Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II
Ngay sau Thế chiến I, Romano Guardini phát biểu một câu chẳng bao lâu sau đó đã trở thành câu trích dẫn tiêu chuẩn trong đạo Công Giáo Đức: “một biến cố có tầm quan trọng khôn lường đã khởi đầu: Giáo Hội đang bừng tỉnh trong linh hồn người ta”. Công Đồng Vatican II là hoa trái của sự bừng tỉnh này. Nó đặt thành lời và dành cho toàn thể Giáo Hội điều đã chín mùi trong cách nhận thức phát sinh từ đức tin trong bốn mươi năm giữa năm 1920 và năm 1960 vốn đầy những khởi sự và hy vọng. Để hiểu Công Đồng Vatican II, chúng ta phải nhìn vào thời kỳ này và cố gắng nhận ra, ít nhất trong những nét bao quát, các đường hướng và luồng tư tưởng dẫn tới Công Đồng. Trong mỗi trường hợp, tôi muốn bắt đầu bằng các ý niệm vốn được chủ trương trong thời kỳ này để từ chúng, khai triển các yếu tố căn bản của học thuyết Công Đồng trong Giáo Hội.
1.Giáo Hội như thân thể Chúa Kitô
a. Hình ảnh Nhiệm thể
“Giáo Hội đang bừng tỉnh trong linh hồn người ta”, câu nói này của Guardini đã được nói ra một cách đầy suy nghĩ vì đối với ngài, điều đặc biệt quan trọng là Giáo Hội được nhận biết và cảm nghiệm như một điều nội tâm, như một điều không đối lập với chúng ta như một dụng cụ cơ khí, nhưng sống động trong chúng ta. Nếu đến lúc đó, Giáo Hội vốn được nhìn như chỉ là cơ cấu và tổ chức, thì nay, tầm nhìn thông sáng coi chúng ta là chính Giáo Hội. Nó không chỉ là một tổ chức, nó là một cơ thể của Chúa Thánh Thần, một điều sống động bao gồm tất cả chúng ta từ bên trong. Ý thức mới mẻ về Giáo Hội này tìm thấy hình thức ngữ học của nó trong hạn từ “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Một cảm nghiệm mới mẻ và giải phóng về Giáo Hội tự phát biểu trong công thức này. Về cuối đời ngài, trong năm Hiến chế về Giáo Hội của Công Đồng được chấp thuận, Guardini, một lần nữa, lại phát biểu một quan niệm mới: Giáo Hội “không phải là một định chế được nghĩ ra hay xây dựng ra... mà là một hữu thể sống động... nó lại sống qua thời gian; biến thành, giống như mọi sinh vật biến thành; thay đổi... tuy nhiên luôn y nguyên trong yếu tính vì cốt lõi thẳm sâu nhất của nó là Chúa Kitô. Bao lâu chúng ta còn coi Giáo Hội chỉ như một tổ chức...; như một thẩm quyền...; như một liên minh..., chúng ta vẫn chưa có cái hiểu đúng đắn về nó. Nó là một hữu thể sống động, và mối liên hệ của chúng ta với nó phải tự nó là sự sống”.
Khó mà phát biểu được sự phấn khích và niềm vui, những điều lúc đó hệ ở việc hiểu được như vậy. Trong thời kỳ tư tưởng cấp tiến hiện hữu cho tới Thế chiến I, Giáo Hội Công Giáo đã bị coi là một bộ máy xương khô ương ngạnh chống đối các thành tựu của thời hiện đại. Trong thần học, vấn đề quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng đã trổi vượt đến độ Giáo Hội xuất hiện, trong yếu tính, như định chế cai trị tập quyền mà người ta đã bảo vệ một cách ương ngạnh và là định chế chỉ bị thách thức từ bên ngoài. Nay, điều rõ ràng là Giáo Hội không phải chỉ có thế; tất cả chúng ta cùng mang nó với nhau trong đức tin một cách sống động, y hệt như nó mang chúng ta. Điều trở thành rõ ràng là nó lớn lên một cách hữu cơ, như nó từng lớn lên qua các thế kỷ ra sao, nay nó cũng lớn lên như vậy. Điều trở nên rõ ràng là mầu nhiệm Nhập Thể vẫn còn hiện diện qua nó: Chúa Kitô vẫn tiến bước qua các thời đại. Như thế, nếu chúng ta hỏi các yếu tố nào của sự khởi đầu đầu tiên này vẫn còn đó hoài và đã bước vào Công Đồng Vatican II, chúng ta có thể nói rằng yếu tố đầu tiên là việc xác định về Kitô học ý niệm Giáo Hội. J.A. Mohler, người đánh thức vĩ đại nền thần học Công Giáo sau cuộc tàn phá của Phong trào Ánh Sáng, có lần đã nói rằng người ta có thể biếm họa một nền thần học giả mạo nào đó với câu này: “Chúa Kitô đã thiết lập phẩm trật ngay từ đầu và đã lo liệu đầy đủ cho Giáo Hội cho đến ngày tận thế” Nhưng để trả lời điều này, người ta phải nói rằng Giáo Hội là một nhiệm thể nghĩa là Chúa Kitô luôn làm nền tảng cho nó, trong nó, Người không bao giờ chỉ là quá khứ nhưng luôn luôn và trước hết là hiện tại và tương lai. Giáo Hội có nghĩa là sự hiện diện của Chúa Kitô, là tính đồng thời của chúng ta với Người, là tính đồng thời của Người với chúng ta. Nó sống nhờ việc Chúa Kitô ngụ cư trong trái tim chúng ta; từ đó, Người hình thành Giáo Hội cho chính Người. Vì lý do đó, lời đầu tiên của Giáo Hội là Chúa Kitô chứ không phải Giáo Hội. Nó lành mạnh theo mức mọi chú ý đều hướng về Người. Công Đồng Vatican II đặt cái nhìn thông sáng này ở đầu việc nó xem xét bằng cách bắt đầu Lumenn gentium [từ đây viết tắt là LG] ngày 21 tháng Mười Một năm 1964 với những lời “Lumen gentium cum sit Christus” [Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô]. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng thế giới, Giáo Hội là tấm gương phản chiếu vinh quang của Người, truyền tải sự sáng láng của Người. Muốn hiểu đúng Công Đồng Vatican II, người ta phải bắt đầu đi bắt đầu lại với câu này.
Các khía cạnh nội tâm và đặc điểm cộng đồng của Giáo Hội phải được coi là yếu tố thứ hai của việc khởi đầu này. Giáo Hội lớn lên từ trong ra ngoài chứ không ngược lại. Trên hết, nó có nghĩa hiệp thông thân mật nhất với Chúa Kitô tự hình thành trong đời sống cầu nguyện, trong sinh hoạt bí tích và trong các thái độ căn bản của đức tin, đức cậy và đức mến. Như thế, nếu ái đó hỏi rằng “tôi phải làm gì để Giáo Hội xuất hiện và tiến triển? Câu trả lời phải là trước hết, bạn hãy tìm kiếm đức tin, đức cậy và đức mến. Cầu nguyện xây dựng Giáo Hội và cộng đồng bí tích trong đó các lời cầu nguyện của Giáo Hội được khứng nghe sẽ trở lại với chúng ta.
Mùa hè này, tôi gặp một mục tử nói với tôi rằng điều làm ngài nặng chĩu nhất khi tiếp nhận các trách nhiệm mục vụ là cả nhiều thập niên này không có ơn gọi làm linh mục nào phát xuất từ giáo xứ của ngài. Ngài phải làm gì? Người ta không thể tạo ra ơn gọi, chỉ có Chúa mới ban cho. Nhưng lúc đó, phải chăng chúng ta đành bó tay. Với mối ưu tư này, ngài quyết định làm một cuộc hành hương hàng năm dọc theo nẻo đường gian nan tới đền Đức Mẹ tại Altotting và mời những người chia sẻ mối ưu tư của mình cùng đi và cầu nguyện với ngài. Mỗi năm đều càng có nhiều người đi, và năm nay, trước nỗi vui mừng khôn tả của toàn thể ngôi làng, họ đã có thể cử hành lần đầu tiên thánh lễ do vị linh mục mới thụ phong.
Hạn từ “nhiệm thể Chúa Kitô” nói cho chúng ta hay: Giáo Hội lớn lên từ bên trong, nhưng chính vì chiều hướng này, nó bao gồm một chiều kích khác: Chúa Kitô xây dựng nhiệm thể cho chính Người và tôi phải thích ứng vào nó như một thành viên khiêm nhường. Nó không được tìm thấy hay có được bằng bất cứ cách nào khác. Nhưng một khi được tìm thấy và có nó nó hết sức hoàn toàn vì tôi đã trở nên chi thể và bộ phận của nó ở đời này và do đó, muôn đời vĩnh viễn. Với việc nhận ra này, ý tưởng cấp tiến cho rằng Chúa Giêsu đáng lưu ý còn Giáo Hội chỉ là một vụ việc không thành công phải bị loại bỏ khá tự động. Chúa Kitô chỉ hiện hữu trong thân thể của Người nhưng không bao giờ chỉ một cách thiêng liêng mà thôi. Điều này có nghĩa Chúa Kitô hiện hữu với nhiều người khác, với cộng đồng thường hằng tiếp tục sống qua nhiều thời đại và đó là thân thể của Người. Giáo Hội không phải là một ý niệm nhưng là một thân thể, và cớ vấp phạm Nhập Thể mà nhiều người thời Chúa Giêsu từng sa lầy vào vẫn tiếp diễn. Nhưng ở đây, câu nói này vẫn còn nguyên giá trị: phúc thay những ai không xúc phạm vì Ta.
Đặc tính cộng đồng của Giáo Hội nhất thiết có nghĩa đặc điểm qui hướng về điều “chúng ta” của nó. Nó không hiện hữu ở một nơi nào đó, hơn là chính chúng ta là nó. Dĩ nhiên không ai có thể nói “tôi là Giáo Hội. Nhưng mọi người đều có thể và phải nói, “chúng ta là Giáo Hội”.
Và một lần nữa, “chúng ta” không phải là một nhóm tự tách biệt mình nhưng là một nhóm tự giữ mình bên trong toàn bộ cộng đồng các chi thể của Chúa Kitô, cả người sống lẫn người đã qua đời. Theo cách này, nhóm có thể nói đúng sự thật rằng “Chúng tôi là Giáo Hội”. Giáo Hội hiện hữu cái Chúng Tôi cởi mở này, cái Chúng Tôi phá vỡ mọi biên giới xã hội và chính trị, nhưng cả biên giới giữa trời và đất. Chúng ta là Giáo Hội, từ đó, có sự lớn mạnh của đồng trách nhiệm và cơ hội cho mỗi người trong chúng ta hợp tác; từ đó cũng phát sinh quyền được chỉ trích, một quyền dù sao cũng bao gồm việc tự phê phán chính mình. Tôi xin nhắc lại, vì Giáo Hội không phải ở một nơi chốn nào đó cũng không phải là một ai nào đó, chính chúng ta là Giáo Hội.Các ý niệm này đã chín mùi tại Công Đồng. Mọi điều từng được nói về trách nhiệm chung của hàng ngũ giáo dân và các hình thức pháp luật được tạo ra cho việc thể hiện nó một cách có ý nghĩ đã phát sinh từ tầm nhìn thấu suốt này.
Cuối cùng, ý niệm phát triển và do đó ý niệm năng động tính lịch sử của Giáo Hội cũng thuộc vào đây. Một thân thể mãi đồng nhất với chính nó chính nhờ việc liên tục trở nên mới trong diễn trình sống. Đối với Đức Hồng Y Newman, ý niệm phát triển là cây cầu đưa ngài tới việc trở lại đạo Công Giáo. Trong khi tôi tin rằng nó được kể trong số các ý niệm có tính quyết định và nền tảng của đạo Công Giáo, nhưng nó không hề được xem xét cách thỏa đáng, cho dù Công Đồng Vatican II có công phát biểu nó lần đầu tiên trong một văn kiện huấn quyền long trọng. Bất cứ ai muốn bám vào nghĩa chiểu tự của Kinh Thánh hay vào các hình thức Giáo Hội giáo phụ đều đẩy Chúa Kitô vào dĩ vãng. Hậu quả hoặc là một đức tin hoàn toàn vô sinh chẳng có gì để nói với hiện tại hoặc là một hành vi võ đoán bỏ qua cả hai ngàn năm lịch sử, ném chúng vào giỏ rác thất bại, và rồi tạo hoẹt ra việc Kitô giáo -theo Kinh thánh và theo Chúa Giêsu- phải nên như thế nào. Nhưng kết quả chỉ có thể là một sản phẩm giả tạo do chúng ta tạo ra không hề có một chút tính cố định nội tại nào. Căn tính đích thực có nguồn có gốc chỉ hiện hữu ở những nơi có sự liên tục sống động để phát triển nó và nhờ thế cùng một lúc bảo tồn được nó.
b. Giáo hội học Thánh Thể
Nhưng, một lần nữa, chúng ta phải trở về với các khai triển của thời kỳ tiền Công Đồng. Như đã nhắc, giai đoạn đầu của việc tái khám phá ra Giáo Hội xoay quanh ý niệm nhiệm thể Chúa Kitô. Ý niệm này được khai triển từ Thánh Phaolô và được cả ý niệm hiện diện của Chúa Kitô lẫn năng động tính của sự sống đẩy lên tuyến đầu. Việc tìm tòi thêm đã dẫn tới những hiểu biết mới. Trên hết, Henri de Lubac, trong một công trình học giả sâu rộng đã cho thấy rõ ràng rằng hạn từ corpus mysticum [nhiệm thể], từ nguồn gốc, vốn chỉ Thánh Thể cực thánh và theo Thánh Phaolô, cũng như các giáo phụ, ý niệm Giáo Hội như thân thể Chúa Kitô nối kết một cách bất khả phân ly với ý niệm Thánh Thể trong đó Chúa hiện diện bằng thân xác và ban thân thể Người để chúng ta ăn. Như thế, một giáo hội học thánh thể xuất hiện, cũng có thể gọi là giáo hội học-hiệp thông. Giáo hội học-hiệp thông này trở thành cốt lõi của giáo huấn Công Đồng Vatican II về Giáo Hội, và đồng thời, là yếu tố chính được Công Đồng truyền tải.
Như thế, giáo hội học thánh thể nghĩa là gì? Tôi sẽ cố gắng chỉ ra một cách chỉ vắn tắt thôi một ít điểm chính của nó. Thứ nhất là bữa Tiệc ly của Chúa Giêsu đã được thừa nhận như hành vi đích thực của việc thành lập ra Giáo Hội. Chúa Giêsu ban phụng vụ cái chết và việc sống lại của Người cho những kẻ vốn thuộc về Người và do đó ban cho họ lễ sự sống. Người lặp lại Giao ước Sinai ở Bữa Tiệc Ly, hay đúng hơn, điều ở đó chỉ như một khởi đầu bằng dấu hiệu thì nay trở thành một thực tại hoàn tất, một cộng đồng máu và sự sống giữa Thiên Chúa và con người. Nói như thế, rõ ràng Bữa Tiệc Ly dự ứng thập giá và phục sinh và đồng thời nhất thiết phải giả định chúng vì nếu không, nó vẫn chỉ là một cử chỉ trống rỗng. Vì lý do đó, các Giáo phụ có thể nói một cách tốt đẹp rằng Giáo Hội đột phát từ cạnh sườn mở toang của Chúa, mà từ đó nước cùng máu đã tuôn ra. Nhìn từ một góc cạnh khác, cũng y hệt như nói rằng bữa Tiệc ly là việc khởi đầu của Giáo Hội. Vì nó đã có nghĩa rằng Thánh Thể đã nối kết con người lại với nhau, không những chỉ với nhau mà còn với Chúa Kitô, do đó đã biến họ thành Giáo Hội. Đồng thời, hiến chế nền tảng về Giáo Hội cũng quả quyết rằng: Giáo Hội sống trong các cộng đồng thánh thể. Nó là việc phục vụ phụng vụ trong cơ cấu và trong yếu tính của nó, phục vụ phụng vụ và, do đó, phục vụ con người trong việc biến đổi thế giới.
Việc phụng vụ là hình thức của Giáo Hội có nghĩa là: có một mối liên hệ đặc biệt và mặt khác không diễn ra giữa tính đa dạng và tính hợp nhất. Trong mọi cử hành thánh thể, Chúa hoàn toàn hiện diện. Vì Người đã sống lại thực sự và sẽ không chết nữa, nên ta không thể phân chia Người được nữa. Người luôn tự hiến hoàn toàn và không phân chia. Vì lý do này, Công Đồng nói rằng: Giáo Hội của Chúa Kitô thực sự hiện diện trong mọi nhóm tín hữu địa phương được tổ chức hợp pháp, những nhóm này, bao lâu họ hợp nhất với các mục tử của họ, đều thích đáng được gọi là Giáo Hội trong Tân Ước. Vì các Giáo Hội này, tại chính các địa điểm địa dư của chúng, thực sự là dân mới được Thiên Chúa kêu gọi vào quyền năng Chúa Thánh Thần và do đó vào sức mạnh của xác tín trọn vẹn (xem 1Tx 1:5)...
Trong các cộng đồng này, dù thường nhỏ bé và nghèo nàn, hay hiện diện tại các khu phân tán (diaspora), Chúa Kitô đều hiện diện mà nhờ quyền năng và ảnh hưởng của Người, Giáo Hội Duy nhất, Thánh thiện, Công Giáo, Tông truyền đã được thiết lập (LG, 26). Điều này có nghĩa: từ những khởi nguyên của nền giáo hội học thánh thể này đã phát sinh nền giáo hội học của các Giáo Hội địa phương, vốn là đặc điểm của Công Đồng Vatican II và đại diện lý do bên trong, lý do bí tích cho tín lý về tính hợp đoàn.
Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta phải nhìn gần hơn tới phát biểu của Công Đồng để nắm được giáo huấn của nó một cách chính xác hơn. Vì ở điểm này, Công Đồng Vatican II tiếp xúc với các thúc đẩy của cả nền thần học Chính thống lẫn nền thần học Thệ phản là những nền thần học mà dù sao nó cũng đã tích nhập thành một quan điểm Công Giáo sâu rộng hơn. Ý niệm giáo hội học thánh thể đầu tiên vốn được phát biểu trong nền thần học Chính Thống Giáo của các thần học gia lưu vong Nga và do đó ngược lại với điều bị coi là chủ nghĩa tập quyền Rôma: mọi cộng đoàn thánh thể được nó coi đã là Giáo Hội hoàn toàn vì hoàn toàn đã có Chúa Kitô. Sự hợp nhất bên ngoài với các cộng đồng khác không phải là yếu tố thiết lập ra Giáo Hội và vì lý do đó, việc hợp nhất với Rôma không thể là yếu tố tạo nên Giáo Hội. Sự hợp nhất ấy rất tốt vì nó nói lên tính viên mãn của Chúa Kitô hướng ra bên ngoài nhưng nó thực sự không thuộc yếu tính của Giáo Hội vì người ta không thể thêm bất cứ điều gì vào tính toàn diện của Chúa Kitô.
Từ một quan điểm khác nữa, ý niệm Thệ Phản về Giáo Hội cũng đi theo hướng trên. Luther không còn khả năng nhận ra Thần Khí Chúa Kitô trong Giáo Hội như một toàn thể. Đúng hơn, ông gần như coi nó là dụng cụ của phản-Kitô. Ông cũng không xem xét các Giáo Hội Thệ Phản đã được thành lập, từng phát sinh từ Giáo Hội Cải Cách, theo nghĩa đích thực vì chúng chỉ là các phương thế có tính chức năng về xã hội và chính trị dưới sự lãnh đạo của các quyền lực chính trị, không hơn không kém. Với ông, Giáo Hội rút lui vào cộng đồng: chỉ duy cộng đoàn lắng nghe lời Chúa tại chỗ mới là Giáo Hội. Vì lý do này, ông thay thế hạn từ “Giáo Hội” bằng hạn từ “cộng đồng” và Giáo Hội trở thành một ý niệm tiêu cực.
Trở lại bản văn của Công Đồng, chúng ta lưu ý một vài sắc thái đáng lưu ý. Nó không đơn giản nói, “Giáo Hội hiện hữu trọn vẹn trong mọi cộng đồng cử hành Thánh Thể”. Đúng hơn, lời phát biều như sau, “Giáo Hội thực sự hiện diện trong mọi nhóm tín hữu địa phương được tổ chức hợp pháp, những nhóm, bao lâu hợp nhất với các mục tử của nó, đều cũng được gọi một cách thích đáng là Giáo Hội”. Hai yếu tố quan trọng ở đây. Thứ nhất, cộng đồng phải “hợp pháp” để có thể trở thành Giáo Hội, và nó hợp pháp “bao lâu hợp nhất với các mục tử”. Điều này có nghĩa gì?
Trước nhất, nó có nghĩa, không ai có thể biến mình thành Giáo Hội. Một nhóm không thể đơn giản tụ tập với nhau, đọc Tân Ước, rồi nói: “Nay chúng tôi là Giáo Hội vì Chúa ở nơi nào có hai hay ba người tụ họp với nhân danh Người”. Xét trong yếu tính, yếu tố tiếp nhận thuộc về Giáo Hội, y hệt như đức tin phát xuất từ việc nghe chứ không phải là sản phẩm của quyết tâm hay suy tư của người ta. Vì đức tin là việc gặp gỡ với điều tôi không tự nghĩ ra hay tạo ra bằng các thành tựu của riêng tôi mà chính nó phải gặp gỡ tôi. Chúng ta gọi cơ cấu tiếp nhận và gặp gỡ này là “bí tích”. Và vì lý do này, cả việc một bí tích được lãnh nhận và không ai ban nó cho chính mình đều thuộc hình thức căn bản của nó. Không ai có thể tự rửa tội cho mình, không ai có thể tự ban bí tích truyền chức thánh cho mình, không ai tự giải tội cho chính mình. Cơ cấu gặp gỡ nhau này là lý do khiến việc ăn năn tội cách trọn từ chính yếu tính của nó không thể thực hiện bên trong lương tâm mình, nó đòi hình thức gặp gỡ bí tích. Vì lý do này, không những là một vi phạm các chỉ thị giáo luật bề ngoài mà còn là một vi phạm tới chính cơ câu nội thẳm nhất của bí tích khi người ta chuyền Thánh Thể quanh quanh và tự ý mỗi người tự lãnh lấy. Trong trường hợp của duy một mình bí tích này, sự kiện linh mục được phép tự ban mình máu Chúa cho chính mình cho thấy một mysterium tremendum [mầu nhiệm đáng sợ] mà ngài thấy ngài phải giáp mặt với. Ngài hành động “bằng ngôi vị của Chúa Kitô” và do đó, đại diện cho Chúa Kitô và đồng thời vẫn là con người tội lỗi, kẻ sống hoàn toàn nhờ lãnh nhận hồng ân.
Người ta không thể tạo ra Giáo Hội mà chỉ lãnh nhận nó, nghĩa là lãnh nhận nó từ chỗ nó đã hiện hữu và ở chỗ nó thực sự hiện hữu; từ cộng đồng bí tích của thân thể Chúa Kitô xuyên qua lịch sử. Nhưng một điều gì khác thế cũng được thêm vào giúp chúng ta hiểu được những hạn từ khó hiểu “các cộng đồng hợp pháp”. Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn khắp nơi, đó là điều duy nhất và rất quan trọng được Công Đồng phát biểu chung với các anh chị em Chính Thống Giáo. Nhưng Người chỉ là một ở khắp mọi nơi và do đó, tôi có thể có một Chúa chỉ trong sự hợp nhất mà chính Người là, trong sự hợp nhất với nhiều người khác cũng là thân thể Người và phải trở nên thân thể Người mỗi ngày một mới trong Thánh Thể. Do đó, sự hợp nhất với nhau của các cộng đồng cử hành Thánh Thể không phải là điều thêm từ bên ngoài vào giáo hội học thánh thể mà chính là điều kiện bên trong của nó: Chúa Kitô duy nhất chỉ được tìm thấy trong sự hợp nhất. Đến mức đó, Công Đồng kêu gọi các cộng đồng tự lãnh các trách nhiệm nhưng phải loại bỏ mọi tự mãn. Nó trình bầy một giáo hội học mà vì nó là người Công Giáo, nghĩa là cộng đồng tín hữu của mọi nơi và mọi thời, không phải là các yếu tố tổ chức bề ngoài mà là ân sủng phát xuất từ bên trong và đồng thời là dấu chỉ hữu hình của quyền lực Chúa, Đấng duy nhất có thể ban hợp nhất cho quá nhiều rào cản.
2. Tính hợp đoàm Giám Mục
Ý niệm hợp đoàn Giám Mục, cũng được liệt kê trong số các trụ cột chính trong giáo hội học của Công Đồng Vatcan II, được nối kết một cách chặt chẽ nhất với giáo hội học thánh thể. Ý niệm này phát sinh từ việc nghiên cứu các cơ cấu phụng vụ của Giáo Hội. Nếu tôi không lầm, nghiên cứu đầu tiên phát biểu nó một cách rõ ràng và do đó dẫn đường cho Công Đồng về điểm này chính là học giả phụng vụ người Bỉ, Bernard Botte. Điều này quan trọng, vì sự nối kết với phong trào phụng vụ của thời kỳ giữa hai Thế Chiến cũng trở thành hiển nhiên ở đây. Phong trào phụng vụ là đất ươm trồng đích thực cho phần lớn các thể hiện trình bầy từ trước đến nay. Bên kia chiều kích lịch sử, phong trào phụng vụ quan trọng vì nó minh hoạ mối nối kết bên trong các ý niệm mà không có nó, người ta không thể hiểu chúng một cách chính xác. Cuộc tranh luận về tính hợp đoàn không phải là cuộc cãi cọ giữa Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục liên quan đến việc các ngài chia sẽ quyền lực trong Giáo Hội, mặc dù nó có thể dễ dàng thoái hóa thành một cuộc cãi cọ như thế và các vị có liên quan phải luôn tự hỏi mình xem liệu các vị có ở phía sai lầm hay không. Nó thực sự cũng không phải là cuộc cãi cọ về các hình thức luật lệ và các cơ cấu định chế. Đúng hơn, tính hợp đoàn, trong yếu tính, được sắp đặt cho việc phục vụ vốn là việc phục vụ đích thực của Giáo Hội, việc phục vụ phụng vụ. Bernard Botte lấy ý niệm của ngài từ những trật tự phụng vụ cổ xưa nhất. Điều này đã được chỉ rõ cho các người chống đối tính hợp đoàn; những người này, trong thời gian Công Đồng nhắc đến sự kiện này là tính hợp đoàn có ý nghĩa trong luật La Mã và trong luật hợp tác của đầu thời hiện đại nhưng không nên hòa hợp nó với hiến chế Giáo Hội. Một quan niệm khả hữu về ý niệm hợp đoàn được đề cập ở đây rất có thể làm méo mó ý nghĩa việc phục vụ của Giáo Hội. Vì lý do này, điều quan trọng là luôn luôn trở về với cốt lõi để bảo vệ nó khỏi những bóp méo như thế.
Như vậy, điều này có nghĩa gì? Trong các nghiên cứu của ngài, Botte nhấn mạnh tới hai bình diện của ý niệm hợp đoàn. Bình diện thứ nhất hệ ở sự kiện này là: vị Giám Mục được vây quanh bởi linh mục đoàn. Chúng ta đã nhắc đến việc điều này có nghĩa gì, tức là, Giáo Hội sơ khai không quen thuộc với việc các cộng đồng cá thể tự lấy mình làm đủ. Vì các linh mục, những vị phục vụ họ, thuộc về nhau; cùng với nhau, các vị là “hội đồng” của Giám Mục. Các cộng đồng được duy trì trong sự hợp nhất lớn lao hơn như một toàn thể nhờ vị Giám Mục. Là một linh mục luôn bao gồm mối liên hệ giữa các linh mục với nhau, cũng như mối liên hệ với vị Giám Mục, một mối liên hệ, ngược lại, bao gồm mối liên hệ với Giáo Hội như một toàn thể. Nhưng điều này có nghĩa: các Giám Mục, về phần các ngài, không làm việc tự các ngài, một cách cô lập. Cùng nhau, các vị tạo thành thứ bậc [ordo] Giám Mục, như đã được phát biểu trong ngôn ngữ luật lệ La Mã là luật phân chia xã hội thành những thứ bậc [ordines] khác nhau. Sau này, hạn từ ordo trở thành chỉ danh của bí tích truyền chức thánh. Do đó, việc bước vào việc phục vụ cộng đồng, vào cái Chúng Tôi của những người phục vụ này là thuộc về bản thể yếu tính của bí tích này. Một cách tình cờ, chữ ordo cũng được dùng thay thế cho chữ collegium (hợp đoàn); cả hai đều có nghĩa cùng một điều trong bối cảnh phụng vụ. Như thế, vị Giám Mục không phải là Giám Mục một mình nhưng luôn ở trong cộng đồng Công Giáo của những người từng là Giám Mục trước ngài, hiện là Giám Mục với ngài và sẽ là Giám Mục sau ngài. Vì chiều kích thời gian cũng được nhắm ở đời này: Giáo Hội không phải là một điều chúng ta làm ra hôm nay, nhưng là một điều chúng ta lãnh nhận từ lịch sử các tín hữu và là điều chúng ta sẽ truyền lại như là chưa được hoàn tất, một điều chỉ nên trọn vào ngày Chúa quang lâm.
Công Đồng kết hợp các ý niệm này cùng với các ý niệm về bí tích thánh hiến các Giám Mục thành một tổng hợp hữu cơ. Nó nhắc nhở chúng ta rằng ngay các tông đồ cũng là một cộng đồng. Trước khi các ngài lãnh nhận danh xựng “tông đồ”, các ngài xuất hiện dưới chỉ danh “nhóm Mười Hai”. Việc Chúa kêu gọi 12 người đàn ông có một đặc tính dấu chỉ mà người Do Thái nào cũng hiểu: nó nhắc người ta nhớ đến 12 con trai của Giacóp mà từ đó 12 chi tộc Israel đã phát sinh. Như thế, 12 là con số biểu tượng của Dân Thiên Chúa; nếu Chúa Giêsu kêu gọi nhóm 12, thì cử chỉ biểu tượng này nói rằng chính Người là Giacóp-Israel mới, và nay, với những người đàn ông này, một dân mới của Thiên Chúa đang khởi đầu. Máccô diễn tả điều này một cách rất rõ ràng trong Tin Mừng của ngài: “Người nêu tên nhóm mười hai” (3:14). trong nối kết này, người ta biết rằng mười hai cũng là con số có tính vũ trụ, con số chỉ các dấu hoàng đạo (zodiac) vốn phân chia năm, thời gian của con người. Sự hợp nhất của lịch sử và vũ trụ, đặc tính vũ trụ của lịch sử cứu rỗi, do đó, đã được nhấn mạnh. Mười hai phải là các dấu chỉ mới của hoàng đạo lịch sử dứt khoát của vũ trụ. Nhưng chúng ta nên ở lại với những điều tức khắc làm chúng ta ưu tư: các tông đồ chỉ là những gì các ngài là trong việc ở với nhau của cộng đồng mười hai, một cộng đồng, sau sự phản bội của Giuđa, do đó phải một lần nữa được làm cho đầy đủ và trọn vẹn. Người ta, do đó, chỉ trở thành người kế vị các tông đồ bằng cách gia nhập cộng đồng của những người mà nơi họ chức vụ của các ngài được tiếp tục. “Tính hợp đoàn” thuộc yếu tính của chức vụ Giám Mục; nó chỉ có thể được sống và chấp hành trong việc ở với nhau của những người cùng một lúc đại diện cho sự hợp nhất của dân Thiên Chúa.
Nếu chúng ta tự hỏi điều này nghĩa là gì trong thực tế, trước nhất, chúng ta phải trả lời rằng chiều kích Công Giáo của chức vụ Giám Mục (cũng như của các chức thánh của mọi đời sống cộng đồng) đã được nhấn mạnh rất nhiều. Chủ nghĩa đặc thù (particularism) hoàn toàn mâu thuẫn với ý niệm hợp đoàn. Như Công Đồng đã phát biểu, tính hợp đoàn không phải là hình thức pháp luật trực tiếp nhưng là một lợi thế thần học đệ nhất đẳng, đối với cả giáo luật lẫn hành động mục vụ. Hình thức pháp luật đại diện cho biểu thức trực tiếp nói lên thực tại thần học “hợp đoàn” là công đồng chung. Vì lý do này, trong bộ giáo luât mới, tính hợp đoàn được qui định trong bối cảnh của điều nói về giám mục đoàn cách riêng (các điều 336-341). Mọi hình thức áp dụng khác không thể diễn dịch trực tiếp từ nó nhưng chỉ có thể tạo các cố gắng ở trung gian đệ nhị đẳng của nguyên tắc nền tảng lớn lao trong thực tại hàng ngày. Các cố gắng này phải luôn được đo lường bởi mức độ theo đó chúng tương thích với nội dung căn bản đang bàn: vượt lên trên chân trời địa phương hướng tới yếu tố chung của sự hợp nhất Công Giáo, mà với nó, chiều kích lịch sử của đức tin luôn thuộc về và sẽ tếp tục làm thế cho tới ngày Chúa quang lâm.
3. Giáo Hội như dân Thiên Chúa
Khi bàn tới ý niệm hợp đoàn, khẩu lệnh đã được nhắc đến mà độc giả chắc chắn đã và đang chờ đợi từ lâu là: Giáo Hội như Dân Thiên Chúa. Điều này có nghĩa gì? Để hiểu nó, một lần nữa, chúng ta phải trở lại với việc các khai triển trước Công Đồng. Sau những phấn khích đầu tiên của việc khám phá ra ý niệm thân thể Chúa Kitô, ý niệm dân Thiên Chúa dần dần được thâm hậu hóa và chỉnh sửa theo hai hướng. Chúng ta đã thấy chỉnh sửa thứ nhất rồi. Nó được tìm thấy trước nhất trong công trình của Henri de Lubac, người đã cụ thể hóa ý niệm thân thể Chúa Kitô dưới ánh sáng giáo hội học thánh thể và do đó mở nó cho các vấn đề cụ thể của trật tự pháp lý của Giáo Hội và mối liên hệ của Giáo Hội địa phương và Giáo Hội nói chung. Hình thức chỉnh sửa kia bắt đầu vào cuối thập niên 1930 ở Đức nơi các nhà thần học khác nhau lên tiếng phê bình rằng, với ý niệm nhiệm thể, mối liên hệ của hữu hình với vô hình, của luật lệ và ân sủng, của trât tự và sự sống mãi mãi tối hậu là không thể giải thích được. Do đó, họ đề nghị ý niệm “dân Thiên Chúa”, tìm thấy trước nhất trong Cựu Ước, như mô tả một cách toàn diện hơn về Giáo Hội. Ý niệm này cũng được chuyền tải dễ dàng hơn với các phạm trù xã hội học và luật học, trong khi thân thể Chúa Kitô vẫn là hình ảnh quan trọng nhưng không đầy đủ đối với đòi hỏi thần học của việc tạo ra ý niệm.
Lời phê phán thoạt đầu phần nào hời hợt này về ý niệm thân thể Chúa Kitô sau đó đã được thâm hậu hóa từ nhiều quan điểm khác nhau, từ đó, nội dung tích cực được khai triển dựa vào đó ý niệm dân Thiên Chúa đã được đưa vào giáo hội học của Công Đồng. Một điểm quan trọng đầu tiên là cuộc tranh luận về tư cách chi thể trong Giáo Hội vốn là hậu quả của thông điệp về nhiệm thể Chúa Kitô được Đức Piô XII công bố ngày 29 tháng 6 năm 1943. Lúc ấy, ngài tuyên bố rằng tư cách chi thể trong Giáo Hội được liên kết với ba giả định sau: phép rửa, đức tin chân chính, và thống thuộc sự hợp nhất pháp lý của Giáo Hội. Tuy nhiên, những người không phải là Công Giáo hoàn toàn bị loại ra khỏi tư cách chi thể trong Giáo Hội. Ở một xứ sở nơi vấn đề đại kết hết sức quan yếu, như ở Đức, lời tuyên bố này hẳn phải dẫn tới các lập luận dữ dằn, nhất là từ khi Bộ giáo luật mở ra một viễn cảnh khác nữa. Theo truyền thống luật lệ của Giáo Hội được duy trì ở đó, phép rửa tạo cơ sở cho hình thức thống thuộc Giáo Hội có tính cấu tạo lâu dài. Do đó, điều trở nên rõ ràng là tư duy pháp lý, trong một số trường hợp, có thể đem lại nhiều linh động và cởi mở hơn là ý niệm ‘huyền nhiệm”. Người ta thắc mắc liệu hình ảnh nhiệm thể có quá hẹp hòi trong tư cách khởi điểm để xác định các hình thức khác nhau của việc thống thuộc Giáo Hội vốn đã hiện hữu một cách phức tạp trong lịch sử nhân bản hay không. Đối với sự thống thuộc, hình ảnh thân thể chỉ cung ứng ý niệm “chi thể”, người ta hoặc là chi thể hoặc là không, không ở lưng chừng. Nhưng, người ta hỏi, há chính khởi điểm của hình ảnh này không quá hẹp hòi hay sao, vì điều khá hiển nhiên là có những mức độ ở giữa? Theo cách này, người ta bắt gặp hạn từ “dân Thiên Chúa”, một ý niệm, về phương diện này, đầy đặn và mềm dẻo hơn. Hiến chế về Giáo Hội đã tiếp nhận chính việc sử dụng này khi nó mô tả mối liên hệ của các Kitô hữu không phải là người Công Giáo với Giáo Hội Công Giáo theo ý niệm “nối kết” và mối liên hệ của những người không phải là Kitô hữu theo ý niệm “thiết lập bằng luật” (ordainment). Cả hai trường hợp, nó đều dựa vào ý niệm dân Thiên Chúa (LG 15 và 16).
Do đó, người ta có thể nói ý niệm dân Thiên Chúa được dẫn nhập vào Công Đồng phương diện khác nữa. Việc tái khám phá Giáo Hội sau Thế chiến I là một hiện tượng Công Giáo và Thệ Phản; ngay cả việc canh tân phụng vụ cũng không hề chỉ là của Giáo Hội Công Giáo. Nhưng chính tính cách chung này cũng kéo theo việc phê phán lẫn nhau. Ý niệm thân thể Chúa Kitô được khai triển trong Giáo Hội Công Giáo theo nghĩa tổng quát là Giáo Hội thích được coi như “Chúa Kitô sống trên trái đất” và được mô tả như việc Nhập thể của Chúa Con tiếp diễn cho tới tận thế. Điều này khiến người Thệ Phản phản đối, họ coi đây là một việc Giáo Hội tự đồng nhất hóa một cách không thể chịu đựng được với Chúa Kitô, trong đó, có thể nói, Giáo Hội tự thờ phượng mình và tự tuyên bố mình vô ngộ. Tuy nhiên, dần dần, ngay các nhà tư tưởng Công Giáo cũng thấy, tuy không đi xa đến thế, rằng với công thức này, một tính quyết định nào đó đã được gán cho lời nói và hành động của Giáo Hội khiến cho mọi lời chỉ trích nào xem ra cũng là một tấn công vào chính Chúa Kitô và do đó hoàn toàn làm ngơ yếu tố con người, quá con người là đàng khác, trong Giáo Hội.Sự khác nhau về Kitô học một lần nữa đã rõ ràng: Giáo Hội không đồng nhất với Chúa Kitô nhưng đối lập với Người. Chính Giáo Hội của những kẻ tội lỗi cần sự thanh tẩy và canh tân hoài hoài: nó phải trở nên Giáo Hội hoài hoài. Ý niệm cải cách do đó trở thành yếu tố quyết định của ý niệm dân Thiên Chúa, một ý niệm đã không để mình được khai triển từ ý niệm thân thể Chúa Kitô.
Ở đây, chúng ta đụng tới một khía cạnh thứ ba vốn đóng một vai trò ủng hộ ý niệm dân Thiên Chúa. Năm 1939, nhà chú giải của tín phái Luthêrô, Ernst Käsemann, công bố chuyên luận của ông về Thư Do Thái tựa là “Dân Lữ Hành của Thiên Chúa”. Tựa đề này gần như trở thành một khẩu lệnh trong la bàn tranh luận Công Đồng vì nó để một điều gì đó được lắng nghe mà trong cuộc vật lộn với Hiến chế về Giáo Hội đã được thể hiện ngày một rõ ràng hơn: Giáo Hội chưa đạt được mục tiêu của mình. Nó vẫn có niềm hy vọng đích thực của mình ở phía trước. Khoảnh khắc “cánh chung” của ý niệm Giáo Hội trở nên rõ ràng. Trước nhất, theo cách này, người ta có khả năng tuyên bố sự thống nhất của lịch sử cứu rỗi, một lịch sử bao gồm Israel và Giáo Hội cùng nhau trên hành trình hành hương của họ. Như thế, người ta có khả năng phát biểu tính lịch sử của Giáo Hội, một tính vẫn đang diễn tiến và trước nhất sẽ trở thành chính mình khi đường thời gian đã được đi qua và kết thúc trong bàn tay Thiên Chúa. Người ta cũng có khả năng tuyên bố tính thống nhất bên trong của chính dân Thiên Chúa trong đó, cũng như trong mọi dân tộc, có những chức vụ và thừa tác vụ khác nhau; nhưng trên hết và qúa bên kia mọi phân biệt như thế, mọi khách hành hương vẫn là một cộng đồng dân lữ hành của Thiên Chúa. Như thế, nếu người ta muốn tóm lược bằng những khẩu lệnh những điều mà các yếu tố nổi bật của ý niệm dân Thiên Chúa quan trọng đối với Công Đồng, người ta có thể nói rằng ở đây đặc điểm lịch sử của Giáo Hội trở nên rõ ràng, sự thống nhất của lịch sử Thiên Chúa với con người, sự thống nhất bên trong của dân Thiên Chúa vượt quá các ranh giới thậm chí của tình trạng bí tích, các năng động tính cánh chung, đặc điểm sơ bộ và gẫy đổ của Giáo Hội lúc nào cũng cần phải canh tân, và cuối cùng cả chiều kích đại kết nữa, tức, các cách thế khác nhau theo đó, việc nối kết và thiết lập bằng luật với Giáo Hội là khả hữu và có thật vượt quá các ranh giới của Giáo Hội Công Giáo.
Nhưng điều trên cũng đã cho thấy chúng ta không nên tìm kiếm những điều nào trong ý niệm dân Thiên Chúa. Có lẽ cho phép tôi tường trình ở đây một cách phần nào bản thân hơn, vì chính tôi từng được phép dự phần khiêm nhường vào tiền lịch sử dẫn tới Công Đồng. Đầu thập niên 1940, khi ý niệm dân Thiên Chúa bắt đầu được tranh luận, giáo sư thần học của tôi, Gottlieb Söhngen, đưa ra ý kiến dựa trên nhiều bản văn giáo phụ và nhiều chứng tá khác của truyền thống cho rằng “dân Thiên Chúa” quả có thể là ý niệm nền tảng của Giáo Hội tốt hơn rất nhiều ý niệm “thân thể Chúa Kitô”. Nhưng vì ngài là người rất thận trọng, nên ngài không thỏa mãn với những điều gần như chắc chắn này nhưng muốn được biết một cách chính xác hơn. Do đó, ngài đã quyết định có một loạt các luận án tiến sĩ viết về vấn đề này, để tìm hiểu vấn đề từng bước.
Nhiệm vụ đó được trao cho tôi để bàn về dân Thiên Chúa trong Thánh Augustinô, là vị Thánh mà nơi ngài, trước nhất Cha Söhngen nghĩ cha đã khám phá ra ý niệm dân Thiên Chúa. Khi tôi bắt tay vào làm việc, điều không lâu sau đó trở thành rõ ràng là tôi phải bao gồm nhiều thần học gia châu Phi trước đó nữa, những người đã nghĩ tới ý tưởng đó trước cả Thánh Augustinô, nhất là Tertullianô, Thánh Cyprianô, Optatô thành Mileve, và người theo phái Donatist, Tyconiô. Dĩ nhiên, người ta cũng phải lưu ý tới các bậc thầy quan trọng hơn của phương Tây, ít nhất các nhân vật như Origen, Thánh Athanasiô, và Gioan Kim Khẩu. Và cuối cùng, một cuộc nghiên cứu về các nền tảng Kinh Thánh cũng là điều không hể miễn chước. Khi tôi dấn thân vào việc này, tôi đã gặp được một khám phá bất ngờ: hạn từ “dân Thiên Chúa” quả xuất hiện rất thường xuyên trong Tân Ước, nhưng chỉ trong rất ít nơi (có lẽ chỉ ở hai nơi) nó mới chỉ về Giáo Hội, trong khi nghĩa thông thường của nó nói đến dân Israel. Thực vậy, ngay cả ở chỗ có lẽ nó chỉ Giáo Hội, thì nghĩa căn bản “Israel” vẫn còn đó, nhưng bối cảnh chỉ rõ rằng các Kitô hữu nay trở thành Israel. Do đó, ta có thể nói rằng hạn từ “dân Thiên Chúa” không phải là tên chỉ Giáo Hội trong Tân Ước, nhưng chỉ là tên chỉ Giáo Hội trong cách thức tái giải thích Cựu Ước theo Kitô học; như thế, nó có thể chỉ tên của Israel mới qua sự biến đổi có tính Kitô học. Danh xưng thông thường để chỉ Giáo Hội trong Tân Ước là chữ ecclesia, một chữ, trong Cựu Ước, chỉ cuộc tụ tập của dân qua Lời Thiên Chúa kêu gọi. Chữ ecclesia (Giáo Hội) là dị bản Tân Ước và biến thể của ý niệm dân Thiên Chúa của Cựu Ước. Nó được sử dụng vì nó bao hàm ý niệm cho rằng việc tái sinh trong Chúa Kitô trước nhất làm cho người không phải là dân thành người dân. Sau đó, Thánh Phaolô đã tóm lược một cách nhất quán diễn trình biến thể Kitô học cần thiết này trong ý niệm thân thể Chúa Kitô.
Trước khi tôi rút ra các hệ quả từ điều này, tôi vẫn phải lưu ý rằng trong khi ấy, học giả Cựu Ước, Nobert Lohfink, đã chứng tỏ rằng ngay trong Cựu Ước, chữ “dân Thiên Chúa” cũng không đơn giản chỉ Israel theo nghĩa sự kiện thực nghiệm (empirical factuality). Nhìn hoàn toàn theo phương diện thực nghiệm, không ai là “dân Thiên Chúa” cả. Trình bầy Thiên Chúa như dấu chỉ dòng dõi hay như dấu xã hội của bản sắc chỉ có thể là một cao ngạo không thể chịu đựng được và cuối cùng là phạm thượng. Israel được gọi là dân Thiên Chúa bao lâu nó hướng về Người, chứ không phải tự chính nó, chỉ ở trong hành vi tương quan và tự vượt quá mình, chỉ có chúng mới làm nó trở thành điều tự nó không là. Đến mức đó, việc tiếp tục của Tân Ước mới nhất quán; nó cụ thể hoá hành vi hướng về Thiên Chúa này trong mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, Đấng hướng tới chúng ta và tiếp nhận chúng ta trong đức tin và bí tích vào mối tương quan của Người với Chúa Cha.
Như thế, tất cả những điều trên có nghĩa gì một cách cụ thể? Nó có nghĩa là: các Kitô hữu đơn giản không phải là dân Thiên Chúa. Xét một cách thực nghiệm, họ không phải là dân, như bất cứ phân tích xã hội học nào cũng có thể chứng tỏ mau chóng. Và Thiên Chúa không phải là tài sản của bất cứ ai; không ai có thể nắm lấy Người cho riêng mình. Các Kitô hữu không phải là dân chỉ có thể là dân Thiên Chúa nhờ được bao gồm trong Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và là con Ápraham. Ngay khi người ta nói tới dân Thiên Chúa, Kitô học cũng phải vẫn là trung tâm của giáo huấn về Giáo Hội và do đó, trong yếu tính, Giáo Hội phải được nghĩ theo các bí tích Rửa tội, Thánh Thể và Truyền chức Thánh. Chúng ta chỉ là dân Thiên Chúa nhờ thân thể chịu đóng đinh và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta chỉ là dân Thiên Chúa nhờ việc thiết lập bằng luật sống động vào nó, và chỉ trong bối cảnh này, cụm từ này mới có ý nghĩa. Công Đồng làm rõ việc nối kết này một cách rất khéo khi đặt cụm từ “dân Thiên Chúa” chung với một cụm từ khác và rất căn bản chỉ Giáo Hội: Giáo Hội như bí tích. Người ta chỉ trung thành với Công Đồng nếu họ luôn đọc và suy nghĩ cùng nhau hai từ ngữ rất quan trọng này của giáo hội học Công Đồng, bí tích và dân Thiên Chúa. Ở đây, điều trở nên rõ ràng là Công Đồng đi trước chúng ta xa xiết bao; ý niệm Giáo Hội như bí tích vẫn chỉ mới bắt đầu rạng tỏ đối với chúng ta.
Do đó, sẽ là điều phi lý nếu người ta muốn diễn dịch một quan niệm thay đổi về phẩm trật và hàng ngũ giáo dân từ sự kiện chương nói về dân Chúa đến trước chương nói về phẩm trật như thể mọi người đã chịu phép rửa đều thực sự có mọi quyền năng của chức thánh trong chính họ và phẩm trật chỉ là vấn đề trật tự tốt mà thôi. Chương thứ hai liên quan tới vấn đề giáo dân bao lâu sự hợp nhất yếu tính bên trong của mọi người đã chịu phép rửa trong trật tự ơn thánh được tuyên bố và đặc tính thừa tác của Giáo Hội, do đó, được nhấn mạnh. Nhưng chương này không đặt cơ sở cho nền thần học về giáo dân vì một lý do khá đơn giản là mọi người đều thuộc dân Thiên Chúa. Toàn bộ Giáo Hội và yếu tính của nó được bàn ở đây. Các bậc sống của nó được trình bầy sau đó theo thứ tự sau đây: Phẩm trật (Chương 3), giáo dân (chương 4), tu sĩ (chương 6).
Nếu việc trình bầy của tôi về giáo hội học của Công Đồng Vatican II muốn được đầy đủ, thì giờ đây tôi nên trình bầy cả nội dung của các chương còn lại cũng như việc điều gì đã được nói về ơn gọi chung phải nên thánh và về mối tương quan giữa Giáo Hội trần thế với Giáo Hội thiên đàng. Nhưng việc này vượt quá các giới hạn của cuộc bàn luận này. Tôi chỉ quan tâm tới việc cho thấy các nền tảng trên đó, mọi áp dụng khác phải dựa vào. Trong phần kết luận, tôi chỉ muốn vắn tắt nhắc đến một điều. Hiến chế về Giáo Hội của Công Đồng đã kết thúc với chương nói về Mẹ Thiên Chúa. Vấn đề liệu có nên dành một bản văn riêng biệt cho ngài hay không đã được thảo luận một cách gay go, như mọi người đã biết. Tôi nghĩ dù sao đây cũng là một xoay chiều may mắn khi chiều kích Thánh Mẫu trực tiếp đi vào giáo huấn về Giáo Hội. Vì theo cách này, khởi điểm của chúng ta cuối cùng đã trở nên rõ ràng một lần nữa: Giáo Hội không phải là một phương thế có tính máy móc, không phải chỉ là một định chế, cũng không phải là một khối lượng xã hội học thông thường, mà là một ngôi vị, một người đàn bà, một bà mẹ. Sống động. Lối hiểu Thánh Mẫu về Giáo Hội là phản đề có tính quyết định nhất đối với ý niệm chỉ có tính tổ chức hay bàn giấy về Giáo Hội. Chúng ta không thể tạo ra Giáo Hội,chúng ta phải là Giáo Hội. Chúng ta là Giáo Hội và Giáo Hội chỉ ở trong chúng ta theo mức đức tin cũng lên khuôn hữu thể chúng ta vượt quá hành động của chúng ta. Chỉ khi nào là Maria,chúng ta mới trở thành Giáo Hội. Tại nguồn gốc của nó, Giáo Hội không được tạo nên mà là được sinh ra. Nó được sinh ra khi lời Xin Vâng trổi lên trong linh hồn Đức Maria. Ý muốn sâu sắc nhất của Công Đồng là Giáo Hội có thể thức tỉnh trong linh hồn chúng ta. Đức Maria chỉ đường cho chúng ta.
Hồng Y Joseph Ratzinger,
Theo bản tiếng Anh của Stephen Wentworth Arndt, Communio số Mùa Thu, 1986