Giới thiệu 12 vị có nhiều khả năng trở thành Giáo Hoàng: Vị Đức Hồng Y nói lưu loát nhiều thứ tiếng nhất
Đức Hồng Y Péter Erdő. Tổng Giám mục Địa phận Esztergom-Budapest, Hung Gia Lợi, hay còn gọi là Hungary. Khẩu hiệu Giám Mục “Initio non erat nisi gratia”, nghĩa là “Lúc ban đầu không có gì ngoài ân sủng”
Đức Hồng Y Péter Erdő sinh ngày 25 tháng 6 năm 1952, tại Budapest, Hung Gia Lợi. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Đức Hồng Y vào ngày 21 tháng 11 năm 2003.
Là anh cả trong gia đình có sáu người con, Đức Hồng Y Péter Erdő được nuôi dưỡng bởi cha mẹ Công Giáo ngoan đạo trong một gia đình mà Đức tin đã “được đan xen vào trong kết cấu cuộc sống của chúng ta”. Ngài lớn lên dưới chế độ cộng sản, và khi ngài lên bốn, gia đình ngài buộc phải chạy trốn chỉ với bộ quần áo trên người sau khi quân xâm lược Liên Xô đốt cháy ngôi nhà của gia đình họ vào năm 1956. Sau đó, ngài đã trải qua nhiều mức độ phân biệt đối xử khác nhau vì Đức tin của mình. Ngài được học tại một trường dành cho nam sinh Piarist ở Budapest. “Thực tại của Chúa” bắt đầu thu hút cậu bé Péter Erdő trở thành một cậu bé giúp lễ, mang lại ý nghĩa và định hướng cho cuộc sống của ngài. Ngài vào chủng viện sau nhiều lần cầu nguyện, tin rằng việc giúp đỡ mọi người hướng tới ơn cứu rỗi là điều quan trọng đến mức đòi hỏi phải cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho việc đó.
Sau khi thụ phong linh mục vào năm 1975 — mà ngài gọi là một trong ba khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời — ngài đã dành hai năm phục vụ giáo xứ trước khi được gửi đến Rôma, nơi ngài lấy bằng thần học và luật giáo hội tại Đại học Giáo hoàng Latêranô, năm 1980. Trong những năm sau đó, ngài giảng dạy tại nhiều khoa luật giáo hội và thần học ở Hung Gia Lợi và nước ngoài, bao gồm cả Buenos Aires, trong khi làm thư ký và thẩm phán giáo hội. Trong thời gian này, ngài đã xuất bản các hướng dẫn và bài viết về luật giáo hội. Ngài là nghiên cứu sinh tại Đại học California, Berkeley từ năm 1995 đến 1996. Trong một thời gian, ngài là hiệu trưởng của Học viện Hung Gia Lợi tại Rôma, trong khi giảng dạy tại các trường Đại học Grêgôriô và Latêranô. Đức Gioan Phaolô II đã tấn phong linh mục Erdő làm giám mục vào năm 2000 và phong ngài làm giám mục trưởng của toàn Hung Gia Lợi với tư cách là Tổng Giám Mục của Tổng giáo phận Esztergom-Budapest vào năm 2003. Đức Tổng Giám Mục Erdő được nâng lên hàng Đức Hồng Y cùng năm.
Nói được tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ là tiếng Hung Gia Lợi, Đức Hồng Y Erdő được bầu làm chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hung Gia Lợi năm 2005 và cùng năm đó, làm chủ tịch Hội đồng các Hội đồng Giám mục Âu Châu, gọi tắt là CCEE. Sự kính trọng mà ngài giành được từ các đồng nghiệp giám mục của mình đã được thể hiện qua việc ngài tái đắc cử chủ tịch CCEE năm 2011 cũng như việc ngài được bổ nhiệm để giúp giám sát “Bộ phận thứ hai” của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, chịu trách nhiệm về quan hệ ngoại giao. Từ năm 2003, ngài đã tham gia vào tất cả các kỳ họp của Thượng hội đồng Giám mục, với vinh dự đặc biệt được Đức Giáo Hoàng Phanxicô trao tặng là làm tổng tường trình cho các kỳ họp năm 2014 và 2015. Ngài là tác giả của hơn 250 bài báo và 25 cuốn sách.
Được hình thành giữa những khó khăn của chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Hồng Y Péter Erdő được coi rộng rãi là một trí thức vĩ đại và một người có hiểu biết sâu sắc về những tai họa gây ra bởi chính sách Ostpolitik. Là một tác giả sáng tác nhiều và đọc rất nhiều, Đức Hồng Y Erdő cũng là một giáo viên thành thạo và là một nhà nghiên cứu giáo luật và học giả Kinh thánh có trình độ cao, nhờ đó ngài đã nhận được một số giải thưởng bao gồm bằng tiến sĩ danh dự từ một số tổ chức bao gồm Institut Catholique de Paris, năm 1996, và gần đây nhất là Giải thưởng Vox Canonica năm 2023, một giải thưởng dành cho các nhà nghiên cứu giáo luật lỗi lạc.
Ngài yêu thích phụng vụ hậu Công đồng Vatican II, đặc biệt là sự nhấn mạnh vào các bài đọc Cựu Ước. Mặc dù ngài thích Hình thức thông thường của Thánh lễ, ngài sẵn sàng cho phép Hình thức đặc biệt và sẽ ủng hộ nếu được yêu cầu làm như vậy nhưng ngài không đưa ra bình luận công khai nào về Tự Sắc Traditionis Custodes và những hạn chế của nó đối với Thánh lễ La tinh truyền thống.
Ngài coi Bí tích Thánh Thể và chức linh mục có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và mạnh mẽ bênh vực luật độc thân linh mục. Là người bảo vệ cấu trúc phân cấp của Giáo hội, ngài là một linh mục có trái tim mục vụ, người coi tầm quan trọng của ơn cứu rỗi là động lực thúc đẩy việc thụ phong linh mục. Ngài đã đặt trọng tâm vào Tân Phúc âm hóa và mục vụ cho giới trẻ. Công tác truyền giáo là trọng tâm trong đường lối mục vụ của ngài, và ngài đã thể hiện mối quan tâm lớn đối với cuộc khủng hoảng ơn gọi của Giáo hội.
Số lượng ơn gọi trong giáo phận của ngài hầu như thay đổi trong suốt nhiệm kỳ của ngài: năm 2002, tổng số linh mục là 358, và tăng lên tới 443 vào năm 2013 trước khi giảm xuống còn 365 vào năm 2021. Số lượng tu sĩ nam tăng nhẹ, từ 173 vào năm 2002 lên 199 vào năm 2021, nhưng số lượng tu sĩ nữ giảm hơn một nửa, từ 699 vào năm 2022 xuống còn 303 vào năm 2021.
Thận trọng, không thích rủi ro, thậm chí là nhút nhát, Đức Hồng Y Erdő, ở tuổi 51, là một trong những Đức Hồng Y trẻ nhất của Giáo hội khi được Đức Gioan Phaolô II tấn phong vào Đức Hồng Y đoàn năm 2003.
Về các vấn đề chính trị như nhập cư, một vấn đề mà Hung Gia Lợi đã vật lộn trong nhiều năm, Đức Hồng Y đã truyền đạt một đường lối cân bằng, công nhận quyền di cư nhưng cũng nhận thức được những nguy hiểm của việc hòa nhập người tị nạn mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định chính trị. Ngài tin rằng cần phải đạt được sự cân bằng thực sự giữa tình đoàn kết và lòng thương xót. Đức Hồng Y quan tâm đến các Kitô hữu bị đàn áp (“Chúng ta thấy các môn đệ của Chúa Kitô trong họ”) nhưng vẫn có quan điểm khá ôn hòa về đạo Hồi. Đức Hồng Y Erdő có thái độ rất tích cực đối với Giáo Hội Chính thống giáo và nhiệt tình ủng hộ đối thoại với các tôn giáo không phải là Kitô Giáo, nhấn mạnh giá trị của Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae hay Phẩm Giá Con Người. Sự nhấn mạnh của ngài vào sự thống nhất và vai trò là cầu nối giữa Đông và Tây đã củng cố vị thế của ngài như một nhà lãnh đạo quan trọng của Giáo hội.
Đức Hồng Y Erdő đã dành nhiều năm trong chức linh mục của mình để làm giáo viên — một nghề mà ngài rất yêu thích. Ngài thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có mối quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, điều mà ngài coi là quan trọng đối với Giáo hội khi Giáo hội đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng vì chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa tương đối. Ngài kiên quyết bảo vệ sự tồn tại của luật tự nhiên và kinh nghiệm của ngài về chủ nghĩa cộng sản đã dạy cho ngài tầm quan trọng mà tôn giáo có thể đóng góp để lấp đầy khoảng trống do sự sụp đổ của một ý thức hệ chính trị để lại, và rằng chỉ có mối quan hệ cá nhân với Chúa Kitô mới mang lại tự do và hạnh phúc thực sự.
“Nếu đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, thì việc phục vụ đức tin của người khác, truyền bá đức tin, giảng dạy đức tin và đặc biệt là phục vụ trong phụng vụ là những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống”, ngài nói vào tháng 8 năm 2024. Giúp đỡ “sự cứu rỗi của người khác”, ngài nói thêm, là nhiệm vụ quan trọng và hữu ích. “Đây là động lực chính mà tôi cảm thấy ngay từ khi còn là một cậu bé”, ngài nói. “Và vì vậy, tôi dần đi đến quyết định vào chủng viện”.
Đức Hồng Y Erdõ phủ nhận chủ nghĩa phổ quát, là ý tưởng cho rằng tất cả mọi người đều được cứu rỗi, nhưng vẫn tin rằng tất cả mọi người đều có thể được cứu rỗi. Cuối cùng, ngài tin rằng, chỉ thông qua Chúa Giêsu Kitô, nhân loại mới có thể tìm thấy con đường đến với Chúa. Ngài ủng hộ việc đồng hành mục vụ cho những người ly hôn “tái hôn” nhưng chỉ khi “không có nghi ngờ” về giáo huấn của Giáo hội về sự bất khả phân ly của hôn nhân. Ngài kiên quyết phản đối việc chấp nhận các kết hiệp đồng tính nhưng ủng hộ việc hỗ trợ mục vụ cho những người bị hấp dẫn bởi người đồng giới. Ngài ủng hộ Humanae Vitae, ủng hộ mạnh mẽ sự sống và có lòng sùng kính Đức Mẹ nhiệt thành.
Là người ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị Đức Hồng Y này được cố Đức Hồng Y George Pell yêu mến, người coi vị Đức Hồng Y người Hung Gia Lợi này là Người kế vị thích hợp nhất của Thánh Phêrô, một người có thể khôi phục lại nền pháp quyền tại Vatican sau triều đại Giáo hoàng Phanxicô.
Mặc dù ngài không bình luận công khai về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans, nhưng xét đến việc ngài khăng khăng rằng giáo huấn của Giáo hội phải được duy trì, Đức Hồng Y Erdő có nhiều khả năng sẽ bị những người ủng hộ LGBTQ+ trong Giáo Hội phản đối. Ngài đã kiên quyết khẳng định lại lập trường của Giáo hội rằng “hoàn toàn không có căn cứ nào để coi các liên minh đồng tính là giống hoặc thậm chí là tương tự với kế hoạch của Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”.
Nhiều quan sát viên cho rằng nếu được bầu làm Giáo Hoàng, có lẽ việc đầu tiên mà ngài làm là hủy bỏ Tuyên ngôn Fiducia Supplicans và thay đổi sâu sắc hiệp định bí mật với nhà cầm quyền Trung Quốc.
Đức Hồng Y Erdő luôn là người bảo vệ kiên quyết cho mục đích kết hợp và sinh sản của hôn nhân, coi “sự cởi mở với sự sống là một yêu cầu nội tại của tình yêu vợ chồng”. Ngài đã kêu gọi “tái khám phá” “sự cởi mở với sự sống” của văn kiện này và kiên quyết chống lại việc xét lại Thông Điệp Humanae Vitae do Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục công bố ngày 25/7/1968.
Đức Hồng Y Erdő đã nhấn mạnh rằng những người Công Giáo tái hôn dân sự chỉ có thể rước lễ nếu họ sống tiết dục, nghĩa là họ kiêng quan hệ tình dục, phù hợp với giáo huấn của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong Thượng hội đồng về Gia đình mà ngài là tổng tường trình viên, Đức Hồng Y Erdő đã ban hành một báo cáo nhấn mạnh rằng bất kỳ đường lối mục vụ nào cũng không được thỏa hiệp với sự thật về tính bất khả phân ly của hôn nhân.