâm. Nhưng tôi cũng vậy. Ý tôi là, tôi đã điều những chiếc máy bay đó.” Tổng thống dường như đang ám chỉ đến một cuộc tấn công mà ông đã ra lệnh vào các cơ sở hạt nhân ngầm của Iran hồi tháng 6 nhằm xóa sổ chương trình hạt nhân của Tehran.

Netanyahu đã là đối tượng của lệnh bắt giữ của Tòa án Hình sự Quốc tế kể từ tháng 11 năm ngoái vì cáo buộc phạm tội ác chiến tranh ở Gaza. Hơn 60.000 người Palestine đã thiệt mạng tại vùng đất ven biển bị bao vây này trong cuộc tấn công của quân đội Israel, bắt đầu sau cuộc tấn công của Hamas vào Israel ngày 7 tháng 10 năm 2023 khiến khoảng 1.200 người thiệt mạng.

Tổng thống Trump chưa từng tham gia một cuộc chiến tranh thực sự nào, cũng chưa từng phục vụ trong quân đội. Ông đã được hoãn nghĩa vụ quân sự năm lần trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả một lần miễn trừ y tế sau khi được chẩn đoán mắc bệnh gai xương gót chân khi mới 22 tuổi.

Năm 2015, Tổng thống Trump đã gây chú ý khi ông lập luận rằng Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa bang Arizona John McCain, người đã trải qua hơn năm năm làm tù binh chiến tranh ở Bắc Việt Nam, “không phải là anh hùng chiến tranh” vì “Tôi thích những người không bị bắt”.

Và vào năm 2020, tờ The Atlantic đưa tin rằng Tổng thống Trump đã có lời lẽ riêng tư coi thường những quân nhân đã khuất, gọi họ là “kẻ thua cuộc” và “kẻ ngốc”, là những cáo buộc mà ông kiên quyết phủ nhận.

[Politico: Trump: Netanyahu’s a war hero — and ‘I am too’]

6. Meloni của Ý ủng hộ kế hoạch an ninh của Ukraine, theo đó cho phép các đồng minh có 24 giờ để gửi quân nếu Nga xâm lược lần nữa, Bloomberg đưa tin

Thủ tướng Ý Giorgia Meloni đã đề xuất một bảo đảm an ninh sau chiến tranh, theo đó các đồng minh của Ukraine phải quyết định trong vòng 24 giờ sau cuộc tấn công mới của Nga về việc có nên điều động quân đội hay không, Bloomberg đưa tin vào ngày 20 tháng 8, trích dẫn các nguồn tin thân cận với các cuộc thảo luận.

Các nhà lãnh đạo Âu Châu và các đồng minh khác của Ukraine đã đẩy nhanh các cuộc đàm phán về bảo đảm an ninh cho Kyiv sau Hội nghị thượng đỉnh Alaska giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Putin. Các nhà lãnh đạo quân sự NATO đã họp trực tuyến vào ngày 20 tháng 8 để thảo luận về hỗ trợ an ninh.

Meloni đang ủng hộ một kế hoạch tương tự như điều khoản phòng thủ tập thể Điều 5 của NATO, các nguồn tin cho biết với Bloomberg. Đề xuất này không bao gồm tư cách thành viên NATO của Ukraine.

Nguyên tắc phòng thủ tập thể của Liên minh được ghi nhận trong Điều 5, quy định các quốc gia thành viên phải hỗ trợ quân sự cho bất kỳ quốc gia thành viên nào khác trong trường hợp bị tấn công. Meloni lần đầu tiên nêu ý tưởng mở rộng phạm vi bảo vệ của Điều 5 cho Kyiv — mà không cần lời mời của NATO — vào tháng 3 năm 2025.

Meloni cũng là một trong 7 nhà lãnh đạo Âu Châu tham gia cùng Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 18 tháng 8 để gặp Tổng thống Trump và thảo luận về các bảo đảm an ninh cho Ukraine sau chiến tranh.

Đề xuất của Meloni hiện nằm trong số những đề xuất đang được các nhà lãnh đạo Âu Châu cân nhắc khi Tổng thống Vladimir Tổng thống Zelenskiy chuẩn bị cho các cuộc đàm phán trực tiếp với Putin. Kế hoạch này sẽ yêu cầu các quốc gia đã ký kết thỏa thuận an ninh với Ukraine phải cân nhắc và phản ứng nhanh chóng trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công khác của Nga sau thỏa thuận hòa bình.

Những người am hiểu các cuộc thảo luận cho biết các phương án ứng phó sẽ bao gồm hỗ trợ quốc phòng, viện trợ kinh tế và trừng phạt Nga. Hiện chưa rõ liệu kế hoạch này có liên quan đến việc các nước Âu Châu riêng lẻ gửi quân đến Ukraine hay không.

Trước đó, Bloomberg đưa tin rằng khoảng 10 nước Âu Châu sẵn sàng điều quân tới Ukraine tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình nhằm ngăn chặn Nga tiến hành một cuộc tấn công mới vi phạm thỏa thuận hòa bình.

Điện Cẩm Linh đã bác bỏ những đề xuất an ninh này, khi Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov phát biểu vào ngày 20 tháng 8 rằng Nga nên là một trong những quốc gia cung cấp bảo đảm an ninh cho Ukraine.

Ông nói: “Thảo luận nghiêm chỉnh về các vấn đề an ninh mà không có Nga sẽ chẳng đi đến đâu cả”.

[Politico: Italy's Meloni backs Ukraine security plan that gives allies 24 hours to send troops if Russia invades again, Bloomberg reports]

7. Nhật Bản, Thụy Điển tuyên bố sẵn sàng đóng góp bảo đảm an ninh cho Ukraine

Nhật Bản, Thụy Điển và các nước khác đã ra tín hiệu vào ngày 19 tháng 8 rằng họ sẵn sàng đóng góp vào gói bảo đảm an ninh đa quốc gia cho Ukraine, tham gia vào liên minh gồm hơn 30 quốc gia đang nỗ lực ngăn chặn Nga tiến hành cuộc xâm lược trong tương lai theo bất kỳ thỏa thuận ngừng bắn tiềm năng nào.

Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba cho biết Tokyo đang cân nhắc vai trò của mình trong “liên minh tự nguyện”, một nhóm bao gồm một số quốc gia NATO và các đồng minh chủ chốt của Ukraine.

Liên minh do Thủ tướng Anh Keir Starmer và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đứng đầu có mục tiêu thành lập một lực lượng đa quốc gia để giám sát thỏa thuận hòa bình trong tương lai tại Ukraine.

“ Chúng tôi sẽ theo dõi sát sao các cuộc thảo luận đang diễn ra và trong khi cân nhắc cẩn thận những gì Nhật Bản có thể và nên làm - bao gồm nhiều khía cạnh pháp lý và năng lực - chúng tôi sẽ đóng một vai trò phù hợp”.

Tại Stockholm, Thủ tướng Thụy Điển Ulf Kristersson cũng nhấn mạnh rằng đất nước ông sẵn sàng đóng góp vào việc bảo đảm an ninh. Phát biểu với đài phát thanh công cộng Sveriges Radio, ông Kristersson cho rằng tình hình hiện nay “rất nghiêm trọng”, đồng thời cho biết Thụy Điển có thể đóng góp nguồn lực giám sát trên không và hải quân để tăng cường khả năng phòng thủ của Ukraine.

Tổng thống Lithuania Gitanas Nauseda cũng cho biết nước ông đã sẵn sàng điều động quân đội trên bộ tại Ukraine như một phần của lực lượng răn đe.

Ông phát biểu trong một chương trình truyền hình rằng: “Chúng tôi sẵn sàng đóng góp quân số tùy theo mức độ mà quốc hội cho phép để gìn giữ hòa bình, cũng như cung cấp thiết bị quân sự”.

Tuy nhiên, Ba Lan tuyên bố sẽ không gửi quân như một sự bảo đảm an ninh trong tương lai cho Kyiv. Thay vào đó, quân đội Ba Lan sẽ đóng vai trò trong “liên minh tự nguyện” bằng cách hỗ trợ hậu cần và cơ sở hạ tầng, giám sát biên giới Ba Lan-Belarus và bảo vệ sườn phía đông của NATO.

Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan Wladyslaw Kosiniak-Kamysz cho biết: “Trong quá trình này, hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn binh lính Ba Lan sẽ được điều động trên lãnh thổ Ba Lan để bảo vệ quân đồng minh đóng quân tại Ba Lan hoặc bảo vệ quân đồng minh đóng quân tại Ukraine”.

Các nhà lãnh đạo Âu Châu đã đẩy nhanh các cuộc đàm phán về bảo đảm an ninh cho Ukraine trong những tuần gần đây, đáp lại yêu cầu của Tổng thống Zelenskiy về sự bảo đảm ràng buộc rằng Nga sẽ không tấn công nữa nếu lệnh ngừng bắn được đạt được.

Ngày 18 tháng 8, Macron cho biết các bảo đảm sẽ không bao gồm tư cách thành viên NATO mà sẽ dựa vào quân đội Ukraine mạnh mẽ được hỗ trợ bởi các cam kết của đồng minh.

Các quan chức nói với tờ Kyiv Independent vào ngày 19 tháng 8 rằng các quốc gia tham gia có thể tổ chức một loạt cuộc họp trong những ngày tới để hoàn thiện các chi tiết.

Bloomberg đưa tin cùng ngày rằng một gói thỏa thuận có thể được thống nhất trong tuần này, với các cuộc thảo luận được tường trình bao gồm khả năng điều động quân đội Anh và Pháp, cùng với các nhóm nhỏ hơn từ các quốc gia Âu Châu khác.

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đề xuất Hoa Kỳ có thể cung cấp hỗ trợ trên không như một phần của các cam kết, nhưng loại trừ khả năng cử lực lượng mặt đất của Hoa Kỳ.

[Kyiv Independent: Japan, Sweden say they're ready to contribute to security guarantees for Ukraine]

8. Iran tổ chức tập trận hỏa tiễn khi căng thẳng chiến tranh gia tăng

Iran dự kiến sẽ bắt đầu cuộc tập trận hỏa tiễn kéo dài hai ngày vào thứ năm tại phía bắc Ấn Độ Dương và Biển Oman, thể hiện sức mạnh quân sự sau cuộc chiến kéo dài 12 ngày với Israel và Hoa Kỳ vào tháng 6.

Cuộc tập trận sẽ bao gồm các vụ phóng hỏa tiễn và hoạt động tác chiến điện tử và máy bay điều khiển từ xa, nhấn mạnh quyết tâm của Tehran trong việc chứng minh sự sẵn sàng cho bất kỳ giai đoạn đối đầu mới nào.

Newsweek đã liên hệ với Bộ Ngoại giao cũng như các bộ ngoại giao của Iran và Israel để xin bình luận.

Cuộc tập trận diễn ra vào thời điểm nhạy cảm. Israel và Iran gần đây đã tạm dừng một cuộc xung đột trực tiếp gây ra thương vong và tàn phá đáng kể cho cả hai bên. Hoa Kỳ, nước đã can thiệp bằng các cuộc không kích của riêng mình, kể từ đó đã tiếp tục gây áp lực lên Iran đồng thời cam kết hỗ trợ Israel.

Mặc dù giao tranh công khai đã dừng lại, lệnh ngừng bắn mong manh này cũng chẳng giúp xoa dịu tình hình thù địch. Các cuộc tập trận quân sự, chẳng hạn như cuộc tập trận dự kiến bắt đầu vào thứ Năm, vừa là lời cảnh báo cho các đối thủ, vừa là tín hiệu cho thấy Iran đã sẵn sàng cho một cuộc leo thang mới.

Theo truyền thông nhà nước, Hải quân Iran sẽ tổ chức cuộc tập trận với sự tham gia của các tàu mặt nước và tàu ngầm, các đơn vị không quân, các bệ phóng hỏa tiễn ven biển và trên biển, cùng các sư đoàn tác chiến điện tử. Chuẩn Đô đốc Abbas Hassani, phát ngôn nhân chính thức của Hải quân Iran, cho biết cuộc tập trận sẽ thử nghiệm “một loạt hỏa tiễn hành trình tấn công chính xác” có khả năng tấn công các mục tiêu trên mặt nước ở tầm ngắn, trung bình và xa. Ông nói thêm rằng cuộc tập trận được thiết kế để nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, cải thiện hệ thống chỉ huy và tăng cường khả năng răn đe.

Cuộc xung đột bắt đầu vào ngày 13 tháng 6 khi Iran phóng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa tấn công vào các địa điểm ở Israel, trong khi Israel tiến hành không kích vào các cơ sở quân sự và cơ sở hạ tầng của Iran.

Hoa Kỳ tham gia cuộc xung đột vào ngày 22 tháng 6, tấn công các địa điểm hạt nhân ở Natanz, Fordow và Isfahan; Iran đáp trả bằng cách tấn công Căn cứ Không quân Al-Udeid của Hoa Kỳ tại Qatar trước khi Tổng thống Trump tuyên bố ngừng bắn vào ngày 24 tháng 6.

Kể từ sau chiến tranh, các quan chức Iran đã đưa ra cảnh báo về các cuộc xung đột trong tương lai, nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường năng lực hỏa tiễn, máy bay điều khiển từ xa và tác chiến điện tử. Israel vẫn trong tình trạng báo động cao, và Hoa Kỳ tiếp tục duy trì sự hiện diện quân sự trong khu vực để theo dõi các động thái của Iran và ngăn chặn leo thang. Tuyên bố từ tất cả các bên cho thấy, mặc dù giao tranh trực tiếp đã tạm dừng, nhưng căng thẳng vẫn gần đến ngưỡng nguy hiểm.

[Newsweek: Iran Holds Missile Drill as War Tensions Rise]

9. Vụ nổ bí ẩn làm rung chuyển quốc gia láng giềng NATO của Ukraine

Chính quyền quân sự Ba Lan cho biết họ không phát hiện bất kỳ sự vi phạm nào đối với không phận của đồng minh NATO sau vụ nổ tại một cánh đồng trồng bắp ở miền đông Ba Lan để lại một hố lớn và làm vỡ các cửa sổ gần đó.

Vụ việc đang được cảnh sát và quân đội điều tra, xảy ra tại làng Osiny vào sáng sớm thứ tư ngày 20 tháng 8. Không có ai bị thương.

Cuộc chiến ở Ukraine đã tác động đến nước láng giềng Ba Lan, nơi thường xuyên phải điều máy bay chiến đấu để đáp trả các cuộc tấn công trên không của Nga vào Ukraine.

Bộ chỉ huy tác chiến quân đội Ba Lan cho biết phân tích sơ bộ hồ sơ hệ thống radar cho thấy “không có hành vi vi phạm không phận Ba Lan nào được ghi nhận vào đêm qua, từ hướng Ukraine hoặc Belarus”, theo một tuyên bố được đăng trên X, ban đầu bằng tiếng Ba Lan.

Bộ chỉ huy cho biết đánh giá ban đầu cho thấy đối tượng được tìm thấy tại hiện trường vụ nổ “có thể là một phần của động cơ cũ có cánh quạt”, nhưng các nhà chức trách vẫn đang tiến hành phân tích chi tiết về đối tượng này.

“ Các nhân viên của hệ thống phòng không Cộng hòa Ba Lan duy trì giám sát không phận Ba Lan 24/24, luôn trong tình trạng sẵn sàng để bảo đảm an ninh”, bộ chỉ huy cho biết.

Cảnh sát cho biết họ đã tìm thấy các mảnh kim loại và nhựa từ một đối tượng không xác định trên cánh đồng sau khi họ được điều động đến hiện trường để báo cáo về vụ nổ vào khoảng 2 giờ sáng giờ địa phương.

Marcin Józwik, một trung sĩ cảnh sát ở Łuków, nói với Hãng thông tấn Ba Lan, gọi tắt là PAP rằng các mảnh vỡ đã bị cháy đen và nằm rải rác khắp khu vực.

Đài truyền hình địa phương Łuków.TV đưa tin một đối tượng giống cánh quạt đã được tìm thấy tại hiện trường. Đài này cũng phát sóng đoạn phim giám sát từ một người dân cho thấy một tia sáng chói lòa trên bầu trời đêm, sau đó là một tiếng nổ lớn.

“Một tiếng nổ lớn đánh thức tôi dậy, làm rung cả cửa sổ. Tôi nhìn ra ngoài nhưng chẳng thấy gì cả. Mãi đến sáng tôi mới thấy đèn xe cảnh sát”, một người dân giấu tên nói với Łuków.TV.

Vào tháng 11 năm 2022, một hỏa tiễn đã tấn công một cơ sở chế biến ngũ cốc ở miền nam Ba Lan, khiến hai người thiệt mạng. Các nhà điều tra Ba Lan sau đó cho biết đó là một hỏa tiễn phòng không do Ukraine phóng.

Họ cũng tin rằng các mảnh vỡ được tìm thấy trong một khu rừng phía đông Ba Lan vào tháng 4 năm 2023 là từ hỏa tiễn hành trình Kh-55 của Nga bắn vào Ukraine từ Belarus.

[Newsweek: Mystery Explosion Rocks Ukraine's NATO Neighbor]

10. Ba Lan đổ lỗi cho Nga về vụ tai nạn máy bay điều khiển từ xa

Hôm Thứ Năm, 21 Tháng Tám, Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan Władysław Kosiniak-Kamysz cáo buộc Nga “một lần nữa khiêu khích các quốc gia NATO” và cho biết Warsaw đã thông báo cho các đồng minh NATO về vụ một máy bay điều khiển từ xa quân sự của Nga đã rơi ở miền đông Ba Lan vào sáng sớm thứ Tư, phát nổ, làm rung chuyển sườn phía đông của NATO ngay khi các nhà lãnh đạo phương Tây đang nỗ lực thúc đẩy những nỗ lực hòa bình mong manh với Mạc Tư Khoa về vấn đề Ukraine.

Chiếc máy bay điều khiển từ xa đã đâm sầm xuống một cánh đồng trồng bắp gần làng Osiny, cách Warsaw khoảng 100 km về phía đông nam. Đoạn phim địa phương do LukowTV công bố cho thấy một tia sáng lóe lên, sau đó là một tiếng nổ lớn, làm vỡ cửa sổ của những ngôi nhà gần đó. Không có thương vong nào được báo cáo, mặc dù cảnh sát cho biết vụ tai nạn đã để lại một hố sâu 6 mét.

Không có bình luận nào từ Mạc Tư Khoa.

Máy bay điều khiển từ xa của Nga cũng đã rơi ở Rumani và Lithuania — cả hai đều gần khu vực chiến sự ở Ukraine.

Thời điểm xảy ra vụ tai nạn mới nhất này mang tính chính trị, diễn ra trong bối cảnh có những tranh cãi ngoại giao cao cấp về vấn đề Ukraine.

Vụ việc cũng gợi lại ký ức về tháng 11 năm 2022, khi một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn đã giết chết hai người đàn ông ở làng Przewodów, Ba Lan, gần biên giới Ukraine. Vụ nổ đó sau đó được xác định là do một hỏa tiễn phòng không Ukraine lạc hướng gây ra.

[Politico: Poland blames Russia for drone crash]