1. Bài Giảng Của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ Ngày Thế Giới Người Nghèo

Sáng Chúa nhật 17 tháng Mười Một năm 2024, nhân Ngày Thế giới người nghèo lần thứ 8, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô, vào lúc 10 giờ sáng, trước sự tham dự của hơn 7.000 tín hữu.

Chủ đề Ngày Thế giới người nghèo năm nay được rút từ sách Huấn Ca, đó là: “Kinh nguyện của người nghèo vọng lên tới Thiên Chúa” (Xc Hc 21,5).

Đồng tế với Đức Thánh Cha, có hơn một trăm linh mục và hai mươi sáu Hồng Y và giám mục. Do gặp khó khăn trong việc đi lại, Đức Thánh Cha đã được Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, đặc trách các vấn đề cơ bản trong việc loan báo Tin mừng trên thế giới, giúp ngài làm các nghi thức khác tại bàn thờ. Hiện diện trong thánh lễ cũng có hàng ngàn người nghèo, do Hội Bác ái thánh Vinh Sơn chăm sóc, và giúp đỡ.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Những lời chúng ta vừa nghe có thể gợi lên cảm giác đau khổ, trong khi thực tế đó là những lời tuyên bố hy vọng lớn lao. Trong khi Chúa Giêsu dường như đang mô tả trạng thái tinh thần của những người đã chứng kiến sự hủy diệt của Giêrusalem và nghĩ rằng ngày tận thế đã đến, Người đã loan báo một điều phi thường: vào chính giờ phút đen tối và hoang tàn, ngay khi mọi thứ dường như sụp đổ, Chúa đến, Chúa đến gần, Chúa tập hợp chúng ta lại để cứu chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn sâu hơn, hãy có đôi mắt có khả năng “đọc bên trong” các biến cố của lịch sử. Bằng cách này, chúng ta khám phá ra rằng ngay cả trong nỗi thống khổ của trái tim và thời đại chúng ta, một niềm hy vọng không lay chuyển vẫn tỏa sáng. Vào Ngày Thế giới Người nghèo này, chúng ta hãy dừng lại để xem xét hai thực tại luôn đấu tranh trên chiến trường là trái tim chúng ta: đó là nỗi thống khổ và hy vọng.

Trước hết, là sự đau khổ. Cảm giác đau khổ lan rộng trong thời đại của chúng ta, vì phương tiện truyền thông xã hội khuếch đại các vấn đề và vết thương, khiến thế giới bất an hơn và tương lai xem ra bất định hơn. Ngay cả Tin Mừng hôm nay cũng mở đầu bằng một hình ảnh dường như muốn chiếu cảnh hoạn nạn của con người lên vũ trụ thông qua việc sử dụng ngôn ngữ khải huyền: “mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng sẽ không chiếu sáng, các vì sao sẽ từ trời sa xuống, và các quyền năng trên trời sẽ bị lay chuyển…” và vân vân (Mc 13:24-25).

Nếu chúng ta giới hạn cái nhìn của mình vào câu chuyện về các sự kiện, chúng ta để cho nỗi thống khổ chiếm ưu thế. Thật vậy, ngay cả ngày nay, chúng ta thấy “mặt trời tối sầm” và “mặt trăng mờ dần” khi chúng ta suy ngẫm về nạn đói đang hành hạ rất nhiều anh chị em của chúng ta không có thức ăn để ăn, và khi chúng ta thấy những nỗi kinh hoàng của chiến tranh hoặc chứng kiến cái chết của những người vô tội. Đối mặt với viễn cảnh này, chúng ta có nguy cơ rơi vào trạng thái tuyệt vọng và không nhận ra sự hiện diện của Chúa trong bi kịch của lịch sử. Khi làm như vậy, chúng ta tự kết án mình, ghim chính mình vào sự bất lực. Chúng ta chứng kiến nỗi thống khổ ngày càng gia tăng xung quanh chúng ta do nỗi đau khổ của người nghèo gây ra, nhưng chúng ta lại rơi vào lối suy nghĩ cam chịu của những người, bị thúc đẩy bởi sự tiện lợi hoặc lười biếng, nghĩ rằng “đời là thế” và “không có gì tôi có thể làm được về điều đó”. Do đó, bản thân đức tin Kitô giáo bị thu hẹp thành một sự sùng mộ vô hại không làm xáo trộn các thế lực đang nắm quyền và không có khả năng tạo ra một cam kết nghiêm chỉnh cho lòng bác ái. Trong khi một phần thế giới bị kết án phải sống trong những khu ổ chuột của lịch sử, trong khi bất bình đẳng gia tăng và nền kinh tế trừng phạt những người yếu thế nhất, trong khi xã hội cống hiến hết mình cho việc tôn thờ tiền bạc và tiêu dùng, thì người nghèo và những người bị thiệt thòi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chờ đợi (x. Evangelii Gaudium, 54).

Nhưng chính tại đây, giữa bối cảnh khải huyền đó, Chúa Giêsu đã thắp lên hy vọng. Người mở ra chân trời, mở rộng tầm nhìn của chúng ta, để ngay cả trong sự bấp bênh và đau khổ của thế giới, chúng ta có thể học cách nắm bắt sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đến gần chúng ta, không bỏ rơi chúng ta và hành động vì sự cứu rỗi của chúng ta. Trên thực tế, cũng như mặt trời tối dần, mặt trăng ngừng chiếu sáng và các vì sao rơi xuống từ bầu trời, Phúc âm nói rằng, “họ sẽ thấy ‘Con Người ngự trên mây’ với quyền năng và vinh quang lớn lao. Khi đó, Người sẽ sai các thiên thần đi và tập hợp những người được Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ tận cùng trái đất cho đến tận cùng bầu trời” (Mc 13:26-27).

Với những lời này, Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người sẽ diễn ra ngay sau đó. Thật vậy, trên đồi Can vê, mặt trời sẽ mờ dần và màn đêm sẽ buông xuống thế gian. Tuy nhiên, ngay lúc đó, Con Người sẽ được nhìn thấy trên những đám mây, vì quyền năng phục sinh của Người sẽ phá vỡ xiềng xích của sự chết. Sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ trỗi dậy từ bóng tối và một thế giới mới sẽ được sinh ra từ đống đổ nát của một lịch sử bị tàn phá bởi cái ác.

Anh chị em thân mến, đây là niềm hy vọng mà Chúa Giêsu muốn trao cho chúng ta và Người thực hiện điều đó thông qua một hình ảnh đẹp. Người yêu cầu chúng ta hãy xem xét cây vả: “Khi cành nó trở nên mềm mại và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết rằng mùa hè đã gần “ (Mc 13:28). Chúng ta cũng được kêu gọi giải thích những dấu chỉ về cuộc sống của chúng ta ở đây trên trái đất này: nơi dường như chỉ có bất công, đau khổ và nghèo đói – trong chính sự bi thảm của khoảnh khắc đó – Chúa đã đến gần để giải thoát chúng ta khỏi chế độ nô lệ và để làm cho cuộc sống tỏa sáng (x. Mc 13:29). Người đến gần những người khác thông qua sự gần gũi Kitô giáo của chúng ta, tình huynh đệ Kitô giáo của chúng ta. Vấn đề không phải là ném một đồng xu vào tay người đang túng thiếu. Đối với những người bố thí, tôi xin hai điều: “Anh chị em có chạm vào tay mọi người hay anh chị em ném một đồng xu vào họ mà không chạm vào họ? Anh chị em có nhìn vào mắt người mà anh chị em giúp đỡ hay anh chị em nhìn đi chỗ khác?”.

Đến lượt mình, với tư cách là môn đệ của Người, chúng ta có thể gieo hy vọng vào thế giới này thông qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thể và phải thắp sáng ngọn lửa công lý và tình liên đới ngay cả khi bóng tối của thế giới khép kín của chúng ta ngày càng sâu đậm (x. Fratelli Tutti, 9-55). Chúng ta là những người phải làm cho ân sủng của Người tỏa sáng qua cuộc sống thấm đẫm lòng trắc ẩn và bác ái, trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, luôn gần gũi với nỗi đau khổ của người nghèo để chữa lành vết thương của họ và biến đổi vận mệnh của họ.

Anh chị em thân mến, chúng ta đừng quên rằng niềm hy vọng Kitô giáo, được hoàn thành nơi Chúa Giêsu và được hiện thực hóa trong vương quốc của Người, cần chúng ta và sự cam kết của chúng ta, nó cần đức tin của chúng ta được thể hiện trong các công việc bác ái, và nó cần những Kitô hữu không ngoảnh mặt làm ngơ. Tôi đang xem một bức ảnh do một nhiếp ảnh gia người Rôma chụp: một cặp vợ chồng trưởng thành, khá lớn tuổi, đang bước ra khỏi một nhà hàng vào mùa đông; người phụ nữ được phủ đầy áo khoác lông, cũng như người đàn ông. Ở cửa ra vào, có một người phụ nữ nghèo, nằm trên sàn nhà, ăn xin, và cả hai đều ngoảnh mặt làm ngơ. Điều này xảy ra hàng ngày. Chúng ta hãy tự hỏi: tôi có ngoảnh mặt làm ngơ khi nhìn thấy cảnh nghèo đói, những nhu cầu hoặc nỗi đau của người khác không? Một nhà thần học thế kỷ 20 đã nói rằng đức tin Kitô giáo phải tạo ra trong chúng ta “một sự thần bí với đôi mắt mở”, không phải là một nền linh đạo chạy trốn khỏi thế gian mà - ngược lại - một đức tin mở mắt ra trước những đau khổ của thế gian và sự bất hạnh của người nghèo để thể hiện lòng trắc ẩn của Chúa Kitô. Tôi có cảm thấy cùng một lòng trắc ẩn như Chúa trước những người nghèo, trước những người không có việc làm, không có thức ăn, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề không? Chúng ta phải nhìn không chỉ vào những vấn đề lớn của tình trạng nghèo đói trên thế giới, mà còn vào những điều nhỏ nhặt mà tất cả chúng ta có thể làm mỗi ngày bằng lối sống của mình; bằng sự quan tâm và chăm sóc của chúng ta đối với môi trường mà chúng ta đang sống; bằng sự theo đuổi công lý bền bỉ; bằng cách chia sẻ của cải của chúng ta với những người nghèo hơn; bằng sự tham gia xã hội và chính trị để cải thiện thế giới xung quanh chúng ta. Có vẻ như đó là một điều nhỏ nhặt đối với chúng ta, nhưng những điều nhỏ nhặt mà chúng ta làm sẽ giống như những chiếc lá đầu tiên nảy mầm trên cây sung, những hành động nhỏ bé của chúng ta sẽ là điềm báo trước cho mùa hè đang đến gần.

Anh chị em thân mến, nhân Ngày Thế giới Người nghèo này, tôi muốn chia sẻ một lời cảnh báo của Đức Hồng Y Martini. Ngài nhấn mạnh rằng chúng ta phải tránh coi Giáo hội tách biệt với người nghèo như thể Giáo hội tồn tại như một thực tại độc lập phải chăm sóc người nghèo. Thực tế là chúng ta trở thành Giáo hội của Chúa Giêsu khi chúng ta phục vụ người nghèo, bởi vì chỉ theo cách này, “Giáo hội mới 'trở thành' chính mình, nghĩa là Giáo hội trở thành một ngôi nhà mở ra cho tất cả mọi người, một nơi của lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với cuộc sống của mỗi cá nhân” (CM Martini, Città senza mura. Thư và bài phát biểu gửi đến giáo phận 1984, Bologna 1985, 350).

Tôi muốn nói điều này với Giáo hội, với các Chính phủ và với các Tổ chức Quốc tế. Tôi muốn nói với mọi người: xin đừng quên người nghèo.

2. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật

Chúa Nhật, 17 Tháng 11, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 33 Mùa Quanh Năm.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật vui vẻ!

Trong Tin Mừng phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một cơn đại nạn: “mặt trời sẽ tối tăm, và mặt trăng sẽ không chiếu sáng” (Mc 13:24). Đối mặt với nỗi đau khổ này, nhiều người có thể nghĩ đến ngày tận thế, nhưng Chúa đã nắm lấy cơ hội để đưa ra một lời giải thích khác khi nói rằng: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi” (Mc 13:31).

Chúng ta có thể xem xét kỹ hơn câu nói này: điều gì sẽ qua đi và điều gì sẽ còn lại.

Trước hết, điều gì sẽ qua đi. Trong một số hoàn cảnh trong cuộc sống, khi chúng ta đang trải qua khủng hoảng hoặc trải qua một số thất bại, cũng như khi chúng ta nhìn thấy xung quanh mình nỗi đau do chiến tranh, bạo lực, thiên tai gây ra, chúng ta có cảm giác rằng mọi thứ đang đi đến hồi kết, và chúng ta cảm thấy rằng ngay cả những điều đẹp đẽ nhất cũng sẽ qua đi. Tuy nhiên, khủng hoảng và thất bại, mặc dù đau đớn, nhưng lại quan trọng, vì chúng dạy chúng ta phải coi trọng mọi thứ, không quyến luyến gắn chặt trái tim mình vào thực tại của thế giới này, vì chúng sẽ qua đi: chúng nhất định sẽ phai tàn.

Đồng thời, Chúa Giêsu nói về những gì sẽ còn lại. Mọi thứ đều qua đi, nhưng lời của Người sẽ không qua đi: Lời của Chúa Giêsu sẽ còn mãi mãi. Do đó, Người mời gọi chúng ta tin vào Phúc âm, chứa đựng lời hứa về ơn cứu rỗi và sự vĩnh cửu, và không sống trong đau khổ của cái chết. Vì trong khi mọi thứ qua đi, Chúa Kitô vẫn còn. Trong Người, trong Chúa Kitô, một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm lại được những sự vật và con người đã qua đi và đã đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống trần thế này. Dưới ánh sáng của lời hứa phục sinh này, mọi thực tại đều mang một ý nghĩa mới: mọi thứ đều chết và một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ chết, nhưng chúng ta sẽ không mất gì trong những thứ chúng ta đã xây dựng và yêu thương, bởi vì cái chết sẽ là khởi đầu của một cuộc sống mới.

Anh chị em thân mến, ngay cả trong những đau khổ, trong khủng hoảng, trong thất bại, Tin Mừng mời gọi chúng ta nhìn vào cuộc sống và lịch sử mà không sợ mất đi những gì đã kết thúc, nhưng với niềm vui cho những gì sẽ còn lại. Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa đang chuẩn bị cho chúng ta một tương lai của sự sống và niềm vui.

Và vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có gắn bó với những thứ trần tục, những thứ sẽ qua đi, trôi qua nhanh chóng, hay chúng ta gắn bó với những lời của Chúa, những lời vẫn còn và hướng dẫn chúng ta đến cõi vĩnh hằng? Chúng ta hãy tự hỏi câu hỏi này. Nó sẽ giúp chúng ta.

Và chúng ta hãy cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, người đã hoàn toàn phó thác mình cho Lời Chúa, để Mẹ có thể chuyển cầu cho chúng ta.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Hôm qua tại Shkodra, hai vị tử đạo đã được phong chân phước: Cha Luigi Palić, linh mục của Dòng Anh Em Hèn Mọn, và Cha Gjon Gazulli, linh mục triều, nạn nhân của cuộc đàn áp tôn giáo của thế kỷ XX. Và hôm nay, tại Freiburg im Breisgau, một vị tử đạo khác đã được phong chân phước, đó là Cha Max Josef Metzger, linh mục sáng lập Dòng Ba Chúa Kitô Vua, bị Đức Quốc xã bách hại vì cam kết tôn giáo của mình ủng hộ hòa bình. Mong rằng tấm gương của những vị tử đạo này an ủi rất nhiều Kitô hữu đang bị phân biệt đối xử vì đức tin của họ trong thời đại chúng ta. Chúng ta hãy cùng hoan nghênh các vị Chân phước mới!

Hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế giới Người nghèo, có chủ đề: “Lời cầu nguyện của người nghèo lên tới Thiên Chúa” (Hc 21:5). Tôi cảm ơn những người, trong các giáo phận và giáo xứ, đã tổ chức các sáng kiến liên đới với những người thiệt thòi nhất. Và vào ngày này, chúng ta cũng hãy tưởng nhớ tất cả các nạn nhân giao thông: chúng ta hãy cầu nguyện cho họ, cho người thân của họ và nỗ lực ngăn ngừa tai nạn.

Tôi sẽ hỏi một câu hỏi; mọi người đều có thể tự hỏi câu hỏi này: tôi có phải từ bỏ một thứ gì đó để cho người nghèo không? Khi tôi bố thí, tôi có chạm vào tay người nghèo và nhìn vào mắt họ không? Anh chị em ơi, chúng ta đừng quên rằng người nghèo không thể chờ đợi!

Tôi tham gia cùng Giáo hội Ý, nơi đang lặp lại Ngày cầu nguyện cho các nạn nhân và người sống sót sau lạm dụng vào ngày mai. Mỗi lạm dụng đều là một sự phản bội lòng tin, một sự phản bội cuộc sống! Cầu nguyện là điều không thể thiếu để “xây dựng lại lòng tin”.

Tôi cũng muốn nhớ đến tất cả những ngư phủ, nhân Ngày Nghề cá Thế giới, sẽ diễn ra vào thứ năm tuần tới: Cầu xin Đức Mẹ Maria, Ngôi sao Biển, bảo vệ những người đánh cá và gia đình họ.

Và tôi thân ái chào tất cả mọi người, người Roma và khách hành hương. Đặc biệt, các tín hữu từ Ponta Delgada và Zagabria; Escolanía del Monasterio de San Lorenzo de El Escorial và cộng đồng Ecuador tại Roma, nơi đang mừng lễ Virgen del Quinche. Tôi chào các nhóm từ Chioggia và Caorle; đội cứu hỏa từ Romeno, Trento và ca đoàn giáo xứ từ Nesso, Como.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình; tại Ukraine đang bị giày vò, tại Palestine, Israel, Li Băng, Miến Điện và Sudan. Chiến tranh làm mất nhân tính của chúng ta, nó khiến chúng ta dung túng cho những tội ác không thể chấp nhận được. Mong các nhà lãnh đạo lắng nghe tiếng kêu của những người đang cầu xin hòa bình.

Xin chào những người trẻ tuổi của Immacolata. Tôi chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt lành. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.