1. Hai mươi câu hỏi dành cho Đức Hồng Y Fernández (và Đức Thánh Cha Phanxicô?)

Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Trên tờ The Catholic Thing, ngài có bài viết nhan đề “Twenty Questions for Cardinal Fernández (and Pope Francis?)”, nghĩa là “Hai mươi câu hỏi dành cho Đức Hồng Y Fernández (và Đức Thánh Cha Phanxicô?)”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân

Đầu năm nay, Đức Hồng Y Daniel Sturla, Tổng Giám mục Montevideo, và Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, lúc đó là Tổng Giám mục La Plata, đã có các Tòa Giám Mục đối diện ở hai bờ một con sông. Giờ đây, hai vị thấy mình đang ở trong những xu hướng đối lập với nhau, vì người trước lo lắng rằng người sau sẽ đẩy Giáo hội vào tình trạng xung đột và hỗn loạn ngay trước lễ Giáng Sinh. “Tôi không nghĩ đây là một chủ đề có thể được đưa ra vào dịp Giáng Sinh,” Đức Hồng Y Sturla nói về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans, là tuyên bố của Bộ Giáo Lý Đức Tin về việc chúc lành cho các cặp “bất hợp lệ” và “đồng giới”. “Quyết định đó đã thu hút sự chú ý của tôi một cách mạnh mẽ, bởi vì đây là một vấn đề gây tranh cãi và nó đang chia rẽ nội bộ Giáo hội.”

Không chỉ Tiber, mà cả ở La Plata.

Hồng Y Fernández và Hồng Y Sturla đều được Đức Giáo hoàng Phanxicô phong làm tổng giám mục trong năm đầu tiên của ngài, và cả hai vị đều thuộc các tổng giáo phận liền kề với Buenos Aires. Nếu bây giờ Hồng Y Fernandez đã mất đi sự ủng hộ của vị Hồng Y do Đức Thánh Cha Phanxicô phong ở bên kia sông, thì điều đó cho thấy Fiducia Supplicans đã được đón nhận kém đến mức nào. Thế mà, Hồng Y Fernández đã hối hả tăng thêm thảm họa là đẩy toàn bộ Giáo hội vào xung đột và hoang mang về một vấn đề gây tranh cãi chỉ vài ngày trước Lễ Giáng Sinh, là thời điểm mà tiếng nói tôn giáo được chú ý nhiều hơn trên báo chí thế tục.

Đức Hồng Y Fernández đã có ý áp dụng những hướng dẫn của ngài về cách chúc lành cho “các cặp vợ chồng không hợp lệ” – các cặp sống thử, các “cặp vợ chồng” đa thê, các cặp ngoại tình, các cặp đồng tính, và còn rất nhiều nữa. Hồng Y Fernandez viết hôm thứ Hai 18 Tháng Mười Hai: “Vì vậy, ngoài hướng dẫn được cung cấp ở trên, sẽ không có phản hồi nào thêm về những cách khả thi để điều chỉnh các chi tiết hoặc tính thực tế liên quan đến các phước lành kiểu này”. Nhưng, đến cuối tuần, ngài đã phải trả lời phỏng vấn bằng tiếng Tây Ban Nha cho The Pillar. Mọi việc đã không diễn ra như kế hoạch. Một trong những người tiền nhiệm của ngài ở Bộ Giáo Lý Đức Tin đã tuyên bố Fiducia Supplicans là “tự mâu thuẫn”.

Tại Vatican, vào tuần trước lễ Giáng Sinh - những lời chúc phúc cho người đồng giới được treo cẩn thận bên ống khói, với hy vọng rằng Cha James Martin sẽ sớm có mặt ở đó. Với bụi bặm hiện đã lắng xuống và khiến thế giới phải ghi nhận sự thất vọng của họ, sau đây là một loạt câu hỏi mà Đức Hồng Y Fernández có thể chọn trả lời khi ngài bắt đầu một loạt cuộc phỏng vấn mới để bảo vệ tuyên bố của mình.

Trong bài huấn từ trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật đầu tiên sau khi được bầu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về sự khôn ngoan thần học siêu việt của bà nội, bà ngoại, một chủ đề mà ngài đã quay lại nhiều lần. Sự phân biệt trong tuyên bố của Đức Hồng Y giữa các phước lành “tăng dần” và “giảm dần” có phù hợp với trải nghiệm của những người bà không? Liệu tâm hồn bà có tràn ngập niềm vui Tin Mừng khi hay tin người con rể của bà, là người đã bỏ rơi con gái và các cháu của mình, đã được cha xứ ban phước cùng với cô nhân tình mới không?

Khi ngài được bổ nhiệm làm tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Đức Thánh Cha đã viết cho ngài một lá thư cảnh báo ngài chống lại “một nền thần học gắn chặt với bàn làm việc”. Có phải sự phân biệt tinh tế của Fiducia Supplicans – chúc phúc cho “các cặp” chứ không phải là chúc phúc cho “sự kết hợp”- là điều khiến họ trở thành một cặp – là cách mà những người Công giáo bình thường nhìn nhận sự việc, hay nó giống nhiều hơn với lối ngụy biện trên bàn giấy?

Fiducia Supplicans tuyên bố là “đổi mới” và “phát triển” trong cách hiểu thần học về phước lành. Những điều mới lạ này “dựa trên tầm nhìn mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô”. Phải chăng “tầm nhìn mục vụ” của Đức Thánh Cha hiện nay là một quỹ đạo thần học, tương tự như Kinh thánh, truyền thống và huấn quyền? Liệu một người theo chủ nghĩa tối thượng như vậy còn có thể hiểu được liệu tầm nhìn của giáo hoàng có phù hợp với giáo huấn của Vatican II về giám mục đoàn hay không?

“Tầm nhìn mục vụ” của Đức Thánh Cha Phanxicô là gì? Trong bối cảnh Fiducia Supplicans mâu thuẫn với tài liệu Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 2021 về cùng chủ đề, cũng được ban hành với sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng, làm sao người ta biết được tầm nhìn mục vụ ấy là gì? Hay việc biết đến tầm nhìn mục vụ ấy là một thứ thuyết Ngộ đạo mà Đức Thánh Cha đã không ngừng chỉ trích?

Fiducia Supplicans hướng dẫn rằng “khi một người xin một phước lành, không nên đặt một phân tích đạo đức toàn diện làm điều kiện tiên quyết để ban phước lành. Vì những người tìm kiếm phước lành không cần phải có sự hoàn thiện về mặt đạo đức trước đó.” Phải chăng theo quan điểm của Bộ Giáo Lý Đức Tin đây là một thực tế phổ biến cần được điều chỉnh? Có ai ở Bộ Giáo Lý Đức Tin đã từng, dù chỉ một lần, chứng kiến một linh mục tiến hành “phân tích đạo đức toàn diện” khi được yêu cầu ban phép lành không? Có linh mục nào, ở bất cứ đâu, từng yêu cầu phải “hoàn thiện về mặt đạo đức” trước khi ban phép lành không? Điều đó thậm chí có thể trông như thế nào? Có thể nào một giáo sĩ rơm đang được tạo ra ở đây?

Trong cuộc phỏng vấn với Pillar, ngài nói, “Tôi không biết tại thời điểm nào chúng ta đã đề cao cử chỉ mục vụ đơn giản này đến mức chúng ta đánh đồng nó với việc rước lễ. Đó là lý do tại sao chúng ta muốn đặt ra nhiều điều kiện để được ban phước lành.” Bộ Giáo Lý Đức Tin có biết ai, ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ lúc nào đã “đánh đồng” việc ban phép lành với việc “tiếp nhận Bí tích Thánh Thể” không? Đây có phải là một giáo sĩ rơm khác được tạo ra từ đống cỏ khô của máng cỏ không?

Trong cùng một cuộc phỏng vấn, ngài viết rằng, “Một số giám mục đã đề ra các hình thái được nghi thức hóa trong việc chúc lành cho các cặp vợ chồng không hợp lệ, và điều này là không thể chấp nhận được.” Liệu Bộ Giáo Lý Đức Tin có chịu trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Fiducia Supplicans như vậy không, chẳng hạn, giống như Bộ Phụng tự yêu cầu cấp phép cho Thánh lễ Tridentinô được cử hành trong các nhà thờ giáo xứ?

Fiducia Supplicans trích dẫn Amoris Laetitia rằng “những gì là một phần của việc phân định thực tế trong những hoàn cảnh cụ thể không thể được nâng lên mức độ của một quy luật” bởi vì điều này “sẽ dẫn đến một lối ngụy biện không thể chấp nhận được”. Fiducia Supplicans có ý định thực hiện các phép lành như Amoris Laetitia đã làm khi lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, tức là việc thực hiện cùng một hành vi lại vừa có thể là thánh thiện lại vừa có thể là tội lỗi, tùy thuộc vào hành vi đó được thực hiện ở đâu? Một hành vi được đánh giá là tội lỗi ở Ba Lan, lại được xem là thánh thiện ở Đức, tội lỗi ở Alberta, nhưng là thánh thiện ở Malta.

Trong Fiducia Supplicans, ngài viết rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin đã làm việc về tuyên bố này kể từ trước khi ngài nhậm chức vào tháng 9. Thông tin này có được chia sẻ với các thành viên của Thượng Hội Đồng về tính đồng nghị vào tháng 10, những người đã thảo luận về chính vấn đề này không? Họ có được thông báo rằng ngay cả khi họ quyết định không đề cập đến vấn đề này trong báo cáo cuối cùng của mình thì Bộ Giáo Lý Đức Tin vẫn sẽ mạnh dạn tiến lên không?

Phải chăng những người quản lý tiến trình Thượng Hội Đồng cho một Giáo hội đồng nghị đã được yêu cầu đừng bận tâm đến việc giải quyết các vấn đề đồng tính trong báo cáo của Thượng Hội Đồng vì Bộ Giáo Lý Đức Tin sẽ giải quyết vấn đề đó bên ngoài tiến trình Thượng Hội Đồng? Phải chăng họ đã chấp nhận loại bỏ các tham chiếu “LGBT” khỏi báo cáo cuối cùng vì biết Bộ Giáo Lý Đức Tin đang lên kế hoạch gì, từ đó đánh lừa các thành viên thượng hội đồng đã đề xuất không?

Thượng phụ Sviatoslav Shevchuk của Giáo hội Công giáo Đông Phương Ukraine, giáo hội Công giáo Đông phương lớn nhất, đã tuyên bố rằng tuyên bố của Bộ Giáo Lý Đức Tin “không có hiệu lực pháp lý đối với các tín hữu của Giáo hội Công giáo Đông Phương Ukraine” vì nó không tính đến giáo luật, phụng vụ phương đông hoặc sự hiểu biết thần học của riêng họ về phước lành. Bộ Giáo Lý Đức Tin có nhận thức được rằng hướng dẫn của mình hoàn toàn mâu thuẫn với giáo lý của Giáo hội Công giáo Đông Phương Ukraine dạy rằng “việc ban phép lành của một linh mục hoặc giám mục là một cử chỉ phụng vụ không thể tách rời khỏi phần còn lại của nội dung các nghi thức phụng vụ và không thể giản lược cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của lòng đạo đức riêng tư “?

Với di sản Byzantine được chia sẻ ở phía đông, Bộ Giáo Lý Đức Tin có xem xét ý nghĩa đại kết của việc ban phép lành xem có thể mâu thuẫn với sự hiểu biết và thực hành của các Giáo hội Chính thống không?

Một số hội đồng giám mục Phi Châu đã bác bỏ giáo huấn trong Fiducia Supplicans. Thật vậy, Đức Hồng Y Fridolin Ambongo của Kinshasa, chủ tịch Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Phi Châu và Madagascar, đã viết cho các giám mục anh em của mình rằng, “với tư cách là những mục tử của Giáo hội ở Phi Châu, chúng ta có nhiệm vụ phải đưa ra sự minh bạch trong suốt về vấn đề này”. Ngài đề xuất rằng các giám mục Phi Châu đưa ra “sự hướng dẫn dứt khoát cho cộng đồng Kitô hữu của chúng ta” bằng cách “soạn thảo một tuyên bố chung duy nhất của hội đồng”. Có giám mục cao cấp nào của Phi Châu đã được hỏi ý kiến, theo tinh thần đồng nghị, trước khi Fiducia Supplicans được ban hành không?

Đức Hồng Y Ambongo là thành viên của Hội đồng Hồng Y, nhóm cố vấn nội bộ của Đức Thánh Cha. Hội đồng đã họp tại Rôma vào tháng 12, chỉ vài tuần trước khi Fiducia Supplicans được ban hành. Đức Hồng Y Ambongo có được hỏi ý kiến khi ngài ở Rôma không? Bộ Giáo Lý Đức Tin có hỏi quan điểm của ngài không?

Đức Thánh Cha Phanxicô đã quyết định, sau khi Đức Hồng Y Robert Sarah nghỉ hưu và Đức Hồng Y Peter Turkson bị cách chức, rằng không có các giám mục giáo triều nào đến từ Phi Châu nữa. Liệu Fiducia Supplicans có khác đi không nếu nhóm các giám mục giáo triều hiện tại mang tính đại diện và toàn diện hơn?

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây khác, ngài đã nói về Phi Châu, nơi “có luật trừng phạt đến mức bỏ tù những ai chỉ cần tuyên bố mình là người đồng tính, hãy tưởng tượng như thế thì một phước lành sẽ làm được gì.” Bộ Giáo Lý Đức Tin có xem xét tác động ở Phi Châu của Fiducia Supplicans, rằng có lẽ bạo lực chống Kitô giáo gây chết người có thể gia tăng do dân chúng nhận ra sự chấp thuận của Giáo Hội đối với các kết hiệp đồng giới không? Nếu một giám mục Phi Châu thận trọng không thực hiện Fiducia Supplicans vì các hình phạt dân sự đối với người đồng tính, thì liệu Bộ Giáo Lý Đức Tin có thiếu thận trọng không khi tạo ra ấn tượng toàn cầu rằng Giáo hội Công giáo hiện chấp thuận các kết hợp tính dục đồng giới? Hơn 4000 Kitô hữu đã bị giết chỉ riêng ở Nigeria trong năm nay, với khoảng 150 người bị giết vào dịp Giáng Sinh.

Hiệp thông Anh giáo đã thực sự kết thúc vào năm nay, với việc các Giám Mục đại diện cho hơn 80% người Anh giáo không còn công nhận Tổng Giám mục Canterbury là “công cụ của hiệp thông”. Nguyên nhân gần nhất của sự tan rã là do sự ban phước cho các cặp đồng giới. Phải chăng Bộ Giáo Lý Đức Tin tự tin rằng những hậu quả thảm khốc đối với người Anh giáo sẽ không thể vang vọng trong Giáo hội Công giáo?

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu sứ vụ Phêrô với ước mơ về một “Giáo hội nghèo dành cho người nghèo”. Có Giáo hội nghèo nào yêu cầu cung cấp Fiducia Supplicans không? Ngược lại, có thể coi Fiducia Supplicans là loại việc mà một Giáo hội giàu có sẽ làm cho người giàu, như người ta có thể thấy ở khu West Side của Manhattan hoặc ở Đức, nơi Giáo hội địa phương giàu có nhất thế giới?

Ngài đã thông báo rằng ngài sẽ đến Đức để giải quyết một số vấn đề khó khăn do “Tiến Trình Công Nghị” của Đức gây ra, vốn đã bị Vatican nhiều lần lên án. Ngài có nghĩ rằng Fiducia Supplicans sẽ truyền cảm hứng cho người Đức thay đổi đường lối của họ, hay ngược lại càng trở nên bướng bỉnh hơn, khi kỳ vọng rằng như Đức Thánh Cha đã đảo ngược chính mình trong Fiducia Supplicans, thì ngài cũng sẽ đảo ngược chính mình đối với Tiến trình Công Nghị nói chung?

Trước khi ngài được bổ nhiệm làm bộ trưởng giáo lý năm nay, Đức Hồng Y Eduardo Pironio được kể là người Á Căn Đình nổi bật nhất phục vụ trong Giáo triều Rôma từ những năm 1970 đến 1990. Ngài đã được phong chân phước hai ngày trước khi Đức Hồng Y công bố Fiducia Supplicans. Đức Hồng Y có lấy ngài làm hình mẫu cho việc phục vụ của mình trong Giáo triều Rôma không? Lần sau về thăm nhà, khi đến thăm di tích của ngài, Đức Hồng Y có nghĩ rằng ngài sẽ ban phước lành cho công việc của Đức Hồng Y không, và ngài có nên tự phát xin chúc lành không? Ngài có thể cầu nguyện trước thánh tích với Đức Hồng Y Sturla của Montevideo không?

2. Tuyên ngôn Fiducia Supplicans: Tắt một lời, là thảm họa

Cha Gerald E. Murray là một luật sư giáo luật, cha sở của Nhà thờ Thánh Giá ở Thành phố New York. Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách Công Giáo nổi tiếng. Cuốn mới nhất có tựa đề “Làm dịu cơn bão: Chèo chống trước các cuộc khủng hoảng Giáo hội và Xã hội Công Giáo phải đối mặt.” Ngài vừa có bài viết nhan đề “In One Word: Disaster”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.

Vấn đề đầu tiên và nghiêm trọng nhất trong Tuyên ngôn Fiducia Supplicans là việc lựa chọn từ “couple” hay “một cặp” để mô tả hai người cùng giới tính thực hiện hành vi kê gian trong một mối quan hệ tự tuyên bố và công khai đang diễn ra, chẳng hạn như một hôn nhân dân sự. Tôi thất vọng nhận thấy rằng từ sodomy hay kê dâm không được tìm thấy trong Fiducia Supplicans. Các từ đồng tính luyến ái cũng không xuất hiện trong Fiducia Supplicans. Thật vậy, không có đề cập rõ ràng nào về điều gì phân biệt các “cặp” đồng giới với các hình thức hợp tác hoặc liên kết khác giữa hai người cùng giới. Fiducia Supplicans cũng không nêu rõ hành vi nào phân biệt các “cặp” này với các cặp mà Fiducia Supplicans mô tả là đang ở trong “những tình huống bất thường”, hay những người đàn ông và phụ nữ được cho là đã ly hôn và tái hôn dân sự. Từ ngoại tình cũng không có trong Fiducia Supplicans. Fiducia Supplicans tuyên bố rằng cả hai loại cặp đều có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, nhưng Fiducia Supplicans bỏ qua việc đề cập rằng loại cặp thứ nhất làm như vậy một cách không tự nhiên và loại thứ hai là một cách tự nhiên nhưng vô đạo đức, tức là quan hệ ngoại tình với nhau.

Việc sử dụng từ “một cặp” để mô tả hai người cùng giới tính quan hệ tình dục đồng tính không hề có cơ sở kinh thánh, thần học hay kinh điển nào cả. Bộ Giáo lý Đức tin đã tuyên bố trong tài liệu năm 2003 “Những cân nhắc về đề xuất công nhận pháp lý đối với sự kết hợp giữa những người đồng tính” rằng:

Hoàn toàn không có cơ sở nào để coi việc kết hợp đồng giới là tương tự hoặc thậm chí hơi giống với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình. Hôn nhân là thánh thiện, trong khi những hành vi đồng tính luyến ái lại đi ngược lại luật luân lý tự nhiên. Các hành vi đồng tính luyến ái đóng kín hành vi tình dục với món quà sự sống. Chúng không xuất phát từ sự bổ sung tình cảm và tình dục đích thực. Trong mọi trường hợp chúng không thể được chấp thuận.

Giáo hội chưa bao giờ (cho đến nay) và không bao giờ nên phân loại hai người trong một cuộc kết hợp đồng tính luyến ái bằng cùng một từ mà Giáo hội dùng để chỉ một người nam và một người nữ đã kết hôn, hoặc sắp đính hôn, hoặc đang hẹn hò.

Hành vi đồng tính luyến ái không phải và không thể là hành vi hôn nhân. Tài liệu năm 2003 nêu rõ:

Sự kết hợp đồng tính hoàn toàn thiếu các yếu tố sinh học và nhân học của hôn nhân và gia đình... Các sự kết hợp đồng tính cũng hoàn toàn thiếu chiều kích vợ chồng, chiều kích tượng trưng cho hình thức tính dục nhân bản và trật tự. Các mối quan hệ tình dục mang tính nhân bản khi và trong chừng mực chúng biểu lộ và cổ võ sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai giới trong hôn nhân và mở ra cho việc truyền sinh sự sống mới.

Kê gian không phải là một cách thay thế để tham gia vào các mối quan hệ tình dục của con người, với con người được Giáo hội hiểu là theo bản chất con người được Thiên Chúa tạo dựng. Nói một cách chính xác, đó không phải là hôn nhân mà chỉ là một hành vi tình dục, nhưng đúng hơn là một sự lạm dụng nghiêm trọng các cơ quan sinh dục. Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ban hành vào năm 1986 một Thư gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính, trong đó nêu rõ giáo huấn của Giáo hội:

Chọn một người cùng giới tính cho hoạt động tình dục của mình là hủy bỏ tính biểu tượng và ý nghĩa phong phú, chưa kể đến các mục tiêu, trong kế hoạch tình dục của Đấng Tạo Hóa. Hoạt động đồng tính luyến ái không phải là một sự kết hợp bổ sung, có khả năng truyền tải sự sống; và như vậy, nó cản trở lời mời gọi sống theo hình thức tự hiến mà Tin Mừng nói là bản chất của đời sống Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là những người đồng tính luyến ái không thường xuyên quảng đại và cống hiến hết mình; nhưng khi họ tham gia vào hoạt động đồng tính luyến ái, họ xác nhận trong mình một khuynh hướng tình dục rối loạn mà về cơ bản là buông thả bản thân.

Như trong mọi rối loạn luân lý, hoạt động đồng tính luyến ái ngăn cản sự hoàn thiện và hạnh phúc của chính mình bằng cách hành động trái ngược với sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa. Giáo hội, khi bác bỏ những quan điểm sai lầm liên quan đến đồng tính luyến ái, không hạn chế mà còn bảo vệ quyền tự do và phẩm giá cá nhân được hiểu một cách thực tế và xác thực.

Một người nam và một người nữ được kết hợp thành một cặp bằng lời thề hôn nhân và được hoàn thành bằng sự kết hợp thể xác giữa người chồng và người vợ. Hai người đàn ông hoặc hai người phụ nữ không và không thể trở thành một cặp vợ chồng, theo cách sử dụng từ ngữ không thay đổi của Giáo hội (cho đến nay), bằng cách thực hiện một số cam kết chung để kê gian với nhau, và sau đó tuân theo thỏa thuận đó bằng cách tham gia vào hành vi tội lỗi trái tự nhiên.

Việc sử dụng từ “một cặp” trong Tuyên ngôn Fiducia Supplicans trên thực tế là sự đầu hàng trước hệ tư tưởng dị giáo vốn tuyên bố rằng các cặp đồng giới cũng là những cặp giống như các cặp dị tính. Hậu quả tai hại của việc tán thành quan điểm phi Kitô giáo rằng hai người đồng tính sống chung là “một cặp” là một thông báo gây sửng sốt rằng các cặp đồng tính, giống như bất kỳ cặp vợ chồng nào khác, có thể được ban phúc vì họ cũng “cầu xin rằng tất cả những gì là chân thật, tốt đẹp và nhân bản có giá trị trong cuộc sống và các mối quan hệ của họ được phong phú, chữa lành và nâng cao nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.” (FS 31)

Thư Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 1986 mang tính tiên tri trong những cảnh báo của nó khi viết rằng:

Tuy nhiên, ngày nay ngày càng có nhiều người, ngay cả trong Giáo hội, đang gây áp lực rất lớn buộc Giáo hội phải chấp nhận tình trạng đồng tính luyến ái như thể nó không bị rối loạn và dung túng cho hoạt động đồng tính luyến ái. Những người trong Giáo hội tranh luận theo kiểu này thường có quan hệ chặt chẽ với những người có quan điểm tương tự bên ngoài Giáo hội. Những nhóm sau này được hướng dẫn bởi một tầm nhìn trái ngược với sự thật về con người, một điều được mạc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúng phản ánh, dù không hoàn toàn có ý thức, một hệ tư tưởng duy vật phủ nhận bản chất siêu việt của con người cũng như ơn gọi siêu nhiên của mỗi cá nhân.

Các thừa tác viên của Giáo hội phải bảo đảm rằng những người đồng tính do họ chăm sóc sẽ không bị đánh lừa bởi quan điểm này, một quan điểm hết sức trái ngược với giáo huấn của Giáo hội. Nhưng rủi ro là rất lớn và có nhiều người tìm cách tạo ra sự nhầm lẫn về quan điểm của Giáo hội, rồi lợi dụng sự nhầm lẫn đó để làm lợi cho mình.

Fiducia Supplicans, mặc dù có những tuyên bố mang tính suy đoán rằng đó là sự “phát triển” giáo huấn của Giáo hội về các phước lành, nhưng vẫn đại diện cho một chiến thắng dành cho những ai dung túng cho hoạt động đồng tính luyến ái. Tại sao? Thưa: bởi vì việc cho phép một linh mục ban phước lành cho những cặp đồng tính luyến ái, là những người kết hợp với nhau dưới một hình thức kết hợp nào đó khiến họ trở thành một cặp, tạo ra vẻ ngoài giả tạo rằng Thiên Chúa thực sự ban phước cho tội lỗi, và rằng Thiên Chúa hài lòng khi các linh mục và giám mục cầu xin Ngài chúc lành cho những gì Thiên Chúa đã cấm.

Như Thánh Phaolô đã viết:

Vì thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế, khiến thân thể họ ra hư hèn. Thay vì Thiên Chúa thật, họ đã theo những thần giả; họ đã tôn thờ những loài thọ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hoá. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men. Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình.(Rô-ma 1:24-27)

Một mối quan hệ tình dục rối loạn được hình thành bởi những hành vi vô liêm sỉ, buông thả bản thân là điều không thể chúc phúc. Fiducia Supplicans là một tai tiếng và là một thảm họa khi khẳng định có thể làm như thế.