Đọc Joseph Ratzinger, Nhà thần học của tính liên tục





Giới thiệu

Công trình thần học của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, tức Đức cố Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, hết sức phong phú và đa dạng. Ngài thường viết cho tạp chí Communio, một tạp chí ngài cùng Henri de Lubac và Hans Urs von Baltazar thành lập, sau khi chia tay với tạp chí Concilium.

Cuộc chia tay này, theo George Weigel trong cuốn The Irony of Modern Catholic History, không hẳn giữa phe duy truyền thống và phe tự do tại Công đồng Vatican II, cho bằng là một cuộc chiến bên trong “hàng ngũ các thần học gia duy cải cách”, một cuộc chiến thực sự đã diễn ra ngay lúc Vatican II đang nhóm họp. Dĩ nhiên là âm thầm, và chỉ trở thành công khai khi Henri de Lubac và Joseph Ratzinger rời bỏ Concilium, thành lập năm 1963, để lập ra Communio năm 1972.

Nhiều nhận định khác nhau đã được viết về nguyên nhân của việc chia tay này. Tracey Rowland, thần học gia người Úc, chẳng hạn, đã diễn giải các khác biệt giữa hai nhóm này như sau:

Trước hết, họ có một sự hiểu biết hoàn toàn khác về lời khuyên của Chúa Kitô với các tông đồ của Người trong việc đọc các dấu hiệu của thời đại. Ẩn chứa trong đó là một sự hiểu biết khác về sự mặc khải. Như một bức biếm họa, người ta có thể nói rằng các nhà thần học Communio nhìn vào các phong trào văn hóa đương thời từ góc độ giáo huấn của giáo quyền của Giáo hội trong khi các người chủ trương Concilium nhìn vào giáo huấn của huấn quyền từ góc độ các phong trào văn hóa đương thời. Các người chủ trương Communio tin rằng khi Chúa Kitô bảo các tông đồ của Người đọc các dấu hiệu của thời đại, Người muốn nói với họ rằng Người, Chúa Kitô, chính là dấu hiệu của thời đại. Người đang đưa ra một quan điểm cánh chung. Người đang nói với các tông đồ của Người rằng các con hiện đang sống trong kỷ nguyên Kitô giáo, hãy hiểu rằng Sự Nhập thể đã diễn ra, hãy hiểu rằng Thiên Chúa đã mặc lấy bản chất con người. Người không nói rằng điều quan trọng là các con phải theo kịp các trào lưu xã hội đang thay đổi và liên hệ đức tin Kitô giáo với chúng.

Thứ hai, trong khi các nhà thần học theo phong cách CommunioConcilium đồng ý rằng thần học Công Giáo đại diện cho sự tổng hợp của đức tin và lý trí, họ thích các đối tác triết học khác nhau cho thần học. Karl Rahner dự đoán rằng vì hiện có rất nhiều triết lý khác nhau đang được sử dụng nên các học giả Công Giáo sẽ bị cám dỗ bởi điều mà ông gọi là 'sự ham muốn tri thức luận' - mong muốn gắn kết thần học Công Giáo với mọi loại triết lý thời thượng. Do đó, một sự khác biệt rất đáng kể giữa các học giả CommunioConcilium nằm ở sự lựa chọn đối tác triết học của họ. Ví dụ, nhóm Communio không bị thu hút bởi chủ nghĩa Mác-xít văn hóa.

Thứ ba, hai nhóm có thái độ khác nhau đối với các nền văn hóa hiện đại và hậu hiện đại. Mặc dù không tránh né mọi khía cạnh của các nền văn hóa này, các nhà thần học Communio (giống như các nhà thần học Chính thống giáo cấp tiến mà họ chồng chéo trên một số mặt trận) chỉ trích các nền văn hóa này nhiều hơn so với các nhà thần học theo phong cách Concilium.

Thứ tư, hai nhóm có thái độ khác nhau đối với thẩm quyền của huấn quyền và các vấn đề khác trong giáo hội học như bản chất của chức vụ Phêrô và thừa tác vụ linh mục (Catholic World Report phỏng vấn 11/05/2017. Xem https://www.catholicworldreport.com/2017/05/11/tracey-rowlands-guide-through-the-catholic-academic-zoo/)

Tuy nhiên, một cách ngắn gọn, trong diễn văn Giáng sinh năm 2005 với giáo triều Rôma, chính Đức Bê-nê-đic-tô XVI đã thẳng thừng nói tới nguyên nhân này, đó chính là vì Concilium đã “đọc” Vatican II như một đứt đoạn với quá khứ Công Giáo, điều mà ngày nay chúng ta gọi là “thay đổi mô hình” (paradigm shift).

Khuynh hướng ấy đã được Henri de Lubac nhìn ra ngay từ số thứ năm của Concilium. Chính vì thế, năm 1969, de Lubac, Louis Bouyer thuộc dòng Oratorian người Pháp, Jorge Medina Estévez người Chile và Joseph Ratzinger người Đức đã đồng ý gặp nhau trong phiên họp đầu tiên tại Rome của Ủy ban Thần học Quốc tế, một cơ quan cố vấn cho Bộ Giáo lý Đức tin. Tại một cuộc họp do nhà thần học người Thụy Sĩ Hans Urs von Balthasar sắp xếp và dẫn đầu, họ đã thảo luận về khả năng có một tạp chí thần học mới sẽ thách thức sự bá quyền về mặt trí thức mà Concilium và các nhà thần học liên quan đến nó được hưởng. Như Ratzinger sau này nhớ lại, họ đã chọn tên Communio, bởi vì hạn từ tiếng Latinh này có nghĩa là "hiệp thông" hàm ý "sự chung sống hòa hợp giữa sự thống nhất và khác biệt", trái ngược với quan điểm hạn hẹp về mặt ý thức hệ của Concilium.

Communio sẽ “đọc” Vatican II qua lăng kính của toàn bộ truyền thống Công Giáo, kể cả Varican I, chứ không qua lăng kính “đứt đoạn với quá khứ” của Concilium.

Tác giả sáng chói nhất của nhóm, nhấn mạnh đến tính chất liên tục, chính là thần học gia Joseph Ratzinger, sau này là người kế nhiệm của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Đức Bê-nê-đíc-tô XVI. Như ta sẽ thấy, ngài mở rộng ý niệm liên tục tính không những qua lãnh vực đại kết, liên tôn mà cả thế tục, mặc nhiên nhìn ra cả khía cạnh tích cực của Jean-Paul Sartre.

Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu một số bài của ngài. Trước nhất mời độc giả đọc bài “Communio: Một Chương trình”

Communio: Một Chương trình


Hồng Y Joseph Ratzinger

Communio được thành lập để lôi cuốn và mang các Ki-tô hữu lại với nhau chỉ dựa trên đức tin chung của họ (Communio số 19, Mùa Thu 1992)

Khi số đầu tiên của Tập san Công Giáo Quốc tế Communio xuất hiện vào đầu năm 1972, đã có 2 ấn bản, một bằng tiếng Đức và một bằng tiếng Ý. Một ấn bản Croatia cũng đã được thai nghén ngay từ đầu. Lời nói đầu của Franz Greiner được dùng như một dẫn nhập đưa vào ấn bản Đức. Chung cho cả hai ấn bản là đóng góp thần học nền tảng của Hans Urs von Balthasar “Communio: Một Chương trình”. Khi chúng ta đọc những trang này 20 năm sau, chúng ta ngạc nhiên trước tính liên quan của điều nói lúc đó. Hiệu quả của nó vẫn có tính nổ bùng trong khung cảnh thần học đương thời. Dĩ nhiên, chúng ta dám hỏi đến mức độ nào tờ tập san duy trì được các nguyên tắc hướng dẫn của nó và hiện nay, điều gì có thể làm để tỏ ra công bình hơn đối với chúng. Tuy nhiên, một cuộc vấn lương tâm loại này không thể là chủ điểm cho bài nói của tôi. Tôi chỉ xin cố gắng làm mới lại ký ức của chúng ta và củng cố quyết tâm vốn đã có từ lúc khởi đầu.

Nguồn gốc của tập san Communio

Để đạt mục tiêu này, điều có khả năng hữu ích là tái khảo sát trong giây lát việc hình thành ra tập san. Bất chấp nhiều trở ngại, ngày nay, nó đã xuất hiện trong 13 ngôn ngữ. Communio không thể bị loại khỏi cuộc bàn luận thần học hiện thời nữa. Ngay từ đầu, sáng kiến của Hans Urs von Balthasar đã không phải là việc thành lập một tập san. Thần học gia vĩ đại xuất thân từ Basel này vốn không tham dự vào biến cố Công Đồng. Xem xét sự đóng góp được ngài thực hiện, người ta phải nhìn nhận một mất mát lớn. Nhưng cũng có mặt tốt ở sự vắng mặt của ngài.

Balthasar đã có thể nhìn toàn bộ từ xa, và điều này dành cho ngài một sự độc lập và rõ ràng trong phán đoán, một điều sẽ bất khả nếu ngài dành 4 năm trải nghiệm biến cố từ bên trong. Ngài hiểu và chấp nhận không dè dặt sự vĩ đại của các bản văn công đồng, nhưng cũng thấy kiểu cách chạy vòng quanh mà quá nhiều người đầu óc hẹp hòi đã trở nên quen thuộc với. Họ tìm cách lợi dụng bầu khí công đồng bằng cách tiếp tục chạy quanh tiêu chuẩn đức tin. Các đòi hỏi của họ thích ứng với khiếu thưởng thức của các người đồng thời với họ và tỏ ra phấn khích vì người ta trước đó từng giả thiết rằng những ý kiến này không thể giảng hòa với đức tin của Giáo Hội. Origen từng nói rằng “Các người lạc giáo nghĩ sâu hơn nhưng không đúng hơn” (1). Đối với thời hậu công đồng, tôi nghĩ rằng chúng ta phải thay đổi câu nói đó một chút và nói: “lối suy nghĩ của họ xem ra đáng lưu ý hơn nhưng gây tổn hại cho sự thật”. Điều trước đây không thể nói được đã được coi như việc tiếp tục tinh thần Công đồng. Không hề tạo ra được bất cứ điều gì thực sự mới mẻ, người ta cao ngạo cho là đáng lưu ý một cách rẻ tiền. Họ rao bán hàng hóa từ chợ bọ chét tự do ngày cũ như thể họ là nền thần học Công Giáo mới mẻ.

Ngay từ đầu, Balthasar đã tri nhận một cách rất sắc sảo diễn trình qua đó tính liên quan trở thành quan trọng hơn sự thật. Ngài chống đối nó một cách không thể lay chuyển vốn là đặc điểm trong tư duy và đức tin của ngài. Càng ngày chúng ta càng thừa nhận rằng cuốn Khoảnh khắc Chứng tá Ki-tô giáo (The Moment of Christian Witness = Cordula oder der Ernstfall), xuất hiện lần đầu năm 1966, là một cuốn cổ điển về bút chiến vô tư. Công trình này xứng đáng được xếp vào hàng các cuốn bút chiến vĩ đại của các Giáo Phụ, vốn dạy chúng ta phải dị biệt hóa ngộ đạo với Ki-tô giáo. Trước đó, ngài đã viết một cuốn sách nhỏ vào năm 1965 tựa là “Ai là Ki-tô hữu?” (Who is a Christian?), một cuốn sách làm chúng ta ngồi dậy và lưu ý tới sự rõ ràng trong các tiêu chuẩn của ngài. Ngài dạy chúng ta phân biệt giữa điều là Ki-tô giáo một cách chân chính và những óc tưởng tượng nhà làm về Ki-tô giáo. Cuốn sách này thực hiện chính xác điều Balthasar đã mô tả năm 1972 như là trách vụ của Communio: “Không phải là chuyện diệu võ dương oai, nhưng là lòng can đảm Ki-tô giáo phải chường mình ra cho nguy cơ” (2) Ngài đã tự làm mình ra dễ bị tổn thương với niềm hy vọng rằng những tiếng kèn đó sẽ báo trước việc trở về với các vấn đề thực chất của suy tư thần học. Một khi thần học không còn được đo lường theo nội dung của nó mà đúng hơn theo các phạm trù hoàn toàn hình thức của bảo thủ và cấp tiến, con người bác học của Basel hẳn đã rất nhanh nhìn thấy rằng tiếng nói của một mình ngài không đủ. Điều được xếp loại trong tình huống này như bảo thủ lập tức bị phán quyết là không có liên quan và không đòi các luận điểm thêm nữa.

Do đó, Balthasar muốn tìm đồng minh. Ngài đặt kế hoạch cho một dự án chung, “Làm sáng tỏ” (Klarstellungen), một cuốn sách không hơn 150 trang. Cuốn sách này giả thiết chỉ bao gồm các tóm tắt ngắn ngủi, bởi các nhà chuyên môn bậc nhất của các khoa cá thể, về bất cứ điều gì là thiết yếu đối với nền tảng đức tin. Ngài soạn ra một kế hoạch chủ đề và viết 35 trang cho bản dự thảo sơ bộ, trong đó, ngài chỉ cho các tác giả có triển vọng biết luận lý học bên trong của công trình như một toàn bộ. Ngài thảo luận với nhiều thần học gia nhưng vì các đòi hỏi đặt trên các tác giả ngài nghĩ tới, nên dự án đã không bao giờ khởi động được. Hơn nữa, ngài nhận ra rằng các thay đổi nhanh chóng trong từ vựng thần học đòi một thay đổi khác trong cách sắp xếp các câu hỏi và câu trả lời. Vào một lúc nào đó cuối thập niên 60, Balthasar phân định rằng dự án của ngài không thể nào được hiện thực hóa. Điều rõ ràng là một hợp tuyển đơn nhất sẽ không đủ nhưng một cuộc bàn luận liên tục với các trào lưu khác là điều cần thiết.

Do đó, ý tưởng về một tập san đến với ngài, một ý tưởng thành hình trong cuộc đàm luận với phiên họp thứ nhất của Ủy Ban Thần học Quốc tế (1969). Khung cảnh này làm ngài nhận ra rằng phương tiện đàm luận như thế này phải có tính quốc tế. Nếu không, nó sẽ không biểu lộ được chiều rộng thực sự của Đạo Công Giáo, và tính đa dạng của các biểu thức văn hóa Công Giáo sẽ bị lãng quên. Yếu tố quyết định trong “Làm sáng tỏ”, vốn không có trong trước tác bút chiến trước đó, nay trở nên rõ ràng trọn vẹn. Việc đảm nhiệm chỉ đạt được tính lâu dài và thu hút lòng trung thành nếu dựa vào tiếng Có chứ không phải tiếng Không. Chỉ một nền tảng tích cực mới có khả năng đáp ứng các câu hỏi từng được đặt ra.

Balthasar, Henri de Lubac, L. Bouyer, J. Medina, M.J. Le Guillou và tôi sắp xếp gặp nhau vào mùa thu 1969 ngòai những buổi tham vấn chính thức của Ủy Ban. Trong đó, dự án có được hình thức cụ thể. Các tham dự viên trước nhất nghĩ rằng nên có sự cộng tác Pháp-Đức. Le Guillou, người lúc đó hoàn toàn khỏe mạnh và có khả năng hoàn thành công việc, giả thiết điều hành phía Pháp. Balthasar tự làm ngài trở thành cha đẻ của dự án chung với trách nhiệm đặc biệt đối với phía Đức.

Hiển nhiên, cần một thời gian dài để ý tưởng trở thành hiện thực. Chúng cần một nhà xuất bản, một chủ bút, các phương tiện tài chánh, và một rường cột tương đối vững chãi các tác giả. Cũng có vấn đề danh đề (title). Nhiều khả thể đã được thử nghiệm. Thí dụ, tôi nhớ cuộc đàm luận với các sáng lập viên của tập san Les quatre fleuves (Bốn Con Sông), lúc ấy đang khởi đầu tại Paris với cùng các mục tiêu. Không những ấn bản Pháp của chúng tôi không bao giờ khởi động được, nhưng Le Guillou, vì bất cứ mục đích thực tế nào, đã bỏ cuộc vì bệnh tật. Hai biến cố có tính quyết định để dự án có thể được bắt đầu. Balthasar liên lạc với phong trào Communione e Liberazione [hiệp thông và giả phóng], được thai nghén ở Ý và lúc đó đang bắt đầu nở rộ. Những người trẻ đến với nhau trong cộng đồng do Don Giussani thành lập biểu lộ một sinh khí, sự sẵn lòng chấp nhận rủi ro và lòng can đảm của đức tin, lúc đó rất cần thiết. Nhờ thế, ngườu hùn hạp Ý đã được tìm ra. Ở Đức, nhà xuất bản Kӧsel quyết định bỏ tập san văn hóa truyền thống Hochland để thay thế nó bằng tập san chỉ sống được ít lâu Neues Hochland. Chữ “Mới” trong Neues Hochland có ý nói đến sự xoay hướng có tính quyết định. Chủ bút cuối cùng của Hochland, Franz Greiner, sẵn sàng cung hiến kinh nghiệm và việc phục vụ của ông cho tập san mới. Ông làm thế một các hết sức quên mình và còn thành lập một nhà xuất bản để bảo đảm tính độc lập cho dự án. Do đó, ông không những không đòi hỏi bất cứ lợi nhuận nào cho riêng ông mà còn biến chính các phương tiện cá nhân của ông cho toàn bộ dự án. Không có ông, khởi đầu tờ tập san sẽ hoàn toàn bất khả. Ngày nay, chúng ta cần cám ơn ông một lần nữa về những gì ông đã làm.

Tôi không còn nhớ chính xác khi nào danh xưng Communio đầu tiên được nêu ra trong cuộc đàm luận, nhưng tôi tin rằng nó xẩy ra qua cuộc tiếp xúc với Communione e Liberazione. Chữ này xuất hiện hết sức bất ngờ, giống như việc chiếu sáng một căn phòng. Nó thực sự diễn tả mọi điều chúng tôi muốn nói. Có một số khó khăn khởi đầu vì danh xưng này đã có người lấy. Ở Pháp, có một tập san nhỏ với danh đề này và ở Rome, có một loạt sách. Vì lý do này, “Tập san Công Giáo Quốc tế” đã được chọn làm danh đề chính. “Communio” sau đó được thêm vào như một tiểu đề để không vi phạm quyền của người khác.

Nhờ ý niệm hướng dẫn mới và việc chúng tôi liên lạc với các đối tác Ý, chúng tôi đã có thể minh xác diện mạo của tập san xa hơn nữa. Chúng tôi cũng muốn khác về cơ cấu với các tập san có trước. Cơ cấu mới giả thiết phải chứng tỏ tính sáng tạo và sâu rộng mà chúng tôi vốn kỳ vọng. Về căn bản, có hai yếu tố mới được chúng tôi muốn du nhập. Chúng tôi muốn một loại tính quốc tế mới. Chống lại phương thức tập quyền của Concilium, chúng tôi nghĩ ý nghĩa của chữ communio đòi một sự chung sống hòa hợp của hợp nhất và dị biệt. Hans Urs von Balthasar ý thức từ kinh nghiệm của ngài trong tư cách nhà xuất bản rằng cả ngày nay, vẫn còn nhiều điều phân rẽ các nền văn hóa Âu Châu với nhau. Thí dụ, ngài đã thành lập loạt Theologia Romanica, trong đó, các công trình tốt nhất của nền thần học Pháp được công bố ở Đức. Hẳn ngài nhận ra rằng lý do làm chúng phần lớn không bán được ở Đức là vì người Đức không hiểu nền văn hóa được chúng dựa vào. Nên tập san này cũng phải mở toang các nền văn hóa cho nhau, mang chúng vào cuộc đàm luận đích thực với nhau, nhưng đồng thời dành cho nhau đủ không gian để tự phát triển. Các tình huống trong Giáo hội và xã hội khác nhau đến nỗi điều cháy bỏng đối với nền văn hóa này vẫn mãi hoàn toàn xa lạ đối với nền văn hóa kia. Chúng tôi nhất trí xuất bản phần đầu tiên với những bài thần học đã được thiết kế qua việc lên kế hoạch chung. Nhờ cách này, các tác giả từ nhiều quốc gia khác nhau được phép có điều gì đó để nói trong mọi ấn bản. Phần thứ hai dự tính đặt trong tay nhân viên tòa soạn của các quốc gia cá thể. Theo truyền thống Hochland, chúng tôi quyết định, ở Đức, dành phần thứ hai cho các vấn đề văn hóa tổng quát, càng nhiều càng tốt. Việc phối hợp thần học với văn hóa cũng giả thiết là nét phân biệt của tờ tập san. Nếu tập san muốn trở nên diễn đàn để đàm luận giữa đức tin và văn hóa, thì điều cũng cần thiết là nhân viên tòa soạn phải bao gồm các linh mục và giáo dân cũng như các thần học gia và đại diện các ngành khác.

Ý niệm communio cũng gợi ý một đặc điểm nữa cho chúng tôi. Chúng tôi không muốn chỉ tung Communio vào thị trường trung lập và chờ xem tìm được khách hàng ở đâu. Chúng tôi nghĩ rằng danh đề đòi tập san phải thành lập một cộng đồng luôn phát triển dựa vào communio. Các vòng Communio giả thiết phải nổi lên với những tiêu điểm khác biệt. Chúng tôi coi tập san như một loại nền tảng trí thức và tâm linh cho từng tiêu điểm và hy vọng nó sẽ được thảo luận như vậy. Ngược lại, các ý tưởng mới cũng như các phê phán những gì chúng tôi đang làm cũng phát xuất từ những vòng này. Tóm lại, chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể có một loại đối thoại mới với các độc giả. Tập san không có ý định cung ứng các món hàng trí thức để bán nhưng cần một bối cảnh sống động để hỗ trợ nó. Đồng thời, chúng tôi nghĩ rằng một loại tài trợ mới là điều có thể có, người ta không dựa vào vốn cố định nhưng được nuôi dưỡng bằng sáng kiến chung của mỗi tác giả và mỗi độc giả, được phán đoán là những người nâng đỡ thực sự của tòan bộ dự án. Chẳng may, sau một vài khởi đầu khiêm tốn tại Đức và nhiều cố gắng cương quyết hơn tại Pháp, chúng tôi khám phá thấy kế hoạch này không hữu hiệu. Một mẩu những gì được thử lúc đó vẫn sống còn nơi những người đóng góp cho Communio tại Đức. Dù sao, chúng tôi buộc phải chấp nhận việc người ta không thể thiết lập một cộng đồng với tờ tập san nhưng cộng đồng phải đi trước tờ tập san và phải làm cho nó trở thành cần thiết, như trường hợp của Communione e Liberazione. Communio không bao giờ có ý định trở thành công cụ của phong trào này. Đúng hơn, Communio được thành lập để thu hút và đem các Ki-tô hữu lại với nhau chỉ dựa trên đức tin chung, độc lập với tư cách hội viên trong các cộng đồng đặc thù của họ.

Danh xưng như một chương trình

Khi tập san của chúng tôi bắt đầu cách nay 20 năm, chữ communio chưa được nền thần học cấp tiến hậu công đồng khám phá. Lúc đó, mọi sự tập trung vào “dân Chúa”, một ý niệm được nghĩ là một đổi mới chân chính của Công đồng Vatican II và nhanh chóng được tương phản với lối hiểu phẩm trật về Giáo hội. Càng ngày, “dân Chúa” càng được hiểu theo nghĩa tối thượng quyền bình dân, như một quyền quyết định chung, có tính dân chủ đối với mọi điều Giáo Hội là và đối với mọi điều Giáo Hội nên làm. Thiên Chúa được coi là đấng tạo dựng và làm chủ con người vì cụm từ này có chữ “Chúa”, nhưng cả với ý thức này, Người cũng đã bị bỏ qua một bên. Người bị hỗn hống hóa với ý niệm một dân tự tạo và hình thành ra mình (3). Chữ communio, mà không ai quen lưu ý, nay có tính thời thượng một cách đáng ngạc nhiên, tuy chỉ là một thứ làm tôn thứ khác (foil). Theo lối giải thích này, Vatican II đã từ bỏ giáo hội học phẩm trật của Vatican I và thay thế nó bằng một giáo hội học communio. Bởi thế, communio xem ra được hiểu cùng một cách y như “dân Chúa” từng được hiểu, nghĩa là như một ý niệm hàng ngang về mặt yếu tính. Một đàng, ý niệm này giả thiết phát biểu khoảnh khắc bình đẳng dưới sắc lệnh phổ quát cho mọi người. Mặt khác, nó cũng nhấn mạnh như một trong các ý tưởng nền tảng nhất của nó một nền giáo hội học hoàn toàn dựa trên giáo hội địa phương. Giáo hội xuất hiện như một mạng lưới các nhóm, vốn có trước cái toàn thể và đạt được sự hòa hợp với nhau qua việc xây dựng đồng thuận (4).

Loại giải thích này về Công đồng Vatican II chỉ có thể được bênh vực bởi những người từ chối đọc các bản văn của nó hay những người chia chúng thành hai phần: phần cấp tiến có thể chấp nhận được và phần thủ cựu không thể chấp nhận được. Trong các văn kiện công đồng liên quan tới chính Giáo Hội, chẳng hạn, Vatican I và Vatican II được cột vào nhau một cách không thể tách rời. Đơn giản không hề có vấn đề tách một giáo hội học trước đây, không thích hợp khỏi một giáo hội học mới và khác. Các ý tưởng giống như thế này không những lẫn lộn các bản văn công đồng với các cương lĩnh đảng phái, và các công đồng với các hội nghị chính trị, mà chúng còn giản lược Giáo Hội xuống hàng một đảng chính trị. Sau một giai đoạn, các đảng chính trị có thể vứt bỏ một cương lĩnh cũ và thay thế nó bằng một cương lĩnh được họ coi là tốt hơn, ít nhất cho tới lúc một cương lĩnh khác xuất hiện trên chính trường.

Giáo hội không có quyền trao đổi đức tin lấy một điều khác và đồng thời mong tín hữu ở lại với mình. Do đó, các công đồng không thể khám phá ra các giáo hội học hay các tín lý khác mà cũng không thể rẫy bỏ chúng. Theo lời Công Đồng Vatican II, Giáo hội “không cao hơn Lời Chúa nhưng phục vụ nó và do đó chỉ dạy những gì được chuyển giao cho mình” (5). Cái hiểu của chúng ta về chiều sâu và chiều rộng của truyền thống phát triển vì Chúa Thánh Thần mở rộng và thâm hậu hóa ký ức của Giáo Hội ngõ hầu hướng dẫn Giáo Hội “vào mọi chân lý” (Ga 16:13). Theo Công đồng, sự lớn mạnh trong tri nhận (Wahrnehmung, perceptio) về điều vốn cố hữu trong truyền thống diễn ra theo ba cách: qua suy gẫm và học hỏi của tín hữu, qua cái hiểu nội tâm phát xuất từ đời sống thiêng liêng, và qua việc công bố của những người ‘đã nhận được đặc sủng sự thật chắc chắn bằng việc kế nhiệm chức vụ giám mục” (6). Những lời sau đây, trong căn bản, diễn giải vị trí thiêng liêng của một công đồng cũng như các khả thể và trách vụ của nó: công đồng cam kết từ bên trong đối với lời Chúa và truyền thống. Nó chỉ có thể dạy điều được truyền lại cho. Như một qui luật, nó phải tìm ra ngôn từ mới để chuyển giao truyền thống trong mọi bối cảnh mới, ngõ hầu, nói cách khác, truyền thống vẫn mãi y nguyên thực sự. Nếu Công đồng Vatican II đem ý niệm communio lên tuyến đầu để ta chú ý, nó không làm thế để tạo ra một giáo hội học mới hay ngay cả một Giáo hội mới. Đúng hơn, nghiên cứu cẩn thận và biện phân thiêng liêng, vốn phát xuất từ trải nghiệm của tín hữu, làm nó có khả năng, vào lúc này, phát biểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn những gì truyền thống phát biểu.

Ngay sau chuyện bàn thêm này, chúng ta vẫn có thể hỏi communio có nghĩa gì trong truyền thống và việc tiếp nối truyền thống vốn diễn ra tại Công đồng Vatican II. Trước nhất, communio không phải là một khái niệm xã hội học mà là một khái niệm thần học, một khái niệm mở rộng qua cả lãnh vực hữu thể học. O. Saier đã mô tả chính xác điều này trong nghiên cứu thấu đáo năm 1973 của ông, vốn chi tiết hóa lập trường của Công đồng Vatican II về communio. Chương đầu tiên, dùng để điều tra “cách nói của Vatican II” cho rằng communio giữa Thiên Chúa và con người đến trước nhất và communio của tín hữu với nhau đến sau đó. Ngay cả chương thứ hai, vốn dùng để mô tả chỗ đứng của communio trong thần học, cũng nhắc lại điều này. Trong chương thứ ba, Lời và bí tích cuối cùng đã xuất hiện như các yếu tố xây dựng Communio ecclesiae [hiệp thông giáo hội] chân chính. Với sự hiểu biết trang trọng của ngài về các nguồn triết học và thần học, Hans Urs von Balthasar đã mô tả các nền tảng của những gì Công đồng mới nhất từng khai triển về điểm này. Tôi không muốn nhắc lại những gì ngài đã nói, nhưng tôi sẽ nhắc vắn tắt tới một số yếu tố chính vì chúng đã là và vẫn là nền tảng cho những gì chúng tô muốn đạt được trong tập san của chúng tôi. Trước nhất, chúng ta phải nhớ rằng “hiệp thông” giữa những người đàn ông và đàn bà chỉ khả hữu khi được chấp nhận bởi thành phần thứ ba. Nói cách khác, bản chất chung của con người tạo nên chính khả thể chúng ta có thể thông đạt với nhau. Chúng ta không phải chỉ là bản nhiên, mà còn là các ngôi vị và theo cách mỗi ngôi vị đại diện cho một cách thế độc đáo là nhân bản khác với bất cứ ai khác. Do đó, bản nhiên mà thôi không đủ để thông đạt sự nhậy cảm bên trong của các ngôi vị. Nếu chúng ta muốn có một sự phân biệt khác nữa giữa cá nhân tính và ngôi vị tính, thì chúng ta có thể nói rằng cá nhân tính chia rẽ, còn làm ngôi vị sẽ mở cửa chào đón. Làm một ngôi vị, tự bản chất của nó, là liên hệ. Nhưng tại sao nó mở cửa? Vì cả trong chính những tầng sâu thẳm của nó và trong các khát vọng cao nhất của nó, việc là một ngôi vị vượt quá các ranh giới của nó hướng tới một “điều gì đó” lớn hơn, có tính phổ quát và thậm chí hướng tới “một ai đó” lớn hơn, có tính phổ quát. Thành phần thứ ba bao trùm mọi sự mà chúng ta thường hướng tới chỉ có tính bó buộc khi lớn hơn và cao hơn các cá nhân. Một đàng, chính thành phần thứ ba này ở trong mỗi cá nhân vì nó đụng tới họ từ bên trong. Thánh Augustinô từng mô tả thành phần này như “cao hơn mọi chiều cao của tôi, nội thẳm hơn là tôi với chính tôi”. Thành phần thứ ba này, thực sự là thành phần thứ nhất, chúng ta gọi là Thiên Chúa. Chúng ta đụng tới chúng ta trong Người. Qua Người và chỉ qua Người, một communio, nắm bắt những tầng sâu thẳm của chúng ta, mới bước vào hiện hữu.

Chúng ta phải tiến thêm bước nữa. Thiên Chúa tự thông đạt với nhân loại bằng cách tự trở nên con người. Nhân tính của Người trong Chúa Ki-tô được mở toang qua Chúa Thánh Thần một cách đến nỗi ôm lấy mọi người chúng ta như thể chúng ta hết thẩy được hợp nhất thành một thân thể, thành một xương thịt chung đơn nhất. Đức tin vào Ba Ngôi và đức tin vào Nhập Thể hướng dẫn ý niệm hiệp thông với Thiên Chúa tránh xa lãnh vực các khái niệm triết học và định vị nó trong thực tại lịch sử của đời ta. Do đó, người ta có thể thấy tại sao truyền thống Ki-tô giáo giải thích koinōnía-communio trong 2Cr 13:13 như là mô tả thẳng thừng về Chúa Thánh Thần.

Đặt nó vào hình thức phát biểu cụ thể: việc hiệp thông của người ta với nhau sở dĩ khả hữu là nhờ Thiên Chúa, Đấng kết hợp chúng ta qua Chúa Ki-tô trong Chúa Thánh Thần để hiệp thông trở thành một cộng đồng, một “giáo hội” theo nghĩa chân chính của từ ngữ. Giáo hội được thảo luận trong Tân Ước là một giáo hội “từ trên cao”, không phải thứ “trên cao” do con người chế ra mà là từ “trên cao” đích thực mà Chúa Giêsu từng nói đến: “các ông thuộc về những gì ở bên dưới, tôi thuộc về những gì ở trên cao” (Ga 8:23). Chúa Giêsu, một cách rõ ràng, đã đưa ra một ý nghĩa mới cho chữ “ở bên dưới” khi “Người xuống những vùng thấp hơn của trái đất” (Ep 4:9). Giáo hội học “từ bên dưới” từng được đề nghị với chúng ta hiện nay giả thiết điều này: người ta coi Giáo Hội chỉ như một số lượng xã hội hội học và Chúa Ki-tô như một chủ thể hành động không còn ý nghĩa nào cả. Nhưng trong trường hợp này, người ta không còn nói về một giáo hội nào nữa mà về một xã hội tự đặt cho mình các mục tiêu tôn giáo. Theo luận lý học của lập trường này, một giáo hội như thế cũng là “từ bên dưới” theo nghĩa thần học, tức là “thuộc thế gian này”, đó là việc Chúa Giêsu đã định nghĩa “bên dưới” ra sao trong Tin mừng Gioan (Ga 8:23). Một giáo hội học dựa trên communio hệ ở việc suy nghĩ và yêu thương từ “trên cao” đích thực. “Trên cao” này tương đối hóa mọi “trên cao” và “bên dưới” của con người vì trước Người, người thứ nhất sẽ là người chót hết và người chót hết sẽ là người trước nhất.

Trách vụ chính của tập san Communio phải, và do đó vẫn phải, lái chúng ta về phía “trên cao” đích thực này, thứ trên cao sẽ biến mất khỏi tầm nhìn khi chỉ được hiểu theo nghĩa xã hội học và tâm lý học. “Các giấc mơ của Giáo Hội” cho tương lai sẽ xổ lồng hoài mong mù quáng muốn dấn thân thành lập một giáo hội sẵn sàng tháo bỏ bất cứ điều gì là cốt yếu. Các hoài mong như thế chỉ có thể kích thích nhiều thất vọng hơn nữa, như Georg Muschalek đã chứng tỏ (7). Chỉ dưới ánh sáng cái “bên trên” đích thực người ta mới thực thi được một cuộc phê phán nghiêm túc và xây dựng hàng giáo phẩm, mà cơ sở của hàng này không thể là thứ triết lý ghen tỵ mà là Lời Thiên Chúa. Một tập san mang danh Communio, do đó, phải giữ cho sống động ngôn từ Ba Ngôi, ngôn từ mặc khải của Người trong lịch sử cứu độ trong Cựu và Tân Ước, mà giữa chúng là Việc Nhập Thể của Chúa Con, Thiên Chúa ở cùng chung ta, và trở thành mải mê trong ngôn từ Thiên Chúa trước bất cứ điều gì khác. Tập san này phải nói về Đấng Tạo Dựng, Đấng Cứu Chuộc, việc chúng ta giống Thiên Chúa, và cả về tội lỗi của nhân loại nữa. Nó không bao gời được quên số phận đời đời của chúng ta và cùng với thần học, nó phải khai triển một nền nhân học biết đi vào tâm điểm vấn đề. Nó phải làm cho Lời Chúa thành câu trả lời cho các câu hỏi của mọi người. Điều này có nghĩa nó không thể ẩn mình đàng sau một nhóm chuyên gia, thần học gia, và “những người tạo giáo hội” chỉ biết hối hả chạy từ cuộc họp này qua cuộc họp nọ và lo củng cố sự bất bình với Giáo Hội nơi họ và nơi người khác. Một tập san mà tư duy dựa trên communio không được phép chuyển giao ý thức hệ và công thức của mình cho những nhóm đó. Nó phải tiếp cận những ai tra vấn và tìm hiểu, và khi đàm đạo với những người như thế, nó phải học cách tiếp nhận như mới ánh sáng của chính Lời Thiên Chúa.

Chúng ta cũng nên nói thêm rằng họ cũng phải là những nhà truyền giáo đúng nghĩa. Âu Châu sắp sửa trở thành ngoại giáo một lần nữa, nhưng giữa những người ngoại giáo mới này, cũng có lòng khao khát Thiên Chúa mới. Tình hình này đôi khi làm ta lầm lẫn. Cơn khát này nhất định sẽ không được giải bằng cách mơ về Giáo Hội và không phải bằng cách tạo ra một giáo hội cố gắng tái sáng chế ra mình qua những cuộc thảo luận bất tận. Chẳng thà trốn vào những điều bí truyền, ma thuật, những nơi xem ra tạo nên bầu khí mầu nhiệm, một điều gì đó hoàn toàn khác, còn hơn. Đức tin không củng cố các xác tín của những người dành thì giờ cho những điều như thế. Đức tin là hồng phúc ban sự sống và một lần nữa phải trở nên có thể được nhận ra như vậy.

Trước khi kết luận, chúng ta phải nói qua về hai chiều kích khác của communio vốn chưa được chúng ta thảo luận. Ngay trong văn chương tiền Ki-tô giáo, ý nghĩa đầu tiên của communio cũng đã nói đến Thiên Chúa và các vị thần, và ý nghĩa thứ hai, cụ thể hơn, nói đến các mầu nhiệm làm trung gian cho việc hiệp thông với Thiên Chúa (8). Sơ đồ này dọn đường cho việc Ki-tô giáo sử dụng ngôn từ. Communio trước nhất phải được hiểu theo thần học. Chỉ lúc đó, người ta mới có thể rút ra các hệ luận cho ý niệm bí tích của communio, và chỉ sau đó, cho ý niệm giáo hội học. Communio là sự hiệp thông thân thể và máu huyết Chúa Ki-tô (xem 1Cr 10:16). Bây giờ, Toàn Thể đạt tới tính cụ thể trọn vẹn của nó; mọi người ăn cùng một bánh và do đó chính họ trở nên một. “Hãy nhận những gì thuộc anh em”, Thánh Augustinô viết thế, giả thiết rằng qua các bí tích, hiện hữu của con người được tham gia vào và được biến đổi thành một hiệp thông với Chúa Ki-tô. Giáo Hội chỉ hoàn toàn là chính mình trong bí tích, nghĩa là, bất cứ nơi nào Giáo Hội phó mình cho Người và bất cứ nơi nào Người phó mình cho Giáo Hội, tạo nên Giáo hội hết lần này đến lần nọ. Như một Đấng đã xuống tận những tầng sâu nhất của trái đất và hiện sinh con người, Người hướng dẫn Giáo Hội hết lần này đến lần nọ trở lên cao. Chỉ trong bối cảnh này, ta mới có thể nói đến chiều kích phẩm trật và đổi mới lối hiểu của chúng ta về truyền thống như một việc lớn lên về danh tính. Hơn bất cứ điều gì khác, điều này minh giải việc là người Công Giáo có nghĩa gì. Chúa là toàn bộ bất cứ nơi nào Người được tìm thấy, nhưng điều này cũng có nghĩa: cùng với nhau, chúng ta chỉ là một Giáo Hội và sự kết hợp nhân loại là định nghĩa không thể thiếu của Giáo Hội. Do đó, “Người là bình an của chúng ta... nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất” (Ep 2:14-18).

Vì lý do trên, Hans Urs von Balthasar đã giáng một đòn nặng nề lên nền xã hội học nhóm. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng cộng đồng giáo hội xuất hiện với khá nhiều người ngày nay như một bộ xương các định chế. Thành thử, “nhóm nhỏ...ngày càng trở nên tiêu chuẩn cho sinh khí của giáo hội. Với những người này, Giáo Hội như Công Giáo và phổ quát hình như lơ lửng giống như chiếc mái không gắn kết lơ lửng trên tòa nhà họ cư ngụ”. Balthasar cung cấp một viễn kiến thay thế:

“Toàn bộ cố gắng của Thánh Phao-lô là cứu hiệp thông Giáo Hội khỏi những cụm ‘trải nghiệm’ đặc sủng và qua thừa tác vụ tông truyền đưa Giáo Hội vượt qua chính mình tới những gì là Công Giáo, phổ quát. Thừa tác vụ trong Giáo Hội chắc chắn là phục vụ, chứ không thống trị, nhưng nó là việc phục vụ với thẩm quyền phá bỏ mọi tường thành được các nhà đặc sủng dựng lên chống lại hiệp thông phổ quát, và đem chúng 'đến chỗ vâng phục Chúa Ki-tô' (2Cr 10:5). Bất cứ ai dùng đặc sủng (dân chủ) san bằng thừa tác vụ Giáo Hội, do đó, đánh mất nhân tố vốn, một cách không lay chuyển và qua thập giá, thi hành mọi trách vụ đặc biệt vượt qua mình và nâng nó lên hàng Giáo Hội phổ quát, mà mối dây hiệp nhất của nó không phải là trải nghiệm (gnosis) mà là tình yêu hy sinh (agape)” (9).

Không cần phải nói đây không phải là việc bác bỏ ý nghĩa độc đáo của Giáo Hội địa phương cũng không bác bỏ các phong trào và cộng đồng mới trong đó Giáo Hội và đức tin có thể được cảm nghiệm một cách mạnh mẽ. Mỗi khi Giáo Hội sa vào một thời kỳ khủng hoảng và các cơ cấu rỉ sét không còn chống chọi được cơn cuồng phong thoái hóa phổ quát, những phong trào ấy từng là cơ sở canh tân, sức mạnh tái sinh (10). Điều này luôn giả định: bên trong các phong trào này, có sự cởi mở đối với toàn thể Đạo Công Giáo và họ nên thích ứng với sự hiệp nhất của truyền thống.

Cuối cùng chữ agape dẫn đến một chiều kích yếu tính khác của ý niệm communio. Việc hiệp thông với Thiên Chúa không thể sống được mà không có việc thực sự quan tâm tới cộng đồng nhân bản. Như thế, chiều kích đạo đức và xã hội tìm thấy trong ý niệm Thiên Chúa thuộc về yếu tính của communio. Một tập san tuân theo chương trình này cũng phải dành thời gian xử lý các vấn đề đạo đức và xã hội lớn lao của thời đại. Vai trò của nó không có tính chính trị, nhưng tuy vậy nó vẫn phải soi sáng các vấn đề kinh tế và chính trị bằng ánh sáng Lời Chúa bằng việc cũng lưu ý tới việc bình luận có phê phán và xây dựng.

Trước khi kết luận, ít nhất chúng ta cũng nên nhận xét sơ bộ về việc tự vấn lương tâm điều mà tôi từ khước bàn tới ở lúc khởi đầu. Tờ tập san đã thành công ra sao trong việc thực thi chương trình nguyên thủy của nó trong hai mươi năm đầu hiện hữu? Sự kiện nó bén rễ vào 13 ấn bản khác nhau đã nói thay sự cần thiết và chiều rộng của nó cho dù sự cân bằng thích đáng giữa điều phổ quát và điều đặc thù vẫn còn gây ra nhiều khó khăn cho các ấn bản cá thể. Nó đã bàn tới nhiều vấn đề chính về đức tin: Kinh Tin Kính, các bí tích, và các Mối Phúc, ấy là mới kể đến những loạt bài quan trọng nhất trong số các loại bài đang tiếp diễn. Chắc chắn nó đã giúp nhiều người tiến lại gần hơn communio của Giáo Hội hoặc thậm chí không bỏ căn nhà của họ trong Giáo Hội bất kể nhiều thử thách gay go.Tuy nhiên không có lý do nào để tự thỏa mãn. Tôi không thể không nghĩ tới câu nói của Hans Urs von Balthasar: “Không phải là chuyện diệu võ dương oai, nhưng là chuyện can đảm Ki-tô giáo, khi chường mình cho nguy cơ”. Chúng ta có can đảm đủ chưa? Hay, trên thực tế, chúng ta vốn ẩn mình phía sau thông thái thần học và quá thường khi ráng chứng tỏ cả chúng ta nữa cũng cập nhật hóa? Chúng ta có thực sự nói Lời đức tin một cách dễ hiểu và vươn tới các trái tim của một thế giới đang đói khát?Hay phần lớn chúng ta chỉ ráng ở lỳ trong vòng nội bộ, ném banh tới lui bằng ngôn từ kỹ thuật? Tôi xin kết thúc với điều ấy, vì cùng với những câu hỏi này, tôi cũng muốn phát biểu các lời khen ngợi và cầu chúc tốt nhất của tôi cho 20 năm kế tiếp của Communio.
________________________________________________________________
(1) Origen, Bình luận về các Thánh vịnh 36, 23 (PG 17, 133B) được trích dẫn trong Hans Urs von Balthasar, Origines,Geist und Feuer (Einsiedeln?Freiburg, 1991) 115 (Bản tiếng Anh: Origen: Spirit and Fire, của Robert J. Daley (Washington D.C. 1984).
(2)Hans Urs von Balthasar, "Communio: a Programme," trong International Catholic Review: Communio, Vol. 1, no. 1 (1972), 12.
(3) Tôi đã cố gắng giải thích nghĩa chính xác, theo Kinh Thánh của khái niệm, "dân Chúa" trong cuốn sách của tôi, Giáo hội, Đại kết và Chính trị (New York 1988). Cũng nên xem cuốn sách nhỏ của tôi Zur Gemeinschaft gerufen (Freiburg, 1991), 27-30.
(4) Cũng nên so sánh, về phương diện này, cuốn Zur Gemeinschaft gerufen 70-97. Cũng đáng lưu ý là văn kiệnn của Bộ Giáo lý Đức tin, gửi các giám mục của Giáo Hội Công Giáo về "Một số Khía cạnh về Giáo hội như Hiệp thông".
(5) Dei Verbum, số 10.
(6) Ibid. số 8
(7) G. Muschalek, Kirche-noch heilsnotwendig? Uber das Gewissen, die Emporung und das Verlangen (Tubingen, 1990); cuốn sách nhỏ này cung cấp một cuộc phân tích và chẩn đoán gợi suy nghĩ về cuộc khủng hoảng hiện nay trong Giáo hội.
(8) Tham chiếu quan trọng nhất tìm thấy trong W. Bauer, Worterbuch zum Neuen Testament (Berlin, 5th ed.) Từ khóa: koinoneo, koinonia,koinonos,các cột 867-870.
(9) Balthasar, Communio - A Programme, 10.
(10) Điều này được minh họa rất rõ trong cuốn sách của B. Hubensteiner, Vom Geist des Barock (Munich, 1978, 2nd ed.) nhất là các trang 58-158. Cũng nên so sánh P.J. Cordes, Mitten in unserer Welt. Krafte geistlicher Erneuerung (Freiburg, 1987); bản tiếng Anh xem In the Midst of Our World: Forces of Spiritual Renewal (San Francisco, 1988)